Thứ Bảy, 14 tháng 10, 2023

Dưới mái gia đình

Dưới mái gia đình

CHƯƠNG 1
Nếu kể những gia đình hạnh phúc và gương mẫu thì không thể quên gia đình tôi. Những người hàng xóm thường gọi gia đình tôi là một thiên đàng đầy những tiếng cười và tiếng reo vui. Ba và mẹ tôi rất hãnh diện trước những lời khen tặng. Anh chị em chúng tôi thuộc dòng họ Đào, sáu trai, sáu gái cả thảy mười hai người, vừa vặn một tá!
Tôi xin mở đầu câu chuyện theo thứ tự lớn trước bé sau bằng những dòng chữ giới thiệu đặc biệt về ba tôi.
Ba tôi là một người to lớn, béo mập, cân nặng 91 ký lô. Thực ra trước đây ba đâu có… phì nhiêu như vậy; người cũng mảnh dẻ, thư sinh và bô trai lắm cơ, nhưng không hiểu sao cách nay chừng ba bốn năm tự nhiên ba cứ bành trướng một cách vô trật tự như vậy! Mẹ bảo:
- Ba chúng mày phát tướng đấy, chắc gia đình mình sắp trúng số độc đắc!
Ba cười hềnh hệch làm rung những tảng mở chất đống trên bụng, giải thích:
- Tại tao đến thời kỳ… xổ sữa! Nhưng hỏi rằng trên thế gian này mấy ai được “cải lão hoàn đồng” như tao?
Chỉ tội thằng Huỳnh Sún (răng của nó giống hệt răng bà già ăn trầu!) mỗi lần ba xuống hoặc leo lên chiếc xe “díp” bụi đời (mua từ đệ nhị thế chiến lận) là nó phải bỏ hết trò chơi hay công việc để mang chiếc thang đặc biệt ra cho ba trèo. Có lần vì vô ý chân ba dẫm trúng tay Huỳnh Sún khiến cả năm ngón sưng vù lên. Nó mếu máo:
- Thế là đi tiêu ngón tay… búp chuối của con rồi! Còn đâu nữa bàn tay… đẹp trai!
Ba cũng xuýt xoa thương hại thằng con trai mười hai tuổi, sau đó dõng dạc tuyên bố cho cả nhà nghe thấy:
- Xét vì thằng Huỳnh vừa xả thân vì… chính nghĩa, chiều nay ba sẽ cho thằng Huỳnh năm đồng đi uống nước sinh tố để… để lấy lại sức khỏe.
Tính ba rất vui vẻ, dễ dãi và thương yêu vợ con. Mặc dầu với thân hình đồ sộ như vậy, ba làm việc dường như không biết mệt. Nhờ sự kiên nhẫn và tận tâm ba đã thành công trong xã hội. Những gì đã dạy bảo chúng tôi ba đều thực hành trước như để làm gương cho con cái.
Ba là Phó Giám đốc một cơ xưởng lớn vào bậc nhất ở thủ đô Saigon. Tinh thần làm việc khoa học không những đã được ba đem áp dụng với công nhân mà cả với vợ con trong gia đình. Chẳng thế mà hàng tuần khi dẫn chúng tôi đi thăm cơ xưởng ba bắt mỗi đứa đem theo một cuốn sổ tay, một cây viết để ghi chép tại chỗ những gì quan sát được và những lời giảng giải của ba. Ba gọi đó là phương pháp “giám định hiệu suất”.
Ở nhà ba cũng sáng tác ra phương pháp “nghiên cứu tác động” nhằm mục đích loại bớt những cử động vô ích. Thí dụ ba quay phim khi chúng tôi đang rửa bát đĩa để rồi ít ngày sau chiếu cho chúng tôi thấy cần phải “tiết kiệm” những động tác nào để hoàn tất công việc một cách nhanh chóng.
Ngoài ra ba còn cho dán trong phòng ăn, nhà tắm những tờ thời khóa biểu và chương trình làm việc trong ngày. Chúng tôi, trừ những tên chưa biết đọc biết viết, đều phải ký tên trên những tờ giấy đó sau khi đã dùng điểm tâm hay đánh răng, rửa mặt để chứng tỏ là mình đã đọc kỹ và ý thức được công việc sẽ thực hiện của mình. Mỗi tối sau khi đã dọn dẹp nhà cửa, học và làm bài xong, chúng tôi phải tự động cân trọng lượng của mình rồi ghi kết quả trên một tấm đồ thị. Ba bảo làm như vậy để chúng tôi đừng quên “sức khỏe là chìa khóa của một cuộc sống vui tươi và của sự thành công” – Mẹ tôi muốn viết thêm trên những tờ thời khóa biểu một vài câu kinh nguyện nhưng ba gạt đi và cho rằng cầu nguyện là do nhu cầu tự nhiên của tâm hồn, không nên ép buộc.
Có người hỏi đùa ba là đông con như vậy làm sao mà nhớ mặt tất cả được. Để trả lời, ba kể một câu chuyện sau của gia đình tôi: Một bữa kia mẹ tôi cần đi thăm một người bạn mới gặp nạn, nên nhờ ba ở nhà coi sóc con cái. Khi trở về mẹ hỏi:
- Ở nhà chúng nó có ngoan không đấy?
Ba cười hãnh diện, khoe “thành tích”:
- Mọi chuyện đều tốt đẹp như trong một guồng máy vậy. Đứa nào cũng ngoan, trừ tên đang đứng khóc ở xó cửa kia. Tôi phải cho hai cái bạt tai mới lôi được nó về nhà.
Mẹ tiến lại phía đứa bé, xoay mặt nó lại:
- Trời! Đâu phải con cái nhà này! Thằng Tèo con nhà bác Hai Giếng ở đầu xóm đây mà! Thiệt là… là…
Chúng tôi chỉ được biết câu chuyện trên qua lời thuật lại của ba bởi vì, vẫn theo ba tôi, hồi đó chúng tôi còn nhỏ, chưa biết gì. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tin là sự kiện trên đã thực sự xảy ra trong gia đình tôi.
Anh chị em chúng tôi quá đông nên, ngoài giờ ăn và đi ngủ, muốn gặp chúng tôi đầy đủ quả thực là một việc hết sức khó khăn. Nhưng với ba tôi sự việc lại dễ dàng. Mỗi lần nghe tiếng còi ba thổi tích tích, tè tè là chúng tôi từ các góc nhà hoặc ngoài ngõ chạy bán sống bán chết về tập họp. Nếu chưa biết “phong tục” của gia đình tôi, chắc chắn người ta sẽ ngạc nhiên đến hoảng sợ, tưởng là có biến cố gì xảy ra mỗi lần thấy chúng tôi chạy huỳnh huỵch. Mấy con chó trong xóm lại được dịp sủa chết thôi hoặc đuổi theo đòi “sơi tái” các cẳng chân của con cái nhà họ Đào!
Thỉnh thoảng ba tôi lại ra hiệu tập họp, chẳng hạn khi có chuyện gì quan trọng ba cần hỏi ý kiến của cả gia đình, hoặc khi gặp phiền muộn ba muốn vui đùa với các con để khuây khỏa; hoặc khi có người bạn đến chơi, ba muốn giới thiệu cả nhà với họ và ba muốn chứng tỏ con của ba nhanh nhẹn và sống rất qui củ.
Đối với chúng tôi, những lần tập họp đó không phải là một thứ khổ dịch, nhưng, theo lời ba tôi dạy, tập cho chúng tôi phản ứng nhanh và biết ép mình trong kỷ luật, đó là chưa nói tới những lợi ích thiết thực trước mắt, như có lần căn nhà của người hàng xóm bốc lửa vì dây điện chạm nhau. Ai cũng hoảng hồn thất kinh:
- Ai có điện thoại làm ơn gọi sở Cứu Hỏa!
- Cúp điện hết đi!
- Kéo sập mái nhà xuống!
- Đứng để lửa cháy lan chỗ khác!
- Nhà nào có thang cho mượn đi!
Ba cũng có mặt trong đám đông và ba thổi còi. Chỉ trong nháy mắt, mười hai đứa con của ba đã hiện diện. Công tác được ban ra: Áp dụng phương pháp của Hướng Đạo. Thế là chúng tôi lăn xả vào đám cháy trước những con mắt ngạc nhiên. Chúng tôi đã phụ giúp đắc lực người lớn trong việc đàn áp ngọn lửa. Không đầy nửa tiếng sau tất cả lại êm đẹp trở lại và khi đó người ta mới nghe thấy tiếng hú của đoàn xe cứu hỏa! Những người chứng kiến việc làm của chúng tôi không ai không khen chúng tôi nhanh nhẹn, tháo vát, giỏi giang. Ba có vẻ thích chí lắm!
Tuy nhiên tiếng còi tập họp cũng có lần bị… lợi dụng: Vào một sáng chủ nhật, chúng tôi được rảnh, tản mát đi chơi đó đây. Bỗng tiếng tích tích tè tè nổi lên có vẻ khẩn cấp. Như thường lệ chúng tôi bỏ hết công việc, trò chơi để chạy lại. Thằng Hảo từ trong cầu tiêu phóng ra hai tay còn đang kéo quần, chị Thuần mặt đầy nhọ nồi hớt hải chạy tới… nhưng đứa nào cũng trố mắt vì không thấy ba đâu cả. Tôi nhanh trí kiểm điểm nhân số và nhận thấy thiếu tên Huỳnh Sún. Sau ít phút tìm kiếm chúng tôi khám phá ra hắn đang ôm bụng cười dưới gầm giường, tay còn cầm chiếc tu huýt của ba. Chờ ba về chúng tôi “báo cáo” sự việc. Kết quả: ba “tặng” cho Huỳnh Sún một bài học “mô ran” thấm thía và ra hình phạt nhịn ăn sáng hai ngày, phụ giúp chị Thuần rửa bát trong một tuần lễ và tiếp tục đều đều vác thang cho ba lên xuống xe…
Từ đó chỉ có mình ba duy nhất được sử dụng tiếng còi để tụ tập con cái. Trường hợp mẹ muốn gặp chúng tôi cũng phải nhờ ba ra hiệu.
Chúng tôi rất thương ba. Nhìn mái tóc đã điểm những sợi bạc, khuôn mặt của ba đã rõ những nếp nhăn… chúng tôi lại càng cảm thấy thương ba hơn…
°
Đến đây tôi thấy cần ghi lại ít dòng về chiếc xe “díp bụi đời” của gia đình tôi. Thật ra tôi cũng không rõ lắm lai lịch của chiếc xe này, nghe đâu vào cuối thời đệ nhị thế chiến, một ông bạn người Pháp trước khi về nước đã bán rẻ cho ba. Có lẽ trong những đồ đạc ba quý nhất chiếc xe này nên để dành nhiều công, nhiều giờ để “trang điểm” cho chiếc díp nên nó có một hình thù đặc biệt, “không giống ai”, do đó chúng tôi mới đặt tên là “chiếc xe bụi đời”. Tuy nhiên chiếc xế bốn bánh cổ lỗ sĩ này cũng đã ghi dấu rất nhiều kỷ niệm buồn đến đứt ruột hay cười đến bể bụng của gia đình tôi. Để tôi kể quý bạn nghe:
Có một điều mâu thuẫn và khôi hài thế này: Ba tôi là phó giám đốc một cơ xưởng, hàng ngày sửa chữa biết bao máy móc phức tạp, điều chỉnh những động cơ cũ kỹ và hư hỏng trở thành tốt, chạy ngon như mới… ấy thế mà ba lại không hiểu một chút nào chiếc xe “díp bụi đời” của ba! Thật ra ba cũng săn sóc nó chu đáo lắm. “trang điểm” cho nó một “dung nhan” độc đáo: Toàn thân chiếc xe được sơn phết mầu xám đậm. Ngoài chiếc “còi” cao su. Bóp bằng tay, ba còn trang bị thêm hai còi điện tự động, mỗi loại có một công dụng riêng. Lúc bình thường, ba dùng còi cao su, bóp kêu toe toe để các xe khác hay khách bộ hành tránh ra, nhưng khi khẩn cấp hay nguy hiểm hoặc có xe khác định “hôn” xe của ba, tức thì ba cho hai còi điện rú lên. Phía sau xe ba cho đóng thùng chung quanh. Chúng tôi phản đối kịch liệt:
- Trời! Xe díp mà ba làm vậy, đâu có giống ai!
- Để gió vào cho thoáng chứ ba!
- Ối giời ôi, ba định đóng hộp chúng con như cá mòi sao ba?
Ba cười giải thích:
- Chúng mày đông lại nghịch như quỉ sứ, không làm như vậy chúng mày rớt xuống đường thì sao? Cái gì cũng phải cho chắc ăn cái đã. Nóng một chút nhưng “an toàn trên xa lộ” biết chưa? Với lại tao sẽ khoét mỗi bên hai cửa sổ để chúng mày tha hồ ngắm… phong cảnh!
Ấy cũng vì mấy cái cửa tò vò trên xe đó mà tụi lỏi cãi nhau chí chóe, đứa nào cũng đòi mình được ưu tiên chìa cái bản mặt mình ra ở cửa khiến ba phải can thiệp:
- Con trai sử dụng cửa sổ bên phải, con gái bên trái, không xâm lấn “đất đai” của nhau và mỗi đứa chỉ được quyền “tại vị” tối đa mười phút, sau đó “nhường quyền sống” cho kẻ khác. Ai bất tuân sẽ không được đi xe ba trong một tuần lễ!
Mỗi lần ba quay “ma-ni-ven” là một bi hài kịch diễn ra: Bụng ba bự nên việc phải cúi xuống quả thực là một cực hình cho ba. Mỗi vòng tay ba quay thì cả thân hình đồ sộ của ba và chiếc “díp bụi đời” đều rung chuyển một lượt, coi không khác gì hai “kẻ” đang nhảy “tuýt à gô gô”! Sáng nào cũng vậy, trước khi cho máy nổ, ba phải mồi xăng trước, có khi mất cả nửa tiếng đồng hồ mà nó vẫn ì ra như muốn chọc giận ba. Thế là “đồ nghề” lại được bày ra. Ba cởi cái này, vặn cái kia, đồng thời ra lệnh triệu tập tất cả con cái; mỗi đứa cầm một dụng cụ đứng bên cạnh để khi ba cần đến là đặt ngay vào tay ba. Cũng may, chưa lần nào chiếc xe “phản bội” ba, chỉ “nhõng nhẽo” một hồi rồi lại nổ máy rầm rầm. Chỉ tội ba sau đó phải đi thay bộ quần áo và “tẩy uế” những vết dầu nhớt tùm lum trên mặt, trên cổ.
Thật ra, ba đâu có lái xe giỏi lắm, nhưng có điều ba lái rất nhanh khiến nhiều lúc chúng tôi hoảng hồn, nhất là mẹ thường tái xanh mặt mũi luôn! Mỗi lần đi đâu, mẹ ngồi phía trước bên cạnh tay lái, đồng thời ôm hai đứa nhỏ trên lòng. Nghĩ cũng thương mẹ ghê vậy đó. Ngồi trên xe mà mẹ lo kinh khủng, chỉ sợ ba lái nhanh làm rớt đứa con nào xuống đường. Cứ đến chỗ quẹo, ba lại được dịp trổ tài “lạng bay bướm”, còn mẹ nhắm mắt lại, ôm ghì cứng hai nhóc con, miệng lẩm bẩm:
- Chạy chậm chậm chứ mình! Chậm lại đi mình!
Ba là người cẩn thận nên mỗi lần di chuyển, ba bắt một tên trong đám chúng tôi lên ngồi cạnh mẹ để coi chừng phía bên trái đường hay để báo hiệu cho ba khi có một chiếc xe khác muốn vượt. Ba đã dặn là mỗi lần ba quẹo thì nhớ giơ tay cho ba vì hai chiếc đèn hiệu đã bị rớt mất từ hồi nào! Bởi vậy khi tới ngã tư nào là cả chục cánh tay mọc ra từ các cửa sổ, đằng sau xe, từ ghế trước, từ các lỗ hổng khiến cho các xe cộ khác phải chạy chậm hay dừng lại đề phòng vì không hiểu xe của gia đình tôi sẽ quẹo hướng nào! Trong khi đó ba vẫn tỉnh bơ như coi thiên hạ chẳng có ký lô nào. Ba bảo:
- Phải bình tĩnh mới được! Không nên để ngoại cảnh chi phối!
Đúng! Ba… bình tĩnh lắm, chẳng thế mà tuần nào ba cũng được cảnh sát công lộ “hỏi thăm sức khỏe”, làm giầu cho ngân sách đô thành bằng những tờ giấy phạt vi cảnh; còn những chuyện ba cán chết chó, chết gà, ủi vào những thân cây mới trồng hay tông vào tường ga-ra mỗi khi cất xe… là chuyện thường xảy ra như cơm bữa! Tuy nhiên có điều, nhờ trời (chắc không phải là nhờ tài lái xe của ba đâu) chúng tôi chưa lần nào bị thương tích hay nguy hiểm nào! Nếu có tên nào tỏ vẻ sợ hãi thì lập tức bị ba hỏi ngược lại:
- Con cái mà không tin tưởng vào cha mẹ à?
Lại nói đến cái còi xe! Đối với chúng tôi thì không sao vì đã nghe quen rồi, nhưng ngoài đường, thiên hạ đâu có dễ tính gì, do đó mỗi lần ba cho hai chiếc còi điện… trỗi nhạc là bà con đinh tai nhức óc, lắm kẻ đang đi giật mình loạng choạng mà ngã xe hay gây ra tai nạn. Ba nghiêng đầu nói với chúng tôi:
- Các con thấy chưa, tại mất bình tĩnh! Tiếng còi này đâu lớn hơn tiếng bom B52, thế mà đã hoảng hồn! Giả thử có xe khác cũng sắm được còi như xe ba, mà ba cũng mất bình tĩnh khi nghe tiếng còi đó thì hiện gia đình mình có còn nguyên vẹn không?
Chị Thuần phụng phịu:
- Nhưng người ta nhìn mình, con thấy kỳ quá à.
- Như vậy càng tốt chứ sao, có nhìn, họ mới biết đường tránh mới khỏi tai nạn. Ta nên hãnh diện!
Kể ra ba cũng nhanh chân, nhanh tay, vừa lái xe, vừa điều khiển ba cái còi, chân đạp thắng, chân đạp “ga”, miệng còn phì phà điếu “xì gà” to hơn ngón chân cái!
Tôi nhớ lại hôm đầu tiên ba mới lắp hai chiếc còi điện đem ở tiệm về; ba cho gọi chúng tôi lại, với vẻ mặt trịnh trọng, nói như để thách thức lũ con:
- Hình như có con chim làm tổ trong… máy xe của ba. Lúc nãy chạy ngoài đường, ba cứ nghe tiếng chíp chíp hoài. Đâu, các con thử tìm xem sao. Ai khám phá ra ba thưởng một chầu ciné.
Vô tình, chúng tôi tưởng thật, mở nắp máy xe chúi đầu vào… lục lọi; có đứa bị bỏng la oai oái, đứa bị dầu xe dính đầy mặt. Chờ cho chúng tôi… say sưa tìm kiếm, ba lẻn leo lên xe, nhấn còi.

Chúng tôi cả đám như một dội ra, bịt chặt lấy tai, kinh hoàng. Ba cười ngặt nghẽo:

- Ha! Ha! Có con chim nào không?

Cười một hồi, sau ba chê chúng tôi là không nhanh trí:

- Một điều vô lý như vậy mà không đứa nào nhận ra. Máy chạy nóng đến người ta sờ vào còn không nổi huống hồ chim!

Sau đó ba cắt nghĩa cho chúng tôi những lợi ích của ba chiếc còi… và kết thúc bằng màn cả gia đình được ba mời lên xe đi một vòng để ba biểu diễn còi xe. Ngay chiều hôm đó ba khao cả nhà một chầu cà rem và chớp bóng để gọi là mừng “chiến lợi phẩm” của ba.

Một hôm, chiếc “díp bụi đời” tự nhiên giở chứng, nhất đinh không chịu nổ máy mặc dầu ba và cả chúng tôi đã toát mồ hôi sửa chữa. Thường thì ba không bao giờ rủa thề điều gì vì, theo ba nói, ba không muốn làm gương xấu cho các con, thế mà hôm đó ba cũng phải bực mình thốt ra câu: “Chiếc xe khốn kiếp!” – Nghe vậy, thằng Huỳnh Sún vội vàng lấy chiếc giẻ… lau xe phe phẩy cho ba. Đồng thời nói nhỏ như muốn chỉ một mình ba nghe:

- Bình tĩnh mà ba! Không nên để ngoại cảnh chi phối!

Thế là ba lại cười và… bình tĩnh lại ngay. Công việc sửa xe lại tiếp tục. Không ai để ý thằng Cu Bi đã leo lên chễm chệ trên đệm xe.

Ba vẫn chúi đầu vào máy. Ở xa người ta chỉ nhìn thấy hai cái chân của ba lơ lửng trong không khí. Sau lưng ba, áo ướt đẫm mồ hôi. Tôi có cảm tưởng sau “vụ” này ba sẽ… thụt ký vì hao một số mỡ “đóng băng trên bụng”. Ba đang lúi húi sửa máy bỗng tiếng còi xe ré lên. Chúng tôi thấy ba bắn ra khỏi đầu máy đến gần hai thước. Tên Cu Bi ngồi trên xe nhe răng cười:

- Ba, ba có thấy con chim làm tổ trong máy xe không ba?

Không ai nhịn được cười trước trò tinh nghịch của thằng em sáu tuổi này. Tuy nhiên kết quả Cu Bi vẫn bị bốn năm cái phát vào mông và quì gối vì áp dụng câu nói của ba không hợp tình, hợp cảnh, hợp lý!

Mỗi lần muốn chở gia đình trên chiếc “díp bụi đời” đi xem phố phường, ba tôi thổi tu huýt tập họp. Khi đã đủ “bá quan văn võ”, ba dõng dạc tuyên bố:

- Các con muốn đi dạo một vòng với ba không?

Chúng tôi đứa nào cũng hiểu rằng đó không phải là một câu hỏi nữa mà là lệnh truyền nên đồng thanh trả lời:

- Thưa ba có ạ!

Dường như sự kiện trên đã đương nhiên trở thành luật lệ của gia đình tôi: khi ba dạo phố là mọi người phải dạo phố.

Như trên tôi đã kể ba lái xe đâu có “gồ” lắm, nếu không muốn nói là đầy nguy hiểm bởi lối phóng nhanh như bay, bởi những “cú”… “lạng lả lướt” của ba thật tình quá ư “anh hùng xa lộ” làm xanh máu mặt những người trên xe, nhưng chúng tôi phải công nhận rằng có một cái gì hấp dẫn lạ lùng trong những lần ba “bay bướm” với tử thần, những lần ba gây cảnh ngưng trệ lưu thông ngoài thành phố… nên, mặc dầu mỗi lần đi chơi với ba về chúng tôi đều cám ơn Thượng Đế đã giữ gìn còn nguyên vẹn đầu mình và tứ chi, chúng tôi vẫn thích thú reo hò khi ba hỏi:

- Các con có muốn đi dạo một vòng với ba không?

Ngoài ra, những lần đi dạo bằng xe hơi là dịp chúng tôi được quây quần bên cạnh ba với mẹ. Tên nào được ba chỉ định ngồi ở ghế trước để ra hiệu cho ba quẹo trái hoặc canh chừng các xe khác, được coi là may mắn như trúng số… đề. Tuy nhiên vì anh em thương nhau và muốn đứa nào cũng được ngồi cạnh mẹ để mẹ hỏi han, để được mẹ xót xa khi nhìn thấy những xây xát ở chân tay hoặc để mẹ lo sợ ôm ghì lấy mỗi khi ba nổi hứng lái nhanh hay cán phải con chó, con gà… nên chúng tôi đồng ý thay phiên nhau, mỗi đứa ngồi cạnh mẹ nửa tiếng đồng hồ, sau đó nhường sự “may mắn” cho kẻ khác. Lúc đầu thấy vậy ba chậc lưỡi, kêu:

- Các con làm gì như sao đổi ngôi vậy, rối mắt làm sao ba điều khiển xe được?

Huỳnh Sún, tên nổi tiếng lém lỉnh và nhanh mồm nhanh miệng nhất nhà, vội lập lại câu nói mà ba vẫn dùng để trấn an con cái:

- Bình tĩnh mà ba, không nên để… ngoại cảnh chi phối!

Ba với tay lại phía sau, “thưởng” cho Huỳnh Sún một cái nhéo tai làm hắn méo xệch miệng, để hở hai hàm răng “chiếc rụng chiếc lung lay” và đen như hạt mãng cầu.

Trước khi đi chơi ba bắt chúng tôi phải ăn mặc đàng hoàng và sạch sẽ. Thời gian để “trang điểm nhan sắc” được đo bằng việc ba vào ga-ra lấy xe ra đậu trước cổng. Trong khi những tiếng rầm rầm vọng ra từ nhà để xe (do ba quay ma-ni-ven và do ba lùi xe ra đụng vào hai bên tường) thì trong phòng ngủ của chúng tôi diễn ra một cảnh náo loạn: đứa lục tủ tìm quần áo, đứa kêu mất chiếc giầy, đứa rượt theo con mèo tam thể để “đòi” lại chiếc bít tất, thằng than cái quần bị lủng một lỗ to bằng bàn tay mà các bà chị cứ quên không chịu vá cho, thằng mượn kim băng để cài áo vì cả hàng cúc đã “ra đi không hẹn ngày về”… Tuy vậy chúng tôi hành động rất nhanh, áp dụng đúng phương pháp của ba: ngoài sự trách nhiệm với chính bản thân mình, mỗi đứa lớn lại có bổn phận chăm sóc đứa bé, như chị Thuần lo cho bé Huyền, chị Mộng lo cho Cu Bi, Hoài “phụ trách” Huy, Huỳnh Sún “phò tá” tên Hải đầu bò, Bình “hủ lô” o bế Phương tự “Tư lựu đạn”… Sự phân chia công tác này không hẳn chỉ dành riêng cho việc sửa soạn đi chơi mà được thực thi trong mọi trường hợp. Chẳng hạn mỗi buổi chiều đứa lớn thay quần áo cho đứa bé, rửa tay chân, sắp xếp sách vở, khảo bài học, đi tìm nhau nếu có tên nào vắng mặt khi tới giờ cơm…

Tuy nhiên ai cũng phải công nhận rằng sở dĩ mọi công việc đều êm đẹp trong gia đình đều nhờ tài năng của mẹ. Điểm đặc biệt là mẹ không bao giờ la mắng to tiếng hay nóng giận, không bao giờ dùng roi vọt với con cái. Mẹ đúng là một nhà tâm lý và thường gặt hái được nhiều kết quả đối với lũ con hơn là ba. Chúng tôi, đứa nào cũng “chịu” mẹ cả.

Khi thấy chúng tôi tíu tít sửa soạn “nhan sắc” mẹ đi từ bọn này đến bọn khác, hết tập trung những quần áo dơ lại đi cài cúc áo cho mấy đứa nhỏ, hết tìm giầy cho con trai lại chải đầu cho con gái…

- Mẹ! Anh Huỳnh lấy áo của con đây nè, mẹ bảo anh ấy trả con đi.

- Mẹ! Tự nhiên chị Mộng lại kí vào đầu con đấy, mẹ ạ.

- Mẹ! Lát nữa cho con ngồi cạnh mẹ nhá!

Tiếng la, tiếng gọi như ong vỡ tổ, khiến mẹ nhiều lúc tối tăm mặt mũi, nhưng rồi đâu cũng vào đấy.

Khi chúng tôi đã tập họp đông đủ, ăn diện thật “láng”, con trai đồng loạt quần đen áo sơ mi trắng, con gái lớn vận áo dài xanh, con gái nhỏ được phép “diện” đồ đầm màu hồng, mẹ điểm danh từng đứa một; và chỉ những ai được gọi tên mới có quyền leo lên xe.

Chúng tôi cho rằng việc điểm danh đó làm mất thời giờ và phí phạm động tác mà đối với gia đình tôi không gì lỗi nặng bằng, không biết “kiệm ước” thời giờ và động tác. Tuy nhiên sự phản kháng của chúng tôi đã bị chứng minh ngược lại bằng hai vụ sau đây:

Một lần ba mẹ dẫn chúng tôi xuống thăm một chiến hạm ngoại quốc sắp nhổ neo rời bến Bạch Đằng. Vì sơ ý không điểm danh lúc trở lên bờ nên khi chiếc cầu tầu đã được rút lên, người ta đã sửa soạn nhổ neo, chị Thuần mới hoảng hốt kêu:

- Ủa, em Phương đâu rồi?

Sau một hồi tìm kiếm, chúng tôi khám phá ra hắn đang nằm ngủ ngon lành trong một chiếc ghế bành trên boong tầu và… chiến hạm rời bến trễ mất hai mươi phút.

Lần khác, gia đình tôi đã bỏ quên bé Huyền trong một quán ăn trên Thương xá Tam Đa, mà mãi khi về gần đến nhà chúng tôi mới nhận ra. Thế là ba lại vội vàng quay xe lại để rồi tìm thấy bé Huyền đang ăn chung cây cà rem với thằng bé con người chủ quán ở trong bếp.

Hai kinh nghiệm trên đây đã cho thấy sự khôn ngoan, sự cẩn thận và hợp lý của mẹ là “nhất trên trần gian!”.

Khi mọi người đã có chỗ ngồi trên xe, ba cho chiếc “díp bụi đời” từ từ chuyển bánh, nhả lại phía sau những đám khói mù mịt cùng những tiếng toe toe của chiếc còi cao su và tiếng ré của hai còi điện tự động.

Tuy nhiên điều làm chúng tôi khổ tâm nhất là những lần ba nổi hứng bất tử dừng xe lại rồi đề nghị:

- Để “thay đổi không khí”, gia đình mình xuống đi bộ cho gân cốt dẻo dai.

Thế là “bé trước lớn sau” theo chân ba mẹ đi diễu phố, không khác gì một tiểu đoàn đi duyệt binh. Dĩ nhiên cảnh tượng “không giống ai” này đã có sức thu hút những cặp mắt của người đi đường. Một vài thằng con trai chọc ghẹo chúng tôi bằng cách đếm nhịp chân:

- Bước đều, bước! Một hai, một hai!... ắc ê, ắc ê, bên phải, quay!...

Tội nghiệp mấy chị lớn của tôi cứ phải cúi xuống che bộ mặt đỏ như gấc. Ba và mẹ mải nói chuyện với nhau, chẳng để ý gì. Đó là chưa kể những lời bình phẩm khác nữa của người lớn, chẳng hạn:

- Trời, thời buổi “kinh tế mùa thu” này mà nuôi được cả lũ con đông thế kia cũng đủ chết dở!

- Kể ông bà cũng khéo “nặn” đấy chứ, vừa đúng một tá!

- Chúa ôi! Con cái đông thế kia lấy gì mà nuôi!

Cho đến một lần, anh chị em chúng tôi lặng người đi khi nghe thấy một câu nói nổi lên ở phía sau:

- Hình như người ta dẫn trẻ mồ côi đi chơi phố!

Thì ra kiểu áo đồng phục của chúng tôi đã khiến họ suy đoán như vậy, một điều mà chúng tôi chưa lần nào để ý tới. Thế là chúng tôi nhất định đòi ba mẹ cho về bằng được. Ba bỡ ngỡ, chúng tôi mặc kệ, mẹ hỏi lý do, chúng tôi lặng thinh… Mãi đến khi cơm tối xong, anh em chúng tôi kéo cả lên xin “yết kiến” ba mẹ để bày tỏ… lập trường. Chị Thuần lớn nhất được cử làm đại diện “phát biểu cảm tưởng”:

- Xin ba mẹ từ nay cho phép chúng con được thay đổi cách ăn mặc, chứ vận đồng phục… người ta lại gọi chúng con là trẻ mồ côi!

Ba nhướng mắt lên, ngạc nhiên:

- Mồ côi? Mồ côi mà có xe hơi đi? Bộ các con chê quần áo đó sao? Đắt tiền lắm chứ! Nếu các con hiểu rằng…

Ba chưa nói hết câu, mẹ vội lên tiếng:

- Mình ạ, lần này các con nói có lý đấy.

Rồi mẹ quay lại nói với chúng tôi:

- Được, mẹ sẽ may cho các con nhiều kiểu, nhiều màu quần áo khác nhau.

Kết quả thật tốt đẹp ngoài ý muốn của chúng tôi, không ngờ “cuộc cách mạng” thành công chớp nhoáng như vậy.

Ba mỉm cười nhìn mẹ “nịnh đầm”:

- Hoàn toàn đồng ý với mình! Mình bao giờ cũng sáng suốt, khôn ngoan và…

Chúng tôi cất tiếng cười vang, kéo nhau chạy ra ngoài. Đàng sau, có lẽ mẹ đang… đỏ mặt!

CHƯƠNG 2

B

a tôi sinh trưởng ở thôn quê, giữa những đồng ruộng phì nhiêu, xanh rì ngọn mạ và bên bờ một dòng sông hiền hòa. Sau khi ông nội qua đời để lại người vợ trẻ, hai đứa con gái đầu lòng và thằng con trai ba tuổi, bà nội tôi, người đàn bà khổ hạnh nhưng có một nghị lực phi thường, quyết định đem gia đình lên thành phố với giấc mộng là tạo cho các con một địa vị quan trọng ở đời. Quả thực bà nội đã chứng minh một cách hùng hồn câu “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Hai bác gái tôi, người thì trở thành giáo sư âm nhạc lỗi lạc ở Viện Quốc Gia Âm Nhạc, người giữ chức giảng sư tại trường Đại Học Luật Khoa; riêng đứa con trai út, tức ba tôi, vẫn thường mơ ước trở thành một kỹ sư, được bà nội gửi vào trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Nhưng khi vừa hoàn tất bậc trung học ba tôi nghĩ rằng việc tiếp tục học lên trường Cao Đẳng đòi hỏi nhiều tổn phí cho ngân quỹ gia đình và có thể làm cản trở bước tiến của hai chị, nên đã tự động nghỉ học và xin một chân phụ-thợ-hồ cho một ông thầu khoán danh tiếng ở Sàigòn. Biết tính của con trai một khi đã quyết định việc gì khó ai có thể lay chuyển, bà nội tôi chỉ còn biết khuyên nhỏ nhẹ:

- Ở đời, nghề nào cũng đáng quí, đáng trọng, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, con ạ. Hãy cố gắng trở nên một người thợ học nghề giỏi, nghe con.

Ba mỉm cười thưa lại:

- Mẹ an tâm, con sẽ cố gắng hết mình.

Nhưng, nếu bà tôi tin là đứa con trai tháo vát của mình sẽ trở nên một người thợ xuất sắc thì trái lại ông thầu khoán chỉ thấy trước mắt mình một tên học nghề tệ nhất trong suốt bốn mươi năm hành nghề. Chỉ tại ba tôi, thay vì thực hành theo lời dạy của ông thầy, lại đi sáng chế ra những phương pháp xây cất mới khiến chủ nhân thường xuyên nổi nóng đòi tống cổ ba tôi đi:

- Cậu nên nhớ là cậu tới đây để học nghề chứ không phải để dạy nghề kẻ khác.

Ba vẫn không nao núng. Ngay từ hồi còn nhỏ ba đã nghiên cứu sự tiết giảm động tác để công việc được mau chóng, nên cố gắng giải thích cho ông thầu khoán nghe:

- Thưa ông, nếu để ý ông sẽ thấy là không bao giờ hai người thợ có những động tác đặt viên gạch giống nhau. Điều đó rất quan trọng. Ông biết tại sao không?

- Tôi chỉ biết là những người thợ nào dưới quyền tôi mà mở miệng bày đặt đề nghị này nọ tôi sẽ tọng cho một viên gạch!

Ba vẫn bình tĩnh trình bày:

- Quan trọng là vì con người thường đặt tự ái không đúng chỗ nên, nếu có người thợ nào có cách đặt gạch xây riêng thì thế nào những người khác cũng sẽ làm ngược lại. Nếu ở địa vị ông, tôi sẽ quan sát người thợ nào có phương pháp hoàn hảo nhất rồi bắt các đồng nghiệp khác bắt chước y như vậy.

Ông thầu khoán giận xanh mặt, nhặt một hòn gạch giơ lên như đe dọa:

- Có lẽ tôi không đủ ma lanh để nhận ra ai là giỏi, nhưng chỉ biết tống cổ tên nào bết nhất mà cứ hay lên mặt thầy đời. Thôi, đừng làm chói tai tôi nữa nếu không tôi sẽ đính viên gạch này vào mặt cậu dù cách đó có làm vừa lòng cậu hay không!

Trong năm đó, mặc dầu có sự chê bai của ông thầu khoán, sự nghi kỵ của các đồng nghiệp, ba vẫn quyết chí thực hiện những sáng kiến của mình.

Thời gian trôi, với sự kiên trì và nghị lực, với sự nhẫn nại và tinh thần cầu tiến ba đã thành công vẻ vang trong nghề, rồi cũng trở thành một vị thầu khoán, một chủ nhân ông. Một nhóm thợ tinh nhuệ, áp dụng phương pháp tiết giảm động tác và với tài điều khiển khéo léo của ba, đã đạt được những kỷ lục độc đáo, xây nhanh, kiến trúc giỏi vào bậc nhất trong nước, không những đã kiến tạo nhà cửa, cao ốc mà còn bao thầu cả công việc xây cất cầu cống, công xưởng, làm xa lộ cho chính phủ. Nhiều cơ quan công quyền và tư nhân đã mời ba tới để thuyết giảng cũng như giúp nhân công thực hành các phương pháp làm việc của ba.

Đến 34 tuổi, ba đã mở văn phòng ở Sàigòn và một vài thành phố khác như Cần Thơ, Huế, Nha Trang… Và cũng từ thời gian đó miệng ba lúc nào cũng phì phà điếu xì gà, bụng ba tà tà… “bành trướng” cho “hợp thời trang” của một kẻ làm lớn!

°

Ba gặp mẹ năm 27 tuổi trong một cuộc nghỉ mát ở Đà Lạt và chỉ một năm sau hai người cùng “bước lên xe hoa”. Hồi đó mẹ đang theo ngành tâm lý học và nổi tiếng là một thiếu nữ hiền dịu và khéo léo.

Từ khi có con, ba đề nghị phối hợp phương pháp tiết giảm động tác của ba với những sở trường về tâm lý của mẹ trong việc giáo dục gia đình. Lúc đầu một mình mẹ cáng đáng mọi công việc nội trợ nhưng khi đàn con đã lên đến con số 12 thì mẹ mới bằng lòng để ba mượn chú Xồi và thím Xực vào giúp việc nhà.

Ba muốn chúng tôi phải làm giúp chú Xồi, thím Xực để tránh tinh thần ỷ lại. Tuy nhiên ba cũng muốn rằng sự hợp lực đó phải do sự tình nguyện và ý thức bổn phận chứ không phải do ép buộc. Ba khám phá ra rằng phương cách tốt nhất để thu được sự cộng tác phong phú của nhân công trong một cơ xưởng là thỉnh thoảng nên mở những phiên họp thân mật giữa chủ và thợ để thợ được tự do trình bày ý kiến, sau đó chủ sẽ phân phối công việc cho họ tùy theo năng lực và sở thích cá nhân. Cũng vậy, ba và mẹ thành lập ở nhà một Hội Đồng Gia Đình theo mẫu ở công ty của ba. Ba và mẹ cho rằng những gì tốt đẹp ở nhà có thể tốt đẹp ở sở làm và ngược lại. Hội Đồng Gia Đình nhóm họp mỗi sáng chủ nhật, ngay sau bữa điểm tâm.

Khởi sự buổi họp đầu tiên, ba trịnh trọng đứng lên, rót một ly nước lọc và đọc… diễn văn:

- Thưa quí vị (có tiếng cười khúc khích của chúng tôi) trong gia đình… ba (!) là người cao niên hơn cả, do đó ghế chủ tịch đương nhiên thuộc về ba. Hy vọng không có ai phản đối?... ( Ba đưa mắt đảo một vòng, thấy im lặng lại tiếp) Nhân danh chủ tịch, ba sẽ…

Bỗng chị Thuần cắt ngang:

- Thưa ông… chủ tịch…

Chị Thuần hiện học lớp đệ nhất nên thích bàn cãi và đã có kinh nghiệm phát biểu ý kiến trước đám đông, tuy nhiên chị chưa nói được gì ba đã lớn tiếng:

- Yêu cầu giữ trật tự! Chỉ có chủ tịch được quyền nói…

- Nhưng… ông chủ tịch vừa hỏi có ai phản đối không, vậy… con muốn chống…

- “Trật tự” nghĩa là “ngồi xuống đi con”! Chủ tịch nhắc lại: yêu cầu giữ trật tự!

Nói xong ba uống một hớp nước, hắng giọng rồi tiếp tục bài diễn văn:

- Mục đích của buổi họp hôm nay là để phân chia các công việc khẩn thiết ở bên trong lẫn bên ngoài nhà. Ai có ý kiến nào không?

Không có người nào giơ tay.

Ba mỉm cười và cố tạo một bầu không khí vui vẻ:

- Nào các… đồng chí trong Hội Đồng Gia Đình, hăng hái lên chứ. Chúng ta đang sống trong thời đại dân chủ, mọi người đều có tiếng nói bình đẳng. Nào quý vị muốn phân chia công tác ra sao?

Vẫn không ai có ý kiến, bởi vì có người nào lại tự nhiên đi nhận lấy gánh nặng đâu. Ba lại tiếp tục khôi hài:

- Trong một chế độ dân chủ, mọi người cần phát biểu lập trường của mình thì mới có tiến bộ. Hãy mở miệng ra, thưa quí vị!

Cử tọa bất động. Mặt ba xịu xuống khiến tôi cảm nghĩ nếu không có làn da bên ngoài chắc các khối thịt hai bên má của ba sẽ rớt xuống như những trái cây chín mùi. Thấy những lời tác động của mình không có kết quả, ba chỉ đại vào tên ngồi gần nhất:

- À, Huỳnh Sún có ý kiến!

Bị “tấn công” bất ngờ, Huỳnh Sún ngơ ngác, há hốc miệng như một kẻ vừa bị đá từ trên cung trăng xuống đất. Hắn ấp úng:

- Thưa… ba, ý quên thưa… ông chủ tịch, con đâu có…

- Huỳnh Sún, can đảm lên như ba của con đây nè. Sao, con nghĩ thế nào về việc phân chia công tác trong nhà?

“Nạn nhân bất đắc dĩ” của ba từ từ đứng lên:

- Thưa ông chủ tịch, theo con nghĩ nên để cho chú Xồi và thím Xực làm tất cả, bởi vì nhà mình đã mất tiền mướn họ…

Ba hét lên:

- Ngồi xuống! Nhân danh chủ tịch, ba bác bỏ các lời nói vô trách nhiệm vừa rồi của Huỳnh Sún.

Huỳnh Sún lại từ từ ngồi xuống giữa sự ủng hộ… ngầm của chúng tôi (trừ mẹ, vì mẹ vẫn về phe ba). Ba lại uống hớp nước, đốt điếu xì-gà rồi lấy giọng nghiêm chỉnh nói tiếp:

- Quí vị thừa biết vào thời buổi này đâu có dễ gì mướn được người giúp việc, nhất là với một gia đình đông người như nhà chúng ta đây.

Tên Huỳnh Sún như đã được chích kích thích tố, làm oai đứng dậy:

- Nếu thế nên cho họ nghỉ quách cho rồi. Họ làm tàng quá!

Hải Đầu Bò hỗ trợ cho em:

- Theo con, chú Xồi và thím Xực đã bận quá nhiều công việc…

Khuôn mặt của ba và mẹ sáng hẳn lên, hai người đều gật gù đầu như tìm được đồng chí.

Nhưng Hải Đầu Bò đã tiếp nối câu nói:

- Như vậy, theo thiển ý của con, nhà mình nên mướn thêm một người giúp việc nữa để giúp chú Xồi, thím Xực.

Ba vỗ bàn cái rầm:

- Ngồi xuống! Yêu cầu trật tự!

Có lẽ thấy chiều hướng tiến triển không khả quan chút nào, ba nháy mắt ra hiệu cho mẹ “cứu vãn tình thế”, vì biết mẹ “một cây tâm lý”:

- Chủ tịch ra lệnh cho bà phó chủ tịch phát biểu ý kiến.

Mẹ nhỏ nhẹ lên tiếng:

- Giải pháp hay nhất là chúng ta mướn thêm người làm đúng như Hải đề nghị.

Ba mở tròn xoe mắt kinh ngạc, nhưng không dám có phản ứng gì. Chúng tôi hích tay nhau, thích thú. Mẹ vẫn tỉnh bơ tiếp tục nói:

- Do đó ngân quỹ của gia đình ta sẽ phải dành ra một ngân khoản khá lớn, nhưng lấy ở đâu ra bây giờ? Hay… phó chủ tịch đề nghị thế này: nếu chúng ta bỏ mọi thứ tráng miệng sau mỗi bữa ăn, bỏ hết những chi phí cho từng cá nhân thì chúng ta có thể mướn được một chị giúp việc trong nhà; còn nếu chúng ta bỏ hết các khoản giải trí hàng tuần như xem chớp bóng, ăn cà-rem, và bỏ hết mọi việc may mặc trong vòng một năm thì có thể lấy tiền đó thuê được một ông lo việc ngoài nhà…

Mẹ chưa dứt câu, ba đã hí hửng:

- Vậy vị nào muốn “cúp” những “mục” vừa kể?

Dĩ nhiên không ai muốn, nhưng cũng không biết phải trả lời ra sao vì biết mình đã rơi vào bẫy tâm lý của vị phó chủ tịch Hội Đồng Gia Đình, tức người mẹ khôn ngoan và khéo léo tuyệt trần của chúng tôi.

Sau vài lời “khích lệ tinh thần” của ba, công tác được phân chia mau lẹ: Con trai quét sân, đốt rác rưởi; con gái quét nhà, lau bụi và rửa bát. Mọi người, trừ ba, đều phải tự động xếp dọn phòng ngủ và giường chiếu của mình. Một thắc mắc cuối cùng của Cu Bi:

- Chúng con còn bé làm sao với lên cao được mà lau bụi hay cầm nổi cái chổi?

Lại phân công lần nữa cho rõ rệt: phía con gái, người bé thì lau dưới chân đồ đạc, các hộc tủ thấp, người lớn lau cửa kính, phần trên đồ đạc và các ngăn tủ cao – phía con trai, lớn thì quét sân, nhỏ thì đổ rác, lớn tưới cây, nhỏ nhổ cỏ…

Phiên họp đầu tiên của Hội Đồng Gia Đình chấm dứt trong bầu không khí… hậm hực và trong tiếng tranh nhau xem ai lớn, ai nhỏ hầu… xí việc làm!

Tuần lễ sau, cũng vào sáng chủ nhật, Hội Đồng Gia Đình nhóm họp lần thứ hai. Chúng tôi vào chỗ ngồi với một dáng điệu chậm chạp. Ba, tức ông chủ tịch hội đồng như cảm thấy có tảng đá ngầm dưới dòng nước và ông khẽ nhăn mặt. Kể ra cũng khó khăn cho ba khi phải khai mạc phiên họp trong bầu không khí không thuận lợi.

Chị Thuần đứng lên, “khai pháo” đầu tiên:

- Xin lưu ý Hội Đồng về việc… “bà” phó chủ tịch, tức mẹ chúng ta, dự định mua một tấm thảm để trải ở phòng ăn. Tôi đề nghị Hội Đồng cần được tham khảo ý kiến về việc mua bán này.

Em Mộng giơ tay:

- Hoàn toàn đồng ý với chị Thuần.

Trong khi suy nghĩ để “phản công”, ba cố gắng giữ nét mặt thản nhiên, chỉ tay bâng quơ, nói:

- Cần bàn cãi gì nữa không?

Phía con gái liền nhao nhao lên:

- Chúng con có bổn phận lau nhà, do đó có quyền chọn lựa tấm thảm theo ý thích.

- Thảm phải có thêu đầy hoa, bởi vì nhờ có hoa người ta sẽ không nhìn rõ được những hạt cơm, vụn bánh rơi rớt, nhờ vậy chúng ta giảm bớt được biết bao động tác như đỡ phải chăm chú nhìn, đỡ phải đưa tay nhặt và nhất là đỡ phải quét và giặt tấm thảm.

- Chúng tôi muốn biết… “bà” phó chủ tịch sẽ mua loại thảm nào?

- Phía con trai chúng tôi cũng cần được biết việc mua tấm thảm này ảnh hưởng ra sao đến ngân quỹ gia đình?

Thấy các con phát biểu ý kiến hăng quá, chứ không còn thụ động như lần trước, ba luống cuống, cầu cứu tới mẹ:

- Tôi xin nhường lời cho bà phó chủ tịch… Mình ơi, mình cần lên tiếng đi chứ, chúng ta phải làm gì bây giờ?

Mẹ chậm rãi trả lời:

- Mẹ… à quên, tôi dự tính mua một tấm thảm mầu tím, trải dưới bàn ăn và giá khoảng năm ngàn bạc. Nhưng nếu các con… à quên, quí vị thấy rằng giá đó quá đắt hoặc quí vị muốn loại có bông thì mẹ cũng sẽ phục tòng đa số.

Anh Hoài đề nghị:

- Theo con, chúng ta không nên tiêu quá bốn ngàn rưỡi.

Ba nhún vai, bởi vì điều gì mẹ đã đồng ý thì đối với ba không thành vấn đề nữa:

- Có vị nào phản đối ý kiến của… đồng chí Hoài không?

Mọi người thông qua mau lẹ.

Ba hỏi thêm:

- Ai còn điều gì muốn nói nữa không?

Bình-hủ-lô vội vàng giơ tay:

- Con đề nghị lấy năm trăm đồng mà chúng ta tiết kiệm được trong việc mua chiếc thảm để… để… mua một con chó con!

- Hả? Mua gì?

- Một con chó con!

- Ba nghe không rõ, mua… con gì?

Bình-hủ-lô nói chậm lại như đánh vần từng tiếng:

- Một… con… chó… con!

- Bình, con có tỉnh trí không?

- Thưa ông chủ tịch, con, í quên tôi rất sáng suốt!

Nếu câu chuyện mua thảm trải phòng ăn gây nhiều tiếng cười đùa thì đề tài mua chó con trái lại diễn ra rất nghiêm trang. Thật ra trong anh chị em chúng tôi, đã từ lâu đứa nào cũng thích nuôi một con chó trong nhà. Riêng ba, ba lại quan niệm khác: bất cứ con vật nào mà không đẻ trứng được đều là loại xa xí phẩm! Do đó khi nghe Bình-hủ-lô đề nghị ba đã phản đối ngay. Có thể vì nghĩ rằng nếu nhượng bộ đòi hỏi này ba sẽ lâm vào những tình trạng bi đát khác. Ba kinh hoàng khi tưởng tượng trong nhà, ngoài con chó của Bình-hủ-lô, sẽ còn vô số những con vật và đồ khác nữa: nào mèo của chị Thuần, chim của anh Hoài, nào thỏ của Huỳnh Sún, nào chuột bạch của Hải-đầu bò, nào xe đạp của Cu Bi, Vélo Solex của chị Mộng, Honda của em Huyền… và rồi được voi đòi tiên, dám có thể có đưa yêu sách một bàn ping-pong, một sân vũ cầu, một hồ bơi… Và như vậy tương lai của ba sẽ là nghèo đói, là lao tù vì bị các chủ nợ thưa kiện…

Bỗng tiếng của chị Mộng nổi lên, kéo ba ra khỏi cơn… ác mộng:

- Xin tán thành ý kiến của Bình-hủ-lô!

Bình-hủ-lô được thể:

- Chắc chắn mọi người sẽ khoái và vuốt ve con chó suốt ngày, riêng tôi sẽ lãnh trách nhiệm huấn luyện nó.

Huỳnh Sún cũng tán đồng theo:

- Con chó đó sẽ là bạn của chúng ta, nó sẽ nhặt các thực phẩm dư thừa, nhờ đó chúng ta sẽ tiết giảm được một số động tác đáng kể như sẽ không phải lượm lặt các đồ ăn rơi xuống đất, không phải thu dọn chiến trường sau mỗi bữa ăn.

Trước sức tấn công như vũ bão của đàn con, ba rầu rầu nói như than vãn:

- Một con chó! Trời ơi! Đó là một thiên tai đổ xuống cho gia đình này. Chúng ta sẽ trở thành nô lệ của nó. Hãy tưởng tượng đêm ngày nó hết sủa trong nhà lại ra ngoài ngõ, nó sẽ gieo rắc bọ chó khắp nơi, nó sẽ kêu gừ gừ dưới gầm giường làm sao mà ngủ cho nổi, nó sẽ liếm vào bát đĩa… Trời ơi! Cầu sao mọi người lánh xa con vật bẩn thỉu và ghê tởm này.

Chúng tôi vẫn ngồi bất động, chai đá trước những lời ca ai oán của ba. Thấy vậy, ba lại tìm đồng minh ở mẹ:

- Mình, mình ơi, hãy mở mắt ra tí nào. Từ nẫy đến giờ mình cứ ngủ không à! Mình không thấy một tương lai đen như mực tầu đang chờ đón gia đình mình hay sao? Rồi đây nhà này sẽ đầy chó, đầy mèo, đầy súc vật… mình sẽ là nạn nhân bi thảm nhất của sự đòi hỏi vô lý đó!

- Ông chủ tịch nên bình tĩnh – mẹ trả lời ba – theo phó chủ tịch nghĩ, là bậc cha mẹ, chúng ta phải tin nơi con cái của mình. Một con chó giá năm trăm bạc không đến nỗi khủng khiếp như một quỉ sứ đâu.

Chúng tôi vỗ tay rầm rầm tán thưởng trong khi ba buông mình rơi xuống chiếc ghế bành.

Cuộc bỏ phiếu kín diễn ra sau đó. Kết quả: 12 phiếu thuận, 1 phiếu chống (của ba) và 1 phiếu trắng (của mẹ).

Thế là vài ngày sau một con chó con xuất hiện trong nhà tôi đồng thời với cái thảm trải dưới bàn ăn. Chúng tôi đặt tên cho con chó là Tiểu Vương.

Tiểu Vương lớn mau như thổi. Chỉ bốn tháng sau nó đã lập được nhiều “thành tích” đáng kể: rụng lông khắp nơi – Cắn rách chiếc thảm (vì nhặt kỹ quá các thức ăn rơi xuống) – Nhá nát năm đôi bít tất (vớ) và hai chiếc giầy của ba – Tha đi mất nào guốc, nào dép, nào áo quần của chúng tôi – Cắn chảy máu chân bốn đứa trẻ hàng xóm khiến ba phải xin lỗi cha mẹ chúng tơi bời rồi lấy xe chở chúng đi y viện Pasteur – Xơi tái ba lần cái cẳng khẳng khiu của chú phát thơ và thường xuyên rượt chú bé đưa báo chạy có cờ – Hàng đêm làm ba mất ngủ vì nó chuyên môn nằm dưới gầm giường của ba mà… nghiến răng ken két…

Ba thường ôm đầu than với mẹ:

- Mình đã thấy hậu quả của sự chiều chuộng con cái một cách vô lý của mình chưa? Đúng là con hư tại mẹ! Nghĩ lại tôi tự hãnh diện vì đã đơn phương anh dũng chống lại sự đòi hỏi kỳ cục của Hội Đồng Gia Đình. Nhưng hỡi ơi, bây giờ tôi lại phải nằm gần, ăn gần cái con vật lười biếng, bẩn thỉu, hôi thối, phá phách này… Thượng Đế hỡi, có thấu cho tình con nè! Mình! Vợ yêu quí của tôi đã thấy thảm họa chưa? Trời ơi!

Dĩ nhiên mẹ cũng thấy nhưng biết làm sao được khi mà mỗi tuần họp Hội Đồng Gia Đình số phiếu của chúng tôi, 12 đứa, vẫn chiếm đa số!

CHƯƠNG 3

M

ột trong những phương thức để giáo dục con cái là ba và mẹ tập cho chúng tôi tinh thần tự lập, ý thức trách nhiệm và ngay từ nhỏ biết giá trị của đồng tiền. Câu chuyện sau đây của em Thảo chứng minh điều tôi vừa trình bày.

Năm đó Thảo lên mười tuổi. Một hôm trong Hội Đồng Gia Đình Thảo đề nghị nên sơn lại hàng rào bao quanh sân. Có lẽ ai cũng tưởng tượng tới chiều dài và bề cao kinh khủng của hàng rào nên phản đối: người cho rằng nên mướn thợ để khỏi mất giờ học, kẻ yêu cầu đợi đến tết Tây hãy sơn lại cho mới. Thảo vẫn cương quyết giữ lập trường của mình. Mẹ lặng thinh. Ba không bác bỏ nhưng cũng không hẳn tán đồng, chỉ tuyên bố “lửng lơ con cá vàng” thế này:

- Đáng lý ra thiểu số phải phục tòng đa số, tuy nhiên ý kiến của cô bé Thảo cũng không hẳn là vô ích. Vậy nếu thuê thợ sơn chúng ta sẽ tốn khoảng ba ngàn bạc, nhưng nếu cô bé Thảo có cách nào… không cần đến thợ mà hàng rào vẫn được sơn phết lại thì cô bé Thảo sẽ được thưởng một món quà với giá tương đương với ngân khoản dành để thuê thợ.

Ai cũng tưởng Thảo sẽ “đầu hàng vô điều kiện”, nhưng rồi mọi người đều trợn trừng mắt, ngạc nhiên trước câu trả lời của Thảo:

- Chính con sẽ sơn lại hết. Xong việc con chỉ xin ba một đôi giày mới và cặp vợt vũ cầu.

- Đồng ý!

Mẹ vội vàng ghé vào tai ba, nói nhỏ:

- Con nó còn bé quá, làm sao một mình nó có thể sơn được cả cái hàng rào. Mình ngăn nó đi.

- An tâm. Mình phải tập cho con biết giá trị của đồng tiền và biết tuân giữ lời đã cam kết.

Ba quay lại hỏi Thảo:

- Con nhất định chứ? Mà một khi đã bắt đầu việc gì là phải đi tới cùng.

- Con xin hứa.

Thế là ngay ngày hôm sau Thảo bắt tay vào việc. Những buổi chiều và ngày chủ nhật nghỉ học, cô bé sơn phết không ngừng tay. Thấy tội nghiệp, các ông anh, bà chị muốn phụ giúp đều bị Thảo từ chối. Một tuần lễ sau hai bàn tay của Thảo phồng lên, bọng nước, nhiều đêm vì làm việc quá mệt, Thảo đã không thể nào ngủ được. Trong khi đó, tôi biết, ba cũng trằn trọc, xót xa. Mẹ vẫn không ngừng nói với ba:

- Thôi mình cản con lại, coi chừng nó kiệt sức thì chẳng bõ.

- Không! Đây là một bài học rất quí cho nó. Nhờ vậy nó sẽ hiểu hơn khi kiếm được đồng tiền người ta phải vất vả thế nào, nó sẽ tập được ý chí và sự nhẫn nại để đi tới thành công.

- Mình nói như một ông thánh!

Ba vẫn không nao núng, ít nhất là bề ngoài.

Mười hai ngày sau, Thảo hoàn tất công việc. Vẫn để mặt mũi và quần áo dính sơn, để lòng bàn tay quấn băng trắng, Thảo đi tìm ba trước tiên. Vừa gặp ba, Thảo òa lên khóc, nói mếu máo:

- Xong rồi, ba. Con hy vọng là ba sẽ bằng lòng.

Ba kéo cô con gái vào lòng, lấy khăn tay lau nước mắt trên khuôn mặt lỗ chỗ những sơn:

- Đừng khóc, cưng. Sở dĩ ba để con làm việc như vậy là muốn tập cho con những đức tính tốt. Thôi bây giờ con vào giường của con nằm nghỉ một chút rồi con sẽ hiểu là ba đã luôn luôn nghĩ đến con trong những ngày qua.

Thảo chạy vào giường và thấy dưới gối một đôi giày mới toanh và một cặp vợt vũ cầu đẹp tuyệt vời, bên cạnh có tấm danh thiếp của ba với dòng chữ: “Đây là phần thưởng cho lòng can đảm và sự kiên nhẫn”.

Và em Thảo đã chạy ra ôm chầm lấy ba, khóc nức nở.

°

Tinh thần tiết kiệm tiền bạc và vật dụng cũng được ba và mẹ tập luyện cho con cái. Trong các phiên họp thường lệ mỗi sáng chủ nhật chúng tôi đều phải phúc trình trước Hội Đồng Gia Đình về những chi phí của mình để mọi người góp ý kiến xem những khoản tiêu pha nào hữu ích hoặc những trường hợp nào không cần thiết. Tuy nhiên cũng có những vụ mà chúng tôi không biết nên xếp vào loại có lợi hay có hại. Tôi xin kể một chuyện điển hình sau:

Một buổi tối kia, trước giờ đi ngủ, Huỳnh Sún nhận thấy ai đã vô ý không khóa “rô-bi-nê” để nước chảy đầy bồn tắm. Có lẽ vì bị ám ảnh bởi nguồn tin do ba thông báo cho Hội Đồng Gia Đình: Chính phủ quyết định tăng giá điện, nước theo chương trình cách mạng kinh tế mùa thu, nên Huỳnh Sún cho đây là một sự phí phạm không thể tha thứ được. Hắn điều tra xem ai là kẻ đã tắm sau cùng hồi chiều. Và khi được biết Hải đầu bò là thủ phạm, Huỳnh Sún liền vào tận giường lôi tên này dậy:

- Hải! Yêu cầu bạn xuống khỏi giường và đi tắm ngay.

Mắt nhắm mắt mở, Hải đầu bò thều thào:

- Em tắm trước khi đi ngủ rồi!

- Chính vì vậy mà bạn phải tắm nữa.

- Nhưng người em sạch mà! Em đâu có… tè dầm mà phải tắm giữa đêm hôm thế này?

- Tại bạn hồi nãy quên đóng “rô-bi-nê” để nước chảy đầy bồn tắm, không lý bạn để phí một khối lượng nước đáng kể đó sao!

- Thế tại sao anh không tắm đi cho khỏi phí?

- Theo chương trình, tao tắm vào lúc bốn giờ chứ không phải lúc này. Hơn nữa, kẻ nào gây nên tội phải lãnh hậu quả. Thôi xuống đi, không mất công tao phải… bế mày!

- A, anh mày tao với em há. Em sẽ méc ba cho xem. Xin lỗi em đi!

- Đừng có nói lảng! Chuyện đó hậu xét. A lê vào tắm tút suỵt!

Thế là Hải đầu bò phải… bò vào nhà tắm dù còn đang ngái ngủ.

Kết quả, sau gần nửa tiếng ngâm mình trong nước dưới con mắt chứng giám của Huỳnh Sún, sáng hôm sau, Hải đầu bò bị cảm lạnh. Số tiền đi khám bác sĩ và mua thuốc cho… bệnh nhân bất đắc dĩ mắc hơn giá tiền nước! Đang yên lành phải nghỉ học ngang xương, không được nô giỡn với bạn bè, phải ăn cháo trắng và kiêng gió, kiêng nước trong bốn năm ngày liền, Hải đầu bò oán Huỳnh Sún thấu trời xanh! Xử kiện vụ này, Hội Đồng Gia Đình không trách cứ ai, nhưng cũng không khen ngợi kẻ nào, chỉ khuyến cáo: lần sau Hải đầu bò phải cẩn thận hơn, Huỳnh Sún cần khôn ngoan hơn và việc gì có tính cách quan trọng và khẩn trương cần phải thông báo ngay cho ông bà chủ tịch để xin quyết định!

°

Một hôm, ba trở về nhà với hai chiếc máy “cát-sét” và một chồng băng nhựa. Vừa bước chân tới cửa ba đã thổi tu huýt liên hồi để tụ họp con cái. Khi chúng tôi đã có mặt đầy đủ, ba trịnh trọng nói:

- Hỡi các con yêu quí của ba, hôm nay ba muốn dành cho các con một sự ngạc nhiên tuyệt vời. Đây, hai chiếc “cát-sét” và sáu cuốn băng đầy… hấp dẫn!

- Nhưng thưa ba, nhà mình đã có một chiếc A-Kai loại tốt rồi!

- Ba biết lắm chứ! Chúng ta sẽ để một cái dưới nhà, hai cái trên lầu. Như vậy không mê ly hơn sao?

- Tại sao vậy ba?

- Từ nay chúng ta sẽ tiết kiệm được… một số động tác đáng kể. Ba sẽ cho bắc một “ô-pạc-lơ” trong phòng tắm, một trong phòng ngủ của con gái, một trong phòng ngủ của con trai. Ba cá mí các con rằng trong thành phố Sàigòn “hoa lệ phí” này chỉ gia đình chúng ta duy nhất là có máy phóng thanh trong phòng tắm! Khi các con đánh răng, rửa mặt hay tắm giặt đồng thời cũng có thể cho máy chạy.

- Tại sao vậy ba?

Như bị cụt hứng bởi những tiếng “tại sao” của Huyền, ba gắt:

- Tại sao! Tại sao! Tại sao hoài! Bộ trước bất cứ chuyện gì cũng phải “tại sao” à?

Huyền nhỏ nhẹ thưa lại:

- Thưa ba, không phải hoàn toàn như vậy, nhưng với ba con thiết nghĩ cần phải… nghi vấn bởi vì thú thật với ba, khi nghe ba nói tới việc tiết kiệm động tác, việc mua máy cát-sét và băng nhạc, tự nhiên tiếng “tại sao” lại xuất hiện trong tâm trí con.

- Đây không phải là băng nhạc! Các con sẽ thấy các băng này hấp dẫn và ích lợi vô cùng.

Em Mộng chen vào:

- Thế loại băng gì vậy ba?

- Thú vị lắm!

- Ba chơi trò ú tim mãi. Bật mí đi ba! Hồi hộp quá!

Ba cười hề hề có vẻ khoái chí đoạn ngửa mặt lên trần nhà, lim dim đôi mắt, giơ tay như một vị tổng thống đang tuyên thệ nhậm chức, phán rằng:

- Đây là những cuộn băng học sinh ngữ Anh và Pháp văn!

- Trời!

Không nhận ra phản ứng ngạc nhiên của lũ con, ba vẫn say sưa tuyên bố:

- Các con không cần phải chăm chú nghe như khi ở trong lớp nghe giảng bài, cứ làm việc tự nhiên trong khi máy chạy, thế là thính giác của các con cũng sẽ làm việc trong vô thức, nhờ vậy mà các con sẽ nghe quen cách phát âm.

- Tuyệt! Cám ơn ba!

- Yêu cầu im lặng và nghe ba nói tiếp. Hỡi các con, các con có biết ba lấy ngân khoản nào để mua các vật dụng hữu ích này không? Dĩ nhiên không phải ngân sách của gia đình mà do ba tiết kiệm được trong các việc tiêu vặt rồi “tích tiểu thành đại” trong hơn một năm ba mới thành công. Tuy nhiên, các con phải hiểu việc làm của ba không phải để… phục vụ cho cá nhân ba mà chính là cho các con. Bởi vì các con biết ba đã thông thạo cả Anh và Pháp ngữ đến nỗi khi nghe ba nói người ta cứ tưởng… người ngoại quốc chính cống…

Thú thật lúc đó nếu không mím chặt môi có lẽ tôi đã phì cười vì tôi biết ba đã… phóng đại, “bốc thơm” mình quá mức trung bình! Đồng ý là ba vẫn chịu khó rèn luyện sinh ngữ, nhưng thật ra ba chỉ “một cây” về tiếng Pháp còn Anh văn thì ba còn “ẹ” lắm. Bằng chứng là trong những lần phải tiếp xúc với các nhân vật quan trọng từ Mỹ quốc qua nghiên cứu nền kỹ thuật Việt Nam, ba luôn luôn dắt mẹ theo để làm thông dịch viên; chính mẹ mới là “cây xanh rờn” về Anh văn, dường như trời đã phú cho mẹ một khả năng đặc biệt trong việc học và nói sinh ngữ…

Ba vẫn tỉnh bơ thao thao bất tuyệt:

- Các con đừng bao giờ quên là ba mua những thứ này để các con học, do đó ba muốn các con phải sử dụng hàng ngày. Nếu sáng nào mà ba không nghe máy chạy từ giây phút các con mở mắt dậy cho đến khi xuống phòng ăn dùng điểm tâm, thì lập tức phải báo cáo lý do cho ba biết ngay.

Chờ cho ba dứt lời, Huỳnh Sún nhăn mặt thưa lại:

- Thưa ba, cũng có khi chúng con kẹt chứ, chẳng hạn nếu một cuộn băng hết khi chúng con đang tắm thì làm sao thay cuốn khác?

- Kẻ nào biết áp dụng đúng phương pháp tiết giảm động tác vẫn có thể có dư thời giờ để vừa tắm vừa cho máy chạy.

Qua câu nói trên, ý của ba muốn nhắc đến phương pháp… tắm rửa của ba nhằm mục đích loại bớt những cử động không cần thiết đồng thời tiết kiệm được thời giờ. Phương pháp đó như thế này: Ba ngồi vào trong bồn tắm, lấy xà bông bằng tay phải, đặt lên vai trái, chà xuống cánh tay trái rồi lại kéo lên đến nách, đoạn xát cạnh sườn và phía ngoài chân trái, tiếp theo bôi ở phía trong chân trái rồi về tới cổ. Sang giai đoạn hai, ba chuyền cục xà bông qua tay trái rồi cũng tuần tự thực hiện những động tác đã áp dụng cho nửa phần thân thể trước. Giai đoạn ba dành cho bụng và lưng. Giai đoạn bốn để săn sóc đặc biệt bộ mặt, hai lỗ tai và các kẽ ngón chân, nghĩa là những chỗ có nhiều núi đồi và hang hốc.

Khi “sáng chế” ra phương pháp trên ba đã nhiều lần tụ tập lũ con trai chúng tôi lại trong phòng tắm để giảng giải và chứng minh; sau đó ba lại triệu tập con gái lại ở giữa phòng ăn để tắm tưởng tượng (dĩ nhiên ba vẫn mặc quần áo như thường) làm gương!

Như vậy mỗi một lần tắm không ai được quá mười phút!

Sau khi giải thích về sự lợi ích của việc học bằng cách tập nghe máy, ba phê bình cách phát âm sinh ngữ của chúng tôi:

- Khi các con học bài ba nhận thấy giọng đọc tiếng Pháp của các con nghe cũng… tạm được; ba hiểu gần hết những gì các con nói, nhưng giọng đọc tiếng Anh thì… kinh khủng quá! Ba dám cá rằng, ngoài chính các con, không ai hiểu được một tí ti ông cụ nào trong câu nói của các con! Nghe các con đọc Anh văn ba có cảm tưởng như các con đang sống thời tiền sử!

Chúng tôi phá lên cười trước câu ví von của ba. Đúng lúc đó mẹ ở trong nhà đi ra. Như vớ được đồng minh, ba xoa hai tay vào nhau, mừng rỡ:

- Có đúng vậy không mình?

Mẹ mỉm cười trả lời:

- Đúng! Các con mà nói Anh văn thì thánh cũng phải… “chào thua”! Nhưng tôi lại hiểu được ý các con muốn nói gì.

- A, tại trước đây mình học Anh văn ở… Phi châu nên mới hiểu! Còn tôi, tôi được chính những giáo sư ngoại quốc tài danh chỉ dạy nên đành… đầu hàng lũ con “thời tiền sử” của mình!

Chúng tôi lại cười trong khi ba đỏ gay mặt, còn mẹ dịu giọng lại để “vớt vát danh dự” cho ba:

- Có lẽ mình… nói đúng đấy! Xưa nay em vẫn chịu ngài!

Thế là từ hôm đó hàng ngày, chúng tôi bất đắc dĩ phải nghe những cuộn băng sinh ngữ trong khi đánh răng, rửa mặt và cả lúc tắm rửa. Tuy nhiên, mặc dầu bên ngoài chúng tôi chẳng lấy gì làm thích thú, chỉ cầu sao một bữa nào đó ba nổi hứng dẹp mấy cuốn băng sinh ngữ khô như củi để thay vào những băng nhạc thời trang thì nhất trên đời, nhưng trong thực tế chúng tôi cũng phải công nhận rằng nhờ phương pháp đó chúng tôi đã học tấn tới về môn sinh ngữ và thường được các giáo sư khen ngợi.

Cũng từ thời gian trên chúng tôi nhận thấy hàng đêm ba thường đi ngủ trễ hơn trước kia cả tiếng đồng hồ, sau mới bí mật khám phá ra là ba thức khuya để… luyện Anh văn: chờ cho các con đi ngủ hết, ba xuống phòng tắm của con trai bê chiếc máy và mấy cuộn băng vào phòng làm việc, vặn thật nhỏ để nghe và tập cách phát âm cho đúng giọng Ăng-lê.

Đó, tôi đã nói kỳ trước mà, ba còn “ẹ” về Anh văn lắm, thế mà không chịu nhận, vẫn tuyên bố là ba nói tiếng Anh không thua gì người ngoại quốc. Nhưng dù sao cũng phải cảm phục ba là người có chí và có óc cầu tiến, mặc dầu ba chỉ âm thầm hoạt động trong bóng tối! Mấy đứa lớn chúng tôi đã bàn nhau một đêm nào đó bò vào phòng làm việc của ba để “bắt tại trận” ba đang học sinh ngữ hầu trêu ba chơi, nhưng rồi đứa nào cũng sợ bị đòn nên không dám thực hiện.

Ngoài khả năng “khiêm nhượng” về môn Anh văn của ba, chúng tôi khởi sự nghi ngờ ba về các khía cạnh khác. Câu chuyện dưới đây cho thấy ngôi vị của ba đã bắt đầu lung lay. Một hôm ba thông báo cho chúng tôi một tin, theo ba, rất quan trọng:

- Ngày mai ba sẽ xây một cái bồn nước cho lũ chim bồ câu của nhà mình để chúng có chỗ… giải khát và… tắm rửa! Ai muốn xem cách ba xây để học hỏi thì tan trường xong phải về thẳng nhà mới kịp, về trễ sẽ mất một dịp may hiếm có và dĩ nhiên phải chịu lấy trách nhiệm vì ba sẽ không bao giờ làm lại những gì đã được thực hiện hoàn hảo.

Thật ra ba đã bỏ việc xây cất từ khi trở thành Phó Giám Đốc cơ xưởng để chuyên khảo cứu các cách tổ chức khoa học và phương pháp phân tích động tác. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tin tưởng một cách đặc biệt vào tài của ba vì xây cất là “nghề của chàng” mà, hơn nữa cách đây một năm ba đã cho xuất bản một tác phẩm viết về “nghệ thuật bê tông cốt sắt”.

Đúng giờ hạn định, trước sự chứng kiến đông đủ của đàn con, ba bắt đầu… biểu diễn. Trước hết ba đóng một cái khuôn bằng gỗ, rồi trộn xi măng với cát, rồi đổ vào khuôn đó. Ba nhìn chúng tôi với sự tự đắc rồi nói một cách thành thạo:

- Giai đoạn một đã xong, chúng ta phải để một thời gian cho nó khô, sau đó mới bỏ khuôn đi rồi xây tiếp theo trên một cái bệ. Thế là gia đình ta sẽ hãnh diện có một cái bồn đựng nước tuyệt vời cho chim. Bây giờ xin mời… quí vị giải tán có trật tự. Ba ngày nữa cũng vào giờ phút này, quí vị trở lại để… chiêm ngưỡng tác phẩm trứ danh của… ba.

Ba ngày sau, vừa mới ở sở làm về, thay vội quần áo, ba thổi còi tụ tập chúng tôi lại rồi bắt xếp hàng dẫn ra sân. Ba nói:

- Các con biết không, trong mấy ngày nay không lúc nào ba không nghĩ tới cái bồn nước. Chắc chắn bây giờ thì nó đã khô và rắn chắc lại rồi.

Chúng tôi bao quanh ba, háo hức xem công trình của ba. Anh Hoài lên tiếng hỏi ba:

- Thưa ba, liệu lũ chim có biết để đến uống nước và … tắm rửa như ba nói không ba?

- Có chứ! Không những lũ chim nhà mình mà tất cả chim của dãy phố này cũng sẽ tới. Ba dám cá rằng chỉ một tuần lễ sau thôi lũ chim sẽ nối đuôi nhau, đánh nhau không chừng mà vào bồn nước này.

Ba cúi xuống cái khuôn gỗ. Chúng tôi xúm lại.

- Các con lùi ra xa thì mới thấy rõ được kỳ công của ba!

Ai cũng như nín thở chờ đợi.

Nhưng khi ba vừa lấy khuôn ra thì một đống bụi và vụn hồ rơi lả tả sưới chân.

Ba hoàn toàn im lặng và kinh ngạc.

Chúng tôi hiểu ba đã thất bại nhưng không ai dám nói câu nào. Bỗng ba quay phắt lại, nhìn chằm chằm Huỳnh Sún:

- Huỳnh Sún, có phải con…?

- Có phải gì ba?

- Con đã động tới cái bồn nước này phải không?

- Dạ… dạ… không, con xin thề…

Ba lại cúi xuống, lượm một ít vữa vừa rơi ra, và miết đi miết lại ở đầu ngón tay, lẩm bẩm:

- Nhiều cát quá!

Rồi ba quay nhìn Huỳnh Sún:

- Lỗi tại ba, bởi vì ba cho nhiều cát quá!

Sau đó ba nói lớn với chúng tôi:

- Thế là hỏng cả một công trình! Các con thấy có lạ không, ba đã từng xây những cao ốc chọc trời, dựng những cây cầu dài hơn cây số, làm những xa lộ rộng thênh thang…

- Thưa ba, thế xây một cái bồn nước cho chim có khó hơn xây một cái “bin-đinh”?

Ba không để ý tới câu hỏi của em Mộng, nhưng bộ mặt có vẻ giận dữ. Bỗng ba đá tung đống hồ vụn rồi đi thẳng vào nhà, miệng lẩm bẩm:

- Nhiều cát quá!

CHƯƠNG 4

M

ẹ tôi quan niệm ở mỗi đứa con là một cá tính, do đó tùy theo khả năng từng người mà hướng dẫn bằng những đường lối khác nhau hầu có thể chọn sự nghiệp sau này trong cuộc sống. Ngược lại ba cho rằng mười hai đứa con chỉ là một tập thể đồng nhất nên chỉ cần giáo dục theo một khuôn mẫu duy nhất; theo ba, điều gì tốt cho chị Thuần thì cũng đương nhiên tốt cho em Huyền, cho anh Hoài, cho Cu Bi…

Học nhẩy lớp là một phần nằm trong kế hoạch của ba. Đây, lý luận của ba:

- Hỏi rằng có thật sự cần thiết hay không khi bắt lũ con mình phải học chậm lại theo như chương trình giáo dục hiện tại, một thứ chương trình được hoạch định cho những học sinh của các bậc cha mẹ bình thường?

Cũng vì vậy thỉnh thoảng ba lại bất ngờ ghé vào trường chúng tôi để xem khi nào chúng tôi có thể nhẩy lớp. Ba bảo với phương pháp dạy dỗ độc đáo của ba, chẳng hạn cách học sinh ngữ bằng máy, cách học toán, học sử địa… theo khoa kiến trúc do ba sáng tác ra thì ắt các con của ba lúc nào cũng có đủ điều kiện để nhẩy lớp!

Để khuyến khích chúng tôi ba treo giải thưởng một chiếc Honda dam 50 Cc cho ai học nhẩy lớp!

Với ba thì vậy, còn thực ra với chúng tôi, tuy cũng mê xế Honda thiệt nhưng không đứa nào khoái cái mục học nhẩy, dù rằng hầu hết chúng tôi được coi là những học sinh xuất sắc trong lớp, bởi vì cứ tưởng tượng phải bỏ các bạn cũ để làm quen với các người mới, không khí mới và phải dài lưng ra mà học đuổi cho bắt kịp chương trình lớp cao hơn đó, đứa nào cũng thấy ngại ngùng kinh khủng.

Mẹ không đồng ý với đường lối của ba vì cho rằng học như vậy sẽ mất căn bản và có thể tạo cho lũ con những quan niệm lệch lạc về giáo dục, về xã hội, về cuộc sống. Tuy nhiên mẹ lại không phản đối, có lẽ mẹ nghĩ rằng với số tuổi ngoài năm mươi ba muốn vội vàng thấy các con chóng thành tài trước khi ba nhắm mắt nên chi bằng thông cảm cho ba vui lòng.

Trong chúng tôi, ai được điểm lớn, xếp hạng cao trong lớp đều được khen ngợi và trọng thưởng.

Mỗi lần đứa nào đem về bảng danh dự, ba mừng ra mặt và thường la lên:

- Đúng là hổ phụ sanh hổ tử! Các cụ dạy cha nào con nấy quả không sai! Hồi nhỏ cũng vậy, ba luôn luôn được chọn là học sinh xuất sắc và hay đại diện trường đi so tài với các trường khác trong các cuộc thi đố vui để học. Dĩ nhiên phần thưởng danh dự đều về tay… ba! Chỉ thỉnh thoảng để tỏ tình giao hữu và tỏ tinh thần… võ sĩ đạo, ba mới giả vờ thua mà thôi, còn tất cả những lần ra quân, ba đều “hết xẩy”!

Nói xong ba cười vang nhà. Cho đến bây giờ, ngồi viết lại câu chuyện trên tôi vẫn thắc mắc không hiểu ba tuyên bố như trên do sự thật đáng tự phụ hay là để khích lệ lũ con trong công việc học hành?

Ngược lại với trường hợp được bảng danh dự, đứa nào chẳng may bị thụt hạng hay bài làm, bài đọc được… “mang mắt kiếng” thì lập tức ngay ngày hôm đó phải rửa bát, quét nhà, nhặt cỏ, giặt quần áo dưới sự giám sát nghiêm ngặt của các anh chị lớn và của ba, của mẹ. Tuy nhiên rất ít khi ba rầy “tội nhân”, trái lại cho rằng sở dĩ đứa đó bị điểm xấu là do sự nhận xét sai lầm của giáo sư. Ba nói với mẹ:

- Giáo sư đó chưa lành nghề! Con của mình đâu phải thứ bỏ đi mà hạ bút cho có ngần này điểm. Tôi dám cá với mình là lần sau giáo sư đó sẽ ăn năn hối hận mà tự sửa sai rồi sẽ phải cho điểm tối đa cho con mình!

Tôi còn nhớ lần thay đổi nơi cư trú lần thứ mười của gia đình tôi – chúng tôi phải đổi trường học cho gần nhà – từ Phú Lâm trên Chợ Lớn về Sài gòn. Bẩy đứa con được ba chọn cho ngôi trường danh tiếng vào bậc nhất ở Thủ Đô. Sáng hôm đó, sau khi ăn mặc chỉnh tề, chúng tôi đã sẵn sàng lên đường theo ba đi ghi danh học. Ba dõng dạc huấn thị:

- Các con hãy hiên ngang như đi ra trận. Gia đình họ Đào lại sắp sửa ghi thêm một trang lịch sử trong ngôi trường này. Hãy chú ý, đây là một trong những cuộc thí nghiệm quan trọng trong cuộc đời của các con. Bây giờ thì hãy mở mắt to, banh tai ra để xem ba hành động.

Sau đó chúng tôi leo lên chiếc “díp bụi đời” – Ba mở máy cho xe chạy đồng thời có bao nhiêu còi ba cho kêu rầm trời, đúng điệu một đoàn quân ra trận!

Ngôi trường do ba chọn kiến trúc theo lối tân kỳ; các bức tường xây bằng gạch đỏ thẫm và không được trát áo bên ngoài. Phía mặt tiền có hai cổng ra vào; mỗi bên có một tấm bảng với dòng chữ kẻ lớn: “dành cho nam sinh” – “dành cho nữ sinh”. Ba chỉ cho chúng tôi:

- Đây là trường học của các con. Sao các con lại có dáng điệu một bầy súc vật bị đem đi làm thịt thế kia? Lại đây! Hãy cử động mạnh bạo và hiên ngang lên!

Chúng tôi vâng lời một cách miễn cưỡng.

Khi đám con trai theo ba bước vào thì các chị gái đứng khựng lại. Ba ngạc nhiên:

- Ủa, sao lại không đi?

- Thưa ba, lối dành cho nữ sinh ở phía bên kia cơ mà.

- Sao hủ lậu quá vậy? Chúng ta không thể nhắm mắt tuân theo luật lệ chậm tiến đó được. Phải bỏ đầu óc kỳ thị nam nữ mới hy vọng tiến bộ!

- Suỵt! Nói khẽ chứ ba, người ta nghe kìa!

- Rồi sao? Người ta đã nghe danh ba từ khuya rồi chứ có phải bây giờ mới được hân hạnh biết tới đâu. Thôi, tiến lên!

Thế là tất cả chúng tôi đều vào chung một cổng của nam sinh. Nhiều cặp mắt từ trong các lớp ngó chúng tôi qua các cửa sổ. Gặp bà hiệu trưởng, ba nghiêng mình chào, đồng thời điểm một nụ cười tươi như hoa trên cặp môi khá dầy:

- Xin chào bà hiệu trưởng. Đây là “đoàn quân tinh nhuệ” của giòng họ Đào. Tuy nhiên, xin bà an tâm vì lũ này chỉ mới một phần thôi, còn phân nửa lực lượng nữa đang ở nhà với mẹ chúng! Ô, thưa bà hiệu trưởng, sáng nay trời đẹp quá phải không ạ?

Bà hiệu trưởng mỉm cười:

- Vâng, tuyệt!

Bà hiệu trưởng đã khá già, đặc biệt cũng phương phi, phốp pháp, phục phịch như ba nhưng tròn trịa hơn. Giọng nói miền bắc của bà nghe êm tai chi lạ. Tuy nhiên, nhân dáng của bà có vẻ một nữ vô địch đô vật khiến chúng tôi, trừ ba, đều kinh hồn.

Ba lại nghiêng mình, tự giới thiệu:

- Thưa bà hiệu trưởng, tôi là Đào văn Gióng.

- Rất hân hạnh, tôi đã được nghe danh ông!

Hất đầu về phía chúng tôi, ba nói tiếp:

- Các cháu đây từ trước đến giờ đều được giáo dục bằng những phương pháp đặc biệt. Tôi có thể hãnh diện mà nói rằng chúng là tượng trưng của một mùa lúa tốt đẹp mà chúng tôi đã dầy công chăm sóc, tưới bón. Diện mạo của chúng, bà hiệu trưởng thấy không, đứa nào cũng bảnh bao, tóc đen, mắt sáng, mũi cao, khuôn mặt trái soan, môi thắm, nói tóm lại chúng giống… bố y hệt!

- Vâng, quả thực ông bà có phúc. Và tôi hôm nay cũng rất sung sướng được ông ghé thăm.

- Ghé thăm? Ủa, tôi đâu có ghé thăm! Tôi tới đây với mục đích để ghi danh học cho các cháu, xem chúng được xếp vào lớp nào, xem các giáo sư nào sẽ phụ trách chúng. Sáng nay, tôi không có gì phải vội vã, tôi đã sắp xếp tất cả công việc ở sở, để có thể… đối thoại với bà hiệu trưởng cả buổi!

Bà hiệu trưởng vẫn từ tốn; điều đó làm chúng tôi có cảm tình và mến phục bà ngay.

- Thưa ông, tôi sẽ giới thiệu ông với quí vị giáo sư hữu trách, còn việc xếp lớp cho các cháu, nhà trường sẽ căn cứ vào lứa tuổi của từng cháu một.

- Trời! Đã đành tùy thuộc vào tuổi của chúng, nhưng phải là tuổi của trí óc cơ – Huỳnh Sún, lại đây con! Con mấy tuổi? Tám phải không?

Huỳnh Sún gật đầu xác nhận. Ba quay lại với bà hiệu trưởng:

- Thường thường những đứa trẻ tám tuổi bà xếp vào lớp mấy?

- Lớp nhì.

- Thưa bà, tôi mong rằng thằng con này của tôi sẽ được học ở lớp đệ thất!

- Nếu quả thật cháu khá hơn những trẻ khác, tôi cho cháu lên lớp nhất vậy.

Ba giơ hai tay lên trời, phân bua:

- Đâu có được, thưa bà hiệu trưởng. Tôi xin phép được thất lễ với bà một chút. Bà có biết thủ đô của Kampuchia tên là gì không? Dân số Phi Châu bao nhiêu? Bà có biết hết các bài học trong English for today và cuốn Langue Française? Dĩ nhiên bà thông thuộc hết cả vì bà là hiệu trưởng, nhưng thằng Huỳnh Sún này cũng biết hết và thằng Cu Bi em nó cũng có thể trả lời vanh vách; tiếc rằng tôi lại để nó ở nhà vì giờ này nó đang bú sữa, và thưa bà hiệu trưởng, tôi…

- Thôi được, cho cháu học đệ thất!

Sau “nghi thức” ghi danh nhập học kiểu “cò kè bớt một thêm hai” của ba, chúng tôi tất cả đều được thâu nhận vào trường. Cũng từ ngày đó, thỉnh thoảng ba ghé thăm trường một cách bất ngờ, làm chúng tôi kinh hoàng, bởi vì mỗi lần đến ba đều vi phạm nội qui của nhà trường. Chẳng hạn ba đi vào bằng các cửa có đề chữ “lối ra” và lên cầu thang có kẻ chữ lớn “lối xuống”. Nếu như học sinh vi phạm như vậy thì ít nhất cũng bị “cồng si” hai tuần lễ và nếu còn tái phạm có thể bị đuổi luôn, thế mà ba vẫn phây phây!

Ngược lại với sự khó chịu của chúng tôi, các giáo sư lại tỏ ra hài lòng mỗi khi ba xuất hiện. Các thầy, cô cho rằng gia đình và học đường cần liên lạc mật thiết với nhau thì việc giáo dục mới có kết quả mỹ mãn. Chẳng thế mà lần nào ba tới, bà hiệu trưởng cũng cố gắng lê “tấm thân cổ thụ” đi bên cạnh ba. Cả hai đối tượng đều “nhiều mỡ, thiếu thịt” và phục phà phục phịch như nhau khiến cho mấy nhỏ bạn trong lớp đã có lần khúc khích cười nói rằng “thật xứng đôi vừa lứa”.

Ở trường chúng tôi có điều lệ này rất nghiêm khắc là các buổi sáng thứ hai, học sinh nào đi trễ thì không được vào khi đang chào cờ. Kỷ luật này rất được bà giám thị tên Phún thi hành triệt để. Đã có nhiều đứa bị bà tát tai đến nẩy đom đóm mắt khi bị bắt quả tang chạy vào giữa lúc đang thượng kỳ. Bà giám thị Phún dữ lắm, học sinh ai cũng sợ. Và dường như bà càng dữ tợn hơn kể từ khi trong giới học trò xuất hiện câu: “bé không học lớn làm… giám thị”! Tuy nhiên với ba tôi, bà Phún trở nên hiền lành như một con chiên. Nhiều lần ba phom phom đi vào đúng lúc quốc kỳ đang được kéo lên. Ai cũng thấy rõ ràng bà giám thị khẽ nghiêng đầu, nở một nụ cười rạng rỡ trong khi ba cũng đúng nghiêm chỉnh chào cờ, mở to miệng hát – “Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống” – giọng ba thật vang, thật lớn, át cả trên một ngàn tiếng ca của học sinh. Sở dĩ ba thân thiện với bà giám thị Phún là do lần gặp gỡ đầu tiên ba tỏ ra rất “ga lăng”, rất “chịu chơi”. Tôi còn nhớ rõ sáng hôm đó, sau khi chào cờ, học sinh xếp hàng vào lớp. Vì là trường “có đạo” nên trước mỗi giờ học chúng tôi đều đọc kinh. Lớp chúng tôi giáo sư đến trễ nên “được” bà giám thị đến thay thế trong ít phút đầu. Bà Phún vừa cất giọng: “Lạy Chúa xin giúp chúng con chăm chỉ học hành, rèn luyện tư cách… “ thì ba ở đâu lù lù hiện đến nơi cửa ra vào. Rất tự nhiên, coi thiên hạ như “nơ pa”, ba cất giọng gọi:

- Thưa bà!

Tiếng đọc kinh im bặt, các mái đầu đang cúi xuống nghiêm trang ngẩng cả lên. Bà giám thị ngơ ngác. Ba vẫn tỉnh bơ:

- Xin chào bà!

- Chào… ông. Thưa, ông muốn hỏi chi ạ?

Ba bước hẳn vào trong lớp, tươi cười:

- Tôi xin lỗi đã làm phiền bà – rồi quay lại phía học sinh, ba nói tiếp – xin lỗi cả các em nữa nhé, tại sáng nay tôi phải đi gấp nên… làm gián đoạn công việc của các em. À quên, tôi xin tự giới thiệu, tôi là cha của Đào thị Thanh Huyền, nó ở hàng giữa kìa – rồi ba cao giọng – Huyền, ba đây nè! Ủa, tại sao con lại giấu mặt sau chồng sách thế kia?

Cả lớp cười vang trong khi chị Huyền đỏ chín mặt. Có lẽ vì vui tính và vì thích tuổi trẻ, ba cũng cười theo. Trước sự kiện quá đột ngột, bà giám thị há hốc miệng không hiểu gì cả; mãi đến khi tiếng cười dứt, bà lập lại câu hỏi:

- Thưa ông muốn chi ạ?

- À, thưa bà tôi tới để xin bà cho biết cháu Huyền học có khá không, lên hay xuống hạng trong tháng này? Liệu cháu Huyền có cần học thêm ở nhà nữa không?

- Tôi không phụ trách giảng dạy, nhưng cũng được các giáo sư cho biết Huyền học rất khá.

- Vâng, quả đúng như vậy, cháu nó giống… tôi đấy!

Bà giám thị mỉm cười trong khi ba xoa hai tay vào nhau khoái chí, hỏi vồn vã:

Thế thưa bà, liệu chừng nào cháu Huyền có thể… nhẩy lớp?

- Cái đó thì tôi không được rõ, xin ông tiếp xúc với văn phòng giám học.

- Vâng, cám ơn bà.

Tưởng rằng nói xong câu đó ba ra khỏi lớp, ai ngờ ba lại chuyển sang câu chuyện khác:

- Bà biết tôi có bao nhiêu đứa học trường này không?

- Dạ thưa bao nhiêu?

- Chắc bà mới đổi về đây?

- Đúng như vậy, tôi mới về gần được hai tuần lễ.

- Hèn chi bà không biết. Tôi có sáu cháu lận!

Bà giám thị mở tròn mắt:

- Sáu? Sáu cô con gái?

- Phải, sáu!

- Trời, một gia đình có đến sáu đứa con gái!

- Thưa bà, chưa hết đâu, tôi còn sáu thằng con trai khác nữa, vị chi là mười hai đứa, vừa đúng một tá!

Bà giám thị không kêu trời nữa, nhưng có vẻ kinh hoàng, miệng lẩm bẩm:

- Mười hai đứa trong thời buổi này! Tôi có bốn đứa mà cũng điên đầu rồi… huống chi… 12 đứa!

Thế là câu chuyện ròn tan về vấn đề con cái giữa ba tôi và bà giám thị. Hai người có vẻ tương đắc lắm, đến nỗi như quên hẳn lũ học trò đang thích thú chứng kiến một hoạt cảnh chưa từng bao giờ diễn ra trong lớp học. Mãi đến mười lăm phút sau ba mới xin phép bà giám thị đi sang các lớp khác. Trước khi rời bước, ba lịch sự hỏi:

- Xin lỗi bà, làm ơn cho biết quí danh để lần sau tiện xưng hô.

- Tôi tên là Phún, Trần thị Phún.

Chả hiểu ba nghe thế nào mà lập lại sai tên bà giám thị khiến cả lớp được một dịp cười như nắc nẻ:

- Trần thị Tún? Ồ, tên đẹp quá!

- Thưa không phải, là Phún ạ.

- À, Phún, thế mà tôi lại nghe là Tún, xin lỗi bà nhé!

Ba đi rồi, bà giám thị lại nghiêm nét mặt, mắng học sinh là vô lễ đã cười lớn tiếng khi có khách lạ.

Đến trưa về nhà, trong bữa cơm khi thuật lại câu chuyện hồi sáng, ba tỏ ra ân hận đã nghe lầm tên bà giám thị. Thế là ngay chiều hôm đó, ba gửi đến bà giám thị Phún một bó hoa hồng bạch như để tạ lỗi một lần nữa. Và cũng kể từ đó ba và bà giám thị trở nên đôi bạn thân, có vẻ tri kỷ lắm.

Riêng lũ con của ba, chúng tôi vẫn chọc là “ba có số đào hoa”.

CHƯƠNG 5

C

uối niên khóa, chị Thuần đậu tú tài toàn phần, chấm dứt bậc trung học. Ba và mẹ rất hãnh diện và cho rằng “thế hệ con gái” của dòng họ Đào đã có nhiều triển vọng đi lên. Tuy nhiên, khi mà thân xác của chị em chúng tôi “lớn mau như thổi” và tâm trí chúng tôi đã thực sự lần lượt đi vào “tuổi mới lớn” thì tất nhiên rất nhiều vấn đề được đặt ra. Bây giờ ba và mẹ bắt đầu chạm trán với những “biến thể” trong “nội dung” cũng như ngoài “hình thức” của lũ con. Và nhiều lần ba và mẹ đã phải điên đầu than rằng: “Không hiểu ai dạy chúng mà đương yên đương lành dở chứng như ngựa bất kham? Cái thời văn minh này làm đảo lộn hết tôn ti trật tự!”

Đúng như vậy, vào thời buổi mà con gái thì cắt tóc cụt lủn, con trai để tóc dài lượt thượt thì quả thực các bậc phụ huynh thường xuyên phải vò đầu, bứt tai mà “chào thua” bọn trẻ!

Câu chuyện tôi thuật dưới đây (mà tôi tin chắc rằng cũng đã xẩy ra trong hầu hết các gia đình có một hai đứa con ở vào lứa tuổi không còn là con nít nhưng cũng chưa thành người lớn, loại dở dở ương ương) minh chứng cho định luật tự nhiên nói trên:

Ba tôi không ngừng thắc mắc:

- Thật không còn ra cái “thống chế” gì nữa! Con trai con gái thời nay đều điên hết cả rồi. Không hiểu tụi con trai chúng nó nghĩ thế nào mà tóc tai để dài như… người tiền sử, áo mặc chẳng chịu cài nút, quần thì đem vá hai ba miếng to tổ bố ở đầu gối, ở mông! Còn tụi con gái, thật dại dột khi đi diễu phố với hai cái cẳng phơi ra, với chiếc “díp” chỉ nhỉnh hơn chiếc khăn sỉ mũi!

Một hôm, có cả mẹ và mấy chị lớn cùng ngồi trong phòng khách, nghe ba than như vậy, chị Thuần lợi dụng cơ hội, “khai pháo” cho cuộc “bùng nổ” giữa quan niệm của hai thế hệ già – trẻ:

- Thời nay ai cũng ăn bận như vậy mà ba, chỉ trừ có… các con của ba mẹ thôi… Ba biết không, ở trường học con và Huyền là những “hiện tượng kỳ quái” trước bao cặp mắt của bạn bè. Chúng nó bảo tụi con là làm… mất giá của nữ sinh; nếu bọn con trai chỉ thấy mình chị em con có lẽ họ tưởng đang sống vào… thế kỷ thứ tư trước tây lịch ở mãi tận bên Congo!

Ba mỉa mai:

- Tại sao cứ phải lệ thuộc vào kẻ khác mới sống được? Tụi con trai là cái thá gì mà phải quan tâm đến chúng dữ vậy? Nhìn cặp mắt “bất hảo” của tụi nó là ba thừa biết chúng nghĩ gì và muốn gì rồi. Điều mà chúng con gọi là “hợp thời trang”, “đúng mốt”… chỉ là những danh từ mới để chỉ những vật đã có từ xưa rồi! Cứ nhìn những bức hình, bức tượng của lịch sử La Mã, Hy Lạp thì biết, đàn ông đều để tóc dài… thế mà ngày nay, thế kỷ 20 con trai… mới đuổi kịp! Thử so sánh giữa các vũ điệu tế thần của mọi Phi châu thời thượng cổ với cái mà hiện tại gọi là kích động nhạc hay các kiểu nhảy Twist, Soul gì đó, xem có cái gì khác không? Giới trẻ tự mệnh danh là tân tiến thật ra, tự đi giật lùi mà không biết. Tội nghiệp! Riêng các con, ba muốn rằng hàng ngày đi học, các con vẫn ăn mặc như những cô gái con nhà đàng hoàng, lễ giáo.

Chị Huyền mở tròn mắt:

- Sao ba?

- Áo dài trắng, tóc dài và không son phấn!

Biết không lay chuyển được ba, hai chị lớn quay sang năn nỉ mẹ với hy vọng sẽ được mẹ chiều, mẹ hiểu tâm lý con gái lớn hơn. Nhưng như một gáo nước lạnh tạt vào mặt, mẹ đồng ý với quan niệm của ba. Mẹ nói:

- Thông thường, khi người ta chọn vợ, ai cũng muốn chọn các cô gái nết na, nhu mì, ăn mặc kín đáo. Còn các cô lòe loẹt, chưng diện, tuy ra đường thu hút được nhiều cặp mắt nhìn thật nhưng chắc chắn rất ít được kính trọng.

Chị Thuần có vẻ hơi giận dỗi:

- Mẹ an tâm, không ai khinh được chúng con. Trong lớp, con là đứa được các bạn nể nhất. Ra khỏi trường, có thằng con trai nào dám hỗn với con đâu. Tuy nhiên như vậy, theo con nghĩ, chúng con bị tách biệt khỏi tập thể, trở thành xa lạ giữa đám đông. Đó không phải là điều đáng hãnh diện khi sống trong xã hội. Con xin phép được hỏi ba mẹ rằng ba mẹ có muốn chúng con trở nên bình dân không?

Ba phá lên cười:

- Bình dân! Bình dân! Một từ ngữ hay đấy chứ! Biết bao cô gái vì muốn được “bình dân” mà phải bán cả hồn lẫn xác! Nếu không nghe lời cha mẹ, các con sẽ hư thân mất nết, tương lai không ra gì cho mà xem.

Chị Huyền dịu giọng hơn:

- Con xin ba với mẹ thực tế một chút cho chúng con đỡ khổ. Ba mẹ đâu biết rằng khi đi học với những bộ đồ may theo lối cổ, chúng con bị mặc cảm như thế nào không? Thật khó có thể đi đứng hay trò chuyện với bạn bè. Điều chúng con muốn xin với ba mẹ là thỉnh thoảng cho chúng con… mặc đầm, may cho chúng con những chiếc áo dài kiểu Raglan hoặc xẻ vạt đằng trước hay ngắn… trên đầu gối và cho phép chúng con được… cắt ngắn bộ tóc dài thượt này đi.

Ba đập tay xuống bàn:

- Không! Không! Và không! Các con còn cứng đầu, niên học tới ba sẽ gửi hết vào nội trú. Nghe rõ chưa?

Im lặng. “Nội trú”, đó là một trong những biện pháp ba thường đem ra đe dọa mỗi khi con cái muốn “cách mạng” điều gì. Tuy nhiên, không ai tin rằng ba không dám thực hiện. Tính cương quyết của ba đã từng làm nhiều người nể sợ. Bằng chứng là ba đã đi gặp các bà “sơ” và xin tờ chương trình, tờ nội qui về và nhiều lần đã bàn thảo to nhỏ với mẹ.

Thực ra chúng tôi cũng ngán vào nội trú lắm. Tưởng tượng với những luật lệ khắt khe, những kỷ luật “kiểu nhà binh”, hàng ngày phải giam mình trong bốn bức tường cao vời vợi như trong tu viện, chúng tôi không đứa nào còn ham yêu sách gì cha mẹ. Tuy nhiên lần này, chị Thuần, có lẽ vì tự ái, có lẽ vì tưởng tượng mình là chị cả, có trách nhiệm đến tương lai của lũ em, nên quyết chí đi tới mục tiêu đòi hỏi.

Sau khi ba và mẹ vào nhà trong, chị Thuần nói với chị Huyền:

- Được rồi, tao sẽ vào nội trú cho mày xem, biết đâu trong đó được tự do hơn. Nhưng trước khi đi, tao phải làm một cái gì đã.

Chị Huyền bao giờ cũng hiền lành hơn, vội can ngăn:

- Thôi chị Thuần ạ, em nghĩ cha mẹ chẳng bao giờ hiểu được con cái, nhưng dù sao chị em mình cũng không nên làm điều gì để ba mẹ buồn; biết đâu có ngày ba mẹ sẽ thông cảm với chúng mình.

- Họa có đến tận thế! Mày để mặc tao.

Nói xong chị Thuần biến mất trong phòng, không ai có thể đoán trước được chị sẽ làm gì. Một lúc sau, chị trở ra. Chúng tôi không dám tin đó là sự thật; chị Huyền ôm mặt kinh ngạc:

- Trời ơi!

Với nét mặt tỉnh bơ, tay cầm cái kéo, tay cầm một mớ tóc, chị Thuần quay tròn người để… khoe bộ tóc ngắn mà chị vừa cắt đi:

- Thấy tao sao, Huyền? Được chứ?

- Chị làm gì kỳ quá vậy?

- Sao mà kỳ?

- Ba mà biết thì chị chết!

- Trước sau gì cũng chết chẳng thà tự mình chọn cái chết có sướng hơn không?

- Thì chị cũng phải từ từ chứ. Chẳng có cha mẹ nào mà không thương con, muốn con bằng người, do đó nếu chúng mình cứ kiên nhẫn xin thế nào ba và mẹ cũng xiêu lòng. Chị làm như vậy hư hết cả “chương trình”.

- Bây giờ mày lại dạy khôn tao hả Huyền?

- Không phải, nhưng em nghĩ mình không nên để ba mẹ buồn. Chị coi, cái đầu của chị không khác gì một bồn cỏ bị cắt nham nhở, như vậy được ích gì đâu.

Giọng chị Thuần buồn buồn:

- Tao tưởng mày là… đồng minh trung thành với tao, không ngờ mày lại… lại…

- Thì em vẫn giữ “lập trường. Em khoái tóc ngắn còn hơn chị cả ngàn lần, nhưng phải hành động cho hợp cảnh hợp tình… thì chiến thắng mới vẻ vang chứ.

Cơn bốc đồng cơ hồ đã xẹp xuống – như quả bóng bị xì hơi – chị Thuần lấy tay vuốt vuốt những sợi tóc ngắn đứng dựng như vỏ quả chôm chôm, nói bằng một giọng hối hận:

- Thế… làm sao bây giờ?

- Em đâu biết!

- Giúp ý kiến tao đi Huyền.

- Em nghĩ chị nên xin tiền mẹ ra tiệm sửa lại mái tóc cho tử tế.

- Mẹ chửi chết!

- Ai bảo chị dại làm chi!

- Mày còn bày đặt “lên lớp” tao nữa!

- Hay tốt hơn là chị vào xin lỗi ba mẹ, sau đó…

- Như vậy càng chết sớm!

- Bộ chị giấu cái đầu chị được mãi sao? Trước sau gì cũng bị, chẳng thà chị xin lỗi trước biết đâu ba đỡ giận, chỉ… đi “một đường” sơ sơ thôi!

Tiếng nói chuyện chợt ngừng lại. Mẹ đã xuất hiện nơi cửa. Chị Thuần tái xanh mặt; vẻ bướng bỉnh và hăng hái lúc đầu đã tan biến, bây giờ là sợ sệt và lo lắng.

Vừa nhìn thấy mái tóc ngắn quái gở của chị Thuần, mẹ đứng khựng lại, đưa tay bụm miệng như để khỏi thốt lên tiếng kinh ngạc: Trời ơi! Trong khi đó chị Thuần cũng đứng trồng chân giữa nhà, không biết phản ứng ra sao.

Một lúc sau mẹ lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế bành, giấu mặt trong hai bàn tay. Nhìn đôi vai khẽ rung của mẹ, chúng tôi biết mẹ đang khóc. Hối hận vì tội lỗi của mình, chị Thuần chạy lại, quỳ dưới chân mẹ, khóc theo và xin lỗi. Có lẽ cũng xúc động và nhất là vì tâm hồn đa cảm, chị Huyền ngồi trong góc phòng, cũng chảy nước mắt. Thế là trong căn phòng vang lên những tiếng thút thít, nức nở. Mấy chị em tôi, nhất là các em gái, ở ngoài sân chợt chạy vào, thấy mẹ và hai chị lớn đang khóc, chẳng hiểu ất giáp gì, cũng òa theo, Trong lúc ba đang ngồi kết toán mấy cuốn chi phiếu ở trong phòng làm việc bỗng giật nẩy mình vì những tiếng bù lu bù loa vọng đến; tưởng có biến loạn hay có chuyện bi thảm gì xảy ra, ba quăng bút lao tấm thân 91 ký lô tới. Cảnh tượng lạ lùng diễn ra trước mắt khiến ba kinh ngạc như vừa bị đẩy từ trên cung trăng xuống trần gian. Tuy nhiên chỉ ít phút sau ba choàng tỉnh, ý thức lại được vai trò gia trưởng của mình, ba hét:

- Xì tốp!

Như một phép lạ, bao nhiêu cái miệng đang mở ra nghẹn ngào đồng một loạt đóng lại và bao nhiêu con mắt đang đẫm lệ bỗng mở thao láo. Không còn một tiếng khóc! Không một tiếng nức nở! Căn phòng trở lại thinh lặng gần như tuyệt đối đến nỗi người này có thể nghe rõ tiếng tim đập và tiếng thở khò khè của người đứng cách xa mình cả năm sáu thước!

Thấy mệnh lệnh của mình được thi hành một cách triệt để, ba tỏ ra bằng lòng lắm, nhưng bên ngoài vẫn cố giữ vẻ trịnh trọng cho hợp với bầu không khí nghẹt thở như trong một đoạn phim trinh thám đến chỗ gay cấn toát mồ hôi lạnh. Ba dõng dạc cất tiếng nói sang sảng:

- Cớ làm sao mà mọi người lại rủ nhau khóc như nhà có đám táng không bằng?

Im lặng. Không một ai dám lên tiếng hó hé. Ba đập tay xuống bàn đến rầm làm những người hiện diện muốn rụng tim, đoạn hét lên như một vị quan tòa hỏi tội phạm nhân:

- Làm sao? Chắc hết trò chơi rồi mới sáng chế ra cách giải trí bằng nước mắt cho… vui cửa vui nhà?

Vẫn im lặng. Ba xoay người một vòng rồi chỉ vào em Mộng:

- Tại sao con khóc?

Mộng mếu máo:

- Thưa ba… con… không biết!

- Trời ơi! Không biết tại sao mình khóc nữa! Thế còn Thảo, Huỳnh Sún, Quyên, Hải… cho ba biết lý do đi?

Các bộ mặt còn ướt nước mắt len lén nhìn nhau, rồi nhìn ba, rồi “đồng ca”:

- Con… không… biết!

Ba ôm đầu giẫy nẩy:

- Các con tôi làm sao thế này? Tất cả chúng nó đều mất trí hết rồi! Biết thế trước đây tôi đi… tu có phải hay hơn không?

Thấy tình thế căng thẳng, mẹ từ từ đứng lên, tiến đến cạnh ba, nói rất nhỏ nhẹ:

- Mình ạ, sở dĩ các con khóc, là vì chúng thương mẹ chúng, và chúng thương lẫn nhau…

Ba nhìn chằm chằm vào mắt mẹ:

- Mình… khóc… nữa à? Ai… trêu mình?

Mẹ gật đầu:

- Tại… tôi thương các con còn nhỏ dại… chưa ý thức được các việc phải quấy…

Nói được có bằng ấy câu, quá xúc động, mẹ lại òa khóc. Thấy mẹ khóc, tức thì các đứa con cũng “phụ họa” theo trước sự kinh ngạc của ba. Vội vàng, ba giơ tay như vị nhạc trưởng ra dấu cho dàn nhạc nhẹ dần để đi tới chỗ kết thúc:

- Xì tốp! Đủ rồi!

Tiếng khóc ngừng bặt. Ba đặt tay lên vai mẹ:

- Đầu đuôi câu chuyện ra sao, mình kể rõ cho tôi nghe coi. Phải chính mình cầm đầu cuộc “nổi loạn” này không?

Giọng mẹ còn đầy nước mắt:

- Nhưng mình phải hứa sau khi nghe sẽ bỏ qua thì tôi mới nói.

Ba nhăn mặt:

- Ít ra thì cũng phải cho tôi biết trước chứ!

Trước thái độ xem ra có vẻ cương quyết của ba, mẹ liền giở “ngón nghề” mà mẹ đã từng áp dụng từ dạo ba và mẹ mới “phải lòng” nhau. Đó là phụng phịu:

- Hổng chịu! Mình phải hứa trước cơ!

Với các con và lũ trẻ nít hàng xóm, ba hùng dũng và cương quyết như một võ tướng nhưng với mẹ, ba lại nhũn như con chi chi, tỏ ra quân tử lắm:

- Thôi được, mình nói đi, tôi… hứa danh dự!

Mẹ vẫy chị Thuần:

- Ra… xin lỗi ba, đi con!

Chị Thuần đứng lên, ngập ngừng rồi sợ sệt lê bước. Bây giờ mới thấy đầu chị Thuần, ba đứng sững, há hốc miệng, thỉnh thoảng đưa tay dụi mắt vì có lẽ ba nghĩ thị giác mình đã kém vì tuổi già hoặc tưởng đang sống trong giấc mơ. Tiếng của mẹ lôi ba về thực tại:

- Mình tha lỗi cho Thuần; nó tuy lớn đầu nhưng còn dại lắm.

Sực nghĩ lại mình còn đang há miệng vì sửng sốt, ba vội đóng hai hàm răng lại, nghiêm giọng:

- Không thể tha được! Tội tầy trời! Thứ con… mất dạy!

Mẹ năn nỉ:

- Kìa mình, tại sao nói giọng đó với con cái? Mình đã hứa là… là… bỏ qua rồi mà!

- Nếu nó đã muốn tóc ngắn, tôi sẽ cho nó… trọc luôn!

- Xin mình, con nó lỡ dại!

Như đã nói ở trên, trước sự dịu dàng của mẹ, đang từ con sư tử ba biến thành chú chiên hiền lành. Nhất là kèm theo câu nói, mẹ cho… rơi vài giọt nước mắt thì kể như mọi chuyện đã xong xuôi! Bằng chứng bây giờ mặt ba không còn những nét giận dữ, giọng ba không còn gay gắt, trái lại, ba buông người xuống ghế, ủ rũ như một chiếc lá vừa lìa cành. Mẹ liền ra hiệu cho lũ con rút lui có trật tự rồi ngồi xuống cạnh ba, vuốt ve những sợi tóc đã ngả mầu muối tiêu trên chiếc đầu tròn của ba. Chả hiểu mẹ thủ thỉ với ba thế nào mà ngay chiều hôm đó, không riêng gì chị Thuần mà cả sáu chị em gái của tôi đều được mẹ dẫn đi tiệm cắt tóc!

Không đầy ba tiếng đồng hồ sau, trong nhà tôi nếu ai đứng đàng sau 12 đứa con nhà họ Đào, có lẽ không còn phân biệt đâu là con trai, đâu là con gái, bởi vì… 12 cái đầu đều được cắt ngắn giống nhau!

Tuy nhiên, cuộc sống không phải chỉ có mỗi chuyện cắt tóc ngắn mà còn vô số vấn đề khác nữa. Dĩ nhiên giữa con người dù là ruột thịt, không luôn luôn cái gì cũng đồng quan niệm, đồng ý nghĩ, trái lại thường “đụng nhau” bởi những mâu thuẫn, những ngộ nhận, những bất đồng. Ngay trong gia đình tôi, một gia đình nổi tiếng hạnh phúc, an vui, dẫy đầy tình thương thế mà đôi khi cũng có sóng gió. Đó là điều không lạ khi mà cha mẹ tôi phải khó khăn hơn nhiều trong việc dạy dỗ những đứa con đã bắt đầu làm người lớn.

Vậy thì chuyện ăn mặc, thời trang, giao du bạn bè… đều là những đề tài tranh luận giữa cha mẹ và con cái.

Tôi biết chị Huyền rất thích mặc đầm, vận mi-ni jupe bởi vì chị có một nước da thật trắng hồng, mịn màng, cặp giò thật “lý tưởng”, một thân hình cân đối. Đó là do sự khổ công tập luyện, giữ gìn, chăm sóc của chị. Tuy nhiên, mỗi lần chị ngỏ ý được “chưng diện theo thời trang” đều bị ba thẳng tay bác bỏ. Có lẽ học được “kinh nghiệm” của chị Thuần về việc cắt tóc ngắn, chị Huyền ngấm ngầm thực hiện “kế hoạch” của mình, chị nghĩ cứ đặt ba mẹ ở chuyện đã rồi là thành công và nếu cần cứ nhõng nhẽo với mẹ là chắc ăn; mẹ bao giờ cũng nhiều tình cảm lại hay chiều con gái lớn!

Chị dành dụm tiền quà sáng, thỉnh thoảng đi chợ mua được món hàng rẻ chị “có quyền” cất riêng số “tiền lẻ” đó… rồi tích tiểu thành đại, chị Huyền đã có đủ “ngân quỹ” để may một bộ đồ đầm đắt tiền và đúng “mốt”.

Với thái độ vừa hí hửng vừa lo lắng, chị Huyền len lén ôm túi “chiến lợi phẩm” về… khoe mẹ với hy vọng tìm được “đồng minh” hầu làm lung lạc ý chí sắt đá của ba. Mẹ không tỏ vẻ chống đối hay tán thành, chỉ dịu dàng bảo chị Huyền về phòng mặc những y phục đó cho mẹ xem. Chị Huyền cười toe toét, vừa đi vừa nhún nhẩy như một nữ ca sĩ… múa rối trên màn ảnh truyền hình. Chẳng những thế chị Huyền còn gọi chị Thuần, chị Mộng, em Quyên, em Thảo đến… chiêm ngưỡng dung nhan của chị trong bộ đồ mi-ni jupe. Chị đi qua đi lại, ưỡn ẹo trước gương. Vẻ thùy mị, hiền lành thường ngày của chị đã biến mất và bây giờ là sự nhí nhảnh, mãn nguyện và… trẻ con.

Mẹ không nói gì, bình thản nhìn. Chị Huyền hỏi mẹ thấy con mặc như vậy có được không, mẹ mới dịu dàng bảo:

- Con của mẹ… xinh lắm, nhưng…

- Nhưng sao hả mẹ?

- Theo mẹ, con cũng nên cho… ba con biết!

Câu nói của mẹ đưa chị về một thực tại… phũ phàng. Chị Phụng phịu:

- Thôi, con hổng chịu đâu!

- Mẹ nghĩ ba là gia trưởng thì việc gì xẩy ra trong gia đình cũng cần phải cho ba hay chứ.

- Nhưng đây là… tiền riêng của con mà.

- Có bao giờ ba đi làm về ba nói số tiền lương ba kiếm được là của riêng ba hay ba dùng để nuôi vợ con, trang trải cho cả gia đình?

- Nhưng… thế nào ba cũng không chịu cho con mặc như thế này đâu!

- Con chưa cho ba hay thì làm sao biết ba bằng lòng hay không?

- Con rõ tính ba rồi.

- Điều đó chưa hẳn đúng… hay con cứ thử xem.

- Trường hợp ba không chịu cho con mặc ở nhà, con sẽ đem gửi các bộ đồ này ở nhà mấy nhỏ bạn để mỗi lần đi đâu con ghé lại đó con mặc.

- Con nhớ… đề nghị với ba con như thế xem sao.

- Mẹ cũng nhớ nói vào dùm con nhé.

Mẹ làm thinh. Chị định về phòng thay bộ đồ cũ thì mẹ chặn lại:

- Cứ mặc chiếc mi-ni jupe con mới may đó.

- Kỳ quá, mẹ.

- Sao lại kỳ? Chính con nói con thích mặc “mốt” này mà.

- Nhưng… đến với ba…

- Mẹ nghĩ con cứ mặc như vậy để ba thấy rõ… “vấn đề”!

Một lúc sau ba được mời đến. Chị Huyền như một phạm nhân ra trước “ba tòa quan lớn”. Câu nói đầu tiên của ba là:

- Huyền, con ăn mặc gì mà quái gở như thế?

- Ba, đây là… kiểu áo thịnh hành hiện nay!

- Bộ tiệm may hết vải rồi hay con muốn… “kiệm ước” vải hay sao mà cắt ngắn thế kia?

Chị Huyền đỏ mặt ấp úng:

- Thưa ba, thời trang bây giờ thay đổi nhiều.

Ba hét lớn:

- Cởi ra ngay! Ngứa mắt ba lắm! Khôn hồn thì đem trả cho tiệm may!

- Nhưng…

- Không nhưng nhiếc gì hết. Tại sao con dại dột vậy Huyền? Hằng ngày đọc báo con không thấy biết bao vụ tồi bại xảy ra là do các cô gái ăn mặc hở hang hay sao?

- Tất cả các bạn trong lớp con mặc như thế này mà đâu có gì xảy ra.

- Ba không tin là tất cả nữ sinh trong lớp con lại có thể đeo thứ… “đồ quỉ” này! Chắc chắn còn có những bậc phụ huynh khôn ngoan như ba với mẹ con đây.

Thấy ba có vẻ cương quyết, chị Thuần “nhẩy vào vòng chiến” hỗ trợ cho chị Huyền:

- Thưa ba, phải nói trong trường có lẽ chỉ có con và Huyền là ăn mặc quê nhất, ngày nào cũng “áo dài khăn đóng” như những nhà tu!

Mẹ chen vào:

- Mẹ tưởng gì, theo mẹ, các con nên hãnh diện thì hơn. Chiếc áo dài bao giờ cũng kín đáo, tăng thêm vẻ đứng đắn nhưng vẫn tạo sự duyên dáng cho người con gái.

Được “tiếp viện”, ba “tấn công” mạnh:

- Ngoài chuyện có thể bị “xâm phạm” và để hở đùi, hở cẳng, các con rất dễ bị… sưng phổi vì cổ áo cắt quá thấp!

Chị Thuần nói như van lơn:

- Con xin ba mẹ thức thời một chút. Tại ba mẹ quá quan trọng hóa vấn đề. Con nghĩ một bộ đồ may… ngắn một chút đâu đến nỗi nào, hoặc bộ mặt đánh thêm chút phấn cũng không thể làm giảm giá trị của mình đi được.

Câu nói của chị Thuần vô tình mở thêm “mặt trận” thứ hai, đó là chuyện “đánh phấn tô son”!

Ba đập bàn:

- Không ăn mặc hở hang! Không trét phấn, nghe rõ chưa?

- Nhưng thời nay ai cũng vậy mà ba!

- Này, đừng lạm dụng danh từ! Tại sao không biết quí trọng vẻ đẹp tự nhiên mà đem vẽ hề lên mặt mình như vậy?

- Như vậy đâu phải… vẽ hề mà là trang điểm chứ ba!

- Trang điểm! Trang điểm! Thật chỉ phí thì giờ để ngồi thoa thoa, phết phết!

- Con nghĩ nhiều khi phép lịch sự bắt buộc mình phải đánh phấn hay xức một chút nước hoa.

- Quí hóa gì cái mùi thơm đó! Chỉ tổ đầu độc không khí trong lành của người ta đang thở. Thôi, ba không có thì giờ cãi lý với các con nữa. Huyền lên phòng bỏ bộ đồ “ma quỉ” đó ra, còn Thuần, ba cấm chỉ con không được đánh phấn khi nào con còn cắp sách đến trường. Đó là lệnh của ba, nghe rõ chưa?

Nước mắt lưng tròng, chị Huyền tiu nghỉu rút lui về phòng. Chị Thuần cũng chẳng dám hó hé gì thêm.

Lần này chẳng thấy mẹ thủ thỉ gì với ba. Có lẽ vì thế mà hai chị lớn của tôi đã… thất trận!

Mỗi lần các bà chị tôi yêu sách này nọ về vấn đề ăn diện, ba lại than: may mà gia đình mới có hai đứa con gái lớn, chứ nếu cả sáu đứa con gái đều lớn một lượt, lại thêm sáu thằng con trai nữa thì không hiểu trời đất có còn ra cái “thống chế” gì nữa không.

Ngoài chuyện thời trang, việc giao du với bạn bè cũng gây sôi nổi trong gia đình tôi. Bạn gái tới nhà chơi thì không nói làm gì – ba mẹ rất niềm nở đón tiếp và rộng lượng – tuy nhiên điều đáng nói ở đây chính là các… ông bạn của chị Thuần và Huyền. Dĩ nhiên lớn lên, ai lại không phải giao thiệp, quen biết và trong số bạn bè tất phải có người cùng giới lẫn khác phái. Trong thực tế ba với mẹ không hề ngăn cấm việc kết thân với người này, kẻ nọ nhưng thường xuyên khuyên bảo các chị lớn phải hết sức thận trọng, khôn ngoan và tránh đến mức tối đa chuyện hẹn hò ngoài đường phố hay những tiếp xúc lăng nhăng. Ba nói:

- Chúng ta có một mái nhà; nhà chúng ta lại có phòng khách lịch sự, ba nghĩ nếu bạn bè tới thăm nhau cứ đến ngồi thoải mái và tự nhiên trên bộ ghế sa-lông này mà trò chuyện chứ đừng đi diễu ngoài phố mà làm… cản trở lưu thông!

Một hôm chị Huyền đi học về thông báo cho cả nhà biết là thứ sáu tuần sau chị được một người bạn trai mời đi dự dạ hội mừng ngày sinh nhật của anh ta đồng thời ngỏ ý xin ba mẹ cho phép:

- Người bạn này là anh một nhỏ bạn cùng lớp với con, chưa lần nào tới nhà mình. Từ trước đến giờ con chưa từng đi chơi tối, hôm nay con xin ba mẹ chấp thuận cho con được… được…. lần đầu tiên trong cuộc đời.

Ba mỉm cười:

- Sống trong tập thể xã hội dĩ nhiên chúng ta không tránh khỏi những tiệc tùng, ăn uống… nhưng ba muốn biết anh chàng đó thế nào?

Chị Huyền nhanh nhẹn:

- Rô Can là người rất đứng đắn, ba ạ.

Ba nhíu mày:

- Con vừa nói “Dzô, Dzô”… gì đó?

Cả nhà cười. chị Huyền đỏ mặt:

- Rô Can! Biệt hiệu của anh ta. Thời nay hầu hết ai cũng có một tên riêng mà ba.

- À… rồi sao?

- Anh ta có tư tưởng… cấp tiến và thức thời lắm!

- … Thức thời! Không hiểu sao danh từ này làm ba sợ quá!

- An tâm đi ba. Rô Can là sinh viên, con một gia đình giầu sang có xe hơi riêng…

- Đó là những yếu tố quan trọng! Tuy nhiên, con có thể…

- Có thể gì ba?

- Đi dự dạ hội!

- Thật không ba?

- Thật! Nhưng nếu con có thể nghĩ rằng ba với mẹ không lo lắng gì khi để con ra khỏi nhà một mình, vào một đêm, với tên… thức thời đó thì con cứ đi.

- Ồ, ba! Ba lại làm hỏng chuyện của con! Người ta sẽ nghĩ gì về con?

Mẹ chen vào:

- Người ta sẽ nghĩ con là một người con gái biết suy nghĩ, được dạy dỗ bởi những cha mẹ biết thận trọng. Nếu con không tin, để mẹ gọi điện thoại nói chuyện với bà mẹ của Rô Can; mẹ dám chắc rằng bà ta sẽ đồng ý về chuyện cha mẹ có bổn phận gìn giữ con cái, nhất là con gái lớn.

- Ba mẹ không tin con cái của ba mẹ sao?

Ba trả lời:

- Có chứ! Ba biết con đã được giáo dục đàng hoàng. Ba hoàn toàn tin tưởng vào tất cả các con gái của ba. Nhưng chính tên “thức thời” đó làm ba lo âu.

Mẹ tiếp:

- Nếu con ngại từ chối thì hôm nào mời người ta tới nhà chơi, chính mẹ sẽ giải thích cho.

Chị Huyền làm thinh. Lũ em nhìn chị ái ngại, cảm thương vì lần nào chị ra quân cũng bại trận chứ không được may mắn như chị Thuần.

Bỗng ba cười nói:

- Ba có ý kiến thế này, nhờ câu nói vừa rồi của mẹ con: gia đình mình từ trước đến giờ vẫn tôn trọng tinh thần dân chủ; những gì quan trọng đều được đem ra bàn luận rồi lấy quyết định chung. Vậy Huyền có thể mời anh chàng Rô Can tới đây rồi cả nhà sẽ… bí mật và tế nhị quan sát, nếu quả thực hắn đứng đắn như Huyền đã nói thì ba mẹ sẽ bằng lòng để Huyền đi chơi với hắn. Mọi người đồng ý không?

Lũ con trai nhóc con vỗ tay tán thành. Chị Huyền vẫn quan niệm hai người thì còn là đồng chí, ba người trở lên thì đã trở thành một đám đông, thế mà không ngờ chị lại vui vẻ chấp thuận đề nghị của ba:

- Vâng, chiều mốt con mời anh lại chơi.

Thế là sau đó chị Huyền vận động ngầm lũ em ủng hộ mình. Chị hứa hẹn đủ điều, nào sẽ đãi mỗi người một chầu bò bía, chầu cà rem và đi xi-nê. Để bảo đảm cho lời hứa của mình, chị còn phát trước cho mỗi nhóc tì hai chục bạc. Đặc biệt chị Huyền được sự hỗ trợ đắc lực của chị Thuần. Lấy tính cách là đầu đàn, chị Thuần “truyền lệnh” cho đàn em phải… bỏ phiếu thuận cho Huyền. Một phần được “hối lộ ăn uống”, một phần sợ oai chị cả, đứa em nào cũng cam kết trung thành với… lý tưởng.

Ba và mẹ không hay biết gì về âm mưu trên.

Ngày chờ đợi đã đến. Mọi người đã được chỉ định “cố thủ” ở vị trí của mình: ba và mẹ đứng sau ri-đô; chị Thuần chỉ huy nhóm kẹp tóc nấp ở các cửa sổ; dân húi cua, đứa nằm dưới đi-văng, đứa trong gầm giường, thằng chui vào tủ áo…

Đúng giờ định, chàng “thức thời” lái chiếc xe hơi hiệu thể thao đến. Anh ta bóp còi inh ỏi, suốt từ đầu ngõ vào tới tận trước cổng nhà. Sự ồn ào đó đã lôi kéo biết bao con mắt hiếu kỳ của bà con lối xóm, làm lũ chó được dịp đua nhau sủa vang trời, khiến một số trẻ sơ sinh khóc ré lên…

Chưa hết, sau khi lái một đường lả lướt, chàng “thức thời” cho xe đậu giữa sân rồi lại nhận còi liên hồi cho đến khi chị Huyền xuất hiện trên thềm nhà:

- Ô, Rô Can! Mời anh vào nhà!

- Ô, cô bé búp bê! Mạnh chứ?

Chị Huyền ra dẫn chàng ta vào phòng khách. Đằng sau ri-đô, ba thì thầm vào tai mẹ:

- Mình ơi, người hay là quỉ thế kia? Ôi Rô Can thức thời! Ôi, Rô Can đứng đắn! Ôi, Rô Can sinh viên!

Chàng Rô Can tóc dài như con gái, để râu xồm xoàm, mặc chiếc áo rộng thùng thình với những ô vuông mầu cam và đen sậm, chiếc quần ống loa mầu xanh da trời đã bạc phếch, vá ở mông và đầu gối, đeo chiếc cà vạt to bản như chiếc yếm dãi của con nít, đi đôi giày ngắn mõm và to tổ bố như giày săng đá của lính lê dương.

Tiếng Rô Can nói với chị Huyền:

- Thế nào, ông già cho phép Huyền đi dự dạ hội tối thứ sáu với anh chứ?

Chị Huyền nhỏ nhẹ:

- Ba Huyền chưa cho phép!

- Ủa, sao lạ vậy kìa! Đã có Rô Can này bảo lãnh mà còn ngại ngùng hả?

- Từ bé đến giờ Huyền chưa bao giờ đi chơi tối nên ba mẹ lo.

- Ồ, đời “c’est la vie” có khác! Sao ông già Huyền khó thế? Thôi cứ “moa phú” hết đi “you and I” phải chứng tỏ… cách mạng chứ! Ô Kê?

Bên trong, ba lại ghé sát tai mẹ:

- Tại sao con Huyền lại có thể làm quen với thứ man di mọi rợ này được nhỉ?... Nó dám gọi tôi là “ông già”, mình nghe rõ chứ? Để tôi ra cho nó một bạt tai!

- Xuỵt! Hắn nghe bây giờ!

- Kệ nó!

Nếu không có mẹ giữ tay có lẽ ba đã ra giảng “mô ran” cho tên Rô Can và biết đâu lại chẳng tặng thêm cho hắn ta một “dấu vết kỷ niệm” trên má với hình năm đầu ngón tay cứng như thép của ba?

Trong khi đó phía sau tủ, dưới gầm giường… cũng xầm xì những lời bàn tán và khúc khích những tiếng cười. Dường như ai cũng coi đây là một cuộc giải trí bất ngờ và thú vị.

Một lúc sau tên Rô Can thức thời từ giã chị Huyền. Khi hắn quay ra chúng tôi mới thấy trên lưng hắn có viết dòng chữ Make Love, Not War bên cạnh một vòng tròn có hình mũi tên ở giữa. Đúng là thứ “Hip” loại… bò sát!

Tiếng xe của Rô Can vừa khuất, ba liền triệu tập ngay Hội Đồng Gia Đình để bỏ phiếu bầu lấy quyết định chung về việc có nên để chị Huyền đi dự dạ hội với tên Rô Can này không. Nét mặt rất vui tươi, nụ cười hớn hở, chị Huyền tin tưởng vào tài ngoại giao ngầm của mình.

Kết quả cuộc đầu phiếu: 13 phiếu chống, 01 phiếu thuận (của chính chị Huyền). Đặc biệt trên một vài lá phiếu có viết những hàng chữ ngộ nghĩnh. Chẳng hạn:

- “Hippi choai choai. Mặc quần ống voi. Bị đánh ba roi. Cái thứ chết toi!”

- “Yêu cầu chị Huyền cho Rô Can về nhà bò!”

- “Rô Can không đáng xách dép cho chị Huyền đẹp như tiên của gia đình mình”.

- “Nếu gặp lại Rô Can, tôi sẽ kêu cảnh sát xúc về bót”.

- “Cần rửa nhà gấp và xịt dầu thơm ngay vì Rô Can đã đem mùi xú uế vào nhà ta. Đả đảo Rô Can!”…

Trước kết quả thảm hại, ai cũng tưởng chị Huyền sẽ khóc – vì “mau nước mắt” là “nghề của nàng” – nhưng ngược lại chị đã chấp nhận vui vẻ ý kiến của đa số vì hiểu mình đã lầm lẫn đồng thời còn long trọng cam kết sẽ không bao giờ nhìn mặt Rô Can thức thời nữa.

Sau đó “để tưởng thưởng sự sáng suốt của mọi người, ba khao cả gia đình một chầu ciné và một bữa cơm tiệm tại Chợ Lớn!”

Chỉ năm phút sau, ai nấy đã an tọa trên chiếc xe díp “bụi đời”… dễ thương của gia đình. Và một lần nữa ba được dịp trổ tài lái xe nhanh, lạng giỏi… và được cảnh sát công lộ “hỏi thăm sức khỏe”!

Hơn bao giờ hết, gia đình tôi tràn trề hạnh phúc.

CHƯƠNG KẾT

N

ăm năm sau

Đã từ lâu chúng tôi được bác sĩ cho biết ba bị đau tim nặng. Ba gầy đi nhiều, đang từ 91 ký lô xuống còn có 70. Hai bàn tay của ba đã khởi sự run rẩy và bộ mặt trở nên tái nhợt. Đôi khi đang chơi đùa với chúng tôi, ba chợt dừng lại, ôm ngực, lảo đảo như không còn đủ sức đứng vững.

Năm đó ba cũng đã 55 tuổi. Chúng tôi vẫn nghĩ ba là người có nghị lực, cương quyết, biết trước việc gì mình sẽ phải làm và một khi đã khởi sự thực hiện thì phải thành công, nên chúng tôi cho rằng ba chưa thể đầu hàng tử thần vì ba chưa lần nào nói đến “hắn”. Ba đâu có bao giờ chịu thua bất cứ ai!

Nhưng thật ra chúng tôi đã lầm. Chính vì có nghị lực mà ba đã che giấu không cho gia đình biết căn bệnh của ba. Mãi sau này chúng tôi mới khám phá ra ba bị bệnh tim từ trước khi có Cu Bi và bé Huy, hai đứa em út. Chính vì căn bệnh đó, ba đã có lý do để giáo huấn cho con cái mỗi đứa một chương trình sống cốt sao chúng tôi có thể tự tổ chức cuộc sống mình trên một căn bản hiệu nghiệm, đồng thời để chúng tôi có thể tự tiến hành mà không cần sự giúp đỡ của ai cũng như để những người chị, người anh lớn chúng tôi có thể bao bọc những em nhỏ. Dường như ba đã linh cảm một ngày không xa gánh nặng sẽ đè oằn vai mẹ, do vậy ba muốn khi còn sống làm nhẹ bớt chừng nào hay chừng nấy gánh nặng đó.
Trong các câu chuyện dưới mái gia đình hay trên thư từ gởi cho bạn hữu, không bao giờ ba đề cập đến bệnh trạng của ba hay nói đến sự chết.
Nhưng sự thật vẫn luôn luôn là sự thật.
Ba chết ngày 14 tháng 6, trước ba ngày văn phòng của ba nhận được giấy mời của một tổ chức bên Âu châu mời ba qua diễn thuyết về “phương pháp tiết giảm động tác để tăng năng suất”.
Hôm đó, mẹ nhận được điện thoại gọi về từ văn phòng làm việc:
- Mình ơi (tiếng của ba) anh trù tính gửi một số sản phẩm của hãng qua Nhật Bản để dự cuộc đấu xảo quốc tế. Mình nghĩ sao?
Chưa kịp trả lời, mẹ đã nghe một tiếng động mạnh ở đầu dây nói. Mẹ hốt hoảng:
- A lô! A lô! Mình! Mình!...
Trong khi đó chúng tôi đang đùa rỡn ở bên nhà người bạn bỗng năm bẩy người hàng xóm hối hả chạy đến vẫy chúng tôi:
- Mẹ các cháu gọi! Về gấp! Có chuyện rất quan trọng liên quan tới các cháu!
Dù không hiểu gì chúng tôi cũng đi theo họ. Khi bước chân lên thềm nhà, chúng tôi mới biết “chuyện rất quan trọng” đó là cái chết. Nhưng ai? Mẹ? Không thể! Bởi vì các người hàng xóm vừa bảo mẹ gọi chúng tôi vào. Ba? Không thể có tai nạn xẩy ra cho ba, người làm việc rất cẩn thận và lái xe không thua ai. Hay tên nào ngã xe? Biết đâu đấy! Nhưng Huỳnh Sún, tên phá phách và liều mạng nhất thì vẫn ở nhà từ sáng cơ mà… Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu hoảng sợ bao trùm chúng tôi.
Vừa chạy vào phòng khách, chúng tôi khựng chân lại vì gặp chị Thuần ngồi khóc, mặt giấu trong bàn tay. Thấy lũ em chị òa lên, nức nở:
- Ba chúng mình… chết rồi! Ba ôi! Ba!...
Tất cả chúng tôi đều lặng người như bị tê liệt thân thể. Mãi một lúc sau chúng tôi mới òa lên khóc, gọi ba ơi, sao ba nỡ bỏ chúng con!
Trên giường, xác ba nằm ngay ngắn trong bộ đồ xám, thứ quần áo ba vẫn mặc đi làm sáng ngày. Hai mắt nhắm nghiền, khuôn mặt chùng xuống, ba có vẻ nghiêm nghị khác thường. Nhìn ba, chúng tôi có cảm tưởng như ba vừa làm xong một công việc gì nặng nhọc hay vừa chiến đấu dữ dội.
Mẹ phục dưới chân ba. Khóc không thành tiếng. Chúng tôi đứng chung quanh xác ba; nước mắt đầm đìa trên mặt.. Đây là lần đầu tiên trong hai chục năm nay dưới mái gia đình chúng tôi mới xảy ra thảm kịch với những giọt lệ và trăm ngàn đớn đau…
Sau cái chết của ba, cách sống của mẹ thay đổi hẳn: Khi ba còn sống mẹ sợ tốc lực, sợ đi máy bay, sợ ra khỏi nhà ban đêm. Mỗi lần trời mưa sấm sét, mẹ trốn trong phòng và bịt chặt hai tai. Trong bữa cơm, nếu có chuyện gì gây xúc động mẹ có thể khóc dễ dàng. Nói trước đám đông, mẹ run kinh khủng… Nhưng nay mẹ không còn sợ gì cả. Không một cảnh ngộ nào làm mẹ hốt hoảng hoặc không ai có thể đe dọa mẹ. Cũng từ ngày ba chết chúng tôi không còn thấy mẹ khóc nữa.
Chôn cất ba xong được bẩy ngày, khi những chùm hoa phúng điếu còn treo đầy nhà, mẹ gọi tất cả con cái lại. Mẹ ngồi vào chỗ của ba, chủ tịch Hội Đồng Gia Đình, với nét mặt thật bình thản. Mẹ cho chúng tôi biết vấn đề tài chánh của gia đình không mấy khả quan và ông bà ngoại muốn mẹ đưa cả gia đình lên Đalat sống.
Mẹ đang nói thì chị Thuần ngắt lời, tỏ ý muốn bỏ học đại học để đi làm và chị Huyền cũng đồng ý vì cho rằng không còn tâm trí vào sách vở.
Nhưng, với một giọng tự nhiên và cương quyết, mẹ trả lời:
- Điều cần thiết nhất hiện tại là các con nên bình tĩnh. Thật ra mẹ cũng tiên liệu một vài giải pháp, tuy nhiên mẹ vẫn muốn có sự quyết định của các con. Trước hết mẹ xin các con một vài hy sinh nhỏ trong vấn đề chi tiêu và tiện nghi của gia đình. Riêng mẹ, mẹ sẽ tiếp tục công việc của ba các con…
Chợt Huỳnh Sún giơ tay xin nói:
- Con đề nghị chúng con sẽ làm bếp lấy; mẹ nên cho chú Xồi, thím Xực nghỉ việc.
- Họ là những người thân trong gia đình, chúng ta không nên bỏ rơi họ khi khá giả cũng như lúc túng bấn. Ý mẹ thế này: mẹ sẽ bán đi một số vật dụng không cần thiết, kể cả chiếc xe của ba và từ nay chúng ta sẽ sống đơn giản. Các con vẫn tiếp tục học đến nơi đến chốn vì đó là điều mong ước của ba khi còn sinh thời. Các con hãy can đảm và vui sống luôn luôn. Các con nghe mẹ không?
- Thưa, có.
- Mẹ tin tưởng ở các con… Bây giờ Thuần đi lo cho mẹ một va ly hành lý.
- Chi vậy, mẹ?
- Mẹ sẽ thay ba đi diễn thuyết như chương trình của ba đã định.. Hơn nữa, “phương pháp tiết giảm động tác để nâng cao năng suất” do ba sáng tác và đã được nhiều nơi ca tụng, mẹ thiết tưởng chúng ta phải tiếp tục làm rạng danh của ba.
- Khi nào mẹ đi?
- Ngày mốt.
- Còn ngày về?
- Mẹ đi chừng một tuần lễ.
Sau đó, mẹ sắp đặt công việc. Mỗi người lo một phận sự trong niềm tin yêu và quả cảm.
Tuy ba không còn nữa nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy như lúc nào ba cũng hiện diện bên cạnh chúng tôi. Hình ảnh người cha thân yêu còn sống mãi trong trái tim của mẹ cũng như trong trái tim của cả 12 đứa con dòng họ Đào…

Sài Gòn, 11/8/1972
Hoài Mỹ
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về Nhà văn Khái Hưng

Về Nhà văn Khái Hưng Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trầ...