Quang Trung 1
GIỚI THIỆU
Nguyễn Huệ, còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế hay Bắc
Bình Vương, là vị hoàng đế thứ 2 của nhà Tây Sơn, bên cạnh Thái Đức Hoàng đế
Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những vị tướng lĩnh tài giỏi với nhiều cải cách
xây dựng quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam.
Tháng 9/1792, vua Quang Trung đột ngột từ trần.
Cuộc đời của vua Quang Trung là một thiên anh hùng ca đặc sắc,
nhưng đương thời còn thêu dệt thêm nhiều điều bí ẩn, diệu kỳ nên sau ngày vua
Quang Trung mất đi một bức màn bí mật lại bao phủ lên người ông.
Góc nhìn Sử Việt là dự án sách nhằm tái bản những tài liệu,
thư tịch cổ của những tác giả vang bóng một thời, và hơn hết xây dựng một nguồn
tài liệu đa dạng và chất lượng dành cho những người yêu thích nghiên cứu, tìm
hiểu lịch sử, văn hóa của dân tộc.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
B
ạn đọc thân mến!
Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân
nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng
không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung
của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch
sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô
khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ
với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử
của một dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm
năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu,
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin
tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì
độc lập tự do của đất nước.
Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển,
ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng
hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch
sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc
biệt là tầng lớp thanh niên, ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa
và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của
từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù gây tranh cãi - tạo nên lịch sử đó.
Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch
sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và
Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự
phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần
giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.
Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần
Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ
“Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết
của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.
Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho
thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một
phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện
đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái
hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách
Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất
bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách
nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ
sách Alpha Di sản.
Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một trong những sản phẩm đầu
tiên của dự án này.
Xin trân trọng giới thiệu.
Công ty CP Sách Alpha
LỜI TÁC GIẢ
Ở đời, muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi!
Lê đổ! Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh.
Thả sít bắt sộp, người Thanh chực đớp nước Nam, chứ yêu gì
Lê, ghét gì Nguyễn (Tây Sơn)! Giá bấy giờ không có vua Quang Trung, thì nước ta
ra sao?
Vậy, công giết Nghi Đống, đuổi Sĩ Nghị, quét 20 vạn quân
Thanh, tranh giữ tự do và chủ quyền cho Đại Việt thật chẳng kém Trần phá
Nguyên, Lê đánh Minh thuở trước.
Vả, muốn mạnh thế nước, rộng bản đồ, vua Quang Trung lại mài
nanh, giũa vuốt, luyện tướng, rèn binh, định khôi phục lấy đất Lưỡng Quảng (Quảng
Đông, Quảng Tây). Giá ngài thêm thọ, đừng vội ôm chí mà thác, thì nước Nam sẽ lại
ra sao?
Ôi, là người đồng thời và ngang hàng với Nã-phá-luân
(Napoléon 1er), Quang Trung cũng có thiên tài về quân sự, cũng có thủ đoạn thần
tốc trong việc hành binh, cũng có chí hăng, hoài bão lớn… Vậy mà Nã được gửi nắm
xương trong đền Invalides để cho người sau viếng thăm ca tụng! Còn Quang Trung?
Sự nghiệp oanh liệt phải vùi sâu trong vực thẳm thời gian!
Trèo lên Đống Đa (ở ấp Thái Hà, Hà Đông), trông ra bốn mặt:
nào gái, nào trai, nào áo, nào mũ, nào ngựa kéo xe, trâu cày ruộng, gió bụi
lưng trời mờ mịt… Vua Quang Trung nào đâu?
Cảm vì thế, tôi viết lại trang sử Quang Trung.
Cẩn chí
TÁC GIẢ
PHẦN THỨ NHẤT: QUẬT KHỞI
T
hời loạn
Thời cục nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII: một mớ tơ rối đương
phủ xã hội mục nát; một bầu không khí nặng nề đương vây bọc nhân dân nghẹt
ngòi!
Nguyên từ năm Quang Hưng thứ 16 (1593), nhờ sức vùa giúp của
Bình An vương Trịnh Tùng (1570-1623), vua Lê Thế Tông (1573-1599) tuy khôi phục
được Thăng Long, nhưng ngọn đèn “trung hưng” của Lê từ đó ngày một hắt hiu lèo lẹt!
Đến đời Hiển Tông (1740-1786), dầu gần cạn, bấc hầu tàn. Dân chúng bấy giờ âm
thầm sống trong cơn lờ mờ, hồi hộp!
Ngoài Bắc Hà, từ hồi tháng ba năm Kỷ Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 30 (1769), việc chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm (1767-1782) bắt giam Hoàng thái tử
Lê Duy Vỹ1 đã làm xao xuyến tâm thần nhân dân, hạng người bấy lâu vẫn ngấm ngầm
ghi nhớ công ơn bình Ngô của vua Lê Thái Tổ (1428 -1433). Qua hai năm sau, cái
chết của Duy Vỹ lại lấy được bao giọt nước mắt của mọi người ở phố phường, chợ
búa!2
Vả, sau cuộc “đảo chính” (tháng mười, năm Nhâm Dần, 1782) của
quân Tam phủ (Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia)3, cái ngai chúa của nhà Trịnh từ
đó càng thêm lung lay!
Gia dĩ4, từ khi Đoan Nam vương Trịnh Khải (1782-1786) giết hại
con em quận Huy Hoàng Đình Bảo, một tay quyền thần đã từng dan díu với Đặng Thị
Huệ, mẹ Trịnh Cán, mầm loạn đã ngầm ẩn trong tòa vương phủ lộng lẫy nguy nga.5
Phải, thực lực bên Trịnh bấy giờ rỗng tuếch: tướng tá lười biếng,
sợ trận mạc. Quân lính, từ hồi lộng quyền phế lập đến nay, ngày một kiêu căng
rông rỡ, lồng lộn như ngựa bất kham, không chịu cương khớp.
Dân chúng, sống dưới chế độ phiền hà, chính sự nhũng nhiễu,
đã “dám” phê bình các nhà cầm quyền bằng giọng hài hước nhưng kín đáo giấu giếm
trong lời đồng dao:
“Trăm quan có mắt như mờ!...”
Để chứng thực cái trạng thái mục nát của xã hội Bắc Hà thời ấy,
xin mời các bạn hãy đọc thêm đoạn này của ông Tùng Niên, trong Tang thương ngẫu
lục, truyện Bùi công Huy Bích:
Năm Nhâm Dần (1782), đời Cảnh Hưng (1740-1786). Điện Đô vương
(Trịnh Cán) lên cầm quyền trong tuổi thơ ấu; gần xa đều nao nao… Ngày 25 tháng
mười (Nhâm Dần, 1782), binh Tam phủ làm loạn, ủng lập Trịnh Tông (tức Khải),
con cả của cố vương (Trịnh Sâm): ấy là Đoan Nam vương…
… Bấy giờ kẻ dưới thì lăng loàn, người trên thì suy đốn, rường
mối triều đình ngày một sa sụt hư hỏng. Ông Bùi Huy Bích lo âu về nỗi ấy, thường
thường than thở trong khi đứng ở triều đình. Ông từng làm bài văn khóc ông Hồ
Sĩ Đống chức quyền phủ, có câu rằng: “Trên chốn triều đình, việc chính trị
không ra sao, lại thêm nỗi: nào nước lạt, nào hoàng trùng!...” (Tang thương ngẫu
lục, tập dưới, tờ 46).
Xem đó đủ biết cục diện bên Trịnh bấy giờ đã dần dần đi đến
bên hố diệt vong.
Trong Nam Hà, một danh từ hồi đó đối với Bắc Hà mà nói, vùng
Thuận Quảng sống dưới trị quyền chúa Nguyễn từ năm 1588, bấy giờ cũng khặc khừ
kêu rên trên giường bệnh!
Chúa Định vương (1765-1778), mới 12 tuổi, đeo cái “bung xung”
lên ngôi “làm vì”. Chính quyền nắm cả trong tay Trương Phúc Loan!
Phúc Loan, một con dân, khoác áo “quốc phó” làm giàu bằng nghề
bán quan buôn ngục. Xây biệt thự Phấn Dương trên đống mồ hôi, nước mắt và máu
thịt của nhân dân, Loan dùng nó làm nơi chứa của. Sau trận nước lụt, Loan sợ của
“mục”, phải sai phơi vàng dưới ánh nắng tưng bừng trên sân biệt thự. Vàng đỏ, lấp
lánh dờn ánh dương, làm quáng cả mắt thèm thuồng những tôi tớ hắn. Ấy là chưa kể
các động sản khác như trâu, ngựa, châu ngọc, gấm vóc và các bất động sản như
nhà cửa, ruộng, vườn…
Dân đã khổ lại khổ thêm, khó cầm hơi nổi trước cơn mất mùa
đói kém! Bức tranh “cơ cận” treo khắp dân gian. Những thân hình đói rạc kheo
khư do nét bút thần “Hung niên” đã phác vẽ, trưng bầy trên cái biệt thự huy
hoàng lộng lẫy ở làng Phấn Dương, thật là một cảnh mâu thuẫn mai mỉa!
Phần khổ vì chính sự bất lương, phần cơ cực vì ma đói ám ảnh,
dân chúng ngắc ngoải dưới bàn tay sắt của Trương Phúc Loan, biết tìm đâu lấy
chút sinh thú!
Sống không hi vọng, lòng họ lạnh như băng, tan nát như cám,
ngấm ngầm ôm mối “tư loạn”.
Nói tóm lại, ngoài Bắc, trong Nam vào khoảng mấy năm cuối đời
Lê Hiển Tông (1740-1786) đương lụng bụng đau đắng như mắc cái ung độc, tất phải
chích ra cho vỡ mới mong lành mạnh được.
Thần Chiến tranh đứng rình trước thời cục nghiêm trọng. Thùng
thuốc súng chỉ chực tàn lửa rớt xuống tức thì nổ bung.
Chàng áo vải
Dưới mái một nhà bình dân trại Tây Sơn6 thành Quy Nhơn (nay
là Bình Định), năm Quý Dậu (1752), cậu bé Nguyễn Huệ ra đời rồi lớn lên trong cảnh
khổ sở nheo nhóc như trăm nghìn dân quê khác. Thật không ai biết trước bằng cậu
bé ấy sẽ có những thủ đoạn phi thường, tương lai oanh liệt sẽ làm một trang anh
hùng dân tộc, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn Thanh, thống nhất cả
Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ XVIII.
Trước cửa nhà Nguyễn Huệ, róc rách một con suối ấm đêm ngày
kêu. Tiếng kêu có lúc ai oán như giọng hậm hực bất bình của lũ dân đen bấy giờ
đương bị nghẹn ngào đè nén nhưng có lúc hùng tráng hăng hái như tiếng kèn của
toán nhạc binh thúc giục người ta phải tranh lấy quyền sống còn.
Là con Nguyễn Phi Phúc7 và Nguyễn Thị Đồng. Nguyễn Huệ, tóc
quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, cặp mắt hùng thư mà sáng
như chớp, có thể thấy rõ mọi vật trong đêm tối.
Về gốc tích nhà Tây Sơn, có nhiều thuyết khác nhau:
Theo Lê kỷ là một cuốn dã sử, thì anh em nhà Tây Sơn bấy giờ
đương ở trong hàng ngũ quân dân dưới triều Nguyễn Định vương, thấy Trương Phúc
Loan hại nước tàn dân, bèn lui về nơi thảo dã khởi nghĩa, mưu việc đánh đổ Phúc
Loan, tên quốc tặc.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (quyển 30, tờ 1a-b),
thì tổ tiên Nguyễn Huệ vốn người huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An. Khoảng niên
hiệu Thịnh Đức (1653-1657), nhà Lê chung số phận với đám dân chiến bại ở bảy
huyện xứ Nghệ, sau một trận Nguyễn, Trịnh giao tranh, tổ bốn đời của Nguyễn Huệ
bị bên chúa Nguyễn bắt đi, an sáp ở Tây Sơn Nhất8, huyện Quy Ninh9 thuộc Quy
Nhơn để khai khẩn đất hoang, ruộng cỏ.
Khi ông tổ bốn đời ấy mới bị đi vào ở Quy Nhơn thì ở tại ấp
Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, đến đời cha là Nguyễn Phi Phúc mới dời đến ở
ấp Kiên Thành10 thuộc huyện Tuy Viễn11.
Theo Tây Sơn liệt truyện (sách viết của trường Bác Cổ) thì tổ
bốn đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn khoảng năm 1653-1657 đem vào phía nam.
Tây Sơn lược thuật (sách viết của trường Bác Cổ) cũng chép: tổ tiên Nguyễn Huệ
là người huyện Nghi Xuân (Nghệ An). Năm 1672-1673, chúa Nguyễn lấy được bảy huyện
Nghệ An, di dân vào Nam; tổ của Huệ cũng ở trong số di dân ấy.
Trong gia đình đó, Nguyễn Huệ thường gọi là chú Thơm. Em thứ
3 dưới Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ.
Thụ nghiệp Giáo Hiến12, anh em Nguyễn Huệ, từ trẻ, dắt nhau
cùng đi học, được Giáo Hiến ngó bằng cặp mắt riêng.
Giáo Hiến? Một môn khách nhà Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới
triều Định vương (1765-1778). Vì sợ vạ lây sau khi Hạnh bị Phúc Loan giết chết,
Hiến phải trốn vào Quy Nhơn, mở trường ở ấp Yên Thái, dạy cả văn võ.
Thấy Nguyễn Huệ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm, mắt như chớp
sáng, tiếng như chuông vang, Hiến biết ngay là một thanh niên lỗi lạc có cái
tương lai phi thường!
Hằng ngày, chắc Huệ cũng được nghe những lời Giáo Hiến thúc
giục Nguyễn Nhạc bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Rồi Hiến lại nói
sát sạt: “Anh là người Tây Sơn, cứ cố đi!”
Không hay những lời Giáo Hiến kích thích Nguyễn Nhạc đó có
làm rung động trái tim Nguyễn Huệ? Nhưng một cớ hiển nhiên khiến Huệ từ trại
Tây Sơn phất cờ cách mạng chính là tiếng gọi của thời thế: Thời thế tạo anh
hùng! Phải, ta thấy cái động cơ này đã đẩy Nguyễn Huệ lên vũ đài chính trị:
Vả bây giờ thần nịnh, chúa hôn, gương bình trị lòng trên ắt
muốn.
Lại gặp hội binh kiêu, dân oán, sửa kỷ cương tài cả phải
ra13.
Cái hoài bão muốn cứu sinh linh ấy lại tỏ rõ trong bức thư
sính La Sơn Phu Tử đề ngày mồng 10 tháng tám năm Thái Đức thứ 10 (1787), khi
Nguyễn Huệ làm Đại nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương… “Thiên hạ loạn thế
này, nhân dân lầm than thế này! Vậy mà nhà thầy cứ nằm cao không vùng dậy, thì
đối với thiên hạ nhân dân ra sao?”14
Đứng bên anh
Đối với xã hội hồi đó, việc võ trang bạo động của bọn Nguyễn
Huệ, về cận nhân, chính làm đại biểu cho cuộc phản kháng ngấm ngầm cái chế độ bất
lương đang sôi nổi trong đáy lòng dân chúng. Về viễn nhân, nó lại làm đại biểu
cho cái khuynh hướng phản đối cuộc nội tranh kéo dài từ năm 1627 đến năm 1672
và mãi về sau còn rớt lại những khí âm ỉ gườm ghè, hằn học, cuốn bao máu thịt
vào vòng khói lửa để làm vững cái “ngai” chúa cho hai nhà: Trịnh và Nguyễn!
Khi dân chúng cần nhà Tây Sơn để thực hành cho họ cái tinh thần
mạnh mẽ, cái nguyện vọng thiết tha (nguyện vọng của họ bấy giờ là tìm lấy đời sống
tốt đẹp hơn, sung sướng hơn), thì họ ủng hộ ngay lúc bọn ông nhẩy lên nắm quyền
chính, đem binh ra Bắc Hà. Nhưng, về sau, thấy Quang Toản (1793-1802) tỏ ra bất
lực, không làm cho đời họ được thay đổi sáng sủa hơn, họ liền lìa bỏ, nên triều
đại Tây Sơn (1788-1802) phải sụp đổ!
Vậy có thể nói Quang Trung (1788-1792) chỉ là con đẻ của thời
đại. Cuộc quật khởi của nhà Tây Sơn chỉ là đại biểu cho khuynh hướng của phái
nông dân bấy giờ.
Năm Tân Mão (1771), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển
Tông, tức năm thứ 6 đời chúa Nguyễn Duệ Tông (Định vương), một năm tối quan trọng,
ghi bằng chữ máu trên trang sử Nam Bắc phân tranh!
Từ một anh tuần biện lại ở Vân Đồn, Nguyễn Nhạc, được hai em
Huệ và Lữ đứng bên nâng đỡ trong 7 năm trường, nhẩy một bước lên chiếc ngai
Thái Đức Hoàng Đế (1778): một cái “phi thường” trong “sổ” các nha lại xưa nay!
Làm tuần biện lại, Nhạc đóng vai thu thuế trong một đồn để
sung vào công khố. Nhưng vụ thuế năm Tân Mão (1771) đó thu được bao nhiêu, Nhạc
nướng vào cuộc đỏ đen hết sạch!
Dưới quyền Đốc trưng Đằng, Nhạc trước còn bị thằng thúc15 “đổ”
thuế, sau bị truy tố và lùng bắt riết.
Túng phải tính, Nhạc xoay qua chiến lược: chẳng những không
phải đền, không phải tội, mà lại “phất to” là khác.
Thế rồi, trên nóc trại ở Thượng Đạo16 ấp Tây Sơn bỗng phấp phới
bay lá cờ cách mệnh.
Thì ra Nguyễn Nhạc, quăng lại đằng sau cái chức “lại quèn”,
ngầm kéo hai anh em, vào núi, dựng trại, lập đồn, xưng hùng với oai rừng thẳm!
Thế là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đặt được viên đá đầu tiên để
dần dần xây thành lâu đài triều đại Tây Sơn từ đó.
Núp dưới bóng cờ Tây Sơn, bọn vong mạng có, tụi mường mán
cũng có. Thủ hạ Tây Sơn bấy giờ đã lên đến con số đáng kể: Vài nghìn người.
Sẵn quân gia, khí giới, Tây Sơn cứ việc tung hoành.
Các nhà giầu, hồi đó, trong những đêm trường rùng rợn, sống
trước cảnh hồi hộp âm thầm!...
Mỗi lần có tiếng trống ngũ liên, là một lần nhà giầu mất cướp!
Nhưng trong số mất cướp đó toàn là những nhà giầu cay nghiệt, ăn kết quả của nước
mắt bồ hôi kẻ khó, xây cơ nghiệp trên nền “bất nhân”.
Sau bất cứ một đám cướp nào ở vùng đó, người ta cũng thì thầm:
“Lại quân gia Tây Sơn.”
Quả thế, cứ mỗi lần “làm tiền” anh em Tây Sơn lại được những
tiếng ca tụng ra từ miệng dân nghèo sống dưới phạm vi thế lực của họ:
Người ta khen vì được phân phát cho tiền của.
Người ta cảm phục vì thấy đó là một động tác có tính cách
nghĩa hiệp.
Tài chính là vấn đề cần nhất trong việc chiến tranh: “Làm tiền”
bằng cách cướp bóc tuy có cận hiệu, nhưng trong trại Tây Sơn bấy giờ vẫn không
đánh thăng bằng được số chi thu. Thành thử họ lại phải gõ mạnh vào những cửa
lòng khinh tài, trọng nghĩa.
Huyền Khê, một tay giầu lớn ở hạt Quy Nhơn bấy giờ đáp ngay
tiếng gọi của Tây Sơn, ngấm ngầm giúp họ về mặt tài chính.
Nhờ có bầu sữa của Huyền Khê, Tây Sơn cứ hăng hái xông pha
trên đường tiến thủ: mộ lính, sắm khí giới, nhằm theo cái đích lật đổ Trương
Phúc Loan.
Đồ đảng ngày thêm nhiều, lại được thổ hào Nguyễn Thung17 giúp
sức, thanh thế Tây Sơn càng lâu càng mạnh mẽ; kéo đánh các ấp xung quanh, đến
đâu được đó.
Như ngọn lửa càng bốc to càng cháy dữ, lại gặp luồng gió thuận
tiện thổi thêm, Tây Sơn mặc sức bén ngang, lém dọc, không còn sợ tắt dưới tay dập
tưới của quan địa phương.
Anh em Tây Sơn thấy gian thần Trương Phúc Loan đương đóng vai
Tần Cối trên sân khấu chính trị, biết rằng cơ hội đến rồi, quyết gãi ngay vào
chỗ ngứa của dân chúng: một mặt kể tội Phúc Loan: nào buôn tước bán quan, thay
đen đổi trắng trong việc hình ngục, nào hút dầu mỡ dân để nuôi béo nhà… Một mặt
định đón lập Hoàng tôn Dương để gây cảm tình với lê thứ18.
Làm theo phương lược đã định, Tây Sơn truyền hịch đi khắp
nơi, tuyên bố cái cớ phải đánh đổ Trương Phúc Loan và tỏ việc đón lập chúa mới:
Hoàng tôn Dương! Thế là giang sơn chúa Nguyễn bấy giờ bỗng chia hai phe: Phe Quốc
phó Trương Phúc Loan đội cái “bung xung” bằng chúa Định vương; phe Tây Sơn đeo
cái chiêu bài bằng Hoàng tôn Dương, khiến nhân dân không còn biết phe nào là
triều, phe nào là giặc nữa. Người ta phải dùng mấy tiếng sau này để phân biệt của
hai phe đó: một là “quân Quốc phó”; một là “quân Hoàng tôn” (Tây Sơn). Cho nên
tục ngữ bấy giờ có câu: “Quân Triều, quân Quốc phó; quân Ó19, quân Hoàng tôn.”
Tấn công
Gió heo may dào dạt lướt qua những đợt cỏ tranh tiêu điều. Một
vài chiếc lá chảu đã lốm đốm vàng úa. Cảnh vật năm Quý Tỵ (1773) bấy giờ đã đượm
màu thu.
Sẵn cái đà bước đầu thắng lợi, Tây Sơn đem quân tiến đánh,
chiếm lấy ấp Kiên Thành20.
Phạm vi thống trị đã hơi mở rộng, họ tính ngay đến việc sắp đặt
các cơ quan hành chính.
Nguyễn Nhạc làm chúa trại Nhất, quản trị hai huyện Phù Ly và
Bồng Sơn.
Nguyễn Thung chúa trại Nhì, coi quản huyện Tuy Viễn21.
Huyền Khê đóng vai chúa trại Ba, cung cấp lương thực.
Họ cũng không quên gây lấy vây cánh bên trong và liên lạc lực
lượng với nước ngoài: chiêu dụ những tay lục lâm như Nhưng Huy và Tứ Linh22 ở
An Tượng Nguyên (thuộc huyện Tuy Viễn).
Họ lại bí mật ước hẹn với nữ chúa Chiêm Thành đem quân ập
sang, đóng trại ở Thạch Thành, làm thế ỷ dốc.
Thế là Tây Sơn xây vững được địa vị và thế lực từ đó.
Cách hành động của họ như thế rất có phương pháp. Song công
việc sắp đặt và mưu mô bày vẽ trong lúc này là do óc ai nghĩ ra? Nguyễn Nhạc!
Nhạc là tay cơ trí, mà lại đóng vai chủ động trong bước khởi đầu, nên chi những
việc đó đều ra từ cơ mưu của chú “tuần biện lại”. Còn Nguyễn Huệ, hồi đó, hãy
còn là phụ động, chắc phải ở dưới quyền sai phái của anh. Nhưng con người trí
dũng có thừa kia tất phải là một cánh tay mặt của Nhạc.
Hạ thành Quy Nhơn
Tây Sơn bấy giờ đã có một lực lượng mạnh mẽ. Trông về tương
lai, họ có vẻ lạc quan vô cùng.
Lại được Nguyễn Huệ là tay thiện chiến, Nguyễn Nhạc là người
cơ mưu, nên họ có thể làm được sự nghiệp lớn lao bằng hai bàn tay trắng.
Với cái tướng tài và cơ trí đó, Tây Sơn hạ phủ lỵ Quy Nhơn chỉ
nội một đêm.
Tại sao họ làm được nhanh chóng đến thế?
Nguyên bấy giờ phủ lỵ Quy Nhơn đương thuộc dưới quyền quản trị
của Nguyễn Khắc Tuyên, Tuần phủ bên Nguyễn. Chắc Tuyên là người vô tài, kém
trí, nên bị Tây Sơn đạp đổ cái ghế Tuần phủ dễ dàng như trở bàn tay.
Bữa đó, sau một cuộc mật bàn cử sự, Nguyễn Nhạc cất đặt mọi
việc cho quân gia với một mệnh lệnh nghiêm minh. Rồi tự vào ngồi trong cũi, Nhạc
sai thủ hạ, mặc bộ đồ lù khù nhưng trong ngầm giấu mỗi người một thanh đoản
đao, lễ mễ khiêng “ông tướng trá hàng” lên phủ lỵ. Những tiếng luân báo truyền
từ miệng người nọ đến người kia rồi lọt đến cửa tai Tuần phủ họ Nguyễn: “Bắt sống
được Biện Nhạc rồi! Đem nộp quan Tuần để lĩnh thưởng!”
Cửa thành mở. Trước bộ dạng bệ vệ và dưới cặp mắt khinh khỉnh
của Khắc Tuyên, Nguyễn Nhạc, bấy giờ như con cọp lâu năm bị nhốt trong chuồng sắt,
đã làm cho người ta có thể đọc lầm những nét “ngoan ngoãn hiền lành” phủ trên
khuôn mặt giả dối tâm ngẩm.
Thế là không phải khó nhọc, Nhạc đã vào lọt trong thành với mấy
tên đồ đảng.
Màn tối từ từ buông phủ. Cảnh vật thành Quy Nhơn dần dần chìm
đắm trong cơn khuya khoắt
rợn rùng.
Dịp may đã đến! Phá phăng cũi, Nhạc nhẩy phứt ra, mở toang cửa
thành, đón cái tương lai rần rần rộ rộ đến…
Nghe rõ tiếng pháo hiệu do Nhạc từ trong thành báo ra, một
cánh quân Tây Sơn do Nguyễn Thung cầm đầu ở ngoài ập vào, đốt dinh trại, giết
tướng sĩ, làm cho cả thành tan vỡ vì một trận đánh không ngờ!
Trong cơn hoảng sợ, Khắc Tuyên không kịp đóng ngựa, vội vã
nheo nhóc chạy trốn, bỏ lại đằng sau cho Tây Sơn một thành trì mà mình có nghĩa
vụ phải sống chết với nó.
Nhân dịp đắc thắng đó, Nhạc kéo quân đánh dốc đến Càn Dương
và Đạm Thủy, hai nơi này đều thuộc thành Quy Nhơn. Đốc trưng Đằng và Khâm sai
Lượng theo gót Khắc Tuyên cũng chạy ráo!
Một mặt tịch thu hết kho tàng thóc lúa ở Càn Dương và Đạm Thủy,
một mặt Nhạc đuổi theo giết chết cả Lượng lẫn Đằng. Vì thù viên Đốc trưng Đằng
này đã làm khó dễ với mình trong cơn thiếu thuế độ nọ, Nhạc chu di cả họ Đằng.
Lá cờ Tây Sơn, từ đó, đường hoàng phấp phới trên thành Quy
Nhơn. Năm đồn Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, dưới tay chỉ huy của Nhạc, đằng giăng
nghiêm mật đóng từ thành ấy đến tận địa phận Quảng Nam (1773).
Thành Quy Nhơn thất thủ! Một tin sét đánh đã đến tai Trương
Phúc Loan! Nhưng Loan vẫn mơ màng những chuyện làm giàu bằng cách bán quan,
buôn ngục!
Trận thắng ở Thạch Tân
Quân Tây Sơn có cái khẩu hiệu riêng: hễ kéo đến đâu cũng hò
reo la ó đến đó. Kẻ hú, người thưa, rầm rộ, ầm ĩ, làm cho thanh thế mạnh mẽ
hăng hái như sóng vỗ bờ đê, gió khua hang núi. Vì vậy nhân dân hồi đó dùng hai
tiếng “quân Ó” để chỉ về quân gia Tây Sơn.
Sau khi hạ được Quy Nhơn, Tây Sơn đang hát khúc khải ca, thì
có một tin báo bên Nguyễn sai hai Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách,
Tổng nhung Tống Sùng và Tán lý Đỗ Văn Hoảng kéo quân đến Bản Tân (giáp ranh huyện
Bình Sơn thuộc Quảng Ngãi và huyện Hà Đông thuộc Quảng Nam) để quyết một phen
“ăn thua” trên mặt trận.
Sắp đặt phương lược đối phó, Nguyễn Nhạc, dặn sẵn quân gia cứ
làm theo mưu kế mình định, một khi đụng nhằm quân Nguyễn.
Kịp khi quân Nguyễn kéo đến bên trại, từ ngoài đánh vào, quân
Tây Sơn phải lùi chạy sau một trận dựa đồn lũy chống cự lại.
Lui giữ Thạch Tân, Tây Sơn nhử cho quân Nguyễn quen mui đắc
thắng kéo dài đến. Chẳng dè quân phục đổ ra, hăng hái đánh riết, kết liễu tính
mệnh Sùng và Hoảng ở ngay mặt trận và làm cho bọn Nguyễn Cửu Thống phải đại bại
dưới bóng cờ quân Ó!
Từ đó, thế lực Tây Sơn ngày một bồng bột như mầm cây tơ dưới
ánh dương xuân, tưng bừng rực rỡ như mặt trời mới mọc buổi sớm!
Họ lại lợi dụng bọn giặc khách là Tập Đình gọi là Trung nghĩa
quân và Lý Tài gọi là Hòa nghĩa quân làm vây cánh.
Để mập mờ đánh lận với toán giặc khách kia, Tây Sơn lại lựa
thêm những người Nam ta cao lớn lực lưỡng, cũng cho mặc quần áo xanh, cũng cho
gióc23 tóc kết bím, lập thành một toán quân Tàu “giả hiệu”. Mỗi khi ra trận,
chúng uống rượu thật say, cởi trần trùng trục, đầu quấn khăn đỏ, cổ đeo tầu
vàng lá bạc, tay cầm cái khiên và thanh đại đao. Chúng đánh khỏe và liều chết24.
Dùng đội cảm tử đó làm quân tiền xung, xông pha trước trận,
Tây Sơn quả nhiên hái được bông trái tốt tươi: quân Nguyễn không sao địch nổi với
lưỡi đại đao của chúng.
Gió bắc dào dạt thổi. Cây cỏ ngủ yên trong giấc mùa đông li
bì. Một cái thủ cấp hãy còn đẫm máu bỗng làm ngạc nhiên trước mắt quân Tây Sơn!
Té ra đó là đầu lâu viên Tiết chế bên Nguyễn: Tôn Thất Hương!
Nguyên tháng Chạp năm Quý Tỵ (1773) đó, Hương đem nội quân và
các toán thân binh đi tiễu, khi đến núi Bích Kê thuộc huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định,
bị phục binh của bọn Tập Đình và Lý Tài xông ra giết chết. Còn quân sót lại của
Hương thì tan vỡ hết! Đó là trận thắng lợi đầu tiên do Tây Sơn lợi dụng bọn người
Thanh.
Lấy Quảng Ngãi, Bình Thuận
Sau một trận giao chiến với Tôn Thất Bân, cai cơ bên Nguyễn,
Tây Sơn chiếm được Quảng Ngãi. Rồi nhân cái đà thắng trận này, Nhạc lại thúc
quân đánh luôn lấy hai phủ Diên Khánh và Bình Khang. Thế là Tây Sơn cứ việc kéo
buồm trước cơn gió thuận, nghiễm nhiên làm chủ nhân ông từ Quảng Ngãi đến Bình
Thuận! Sau lại tiến đánh Quảng Nam, họ thường được thắng lợi, trừ ra một trận bị
cai đội Nguyễn Cửu Dật, bên Nguyễn đánh úp nên thua.
Trương Phúc Loan bấy giờ vẫn cứ mơ màng ôm chân nấp bóng nhà
Thanh, mong nhờ thế lực ngoại quốc để chống họ Trịnh ngoài Bắc. Loan sai sứ đi
đường tắt, sang Thanh dâng biểu xin làm “thần tử” phiên thuộc và hiến đồ cống.
Rồi từ đó, Loan đặt triều nghi, đổi phục sắc, thay pháp độ, lập
thành khuôn khổ một nước riêng, không chịu “lép vế” với chúa Trịnh nữa (1774).
Nhưng cơn thất bại vẫn rình ở sau lưng, vì Loan chỉ lo “trả miếng” với Trịnh ở
ngoài Bắc, chứ quên lửng Tây Sơn đương tung hoành ở trong!
Tây Sơn bấy giờ tuy có vẻ “đáng sợ” dưới con mắt Tôn Thất
Thăng đến nỗi Thăng phải bỏ quân, luôn ban đêm chạy trốn về, mặc dầu chưa hề
giao phong lấy một trận; nhưng sau khi bị thua bởi tay Nguyễn Cửu Dật từ năm
ngoái (1773), Tây Sơn đã phải lui giữ thế thủ ở Thiên Lộc (thuộc phía nam chợ Củi
mà chữ nho dịch là Sài thị). Qua mùa hè năm nay (1774), lại bị thua luôn dưới
bóng cờ của tướng sĩ năm dinh là các đạo quân ứng nghĩa do Tống Phúc Hiệp và
Nguyễn Khoa Thuyên cầm đầu. Thành thử ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh và Bình
Khang kế tiếp mất cả! Rồi Phú Yên cũng lọt vào tay quân Nguyễn nốt! Song, những
trận thất bại đó mới chỉ là cái bất lực của từng cánh quân một chứ đại doanh của
Nguyễn Nhạc đóng ở Quảng Nam vẫn vững, không núng.
Dịp may cho họ Trịnh
Tình hình nội biến trong Nam do một người “Đường Trong”25 cáo
tỏ với viên Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt. Viên này bèn viết thư cho chạy ngựa
trạm về Thăng Long nói với Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (1767-1782) cái tình hình có
thể lấy Thuận Hóa được.
Quyền thần Phúc Loan làm mưa làm gió ở trong: một cái ung độc
của triều Nguyễn!
Lá cờ Tây Sơn phấp phới ở ngoài: lại một cái gai mắt của triều
Nguyễn!
Nhưng bao nhiêu những cái không may, không lợi của họ Nguyễn
lại chính là dịp tốt để “thả câu” của nhà Trịnh ở Bắc Hà.
Quả thế, khi hay tin trong Nam đương “đục nước” như vậy, Trịnh
Sâm mừng quýnh: “Với Trịnh, Nguyễn vốn là thế thù. Sở dĩ bấy nay Trịnh phải làm
thinh, chẳng qua chỉ cốt đợi thời. Bây giờ dịp may đã đến, Trịnh sao lại chịu
bó tay ngồi nhìn để cho họ Nguyễn ngang nhiên tranh hùng mãi!”
Phải trị!
Rồi Hoàng Ngũ Phúc26 và Nguyễn Nghiễm lại tán thành thêm vào.
Sau một mệnh lệnh từ vương phủ, quận Việp Hoàng Ngũ Phúc (do
hoạn quan xuất thân) cầm ấn thượng tướng, kéo ba vạn quân, thẳng trảy vào Đường
Trong.
Khi Ngũ Phúc đã đi, Trịnh Sâm lại sai đưa cho bức thư chính
tay mình viết: “Ông đến Nghệ An, nên tùy cơ mà liệu định, trước hãy đưa thư cho
biên tướng bên Nguyễn, nói giả tảng rằng chuyến đi này chỉ cốt đề phòng quân
Tây Sơn tràn xổng để dò xem tình ý đã. Nếu Tây Sơn đã yên thì lại đưa thư cho
Nguyễn bày tỏ ý ấy rồi kéo quân về, chứ đừng để họ sinh nghi, lại gây ra sự hiềm
khích ở nơi biên giới…”27
Ban bố 40 điều quân lịnh, Phúc tỏ ra một tay lão tướng cầm
quân có kỷ luật nghiêm minh.
Bấy giờ Thuận Hóa luôn mấy năm mất mùa đói kém, không còn rờ
vào đâu mà làm quân lương được. Bên Trịnh phải trù tính cách vận lương và chia
lập ba chỗ lương trường:
1) Lương trường Sơn Nam lập ở Mỹ Lộc: chi tiền cho bốn trấn
đong thóc trong bản hạt, xay giã làm gạo, chứa vào kho, rồi do đường thủy tải
vào Nghệ An.
2) Lương trường Nghệ An lập ở Hà Trung: đong thóc gạo của nhà
giầu trong vùng, rồi hợp với lương ở trường Sơn Nam kia, tùy tiện đi đường thủy
hay đường bộ mà vận tải vào Quảng Bình.
3) Lương trường Quảng Bình lập ở Động Hải: phải liệu tính cho
điều độ để cấp phát lương thực cho quân gia.28
Xem bên Trịnh khó khăn về việc quân lương như vậy, đủ biết
Đàng Trong hồi đó đói kém đến đâu! Dân chúng bấy giờ nheo nhóc điêu đứng đến
đâu!
Tướng Trịnh lót miệng bằng những tiếng “đạo đức sáo”: nào Trịnh
với Nguyễn vốn có họ ngoại, nay đem quân vào giúp “bà con” trong cơn nguy biến;
nào cốt trừ tên gian thần Trương Phúc Loan, cứu nhân dân khỏi vòng nước sôi, lửa
nóng; nào không có tâm địa gì nhân dịp người ta có tai nguy mà mình kiếm lợi…
Thế rồi Phúc kéo quân vào châu Bố Chính (coi bản đồ) hồi tháng chín năm Giáp Ngọ
(1774).
Qua tháng mười năm đó, Phúc vượt sông Gianh (Linh Giang), chiếm
được Lũy Thầy (tên chữ Hán là Sài Lũy, do Đào Duy Từ xây đắp), tóm lấy chìa
khóa cửa ngõ của bên Nguyễn, đường hoàng vào đóng quân ở Quảng Bình.
Trong có nội loạn, ngoài có ngoại xâm, triều Nguyễn bấy giờ bị
cuốn vào vòng sóng gió đầy ghê khiếp!
Muốn êm chuyện, chúa Nguyễn sai trói Trương Phúc Loan29 đem nộp
cho Hoàng Ngũ Phúc; làm vậy tưởng có thể đẹp lòng chúa Trịnh, dập được ngọn lửa
binh tranh. Ngờ đâu tướng Trịnh dầu tóm được con mọt dân Phúc Loan, dầu nhận
“vi thiềng”30 của tên quốc tặc này hàng nghìn vàng rồi, vẫn cứ một mực hăng hái
tiến binh, không còn nghĩ gì đến tình “họ ngoại” như lời thanh minh khi mới kéo
quân vào Nam nữa!
Phúc lại đưa thư cho triều Nguyễn, xin đem binh đến họp ở Phú
Xuân (nay là Huế) để giúp sức đánh dẹp Tây Sơn cho yên bờ cõi. Đó chỉ là một
cách bên Trịnh mượn cớ để thực hành cái kế hoạch xâm lược giang sơn của “người
bà con họ ngoại” thôi!
Van lơn không xong, bên Nguyễn phải cương quyết động binh để
đối phó với tình thế: Tôn Thất Nghiễm, nội hữu chưởng doanh, bấy giờ đang cầm đại
binh ở Quảng Nam, đương đầu với Tây Sơn, được triệu về để chống quân Trịnh.
Tây Sơn khởi thế công
Từ khi quân Trịnh Nam xâm, Tây Sơn lại đứng vào tình thế mới.
Phải cầm cự với Nguyễn Cửu Dật, một tay tướng tài bên Nguyễn
vừa đến thay chân Tôn Thất Nghiễm, Tây Sơn thua luôn vài mươi trận, phải rút
lui giữ Bản Tân để đợi dịp sau.
Mùa đông năm Giáp Ngọ (1774), thấy quân Trịnh tiến đến Phú
Xuân, Nguyễn Duệ Tông (1765-1778) phải chạy đi Quảng Nam, Tây Sơn khấp khởi mừng,
nhấp nhẩy lại muốn đoạt động.
Con thuyền Tây Sơn đương mắc cạn, cơ hội bỗng đâu đem đến cho
họ dòng nước xuôi, cơn gió thuận để họ cứ việc ung dung mở lái, giương buồm…
Trịnh cứ thắng!
Nguyễn thua hoài!
Nguyễn Duệ Tông phải chạy đi Giá Tân!
Nguyễn Cửu Dật phải triệu về hành tại để nghị sự.
Đó là những dịp tốt thúc giục Tây Sơn nhẩy múa trên trường
quân sự, nảy những hi vọng mơn mởn như đóa hoa hồng dưới bóng xuân non.
Tây Sơn chia việc: bọn Lý Tài đem quân thủy lén ra cửa biển Đại
Áp; Nhạc cầm bộ binh, đi men núi, sấn đến phía đông Thu Bồn. Hai đường thủy bộ
cùng nhằm một đích: ập đánh quân Cửu Dật!
Quả nhiên, Tây Sơn đại thắng, Cửu Dật phải chạy bạt về Trà
Sơn (1775).
Trước đây, Hoàng tôn Dương thừa cơ trốn thoát khỏi tay lợi dụng
của Tây Sơn, về với chúa Duệ Tông, được lập làm Đông cung (xuân Ất Mùi, 1775),
rồi phải lui giữ Câu Đê (thuộc huyện Hòa Vinh) sau khi Duệ Tông chạy đi Gia Định.
Bấy giờ Đông cung Dương lại thành một cái đích để cho Tây Sơn ngắm kỹ mà chộp lấy,
mà hành động… Cuộc chia cắt quân gia sau đây chỉ là một bước tấn tới để họ làm
đạt mục đích ấy.
Thống suất Diện và Tiên phong Tường đem hai nghìn người đóng ở
Thúy Loan và Bồ Bản làm quân Thượng đạo.
Tập Định và Lý Tài đốc suất hai nghìn người đóng ở Ba Độ làm
quân Trung đạo.
Đốc chiến Phong và Hổ tướng Hãn dẫn hai nghìn quân đóng ở Hà
Thân làm quân Hạ đạo.
Một giải “đánh cuộc” treo giữa ba cánh quân đó: hễ ai bắt được
Đông cung Dương nấy chiếm công
to nhất.
Bọn Diện và Tường giựt được kỷ lục trước nhất. Nhưng vì nghe
lời Đông cung, họ định theo vào Nam, nên dọc đường bị bọn Lý Tài giựt lại. Rồi
Dương bị ép phải về Hội An (thuộc huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam).
Chạm trán quân Trịnh
Tháng tư năm Ất Mùi (1775), quận Việp Hoàng Ngũ Phúc kéo quân
qua Hải Vân sơn (thuộc địa phận hai huyện Phú Lộc và Hòa Vinh), tiến vào Quảng
Nam, chỗ đất Tây Sơn đang tranh hùng với họ Nguyễn.
Cờ bí nước! Mặt trước có quân Trịnh, phía sau có quân Nguyễn:
Tây Sơn bị kẹp bằng hai lưỡi kìm, nhưng cứ đánh…
Nhạc cất Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, còn
mình tự làm hậu đội, đón đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa (thuộc huyện Hòa Vinh).
Toán quân Tập Đình xông đánh rất hăng, làm cho đội tiền xung
của Ngũ Phúc không sao địch nổi và một viên nha hiệu bên Trịnh phải chết trận!
Bên Trịnh thấy quân Tập Đình đánh rát như vậy, hai Tạo sĩ31
Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ bấy giờ làm tướng tiền xung, vội thúc đội phi
kỵ xông vào đánh giết toán quân Tập Đình một trận rất kịch liệt. Rồi Ngũ Phúc lại
hô quân tiến lên, xô xát một chặp nữa. Toán quân người Tàu bên Tây Sơn này, phần
bị chém chết, phần bị giày đạp, chết và bị thương đến quá nửa.
Trước tình thế bất lợi đó, Nguyễn Nhạc không chống đánh nữa,
nhưng kéo bọn Lý Tài rút lui, giữ lấy Bản Tân, rồi đem Đông cung Dương về thành
Quy Nhơn (1775).
Sau trận đắc thắng này, Hoàng Ngũ Phúc bên Trịnh kéo quân vào
đóng ở Quảng Nam. Còn bên Nguyễn thì tướng Tống Phúc Hiệp đóng giữ ở Phú Yên.
Tình hình trong Nam bấy giờ hơi giống “cuộc cờ” Tam quốc:
Nguyễn giống Ngụy, Phúc giống Ngô, Tây Sơn hãy còn là Lưu Bị lẹt đẹt.
Tạm hàng Trịnh
Để chống “Tào Tháo” phía bắc, Tây Sơn tất phải đông hòa “Tôn
Quyền”.
Kế đã định. Anh em Nguyễn Nhạc dọn sạch vàng bạc, của báu đem
về chứa ở Tây Sơn thượng; thiên Đông cung Dương về Hà Liêu và An Thái để làm
“món hàng buôn bán” sau này.
Trời tháng sáu. Một dải Hoành Sơn đã hun người bằng thứ nóng
như rang, lại nhả ra cái khí nặng nề độc địa kết hợp bằng lam chướng rừng núi
và hơi hướng người chết trong khi nạn binh đao đương khắp nơi xung xích!
Thần Ôn dịch tha hồ hoành hành! Quân lính sống sót nơi sa trường
nay một số lớn lại phải làm mồi cho vị hung thần đó (1775).
Sợ oai dịch lệ hơn sợ chiến tranh, Hoàng Ngũ Phúc không dám
tiến, phải triệt binh về nghỉ.
Tây Sơn dùng chước hoãn binh, sai bọn Phan Văn Tuế đi mua
lòng Hoàng Ngũ Phúc bằng vàng bạc, của báu. Lại đưa thư đến tướng Trịnh, xin
hàng phục, xin triều cống, xin làm chân tiểu tướng coi giữ ba phủ Quảng Ngãi,
Quy Nhơn và Phú Yên, xin tình nguyện làm tên tiền khu32 theo Trịnh đi đánh chúa
Nguyễn đương long đong ở Gia Định.
Phần muốn cho quân yên nghỉ sau trận tàn sát của thần Dịch lệ,
phần muốn lợi dụng Tây Sơn làm mũi tên độc để bắn lại nhà Nguyễn là kẻ thế thù
của họ Trịnh, Phúc dằn lòng ưng thuận, quyền phong Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu
trưởng, Tráng tiết Tướng quân. Rồi sai gia khách, chưởng thư ký Nguyễn Hữu Chỉnh,
tức Cống Chỉnh, đem ban cho Tướng quân “trá hàng” này: gươm, cờ, ấn, sắc luôn với
áo, mão và ngựa. Chẳng dè chuyến Cống Chỉnh đi này lại mở cho Tây Sơn một đường
tương lai rất mới mẻ, rất rộng rãi và rất may mắn!
Cất nhắc cho Tây Sơn đã êm, Phúc chia quân đóng các phiên trấn,
giữ từ Hải Vân sơn đến Thuận Hóa.
Ở Thuận Hóa hai năm, Phúc tỏ ra một tay khéo chinh phục “thuộc
địa”: sửa đồn lũy, khai hào trì, đặt quan lại, chia định sưu thuế, đổi lại
phong tục cho “đồng hóa” với bên Trịnh ngoài Bắc.
Nói tóm, Phúc cải cách hết mọi mặt để xóa nhòa hẳn cái dấu vết
một “triều đình” nó đã biệt lập một cách rõ rệt từ ngày Đào Duy Từ xây đắp Lũy
Thầy đến giờ.
Sau đó, Trịnh Tĩnh Đô vương triệu Phúc về Bắc cử các viên này
lên thay giữ Thuận Hóa:
Hoàng Phùng Cơ33, Phạm Ngô Cầu làm Đại tướng.
Hiệp giúp ba viên ngạch võ đó, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Đang34
đóng vai đốc thị…
Thế là cuộc cờ Thuận Quảng bấy giờ lại xoay nước mới. Nước đi
mới này rất lợi cho Tây Sơn tấn công, vì bọn Ngô Cầu vô tài, kém xa lão tướng
Hoàng Ngũ Phúc và không phải địch thủ của Nguyễn Huệ, nên một khi Huệ kéo quân
đánh thành, họ phải đắng cay dốc chén “thất bại”.
Lại trá hàng Nguyễn
Chẳng những trước đã hàng Trịnh, bây giờ lại sai người đến
xin hàng tại nơi quân thứ Phúc Hiệp bên Nguyễn, Tây Sơn tỏ ra “biết điều” và
“ngoan ngoãn” quá. Nhưng “binh bất yếm trá”, chiến thuật khôn khéo này đã đem lại
cho Tây Sơn một cái lập trường vững chắc để làm đạt tới mục đích tranh bá, đồ
vương.
Nhạc lại đem Đông cung Dương về Bồng Giang, ghép duyên với
con gái mình là Thọ Hương. Rồi ép Dương phải lên ngôi vua mặc dầu chúa Duệ Tông
bấy giờ hãy còn sờ sờ. Nhưng, Dương không chịu để cho Tây Sơn lợi dụng, cứ bai
bải từ chối cái chức “vua hờ” đó.
Nhân sứ giả của Phúc Hiệp sắp tới, Nhạc lại được dịp thi hành
cái kế hoạch đã định ấy.
“Bày” Đông cung Dương ngồi chững chạc trên sập kê ở gian giữa,
ngảnh mặt về hướng nam, bọn Nhạc đứng bên tả, cho Tôn Thất Chất đứng bên hữu.
Đó là cuộc trần thiết để đón tiếp sứ giả bên Nguyễn.
Đó cũng là một lễ sắp đặt để Nhạc “phong” Dương làm vua.
Rồi Nhạc dõng dạc cất giọng nghiêm nghị:
– Năm dinh tướng sĩ thật đã hết lòng trung nghĩa trong việc cần
vương. Chừ (bây giờ) đã trị được tên gian thần (chỉ Trương Phúc Loan), đã cứu
được nạn nước, chính là lúc chúng ta nên lập Hoàng tôn lên ngôi cho yên nghiệp
lớn. Cái công muôn đời bất hủ này ta quyết không nên bỏ qua. Chư tướng tính
sao?
Sứ giả bên Nguyễn dè dặt:
– Minh công có lòng dực đới như vậy, nghĩa thanh lừng lẫy, ai
chẳng nghe theo? Song le, chừ (giờ) tướng sĩ năm dinh kéo đến, ngài truyền cho
đóng ở mô?
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Nhạc bảo Đông cung Dương:
– Việc đó xin để điện hạ khuôn xếp, chi chi chúng tôi cũng
vâng.
Dương đáp:
– Tùy các ông, liệu mà làm.
Im lặng…
Sau khi hạ màn tấn kịch “thiết trào” này, Nhạc viết các điều
kiện giảng hòa giao cho sứ giả đem về đưa Phúc Hiệp.
Tiền phong Tướng quân
Đối với Nguyễn Huệ, một người em đã từng dày công giúp mình,
nhất là nay lại đánh được Phú Yên, Nhạc muốn tỏ ý đền bồi cái công ra tử vào
sinh ấy.
Khi Hoàng Ngũ Phúc chưa ra Bắc, Nhạc đã đem cái chiến công hạ
được Phú Yên của Huệ nói với tướng Trịnh, để nhờ cất nhắc cho em.
Trước khi đi, Phúc không quên làm một ơn huệ không tốn kém
gì: quyền phong Huệ làm Tây Sơn hiệu Tiền phong Tướng quân.
Đó chẳng qua là một thuật anh em Tây Sơn dùng để phỉnh gạt tướng
Trịnh, chứ hoài bão của họ nào có phải chỉ nhằm cái chức Hiệu trưởng hay Tướng
quân quèn ấy đâu!
Tây Sơn hạ được Phú Yên vào lúc nào mà nhanh thế?
Nguyên, sau cuộc tiếp đón sứ giả của Nguyễn Phúc Hiệp ở Bông
Giang, Nhạc không bỏ lỡ cơ hội: sai ngay Tôn Thất Chất vào Phú Yên, dụ Hiệp
giúp lập Hoàng tôn Dương cho yên xã tắc.
Rồi nhân lúc bên Hiệp không phòng bị, Nguyễn Huệ, vâng mệnh
anh, đem binh đánh úp Phú Yên; giết ngay cai đội Nguyễn Văn Hiền ở mặt trận và
bắt sống cai cơ Nguyễn Khoa Kiên. Thế là, nhanh như chớp, Phú Yên đã lọt vào
tay Nguyễn Huệ.
Sau, Khoa Kiên bị giết vì không chịu hàng; Nguyễn Huệ được
phong làm Tiền phong Tướng quân như trên đã nói.
Từ đó, công cuộc chinh chiến của chúa Trịnh cũng chết theo
Hoàng Ngũ Phúc ở dọc đường, nhường chỗ cho sức phát triển bồng bột của Tây Sơn.
Mùa đông năm Ất Mùi (1775). Tây Sơn đứng trước một tình thế
đáng lo ngại:
Sau khi hạ được Phú Yên, họ cắt Lý Tài đóng quân chống giữ,
chẳng ngờ Lý Tài bỗng trở mặt, xuống hàng Phúc Hiệp vì một chuyện bất bình với
Tây Sơn!
Nay hai phủ Thăng, Điện ở Quảng Nam lại mất vào tay nghĩa
binh bên Nguyễn là bọn Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân.
Theo nạn binh đao, ma đói ác nghiệt cứ rần vật hành hạ dạ dầy
thằng dân hoài!
Dân Quảng Nam đã khổ vì nội chiến, lại khổ vì đói kém trong
cơn mất mùa!
Dưới ảnh hưởng cơ cận này, quan Tôn Thất Quyền sút hẳn tinh
thần hăng hái vì thiếu lương thực.
Một dịp tốt cho Tây Sơn. Nhạc hết sức thúc quân đánh phá,
quét sạch toán quân Tôn Thất Quyền. Giao lại Quảng Nam cho Nguyễn Văn Duệ đóng
giữ, Nhạc kéo quân về Quy Nhơn.
Để lật đổ Nguyễn, Tây Sơn gọi hết nhân dân ra lính. Số binh
đã tăng nhiều (1776), họ theo đuổi chương trình tấn công đến triệt để.
Không chống nổi đội thủy quân của Tiết chế Nguyễn Lữ, chúa Duệ
Tông bên Nguyễn phải bỏ Gia Định, chạy đi Trấn Biên (nay là Biên Hòa). Thành
Sài Gòn từ đó nằm nép dưới bóng cờ Tây Sơn. Sau nó lại trở về chủ cũ vì có Đỗ
Thanh Nhân dấy binh giúp Nguyễn. Nhưng nó chỉ còn cái vỏ xơ xác, chứ bao nhiêu
thóc lúa trong kho là ruột và mạch máu của nó đều bị Nguyễn Lữ rút về Quy Nhơn
hết rồi (Bính Thân, 1776).
Bước lên chiếc ghế phụ chính
“Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”
Câu đó của thi sĩ Nguyễn Du dường vì anh em Tây Sơn mà đặt ra
vậy.
Từ khi được Trịnh phong cho cái “chức suông”, Tây Sơn tự làm
lấy về mặt thực tế: Theo chỗ đất cũ của Chiêm Thành, họ đắp thành Đồ Bàn cho
cao và to gấp bội. Thành này phía tây có Kim Sơn đứng trấn, phía đông có tháp Cảnh
Tiên hộ vệ, phía nam có Tam tháp triều củng, phía bắc có Thập tháp đỡ che. Gia
dĩ, núi Phong Sơn ở bên hữu làm lũy, bể Thi Nại ở bên tả làm hào, phía trong có
long bàn là núi Cù Mông, phía ngoài có hổ cứ là đèo Bến Đá: Thật là một cảnh thiên
nhiên hiểm trở35.
Bấy giờ Tây Sơn tu tạo lại: giữa nơi thành lũy kiên cố đó nổi
lên những tòa cung điện đồ sộ xây bằng đá ong.
Tháng hai năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng là Tây Sơn vương,
đúc ấn vàng.
Tổ chức thành cái triều đình mới, Nhạc phong Huệ làm phụ
chính, Lữ làm thiếu phó và tùy công ban thưởng cho các đồ đảng theo mình.
Từ đó chúa Tây Sơn trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt
tướng sĩ, dung nạp và thu dụng những tên dân vong mạng và các tay hào kiệt bất
đắc chí. Chính vì cửa thành Đồ Bàn rộng mở như thế, nên sau này Cống Chỉnh đem
đến cho Tây Sơn cái đề nghị đánh Thuận Hóa và cái phương sách diệt Trịnh, phò
Lê.
Bấy giờ Lý Tài lại phản nhà Nguyễn, chiếm giữ Chiêu Thái Sơn.
Nghe tin Đông cung Dương từ Tháp Mười vượt biển trốn vào Gia Định (tức Sài
Gòn), Lý Tài bèn đem quân hạ Sài Gòn, lập Dương làm Tân Chính vương và tôn Duệ
Tông làm Thái Thượng vương.
Muốn dựa sức Trịnh để vật lại Nguyễn, Nhạc sai Đỗ Phú Tuấn ra
Bắc, xin Trịnh cho mình coi quản toàn xứ Quảng Nam (1777).
Chúa Trịnh bấy giờ đã chán chối việc binh vì gặp nhiều cơn thất
bại trong cuộc Nam xâm, nên muốn cho xong chuyện, phong ngay Nguyễn Nhạc làm Quảng
Nam Trấn thủ tuyên úy đại sứ Cung Quốc công.
Triều Nguyễn vẫn là cái đối tượng để Tây Sơn tấn công, sau
khi Nhạc đã yên tâm, tạm gác việc đối phó với Trịnh.
Hai đường thủy bộ của quân Tây Sơn, do Huệ và Lữ cầm đầu, rần
rộ cùng tiến vào Gia Định.
Bị đánh, quân Lý Tài thua vỡ, Dương phải chạy về Trà Tân (thuộc
Định Tường).
Thừa thắng, anh em Nguyễn Huệ cứ tiến, hạ được Ba Vạc (thuộc Vĩnh
Long); luôn dịp lại đuổi Dương và Duệ Tông đến Long Xuyên (thuộc Hà Tiên), rồi
ám hại cả hai ở đó (1777). Vết thương này đâm suốt trái tim nhà Nguyễn, nên mối
thù oán giữa Nguyễn và Tây Sơn càng ngày càng sâu, càng buộc càng chặt!
Hát bài khải ca, anh em Nguyễn Huệ kéo về Quy Nhơn, để lại bọn
Tổng đốc Chu, Hổ tướng Hãn và Tư khấu Oai đóng giữ Gia Định.
Giúp anh nhảy lên ngai vàng
Năm Mậu Tuất (1778), cái năm đáng ghi bằng những nét tối quan
trọng trên trang sử Tây Sơn, cũng là cái năm rắc rối trên tờ niên biểu của bộ
Việt sử.
Lê còn chính sóc.
Trịnh còn quyền hành.
Nguyễn chưa mất hẳn ngôi chúa
Nguyễn Nhạc nay lại nhẩy lên chiếc ngai Thái Đức Hoàng đế.
Trên mảnh đất chữ S này thật chưa bao giờ có nhiều vua, lắm
chúa đến thế!
Người ta tranh nhau cái ngai vàng, nhưng người ta quên lửng
đám dân đen là cái đệm, cái kê của chiếc ngai kia, nên họ không ngần ngại đem
chúng làm mồi cho súng đạn, cho dịch lệ, cho đói kém!
“Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”
Dẫu vậy, con muỗi của nhà ngụ ngôn La Fontaine có lúc còn làm
cho sư tử phải nguy khốn thay, huống chi là trâu với bò!
Thấy chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc đặt niên hiệu là Thái Đức, có
người háo sự đoán chiết tự rằng: “Ba người tranh một nước (tam nhân tranh nhất
thủy: chiết tự chữ “Thái” 泰), mười bốn năm nữa sẽ mất!” (Thập tứ
niên vong: chiết tự chữ “Đức” 德). Song đó là loài sấm vĩ, nay hãy
gác ra một bên.
Kể từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc khởi binh đến năm Mậu
Tuất (1778) nhảy lên chiếc ngôi Hoàng đế này: tám năm thấm thoắt qua!
Thế là tôi đã dẫn các bạn đi khúc đường lịch sử khá dài rồi.
Trước đây tám năm, anh em Tây Sơn chỉ có hai bàn tay trắng,
thế mà một bước nhẩy lên vương, hai bước nhẩy lên đế, quát thét một dải Hoành
Sơn!
Các bạn nên nhận biết: trong khoảng tám năm ấy, trên con đường
sáng nghiệp của Tây Sơn, tuy có Nguyễn Huệ – Long Nhương Tướng quân (1778),
giúp sức khai phá, nhưng nó hãy còn chật hẹp, nhỏ nhen và phần nhiều chỉ quan hệ
quanh cái ngai vàng
“Thái Đức”.
Nay về sau, xin mời các bạn cùng tôi đi thăm một con đường
khác. Con đường này của riêng Nguyễn Huệ, tay mai, tay cuốc, mở rộng từ Trung
ra Bắc, rồi lại từ Bắc chực mở sang Quảng Đông, Quảng Tây. Nó rộng rãi, thênh
thang, in lại nhiều vết oanh liệt…
Khi dọn đường này, chính vai chủ động – Nguyễn Huệ – lắm phen
đã phải phấn đấu với thú dữ, rắn độc, phấn đấu với mưa, nắng, chông gai. Nhưng
kết cục, vì can đảm, vì nghị lực, vì thiên tài, người khai phá đó đã cao giọng
hát bài đắc thắng!
Vật ngã Xiêm
Trước khi thuật võ công của Nguyễn Huệ, tôi xin mượn lời Gia
Luân Tướng quân mà tặng ông: “Người có thiên tài về quân sự.”
Phải, Nguyễn Huệ quả có thiên tài, quả có thể gọi là
Nã-phá-luân Đại Việt!
Binh cơ? Rất thần tốc!
Hiệu lịnh? Rất nghiêm minh!
Ra trận? Bao giờ Huệ cũng đi đầu các tướng sĩ!
Đối với quân lính? Ông sẵn lòng chia ngọt, đắng, sẻ vui, buồn.
Ông là Ngô Khởi: “Ăn chung mặc chạ với hạng lính hèn mọn nhất,
hút mủ cho tên quân đau nhọt đáng thương.”
Ông là “chú cai con” Nã-Phá-Luân: “Cho mọi người tự do đến gần
mình, phân lao với kẻ khó nhọc, khuya sớm thăm nom sĩ tốt ở bên lều, san sẻ với
họ từ một thìa súp.”
Phủ khắp bộ thuộc một bầu không khí êm ái…, Nguyễn Huệ chiếm
được trái tim của quân nhân!
Dầu vậy, ông không nhãng bỏ chữ “oai”. Chính cái ân oai nhằm
đường đó đã tặng ông đóa hoa chiến thắng và dẫn ông đến bước thành công:
Bốn lần vào đánh Gia Định, quân Nguyễn thảy đều kinh sợ khi
thấy bóng ông tướng “tóc quăn, da sần, cặp mắt hùng thư” mà sáng như chớp đó!
Năm Nhâm Dần (1782), ông đem mấy trăm chiếc thuyền vào cửa biển
Cần Giờ, đánh với quân Nguyễn ở Ngã Bảy (chữ nho dịch là Thất Kỳ giang): Quân
Nguyễn phải đại bại dưới bóng cờ ông tướng “thiện chiến” ấy.
Có lần ông kéo quân đến Lữ phụ, bày trận ngảnh lưng xuống nước,
công kích rất hăng (tháng tư năm Nhâm Dần, 1782), làm cho chúa Nguyễn Ánh, tức
vua Gia Long tương lai, phải chạy ra đảo Phú Quốc.
Qua năm Quý Mão (1783), ông và anh là Lữ lại vào Cần Giờ, ngược
dòng, lên đánh tan quân Chu Văn Tiếp bên Nguyễn vì toán quân này, hồi tháng tám
năm ngoái (1782), từ Phú Yên vào cứu Gia Định để đón chúa Nguyễn Ánh do đảo Phú
Quốc quay về nội địa.
Trận đó, quân Tây Sơn bắt được Nguyễn Hoàng Đức, tướng đi chận
hậu cho chúa Nguyễn, và làm cho Nguyễn vương phải chạy đi Côn Lôn. Phò mã Tây
Sơn Trương Văn Đa, đuổi theo, suýt bắt được chúa Nguyễn Ánh. Nhưng vì bấy giờ
trời mưa như trút, cơn dông tố ầm ầm nổi lên, mặt nước mờ tối, lôi thuyền Tây
Sơn xuống nơi thủy phủ rất nhiều, nên chúa Nguyễn Ánh lại chạy ra Phú Quốc được.
Lại để Văn Đa đóng giữ Gia Định, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn với
vòng hoa thắng trận.
Trong cuộc nội chiến giữa Nguyễn và Tây Sơn này có một việc tối
quan trọng đã xảy ra năm Giáp Thìn (1784):
Đó là việc chúa Nguyễn rước Xiêm sang cứu giúp.
Đó là keo Việt – Xiêm đọ sức trên chiến trường.
Nước Xiêm tức Tiêm La, kêu theo chữ Hán, ngày nay đang đứng
ngang hàng với liệt cường thế giới. Nhưng, trước đây ngót một trăm sáu mươi
năm, Xiêm sánh với Đại Việt ra sao? Các bạn đọc qua mấy hàng sử ký sau đây khắc
biết.
Năm Giáp Thìn (1784), Chiêu Tăng, Chiêu Xương, hai tướng
Xiêm, kéo hai vạn thủy binh và 300 chiến thuyền sang Đại Việt!
Trảy đi đến đâu, quân Xiêm nhũng nhiễu đến đó: dân gian phải
uống những “hớp” khổ sở, đắng cay!
Quân Xiêm tuy đánh bại được Văn Đa (tướng Tây Sơn), tiến đóng
tận Long Hồ, nhưng không phải là tay đối địch của Nguyễn Huệ.
Quả thế, Nguyễn Huệ, khi hay tin quân Xiêm kéo đến, Văn Đa đã
thua, lập tức đem quân vào Gia Định, quyết vật một keo với ngoại binh.
Thoạt giao chiến, quân Tây Sơn lùi... và cứ lùi… nhử quân
Xiêm đến Mỹ Tho. Một ám hiệu nổi dậy, toán kính binh (quân cứng mạnh) mà Huệ đã
sai phục ở Xoài Mút (thuộc Định Tường) bên Rạch Gầm, thình lình xông ra đánh giết.
Quân Xiêm đang khốn đốn vì gặp phục binh của Tây Sơn, lại bị hai mặt quân thủy,
lục do Huệ thúc đến công kích rất dữ, đành phải ở nơi đất khách làm bao con quỉ
cụt đầu! Sau trận đại bại này, bên Xiêm chỉ còn vài nghìn tàn binh nheo nhóc
điêu linh vừa chạy về vừa thom thóp sợ oai Nguyễn Huệ.
Ấy đó, ngay đời Nguyễn Huệ, địa vị Tiêm La hãy còn thấp kém,
sức lực Tiêm La hãy còn bé mọn, binh bị Tiêm La hãy còn không địch nổi Tây Sơn,
thế mà bây giờ:
“Trần ai, ai đã biết ai?”
“Tôi già rồi! Ai địch nổi!”
Nhắc lại: năm Ất Mùi (1775), Hoàng Ngũ Phúc, tướng Trịnh, khi
còn đóng quân ở Châu Ổ (thuộc Quảng Ngãi) có nói với tướng tá ở bộ thuộc mình,
lúc Phúc mới bắt đầu vướng phải bàn tay ác nghiệt của thần Dịch lệ: “Tây Sơn
bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh! Tôi già mất rồi! Còn các tướng, tôi e,
không phải là tay đối địch với họ được!” Lời “biết người, biết mình” của viên
lão tướng đó dường vì sau đây mấy năm, cảnh cáo Phạm Ngô Cầu.
Bị chúa Trịnh triệu về, Ngũ Phúc để Bùi Thế Đạt đóng giữ Thuận
Hóa, đem binh trảy ra Bắc, nhưng mất ở dọc đường.
Xưa, người mình mê tín địa lý, hễ thấy ai quật cường nổi lên,
thì cho ngay là “đất phát nghịch”, nhà nào xây lâu đài lộng lẫy trên nền “hàn
vi” thì cho là “hòn đất đã dậy!” Rất đỗi đối với quân quốc trọng sự, người ta
cũng dùng đến cái “chiến thuật” đào mả hoặc đoạn tuyệt long mạch để chực “triệt”
nhau. Cái cử động vô ý thức đó thường diễn trên sân khấu tranh vương đồ bá của
người mình.
Trình độ đời Lê bấy giờ cũng không vượt khỏi cái nấc “mê tín”
ấy.
Tây Sơn vùng dậy với tiếng hùng cường, chẳng những là cái sợ
riêng cho triều Nguyễn trong Nam, mà lại là cái lo lớn cho Chính phủ36 Bắc Hà nữa.
Chả thế, có nhà đương đạo bên Trịnh phải xét đến mả nhà Tây
Sơn mà nói với triều đình Bắc Hà rằng:
– Cứ theo kiểu đất Tây Sơn, thì thập nhị niên cường, kỳ cường
mạc ngữ! (mạnh 12 năm, cái mạnh ấy không ai chống nổi!) Vậy xin triều đình phải
sớm dẹp đi, ngõ hầu sau mới khỏi lo…
Nhưng mạt vận đương tràn ngập vua Lê, chúa Trịnh! Ai người đi
dẹp Tây Sơn? Chẳng những không dẹp nổi, mà hai phủ Thăng (Thăng Bình), Điện (Điện
Bàn) thuộc Quảng Nam bấy giờ lại bị Tây Sơn chiếm cứ37, nên Trịnh Sâm cũng phải
nới tay: phong nước cắt đất cho họ để mong êm chuyện (1777).
Sau khi lật đổ họ Nguyễn, chúa Trịnh giựt lấy miếng đất Thuận
Hóa, phái 3.000 đồn binh, 30.000 thú binh đóng giữ38. Cầm nắm cơ quan chính trị
và quân sự ở đó, một đại tướng, một phó tướng và hai viên chánh, phó đốc thị.
Ngồi ghế trọng trấn Thuận Hóa, sau Hoàng Ngũ Phúc là Bùi Thế
Đạt39, sau Đạt là Phạm Ngô Cầu.
Ngô Cầu? Con người vô tài, vô năng, tham lam, nhút nhát, mà lại
đa nghi. Cầu, tay cầm cái ấn Đại tướng ở biên cương, chỉ cốt kiếm lợi bằng cách
vơ vét đục khoét, chứ không có một chủ trương gì tỏ ra là người xứng đáng cả.
Đối với phó tướng Hoàng Đình Thể, một người có tư cách hơn Cầu,
Cầu vẫn nhìn bằng con mắt
ghen ghét.
Cái chân tướng bất xứng chức đó của Cầu đã bị lột trần dưới mắt
“củ soát” của quyền Phủ xứ Hồ Sĩ Đống. Nhưng cái đề nghị xin cử người khác thay
Cầu chưa được triều đình Bắc Hà làm theo, thì Đống đã chết, nên Cầu vẫn cứ ngồi
vững trên ghế trọng trấn miền Nam: làm anh bù nhìn giữ “dưa” cho chúa Trịnh và
làm cái “bàn đạp” cho Nguyễn Huệ nhảy lên để phóng ra Bắc Hà…
Đế vương trong tay chúng tôi!
Lê chưa “vong”, Trịnh đã đến lúc sắp “bại”!
Tướng đóng ngoài biên: Phạm Ngô Cầu, một người đớn kém như
trên đã nói.
Quân ở trong? Một tụi lính tráng kiêu căng, rông rỡ, ngang ngạnh!
Họ “úp sọt” cả vua lẫn chúa, ngang nhiên rờ mó đến cái thần khí xưa nay vẫn coi
là thiêng liêng.
Cây “Trịnh”, bấy giờ, rễ đã lũa, ruột đã sâu, quyết không sao
khỏi đổ khi gặp một trận gió “Tây” lay giựt!
Đầu thiên “lịch sử ký sự” này, tôi đã nói sơ đến thói kiêu hoạnh
của chư quận bên Trịnh, nay cần thuật thêm cho rõ nguyên ủy:
Nguyên từ hồi trung hưng (từ năm 1533 trở đi), nhà Lê chỉ lấy
binh đinh ở ba phủ Thanh Hoa và mười hai huyện ở Nghệ An. Vì nhà Lê dấy lên từ
Thanh Hoa, binh lính ở hai nơi Thanh Nghệ đã từng chia sẻ với quốc gia những nỗi
gian lao vất vả, nên được triều đình coi hạng lính ở đất căn bản ấy như móng vuốt,
ruột rà, đối đãi một cách ưu hậu40. Vì vậy, bấy giờ họ được mang cái danh hiệu
rất đẹp đẽ là “quân Tam phủ” hoặc
“Ưu binh”.
Được làm “con cưng” của vua chúa, họ dần dần được đằng chân
lân đằng đầu.
Năm Lê Gia Tông Dương Đức thứ 2 (1673), quân Tam phủ, vì thấy
việc thuyên thụ (thuyên bổ và cho phẩm trật) có hơi kém, bèn nổi dậy làm loạn,
giết Bồi tụng Nguyễn Quốc Hòe, đốt nhà quốc lão Nguyễn Công Trứ rồi cướp của cải41.
Qua năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740), họ ức vì việc Tham tụng
Nguyễn Quý Kính (có âm nữa là Cảnh) hơi đè nén một cách trái lệ, liền hò nhau đến
phá nhà Quý Kính, cướp hết của cải và đồ vật42.
Năm Nhâm Dần (1782).
Tháng chín, Trịnh Tĩnh Đô vương, trước khi nhắm mắt, giao phó
việc giúp lập con là Trịnh Cán vào tay bảy người tâm phúc là bọn Hoàng Đình Bảo.43
Nhưng vì Đình Bảo chuyên quyền và Trịnh Cán không được lòng
người, gây thành một cuộc phế lập “tháng mười” do quân Tam phủ đứng làm chủ động.
Nay Ưu binh, sẵn võ khí trong tay, tự do làm việc họ muốn:
Lập Trịnh Tông (tức Khải) làm Đoan Nam vương (1782-1786).
Phế Trịnh Cán làm Cung Quốc công.
Giết Đình Bảo.
Lung tung cướp phá nhà Đình Bảo và các nhà thân thuộc của Đặng
Thị Huệ (mẹ Trịnh Cán) luôn với các nhà phe đảng Đình Bảo!...
Chư quân còn thanh ngôn muốn giết cả vương cữu nữa. Thái phi
nhà Trịnh phải ra kêu khóc xin tha, họ mới thôi.
Luôn mấy ngày, kinh thành sống trong cơn khủng bố rối loạn!
Đình thần im tiếng.
Sau việc “đảo chính” này vài ngày, chư quân lại kéo đến nơi
ngục thất, trả lại tự do cho các con của cố Thái tử Lê Duy Vỹ là Duy Lưu và Duy
Chi44.
Còn Duy Kỳ45 cũng con của cố Thái tử nhà Lê, được họ thả ra từ
hôm phế lập.
Lần thứ nhất họ đã được vua Lê Hiển Tông trọng thưởng tiền bạc
và “chức tước” như biện lại hoặc cai quản,…
Lần sau họ lại đến “vòi” Lê đế về việc buông tha được hai
Hoàng tôn ra khỏi nhà tù.
Không thiết 2.000 lạng bạc của ông vua nghèo, họ trả lại bạc
nhưng đòi xin “danh phận” lần nữa.
Sẵn “cây nhà lá vườn” vua Lê lại sai làm sắc phong cho họ:
trong đám chư quân, kẻ nào đã được phẩm trật lần trước rồi, nay không muốn nhận
nữa, thì họ lại nhường cho bà con hoặc người quen thuộc họ.
Cũng chiều theo ý họ, triều đình bèn “chế tạo” ra một thứ sắc
gọi là “Dực đới tương nhượng sắc” để ban cho kẻ nào mà chư quân muốn nhường.
Bởi chư quân, Trịnh Tông đang bị truất bỗng được lên ngôi
vương.
Cũng bởi chư quân, các cháu vua Hiển Tông nhà Lê đang bị xiềng
xích bỗng được thở hút không khí tự do.
Trách nào họ chẳng tự phụ: “Các ngôi đế vương đều tự trong
tay chúng tôi mà ra cả!”
Thế là, từ đó, họ như đàn ngựa không cương khớp: Họ cất! Họ
đá! Triều đình là một “sân quần” của họ. Họ, động một tí, đánh mõ inh ỏi, tụ họp
lại, kéo thành đàn hàng chục hàng trăm: nhông nhông giong lượn, kêu gọi la ó ầm
ĩ…
Họ yêu cầu Nhà nước cho họ hưởng các lợi quyền ở nơi quan ải,
bến đò, đầm, hồ, bãi sông, chợ búa (1783).
Ấy là không kể vụ tháng mười năm Nhâm Dần (1782), nhiều nhà
giầu trong thành đã bị vạ lây vì họ cướp bóc phá phách, sau lúc đánh đổ phe đảng
Hoàng Đình Bảo.
Mà từ đó trở đi, họ càng “vòi” được các mối lợi của Nhà nước
bao nhiêu, thì dân gian lại càng bị họ khuấy nhiễu bấy nhiêu. Vì mối lợi họ được
có đụng chạm đến dân gian: một khi chợ búa, bãi sông… đã lọt vào tay họ, thì
dân quê lẽ tất nhiên bị họ bóc lột tàn nhẫn!
Vì thế, mối căm hờn ngày một ăn sâu vào xương tủy dân gian.
Giữa dân và lính đào sâu một hố cừu thù.
Ngay những cố lão ở hồi Thành Thái (1889-1907) gần đây hãy
còn hay dùng câu này để chỉ những cử động nhũng nhiễu của kẻ không giữ kỷ luật:
“Làm gì như quân Tam phủ ấy thế!” Đủ biết cái nạn Ưu binh ở đương thời ghê gớm
là chừng nào!
Nội tình bên Trịnh bấy giờ là thế (1782-1783).
Con diều biển!
Trước khi thuật việc Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân, ta không
thể không nói đến một nhân vật đã đóng vai tối qua trọng trên sân khấu chính trị
bấy giờ.
Người ấy là một vai “công kênh” để Nguyễn Huệ “trèo” vào thành
Phú Xuân.
Người ấy là một dịp cầu bắc để Nguyễn Huệ từ Phú Xuân nhảy một
bước ra Bắc Hà.
Người ấy là anh “dàn cảnh” để vua Lê Hiển Tông sống lại một
ngày oanh liệt.
Người ấy là anh chàng “đánh hôi”: đạp đổ cái ngai chúa Trịnh
Kiểm (1545-1570) đến Trịnh Khải (1782-1786).
Người ấy lại là một bác “mai dong”46 khiến Ngọc Hân Công chúa
nhà Lê được đẹp duyên với anh hùng Nguyễn Huệ.
Nói tóm, người ấy là một tay núp sau Nguyễn Huệ, xoay trở thời
cục hồi cuối Lê một cách ngửa nghiêng điên đảo…
Người ấy là ai?
Nguyễn Hữu Chỉnh, tức Cống Chỉnh!
Chỉnh, người Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, vốn
thông mẫn và có tài năng từ thuở bé. Mới ít tuổi đã đỗ Hương cống. Sau tập võ
nghệ, Chỉnh lên kinh sư, thi Tạo sĩ, nhưng không đỗ.
Tức mình, xoay phá ngang, Chỉnh vào yết kiến quận Việp Hoàng
Ngũ Phúc, kiếm một con đường tiến thân ngoài lề lối thường.
Thấy Chỉnh là người kỳ kiệt. Phúc dùng làm môn khách: giắt
nghiên cài bút theo đi tòng quân.
Năm Giáp Ngọ (1774), nhân có việc Ngũ Phúc quyền phong Nguyễn
Nhạc làm Tráng tiết Tướng quân, Chỉnh được sai đem đến cho Tây Sơn sắc, ấn, cờ,
kiếm: Lần thứ nhất Chỉnh chạm trán với anh em Tây Sơn. Khi về, Chỉnh có nói với
Ngũ Phúc: “Anh em Tây Sơn là tay ngấp nghé khác thường, chắc không chịu ở lâu
dưới ai đâu.”
Nhưng trong khi đang mải miết tìm một lập trường trên mảnh đất
chính trị ấy, Chỉnh có biết đâu rằng dân chúng ở tầng lớp dưới đương chết đói
vì hạn hán, mất mùa. Nguyên, bấy giờ thóc đang kém, gạo đang cao, nhân dân đang
thiếu đói; thế mà đến tháng Bảy mùa thu năm Bính Thân (1776) lại gặp cơn đại hạn,
đồng ruộng cháy khô, nhà nông không sao làm được công việc. Những người nghèo
khó hết qua cửa quyền nọ lại đến nhà sang kia cũng không sao kiếm được một chân
làm thuê, làm mướn. Vì vậy, trộm cướp nổi lên như rươi, khuấy nhiễu chốn dân
dã, làm cho người ta không sống yên được47.
Sau khi Ngũ Phúc qua đời, Chỉnh nương tựa nơi con nuôi Phúc
là quận Huy Hoàng Đình Bảo48.
Hồi Đình Bảo đóng ở Nghệ An, Chỉnh được sung chức võ, làm hữu
tham quân. Giữ việc điều khiển các thủy thủ chống giữ mặt biển, Chỉnh tỏ ra là
một tay nhanh nhẹn giỏi giang về nghề thủy chiến.
“Con Diều biển” (Hải diêu)! đó là cái tước hiệu người ta kêu
Chỉnh để khen tặng Chỉnh trong hồi bấy giờ49.
Chẳng bao lâu “Con Diều biển” đó được quản Tiền Ninh cơ ở Nghệ
An và được phong làm Bằng Lĩnh hầu.
Cuối đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm phế con trưởng là Trịnh Tông, lập
con nhỏ là Trịnh Cán. Và, để giữ vững địa vị cho con nhỏ này, Trịnh Sâm giao
quyền bính và việc gửi gắm vào tay Hoàng Đình Bảo.
Nhưng, như trước đã nói, sau khi Sâm mất, chư quân nổi cuộc đảo
chính (tháng mười, năm Nhâm Dần (1782): Phế Trịnh Cán! Lập Trịnh Tông! Giết hại
phe đảng Đình Bảo!
Tin biến động đó do biền sinh Hoàng Viết Tuyển, thủ hạ Chỉnh,
từ kinh báo đến Nghệ An: Cống Chỉnh sợ!
Đứng trước thời cục gay go đó, giải quyết thế nào đây?
Có hai cách: Một là kéo cờ độc lập, thoát ly hẳn triều đình,
Hai là… trốn!
Một ý nghĩ vụt nảy trong óc, Chỉnh vội sang bàn với trấn thủ
Vũ Tá Giao:
– Nguy đến nơi rồi! Chi bằng ta kết hạp với phó tướng ở Thuận
Hóa là Hoàng Đình Thể và đồn thủ ở Động Hải là Khôi Xuân, xui họ giết đại tướng
(chỉ Phạm Ngô Cầu), chiếm giữ lấy thành, đứng làm một tay cứu viện. Còn ông (chỉ
Vũ Tá Giao), ông cứ giữ lấy trấn Nghệ An này, gây thế “thần xỉ” (môi và răng) với
các tướng Thuận Hóa, rồi chẹn đường Hoàng Mai, đóng trọng binh ở Quỳnh Lưu. Như
vậy có thể giữ vững được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển thì chính Chỉnh
này xin cáng đáng hết. Ông tính sao?
Tá Giao lắc đầu:
– Việc ấy tôi không làm nổi.
Kế thứ nhất đó không thành. Chỉnh phải tính đến chước thứ
hai: chạy!
Chạy vào Quy Nhơn (1782), sau khi Chỉnh từ giã Tá Giao về
nhà.
Chạy vào Quy Nhơn, Chỉnh được anh em Tây Sơn hoan nghênh nhiệt
liệt!
Nguyên vì từ ngày vâng mệnh Hoàng Ngũ Phúc đem sắc, ấn, cờ,
kiếm vào cho Tây Sơn Hiệu trưởng, Chỉnh đã được anh em Tây Sơn biết là con người
thế nào rồi. Nay Chỉnh túng bước, cùng đường, phải dắt gia quyến và Hoàng Viết
Tuyển vượt biển vào đây chính là dịp tốt cho Tây Sơn lợi dụng.
“Cô gái làm đỏm vì người yêu.” Chỉnh, có thể nói, trổ tài vì
tri kỷ.
Sau khi về với Tây Sơn, Chỉnh hết lòng làm việc: nào bày mưu,
vạch kế, nào diễn đồ pháp để luyện binh lính. Nào lập phép thi để lựa chọn nhân
tài… Một việc này làm cho Tây Sơn càng thêm thân tín: Chỉnh thẳng tay giết luôn
người em rể (lấy em gái Chỉnh) khi người này vâng lịnh chúa Trịnh vào Quy Nhơn
chực dụ Chỉnh về.
Năm Bính Ngọ (1786), Phạm Ngô Cầu50 tướng Trịnh, đóng ở Thuận
Hóa, muốn dòm nội tình hư thực của Tây Sơn, có sai bọn Nguyễn Phu Như và Võ
Vĩnh Thành đi “thuyết” anh em Nguyễn Nhạc. Nhưng ngờ đâu Phu Như lại là cố nhân
của Chỉnh, trở thành một chiếc tên độc bắn lại Ngô Cầu! Bao nhiêu tình hình Thuận
Hóa, Phu Như mách bảo Cống Chỉnh hết cả, và không quên kết luận một câu: “Thực
trạng Thuận Hóa như nay, có thể lấy được lắm.”
Ngoại tình bên Trịnh bấy giờ đã nguy ngập là thế, nội tình lại
càng nhiều nỗi gay go: Từ tháng ba năm Bính Ngọ (1786), giá gạo cao lên vùn vụt,
trong kinh kỳ và bốn trấn Đàng Ngoài bị nạn cơ cận giày vò: dân đói, chết như
ngả rạ. Bấy giờ chỉ có bát gạo là đáng quý, chứ chẳng ai – dù là người giầu –
thiết đến chức tước gì cả. Một chứng cớ: Chúa Trịnh Khải ra lệnh cho dân hễ ai
quyên tiền thì được ban chức, nhưng không ai đáp theo tiếng gọi của triều đình,
đến nỗi chúa Trịnh phải đem sắc lệnh ép gán cho nhà giầu để lấy tiền mà phát chẩn.
Hạ thành Thuận Hóa
Thuận Hóa vẫn là miếng mồi ngon trước mắt thèm thuồng của Tây
Sơn.
Nội tình bên Trịnh đã đem lại cho Tây Sơn cái dịp có thể giựt
được miếng mồi ấy.
Lời Chỉnh khuyên lấy Thuận Hóa lại càng làm cho Tây Sơn quả quyết
và mau chóng thực thành ý định ấy.
Trước hết Tây Sơn sai một tay thuật sĩ đến Thuận Hóa, đem
chuyện họa phúc hăm dọa Ngô Cầu.
Sợ lời “truật” đó của tay sai bên Tây Sơn, Cầu ra lệnh cho tướng
sĩ lập đàn làm chay: chực chờ giọt nước cành dương rảy mát tâm hồn “hèn nhát”.
Chuông trống nổi...
Đàn chay linh đình…
Chẳng dè lẩn bên khói hương “cầu nguyện” kia quân sĩ Tây Sơn ầm
ầm kéo đến!
Ngày 18, tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), dưới quyền cắt cử của
Nguyễn Nhạc, Huệ làm Long Nhương Tướng quân, tiết chế các quân thủy bộ, Võ Văn
Nhậm (người Quảng Nam, rể Nhạc) làm Tả quân Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu
quân. Hai đạo thủy, lục bên Tây Sơn cùng tiến nhằm theo một đích: đánh thành
Thuận Hóa.
Quân thủy đi đường biển. Quân bộ đi đường Hải Vân quan.
Ngày 24 tháng đó, quân bộ Tây Sơn qua Hải Vân quan, bốn mặt
đánh thúc vào đồn An Nông: Thủ tướng bên Trịnh là Hoàng Nghĩa Hồ51 thế cô, sức
kiệt, thuốc đạn hết, phải tự vẫn trên mình voi sau khi cố chết chống đánh một
cách anh hùng.
Đàn chay của Phạm Ngô Cầu tưng bừng rộn rịp trong bẩy ngày
đêm: lời cầu nguyện dường theo khói trầm, triện hương bay sang Thiên Trúc…
Thì tin quân khẩn báo làm choáng váng Cầu!
Lật đật từ trai đàn trở về, Cầu bàn tính việc đem quân chống
giữ.
Nhưng, quân sĩ đóng ở Thuận Hóa bấy giờ chịu ảnh hưởng xấu của
chư quân ở kinh đô, cũng kiêu rông, cũng khinh lờn kỷ luật, làm nhiều điều tàn
ngược tai hại cho nhân dân, gieo vào lòng họ một mối căm hờn vô hạn! Vả, phần
vì mỏi mệt vì binh đao đã lâu, phần vì đi xa nhớ nhà, quân lính chẳng còn bụng
dạ nào thiết đánh chác nữa!
Một bức mật thư lạc vào vòng quân Ngô Cầu. Cầu nghĩ bụng: “Thể
và Chỉnh, trước kia, đều là môn hạ Hoàng Ngũ Phúc, bây giờ, chúng bí mật thông
nhau, chắc có chuyện bất lợi cho mình! Vả, quân Tây Sơn đương như nước lụt ầm ầm
đổ đến, Đình Thể nếu lại đứng trong làm nội ứng thì ta hơi sức đâu chống nổi với
họ? Chi bằng xoay theo chiều gió, ta kéo cờ hàng là hơn…”
Bức thư gì có sức mạnh hơn trăm cây súng, nghìn lưỡi gươm thế?
Bức thư “ly gián” theo chiến thuật của Nguyễn Huệ!52
Nguyễn Huệ biết Cầu, đối với Hoàng Đình Thể, bấy nay vẫn đem
lòng ghen ghét hằn học; mà Thể bất bình trước cách đối đãi ấy của Cầu, nên Huệ
quyết dùng chiến thuật “tháo tung bó đũa ra, rồi sẽ bẻ gãy từng chiếc một”; mật
sai Chỉnh viết bức thư kín phong trong sáp, hẹn Đình Thể làm nội ứng, nhưng giả
đò bắn lạc vào nơi Ngô Cầu.
Quả nhiên kế đó đem lại cho Tây Sơn cái kết quả đẹp.
Cầu chưa tính xong nước cờ bí; Nguyễn Huệ đã kéo hai mặt thủy
bộ đến rồi!
Bất đắc dĩ Cầu phải làm việc “bổn phận”: sai Đình Thể đem
quân ra ngoài thành nghinh chiến.
Sừng sững đứng ngay bờ sông, vách thành Thuận Hóa bấy nay vẫn
ngạo nghễ với sương ghê, gió lạnh.
Chân thành cách mặt sông độ hơn 2 trượng. Một cái khó cho
quân thủy Tây Sơn, vì không tiện ngửa lên bắn vào được.
Thình lình phát đại bác bên Trịnh bắn ra: một chiếc chiến
thuyền Tây Sơn chìm lỉm!
Thủy binh Tây Sơn hơi lùi.
Sau, nước sông lên to53, nâng thuyền Tây Sơn lên cao ngang với
mặt thành.
Súng Tây Sơn theo dịp may đó, cứ đùng đoành bắn vào thành, ngốn
nuốt quân dân Thuận Hóa trong vòng khói đạn!
Các cửa thành bị quân bộ Tây Sơn rần rộ bổ vây và ầm ầm đánh
phá.
Hết sức xông pha, chống chọi, Đình Thể và hai con54 cùng quân
bản bộ đã thịt được vài trăm quân Tây Sơn. Nhưng bây giờ thuốc đạn đã hết.
Thuốc đạn hết? Tướng tài đến đau cũng đành phải bó tay!
Thuốc đạn hết? Mặc! Phạm Ngô Cầu cứ bịt tai giả điếc trước những
tiếng Đình Thể gấp rút đòi xin tiếp tế đạn dược và cầu cứu thiết tha!
Không thể nhịn tức trước thái độ tàn nhẫn đó của Cầu, Thể định
quay về thành, giết phăng Ngô Cầu trước đã, rồi lại ra quyết “ăn thua” với quân
địch sau. Nhưng Thể thấy trên thành đã kéo cờ trắng: đầu hàng rồi!
Thể vừa căm giận, vừa tức bực, nhưng vẫn không quên làm phận
sự đến phút cuối cùng:
Thể, tay cầm đoản đao, thúc quân cứ tiến, vùng sang tả, quật
sang hữu, chém giết một hồi, làm rụng đến vài mươi chiếc đầu của quân địch.
Hai con của Thể đã chết vì bị trọng thương!
Tỳ tướng Vũ Tá Kiên55 lại chết ở vòng trận!
Thể cũng tự vẫn trên mình voi, chết vì nghĩa vụ sau khi sức lực
đã kiệt và thuốc đạn đã hết nhẵn.
Bên Trịnh, đốc thị Nguyễn Trọng Đang56 và nhiều tướng khác hoặc
bị dấp dáy trong vòng loạn quân, hoặc bị vùi dập nơi hào nước, sẽ theo những hồn
cô trung âm thầm rên rỉ trên bãi sa trường trong những đêm gió mưa ảm đạm!
Nguyễn Huệ ung dung kéo binh vào thành giữa những tiếng hò
reo thắng trận của ba quân.
Để xin hàng, Cầu sợ cuống, vội sai trói mình đem nộp57 trước
gót chân nhà chiến thắng. Nhưng, van lạy người ta cũng không xong, Cầu phải làm
một tên tù binh điệu về Quy Nhơn, rồi bị giết chết tại đó!
Trước khi xảy ra trận chiến này, Thuận Hóa đã kéo bao người
Nghệ An đến để chực kiếm ăn vì Nghệ có nạn mất mùa đói kém. Ai ngờ chưa tránh
khỏi thần Cơ cận, họ lại gặp ngay con quỷ Binh đao! Họ, một hạng dân quê vì đói
phải tha hương cầu thực, bỗng bị chết oan vì khói lửa: thây xác lấp nghẽn cả
sông! Không những họ chết, ngay những tướng sĩ và “kiều dân” Bắc Hà cũng chỉ
còn được vài trăm người sống sót chạy về thôi.
Về số người chết vì trận này, Đại Nam chính biên liệt truyện
sơ tập, có chép:
Nguyễn Huệ lùa quân vào thành, tha hồ giết gióc: Vài vạn quân
Bắc ở trong thành đều bị thịt ráo! Còn những tên lính nào chạy trốn ra ngoài
thành thì lại bị nhân dân tranh nhau giết chết! (Quyển 30, tờ 19).
Còn trong Khâm định Việt sử quyển 46, tờ 16a thì chép:
Tây Sơn “ồ ạt kéo binh vào thành, tha hồ giết gióc. Trong số
hơn vài vạn tướng sĩ đóng đồn ở đấy chỉ còn vài trăm người qua sông về Bắc được
thôi.
Nhưng trong Lê quý kỷ sự chép:
… Quân Bắc vài vạn người đóng ở trong thành, bị chết không biết
bao nhiêu mà kể!
Sau khi hạ được Phú Xuân, Nguyễn Huệ sai thiên tướng (cũng
như tì tướng) là Nguyễn Lữ đánh hãm hai đồn Cát Doanh58, Động Hải59. Tướng Trịnh
đóng ở Động Hải là Ninh Tốn bỏ thành chạy. Các tướng ở đồn Cát Doanh cũng theo
gót trốn hết. Thế là mảnh bản đồ mà Trịnh Sâm trước đây đã nhọc công tốn của giựt
được khỏi tay triều Nguyễn, nay lại lọt vào trong “túi” Tây Sơn!
Tiếng ca đắc thắng vang dậy một bầu không khí Thuận Quảng.
Nguyễn Huệ hội họp chư tướng, bàn định lại sai quân lính sửa sang trường lũy ở
Động Hải, cứ giữ mốc cũ La Hà, lấy con sông đó làm giới hạn ngăn chia Nam, Bắc.
Nghe lời Chỉnh, Nguyễn Huệ ra lệnh tha về hết cả mọi người
các nơi đến nơi cư trú ở Thuận Hóa đã sống sót sau trận chiến tranh này.
Cờ chiến thắng của Tây Sơn đã cao bay ở thành Thuận Hóa, bên
Trịnh hãy còn lúng túng trầm trọng trong cơn tê liệt!
Phải, tê liệt cả mặt nội chính lẫn mặt quân sự. “Người ốm yếu”
đó sao đứng vững nổi trước sức tiến công hăng hái của Tây Sơn?
Tình hình ngoài Bắc sau khi Phú Xuân thất thủ!
Giặc!
Bên Trịnh đương loay hoay dẹp giặc.
Nhưng Thiêm Liên60, với vài trăm chiếc thuyền, vẫn tung hoành
ở hải phận Quảng Yên! Sử Thục vẫn vẫy vùng khuấy nước ở Kinh Bắc!
Hết quân nọ đi tiễu đến tướng kia đi càn, rút cục góc đông
nam ngoài Bắc Hà vẫn ngụt ngạt mùi thuốc súng và nhân dân miền đó vẫn bị các tướng
lục lâm giày vò!
Binh lực rỗng không.
Nước rỗng không.
Họ Trịnh đương dắt nhà Lê lảo đảo bên vực rỗng không!
Ngày 24, tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), quân Nguyễn Huệ đã
vượt Hải Vân quan; biên thùy mới có tin báo đến triều đình.
Vấn đề “phòng thủ” được triều đình bệ vệ, khệnh khạng, rề rà
bàn đi xét lại.
Quyến, một hoạn quan đắc sủng với Trịnh Đoan Nam vương, tiến
cử người con nuôi tên là Mãn (có bản viết là Câu) làm Đô thống, chực cầm quân
đương đầu với Long Nhương Tướng quân.
Nhưng bàn xét một lần, hai, ba lần: việc đó đình nghị vẫn
chưa ngã ngũ!
Quân lính? Bấy giờ quen rông rỡ, sợ đi xa, không coi kỷ luật
ra gì, họ chỉ có thể làm hạng quân nhân phế Trịnh Cán, giết Đình Bảo, chứ không
thể xông pha mưa tên, rừng đạn, chống chọi với Tây Sơn!
Thuận Hóa đã ngoan ngoãn nép dưới bóng cờ của Long Nhương Tướng
quân, triều đình ngoài Bắc, ngày mồng 3 tháng sáu, mới được dịch thư (thư chạy
bằng ngựa trạm) do trấn Nghệ An mật báo đến!
Tin chẳng lành nhưng bí mật ấy, triều đình định bưng bít
không cho dân biết.
Dẫu vậy, tiếng đồn đại mất Thuận Hóa, theo gió đông nam, cứ
thổi thổi khắp dân gian!
Họ rùng rợn trước cuộc thế đổi thay! Họ cõng trẻ dắt già, nhốn
nháo bỏ kinh thành, tìm nơi
lánh loạn!
Họ, khi gặp cơn chiến tranh, cảm thấy mình bị bỏ rơi: từ tính
mệnh đến tài sản, không có gì gọi là được bảo đảm lấy một chút xíu!
PHẦN THỨ HAI: BẮC TIẾN
C
ưỡi gió đông nam
Ngô Cầu đã rụng đầu!
Bản đồ Thuận Quảng đã bôi lại màu sắc.
Keo thứ nhất vật Trịnh đã hái được những tiếng hò reo đắc thắng
lẫy lừng!
Nguyễn Huệ, từ đây, tự do nhẩy múa quát thét trên vũ đài quân
sự và chính trị…
Đứng bên Huệ, Cống Chỉnh “lên dây cót” cho “đồng hồ thời cục”
một phen xoay chuyển…
Chỉnh nói với Nguyễn Huệ:
– Việc binh, cốt quý thần tốc. Tướng quân mới đánh một trận
đã lấy được Thuận Hóa: cái oai thần võ ấy làm cho mảnh đất Bắc Hà đã phải rung
động! Tình thế dễ dàng như giương thẳng dao chẻ tre! Tướng quân nên thừa thắng,
cứ đánh dấn đi, thì lấy thiên hạ chắc dễ như trở bàn tay. Vả, hành binh có ba
điều: “thời”, “thế” và “cơ”. Nếu gặp dịp có đủ ba điều ấy thì đâu chẳng nắm được
phần thắng? Ngoài Bắc bây giờ: tướng biếng nhác, quân kiêu rông, triều đình
không có kỷ cương gì cả! Ta nhân dịp đại thắng này mà kéo quân ra diệt kẻ loạn
vong, có khó gì? Xin Tướng quân đừng bỏ qua “cơ”, “thời”, “thế” này!
Huệ trầm ngâm:
– Bắc Hà nhân tài còn nhiều, coi khinh thế nào đặng?
– Nhân tài ngoài Bắc chỉ có một Chỉnh này thôi. Chỉnh đã đi rồi,
thì nước rỗng không! Xin Tướng quân đừng ngờ.
Huệ cười:
– Chẳng đáng ngờ người nào khác, có chăng chỉ đáng ngờ ông.
Chỉnh thất sắc, xin lỗi:
– Ý tôi muốn nói quá đi như thế: Chỉnh đã là một tên ngu đần
hèn mọn, vậy mà ngoài Bắc không ai hơn Chỉnh, đủ biết trong nước vô tài đến thế
là cùng!
Huệ lại ngọt ngào yên ủi:
– Chốc lát đi giựt lấy cái nước đã vài trăm năm kia, người ta
sẽ cho quân mình là vin vào cái danh nghĩa chi mà làm vậy?
– Nay, Bắc Hà đã có vua, lại có chúa: thật là việc đại biến
xưa nay chưa từng có. Họ Trịnh tiếng rằng phụ chính, nhưng kỳ thực hiếp đáp nhà
vua! Người trong nước, từ lâu vẫn cho làm thế là quấy! Sở dĩ họ không dám cựa
lên chẳng qua vì sức không nổi. Tướng quân quả hay vin lấy cái danh “phò Lê, diệt
Trịnh” mà hiệu triệu thiên hạ thì ai người chẳng hưởng ứng? Nghìn năm mới có một
dịp này.
– Ông nói phải lắm! Song le mang tiếng là kiểu mạng thì sao?
(Ý nói chưa được Nguyễn Nhạc sai đi, mình đã tự tiện đem quân ra Bắc: bị cho là
mạn phép làm liều thì sao?)
– Trong Xuân Thu truyện có nói: “Kiểu là chuyện nhỏ, nhưng lập
được công lại là việc lớn.” Thế là có công, sao lại gọi là “kiểu” được? Huống
chi ngài không nghe nói ư: “Ông tướng cầm quân ở ngoài dù có mạng lịnh nhà vua
truyền ra cũng mặc?”
Cuộc trao đổi ý kiến này là một chương trình, một phương lược
xoay lại thời cuộc hồi cuối Lê trung hưng, là những nhát thuổng, nhát cuốc sắp
bổ trên nền tảng mà chúa Trịnh Kiểm đã xây bằng những viên đá “tái tạo nhà Lê”
rất kiên cố, cũng lại là cái thang để Nguyễn Huệ từ nấc Long Nhương Tướng quân
trèo lên bực Bắc Bình vương, rồi leo lên cái nấc Quang Trung Hoàng đế.
Bốn chữ “phò Lê diệt Trịnh” thật là cái lá nhãn “chính trị” để
Tây Sơn lợi dụng mà diễn tấn hài kịch “thay họ đổi ngôi!”
Cái động cơ Chỉnh khuyên Huệ kéo quân ra lấy Bắc Hà, có người
bảo, là do Chỉnh muốn báo thù cho Hoàng Đình Bảo và muốn tiện bề quay về cố
hương nên mượn thế lực Tây Sơn để đạp đổ Trịnh Tông, diệt phăng họ Trịnh.
Nói vậy không phải là người biết Chỉnh. Chỉnh là một tay gian
hùng. Cái gì có lợi cho Chỉnh thì Chỉnh mới làm, chứ có nghĩ gì đến tình với
nghĩa. Cái khẩu hiệu “phò Lê” của Chỉnh chỉ là chuyện nhân nghĩa hão để phỉnh gạt
dân chúng Bắc Hà bấy giờ đấy thôi. Chứng cớ: sau được vua Lê Chiêu Thống vời Chỉnh
vào kinh hộ vệ, Chỉnh lại theo gót chúa Trịnh, hết sức hiếp đáp vua Lê. Chỉnh,
đối với vua Lê còn thế, huống chi Đình Bảo? Vậy có thể nói: Việc Chỉnh vạch đường
“Bắc tiến” cho Tây Sơn quyết không phải vì lòng muốn đền bồi Đình Bảo, cố đánh
Trịnh Tông để trả thù cho chủ nhân xưa nay vậy!
Nguyễn Huệ, sau khi bị Chỉnh uốn lưỡi thuyết siêu, không ngần
ngại gì mà không gươm, cờ thẳng chỉ ra Bắc.
Công việc Bắc tiến tức thì sắp đặt: Chỉnh làm thủy quân tiên
phong, sửa soạn chiến thuyền, đem thủy quân vượt biển đi trước. Huệ hẹn với Chỉnh:
khi đến Vị Hoàng (nay là Nam Định) thì cướp lấy kho lương ở đó, rồi đốt lửa làm
hiệu để báo tin cho Huệ biết.
Để Nguyễn Lữ đóng giữ Thuận Hóa, Huệ viết thư về Quy Nhơn báo
cáo cho Nhạc biết, rồi gươm sai, cờ vía, Huệ đốc suất hai mặt thủy lục ầm ầm rần
rộ kéo ra.
Chỉnh đem quân đi, trước ra cửa Việt Hải61, rồi vào bến Nghệ
An. Đến đâu cũng sai vài trăm du binh lên bộ đánh phá ở đó, làm cho quân thanh
thêm mạnh, chiến khí thêm hăng và khiến dân tình bên Trịnh càng thêm xao xuyến,
khiếp sợ.
Chậy! Chậy! Bọn Bùi Thế Tụy62, Tạ Danh Thùy, là những trấn tướng
ở Thanh, Nghệ đều bỏ thành chạy!
Chỉnh đến Vị Hoàng trước nhất, lấy được trăm vạn hộc63 thóc
dùng làm quân lương, (ngày mồng 6 tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Đồn binh bên Trịnh đóng ở đấy cũng theo mấy tướng Thanh, Nghệ
mà chạy trốn nốt!
Xa xa thấy lửa hiệu bốc lên từ khoảng sông Vị, non Côi, Nguyễn
Huệ biết quân Chỉnh đã hái được bông hoa “thắng lợi” đầu mùa, lại càng nức lòng
hăng hái, tức thì dẫn một nghìn chiến thuyền, vượt biển ra Bắc.
Gió đông nam thổi… thổi mạnh!
Cưỡi gió thuận, lướt dòng xuôi, đại đội chiến thuyền cứ vùn vụt
tiến.
Trên trời, dưới nước mênh mông, cái nhuệ khí của quân Tây Sơn
bấy giờ có lẽ đánh bạt cả loài thủy tộc!
Viết đến đây, kẻ cầm bút này lại chạnh nhớ đến mấy câu của
nhà văn Tô Thức tả cái hào hùng của Tào Mạnh Đức trên sông Xích Bích đầy oai
thanh:
“… Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi Đông
dã: Trục lư thiên lý, tinh kỳ tế không… cố nhất thế chi hùng dã!...”64
Mấy câu này, không ngờ ngót ngàn năm sau lại hợp như in vào cảnh
anh hùng Nguyễn Huệ khi cưỡi gió đông nam, kéo thủy binh từ Nam ra Bắc dưới những
bóng cờ rợp trời và giữa những tiếng hò reo vui vẻ của toán hùng binh đắc thắng.
Kéo quân đến Vị Hoàng, Nguyễn Huệ họp binh với Chỉnh: thanh
thế càng thêm mạnh lắm.
Thực lực bên Trịnh?
Bao nhiêu những cái ươn hèn, đớn kém của các tướng trấn thủ ở
biên thùy đã kéo hết tấm màn “màu mỡ” để lộ cho người ngoài trông thấy những
cái ẩn tình “thối nát” ở trong mà bấy nay họ vẫn giữ rất bí mật.
“Đùng! đùng! đùng…” Tiếng súng quân Tây Sơn đã ầm ĩ ở cửa
ngõ!
“Loạn to! Loạn to! Loạn to…!” nhân dân nhìn nhau bằng con mắt
kinh hoảng, thất vọng! Họ là hạng người sống không được bảo đảm. Bấy lâu họ, đối
với triều đình, chỉ phải làm nghĩa vụ chứ không được hưởng quyền lợi tí gì!
Trông về tương lai, ai sẽ là người nâng đỡ họ?
Trước đó, vấn đề “Phú Xuân” là một việc rất quan trọng trong
chương trình nghị sự của Chính phủ.
Trong đám phủ liêu65 nhiều người đề nghị:
– Thuận Hóa xa xôi vốn không phải là bờ cõi của triều đình,
Tiên triều vì không suy kỹ, nghĩ sâu, nên mới nay đi chinh phạt, mai đặt thú
binh (quân đóng canh giữ), rầm rầm rộ rộ, rút cục chỉ hao công, tốn của, chẳng
được ích gì! Bây giờ phe địch lấy mất Thuận Hóa cũng là một cái may cho ta, vì
ta khỏi phải đặt thú binh cho thêm nhọc nữa. Thiết tưởng nay ta chỉ nên định rõ
cái cương giới cũ, rồi cắt quân đóng giữ từ Nghệ An trở ra Bắc là hơn. Vì Thanh
Hoa có lăng tẩm cần phải giữ và ở đó có địa hiểm có thể giữ vững được. Ta cho mất
Thuận Hóa là may, thì họ chắc cũng lấy sự xâm lấn ta làm gương răn lại. Vả,
“quân mọi phản nghịch” kia được ăn miếng ấy đã no nê rồi, nó đâu dám đột nhiên
xông ra nữa?
Luận điệu đó đánh ngay vào chỗ yếu của những bộ óc lười biếng
nhút nhát và cầu an, được cả triều đình tán đồng.
Từ đó, ai nấy yên tâm trong giấc mơ màng: hình ảnh Tây Sơn bị
xóa nhòa trong trí nghĩ.
Nay?
Trấn Nghệ An đã tan!
Trấn thủ Bùi Thế Tụy đã chạy trốn sau khi đốt cháy dinh trại.
Nguyễn Như Thái đã được Nguyễn Huệ đặt lên ngồi ghế trấn thủ
Nghệ An. Trấn Thanh Hoa cũng vỡ: Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, trấn thủ ở đó,
cũng chạy nốt!
Những tin sét đánh đó choáng tai Trịnh Khải.
Làn sóng “kinh hoàng” tràn ngập khắp cả đô thành!
Để đối phó với tình hình gắt gao, Trịnh Khải sai Thái Đình hầu
Trịnh Tự Quyền làm thống lĩnh, đem quan quân trong 27 cơ hiệu đi Thanh Nghệ
nghinh chiến.
Quyền, chùng chình hơn 10 ngày, mới gắng gượng cất quân ra
đi. Khi Quyền vừa kéo quân lìa khỏi Hoàng Thành được 30 dặm, quân Tây Sơn đã
kéo gió đông nam, “bay” đến Vị Hoàng với cái thắng lợi oanh liệt (Bính Ngọ,
1786).
Chúa Trịnh phải đổi lại mệnh lệnh điều khiển:
Ra giữ Sơn Nam: Trịnh Tự Quyền.
Đốc suất thủy đạo: Đinh Tích Nhưỡng66.
Để gây thế “ỷ dốc” với lục quân của Quyền, Nhưỡng đem các đội
thuyền Vệ tả, Vệ hữu, Ngũ hầu, Ngũ thiện và Ngũ Trung trạch đến đóng ở cửa sông
Lục Môn67.
Hoàng Tư Quyền đóng đại đội ở Kim Động (nay thuộc Hưng Yên).
Chướng Trung hầu Đỗ Thế Dận68 trấn thủ Sơn Nam, đem bộ binh
dàn ở bờ sông Phù Sa69.
Đinh Tích Nhưỡng dàn chu sư trong sông Lỗ Giang, bày thành trận
thế chữ “nhất”.
Gió đông nam dào dạt thổi70.
Nước lụt mới rút cạn.
Đội tiền phong Tây Sơn giương buồm thẳng tiến…
Theo sau năm chiếc thuyền mông xung71, đại quân “Đàng Trong”
cứ mạnh mẽ lướt sóng.
Thấy thuyền mông xung bên địch xông đến, Nhưỡng hô quân nạp đạn
vào súng “bảo lân” ùa ạt bắn…
Để tránh trận mưa đạn, quân Tây Sơn tạm lui vào bến sông.
Đàn dơi chao chát đớp muỗi trên mặt sông.
Màn tối cuốn cảnh vật vào trong đêm trường rùng rợn.
Khác với lúc thường, khúc sông Lục Môn đêm nay “sống” trong cảnh
tượng hoạt động dưới bóng đèn đuốc lập lòe.
Lừ đừ vài mươi chiếc thuyền, nghênh ngang kẻ vác giáo, người
cầm kích, thuận buồm cứ tiến… tiến bức đến tận tiền đội bên quân Trịnh.
Nhưỡng thúc quân hăng hái bắn. Xa xa nhận thấy một chiếc thuyền
Tây Sơn bị đắm chìm.
Nhưng còn các thuyền khác? Càng bắn, càng thấy im lặng, im lặng
như tờ, không một ai bắn lại. Cũng không một ai theo giọng chế giễu của quân
Đông Ngô xưa mà hô lớn: “Tạ ơn Thừa tướng cho tên”!
Trời đã sáng. Trí Nhưỡng bấy giờ mới sáng.
Mấy chục chiếc thuyền ấy? Rặt thuyền không!
Bọn quân bơi chèo, cầm binh khí kia? Toàn bồ nhìn!
Thôi, mắc mưu Nguyễn Huệ rồi! Đinh Tích Nhưỡng đã hi sinh hết
cả thuốc đạn để đổi lấy mớ xác “bồ nhìn”!
Phải bỏ thuyền, quân Nhưỡng chạy lên cạn!
Đại đội binh thuyền Tây Sơn kế tiếp sấn đến.
Đạn súng đại bác vèo vèo bay.
Nhiều cây cổ thụ trên bờ răng rắc gẫy!
Trước cái sức mạnh đó của súng đạn Tây Sơn, quân Nhưỡng hoảng
sợ.
Nguyễn Huệ thúc toàn quân lanh lẹ xông lên bờ, hăng hái đuổi
đánh…
Quan quân Bắc Hà chết như ngả rạ! Người nọ gối lên người kia!
Đinh Tích Nhưỡng? Chiếc thân chạy thoát!
Quân Đỗ Thế Dận? Bỏ trận chạy trốn!
Quân Trịnh Tự Quyền! Chưa đánh chác gì đã tự tan vỡ trước!
Thuyền Tây Sơn cứ tiến và tiến mãi đến Hiến doanh.
Thế là trấn Sơn Nam hoàn toàn lọt vào tay Nguyễn Huệ (ngày
24, tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Vấn đề “chiến thủ” lại được Trịnh phủ rối rít gấp rút bàn.
Một phương sách sau này nếu được ứng dụng có lẽ Long Nhương
Tướng quân Nguyễn Huệ chưa chắc đã cắm cờ thắng trận trên thành Thăng Long một
cách dễ dàng:
Nguyễn Lệ72: cựu Tham tụng! Hớt hải đến từ Nghệ An dâng kế
cho Trịnh Khải:
– Nên cắt tướng giữ lấy kinh thành. Còn chúa thì hộ giá Lê
Hoàng lánh đi Sơn Tây: nắm giữ lấy miền thượng du để tính nước đi về sau. Ở
khúc sông bên bãi Tự Nhiên nên thả chông chà để át thuyền bè bên địch. Bổ đồn
đóng bộ binh ở hai bên bờ sông để giữ cho khỏi xổng xểnh. Lại dùng và ban quan
tước cho bọn thủy phỉ (giặc cướp trên đường thủy) khiến chúng khuấy rối mặt sau
thủy quân của Tây Sơn. Tây Sơn mượn tiếng tôn phù, nếu không níu được vua Lê
thì lui tới đều bất lợi. “Quân mọi”, lương hết, thế tất không ở lâu được. Ta
nên truyền hịch cho các hào mục ở miền Thanh, Nghệ dấy binh chẹn lối họ về. Như
thế dù không bắt sống được Nguyễn Huệ, cũng làm Tây Sơn phải bị trọng thương.
Chứ giờ đánh với họ thì tất nhất bại đồ địa, vì tụi kiêu binh của ta không thể
dùng được.
Chiến thuật ấy của Nguyễn Lệ suýt được chúa Trịnh làm theo
nhưng lại bị kiêu binh phá đám!
Vu vạ cho Lệ dắt “giặc”về nhà, bọn kiêu binh tụ họp lại, ồn
ào, rầm rĩ, thả hơi huyên náo vào bầu không khí rối ren. Rồi chúng sùng sục chực
bắt giết Lệ. Lệ phải chạy lên Sơn Tây.
Tình hình Bắc Hà càng phút càng trầm trọng!
Nhân dân ngong ngóng đón ngày tương lai, tốt đẹp hơn…
Một lá hịch giết một đời vương
Nguyễn Huệ, sau khi hạ được Sơn Nam, truyền hịch đi khắp các
lộ, tỏ bày công việc diệt Trịnh, phò Lê.
Như mưa trút, gió giựt, tin quân tấp nập từ biên thùy bay về
Trịnh phủ, làm cho các “ngài” mão cao áo rộng trống ngực thình thình!...
Chiến?
Thủ?
Tính sao đây?
Chẳng một ai dám thò tay gỡ mối tơ vò ấy! Cũng chẳng một ai
muốn đeo đá vào mình!
Quan võ cũng như quan văn, thảy đều bối rối hoảng sợ, tất tả
lo việc gia đình: giữ vợ gìn con, chôn tiền, giấu của… Quân sự? Mặc! Việc dân,
việc nước? Cũng thây!
Chạy loạn!...
Dân chúng nhôn nhao chạy loạn! Cõng trẻ, dắt già, rình rịch
luôn mấy ngày, họ bỏ thành chạy trốn. Nhưng trốn vào đâu? Vào lối tiền đồ tối
tăm, không đảm bảo!
Trong cơn gấp rút, Trịnh Khải cố đi một nước để gỡ thế cờ bí:
với quận Thạc Hoàng Phùng Cơ đem năm trăm quân nghĩa dũng từ Sơn Tây về kinh hộ
vệ.
Mấy lời hăng hái của quận Thạc, khi vào ra mắt, làm cho chúa
Trịnh càng thêm phấn khởi tinh thần:
– Chín cha con nhà tôi xin đem cái chết để đền ơn nước, chứ
quyết không chịu cùng sống với giặc!
Trầm trồ khen, rồi chúa Trịnh ban cho 5.000 lạng bạc để Phùng
Cơ dùng vào việc binh.
Lấy tư cách vị lão tướng, gánh công viêc “phi thường”, Cơ
xách túi bạc ra, lo việc binh bị. Trong một ngày “bạo vì tiền”, Cơ mộ được hơn
nghìn thủ hạ.
Quận Thạc, cùng tám con (kể cả rể)73, đem binh ra đóng ở hồ Vạn
Xuân74.
Tứ thị thủy sự dàn thuyền ở bến Thúy Ái75.
Còn chúa Trịnh? Mặc nhung phục, cưỡi voi, đem hết binh lính
trong thành ra ngoài cửa Tây Long76, bày trận ở dưới Ngũ Long lâu: hỏa pháo bắc,
binh trượng bày, quân hộ vệ san sát… (ngày 25, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Gió đông nam vẫn lộng!
Mặt thủy vô cùng xung yếu!
Đánh tan chu sư của Đinh Tích Nhưỡng, Tây Sơn làm chủ suốt cả
một dải trường giang.
Thừa thắng, Nguyễn Huệ kéo quân thẳng tiến kinh kỳ.
Cờ rợp trời. Trống trận lay động sóng. Quân Tây Sơn cặp bến
Nam Dư.77
Bỏ thuyền, lên cạn, họ đánh úp quân tứ thị thủy hiệu của Trịnh
ở cửa sông Thúy Ái (ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Trận đánh úp này cực kỳ thần tốc, nên quân Trịnh không kịp trở
mình, phải đại bại dưới bóng cờ Long Nhương Tướng quân.
Số là, lầm tưởng quân Tây Sơn vẫn còn ở xa, quân Trịnh không
để ý đề phòng, cứ việc phóng tâm: neo thuyền, lên bãi, tỏ vẻ ung dung trong lúc
đáng phải cơ cảnh cẩn mật. Chẳng dè đại đội chu sư “Đàng Trong” ập đến, đánh rốc
vào chiến tuyến Thúy Ái ở Thanh Trì. Quân Trịnh bối rối hoảng hốt, không kịp xuống
thuyền, tán loạn chạy!
Quân Nam vặn súng cự thuần ầm ầm bắn… bắn chết được người chiến
sĩ can đảm nhất bên Trịnh: Ngô Cảnh Hoàn78, quản tiền phong cơ.
Thuận dao chẻ tre, Tây Sơn bắt được hết cả thuyền mành và khí
giới của Trịnh.
Trước đó, thấy đồng bạn tan vỡ, tình thế nguy ngập, Ngô Cảnh
Hoàn cứ làm phận sự đến phút cuối cùng: tay cầm thanh đao, đứng ở đầu thuyền
Trung Trạch, cự chiến hơn một khắc. Sau thế cô, sức kiệt, trúng đạn của súng cự
thuần bên Tây Sơn, Ngô phải gửi mình xuống dòng Thúy Ái trong mát.
Trận thua! Chồng chết! Một cái tang đau đớn cho Phan Thị Thuấn,
ái thiếp của Ngô.
Nhưng nàng Phan cứ trấn tĩnh với can đảm và nghị lực, âm thầm
trong cảnh sinh hoạt quê mùa, nàng vẫn bận thường phục, có khác chăng chỉ kém
lúc thường cái vẻ diêm dúa, óng ả và trau chuốt. Nàng cười nhạt trước những tiếng
mai mỉa nông nổi và những cái ngấm nguýt lố lăng! Nàng trả lời họ bằng việc làm
sau khi quân Tây Sơn rút khỏi Bắc Hà: Mặc đồ tang, nàng đến bên sông Thúy Ái, tế
một tuần, khóc một đêm rồi lênh đênh một chiếc thuyền con, dưới vòm trời âm u
thảm đạm, nàng tìm bạn trăm năm nơi Thủy phủ!
Thanh danh nàng đã rửa mặt cho quân Trịnh: cái nhục thua trận
ở sông Thúy Ái này.
Sau khi bắn chết được Ngô Cảnh Hoàn, quân Tây Sơn đổ xô lên cạn,
xông đánh vòng trận Phùng Cơ.
Quân Phùng Cơ, bấy giờ, đang ăn. Thấy quân Nam ập đến, ai nấy
kinh khiếp rụng rời, không kịp xếp thành hàng ngũ, chạy hoảng như đàn cừu trước
miệng sói hung hăng!
Xông ra chận đường quân Tây Sơn, Mai Thế Pháp79, thuộc tướng
của Phùng Cơ, vác đao, thúc ngựa, tỏ gan mật trên chiến trường. Pháp vẫn đánh
và cứ đánh mặc dầu bộ thuộc đều tan vỡ cả.
Giết được hơn 10 người quân “Đàng Trong” bằng cái khí lực vụt
hăng vì sắp tàn tạ, Pháp túng thế quá, phải nhảy tùm xuống sông với thanh đại
đao vẫn khư khư vác.
Quận Thạc, thấy quân Tây Sơn đánh rát tới nơi, sáu con đã phải
làm mồi cho đạn súng và mấy chục thủ hạ cũng đã chết tại trận rồi, bất đắc dĩ
phải cùng con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu80 cố sống
chết, cướp lấy một đường chạy về Hưng Hóa.
Không đuổi theo Phùng Cơ, quân Tây Sơn được thể, cứ việc xông
pha chém giết: quân Trịnh làm mồi cá trong hồ Vạn Xuân không biết bao nhiêu mà
kể.
Phá được quân Phùng Cơ rồi, Tây Sơn, trống đánh vang trời, rần
rộ kéo thẳng đến bến Tây Long bắn “hỏa hổ” ầm ầm dữ dội…
Trịnh Khải, tay cầm cờ lịnh, cố thúc chư quân xông vào chống
đánh, song chẳng ma dại nào dám liều mạng hi sinh!
Tây Sơn bỏ thuốc súng vào ống, đốt lửa ném ra: Quân Trịnh
không sao đương nổi.
Họ lại lấy hỏa hổ đốt voi bên Trịnh: voi sợ, chạy cuống81!
Cơn thất bại đang hầm hầm trút xuống! Trịnh Khải thúc voi
quay về thành, chực vào vương phủ, nhưng đến cửa Tuyên Võ thì thấy cờ Tây Sơn
đã ngạo nghễ bay trên sào huyệt “nhà chúa” rồi. Lật đật do cửa An Hoa, Khải chạy
về phía tây. Theo sau chúa Trịnh còn có hơn trăm quân tàn (ngày 26, tháng sáu,
năm Bính Ngọ, 1786).
Ngai “chúa” họ Trịnh cũng theo gót Khải đổ từ đây!
Trận này Nguyễn Huệ càng tán thán cái sức hùng cường của quân
mình, càng phải ngạc nhiên trước cái bất lực của quân Bắc: đánh chác toàn nhờ
Nghĩa binh, còn Ưu binh và Nhất binh ăn hại công khố, bấy lâu đến nay chỉ là
đàn vịt chạy dài!
Đắc thắng! Nguyễn Huệ kéo quân vào thành Thăng Long với cái
triêu khí đang hăng hái.
Thần Tàn phá đang lù lù xông đến: bao nhiêu nhà cửa quanh Trịnh
phủ, sau một cơn khói lửa, chỉ còn mảnh vụn tro tàn.
Để thưởng tướng sĩ cái công vào tử ra sinh, Nguyễn Huệ, nhà
chiến thắng, đem phân phát cho họ hết các gấm, vóc và vàng báu trong Trịnh phủ.
Rồi lại đó, Nguyễn Huệ đóng quân, sống những phút huy hoàng xán lạn của đời
vương giả.
Kho Hữu viên mở rộng: nhân dân ở xung quanh kinh thành nhờ
bàn tay “Đức Lệnh” Tây Sơn, được hưởng cái ơn chẩn tế.
Trật tự trong thành hoàn toàn khôi phục, sau khi lệnh chiêu
an ban bố khắp nơi.
Bá cáo với dân nước? Nguyễn Huệ, muốn tỏ ý phò Lê, vẫn dùng ấn
“Ngự tiền chi bảo” của vua Hiển Tông. Còn hiệu lệnh trong quân, Tây Sơn dùng
riêng ấn chương đề chữ “Phụng Thiên thảo tội”.
Những nhà còn lại trong thành, muốn tránh sự cướp phá, đều tỏ
ra không phải về phe với Trịnh. Mấy chữ này đề ở cổng ngõ dùng làm cái bùa hộ
thân: “Nội điện82 gia thần” hoặc “Hữu quân83 gia thuộc”.
Giữ kỷ luật và theo quân lệnh; quân Tây Sơn rất nghiêm, không
hề xâm phạm của dân một mảy tóc.
Khi quân Tây Sơn mới đánh đến Vị Hoàng, nhiều tay trung thần
của chúa Trịnh vội ôm hai chữ “Cần vương” đi kêu gào thiên hạ: Chính thần
Trương Đăng Quỹ84 và Thiêm Sai tri lại phiên Lý Trần Quán85 đều chạy theo cái mục
đích đó.
Nhưng quân Cần vương chưa mộ xong, “vương” (chỉ chúa Trịnh Khải)
đã bị bắt làm tù binh và tự
chết rồi!
Nguyên, sau ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ (1786), Trịnh Khải
thua trận cuối cùng ở Tây Long, phải chạy lên Sơn Tây. Định ẩn náu ở làng Giao
Cốc, Khải sẽ liệu tính nước gỡ lại sau này.
Khi qua làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, chư quân đã trốn hết, Khải
vào ngồi trong một cái quán, nói vờ là quan Hành tham long đong chạy loạn86.
Rồi người cho gọi Lý Trần Quán đến để bàn việc vì Khải biết
Quán đương hoạt động ở vùng đó.
Bái quỵ! Một thứ lễ đã làm cho Khải thêm oai trong bình thì,
chẳng dè chính nó lại làm cho Khải bấy giờ – thời loạn – phải chết uổng!
Quả thế, cái lễ nghi “bái quỵ” đã giết Trịnh Khải trong khi
chạy loạn!
Nguyên, Lý Trần Quán được triệu đến, thấy Khải đang diễn cái
cảnh “mạt lộ” của hạng “vua thua chạy dài”87 tức thì thụp xuống toan làm lễ lạy
chào: tỏ lòng “tôi con” trung nghĩa.
Khải tinh ý, vội đưa mắt gạt đi vì sợ người ta nhân đó biết
ngay rằng mình là ông “chúa” bại trận.
Món buôn có lời đây! Một dịp làm nên phú quý đây!
Cái cử động giữa Quán và Khải đó đã lọt vào mắt thèm thuồng
danh lợi của bọn Nguyễn Trang (tức tuần Trang) và Nho Liễu, người làng Hạ Lôi.
Họ sau khi biết đích “quan Hành tham giả hiệu” ấy chính là
chúa Trịnh, tức thì đem vài chục đồ đảng ập đến vây bắt Trịnh Khải khi vừa rời
khỏi địa phận làng Hạ Lôi một chút.
Trịnh Khải bấy giờ là một “mối lợi” đối với bọn người hám “miếng
lập công”: Tên Ba, người làng Vân Điềm88 cũng xông xáo vào chực cướp lấy chúa
Trịnh nhưng không được!
Hay tin chúa Trịnh bị bọn Trang bắt sống, Quán lật đật chạy đến,
lấy nghĩa lý khuyên bảo họ, song Trang giội ngay thùng nước lạnh vào lòng sốt sắng
của Quán bằng câu tàn nhẫn này:
– Sợ thầy89 không bằng sợ giặc. Yêu chúa không bằng yêu mình.
Lời đạo đức của Quán đã không thuyết nổi Trang!
Giọt nước mắt, tiếng van lơn của Quán lại không xiêu được
lòng Trang!
Giữa đêm tối mò mò, khí nóng nồng nàn bức bối, bọn Trang điệu
Trịnh Khải xuống thuyền, định trở lên kinh đô Thăng Long để nộp lấy thưởng.
Khi chưa đến bến Tây Long, trong lúc mọi người không để ý, Khải
biết cơ không thoát được, liền rút dao tự đâm vào cổ. Vết thương còn nhỏ, sợ
chưa chết ngay được, Khải lại thò ngón tay vào móc thêm cho toạc rộng ra (đêm
28, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Qua ngày 2990, Lý Trần Quán cũng sửa soạn tự chôn sống.
Trước khi chết theo Khải, Quán còn cầm bút viết: “Nước vỡ (!)
nhà tan, mình làm chức phủ dụ, chẳng được việc gì, thà chết còn hơn! Chỉ hận một
nỗi: không chết trước chúa, lại chết sau chúa!”
Huyệt đã đào xong.
Quan tài đã lù lù đặt.
Lý Trần Quán áo mão chỉnh tề, khảng khái đi tìm cái chết91.
Đậy nắp quan tài rồi! Người ta định luận: Lý Trần Quán chết
theo Trịnh Khải!
Xác Khải đã bị nộp. Nguyễn Huệ cho đặt ở ngoài cửa Tuyên Võ,
rồi vỗ thây Khải: “Tiếc dữ! Một trang nam nhi như thế này can chi mà phải vội
chết! Giả sử biết đàng lui tới, mang mình về với ta đây, đi đâu chẳng giữ được
phú quý?”
Quan ván và đồ khâm liệm Trịnh Khải được Nguyễn Huệ lo liệu
cho một cách chu đáo. Qua hai ngày sau, Huệ cử hoàng điệt Duy Quyết trông coi
việc tang, theo lễ vương giả, táng Trịnh Khải tại đồng Dịch Vọng (thuộc phủ
Hoài Đức, tỉnh Hà Đông).
Đến đây, họ Trịnh hoàn toàn thất bại, người Bắc Hà đua nhau
truyền tụng bài hịch do Cống Chỉnh đã thảo dưới cái danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”,
trong có những câu sau như:
“Cơn gấp khúc chẳng thương lòng ngoại tộc, đã không rừng đuổi
thú thì thôi;
Dấu cưỡi rồng còn đợi đức Tiên quân, lại cuốc lỗ cày sân sao
phải!”
Còn Nguyễn Trang? Được bổ làm trấn thủ lộ Sơn Tây, phong
Tráng Liệt hầu (hoặc Tráng Nghĩa hầu)92.
Chúa đã chết, nhưng chưa hết chuyện triều đình!
Trận thay nhà đổi họ này là một tai vạ lớn trút trên đầu trên
cổ thằng dân thời đó!
Trong khi hỗn quân, hỗn quan, trật tự chưa lấy lại được, dân
chúng hạng người không tên, không tuổi phải rốc cạn bao chén cay đắng trong cuộc
biển dâu:
Họ kéo nhau xô bồ chạy ra khỏi thành, đi tìm nơi ẩn náu trong
cái tương lai đầy bất trắc!
Nhưng, vừa rời khỏi kinh đô Thăng Long, là lò sát sinh chỉ chực
làm thịt những kẻ vô tội, họ gặp ngay “hung thần” cướp bóc đứng chận đường: Rắn
bắt nhái, chim sẻ mổ bọ ngựa! Bọn “chạy loạn” nay là cái mồi ngon cho những kẻ
hung tàn ở phụ cận quanh thành nổi lên như nấm!
Xóm cạnh làng bên tàn phá lẫn nhau.
Quần áo bị bóc lột.
Tiền nong bị cướp giựt.
Tiếng kêu khóc như ri vang động một góc trời đầy sát khí.
Đường xá vắng tanh nhuộm sắc chết.
Gia dĩ, bọn tàn binh, sau cơn thua trận, chạy tản khắp nơi.
Chúng cầm gươm, vác súng, kéo đi từng đàn hàng trăm hàng nghìn đứa. Chúng là
cái tai vạ ghê gớm cho nhân dân. Trẻ chăn trâu bò hễ thấy chúng kéo đến, thì sợ
hãi rụng rời, bỏ của chạy trốn.
Bức tranh loạn ly treo khắp dân gian! Người ta, từng giây, từng
phút hồi hộp trong cơn khủng bố kinh hoàng!...
"Đừng lung lạc ta bằng cái danh hão!"
Sau khi thành Thăng Long hoàn toàn lọt vào tay quân Tây Sơn
và Trịnh Khải đã cuốn hết cơ đồ vương bá xuống nơi ở cuối cùng, Nguyễn Huệ sai
chư tướng đem quân đóng giữ Hoàng Thành, lấy lại trật tự. Quân lính Tây Sơn rất
nghiêm, không lấy của ai một mảy tóc. Người Bắc Hà bấy giờ gọi họ là “cha” vì
“cha” là tiếng dân tục đương thời dùng kêu quân lính93.
Ngày 26, tháng sáu (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Huệ cho người vào
nói với vua Lê Hiển Tông: xin đến ngày mai, sẽ vào bệ kiến.
Qua bữa sau, Huệ dẫn các tướng bộ hạ là bọn Cống Chỉnh vào điện
Vạn Thọ, xin yết kiến vua Lê94.
Vị quý khách đó được mời lên điện thượng.
Thấy Nguyễn Huệ làm lễ, vua Hiển Tông vội sai người đỡ dậy, rồi
mời ngồi ở một cái sập riêng kê ở bên giường ngự. Vua Lê thăm hỏi bằng giọng ôn
tồn.
Nguyễn Huệ trước còn rụt rè không dám, sau vì cố ép, mới ghé
ngồi vào cuối chiếu.
Nguyễn Huệ nói nhún:
– Tôi vốn là kẻ mặc áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy.
Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa xôi, bấy lâu vẫn kính mến
thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ giãi được tấc lòng khao khát. Họ
Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mới mượn tay tôi: một trận phá triệt
ngay đặng. Ấy là nhờ oai đức Bệ hạ hết thảy.
Vua Lê úy lạo:
– Ấy là võ công của Tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức
gì!
– Tôi chỉ cốt tôn phò, chứ dám kể đâu tới công lợi. Việc ngày
nay đã xảy ra như thế thiệt bởi lòng trời xui nên hết thảy. Kể đến việc binh
thì tôi cất đặt đặng quân lính, điều khiển đặng chiến thuyền; song lẽ tôi có sức
chi khiến được nước lụt phải cạn, gió đông nam phải thổi ào ào? Thế là trời có
ý xui Bệ hạ phấn chấn kiền cương, thống nhất bờ cõi. Từ giờ xấp đi, Bệ hạ cầm
cương, nảy mực, khiến cho trong êm, ngoài ấm, thì tôi đây cũng được ơn nhờ.
Nói dứt, Nguyễn Huệ trỏ Cống Chỉnh mà rằng:
– Người này là cố thần của Bệ hạ! Tôi được tới đây chính là
nhờ người này giúp sức đó.
Vua Lê nói lấy lòng:
– Nhưng, Chỉnh được đến đây cũng là nhờ Tướng quân làm thành
cho chứ!
Nghe vua Hiển Tông nói vậy, Chỉnh liền khấu đầu lạy tạ.
Chén trà thơm phức bốc một khí nóng hôi hổi, dấu hiệu một cuộc
thân thiện đằm thắm nhưng chóng phai tàn.
Nguyễn Huệ nhắp chút hương vị của chén trà “đế vương”, nhưng
không nhuần thấm được lòng dục vọng khát cái tương lai vĩ đại.
Nói chuyện hồi lâu, Huệ mới từ tạ lui gót.
Sau cuộc bệ kiến này, Đức Lệnh Tây Sơn không khỏi cười thầm
những cách cử động nhỡ nhàng, thưa gửi dớ dẩn của bọn gia thần hậu chực ở điện
thượng
vua Lê.
Cái cớ làm cho vị quý khách ấy phải cười? Chỉ vì, trong khi
kinh thành tan vỡ, bách quan chạy trốn, không còn ai là người đủ tư cách xứng
đáng ứng tiếp vị thượng tân nhà vua!
Vì vậy, sau cuộc hội đàm này, vua Hiển Tông nghe theo lời Chỉnh,
phải gọi đến các cựu thần như Trần Công Sán95, Phan Lê Phiên96, Uông Sĩ Điển97…
Đến làm gì?
Sung chân chi hậu, ứng tiếp chủ súy Tây Sơn.
Tia hy vọng ấm áp đã rọi vào lòng lạnh điếng của dân chúng.
Từ đây, lòng người đã yên: chợ lại họp, ruộng lại cầy. Cơn khủng
bố bối rối không còn vây phủ trong triều, ngoài nội như trước nữa. Các ông “triều”,
mão cao, áo rộng, bấy giờ mới lại mon men đến dần.
Chỉnh nói với chủ tướng Tây Sơn:
– Đức Lệnh đến đây đã lấy tiếng là tôn phù thì phải nên làm
cho ra sự thực. Chuyến vào ra mắt vua Lê hôm nọ chỉ là một buổi tư yết. Việc
làm ấy còn chưa tỏ rõ với đời. Vây, tôi tưởng Đức Lệnh nên lựa ngày làm lễ triều
kiến, khiến cho cả nước đều biết, mới là cử động quang minh.
Mồng 7 tháng bảy năm Bính Ngọ (1786), ngày tươi lại trẻ lại của
cây “Lê” đã già cỗi! Ngày oanh liệt nhất của một ông vua 70 tuổi, ôm cái ngai mốc
ngồi làm vì trong 47 năm! Nhưng cái tươi đó, cái trẻ đó, cái oanh liệt đó không
phải tự tay mình làm nên được, nên chẳng mấy chốc, nó cũng vạc dần rồi tắt theo
cái sinh lực hầu tàn của vua Lê Hiển Tông.
Ngày đó, chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Huệ xin Hiển Tông Hoàng đế
nhà Lê thiết lễ đại trào ở điện Kính Thiên.
Dưới bóng cờ quạt la liệt và giữa những tiếng chuông trống
inh ỏi, chủ súy Tây Sơn, cầm đầu chư tướng, từ cửa Đoan Môn, bước vào điện Kính
Thiên với cái trịnh trọng nhưng ngầm chứa vẻ “ngạo nghễ” của con nhà chiến thắng.
Lễ “Ngu bái tam khấu” của Nguyễn Huệ làm tăng vẻ oai nghiêm
hách dịch của cái triều đình đương khặc khừ!
Sổ quân dân do Tây Sơn đệ trình trước vua Hiển Tông bỗng làm
cặp mắt lờ đờ yếu đuối của cụ già gượng bịnh này vụt nảy tia sáng vui mừng: ngọn
đèn cạn dầu bật sáng phừn phựt trước khi tắt ngấm!
Quang cảnh ngoài cửa Đại Hưng ngày đó bỗng khác hẳn mọi khi:
Phá tan cái vẻ âm thầm vắng ngắt bấy lâu, bản chiếu thư “nhất thống” ban cho
thiên hạ kéo được nhiều người đến xem, đọc hoặc thì thầm…
Đó là cái kết quả đẹp đẽ nhưng chóng “thui” sau khi chủ tướng
Nguyễn Huệ làm lễ triều yết và vua Lê Hiển nhận quân dân bạ tịch của Tây Sơn.
Qua hôm sau, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông sai người sang
tận nơi quân thứ Tây Sơn, tức bên Trịnh thuở trước, phong làm Nguyên súy Dực
chính Phù vận Uy Quốc công (元帥翊正扶運威國公) (có sách viết là Nguyên súy Phù chính
Dực võ Uy Quốc công, lại có sách chép là Đại nguyên súy Phù chính Dực vận Uy Quốc
công).
Nhận xong, Nguyễn Huệ sai người sang hoàng cung tạ ơn vua Lê.
Rồi xẵng tiếng nói với Cống Chỉnh:
– Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy
thì một thước đất, một người dân, bây giờ không phải là của ta thì là của ai
vào đây nữa? Dầu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, coi ai còn dám làm gì ta
đặng? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng qua ta hậu đãi nhà Lê đó thôi!
Cái danh mạng Nguyên soái Quốc công nó có làm cho ta hơn gì! Các đình thần Bắc
Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là
mán mọi được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo
ta là thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì!
Dứt lời, chủ súy Tây Sơn “nổi xung”: hầm hầm trừng trợn…, dường
muốn phá phách cho hả cơn nóng giận…
Nhưng mấy lời can khéo của Chỉnh làm nguôi lòng Huệ dần dần.
Anh hùng với giai nhân
Nguyễn Huệ, sau khi nhận được cái tước hão của vua Lê phong
cho, trong lòng bất mãn, nói toạc cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết rằng ông không chịu
để người ta lung lạc bằng cái Nguyên súy hay Quốc công ấy được, vì nó, thực ra
đối với ông, chỉ là một cái “tẹp nhẹp”, không làm cho ông thêm danh giá gì!
Chỉnh biết Huệ không thỏa lòng dưới trận mưa móc “giỏ giọt”
đó của vua Lê, lật đật sang bên hoàng cung tâu bày dàn xếp, tìm hết cách làm đẹp
lòng một người đương cầm vận mệnh cả triều đình, cả xã tắc, cả thành quách
giang sơn của nhà Lê.
Sau một cuộc trao đổi ý kiến với Chỉnh, vua Lê Hiển Tông thuận
gả cho chủ soái Tây Sơn Nguyễn Huệ cô gái thứ 21, Ngọc Hân Công chúa98, mới 16
cái xuân tơ, yêu kiều và diễm lệ.
Đức Lệnh Tây Sơn đưa đồ sính lễ rất hậu: 10 thỏi vàng, 1.000
thỏi bạc, 100.000 quan tiền. Nguyễn Thời Thấu99 người đời bấy giờ, có một bài vận
văn ký thuật sự trạng đương thời, trong có mấy câu này chỉ việc nhân duyên của
Ngọc Hân Công chúa:
…Ngựa thồ(?) thay mối xích thằng,
Ông Tơ, bà Nguyệt dẫu giằng chẳng ra,
Một ngày một vắng quê nhà,
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trông…
Bữa làm lễ cưới “chúa Tiên”100, vua Lê đương “se mình”, cũng
phải gắng bịnh thiết trào nhận mừng, vui gượng trước cái tương lai đầy bấp
bênh.
Qua bữa sau, bệnh tình nhà vua quá nặng, Công chúa Ngọc Hân
giục phò mã Nguyễn Huệ vào hỏi thăm, song ông từ chối: “Tôi, chẳng sớm thì chầy,
rồi cũng về Nam; việc nước, không dám dự đến. Vả, tôi xa lạ tới đây, chắc người
ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy. Nếu vô nội viếng vua cha, muôn một xa giá chầu
trời, chẳng hóa ra tự mình chác lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ đặng?”
Bầu trời sầm tối. Suốt đêm 17, dân thành Thăng Long sống
trong cảnh “chờn chợn”, mưa như trút! Gió rợn rùng!
Trong thành ngập nước đến một thước!
Với 70 tuổi thọ, vua Lê Hiển Tông băng nhằm ngày 17101 tháng
bảy, năm Bính Ngọ (1786) sau khi trối lại mấy lời cho Hoàng tôn Duy Kỳ: “Khách
binh đương đóng ở đấy; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên
súy (chỉ Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.”
Suốt 47 năm ngồi làm vì trên ngai vàng, vua Lê Hiển Tông cứ
nhắm mắt, cứ che tai, cứ thản nhiên tự tại.
Chúa Trịnh làm trời? Mặc! Làm đất? Cũng thây! Vì vua theo
đúng câu “châm ngôn” này của ngài đã đặt: “Vương (chỉ chúa Trịnh) mang lấy cái
lo; ta hưởng lấy cái sướng, can gì chẳng vui?” Vậy mà nhân dân đương thời không
biết tự trông vào mình, tự giúp lấy mình, song cứ mơ hồ trách vọng vào ngài, chẳng
những oan cho ngài lắm?
Một vấn đề khó giải quyết “lăn lóc” giữa đình thần và tôn thất
nhà Lê sau khi vua Hiển Tông thăng hà: lập Tự quân!
Trái với phái muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, Công chúa Ngọc Hân hết
sức phản đối, lấy cớ rằng Duy Kỳ không đủ tư cách. Ngọc Hân muốn lập Duy Cận, hết
lời khen Duy Cận là người hiền.
Nghe vợ ngăn, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng cực.
Cả triều nao nao. Bầu không khí “ngờ vực” phủ khắp Hoàng
Thành.
Các tôn thất nhà Lê đổ riệt cho Công chúa Ngọc Hân cái tội
“làm lỡ việc lớn”!
Ngọc Hân sợ, lật đật nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được
nối ngôi ngay102.
Làm lễ đăng quang Duy Kỳ lấy niên hiệu là Chiêu Thống (sau mất
ở Tàu, tên thụy là Mãn Đế) vì đang có tang vua Hiển Tông, nên mọi việc đều tỉnh
giảm cả.
Đèn sáp lèo lẹt, khói trầm xen khói hương, tỏa mờ gian nội điện
thâm nghiêm, u ẩn. Chủ súy Tây Sơn lấy tư cách con rể, mặc áo tang trắng, đứng ở
nơi điện tả, dự lễ tế thành phục vua Hiển Tông.
Một viên tiểu lại, trong bọn người chấp sự, hơi mủm mỉm cười
khi hành lễ. Nguyễn Huệ liếc mắt bắt gặp, cho thế là khinh mạn, bất kính, liền
truyền lính lôi ra chém ngay103.
Triều đình, từ đó, len lét khiếp oai!
Ngày 25, đưa tử cung xuống thuyền để đem đi làm lễ Ninh
lăng104 ở Thanh Hoa, Nguyễn Huệ cũng mặc tang phục, thân đi hộ tang đến tận bên
sông. Lại sai bộ tướng là Nguyễn Văn Kỷ105 và Nguyễn Hữu Chỉnh, mặc áo trắng,
đi hộ tống đến Bàn Thạch lăng (thuộc huyện Lôi Dương, trấn Thanh Hoa), nơi ở cuối
cùng của ông vua được hân hạnh làm bố vợ một trang anh hùng cái thế.
Làm xong mọi việc với vua Hiển Tông rồi, Nguyễn Huệ, với giọng
tự phụ, nói nửa thật nửa bỡn với Ngọc Hân: “Tiên đế có 30 người con, thế mà
không một người nào bằng một mình mình là gái! Trong việc tang Tiên đế, mình với
các anh em, chị em khác, ai hơn nào?”
Ngơ nhau!
Sau khi Huệ đã kéo quân ra Bắc. Nguyễn Nhạc, ở Quy Nhơn, nhờ
bức thư của Huệ106 đưa về, mới hay tin “đại cử Bắc phạt” đó. Trước cái cử động ấy
của Huệ, Nhạc rất không đẹp lòng vì cho rằng Huệ tự tiện làm việc như thế, là
Huệ tỏ ra không thèm đếm xỉa đến vua anh. Nếu Huệ thành công, tất vua anh không
thể kiềm chế được nữa. Hối hả, Nhạc sai người đến Phú Xuân để ngăn lại. Nhưng
đã muộn rồi! Khi được tin Huệ đã hạ xong thành Thăng Long, Nhạc đâm lo sợ quá.
Huệ vốn là tay ngang tàng sắc sảo, nay lại đóng binh ở ngoài
sau một trận thành công lớn, Nhạc biết không thể gọi về bằng cách viết mấy chữ
trên mảnh giấy được.
Tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Nhạc đem 500 thân binh và 100
voi, lật đật từ Quy Nhơn trẩy ra Phú Xuân, lựa lấy thêm quân tinh nhuệ107, rồi
lại đi gấp ra Thăng Long, lót miệng bằng tiếng đem quân ra tiếp ứng chú Thơm
(tên tục của Huệ) đương ở
Bắc Hà.
Tin đó rung động gần xa: ai nấy nao nao, vừa ngờ, vừa sợ! Có
người khuyên vua Chiêu Thống, để giữ vững chiếc ngai Hoàng đế, nên đưa biểu xin
hàng.
Việc còn chùng chình, gót ngựa Thái Đức (Nguyễn Nhạc), sau bảy
ngày đêm, đã từ Phú Xuân lộp cộp nên trên mảnh đất đế đô.
Vua Chiêu Thống, cầm đầu bách quan, thân ra tận ngoài cửa Nam
Giao, đón tiếp với thái độ của một kẻ “lép vế”: mặc!
Tụng quan quỳ đón ở bên đường: cũng mặc!
Thái Đức sai người mời vua Lê hãy cứ về cung, rồi ruổi quân
đi thẳng, bỏ lại đằng sau cái khí ngạo nghễ lạnh lùng!
Tuy được Thái Đức hẹn đến bữa khác sẽ tương kiến, nhưng, qua
hôm sau, vua Lê đã phải lóp ngóp sang tận chỗ vua Thái Đức đương đóng để tỏ
cảm tình.
Nghe lời Chỉnh khuyên, Thái Đức tiếp Chiêu Thống bằng lễ “hai
vua tương kiến”, chứ không “lậy lục” theo lễ hạ thần.
Thoạt thấy Chiêu Thống đến nơi, Thái Đức đứng trên thềm, sai
em là Nguyễn Huệ xuống thềm đón.
Rồi Thái Đức ngự ở ghế giữa, mời Chiêu Thống ngồi ghế bên
tây. Nguyễn Huệ ngồi ghế bên đông.
Giữa bầu không khí thân mật nhưng giả dối, Chiêu Thống nói lấy
lòng khách bằng những lời yên ủi và cảm ơn.
Thấy vua Lê tỏ ý muốn cắt đất để làm lễ khao quân, Thái Đức vội
gạt: “Giận họ Trịnh chuyên chính, anh em chúng tôi mới làm việc tôn phù này. Đất
đai, nếu của họ Trịnh, một tấc chúng tôi không để; nhưng nếu của nhà Lê, một tấc
cũng không lấy. Chúng tôi chỉ mong Tự hoàng cầm vững kiên cường, giữ yên bờ
cõi; hai nước chúng ta đời đời hòa mục giao hiếu với nhau: thế là phúc!”
Hai nhà “ngoại giao” lại diễn một trò giả dối trong sự chèo
kéo mời mọc nữa:
Chiêu Thống mời Thái Đức ở lại ít lâu để giúp mình.
Thái Đức nhận lời và hứa cột chặt hai nước bằng sợi dây liên
lạc mật thiết.
Bấy giờ tướng sĩ Tây Sơn đóng lâu ở Thăng Long, lòng quê ai nấy
không khỏi gửi đám mây xa những tứ nhớ nhung man mác.
Tả quân Vũ Văn Nhậm, vì ghét Hữu Chỉnh là người tráo trở, hay
vơ lấy quyền bính, nhân gièm Chỉnh ở trước mặt Nguyễn Huệ rằng:
– Chỉnh là kẻ bô thần, cùng đường phải về với ta. Hắn muốn
cam tâm với cố quốc, nhờ sức ta làm được thành công. Nay ta lại phí hàng vài vạn
người để làm vây cánh cho hắn thì còn gì bất trí hơn nữa! Vả, hắn thường nói: Ở
Bắc Hà, chỉ có một mình hắn là nhân tài. Bây giờ chi bằng ta kéo về bỏ hắn lại.
Người Bắc oán hắn đến tận xương tủy; ta mượn tay họ để giết hắn đi. Khi Chỉnh
chết rồi, ta sẽ lấy Bắc Hà cho rảnh.
Nguyễn Huệ lấy làm phải, đã ngầm có ý bỏ Chỉnh rồi, lại gặp
Nguyễn Nhạc vừa ở Nam ra, bèn ngày đêm mật tính đường về, mà Chỉnh bấy giờ
đương đóng ở chùa Tiên Tích108, say sưa trong cảnh tôn vinh, vẫn mơ màng không
biết.
Về phần Chỉnh, thấy Nguyễn Nhạc sai chọn ngày tốt, sắm lễ vật
để yết nhà Thái Miếu, Chỉnh cứ đồ chừng rằng anh em Tây Sơn chắc chưa rút lui.
Trong khi anh em Tây Sơn cùng ở Thăng Long, họ nhường nhịn
nhau rất khôn khéo. Phàm việc, Nhạc muốn làm thế nào thì nên thế ấy. Huệ nhất
nhất thuận nghe và các tướng sĩ cũng đều vâng theo mệnh lệnh của Nhạc.
Suốt ngày 17, tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Huệ với thái độ
vồn vã niềm nở, giữ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại trong dinh, nói chuyện lan man,
không hề hở ra cho biết sắp lìa non Nùng, sông Nhị.
Nhưng, giữa trống canh ba đêm hôm đó, một ám hiệu truyền ra,
quân gia Tây Sơn nai nịt đâu đấy, cả thủy lẫn lục thẩy đều lặng lẽ kéo đi. Lẽ cố
nhiên là bao nhiêu của cải trong kho đụn đều cuốn đi sạch.
Sai người từ giã vua Chiêu Thống, anh em Tây Sơn vội vã về Nam,
bỏ Chỉnh ở lại đất Bắc.
Qua sớm sau, Chỉnh có cái cảm giác như một cô gái “theo trai”
bỗng bị tình lang phụ bạc! Rất bối rối bâng khuâng, Chỉnh chưa biết xoay trở ra
sao cả.
Vì không dám ở lại Thăng Long sợ chác oán mua thù với người Bắc,
Chỉnh liền “dày mặt” quyết theo để bám lấy anh em Tây Sơn.
Lập tức sáng sớm 18, Chỉnh cùng với vài mươi thủ hạ lật đật
chạy ra bến sông, cướp được một chiếc thuyền buôn, quẳng hết đồ đạc của người
ta đi, giương buồm để vô Nghệ109.
Trong khi đó nhiều người Kẻ Chợ đuổi theo, tranh nhau lấy gạch
ngói ném Chỉnh. Chỉnh phải chính tay giết chết vài người mới đi thoát được.
Dọc đường, anh em Tây Sơn lần lượt dập tắt được những ngọn lửa
“biến cố”.
Số là, khi quân Tây Sơn kéo đến Nghệ An, có gặp mấy cuộc tập
công của những phần tử phản động.
Lê Hân, cựu quản Hậu thắng cơ ở Nghệ An và Lê Đình Hoán, cựu
quản Hữu uy cơ ở Nghệ An, đứng lên chiêu mộ binh phu ở Nộn Liễu huyện Nam Đường
(Nghệ An), chận đường, cứ hiểm, chẹn đánh ở núi Đại Huệ thuộc địa phận làng Sa
Nam, huyện Nam Đường. Nhưng Tây Sơn dong quân tràn qua núi: quân bọn Lê Hân
thua lớn, bị giết đến 8, 9 phần 10.
Rồi ung dung đem quân vào trấn doanh Nghệ An, Nguyễn Huệ đóng
lại hơn mười ngày, thu xếp mọi việc: giao trách nhiệm đóng giữ trấn đó cho bộ
tướng là Nguyễn Văn Duệ. Lại cắt đô đốc Vũ110 Chiêu Viễn đóng ở Hà Trung, Vũ
Văn Nhậm cầm trọng binh đóng ở Đông Hải, làm thế ỷ dốc với Duệ.
Khi Chỉnh theo kịp đến Nghệ, Nguyễn Huệ bề trong tuy không bằng
lòng, nhưng ngoài mặt vẫn vồn vã yên ủi. Huệ bảo Chỉnh:
– Hiện nay tướng Trịnh là Hoàng Phùng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng
hãy còn, thì ngoài Bắc không có ông ở lại không xong.
20 lạng vàng, 200 lạng bạc, Huệ dùng món quà đó tặng Chỉnh và
khuyên đóng lại ở Nghệ An cùng làm việc với Nguyễn Văn Duệ.
Để trinh thám những hành động của Chỉnh, Nguyễn Huệ dặn ngầm
với Vũ Văn Nhậm:
– Chỉnh vốn là tên vong mạng. Túng thế, hắn mới chịu về với
ta. Hắn quyệt lắm! Không thể tin cậy đặng. Vả, người Bắc oán giận hắn dữ. Ta muốn
bỏ hắn cho họ thịt đi, nên chi lúc về Nam, giấu bặt không cho hắn biết. Chẳng
dè hắn lại trốn chết, theo về tận đây. Kể về tình nghĩa, ta không lẽ không dung
hắn. Giờ ta cho hắn ở lại Nghệ An là quê hương hắn. Vậy thì các ngươi phải hiệp
lòng, đậu cật, phòng giữ cho cẩn thận. Hễ hắn làm chi, và lòng người yêu hay
ghét hắn ra sao, các ngươi phải dò xét cho kỹ. Thấy có sự chi khác, thì phải tức
tốc báo cho ta hay.
Diều biển xổ lồng
Sau khi về Nam, Nguyễn Huệ được Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc
phong làm Bắc Bình vương (Đinh Mùi, 1787), đóng ở Quảng Nam, một trong ba chân
kiềng đối lập với Quy Nhơn, địa bàn của Nhạc và Gia Định, đất phân phong của
Đông Định vương Nguyễn Lữ. Anh em một nhà chia ba non nước111: một thời kỳ rất
thịnh trong bộ lịch sử Tây Sơn!
Bắc Bình vương, thân ở Quảng Nam, nhưng tai mắt vẫn nghe
ngóng ở Nghệ An, nơi thả lỏng con “Diều biển” Nguyễn Hữu Chỉnh.
Quả như Bắc Bình vương đã liệu trước, Chỉnh từ khi ở lại Nghệ
An, không quên kiếm cách để phá lồng để bay nhảy.
Bị Bắc Bình vương “ly dị”, Chỉnh, một mặt thu dùng bọn lưu
vong, một mặt luyện tập quân hương dũng, ngấm ngầm có chí chiếm lấy Nghệ An.
Ở Thăng Long, sau khi quân Tây Sơn rút khỏi, tình hình trở
nên nghiêm trọng. Vua Lê vội vời các triều thần bàn rằng: bây giờ trong nước hư
không, nếu có biến động cần kíp gì thì lấy chi mà trị được? Vua Lê bèn bay thư
đi các nơi, triệu các cố thần trong các thế gia dấy binh vào vệ. Các hào mục
các nơi đều chiếm giữ từng địa bàn, chiêu tập binh mã, lót miệng bằng tiếng bảo
vệ nhà vua. Các cựu thần họ Trịnh cũng ló ra, hoạt động về chính trị và quân sự.
Nhân dịp ấy, bọn vô lại cũng nổi lên đánh giết lẫn nhau, làm ồn
ào rối ren cả một nước.
Có hai đảng tranh nhau giựt lại ngôi chúa: ấy là đảng Trịnh Lệ
và đảng Trịnh Bồng.
“Công kênh” Trịnh Lệ, Dương Trọng Tế đem binh từ Kinh Bắc
sang Thăng Long, hiệu triệu bách quan lập Trịnh Lệ lên nối ngôi chúa.
Trịnh Bồng với một số đông thủ hạ, từ Chương Đức về kinh, xin
vua Lê Chiêu Thống cho nối nghiệp vương.
Trước tình hình ấy, vua Chiêu Thống vốn nhu nhược và lép vế,
rất khó xử.
Lá chiếu vặn hỏi Trịnh Lệ tự tiện làm chúa vừa ban ra, liền bị
Trọng Tế xé bỏ trước mặt sứ giả.
Tình thế găng!
Sau vua Lê phải liệu chiều lui tới: phong Trịnh Bồng làm
Nguyên súy Yến Đô vương vì nhà vua bị uy hiếp bởi Đinh Tích Nhưỡng và Hoàng
Phùng Cơ.
Còn Trịnh Lệ, sau trận đại bại ở Cầu Muống (ở gần Khâm Thiên,
Hà Nội), phải chạy về mạn Bắc.
Trịnh Bồng từ bữa được lên làm chúa, lại đi theo vết chân của
các chúa trước, vơ nhặt cho kỳ hết các quyền chính mà vì khúc ngoẹo trên lịch sử,
tình cờ đã lọt qua tay vua Chiêu Thống nhà Lê.
Vào hồi này, theo như các giáo sĩ đã tả trong quyển Sử ký Đại
Nam Việt thì dân gian, bấy giờ, phải sống trong cảnh rối ren mất trật tự và ngoắc
ngoải hoặc chết chóc vì cơ cận, dịch lệ:
Làng nọ đánh làng kia, chẳng biết cậy ai cứu giúp… Đâu đó
cũng có kẻ cướp, người ta giết lộn nhau… Vả lại, năm ấy, phải đại hạn, đoạn phải
bão cùng lụt cả thể. Các đảng đê… về xứ Nam Định vữa (vỡ) hết, hai huyện Quỳnh
Lưu và Đông Thành thì càng khốn nạn hơn nữa. Bão lớn lắm, cửa nhà sập hết; cây
cối cùng sanh hoa đẳng vật hao hại tận tuyệt chẳng còn giống gì… Nước biển tràn
ra làm hư hỏng lúa, còn bao nhiêu khỏi lụt hư thì lại phải sâu keo (hoàng
trùng). Năm ấy chẳng có ai gặt được, mà lúa năm trước còn lại ít nhiều thì kẻ
cướp lấy hết, cho nên thiên hạ đói khát quá lẽ. Dầu có tiền bạc cũng chẳng biết
liệu làm sao mà mua ăn, vì chẳng còn đồ ăn gì nữa. Kẻ đã chết đói thì vô ngần
vô số kể chẳng xiết. Người ta chỉ ăn cỏ như bò (?) hay là ăn những rễ cây, gốc
chuối, thì lại sinh bịnh dịch mà càng thêm chết hơn nữa… Trong xứ Nghệ An có xã
chẳng còn sót người nào, hoặc chết đói, hoặc chết bịnh hết. (Sử ký Đại Nam Việt,
trang 60, 61).
Dẫn nguyên văn đoạn Sử ký trên, tôi muốn tỏ cho độc giả biết
rõ những trạng thái về chính trị, về kinh tế và về xã hội ở xứ ta hồi đó đương
thối nát và tối tăm là thế nào! Các nhà đương cục bấy giờ chỉ chuyên tâm chú ý
vào cuộc nội tranh, nhìn đâu đến nỗi đau khổ ở nơi hang cùng, ngõ hẻm!
Càng lầm than thảm đạm, dân chúng càng khát khao một cuộc đời
sung sướng hơn. Lẽ tất nhiên họ phải mong tìm cho được bàn tay “tế độ” cứu họ
ra khỏi biển khổ.
Nguyễn Huệ đại biểu cho cái khuynh hướng ấy của dân gian, nên
dễ thành công trong những công cuộc phi thường: diệt Trịnh, thay Lê, quét sạch
20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị.
Đáp lại tiếng gọi của Lê Chiêu Thống, Chỉnh đem binh từ Nghệ
An vào kinh Thăng Long hộ vệ, để đồ đảng là Lê Duật ở lại làm việc với Duệ.
Chỉnh tỏ ý quyến luyến Duệ bằng lời đường mật; Duệ nâng chén
tiễn chân Chỉnh bằng cái thái độ ân cần. Cảm tình trong cuộc khứ lưu này đã
gieo cái mầm thông đồng âm mưu vào lòng phản trắc của hai người đó.
Chỉnh phất cờ “hộ vệ” đến đâu, thế lực và địa vị Trịnh Bồng đổ
bẹp đến đó. Ngai vương tôn quý của họ Trịnh, sau cơn bại vong của ông chúa cuối
cùng này, phải nhường chỗ cho con “Diều biển”!
Vì có công đuổi Trịnh Bồng, Chỉnh được Lê Chiêu Thống phong
chức Bình chương Quân quốc Trọng sự, Đại tư đồ, Bằng Trung công.
Từ đó, lộng lẫy uy quyền, Chỉnh đem vây cánh chia giữ các yếu
chức trong triều đình và ngoài các trấn. Phàm việc, Chỉnh cứ tự tiện quyết định,
chẳng cần bàn hỏi vua Lê.
Chỉnh đi theo vết chân họ Trịnh còn in lại: lập trại quân Võ
Thành, đóng tướng doanh ở Trịnh phủ, cho con là Nguyễn Hữu Du lập phủ “Thế tử”ở
phía đông dinh mình. Chỉnh sống một thời hách dịch, lẫm liệt.
Thấy Chỉnh lăng bức như vậy, vua Chiêu Thống phát chán, bèn mật
mưu với bọn nội hàn Ngô Vi Quý112 định vời Hữu Chỉnh vào tiện điện (đền tư để
vua ngự trong lúc bình cư) để bàn việc rồi nhân dịp đánh thuốc độc mà giết đi.
Một hôm, Vũ Trinh113 vào yết kiến; vua Lê đem việc đó nói với
Trinh. Trinh giật mình, tâu rằng: “Ai bày mưu ấy cho Bệ hạ thế? Thần trộm lấy
làm nguy lắm đấy. Vì nay cường địch (chỉ Tây Sơn) đương lăng bức, tin cảnh báo
ngoài biên thùy đương gấp rút, triều đình chưa hòa, lòng người chưa yên, chính
là lúc Bệ hạ nên dựa vào Chỉnh mà dùng làm móng vuốt, chứ Chỉnh chưa lộ hình
tích là người gian trá và bất tín, sao Bệ hạ lại vội đón trước, đoán phỏng mà
chực giết kẻ cường thần? Muôn một thủ hạ của Chỉnh nổi dậy làm biến thì xã tắc
sẽ ra sao?”
Chiêu Thống nghe ra, bấy giờ mới thôi.
Nghe biết việc đó, Chỉnh từ đấy trở đi, luôn bỏ lễ triều yết,
cứ buông rộng thả dài cho bọn thủ hạ muốn làm gì thì làm.
Hào kiệt bốn phương ai cũng ôm mối thất vọng. Nơi này chốn
khác lồng dậy, bốc lên, đâu cũng nêu cao một danh nghĩa: khôi phục Trịnh, diệt
Nguyễn Hữu Chỉnh.
Cầm quyền ở Thăng Long, Chỉnh thường trao đổi thư từ với Duệ
và, để mua lòng Duệ, Chỉnh hay dùng quà “ngoại giao” biếu bạn rất hậu.
Muốn dò tình thế Tây Sơn và ý hướng của Duệ, Chỉnh lại mật gọi
Lê Duật, tay sai, vào kinh.
Dịp tốt đã đến với Chỉnh:
Ở Bắc, Chiêu Thống, ông vua quá nhu nhược, tha hồ dễ vần như
quả lăn tròn!
Ở Nam, anh em Tây Sơn bất hòa, xáo thịt nhau bằng nồi da, nứt
một khe hở cho người dòm dỏ!
Chỉnh lại tiếp đươc thư Duệ báo tin cho biết cái ngày vô Nam
khởi sự: chực vật Tây Sơn.
Mừng! Chỉnh mừng phen này quyết bỏ Nghệ An vào “túi”!
Chỉnh liền sai Duật đem biếu Duệ 10 lạng vàng, 10 tấm gấm và
dặn thuyết Duệ bằng cách dụ dỗ lợi, hại, họa, phúc để Duệ trở giáo, chiếm lấy
Nghệ An, chận đường Chiêu Viễn kéo ra. Một khi làm được thành công, Chỉnh sẽ
noi theo dấu cũ tiền triều đã vạch: đắp lũy ở Hoành Sơn, chia sông Gianh (Linh
Giang) làm giới hạn, diễn lại tấn tuồng “Nam Bắc phân trị” như xưa.
Khi đó, Vũ Văn Nhậm, một tướng thân tín của Tây Sơn, đã dò biết
hết câu chuyện. Nhậm dùng binh phù (ấn tín của nhà binh) gọi Duệ, song bị Duệ cự
lại:
– Ông tướng cầm quân ở ngoài, dầu có mạng lệnh nhà vua cũng
không theo. Khi Đại vương (chỉ Nguyễn Huệ) về Nam giao ta đóng giữ đất này, vậy
không thể lìa bỏ mà đi đâu được.
Trước khi về Nam, anh em Tây Sơn có để Nguyễn Duệ ở lại đóng
giữ Nghệ An. Đến nay, Tây Sơn có việc “huých tưởng”, là một dịp để cho Nguyễn
Duệ ngờ, sợ. Đó vì Duệ thấy mình là tướng cũ của Nhạc, e chuyến này sẽ không được
Huệ dùng chăng.
Duệ bèn mật kết với Tiền tham nghị Nguyễn Đình Viện và bảo Viện
ngầm thông với Hữu Chỉnh, hẹn nhau họp sức cùng đánh Bắc Bình vương: nếu việc
xong xuôi thì Duệ sẽ giao trả đất Nghệ An, đời đời cố kết cái tình lân hiếu.
Đình Viễn đem việc đó vào nói với Chỉnh. Chỉnh còn ngần ngừ
chưa trả lời, thì tin mưu phản ấy của Nguyễn Duệ đã lọt đến tai Vũ Văn Nhậm.
Vũ Văn Nhậm lập tức báo thư vào Nam, trình bày sự biến ấy với
Bắc Bình vương: “Ngày trước dùng Chỉnh, khác nào chứa cọp trong nhà; nay lưu dụng
Duệ, cũng tựa nuôi ong tay áo! Xin Đại vương kíp đem binh ra Bắc: trước giết Duệ
ở Nghệ, sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Thật là một dịp dẹp loạn, yên nước, xin Đại
vương đừng bỏ qua…”
Bấy giờ Nguyễn Huệ đương đứng “giữa hai luồng lửa”: Chỉnh phản
ở ngoài Bắc; gia biến xảy ở trong Nam! Phải dùng toàn lực để giữ bên trong, lẽ
tất nhiên không thể trì khu114 ra ngoài ngay được.
Dẫu vậy, từ mùa đông năm ngoái (1786), hay tin Cống Chỉnh đem
quân vào phò vua Lê, Bắc Bình vương đã phải hành động để đề phòng trước: Sai
Nguyễn Văn Đức kéo binh ra đóng Diễn Châu, cùng gánh công việc trấn thủ với Duệ115.
Nay tiếp được thư Nhậm, Bắc Bình vương vội sai người ra bảo
Nhậm: “Hãy ập ra Nghệ An, bắt sống Duệ, tịch thu lấy quân và lương, rồi chia
binh đóng giữ những nơi hiểm yếu. Bấy giờ mới đưa thư hỏi Chỉnh về tội thông
mưu với Duệ, xem Chỉnh nói sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ oai, kiếm lời chối chữa,
thì hãy để sau sẽ liệu, không cần trị vội làm gì. Bằng hắn chống lại, thì vin cớ
đó kéo quân ra đánh lập tức!”
Được lệnh, Nhậm đem đại binh đi gấp, một ngày đêm đến trại Kỳ
Hòa.
Khi Nhậm sắp đến, bọn Duệ, vì biết tin trước, đã vội bỏ xứ
Nghệ, đi đường tắt, trốn về với Nhạc, và dặn Đình Viện chiếm giữ lấy Nghệ An.
Bộ tướng của Duệ là Nguyễn Thuyên ở làng Sa Nam (thuộc huyện
Nam Đường, trấn Nghệ An) không theo Duệ, lại đánh Đình Viện. Viện thế côi, cùng
với mấy con là Ngọc Liễn, Ngọc Triệu, Ngọc Chấn và rể là Thiều Tôn Hiệp đều chết
vì đánh trận.
Còn Đức là đồng đảng của Duệ, khi thấy Duệ đã về Nam rồi, liền
trốn sang Xiêm.
Tới Nghệ An, Nhậm điểm binh, thu thuế, sửa khí giới, kinh lý
mọi nơi, xếp đặt mọi việc thiện hậu.
Sứ bộ đi đòi đất Nghệ
Nguyễn Hữu Chỉnh, từ khi vào kinh hộ vệ, sống một mẩu đời
“ông chúa” đầy oai quyền.
Đường trời mở rộng thênh thênh,
Ta đây cũng một triều đình, kém ai?
Người ta cho hai câu đó là của ông Cống Chỉnh “trả lời” Bắc
Bình vương sau khi bị bỏ ở Bắc.
Cuộc nội tranh của nhà Tây Sơn hé một kẽ hở cho Chỉnh ngấp
nghé nom dòm!
Sứ bộ Bắc Hà, gồm có Trần Công Sán116, Ngô Nho117 và Hoàng
thân Lê Duy Hiên118, mạo hiểm vô Nam, “đòi” đất tỉnh Nghệ (Đinh Mùi, 1787).
Khi sứ bộ đi, Chỉnh tiễn Công Sán, ngủ một đêm ở chùa Thịnh
Liệt (Sét).
Công Sán bảo Hữu Chỉnh rằng:
– Nguyễn Huệ là người sâu hiểm và tráo trở, rất khó dò lường.
Đi chuyến này tôi dù cố nói cũng chưa chắc ông ta chịu nghe đâu. Nhưng tôi xin
gắng tranh biện ráo riết, dù chết cũng cam. Sau khi tôi đi, ngài nên để ý càng
hơn, chứ đừng coi thường. Những miền giáp núi ở vùng Thanh Hoa, nên chia quân
đóng đồn để át bộ binh, và các nơi cửa bể ở mạn Sơn Nam, nên đóng cọc cắm rào để
chặn quân thủy bên địch. Nếu họ bội ước đến đánh thì ta đã có sẵn sàng để chế
trị rồi. Như vậy không đến nỗi nước đến chân mới nhảy, lâm khi có việc, cuống
quít vội vàng.
Chỉnh đáp
– Xin cứ đi, đừng lo ngại. Từ lệnh của tiên sinh nói ai mà chẳng
chuyển? Bằng việc chẳng xong thì cái ngón trị quân lữ của tiểu sinh đây tưởng
chưa mấy kẻ đã ăn đứt! Muôn một có biến thì tiểu sinh há lại không làm được một
phen sấm vang, chớp bủa, biển lệch, non nghiêng cho hả lòng? Nguyễn Huệ dẫu kiệt
hiệt đến đâu, cũng chưa dễ đã giở được thủ đoạn gì. Tiên sinh chẳng cần phải
căn dặn kỹ quá.
Khi Sán đến huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), Vũ Văn Nhậm bên Tây
Sơn sai đồn tướng kiểm soát các phẩm vật của sứ bộ, chỉ cho đi 3 vị sứ thần, 18
người hành giới; còn vàng, đoạn, lụa, vải này khác đều bắt đem trở về cả.
Tại Vĩnh Doanh119, Nhậm đặt tiệc thết sứ bộ, rồi bảo Công
Sán: “Văn võ ngoài Bắc Hà có mấy người được như lão ông? Lê Tự quân giao nước
cho bạn thần120, Chỉnh, chẳng hay ý nghĩ thế nào? Bản chức cầm binh phù, vác
gươm ra Thăng Long, sẽ chém đầu Chỉnh và hỏi Lê Tự quân cớ sao lại bội đức,
dung nạp kẻ bạn thần! Rồi bảo rõ cho thân sĩ Bắc Hà biết cái bản ý phải dụng
binh là thế. Tự quân không giữ nổi quốc gia, thì đến cả Thanh Hoa trở ra Bắc, nếu
ta không lấy, chung quy cũng đến lọt vào họ khác mất thôi! Nghệ An là ấp cỏn
con, có cắt hay không cũng chẳng quan hệ gì đến đại cục còn mất. Các ông từ xa
đến kêu xin chẳng qua chỉ chác lấy cái khổ lặn lội! Chỉ e chim đã lìa tổ, khi
bay về, không còn cành nào đậu nữa!”
Ngô Nho cả sợ, bàn với Công Sán: đổi quốc thư đòi đất Nghệ An
làm bức thư cầu Tây Sơn cho vua Lê được tập phong, song Sán không nghe121.
Khi đến Phú Xuân, sứ bộ Bắc Hà vào yết kiến Bắc Bình vương và
dâng trình “quốc thư” một cách trịnh trọng.
Với vẻ ghẻ lạnh, Bắc Bình vương cầm xem lá thư của vua Lê
Chiêu Thống do Chỉnh nấp sau xúi làm.
Đại ý:
Nghệ An, đất căn bản trong đời trung hưng của bản triều, liền
nối với Thanh Hoa như chân với tay. Tại đó nảy được nhiều tay văn võ. Cũng tại
đó, lựa chọn và rèn luyện được quân túc vệ. Nếu dùng người, bỏ đất, để đến nỗi
họ hàng phải chia lìa, quê hương phải xa cách thì thật không hợp với lòng người!
Quý quốc vương122 vốn giàu lòng tin thực, trọng tình mục
lân123. Suy bụng ta ra bụng người, dẫu việc nhỏ nhặt đến đâu cũng còn soi xét
biết được; huống chi việc này rõ rệt sờ sờ là thế.
Lại nghĩ: hồi mới ra Bắc, Quý quốc vẫn lấy việc “tôn phù” làm
nghĩa cốt nhất. Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển Tông), khi còn, đã từng mời Quý vương
ngồi chơi ở sập, cầm tay nói chuyện ân cần. Tiếng ngọc hãy còn văng vẳng bên
tai, đã quên sao được?
Kịp khi dựa ghế trối trăng, Tiên đế áy náy chỉ lo quả nhân trẻ
người non dạ, nên muốn nương tựa Quý quốc để nhờ chút phúc.
Gần nay, nghe thấy Quý quốc sai tướng ra giữ Nghệ An, nhiều
người trong nước đem lòng ngờ vực. Có lẽ là do biên thần gây sự, chứ không phải
thật ra từ ý Quý vương.
Quý quốc vin cớ mùa thu năm ngoái (Bính Ngọ, 1786) tệ quốc muốn
cắt đất khao quân, nên nay Quý quốc mới làm ra sự thật.
Quả nhân mới lên trị vì, không rõ nguyên nhân ngày trước ra
sao. Vậy đã sai đình thần xét lại bản ước nhường đất, thì thấy chỉ là hai châu
Bố Chính124 và Ma Linh125 thôi, chứ không dính dáng đến bờ cõi xứ Nghệ. Khi đó,
Quý vương đã dạy: đất đai nếu của nhà Lê thì một tấc cũng không lấy.
Nhưng, khao quân bằng đất sao bằng khao quân bằng tiền? Vậy
xin tính theo số đất, xem tổng số mỗi năm thu được bao nhiêu, bèn đùng làm lễ
khao lạo. Rồi hằng năm cứ dâng nộp Quý quốc, giữ thành lệ lâu dài.
Xin Đại vương lượng xét, khiến cho tình nghĩa hai nước được vẹn
tuyền…
Bắc Bình vương xem sơ một lượt, cả giận, ném thư xuống đất,
quát ầm: “Đứa nào làm cái thư này thế? Nói ròng những lời vô nghĩa, vô lý! Có
phải tự mưu thằng Chỉnh không? Hắn là một tên cùng đinh lạc phách, nhờ ta tô
mày vẽ mặt mới được ra người. Chừ (giờ) hắn bay nhảy ở Bắc Hà, hiệu lệnh một nước,
nghiễm nhiên làm như chúa Trịnh xưa. Nay hắn lại dám chống nghịch cùng ta, muốn
tranh lấy cả xứ Nghệ. Không giết thằng cha này, còn trị đặng ai nữa? Hắn chỉ
quen múa mép lừa người! Ta có phải là con nít đâu mà các ngươi chực phỉnh gạt đặng?”
Cộng Sán không biến nét mặt, ung dung thưa:
– Xin Đại vương chớ vội nóng. Để tôi nói cạn một lời, rồi muốn
giết tôi, tôi xin chịu chết.
Bắc Bình vương nhớ lại, khi ở Thăng Long, vào yết kiến vua Lê
Hiển Tông, được nhà vua cho quần thần theo thứ tự đến ra mắt. Vương đã lấy làm
lạ trước những cử chỉ ung dung và tự nhiên của Công Sán. Lúc bấy giờ, vương
luôn hỏi Công Sán về việc Bắc Hà: hễ hỏi đến đâu thì Sán tùy liệu mà đối đáp đến
đó với những giọng rào đón biện luận, không hề chịu khuất một chút nào.
Vốn trọng Công Sán từ đó, nên nay Bắc Bình vương mới đấu dịu:
– Xưa ta vượt biển ra Bắc: phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả
trào suốt nước, ai cũng sởn ốc, bó tay hết, có dám làm chi đặng ta đâu! Khi đó
nếu ta chiếm lấy cả nước, xưng đế, xưng vương, muốn chi chẳng được? Song ta chỉ
kính mến ân đức Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển), nên mới trao lại hết cả bờ cõi cho
nhà Lê. Bản đồ nhất thống chính ta tái tạo cho đó, triều đình nhà Lê hòng báo đáp
ta bằng cái danh hiệu hão: tước Thượng công! “Thượng công” là cái chi? Đeo cái
“Thượng công”, ta có hơn chi hả?
Bắc Bình vương cứ tiếp:
– Rồi đến Tiên đế (chỉ vua Lê Hiển) thăng hà, ta phải lo liệu
cho lễ Ninh lăng; Tự vương (chỉ vua Chiêu Thống) nối ngôi, ta lại phải thu xếp
cho việc sách lập. Nay nhà Lê đã không biết đền ơn trả nghĩa, lại còn thu dùng
tên bạn thần (chỉ Cống Chỉnh), hằn học, tranh giành, chực đòi lấy đất xứ Nghệ!
Các ngươi làm vậy, có ai nhịn đặng không? Ta đã phái hai vạn binh mã ra tuột
Thăng Long để lấy đầu cha con thằng Chỉnh đó! Thấy quân ta kéo tới, có lẽ Chỉnh
đã bức bách Tự tôn (Chiêu Thống) rồi! Trong chỗ tên bay đạn lạc, ngọc đá xô bồ,
chẳng hay Tự tôn có hề chi không. Người nước chẳng rõ, không khéo lại oán giận
ta đấy!
Với vẻ trấn tĩnh, lý sự và khảng khái, Công Sán phản đối lại
từng khoản một:
– Xưa vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Ngô, khôi phục đất Việt:
công đức to như núi, cao như giời. Truyền đến vua Thánh Tông: giời Nam một dải,
tô điểm thái bình, làm rạng công nghiệp thuở trước, mở rộng đường lối cho đời
sau. Từ Thạch Bi126 lên Bắc, Đại Lĩnh127 về Nam, thần dân một nước ai cũng một
dạ yêu mến kính tôn cả.
Sau đó hơn trăm năm, họ Mạc tiếm nghịch, người nước thảy đều
đau lòng. Tiên vương (chỉ ông Nguyễn Kim) bèn liên hiệp đồng chí, lập lại nhà
Lê. Về sau, họ Trịnh nổi lên, cũng lót miệng bằng tiếng phù Lê, nên mới hiệu lệnh
được bốn phương, khiến cho ai cũng hưởng ứng.
Vài đời sau dẫu bị họ Trịnh hiếp đáp, song chính sóc vẫn
chính sóc Lê, non sông vẫn non sông cũ.
Đại vương (chỉ Bắc Bình vương) một phen lên ngựa, đến thẳng
kinh thành. Đó dẫu bởi ngài có danh lớn, oai to, nhưng cũng vì Ngài vin vào
nghĩa cả tôn phù, nên lòng người mới chịu tin phục. Bằng chẳng, bước chân vào đất
nước người, sao được dễ thế?
Đức Tiên đế tiếp đãi Đại vương, lễ mạo rất long trọng: trước
phong công, sau phong vương, đó là điển lễ vốn có của bản triều. Đền bồi như thế,
không phải không hậu. Xin Đại vương đừng coi rẻ.
Một nước cũ hơn ba trăm năm đã được giời tựa, người mến, Đại
vương lấy rồi trả lại đất đai, chính là làm một việc thuận ý giời, theo lòng
người, chứ sao kể là ơn đức được?
Khi Tiên đế sắp băng. Tự hoàng lên trị vì, mọi việc đều bẩm bạch
ngài. Vậy Đại vương không chủ trương, còn để ai vào đấy? Đã đến bước không sao
đừng được thì cũng là lý thế tất phải như thế. Quả tôi không dám bợ đỡ nói khen
Ngài đâu.
Vẫn giọng trôi chảy và mạnh dạn ấy, Công Sán cứ cãi lý:
– Hồi đại quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo, được Đại
vương để cho ở lại Nghệ An, sao gọi là phản bạn được? Nghệ An vốn là đất cũ của
bản triều, sao gọi là tranh giành được? Đại vương phái binh mã ra Bắc để tiện
thỉnh an, thì bản triều vẫn có điển lễ đón tiếp. Nếu không, người xưa đã nói:
nước nhớn có quân chinh phạt, thì nước nhỏ cũng có cách chống giữ. Tôi đã ra khỏi
bờ cõi, sự đó không dám biết đến. Tự hoàng nước tôi đã có chân mệnh đế vương
thì tên đạn tưởng cũng phải kiêng nể. Xin Đại vương đừng lo.
Đại vương làm theo chiều thuận: cứu lúc nguy, giúp khúc gấp,
phù tá cho nhà Lê, thì thần dân trong nước ai chẳng kính mến? Công đức còn chẳng
dám quên, dám đâu oán giận?
Nếu không thế, thì cuộc đời xoay chuyển, công việc đổi thay,
rồi sau sẽ ra thế nào, ý chúng tôi thật không thể đoán trước được.
Uốn lưỡi hùng biện, Công Sán hết sức chống cãi, đón trước,
rào sau, không chịu lún một lời nào.
Hoàng hôn! Vạn vật dần chìm trong bóng tối.
Bắc Bình vương bảo Sán bằng giọng dìu dịu.
– Vậy thì ông hãy cứ vô quán khách nghỉ ngơi, để ta nghĩ kỹ
ba lần, rồi sẽ liệu định.
Níu được câu ấy của vương, Công Sán đánh ngay vào chỗ yếu:
– Nghĩ một lần cũng đã đủ chán. Nghĩ đến ba lần, e lại lẫn
chăng. Tôi đây xin liều một chết cho rồi chuyện.
Bắc Bình vương cả giận, truyền nhốt Công Sán vô khám.
Còn Hiên và Nho? Hai viên Phó sứ này cũng chịu chung một số
phận như Chánh sứ Công Sán, song mỗi người bị giam một nơi.
Bề ngoài tuy ra oai nộ nạt, nhưng trong lòng vốn trọng Công
Sán là người trung trực, dũng cảm, Bắc Bình vương vẫn muốn thu dùng, nên sau
khi truyền giam Công Sán, ngài luôn cho người dò xét động tĩnh của viên Chánh sứ
ây.
Thì một câu đối của Công Sán đề ở nhà giam đã tỏ được lòng sắt
son, chí khảng khái làm tiêu biểu cho sĩ phu Bắc Hà:
達德有三縱未能之願學
小心無二行其素也何尤
Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.
Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu?
Dịch:
Ba đức được tôn, dẫu chưa hay, xin thử học.
Một lòng không đổi, cứ để mộc, dám trách ai?
Một cuộc hội đàm giữa Bắc Bình vương và Tư mã Ngô Văn Sở. Sở
xin giết Công Sán. Song vương còn ngần ngừ vì tiếc Sán là người có tài, muốn giữ
lại để trọng dụng.
Sán đương nằm thừ trong cùm, nhưng vẻ mặt vẫn trấn tĩnh, tự
nhiên, bỗng thấy Trung thư Trần Văn Kỷ và Lễ bộ Vũ Văn Trụ vâng mật lệnh của Bắc
Bình vương, đến “thuyết” Công Sán. Họ nói khích:
– Cụ ơi, sao cụ tự làm khổ mình thế?
Sán nghiêm nghị:
– Thôi, thế nào cũng là số mệnh cả.
– Đã là người quân tử, tự mình phải liệu cơ xoay xở, chứ sao
lại chịu bó tay phó mặc số mệnh? Ví như đánh sóc đĩa, có chẵn, có lẻ; ta phải
nghe chiều mà đánh “mặt dền” mới là tay “lõi bạc”.
– Thế là mánh khóe con bạc, chứ không phải là đạo người quân
tử. Sán này nghe người xưa có nói: “Làm tôi phải chết vì trung.”
Biết không thể dỗ nổi, Kỷ và Trụ trở ra, nói với nhau: “Trần
Công Sán nhà Lê khác nào Tô Tử Khanh nhà Hán: đáng ghét nhưng cũng đáng
thương!”
Nhà Tây Sơn bấy giờ đương có nội chiến. Bắc Bình vương sợ sứ
bộ nhà Lê ở lâu, tai vách, mạch giừng128, biết rõ nội tình, ngộ họ bày kế phản
gián, gây chuyện rối ren thì cũng đáng ngại! Nếu thả bổng cho về, họ sẽ làm lộ
công chuyện Đàng Trong, chẳng cũng mang tiếng với Đàng Ngoài? Chi bằng thả họ
ra biển, rồi liệu bài tính đi là hơn hết.
Nét hồng tía trong vườn hoa đã phai tàn; cây đào xanh rờn những
lá non và đã kết trái li ti bằng khuy áo một. Nay đã là cuối xuân Đinh Mùi
(1787).
Bắc Bình vương căn dặn sứ bộ nhà Lê với vẻ mặt niềm nở: “Các
ông hãy cứ về trước, đợi khi ra Bắc, ta sẽ liệu khu xử việc này… Trăm lạng bạc
đây là đồ lễ của Công chúa (Ngọc Hân) gửi tặng, xin chớ từ chối.”
Gió xuân già dào dạt thổi.
Vũ Văn Nguyệt, Đô đốc Tây Sơn, giương buồm vài chiếc thuyền
biển, bắt đầu vào hồi tháng ba, đi từ cửa biển Tư Dung, “tiễn đưa” sứ bộ về Bắc.
Dưới vòm trời xanh lợt, con thuyền “cô trung” của Công Sán lướt sóng vèo vèo
trôi… Những lúc “nắng mới” phản chiếu ánh chiều xuống từng đợt nước trong trắng,
chói lòa, dễ gợi lòng viên Chánh sứ muốn phơi gan dạ sắt son dưới bóng thanh
thiên bạch nhật!
Đi được mươi ngày, thuyền đến cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ
An, bỗng dưng cả đoàn sứ bộ nhà Lê Công Sán và 20 người ôm bầu máu nóng, theo
thuyền chìm lỉm xuống dòng biển trong!
Đã làm tròn phận sự ngầm đục thuyền, giết sứ bộ rồi, Nguyệt, với
vẻ tươi cười của phái đắc thắng, quay chiếc thuyền giả đò sống sót lên bờ,
nhưng không quên nói phao phao những lời đã soạn thành bài sẵn: “Sứ bộ đi biển,
gặp bão, không may chết đuối mất cả!”
Bấy giờ Cống Chỉnh mới phục lời Công Sán nói từ giã Chỉnh khi
cầm cờ tiết đi sứ: “Minh công nên lưu tâm đến việc nước. Tôi chỉ có đi, không
có về!”
Những biến cố xảy ra sau vụ Công Sán
Sau khi sứ bộ Công Sán bị hại, Bắc Hà có xảy mấy biến cố, xin
ghi chép ra đây để các bạn thấy rõ những tấn tuồng rối loạn trước khi Tây Sơn
ra Bắc lần thứ 2.
1) Việc Dương Trọng Khiêm, tức Trọng Tế, mưu khôi phục họ Trịnh,
nhưng thất bại, bị giết hồi mùa hạ năm Đinh Mùi (1787).
Nguyên trước đây, Trọng Khiêm từ Bình Vọng chạy đến làng Lạc
Đạo129 cùng với cháu Dương Vân, học trò Nguyễn Mậu Nễ mộ binh ở huyện Gia Lâm,
đắp lũy từ làng Như Kinh130 đến làng Phú Thị131 chia quân đóng giữ. Rồi Trọng
Khiêm truyền hịch đi các huyện, hẹn cùng khôi phục họ Trịnh.
Hữu Chỉnh sai tướng Hoàng Viết Tuyển đem binh đi đánh Khiêm.
Viết Tuyển lùa quân rần rộ tiến lên, bốn mặt cùng bắn. Khiêm thua, đang đêm phải
chạy trốn, bị dân làng Ngọc Xá132 bắt sống, đưa về kinh sư. Vua Lê Chiêu Thống
hạ chiếu kể tội Trọng Khiêm, đại lược: “Là tội mà phản vua, tội ấy thực khôn
dung trong giời đất; làm giặc đã có tiếng, tên này đáng giết chết bởi quốc
dân.” (Nguyên văn chữ Hán là: Dĩ thần bạn quân, vô sở dung ư thiên địa; kỳ danh
vi tặc, đắc cộng chu vu quốc nhân.)
Rồi vua Lê sai giết Trọng Khiêm ở nhà Thái Học.
2) Việc Hoàng Phùng Cơ mưu cắt quân bảo vệ, nhưng bị Hữu Chỉnh
đánh bại rồi giết chết hồi tháng tám năm Đinh Mùi (1787).
Bấy giờ Phùng Cơ ở trấn Sơn Tây, truyền hịch đi các lộ Quảng
Oai và Quốc Oai, mưu kéo quân vào Thăng Long để giết Hữu Chỉnh.
Chỉnh sai tướng Nguyễn Duật133 đón đánh ở làng Đại Phùng134,
còn mình thì đốc suất đại quân tiếp chiến.
Mới giao phong với Phùng Cơ, Duật đã rút binh kéo lui. Con Cơ
là Gia khuyên Cơ nên thừa thắng, ruổi dài, thẳng đến kinh thành cho khỏi bỏ lỡ
dịp tốt; song Cơ không nghe. Khi quân Phùng Cơ tạm nghỉ và đang ăn, thì Duật
thu quân quay lại, kết trận xông lên mà phản công, làm cho quân Phùng Cơ trở
tay không kịp, cuống quýt tan chạy. Cơ và con trơ trọi trên mình voi, cố sức
chiến đấu, trong khi quân Duật bốn mặt bổ vây.
Bấy giờ Hữu Chỉnh ập đến, thúc quân thiết kỵ bắn dồn vào chỗ
Phùng Cơ. Cơ từ trên bành voi ngã xuống, bị bắt đưa về Thăng Long: Sắp sửa đem
chém, thì vua Lê cho Cơ được uống thuốc độc để tự tử vì lấy cớ rằng trước đây
Cơ có công đánh lui Mậu Nễ.
3) Việc Trịnh Bồng mưu lấy lại quyền vị, nhưng bị Hoàng Viết
Tuyển và Hoàng đệ Lê Duy Lưu đánh bại ở huyện Đông Quan135 hồi cuối thu, năm
Đinh Mùi (1787).
Trước đây, Trịnh Bồng chạy đến làng Quế Ổ136 cùng bọn Nguyễn
Trọng Mại chia đồn cố giữ để mưu toan khôi phục lấy quyền vị của nhà chúa xưa.
Bồng lại sai thuộc tướng là Đắc Võ (không rõ họ của Võ là gì) giữ lũy Đông Triều
để làm phên giậu che đỡ cho được củng cố.
Thấy vậy, Hữu Chỉnh sai bọn Nguyễn Như Thái tiến công Trịnh Bồng.
Bồng thua, chạy về Hải Dương, được Đinh Tích Nhưỡng ủng hộ bằng
một lực lượng khá mạnh.
Sau Hữu Chỉnh sai Hoàng Viết Tuyển, trấn thủ Sơn Nam, tiến
đánh. Tích Nhưỡng đại bại, chỉ chạy được thoát thân, bỏ lại Trịnh Bồng cho Lân
Dương hầu Phạm Đình Thiện đem đến huyện Đông Quan rồi lại vào đóng đồn ở ấp Bái
Hạ137.
Trải mấy tháng tiến công, bọn Hoàng Viết Tuyển không hạ được
Đông Quan. Sau nhân thấy Hoàng đệ Duy Lưu đem cấm vệ thân quân đi đốc chiến, Viết
Tuyển bèn họp binh với Nguyễn Như Thái cùng giáp công, rồi rong quân đốt phá
Đông Quan: Trịnh Bồng trước còn lẩn ở Yên Quảng, rồi trốn lên Lạng Sơn, rồi chạy
đi Hữu Lũng138, sau không biết đi đâu và kết cục ra sao.
Vì những cuộc thắng trận ấy đã đem lại cho Bằng Trung công
bao cái vẻ vang rực rỡ, nên Chỉnh lại càng dương dương “ta đây”; nhưng cũng vì
những trận nội chiến ấy đã làm cho Bắc Hà càng thêm mục nát liệt tê, nên rồi
ra, quân Tây Sơn ra đánh lại càng dễ dàng như vào cái thành “bỏ ngỏ”.
***
Chỉnh đang đắc chí, bỗng tiếp được thư Vũ Văn Nhậm hạch hỏi về
tội âm mưu với Duệ. Chỉnh phải phúc đáp bằng giọng trần tình và tạ lỗi:
Trước kia vào Nam qui phụ, tôi được Đại vương (chỉ Nguyễn Huệ)
quá yêu, cất dùng ở bên màn trướng, cho theo đòi cung kiếm trải bốn, năm thu.
Mùa thu năm ngoái (Bính Ngọ 1786), Đại vương rút quân về Nam, không cho tôi biết.
Chính ý Đại vương muốn thử xem tôi lui tới thế nào đấy. Khi đó, người Bắc cố
nèo tôi ở lại, nhưng tôi cũng cứ quyết tâm đi theo. Tấm lòng trung thành này,
tưởng bậc cao minh cũng đã xét thấu.
Khi theo đến Nghệ An, tôi vào ra mắt Đại vương ở Vĩnh Doanh,
xin đi tòng quân, thì Đại vương lại dạy: Các tướng bên Trịnh là bọn Thạc139,
Nhưỡng140 hãy còn khuấy rối, thế tất phải trừ. Vậy hãy cho ở lại để trị tiệt bọn
họ đi. Lẽ nào tôi dám trái mạng?
Dâng thân hèn mọn, hết sức xông pha tên đạn, tôi quyết “sống
mái” với bọn Thạc, Nhưỡng, nào dám quản ngại gì đâu? Chỉ mong trị xong hai tên
giặc đó, tôi sẽ một người, một ngựa, vào Nam tỏ tình.
Ngờ đâu, tháng trước, đánh vùng Sơn Tây, mới bắt được quân Thạc.
Còn Nhưỡng hãy còn vùng vẫy ở miền Hải Dương, chưa dẹp yên được; nên tôi chưa kịp
về hầu đó thôi.
Thấy tôi ở lại Bắc Hà, lắm kẻ đem lòng ghen ghét, nói vu thế
nọ, thế kia…
Xin xét tình cho: sau khi Đại vương về Nam, tôi ở lại Nghệ có
hơn mười ngày, rồi ra Bắc ngay, còn kịp đâu âm mưu với Duệ? Vả, từ đó trở đi, kẻ
Nam người Bắc, mỗi đằng một việc, có từng đi lại với nhau nữa đâu?
Tình thật, lòng ngay tưởng cũng không cần phải cãi. Huống chi
tôi với Tướng quân (chỉ Vũ Văn Nhậm) đồng sự đã lâu, nếu có lòng nào thì giấu
sao được?
Xin nhờ, Tướng quân thưa giùm với Đại vương cho, tôi đội ơn lắm.
Đọc kỹ bức thư trên, Nhậm thấy lời lẽ khiêm tốn, biết Chỉnh
còn có ý sợ. Để làm cho Chỉnh yên lòng, Nhậm viết phúc thư yên ủi Chỉnh bằng lời
ôn tồn thân mật. Nhậm lại khuyên Chỉnh cố đánh dẹp nốt Nhưỡng, khi nào thành
công thì kéo quân vào Nam để tỏ lòng ngay thật.
Hỏi tội Cống Chỉnh
Ai mang con sáo sang sông?
Để cho nay sáo xổ lồng bay cao!
Bay cao thì mặc bay cao,
Lưới giời đã rộng thoát nào được đâu?
Bốn câu đó, người ta nói là chỉ về việc Bắc Bình vương căm hờn
Cống Chỉnh, một “con sáo” đang bay nhảy trên đất Bắc Hà!
Cuộc giảng hòa trong Nam đã hàn lại vết thương “cốt nhục” giữa
Nhạc và Huệ.
Rảnh việc trong, Bắc Bình vương, từ đây, có thể dùng toàn lực
để đối phó với việc ngoài.
Một kỳ quân sự hội nghị nhóm giữa Quảng Nam
Ngồi ghế chủ tịch, Bắc Bình vương kể tội Cống Chỉnh trước mặt
các tướng chân tay:
– Chỉnh là một thằng sa cơ lỡ bước. Nhờ tay ta, hắn mới ra
người. Giờ hắn được ôm chân vua Lê, vẫy vùng ở đất Bắc Hà, hắn dám mưu mô tranh
lấy Nghệ An, chực đặt trọng trấn tại đó, hòng lại Nam xâm như chúa Trịnh xưa!
Thằng giặc này, ta phải giết chết mới đặng. Chẳng hay hắn có bao nhiêu binh mã?
Liệu có chọi nổi một trận với ta?
Ý định giết Chỉnh đó liền được thực hiện.
Vâng lệnh Bắc Bình vương, bọn Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem
quân ra Nghệ An, họp bàn với Vũ Văn Nhậm, viên tướng trấn thủ xứ ấy, lo việc Bắc
phạt.
Khi bọn Văn Sở đi, Bắc Bình vương dặn ngầm họ: “Nhậm là một
tay tướng tài, song ta vẫn không tin hắn. Chuyến này cho hắn giữ ấn Tiết chế, cầm
trọng binh, coi chư tướng, gánh vác quân quốc trọng sự, chưa chắc không khỏi
sinh biến đâu! Ta chỉ ngại một mình hắn, chứ có lo gì Bắc Hà. Các ngươi nên xét
nét cho thật kỹ, hễ có điều chi, phải lập tức mật báo cho ta biết.”
Gió đông vi vút thổi. “Bột” mưa đòi cơn rây rắc ngang mày
chinh phu!
Vũ Văn Nhậm kéo quân trảy qua Thổ Sơn, thuộc xã Văn Trai, huyện
Ngọc Sơn (Thanh Hoa) (tháng mười một, năm Đinh Mùi,1787) để tiến công đất Bắc.
Lê Duật thủ hạ của Chỉnh, bấy giờ đang đóng ở Thanh Hoa,
không dám chống cự, đã vội thu quân lui giữ Trinh Sơn giang, thuộc địa phận
làng Trinh Sơn, huyện Mỹ Hóa (Thanh Hoa).
Đang ngự trên ngôi quyền quý, thánh thần Nguyễn Hữu Chỉnh,
trong một ngày, 9 lần nhận được tin gấp rút từ biên thùy mặt Nam báo đến!
Ngựa trạm tấp nập, rình rịch ngoài đường!
Kinh đô Thăng Long bị cuốn vào luồng “nước xoáy” kinh động!
Lòng người càng giờ càng nôn nao!
Tấn náo kịch “dắt díu, bồng bế chạy loạn” cảnh nọ tiếp cảnh
kia, cứ diễn ra một cách đau khổ ê chề trên các đường nối đô thành với các làng
mạc!
Màu tang nhuộm đẫm đế đô. Các cửa hàng im ỉm đóng, âm thầm,
rùng rợn, khép nép trước oai thần Chiến tranh sắp xông vào!
Phố xá dần dần vắng tanh: không mấy người còn can đảm dám qua
lại. Chỉ các đương chức, vì công việc bó buộc, phải ở lại trong các tòa, các
dinh.
Để đối phó với tình hình nguy ngập, vua Chiêu Thống nhóm quân
sự hội nghị ở trong dinh quận Bằng Nguyễn Hữu Chỉnh.
Mọi người bàn:
– Văn Nhậm đem toán cô quân thình lình kéo đến như thế, ta
nên kíp điều khiển lấy trọng binh mà quyết chiến với chúng. Thành hay bại, là ở
chuyến này. Có điều cần là ta chớ đem binh lương mà nuôi béo chúng để gây thành
thế lực cho bên địch.
Chỉnh, với vẻ nhơn nhơn, ung dung nói: “Cần phải trấn tĩnh, đừng
nên bối rối kinh hoàng, làm cho lòng người náo động. Lê Duật giữ đất, thấy giặc
đến, phải phi báo, đó là phận sự của hắn ta. Nhưng hắn cũng là một tay tướng
tài, Văn Nhậm chưa dễ đã nuốt được nổi. Vả, hai sông Trinh Giang141 và Thanh
Quyết142, lòng sâu, nước cả, dầu có muôn ngựa ngàn binh cũng khó vượt qua được!
Phương lược đánh giữ, tự tôi đã định liệu cả rồi; can chi phải sợ hãi, cuống
quýt?”
Bề ngoài Chỉnh tuy nói thế để cố trấn tĩnh lòng người, nhưng
thực ra, Chỉnh vẫn sợ sệt Văn Nhậm. Vả, vì vợ con Chỉnh bây giờ còn ở bên Tây
Sơn143, khác nào một loạt con tin bị giữ làm vật đảm bảo, nên Chỉnh chỉ muốn ủy
khúc hòa nghị cho xong chuyện thôi.
Sau một chập thảo luận việc lựa tướng đi ứng chiến, Chỉnh nhất
định cử Nguyễn Hữu Thái làm thống lĩnh. Mà Thái cũng nghị nhiên xin đi. Còn
Ninh Tốn được cử làm Tham tán quân vụ, cùng Thái đem quân vào Thanh.
Bên Tây Sơn, quân Văn Nhậm kéo đến đóng ở phía nam sông Trinh
Giang, sau khi đã dồn được Lê Duật rút lui tới đó.
Nhậm mật phái Ngô Văn Sở đem một toán quân đi men núi, lén
qua sông Tất Mã144 để đánh tập hậu Lê Duật.
Duật bấy giờ, tuy đã phòng thủ cẩn mật, song vẫn không khỏi
chột dạ trước sức tấn công mãnh liệt của các tướng Tây Sơn. Duật rất phân vân đối
với mấy lời kiêu ngạo trong chiến thư của tướng Văn Nhậm: “Ngày mai, quân ta sẽ
qua sông. Ngươi có dám đánh thì cho bày trận trước mà đợi. Nếu không thì bó tay
trước mà hàng đi!” Nào ngờ, trong khi Duật còn đương bối rối ngờ sợ ấy, thì
quân Văn Sở đang đi để ập đến sau lưng mà chẹn Duật đấy.
Dưới vòm trời vẩn đục cẩn một vài nét sao mờ, quân Lê Duật,
vì tự liệu không giữ nổi Trinh Giang, phải lật đật trong bóng tối, trốn lên con
đường đầy gian nan! Nhưng sau đêm rùng rợn, lại tiếp luôn đến ngày khủng khiếp:
Vừa chạy đến Cao Động, đã thấy quân Văn Sở đóng đầy ở cả đó rồi! Duật trước mặt
sau lưng đều thụ địch, bị giết chết ngay trong vòng loạn quân! Còn quân gia?
Tan vỡ trong cơn hoang mang kinh khiếp. Khí giới và quân nhu của phái chiến bại
ấy đều bị Tây Sơn chiếm được ráo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét