Ai làm được
CHƯƠNG 1
Ông Bạch Khiếu Nhàn tuổi đã quá lục tuần mà sức hãy còn mạnh
khỏe. Từ khi con gái ông bất hạnh, tủi phận thon von [1] nên ít muốn đi chơi, cứ
lui cui ở nhà hoặc sửa kiểng xem hoa, hoặc uống trà đọc sách.
Năm 1894, một buổi chiều kia gió xuân mát mẻ, nước lớn đầy
sông, cỏ cây tươi tốt, Bạch Khiếu Nhàn mình mặc áo quần toàn bằng lụa trắng,
vai vắt khăn nhiễu đỏ, thủng thẳng đi dọc theo mé sông Cà Mau mà hứng mát. Khi
ông dừng chơn đứng coi sắp nhỏ lội đua, khi ông mỉm cười bầy chó rượt nhau cắn
lộn. Mặt trời chen lặn, gió càng thêm mát mẻ, Khiếu Nhàn đi lần tới quán cơm
Chú Lỳ, tuy chưa mỏi chơn, song ông khát nước.
Chú Lỳ ngó thấy ông lật đật chào mừng và mời ông vào quán nước.
Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách ăn uống,
duy có một người trai trạc chừng mười bảy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần
cửa mà viết. Ông thấy người miệng rộng, môi dầy, vai ngang, trán chợt, tóc hớt
cụt, mắt rạng ngời, tư cách nghiêm trang, mặt mày sáng rỡ, tuy y phục tầm thường
mà hình dung không phải như người thường, bởi vậy ông cứ ngồi ngó hoài.
Người trai ấy viết ít chữ rồi ngó sững phía ngoài đường, ngó
rồi day vô viết, rồi lại ngâm nho nhỏ. Chú Lỳ rót một chén nước trà nóng đem lại
mời Khiếu Nhàn uống. Khiếu Nhàn tay bưng chén nước mà mắt ngó người trai ấy
hoài.
Cách một hồi thấy tên trai ấy vò miếng giấy viết nãy giờ mà
quăng dưới đất rồi đứng dậy bước ra ngoài đường.
Chú Lỳ rót thêm nước cho ông uống, ông biểu lượm miếng giấy
cho ông, ông giở ra thấy có tám câu thi như vầy:
Ty hộ sương dầm gió hắt hiu,
Ðau lòng lưu lạc biết bao nhiêu.
Trong quê dã dượi vừng trăng tối,
Lạ cảnh cay co chén rượu chiều.
Cao thấp nát gan con sóng lượn,
Ngạt ngào đứt ruột tiếng chim kêu.
Có khi ra ngóng miền giang chữ,
Nước mắt tuôn theo giọt thủy triều.
Khiếu Nhàn đọc hết bài thi, thấy văn chương tao nhã thì khen
thầm, mà thấy ý tứ thảm sầu lại tội nghiệp, nên tính ngồi nán đợi người ấy trở
vô đặng làm quen hỏi coi người ở đâu cho biết. Té ra ông ngồi đợi chót giờ mà
không thấy bèn kêu Chú Lỳ mà hỏi rằng:
- Nầy, người trai hồi nãy đó ở đâu lại đây, nị biết hôn? Vào
quán của nị sao không thấy ăn uống chi hết lại viết mấy câu thi rồi bỏ đi đâu mất?
- Khị ăn cơm uống dượu hồi chiều dồi mà, khị đi chơi một lát
dề ngủ chớ.
- Ủa? Nếu vậy thì người ấy ở đậu trong quán nị hay sao?
- Ờ.
- Người ở đâu lại vậy, nị biết hôn?
- Ở Long Hồ mà.
Khiếu Nhàn thấy khuya nên đứng dậy từ giã Chú Lỳ mà về. Chẳng
dè vừa ra tới cửa lại gặp cậu trai ấy bước vào, ông bèn trở vào hỏi rằng:
- Trò em ở đâu lạ mà qua không biết?
- Thưa bác, cháu ở Vĩnh Long.
- Trò em ở Vĩnh Long xuống đây chơi hay là có việc chi? Không
có quen hay sao mà ở đậu trong quán như vầy?
Khiếu Nhàn hỏi và kéo ghế mà ngồi. Cậu trai ấy thấy ông y phục
phong lưu, không hiểu là ai nên đứng ké né mà đáp rằng:
- Thưa bác, cháu đến đây quyết kiếm công việc làm ăn song ở
đã mấy ngày rày mà chưa kiếm được việc chi hết.
- Trò em ngồi mà nói chuyện chơi. Khi nãy trò em bước ra
ngoài rồi tôi có lượm bài thi tôi đọc. Chẳng hay trò em làm bài thi ấy có ý chi
vậy?
- Thưa bác, cháu ngồi buồn trong lòng cảm hứng nên ngụ ý mà
làm giải buồn đó thôi chớ có ý chi đâu.
- Theo ý tứ trong bài thi đó thì thân trò em chẳng là gian
truân lắm?
- Dạ thưa phải.
- Tôi có học chút đỉnh nên tôi thương học trò. Tôi đọc bài
thi của em rồi nãy giờ có ý ngồi đợi chờ em trở vô đặng làm quen chuyện vãn
chơi. Trò em xuống đây tính làm công việc chi? Lập tiệm buôn bán hay là tính khẩn
đất làm ruộng?
- Chẳng giấu chi bác, cháu cũng biết thà hèn mà mình làm chủ
mình còn hơn là sang mà đi làm tớ thiên hạ. Thiệt cháu muốn hoặc buôn bán hoặc
làm ruộng, hoặc làm nghề chi khác cũng được, dầu cực khổ chẳng nệ gì, miễn là
khỏi lòn cúi thì thôi, ngặt tiền thì cháu không có nhiều, còn nghề thì cháu
không thạo. Cháu xuống đây, có ý muốn tìm chỗ ở dạy học, thảm vì cháu không
quen biết ai nên hổm nay chưa kiếm được chỗ nào mà ở.
Khiếu Nhàn nghe mấy lời thì động lòng thương, vừa muốn hỏi nữa,
bỗng có bốn người khách kéo vô quán ăn bánh uống nước, nghĩ chỗ nầy không phải
là chỗ nói chuyện bèn đứng dậy nói rằng:
- Chưa biết nhau thì thôi, hễ biết nhau rồi thì đừng ngại.
Tôi chưa ăn cơm chiều nên bụng đã đói rồi, đã vậy mà ngồi nói chuyện hoài thì
Chú Lỳ buôn bán không được, chắc chú phiền. Vậy tôi xin mời trò em vô nhà tôi
nói chuyện chơi.
- Thưa bác, như bác có lòng thương tưởng, muốn cho cháu vô
nhà chơi thì bác biểu chớ cần chi phải mời thỉnh.
- Theo lễ phải mời chớ.
Hai người dắt nhau ra đi. Lúc đi dọc đường, Khiếu Nhàn không
hỏi thăm nữa. Cậu trai ấy thấy ông ít nói nên cũng lặng thinh, nhưng mà trong
trí thầm tưởng có lẽ ông già nầy trong nhà đủ ăn, con cháu đông đảo nên tính rước
mình về dạy học.
Chẳng dè đi khỏi chợ chừng bốn năm trăm thước, tới một cái cửa
ngõ lớn, ông dừng chơn lại mà mời khách vào nhà.
Cậu trai ấy vừa bước vô sân thì thấy một sân kiểng vật tốt
tươi, có non bộ, hồ sen, ba tòa nhà ngói nguy nga, lại có thính đường, thơ viện.
Vào nhà rồi, Khiếu Nhàn kéo ghế mời ngồi. Cậu trai ấy dòm coi
trong nhà bàn ghế hẳn hoi, đã khiêm nhượng mà lại nhút nhát nên ké né không dám
ngồi.
Khiếu Nhàn cười mà nói rằng: "Trò em chấp lễ quá vậy, hết
vui rồi còn gì! Tục thường họ hay bắt phép, giành nhau ngồi trước ngồi sau, tôi
ghét cái tục ấy lắm. Ví như tôi có làm quan đi nữa thì ra chốn công đường tôi mới
có quyền, chớ thứ ngồi uống nước nói chuyện đời mà chơi, tôi cũng xưng tôi lớn
nữa sao! Ngồi đi, ngồi nói chuyện chơi''.
Cậu trai nghe mấy lời hạ cố thì trong lòng bớt nhút nhát,
song vẫn cứ nói khiêm nhượng rằng:
- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ,
lại tuổi tác đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.
- Ối! Còn luận tuổi tác mà làm gì! Tôi mời thì trò em cứ việc
ngồi, cung kính bất như phụng mạng.
Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không
cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi.
Uống vài chung trà rồi có một tên gia đinh bước ra thưa nho
nhỏ, Khiếu Nhàn liền đứng dậy mời khách vào hậu đường dùng cơm. Cậu trai ấy xin
từ, nói rằng mình đã dùng cơm chiều rồi, Khiếu Nhàn theo ép dùng thêm, nên cực
chẳng đã phải vưng lời, vào ăn thêm một chén.
Cơm nước xong rồi ra ghế ngồi hút thuốc. Cậu trai ấy dòm coi
nhà cửa mênh mông mà không thấy dạng bà chủ nhà nầy hay là con cháu chi hết, chỉ
vài đứa gia đinh ra vô mà thôi, thì lấy làm kỳ.
Còn Khiếu Nhàn ngồi liếc khách một hồi rồi hỏi rằng:
- Chẳng hay trò em tên họ chi? Cha mẹ còn mạnh giỏi hay
không?
- Thưa bác, cháu họ Phan, tên Chí Ðại, tổ quán ở Vũng Liêm,
ông thân cháu mất hồi cháu được năm tuổi, còn bà thân cháu mới mất vài tháng
nay.
- Nay trò em niên kỷ đặng bao nhiêu?
- Thưa, cháu mới mười tám tuổi, chưa có vợ.
- Nếu vậỵ thì bài thơ tự thuật của trò em hồi chiều trúng lắm.
Mà cha mẹ khuất rồi, không có để sự nghiệp chút đỉnh gì hay sao, nên trò phải bỏ
xứ mà đi kiếm công việc làm ăn? Ðâu trò em thuật rõ việc nhà cho tôi coi thử
coi, được không?
- Chẳng giấu chi bác, khi ông thân cháu khuất rồi, nhà nghèo,
mẹ góa con thơ, gian truân nhiều nỗi. Ông Nhiêu Lang là anh em bạn thiết của
ông thân cháu thấy vậy động lòng, mới cho lúa cho mẹ con cháu ăn rồi giúp tiền
cho mẹ cháu làm vốn mua bán trầu cau đặng kiếm lời độ nhựt. Khi cháu được bảy
tuổi ông đem cháu về mà dạy học chữ nho, cháu học tới 12 tuổi thuộc hết bộ Minh
Tâm và bộ Tứ Thơ, rồi ông nói với cháu, đời nầy chữ nho để mà lập chí, không phải
để lập thân, ông mới đem cháu mà gởi ở nhà người quen của ông là Hội Ðồng Viễn
tại Vĩnh long, đặng cháu vào trường nhà nước mà học chữ Tây. Ông Hội Ðồng Viễn
giàu có lớn, nên cháu ở đậu ông không ăn tiền ăn. Ông lại nói ông có một đứa
con mà thôi, nó cũng học tại trường tỉnh nếu có cháu ở thì đi học với con ông
cho có bạn. Phận cháu nghèo khổ, nghe ông Nhiêu Lang nói „phải học chữ Tây lập
thân mới đặng'', thì cháu quyết rán mà học, dầu khó nhọc cho mấy cháu cũng chẳng
nệ. Tới giờ thì cháu đi học, mãn giờ về thì cháu phải giúp việc trong nhà hoặc
lấy trầu cho khách ăn, hoặc nấu nước cho ông Hội Ðồng. Cháu ở đó trọn năm năm,
thiệt là cực khổ: đi học phải ôm sách vở cho cậu Hai Khanh là con ông Hội Ðồng,
về nhà thì giặt áo quần cho cậu, ăn cơm thì ăn chung với mấy đứa ở, ngủ thì ngủ
dưới nhà sau. Tuy cực khổ mà cháu không buồn; cháu có lo một điều là lo cho bà
thân cháu ở nhà không biết ấm lạnh no đói thế nào. Lâu lâu ông Nhiêu lên Vĩnh
Long bổ thuốc một lần, mà lần nào ông cũng ghé thăm cháu và cho đôi ba cắc bạc
ăn bánh. Bây giờ nhắc lại cháu còn cảm thương ông Nhiêu, ông cho cháu hai cắc bạc,
cháu vui mừng cũng bằng thiên hạ họ được hai trăm đồng.
Phan Chí Ðại lặng thinh một hồi rồi tằng hắng một cái và nói
tiếp rằng:
- Cháu cực chừng nào rán học chừng ấy, quyết học cho thành
danh đặng ngày sau làm có tiền mà đền ơn cho ông Nhiêu và trả thảo cho mẹ. Rủi
quá, từ khi cháu lên tới lớp nhứt thì ông Nhiêu mang bịnh, yếu chơn, nên không
đi Vĩnh Long được nữa. Cháu thi đậu mới vào trường Mỹ tho thì ông đã ly trần.
Cháu hay tin buồn rầu, bứt rứt chịu không được, một là tiếc ông Nhiêu không sống
lâu đặng ngày sau cháu đáp nghĩa đền ơn, hai là lo nỗi mẹ ở nhà bấy nay thốn
thiếu, nhờ có ông Nhiêu, nay ông mất rồi còn ai hảo tâm mà nhờ cậy. Cháu viết
thơ về nhà mà phân phiền với bà già cháu thì bà già cháu mượn người viết thư trả
lời khuyên cháu rán mà học, chẳng cần phải lo việc nhà, còn như cháu muốn đền
ơn ông Nhiêu thì cứ học cho thành danh như ý ông muốn, ấy là cách đền ơn của
người quân tử. Cháu vưng lời mẹ, ngày đêm rán học bởi vậy anh em một lớp cháu
không thua trò nào hết. Cháu học tại trường lớn Mỹ Tho gần được hai năm, ngày nọ
cháu đi chơi gặp người một xóm nói bà già cháu đau nặng. Cháu kinh tâm lật đật
xin phép ông Ðốc Học sáu ngày đặng về thăm mẹ, ông Ðốc học nghi cháu nói dối
nên không cho phép, cháu khóc lóc năn nỉ hết mà cũng không thể được. Cháu xốn
xang, ăn nghủ không yên, một nỗi lo mẹ không tiền uống thuốc, hai lo ở nhà
không ai chăm sóc. Qua ngày sau, trong lòng cháu bứt rứt quá không chịu được,
nên cháu làm đơn xin phép nghỉ nữa. Ông Ðốc Học cũng không cho mà chuyến nầy lại
rầy và hăm đuổi cháu. Cháu nghĩ phận có một mẹ già, cháu rán học mà có ý lập
thân đặng ngày sau nuôi mẹ. Nếu mẹ cháu chết rồi, cháu học mà làm được ông gì
cũng vô ích. Cháu thương mẹ cháu quá, nên nửa đêm cháu lén mở rương gói áo quần
trốn về Vũng Liêm. Khi cháu bước vô nhà thấy mẹ cháu nằm thiêm thiếp trên giường,
trong nhà vắng teo chẳng có ai hết, cháu quăng gói chạy lại ôm mẹ mà khóc. Mẹ
cháu nhướng mắt nhìn cháu rồi tắt hơi, không nói được một tiếng chi hết.
Chí Ðại thuật lại đến đó thì đau đớn, giằng lòng không được
nên giọt lụy tuôn dầm dề.
Ông Khiếu Nhàn chắc lưỡi lắc đầu mà nói rằng:
- Làm người lắm lúc có nhiều khổ não chịu không được. Trò em
còn nhỏ nên chưa gặp khổ não bao nhiêu. Phận tôi đã già rồi, nên tôi gặp khổ
não không biết mấy lần mà kể cho xiết.
Chí Ðại nói tiếp rằng:
- Cháu lạy xóm làng xin họ giúp tống táng bà già cháu xong rồi,
thì cháu buồn rầu, chẳng biết làm việc gì. Cháu mới bán hết nhà cửa, tom góp được
bảy mươi chín đồng bạc, trả nợ nần hết hai mươi lăm đồng, còn dư được năm mươi
bốn đồng, cháu bỏ túi đi qua Mỹ Tho, tính vào lạy ông Ðốc Học mà xin học lại.
Ông Ðốc Học nói vì cháu bỏ trường mà trốn, ông chạy giấy cho quan trên, ông
không thể nào cho cháu vô học lại được. Cháu nghe nói ngẩn ngơ, lui gót trở ra,
nước mắt tuôn dầm dề. Chừng ấy cháu mới biết đường đời thiệt là nhiều chỗ gay
go. Tuy cháu buồn rầu song chẳng hề khi nào cháu thối chí. Cháu quyết đi kiếm
thế làm ăn, dầu cực khổ cháu chẳng nài, miễn là đừng nhục danh giá thì thôi.
Ban đầu cháu tính lên Sài Gòn kiếm việc làm, cháu tuy học ít, song viết chữ
hay, có lẽ cháu làm việc giấy được. Mà rồi cháu nghĩ kinh thành là chốn đô hội,
chẳng thiếu chi nhân tài, kẻ lỡ vận như cháu sợ e không chen lấn với họ được. Bởi
vậy cháu mới lần bước xuống đây tính kiếm chỗ dạy học và nuôi miệng, nào dè
cháu xuống đây đã năm ngày rồi mà kiếm chưa được chỗ dung thân, cháu lấy làm buồn
nên hồi chiều cháu uống thử vài đồng xu rượu rồi làm thi giải buồn, không dè
bài thi ấy lại được đến trước mặt bác.
Khiếu Nhàn nghe Chí Ðại thuật hết tâm sự, biết Chí Ðại là
trai có hiếu, có nghĩa, có chí, có nết, càng đem lòng thương. Ông vấn thuốc hút
rồi nói rằng:
- Phận trò em lận đận nghe nói ai cũng động lòng. Song trò em
nên biết ở đời người có chí lớn hơn người có của, bởi vì người có chí tuy bây
giờ không có của, song một ngày kia phải có, chớ người có của mà không có chí,
sợ e một ngày kia của tiền mất hết mà chí lập cũng chưa được. Trò em vừa mới gặp
đại tang tự nhiên phải buồn rầu; mà trò em xét lại thử coi con người ai khỏi mấy
cái họa ấy đâu. Thôi trò em chẳng nên buồn lắm, hãy để tinh thần lo lập thân
danh đặng hiển vinh cha mẹ. Bây giờ đây trò em nghèo mà nếu trò em có chi lớn
thì làm giàu chẳng khó gì. Mà làm trai phải lấy danh giá làm trọng, chớ giàu
nghèo có xá gì, bởi vì có khi nghèo mà vui còn có khi giàu mà buồn lắm. Như phận
tôi đây nhà cửa kinh dinh[2], bạc tiền đầy dẫy, trò em thấy như vậy tưởng tôi
vui lắm sao? Không, tôi buồn lắm! Tôi không có con trai, hồi trước tôi có một
chút con gái, phải nó còn năm nay nó được ba mươi bảy tuổi. Khi nó còn nhỏ mẹ
nó khuất sớm, tôi vào ra quạnh quẽ, trong chốn gia đình chỉ có vui với con mà
thôi. Tôi thương nó thái quá nên rán dạy nó học chữ nho cho nó biết lễ nghĩa mà
ở đời. Ðến chừng nó được hai mươi tuổi tôi mới gả nó lấy chồng. Chồng nó là
quan phủ Lê Xuân Thới, bây giờ đang ngồi quận Cà Mau nầy đây. Nhắc tới đó tôi
càng thêm buồn. Mạng số con tôi thiệt là vắn vỏi, có chồng được bảy năm, đau sơ
sài chẳng có chi nặng mà phải bỏ mình, nghĩ thiệt buồn quá. Nó có để lại một
chút con gái mà rể tôi nó bắt ở bên dinh không chịu cho ở với tôi, nên tôi ở một
mình, quạnh hiu, hễ buồn thì uống nước trà coi sách, không có ai chuyện vãn chi
hết.
Chí Ðại thấy Khiếu Nhàn có sắc buồn, tính kiếm chuyện nói cho
khuây lãng, nên nói rằng:
- Thưa, từ ngày bác gái mất rồi, bác không tính chắp nối nơi
nào sao bác?
- Việc ấy tôi không tính.
- Cháu tưởng nếu hồi trước bác kiếm chỗ chắp nối thì ngày nay
bác ít buồn, mà ngày sau bác lại có con trai nối nghiệp nữa.
- Việc thành bại đều tại trời, nếu số tôi không có con trai
thì dầu tôi cưới vợ khác sợ cũng không có được. Khi vợ tôi mới mất, có nhiều
người cũng khuyên tôi như vậy. Song tôi nghĩ tôi cưới vợ khác may mà gặp chỗ hiền
đức chẳng nói làm chi, rủi gặp người không có hạnh, họ về nhà rồi húng hiếp con
tôi thì còn thêm nhọc lòng tôi nữa; bởi vậy tôi mới ở một mình mà nuôi con, tưởng
hễ có phước con gái cũng như con trai, thiệt tôi không dè con tôi vắn mạng như
vậy.
Trống nhà công sở đã trở canh ba. Khiếu Nhàn đứng dậy nói rằng:
- Nói chuyện chơi chưa đã thèm mà đã khuya rồi! Thôi, trò em
uống một chén nước rồi đi ngủ. Tôi có biểu bầy trẻ dọn chỗ cho trò em rồi đây.
Nầy, theo lời trò em than với tôi hồi nãy thì trò em xuống đây hổm nay kiếm
chưa được chỗ ở mà dạy học. Vậy thôi để sáng tôi qua bên dinh tôi hỏi rể tôi
coi như nó có cần dùng ký lục thì trò em qua mà làm giúp với nó được hôn?
- Thưa bác, cháu mới gặp bác một lần, mà bác tỏ lòng hạ cố lo
lắng cho cháu như vậy, ơn ấy cháu lấy chi đền đáp cho vừa.
- Ối! Nói chuyện nhân nghĩa làm gì! Tôi thấy trò em côi cút,
đã có khiếu thông minh, mà lại cò lòng trung hậu nên tôi thương. Tôi tính như vậy
là muốn cho trò em có chỗ làm ăn đặng gần gũi với tôi chơi cho vui. Thôi, trò
em nghỉ đi, để sáng mai tôi cho trẻ ra quán xách đồ hành lý đem vô đây mà ở. Học
trò mà ở quán xá như vậy, đã cực khổ mà lại khó coi lắm.
Chí Ðại lại cái giường để tại chái trên mà ngủ, mùng gối chiếu
mền thảy đều sạch sẽ. Sáng bữa sau, anh ta thức dậy sớm, rửa mặt rồi bước ra
trước hiên mà xem kiểng. Cách chẳng bao lâu, có một cô trạc chừng mười lăm, mười
sáu tuổi, mình mặc áo tím, đầu choàng khăn trắng, đi giày thêu, cập dù đỏ,
gương mặt sáng như hoa nở, hàm răng đều như hột bắp, tướng đi dịu dàng, dung
nhan tuấn tú ở ngoài bước vào sân, bộ muốn đi thẳng lại cửa cái mà thấy có Chí
Ðại đứng đó, nên quẹo qua tay trái, đi dọc theo tường rồi đi thẳng vô sau nhà.
Chí Ðại nghi cô ấy là con gái quan Phủ qua thăm ông ngoại.
Thiệt quả, cô vừa vô tới nhà trong thì nghe tiếng Khiếu Nhàn hỏi:
- Cháu qua sớm dữ hôn? Có cha cháu ở nhà hay không?
Rồi lại nghe tiếng trả lời nho nhỏ rằng:
- Thưa, cha cháu có ở nhà, mà còn ngủ.
Hai ông cháu nói chuyện với nhau rất lâu, rồi Khiếu Nhàn mới
ra mời Chí Ðại vào uống nước trà. Tiệc nước vừa xong, kế tới tiệc cơm. Ăn cơm rồi,
Khiếu Nhàn biểu Chí Ðại đi với một tên gia đinh ra quán lấy hành lý đem vô nhà
ông mà ở, còn ông cũng sửa soạn thay đổi y phục mà đi qua dinh quan Phủ.
Ðến trưa Khiếu Nhàn về, vừa bước vô cửa thấy Chí Ðại đã đem đồ
hành lý vô rồi thì gật đầu cười và nói rằng:
- May quá! Bên phủ đang kiếm một thầy ký bạ điền[3] và nhựt
ký trát giấy. Tôi thuật công chuyện của trò em cho rể tôi nghe thì nó cũng động
lòng thương nên nó biểu trò em chiều nay qua đó mà làm, tiền lương mỗi tháng là
mười hai đồng, để rồi sau đó nó sẽ xin quan trên cho ăn lên. Xong quá, trò em
qua Phủ mà làm, hễ mãn giờ về bên nầy ở chơi với tôi cho có bạn. Ðể tôi viết
thơ đặng chừng hai giờ trò em cầm mà đi.
Chí Ðại nghe nói hết sức mừng rỡ, chẳng biết lấy lời chi mà tạ
ơn cho nên vừa nói lính quýnh rằng:
- Ơn tế độ của bác, dầu muôn đời cháu không quên được.
Ðúng hai giờ chiều, Chí Ðại cầm bức thơ của Khiếu Nhàn mà qua
dinh quan phủ. Quan phủ ngủ trưa chưa thức dậy nên phải ngồi ngoài chờ hơn một
tiếng đồng hồ. Chừng nghe lính nói quan lớn thức dậy Chí Ðại lật đật trao bức
thơ vô, tưởng thầm rằng quan lớn đã dạy mình làm việc hễ được thơ chắc cho kêu
mình vô liền, nào dè quan lớn còn hút chưa ra khách, nên Chí Ðại phải ngồi gần
một giờ đồng hồ nữa.
Lối bốn giờ rưỡi quan Phủ bước ra. Làng dân thấy dạng đều đứng
dậy hết thảy. Chí Ðại bước tới chấp tay xá ba cái. Quan Phủ ngó Chí Ðại rồi hỏi
rằng:
- Thầy ở bên ông gia tôi phải hôn?
- Bẩm quan lớn phải.
- Vậy thì vào đây. Ông gia tôi có nói chuyện lương bổng cho
thầy nghe rồi chớ?
- Dạ, có rồi.
- Ðâu thầy làm thử ít bữa coi thầy làm được hay không?
Chí Ðại theo quan Phủ bước vào nhà hầu, thấy có một thầy, chừng
bốn mươi tuổi, đương ngồi cúi mặt xuống bàn mà viết. Quan Phủ dạy Chí Ðại nhắc
ghế lại ngồi gần đầu bàn ấy rồi biểu thầy nọ đưa bộ điền cho Chí Ðại chép.
------------------
[1] Đơn chiếc, cô đơn
[2] (經盈) ngăn nắp và đầy đủ.
[3] hay bộ điền hồ sơ đất ruộng, điền bạ+thổ bạ=địa bạ
CHƯƠNG 2 -
C
hí Ðại hễ tới giờ hầu thì qua dinh quan Phủ mà làm việc, mãn
giờ rồi thì về nhà Khiếu Nhàn mà nghỉ, đã có nơi nương tựa nên lòng thương nhớ
cha mẹ với ông Nhiêu Lang tuy không nguôi nhưng mà việc ấm no chẳng còn lo lắng
nữa.
Chí Ðại với Khiếu Nhàn gần gũi nhau lâu chừng nào càng mến
nhau chừng nấy. Khiếu Nhàn coi Chí Ðại cũng như con cháu ruột trong nhà. Chí Ðại
kính mến Khiếu Nhàn chẳng khác gì sư phụ.
Có đêm hai người bàn luận việc đời với nhau, ông già đã lịch
lãm nhơn tình nên mỗi lời đều dè dặt, người trẻ còn tự cường tự đắc, nên mỗi lời
đều cứng cỏi, nhưng mà hai người chẳng khi nào chỏi với nhau, trẻ có tánh nóng
nảy thì già chỉ lẽ tránh mà khuyên lơn, già có chán đời thì trẻ dùng lời êm mà
an ủi.
Còn việc làm bên phủ thì Chí Ðại đã có sẵn tính thông minh mẫn
cán mà còn thêm biết đọc, biết nói tiếng Lang sa, công việc làm chẳng hề để trể
nải, hễ có quan Lang sa đến thì anh ta thông ngôn, hễ có giấy tờ chi bằng chữ
Lang sa thì anh ta cắt nghĩa, bởi vậy quan Phủ càng ngày càng trọng dụng, các
việc cho Chí Ðại coi sóc hết thảy.
Chí Ðại làm vừa được một năm thì quan Phủ xin tăng lương thêm
mỗi tháng mười lăm đồng, lại cậy Chí Ðại mỗi chúa nhựt qua dinh dạy dùm con
trai nhỏ của ông học chữ quốc ngữ.
Bạch Khiếu Nhàn tổ quán ở Thừa Thiên. Từ khi con gái ông bất
hạnh rồi thì ông buồn rầu, nên ông không ra Trung Kỳ mà thăm mồ mả ông bà được.
Năm ấy ông tính đi ra Huế mà thăm tổ quán chơi một tháng. Ông cậy Chí Ðại ở nhà
coi chừng nhà cửa giùm cho ông.
Quan Phủ hay tin ấy thì qua nhà thăm Khiếu Nhàn và nói rằng:
- Cha có buồn thì đi chơi ít tháng đặng giải khuây. Nhà cửa để
đó cho sắp gia đinh nó coi, ai dám phá khuấy chi mà lo. Chớ cha đi mà cha bắt
thầy ký ở giữ nhà cho cha, thầy ở một mình buồn xo, chịu sao cho nổi. Ðể thầy
qua bên Phủ thầy ở làm việc cho tiện và dạy thằng nhỏ nó học luôn thể. Chừng
nào cha về rồi thầy sẽ trở về bên nây thầy ở.
Khiếu Nhàn suy nghĩ một hồi rồi gật đầu nói rằng:
- Tính như vậy cũng được.
Quan Phủ Lê Xuân Thới tuổi mới vừa bốn mươi bốn mà vì ông nầy
có bịnh hút nên hình vóc gầy mòn, nước da huỳnh đản, bộ coi như người già năm
mươi lăm tuổi. Vợ trước ông là con gái Bạch Khiếu Nhàn, chết để lại một đứa con
gái tên là Lê Bạch Tuyết, năm nay đã được mười bảy tuổi rồi. Còn bà vợ sau tên
là Nguyễn Thị Phường, vốn con của một ông Hương Thân ở Ðầm Dơi, mới hai mươi bảy
tuổi, dung nhan đẹp đẽ, văn nói khôn lanh, có sanh một đứa con trai đặt tên là
Lê Xuân Sắc, năm ấy mới mười tuổi.
Quan Phủ ngồi quận Cà Mau đã hơn tám năm rồi, khi trước làm
Cai Tổng, rồi mới bổ lên Tri Huyện, sau lần lần Thăng chức Tri Phủ. Ông tuy
tánh dãi đãi, song lòng hiền từ chẳng hề bó buộc nhơn dân, mà cũng ít khi làm hại
làng, tổng, bởi vậy ai cũng kính mến ông.
Nếu có phiền ông là phiền về sự ông tối tăm, không thấy việc
quấy trong chốn gia đình, để cho bà Phủ cầm trọn quyền, bà muốn khiến ông thế
nào cũng được.
Nói cho phải, bà Phủ thiệt chẳng phải như người thường, bà
khôn ngoan lanh lợi, tuy bà được yêu và được quyền, nhưng mà chẳng hề khi nào
bà dùng yêu hoặc dùng quyền ấy mà yếm chế hay là cưỡng bức chồng bao giờ; nếu ý
bà muốn việc chi thì bà dùng lời nhỏ nhoi khiêm nhượng mà phân với chồng luôn
luôn, mà hễ bà phân thì ông nghe, chưa thấy ông trái ý lần nào, nên lời dịu ngọt
của bà nghĩ thật là độc ác hơn lời sỗ sàng của các đàn bà khác.
Bà Phủ thấy con ghẻ là Bạch Tuyết, từ nhỏ chí lớn, tính nết
dè dặt, ít nói ít cười mà còn là cháu ngoại Khiếu Nhàn, hễ Khiếu Nhàn qua đời rồi
thì cô hưởng trọn gia tài rất lớn, nên thuở nay bà để ý gả Bạch Tuyết cho thằng
cháu ruột của bà tên là thằng Ðồ, con xã trưởng làng Tân Thuận. Tuy bà tính thầm
mưu kế làm giàu cho cháu như vậy, song thuở nay bà không nói ra, một là bà thấy
Bạch Tuyết còn nhỏ, hai là sợ Khiếu Nhàn cản ngăn, nên bà không dám nói. Nhưng
mà bà đã dọn đường trước, đặng chừng bà muốn đi bà khỏi đạp chông gai. Ở trong
nhà bà tưng tiu, ngon ngọt với Bạch Tuyết luôn luôn, bà săn sóc miếng ăn, chỗ
ngủ, mua sắm quần tốt áo lạ cho cô dầu cô không muốn, bà cũng làm.
Chẳng hiểu vì cớ nào bà yêu Bạch Tuyết như vậy, mà tánh cô
thường lạt lẽo với bà hoài. Cô đương vui cười, mà hễ thấy mặt bà thì cô ké né
buồn xo, không ai biết chắc cô sợ bà hay là cô ghét. Nội nhà, Bạch Tuyết chỉ ưa
nói chuyện với ông Sen mà thôi, bởi vì ông Sen hồi trước ở với Khiếu Nhàn, chừng
Khiếu Nhàn gả con cho quan Phủ thì ổng theo đặng đỡ tay chơn, đến khi mẹ Bạch
Tuyết qua đời thì ông ẵm bồng, săn sóc Bạch Tuyết, nên Bạch Tuyết trìu mến.
Khiếu Nhàn đi Huế rồi, thì Chí Ðại đem rương qua dinh quan Phủ
mà ở. Hễ làm việc rồi, rảnh thì anh ta dạy con trai quan Phủ học. Tuy ban đêm
anh ta ngủ tại bộ ván lót tại cửa sổ phía trước, song ăn cơm thì quan Phủ cho
ăn chung một mâm với vợ con, lại ông cho phép xông pha vô nhà trong nữa.
Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết hoài, nhưng mà thấy thì thấy,
chớ anh ta không dám ngó, lại cũng không có dịp nào mà nói chuyện.
Bà Phủ thấy Khiếu Nhàn đi khỏi đến năm ba tháng mới về, nhắm
dịp nầy là dịp tốt cho mình thi hành kế sách đã tính xưa nay, nên ban đêm vắng
vẻ bà làm thuốc phiện cho ông, bà mới thỏ thẻ tỏ ý bà muốn gả Bạch Tuyết cho
cháu bà. Ban đầu quan Phủ không chịu, ông nói rằng ông có chút con gái, ông coi
nơi nào hay chữ ông gả chẳng luận giàu hay nghèo.
Bà không cãi liền với ông hồi đó, thủng thẳng lựa lời khôn
khéo mà châm chích, nhứt là bà cắt nghĩa cho ông nghe rằng bà không có con gái,
tuy bà không đẻ Bạch Tuyết song thuở nay bà dưỡng nuôi săn sóc nên yêu mến chẳng
khác nào máu thịt của bà, nếu ông gả cho người học giỏi, hễ họ cưới rồi thì họ
dắt đi xa, bà lìa Bạch Tuyết bà thương nhớ, chắc không khỏi sanh bịnh. Nếu ông
gả cho cháu bà thì bắt nó ở đây luôn cũng được; tiếng gả con gái mà cũng như có
thêm được một đứa con trai nữa, nghĩ coi tiện biết chừng nào.
Quan Phủ nghe bà thỏ thẻ mới vài ngày mà ông đã đổi ý, nên chịu
gả con cho cháu. Bà Phủ muốn cho hai trẻ thành hôn cho mau, đặng chừng Khiếu
Nhàn về, dầu ông không chịu thì việc đã lỡ rồi, ông không thể làm sao được.
Bà Phủ mới khuyên chồng tỏ riêng về việc hôn nhơn cho Bạch
Tuyết hay rồi định ngày cho đi lễ hỏi, vì bà là mẹ ghẻ, mà lại gả cho cháu bà,
nên bà không muốn nói với Bạch Tuyết chuyện đó. Quan Phủ khen bà dè dặt, nên biểu
bà vào phòng mà nghỉ để cho ông nói chuyện với con.
Trong nhà tôi tớ đều ngủ hết. Ông kêu Bạch Tuyết thức dậy ra
đứng dựa bộ ván chỗ ông nằm hút, đèn đốt lu lu, ông lặng thinh ngồi vấn thuốc một
hồi rồi tằng hắng một tiếng mà nói rằng:
- Nầy con, năm nay con đã lớn rồi nên cha tính gả con lấy chồng.
Vậy con lo sửa soạn trong ít ngày nữa cha sẽ cho đi lễ hỏi.
Bạch Tuyết chưng hửng, đứng ngó cha sửng sốt, cách giây lâu mới
đáp được rằng:
- Hôm trước cha có nói với ông ngoại con rồi, ông ngoại con
biểu cha liệu chỗ nào phải thì gả, hễ cha đành đâu thì ông đành đó.
Bạch Tuyết đứng suy nghĩ một hồi rồi hỏi rằng:
- Mà cha tính gả con cho ai ở đâu.
Quan Phủ ngó trong mâm hút mà đáp rằng:
- Cha tính gả con cho thằng Ðồ. Tuy nó nghèo hèn hơn mình,
song cha muốn làm sui chỗ đó cho gần gũi, chớ gả con đi xa, chừng cha nhớ không
biết làm sao mà đi thăm cho được.
Bạch Tuyết ngó cha trân trân, đỏ mặt châu mày, song không dám
nói chi hết. Con gái hễ nghe ai nói đến chuyện lấy chồng thì hổ thẹn, quan Phủ
day lại thấy con không mắc cỡ mà cũng không buồn, nhưng có sắc giận, không hiểu
ý con như thế nào, nên hỏi rằng:
- Sao con lặng thinh, không nói chi hết?
Bạch Tuyết vùng khóc và nói cụt lủn rằng:
- Thưa cha, con không chịu lấy chồng.
Quan Phủ chưng hửng mà hỏi rằng:
- Sao vậy?
- Thưa không có sao hết.
- Có cớ gì nên con mới nói như vậy chớ? Hay là con chê chỗ
đó?
Bạch Tuyết ngập ngừng một hồi rồi mới đáp:
- Thưa phải, con chê chỗ đó.
Quan Phủ cười rồi bảo Bạch Tuyết đi ngủ. Quan Phủ thuật mấy lời
của Bạch Tuyết lại cho vợ nghe thì bà Phủ nghi Bạch Tuyết có tình riêng với ai
nên mới chê cháu bà. Ông cãi lẽ, nói rằng con còn khờ dại, nó thấy đàng kia
nghèo nên nó chê chớ không phải tại cớ nào khác, vậy để thủng thẳng mà dỗ nó,
chẳng nên vội lắm.
Ông nói nghe có lý, nhưng mà lòng nghi của bà cũng không giải
hết được.
Chí Ðại ở bên dinh quan Phủ chưa được một tháng thì lại gặp
tiết Trung Thu, quan Phủ đã mang bịnh hút, mà ông cũng ưa uống rượu nữa.
Mỗi năm hễ tới Trung Thu, ông cũng dọn ghe đi du hồ. Năm nay
có Chí Ðại biết mùi thi chút đỉnh, ông càng hứng chí, nên mới tối ông biểu lính
dọn ghe hầu, đem thịt rượu theo, mời Cai Tổng với ít người hương chức sở tại rồi
đồng đi với Chí Ðại, bà Phủ và con trai nhỏ tính xuống trại đáy[1] ở vàm Rạch
Mương Ðào mua tôm làm gỏi ăn, uống rượu mà thưởng nguyệt, để có một mình Bạch
Tuyết với ông già Sen và ba tên lính ở lại giữ dinh mà thôi.
Trên trời bóng trăng vặc vặc, dưới sông nước dợn lòa lòa,
lính chèo bỏ mái nhặt khoan, du khách chuyện trò hớn hở. Thú vui cảnh lịch ai
cũng tưởng thưởng trăng tới sáng cũng chưa muốn về, nào dè ghe đi vừa được mấy
khúc sông, Chí Ðại phát đau bụng nhào lộn trong ghe, mặt mày tái xanh, mồ hôi
ra như tắm. Quan Phủ lo sợ, mà không muốn bỏ cuộc vui, nên dạy ghé ghe vào xóm
rồi biểu một tên lính mượn xuồng bơi mà đưa Chí Ðại về dinh, còn ghe hầu của
ông thì đưa luôn xuống Mương Ðào.
Chí Ðại về đến dinh, lính đỡ lên ván mà nằm, mắt cháng[2]
váng, ruột quắn[3] đau, cứ ôm bụng nhắm mắt mà ôm hoài. Gia đinh với lính tráng
chộn rộn không biết thuốc chi mà cứu, đứa chạy ra, đứa chạy vào, đứa rót nước
trà, đứa xoa dầu gió.
Lúc đương lính quýnh bỗng thấy Bạch Tuyết ở trong buồng bước
ra, tay cầm một cái chén chung đưa cho ông Sen biểu đem cho Chí Ðại uống. Chí Ðại
uống chén thuốc rồi, chừng một phút đồng hồ thì bụng hết đau, mặt hết xây xẩm,
gượng ngồi dậy xin một chén nước trà. Bạch Tuyết còn đứng dựa cửa buồng, thấy
Chí Ðại ngồi đậy, liền bước lại gần hỏi rằng:
- Thầy uống kỳ nam đó có bớt đau bụng hay chăng?
- Thưa, bây giờ tôi bớt đau nhiều rồi. Té ra hồi nãy tôi uống
đó là kỳ nam hay sao?
- Thưa phải ạ, kỳ nam đó hay lắm. Hồi tôi còn nhỏ, ông ngoại
tôi đi ngoài Huế mua về cho má tôi. Xưa nay tôi cất để dành hoài. Hồi nãy tôi
nghe nói thầy đau bụng; tôi lật đật mài một chút mà cho uống thử đó đa.
- Thiệt tôi cám ơn cô quá. Nếu tôi đau thét chắc phải chết.
Bạch Tuyết day mặt chỗ khác mà nói rằng:
- Bộ thầy còn mệt quá, thôi thầy đi nghỉ.
- Nói rồi xây lưng đi thẳng vô buồng.
- Gia đinh thấy Chí Ðại nằm êm mới đi đóng cửa rồi tản lạc đi
kiếm chỗ mà ngủ, duy để có một mình ông già Sen ngủ trước nhà đặng coi chừng
trà nước cho Chí Ðại mà thôi.
Bạch Tuyết trở vô buồng chong đèn ngồi têm trầu mà ăn, miệng
nhai trầu mà mắt ngó ngọn đèn dầu trân trân, ngồi nơi đây mà trí ở đâu có lẽ
lúc ấy dầu ăn trộm vô nhà dọn hết đồ cô cũng không hay nữa.
Cô ngồi một hồi lâu, trong nhà từ trước đi sau vắng teo, cô đứng
dậy đi lại cửa sổ ngó ra ngoài vườn. Bóng trăng bị cây án, nên thấy chỗ mờ chỗ
tỏ, ngọn gió thổi lay tàu dừa nên thấy gục xuống cất lên. Chẳng hiểu lúc ấy cô
nhớ đến việc gì mà giọt lụy tràn trề, vẻ mặt buồn bã. Cách một hồi cô nghe Chí
Ðại ho ngoài trước, cô thò tay bưng đèn muốn bước ra nhà ngoài, mà cô vừa tới cửa
buồng rồi cô ngừng lại đứng suy nghĩ giây lâu, rồi trở vô để đèn trên ghế leo
lên giường mà nằm.
Cô nằm trăn trở hoài, lúc thì buồn giọt châu lã chã, lúc thì
giận ruột gan phừng phừng, nằm đã thèm rồi ngồi dậy ăn trầu, làm như vậy cho đến
gần sáng, vợ chồng quan Phủ đi du hồ về, mà cô cũng chưa ngủ. Ở đời miệng thiên
hạ hay luận việc của mình làm, bởi vậy làm phận con gái dè dặt cử chỉ cho lắm
đi nữa, mà có khi cũng còn phải mang tiếng.
Cô Bạch Tuyết nghe Chí Ðại đau bụng lật đật mài kỳ nam đem
cho uống, cử chỉ đó chẳng có chi quấy; còn cô đứng nói với Chí Ðại mấy câu thì
trước mặt gia đinh bốn năm người, mà câu nào cũng chơn chánh chẳng có chi phạm
đến danh tiết.
Chẳng hiểu vì cớ nào chuyện như vầy, mà người ở trong nhà lại
xầm xì với nhau cho thấu đến tai bà Phủ.
Bà Phủ nghe Bạch Tuyết chê cháu bà, thì bà đã để lòng nghi
cho cô có tư tình với ai rồi. Nay bà vừa nghe cô mài kỳ nam cho Chí Ðại uống rồi
lại đứng nói chuyện với Chí Ðại nữa, thì lòng nghi ngờ của bà hoá ra lòng tin
quyết, bà định chắc Bạch Tuyết với Chí Ðại đã có ý riêng với nhau rồi.
Bà nổi giận không thể dằn được nên tối lại bà nằm làm thuốc
cho quan Phủ hút, bà thỏ thẻ nói rằng: ''Hôm trước tôi nghe mình nói con Bạch
Tuyết nó chê thằng Ðồ thì tôi đã nghi nó có ngoại tâm, mình không tin lời tôi;
nay việc bể ra rồi, trẻ trong nhà đều nói rùm tai, mình còn cãi tôi nữa
thôi?''.
Quan Phủ nghe nói biến sắc, lồm cồm ngồi dậy hỏi rằng: ''Nó lấy
ai ở đâu?''.
Bà Phủ cứ nằm, tay cầm ống, tay cầm tiêm hơ thuốc, mắt chăm
chú ngó đèn, song miệng cười gằn mà đáp rằng: ''Nó lấy thầy ký Ðại chớ lấy ai?
Thầy đi chơi Trung thu với mình, thầy làm bộ đau bụng đặng trở về; con Bạch Tuyết
mài kỳ nam đem cho thầy uống, rồi đêm đó''
Quan Phủ ngồi sửng sốt, lặng thinh một hồi rồi lắc đầu nói rằng:
- Thầy ký thầy mang ơn tôi nhiều lắm, có lý nào thầy phụ lòng
tôi. Ðã vậy mà bộ thầy chính chắn trung hậu lắm, người như vậy không thể nào
làm việc quấy được. Có lẽ bầy trẻ nọ thấy con BạchTuyết mài kỳ nam cho uống,
nên chúng nó nghi rồi bày chuyện nói bậy, hơi nào mà tin.
Bà Phủ đáp rằng:
- Hứ! Con đã hư rồi mà còn kiếm lời bào chữa! Mình không tin,
thôi mình kêu thằng lính Thố hỏi nó đặng nó nói cho mình nghe.
Quan Phủ tức giận, ngồi bấy gan, muốn kêu sắp gia dịch ra mà
tra hỏi cho minh bạch, mà vì ông sợ nếu thiệt thì càng xấu hổ nhiều hơn nữa,
nên ông nằm co... mà chịu không dám cãi với vợ. Bà Phủ thấy chồng đã chịu thua,
bà liền đổi giọng dùng lời nhỏ nhoi mà an ủi rằng:
- Thôi việc đã lỡ rồi, bây giờ mình có buồn rầu đi nữa cũng
không ích gì. Việc nầy mấy đứa trong nhà biết thôi, chớ người ngoài chưa hay, vậy
để tôi hăm chúng nó đặng chúng nó đừng có đồn bậy ra ngoài. Mà..tôi xin mình phải
đuổi thầy Chí Ðại đi cho mau, rồi ép gả phứt con Bạch Tuyết cho thằng Ðồ đi thì
danh tiếng mới vẹn toàn được. Nếu mình dụ dự để diên trì, tôi sợ thầy Chí Ðại
thầy dắt con Bạch Tuyết trốn, bằng không thì thiện hạ họ hay rồi xấu hổ mình,
mà tôi tuy là mẹ ghẻ, song tôi cũng không khỏi mang tiếng xấu lây nữa.
Tuy quan Phủ gác tay ngang qua trán nằm lặng thinh, song sáng
bữa sau ông kêu Chí Ðại mà nói rằng ông mới được lịnh quan Chánh Bố[4] dạy phải
bớt một thầy ký lục vì công việc làm không còn gấp như hồi trước nữa, và ông
khuyên Chí Ðại hãy đi xứ khác kiếm chỗ làm ăn.
Chí Ðại nghe nói chưng hửng, chẳng hiểu vì cớ nào mình không
thấy giấy tờ chi hết, mà quan Phủ lại nói có lịnh quan Chánh Bố dạy đuổi mình.
Anh ta nghẹn cổ không biết lời chi đối đáp, chỉ xá quan Phủ rồi thâu góp quần
áo bỏ vào rương.
Anh ta ra đi, vợ chồng quan Phủ chẳng có một lời chi tỏ lòng
thương tiếc, duy kẻ gia dịch cùng lính tráng cảm động, song chúng nó thấy quan
Phủ lạt lẽo, nên không dám tỏ dấu trìu mến cho lắm.
Chí Ðại qua nhà Khiếu Nhàn nằm thở ra, suy nghĩ coi bây giờ
mình phải ở đây kiếm chỗ dạy học hay là phải đi đến xứ nào. Anh ta nhớ hơn một năm
nay, quan Phủ yêu thương trọng dụng mình, thường nói hễ ông còn làm quan thì
ông còn dùng mình hoài, vì cớ nào quan trên phải đuổi mình, mà ông nói cụt lũn,
không tỏ tình gì yêu mến, mà lại còn biểu mình đi đến xứ khác kiếm chỗ mà làm.
Chắc là mình làm việc chi không vừa ý ổng hoặc có ai nói vô
nói ra chi đây, nên ổng đổi ý, mới kiếm chuyện mà đuổi. Vã quan Phủ cầm quyền
bính chánh quận nầy, nếu ngài không thương mình rồi mà mình còn vẩn vơ ở đây ắc
chẳng khỏi mang họa. Vậy mình phải tránh trước cho xong, chừng ông Khiếu Nhàn
trở về, như mình có thể trở lại đây được, thì mình sẽ xuống mà bái tạ ơn ông.
Chí Ðại nghĩ như vậy nên viết một bức thơ giao cho gia đinh
giữ, dặn chừng Khiếu Nhàn về thì giao lại cho ông, rồi xin quá giang ghe hàng
mà lên Bạc Liêu. Kẻ gia dịch của ông Khiếu Nhàn cùng người quen biết hỏi thăm
coi anh ta tính đi đâu, thì anh ta ú ớ không biết đi đâu mà nói, nên phải nói
bướng rằng đi về Vũng Liêm.
Bà Phủ nghe tin Chí Ðại đi rồi, thì trong bụng mừng thầm; chẳng
phải bà rẽ phân Chí Ðại với Bạch Tuyết được mà bà mừng, bởi vì bà biết rõ là vu
oan cho người ta, chớ hai đàng chẳng có tư tình với nhau hồi nào. Bà mừng đây
là cái kế của bà đã thành được phân nửa rồi, bởi vì Chí Ðại đi rồi, bây giờ bà
muốn thêu dệt thế nào cũng được còn Chí Ðại đâu mà đối nại, mấy đứa ở trong nhà
là người của bà, nếu bà muốn biến thế nào thì chúng nó nghe thế nấy, có đứa nào
dám trái ý.
Bà thừa cơ hội ấy mới xúi riết quan Phủ gả Bạch Tuyết cho
cháu bà. Quan Phủ bổn tánh thành thiệt, không rõ mưu sâu kế xảo của vợ, duy sợ
tiếng xấu mà thôi, nên nghe lời bà cho kêu Xã trưởng Tân Thuận lên nói chuyện
cho làm sui, rồi định ngày cho đi lễ hỏi.
Bạch Tuyết nghe kẻ gia dịch nói có lịnh quan trên dạy đuổi
Chí Ðại nên Chí Ðại đã đi rồi, thì cô động lòng bứt dứt, nhưng vì phận cô là
gái, không lẽ tỏ ý thương tiếc, nên cô giả dạng làm lơ, không thèm nói tới việc
đó.
Chừng cô hay việc quan Phủ cho đòi Xã trưởng Tân Thuận lên rồi
định ngày làm lễ hỏi thì lòng ức uất quá không thể dằn được nên tối lại thừa
lúc gia dịch ngủ hết, cô mới bước ra trước ván chỗ quan Phủ nằm hút, cô đứng
khóc rống lên mà nói rằng:
- Hôm trước con thưa với cha con không đành lấy chồng, mà nhứt
cha gả chỗ đó con không chịu, sao cha lại định ngày cho đi lễ hỏi? Con thưa thiệt,
có lỗi với cha thì con chịu lỗi, chớ nếu cha gả bướng thì con tự vận con chết
theo mẹ con.
Quan Phủ đương hút, bỗng nghe con nói như vậy liền buông ống
hút ra, day lại ngó trân trân, còn bà Phủ lồm cồm ngồi dậy cười gằn mà nói với
quan Phủ rằng:
- Mình thấy con mình hay chưa? Thời thế đã hết rồi mới khiến
con hư như vậy. Mình tính thế nào được thì mình tính lấy, xấu là xấu mình, chớ
thứ mẹ ghẻ nầy mà sá gì! Ðể coi mình biết trị con mình hay không?
Quan Phủ đã nổi giận, mà bà còn châm chích thêm, chẳng khác
nào lửa cháy mà bà còn chế dầu, bởi vậy quan Phủ lấy roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống
đánh hơn một chục roi, cắn răng trợn mắt không cho Bạch Tuyết khóc. Ông vừa
đánh vừa nói rằng:
- Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa
nói, bây giờ tao định gả mầy đặng cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi
khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.
Bạch Tuyết nghe mấy lời ấy thì chưng hửng, không biết lấy chi
mà đối nại được, chỉ kêu oan rằng:
- Oan ức lòng con lắm cha ôi? Mẹ ôi! Mẹ ở dưới cửu tuyền xin
mẹ chứng giùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm mẹ ôi!
Bà Phủ nói Bạch Tuyết muốn rủa xéo bà, nên càng châm chích vô
cho quan Phủ đánh thêm nữa. Bạch Tuyết chịu đòn đau quá, nên hết dám kêu rêu.
Bà Phủ thấy Bạch Tuyết sợ, mới giựt roi không cho quan Phủ
đánh nữa; bà đỡ Bạch Tuyết ngồi dậy, biểu lạy cha, rồi đắt đi vô buồng lau nước
mắt cho Bạch Tuyết và hỏi nhỏ rằng:
- Con lỡ một lần dì xin giùm, sau đừng có dại nói bậy nói bạ
như vậy nữa, dì không xin, dì để cha con đánh chết đa. Thôi còn nằm mà ngủ đi
nghe hôn?
Bạch Tuyết thấy mẹ ghẻ ân cần, an ủi thì cô không khóc nữa,
song cô gầm mặt không ngó bà Phủ, mà không nói chi hết.
Chừng bà Phủ đã ra khỏi phòng rồi thì cô nằm lăn trên giường,
lấy mền đậy mặt mà khóc. Ban đầu cô tức tủi muốn mua dấm với á phiện mà uống, đặng
chết xuống cửu tuyền tỏ việc oan ức nầy cho mẹ biết.
Cô khóc một hồi lâu rồi cô ngồi dậy, đầu bỏ tóc xả, mắt ngó
ra ngoài vườn mà nghĩ rằng: hơn một năm nay lần nào mình qua thăm ngoại thì
cũng nghe ông khen Chí Ðại là trai trung hậu, nghĩa khí, tuy ông chưa nói rõ
ra, song nếu suy lời ông nói xa nói gần, thì hiểu ý ông muốn gả mình cho Chí Ðại;
mà xưa rày Chí Ðại làm việc với cha mình, tánh nết ôn hòa mà cứng cỏi, thiệt
đáng mặt làm trai, dầu ông ngoại mình không gả mình cho anh ta, nghĩ cũng xứng
đôi vừa lứa, chớ không kém gì.
Tuy ý mình nghĩ như yậy, nhưng mà hơn một năm nay, mình với
Chí Ðại chẳng có tình ý gì, hôm nọ Chí Ðại đau bụng, mình có mài kỳ nam cho uống
và có hỏi thăm mấy lời mà thôi.
Thiệt, đêm ấy vắng vẻ, mình có ý muốn tỏ việc riêng của mình
cho Chí Ðại nghe kẻo lòng ức uất bấy nay không biết tỏ với ai, mà mình muốm tỏ
rồi lại ái ngại, nên không nói chi hết sao nay lại có lời vu oan việc nhơ nhuốc
cho mình như vậy.
Bạch Tuyết suy nghĩ tới đó rồi chống tay lên trán ủ mặt châu
mày. Cách một hồi cô với tay têm trầu mà ăn và nói nhỏ nhỏ một mình rằng:
"Ý hị! Thân sao mà khốn khổ quá như vầy? Khi không mà mang tiếng lấy trai!
Mà thôi thà theo trai còn hơn làm vợ kẻ thù. Ở đây thì lụy thân, ra đi thì mang
xấu... Thà mang xấu mà báo oán cho mẹ được, chớ lụy thân rồi chắc phải chết, mà
hễ chết rồi, thì còn ai trả thù báo oán cho mẹ".
Bạch Tuyết nhứt định rồi thì trong bụng hết buồn.
Sáng bữa sau cô giả vui vẻ như thường. Bà Phủ kiếm lời ngon
ngọt dã lã, thì cô đối đáp cung kính, chẳng có hơi giận hờn chút nào.
Bà Phủ thấy Bạch Tuyết đã thuận tùng nên bà mừng; bà khuyên
ông thủng thẳng để cho bà dỗ, đừng có rầy rà đánh đập nữa.
Qua ngày sau, ăn cơm sớm mai rồi Bạch Tuyết xin phép cha đi
qua thăm nhà ông ngoại.
Bà Phủ nghĩ Khiếu Nhàn đi khỏi, còn Chí Ðại cũng đã đi rồi, Bạch
Tuyết qua đó chẳng có ai dụ dỗ mà sợ, nên khuyên chồng để con đi chơi cho khuây
lãng.
Bạch Tuyết qua nhà ông ngoại đốt nhang lạy hết mấy bàn thờ rồi
vô buồng ngồi mà khóc. Trong bọn gia dịch có chú Phú, bổn tánh thiệt thà, trọn
ngày cứ lui cui làm hoài, không đi chơi bời đâu hết, nghe cô khóc thút thít, mới
lại đứng ngoài cửa buồng mà dòm.
Bạch Tuyết vừa ngó thấy liền hỏi rằng:
- Hổm nay ông ngoại tôi có gởi thơ nói chừng nào về hay
không?
Chú Phú gãi đầu đáp rằng:
- Hổng có! Phải có thơ thì anh em tôi đem cho cô đọc chớ bên
nầy có ai biết chữ đâu mà coi.
Hôm ông đi, ông có nói chừng ít tháng ông về, nay đã hơn một
tháng rồi, có lẽ ông cũng đã về gần tới, vậy đợi thủng thẳng ông về, cô khóc
lóc làm chi. Bạch Tuyết không cãi với chú, lại hỏi rằng:
- Thầy ký Ðại hổm nay có qua bên nầy hay không?
- Có, thầy qua ở một bữa rồi quá giang ghe hàng mà đi Bạc
Liêu. Thầy đi có chở rương theo nữa. Vậy chớ thầy thôi làm việc ở bển rồi sao
cô?
- Có lẽ thầy thôi làm rồi. Thầy qua bên nầy, thầy có nói chuyện
chi hay không?
- Thầy qua ở bên nầy một bữa, cứ mằm lim dim mà thở ra hoài,
không nghe nói chuyện chi hết. Chừng thầy đi, thầy có đưa một phong thơ dặn ông
về trao lại cho ông.
- Thơ đâu, đưa coi.
- Tôi cất trên thủ quyển đây.
Chú Phú vội vã đi lấy thơ đưa cho Bạch Tuyết, rồi trở ra vườn
mà nhổ cỏ. Bạch Tuyết lau nước mắt rồi mở ra coi, thì thấy thơ như vầy:
Cà Mau, ngày 30 tháng 9 năm 1895.
Thưa bác,
Hơn một năm trường, cháu no cơm ấm áo. Cháu có chỗ dung thân,
ấy là nhờ ơn bác chiếu cố, nên cháu mới được như vậy.
Cháu nhớ lòng quảng đại của bác chừng nào, cháu càng lo sợ chừng
nấy, lo là lo không biết ngày nào đền ơn đáp nghĩa cho bác được, mà sợ là sợ phận
cháu khờ dại, e sơ sẩy làm những việc không xứng ý bác.
Nay trời khiến cháu rủi ro không được nhờ ơn đức của quan Phủ
nữa, mà cháu coi thế cháu cũng khó ở yên xứ nầy, vậy cháu tính cháu trở về Vũng
Liêm thăm phần mộ cha mẹ ít ngày rồi sẽ kiếm chỗ nương thân
Chừng nào cháu ở chắc chỗ rồi cháu sẽ viết thơ mà thưa cho
bác hay.
Cháu ra về còn tiếc một điều là không gặp mặt bác mà bái tạ
ơn tri ngộ và tỏ lời kính mến bác. Thôi phận cháu nghèo hèn, ví dầu kiếp nầy
không thể đền ơn trọng, đáp nghĩa dày được, thì cháu cũng nguyền kết cỏ ngậm
vành kiếp sau.
Ít lời thành thiệt, kính dưng cho bác bốn chữ: Phước, Thọ,
Khương, Ninh
Phan Chí Ðại
cẩn bái
Bạch Tuyết đọc thơ rồi nằm suy nghĩ rồi lại đọc nữa. Ðến nửa
chiều trời mát, cô kêu chú Phú trả lại bức thơ và dặn cất đợi chừng ông về sẽ
trao lại cho ông. Cô rửa mặt gỡ đầu rồi đi cùng trong nhà, từ trước tới sau một
hồi, lại tới bàn viết, cô thấy giấy mực để sẵn tại đó, cô ngồi lại lấy một tờ
giấy, mới viết ba chữ ''ông ngoại ôi!'' rồi bỏ viết đứng dậy đội khăn đi về,
không viết nữa.
Về vừa tới dinh, Bạch Tuyết thấy lính đương quét dọn ghe bầu,
cô hỏi thăm sửa soạn ghe làm chi, thì chúng nó nói nghe quan Phủ đi Ðầm Chim
tra xét vụ ăn cướp nào đó, chúng nó nghe không rõ. Cô lật dật bước riết vào
dinh, quả thấy gia đinh đương dọn mâm hút và quan Phủ với bà Phủ đã sửa soạn quần
áo hết rồi.
Bà Phủ vừa thấy Bạch Tuyết về thì nói rằng:
- Cha con với dì đi Ðầm Chim, chiều mai mới về. Vậy con ở nhà
coi nhà, tối biểu bầy trẻ đóng cửa cho kỹ lưỡng nghe hôn con.
Bạch Tuyết vâng lời, mặt mày hớn hở, thấy thằng em cũng sửa
soạn đi theo, bèn lại ôm nó mà hun hai ba cái rồi hỏi:
- Dì đem em theo nữa sao?
- Ừ, đem em theo chơi.
Lối chạng vạng tối, lính vào thưa với quan Phủ rằng nước ròng
đã nửa sông rồi, quan Phủ dắt vợ con xuống ghe.
Bạch Tuyết đương ăn cơm nghe cha đi lật đật buông đũa, uống
nước rồi đi ra ngoài cầu mát mà đưa cha.
Ghe mở dây lui ra, Bạch Tuyết ngó theo rưng rưng nước mắt,
song trời đã tối rồi, nên gia dịch với ông già Sen đứng gần đó mà không ngó thấy.
Ghe trở mũi vào sông Gành Hào rồi, Bạch Tuyết ngồi chồm hổm
trên cầu mát, tay chống càm, miệng hỏi ông già Sen rằng:
- Cha tôi đi chừng nào mới tới Ðầm Chim?
Ông Sen đáp rằng:
- Xuống Mương Ðào phải đợi nước lớn rồi mới vô rạch được. Chắc
tảng sáng mai mới tới Ðầm Chim.
Bạch Tuyết ngó quanh quất thấy lính và gia dịch đều đi vào
dinh hết, chỉ còn một mình ông Sen đứng đó mà thôi, cô mới biểu ông Sen ngồi một
bên, rồi cô nói nhỏ rằng:
- Dì tôi đã thuốc mẹ tôi chết mà giựt chồng, rồi bây giờ tính
ép tôi cho cháu mà đoạt của ông ngoại tôi nữa, ông có hay không? Từ ngày ông
thuật cho tôi nghe cách dì tôi giết mẹ tôi thì trong lòng tôi bứt rứt xốn xang
hoài, không biết phương chi mà trả thù báo oán cho được. Nay dì tôi xúi giục
cha tôi gả tôi cho cháu đặng đoạt gia tài cho trọn, cha chả! Thù xưa chưa trả đặng,
lòng nào nỡ đành kết nghĩa vợ chồng với kẻ thù! Ngặt tôi thương cha tôi quá,
nên tôi không nỡ nói cho hết lời được, dì tôi lại vu oan tiếng hư cho tôi, nói
tôi lấy thầy Chí Ðại, đặng làm cho tôi sợ mà phải ưng. Trời ôi! Oan ức cho tôi
biết chừng nào! Hôm cha tôi đánh tôi đó, thiệt tôi muốn tự vận mà chết cho yên
thân, ngặt vì thù tôi chưa trả xong, nên tôi phải sống; tôi tính lo mưu báo thù
cho mẹ tôi. Từ hôm cho tới bây giờ tôi lo tính nát trí tôi nghĩ nếu ở đây thì
cha tôi sẽ gả tôi cho thằng Ðồ còn gì. Vậy tôi tính tôi phải trốn cho toàn danh
tiết. May đêm nay cha tôi với dì tôi đi khỏi hết, vậy lối nửa đêm xin ông bơi
xuồng đưa giùm tôi vô kinh đặng tôi đón ghe xin quá giang mà lên Bạc Liêu.
Ông già Sen nghe nói đến đó thì ứa nước mắt, ngồi khoanh tay
thở dài mà nói rằng:
- Cháu tính như vầy cũng phải. Cháu ở đây không được nữa. Ngặt
vì thân cháu là con gái, đi ra một tấc đường không dễ gì. Cháu trốn rồi cháu đi
đâu?
- Tôi quyết đi kiếm thầy Chí Ðại. Người ta nói tôi lấy thầy,
tiếng đã mang lỡ rồi, bây giờ tôi chẳng nệ gì nữa. Ðã vậy ông ngoại tôi thường
khen thầy Chí Ðại lắm, lại tôi coi tướng thiệt là người trung hậu, tôi có chồng
như thầy nghĩ chẳng kém gì?
- Nếu cháu làm như vậy thì cháu mang tiếng theo trai.
- Thà mang tiếng xấu theo trai, chớ ăn ở với kẻ thù thì chịu
sao đặng.
- Như cháu theo, rủi không tìm được thầy Chí Ðại, rồi cháu ở
đâu?
- Như tìm thầy không được, thì cháu kiếm chỗ nương dựa, đợi
ông ngoại cháu về rồi cháu sẽ trở về.
Ông Sen suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Từ khi bà Phủ mất rồi, cháu còn nhỏ ông bồng ẵm, cháu khôn
lớn ông săn sóc, nay ông không đành để cháu đi một mình. Thôi cháu để ông đi
theo với cháu.
- Không được. Hồi chiều tôi có tính như vậy, tôi muốn viết
thơ để lại cho ông ngoại rồi tôi dắt ông theo, mà tôi sợ để thơ lại cha tôi
đánh khảo gia đinh rồi lấy đi, ông ngoại tôi về không hiểu duyên cớ tưởng tôi
hư, chắc buồn rầu phải chết. Vậy ông phải ở nhà, đặng chừng ông ngoại tôi về,
ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc lại cho ông ngoại tôi biết. Ông cũng làm ơn
khuyên lơn ông ngoại tôi đừng buồn và khi nào ông ngoại tôi ươn yếu xin ông
chăm sóc giùm.
Bạch Tuyết nói tới đó thì nước mắt tuôn dầm dề, ông Sen động
lòng nên cũng khóc òa. Hai người than thở, căn dặn nhau một hồi nữa, rồi ông
Sen đi lại bến thăm chiếc xuồng, còn Bạch Tuyết thủng thẳng trở vào dinh.
Bạch Tuyết vào phòng riêng đóng cửa lại rồi mở tủ lựa lấy năm
đôi vàng, một cây kiềng và ba mớ áo, bốn cái quần lãnh, đồ ấy là đồ của Khiếu
Nhàn sắm cho cô, còn đồ của quan Phủ mua thì cô bỏ lại hết.
Qua đến nửa canh ba, gia dịch ngủ im lìm, cô xách đồ ra ngoài
đưa cho ông Sen, rồi lén đi xuống xuồng mà tỵ nạn. Bạch Tuyết ngồi trước day mặt
ra phía sau, còn ông Sen ngồi sau bơi, hai người ngó nhau mà không nói chi hết,
chỉ rơi lụy mà thôi.
Trăng lú mọc hướng đông ửng đỏ; xuồng vô tới Cái Ngang gặp một
chiếc ghe của hai vợ chồng khách Triều Châu ở Bạc Liêu xuống Cà Mau đòi tiền rồi
về. Bạch Tuyết xin quá giang, vợ chồng người khách chịu cho. Bạch Tuyết qua ghe
kia rồi, ông Sen xô xuồng ra bơi trở về Cà Mau, bơi năm ba giầm thì lấy vạt áo
lau nước mắt một cái.
--------------------------
[1] dụng cụ bắt cá tôm ở các sông lớn Hậu giang
[2] choáng
[3] quặn
[4] hay Bố chánh:tỉnh trưởng, chủ tịch tỉnh
CHƯƠNG 3 -
C
hí Ðại quá giang đi lên Bạc Liêu, nằm trong ghe dàu dàu, lúc
tiếc chỗ làm ăn, lúc tủi thân lưu lạc. Có hồi anh ta nhớ tới Bạch Tuyết thì
trong lòng ngần ngại, trong trí bàng hoàng, tuy anh ta chẳng có ý gì riêng,
song thầm hỏi quan Phủ đương yêu mình vì cớ nào thình lình lại đuổi mình, mà chẳng
có một lời thương tiếc, hay là tại trong nhà ngài có nàng Bạch Tuyết, nên ngài
không muốn nuôi mình nữa chăng?
Từ lúc qua nhà Khiếu Nhàn cho tới lúc nằm dưới ghe thì Chí Ðại
nhứt định về Vũng Liêm thăm mồ mả cha mẹ rồi sẽ đi kiếm chỗ làm ăn. Mà lên lới
Bạc Liêu rồi, anh ta lại đổi ý, tính vào quán ở đậu ít ngày đặng kiếm thử coi
có chỗ dạy học hay không, rồi sau sẽ về thăm quê quán. Chí Ðại ở đó được ba bốn
ngày, may gặp ông Bá Hộ, trong nhà con cháu đông, nên chịu rước Chí Ðại về ở mà
dạy học. Chí Ðại có chỗ dung thân, trong lòng hớn hở, hẹn sáng bữa sau sẽ đem đồ
vô nhà ông Bá Hộ mà ở.
Chiều bữa ấy anh ta ăn cơm rồi mới đi dạo chợ chơi. Vừa xuống
tới mé sông, bỗng thấy một cô gái, tuy quần áo vải bô, song gương mặt sáng rỡ
như trăng rằm, tay xách gói ở dưới ghe bước lên bờ rồi đứng ngó giáo giác. Chí
Ðại đứng xa xa thấy hình dạng giống Bạch Tuyết, song trong trí không chắc, bởi
vì không lẽ Bạch Tuyết lên Bạc Liêu làm chi, mà dầu có lên thì không lẽ đi một
mình và mặc quần áo như vậy.
Anh ta lần bước lại gần, nàng ấy day lại ngó thấy vùng kêu lớn
rằng: ''Thầy ký'', mặt mày coi hớn hở mà nước mắt lưng rưng muốn chảy. Chí Ðại
nghe tiếng kêu, biết Bạch Tuyết thì trong lòng khấp khởi mắt ngó cô, miệng hỏi
rằng: ''Cô đi dâu lên trên nầy?" Bạch Tuyết cúi đầu lặng thinh không đáp
mà hai hàng nước mắt nhỏ giọt.
Chí Ðại thấy tình cảnh như vậy không hiểu duyên cớ thế nào muốn
hỏi nữa, mà nghẹn ngùng không muốn hỏi, chỉ đứng ngó cô mà thôi. Anh ta thấy cô
tuy mặc áo vải quần vải song đầu có choàng khăn lụa mới, chơn có mang guốc gù
ngà[1], tay lại xách một gói áo quần bùm sùm, trong lòng phát nghi nên hỏi nữa
rằng:
- Cô đi với ai?
Bạch Tuyết lau nước mắt, không chịu đáp lại hỏi rằng:
- Bây giờ thầy ở đâu?
- Tôi còn ở tại quán cơm, dưới chợ đây.
- Tôi lại đó được hay không?
- Ðược mà cô lại quán làm chi?
- Thầy dắt tôi lại đó rồi tôi nói chuyện hết cho thầy nghe.
Chí Ðại dắt Bạch Tuyết về tới quán thì trời đã chạng vạng tối,
mà trong quán chưa đốt đèn, Chí Ðại sợ chủ quán nghĩ việc chẳng tốt nên vừa bước
tới thì nói với chủ quán rằng:
- May tôi kiếm gặp con em tôi, nên dắt lại đây hỏi thăm việc
nhà một chút.
Chủ quán nghe nói thì gật đầu và khuyên nên dắt lên lầu mà
nói cho tiện, chớ ở từng dưới thiên hạ ra vô lộn xộn. Chí Ðại dắt Bạch Tuyết
lên tới chỗ anh ta ngủ mấy bữa rày, thì Bạch Tuyết ké né, không biết ngồi chỗ
nào, Chí Ðại nhắc ghế mời cô ngồi rồi quẹt lửa đốt đèn. Anh ta muốn biểu tiệm dọn
cơm cho cô ăn, cô nói rằng cô đã dùng cơm dưới ghe hồi chiều rồi.
Chí Ðại nóng nảy muốn biết coi Bạch Tuyết đi lên Bạc Liêu làm
gì, rồi sao thấy mình mừng quá rồi lại khóc nên hỏi rằng:
- Cô đi đâu một mình như vầy, xin cô nói phứt cho tôi nghe thử
coi.
- Chẳng giấu thầy làm chi, tôi trốn cha tôi với dì tôi nên
tôi lên đây.
Chí Ðại vừa nghe mấy lời thì biến sắc, nghẹn cổ, ngồi ngó Bạch
Tuyết trân trân. Bạch Tuyết cúi mặt mà nói rằng:
- Dì tôi muốn gả tôi cho thằng cháu là con Xã trưởng Tân Thuận,
đặng ngày sau đoạt gia tài của ông ngoại tôi. Tôi biết mưu kế, nhứt là tôi với
dì tôi đã có thù riêng, nên tôi không chịu. Dì tôi đặt điều nói tôi lấy thầy và
xúi cha tôi đuổi thầy đi. Thầy đi rồi cha tôi ép gả tôi nữa. Tôi không chịu
vâng lời, dì tôi lại xúi cha tôi đánh tôi sưng mình sưng mẩy và mắng nhiếc tôi
xấu hổ lắm. Nếu tôi ở nhà thì tôi phải thác thân về tay kẻ thù, bởi vậy tôi mới
trốn mà đi đặng lập thế báo cừu cho mẹ tôi, vì ngày trước mẹ tôi chết oan lắm.
Chí Ðại nghe nói chưng hửng, thấy phận Bạch Tuyết lao đao động
lòng thương, còn quên phận mình khi không mà mang tiếng, nên hỏi rằng:
- Phận cô là gái, bỏ chốn khuê phòng ra đi như vầy, thì còn
gì danh giá, mà cô lên đây gặp tôi, bằng cô không gặp thì làm sao?
Bạch Tuyết đáp rằng:
- Tôi cũng biết là phận gái ra khỏi nhà một tấc đường thì phải
mang tiếng nhơ. Song tôi đã xét kỹ rồi hết, thà là tôi mang tiếng nhơ, chớ tôi
không đành phối hiệp với kẻ thù. Ðể tôi thuật hết chuyện nhà của tôi cho thầy
nghe, rồi thầy xét giùm coi trốn mà đi phải hay là quấy.
- Nguyên hồi trước cha tôi cưới má tôi về ở mới hơn một năm,
kế sanh tôi. Khi tôi được bốn tuổi, thì cha tôi mang bịnh hút. Má tôi tánh chất
yếu đuối, tuy giỏi việc nhà, song không thạo làm nghề thuốc á phiện, làng họ muốn
tấn ơn nên kiếm cho cha tôi một người góa chồng để làm tiểu thiếp và làm thuốc
cho cha tôi hút. Người ấy là kế mẫu của tôi bây giờ đó, má tôi vốn con nhà hiền
đức nên không chịu ghen tương như người ta, bởi vậy cưới dì tôi về hơn hai năm,
lớn nhỏ thuận hòa chẳng hề nghe lời chi xích mích. Tuy vậy mà ý cha tôi càng
ngày càng mê sa tiểu thiếp, xài tiền phí bạc tốn hao không biết bao nhiêu, nhiều
khi lại còn hất hủi giằn thúc má tôi nữa. Má tôi thấy vậy ăn ngủ không được,
nên trong mình sanh bịnh. Ông ngoại tôi có một chút gái nên cưng lắm, vừa nghe
má tôi đau thì cho rước thầy Ðài hốt thuốc thiệt giỏi, má tôi uống năm sáu
thang thuốc thì ăn ngủ được, trong mình mạnh lại như cũ. Ông ngoại tôi mừng rỡ,
chẳng còn lo sợ nữa, nên đi lên Gia Ðịnh thăm anh em chơi. Má tôi ở nhà cứ uống
thuốc thêm hoài cho thiệt mạnh. Chẳng dè đêm nọ uống thuốc vô rồi trong bụng quặn
đau, đi sông không ngớt, đi thét má tôi nằm liệt tới sáng thì tắt hơi. Má tôi
chết rồi, cha tôi biểu đem xác thuốc ra coi thì thấy bã đậu nhiều lắm. Cha tôi
thất kinh sai làng đi bắt thầy thuốc Ðài. Ông nhìn xác thuốc thì lắc đầu, thề
thốt nói rằng thang thuốc ấy không phải của ông hốt. Lúc đương cãi lẽ, ông già
Sen, là người của ông ngoại tôi cấp theo giúp tay chơn má tôi, ổng lén vô phòng
dì tôi kiếm được một thang thuốc còn nguyên chưa sắc, mới cầm đưa ra cho cha
tôi coi. Cha tôi tra hỏi coi hồi chiều bữa trước ai đi hốt thuốc. Anh Vận bây
giờ có vợ ở bên Cái Tàu, ảnh chịu ảnh đi hốt thuốc, mà ảnh lại khai rằng khi ảnh
đi hốt thuốc về tới cầu mát, xảy gặp bà kế mẫu tôi. Bà biểu đưa thang thuốc cho
bà cầm và biểu trở xuống xuồng buộc dây lại cho chặt. Một lát anh Vận trở lên cầu,
bà kế mẫu tôi trao thang thuốc lại cho ảnh đem vô nhà, ảnh đem vô đưa cho má
tôi, mà bất ý nên không coi có phải thang thuốc của ảnh đi lấy đem về hay là
thang thuốc nào khác. Cha tôi biểu đưa thang thuốc của ông Sen tìm được trong
phòng bà kế mẫu tôi cho ảnh nhìn, ảnh mở ra coi rồi nói thang thuốc đó là thang
thuốc ảnh đi lấy bên thầy Ðài đem về, bởi thầy Ðài hốt thuốc trước mặt ảnh, ảnh
không nhớ mấy vị kia, song ảnh nhớ chắc có ba trái táo đỏ. Cha tôi biểu dắt thầy
Ðài lên: thầy thấy thang thuốc đó thầy cũng nhận là thang thuốc của thầy hốt.
Cha tôi coi lại xác thuốc của má tôi uống thì không có trái táo. Cha tôi hỏi bà
kế mẫu tôi vậy chớ vì cớ nào mà thang thuốc đó trong phòng bà. Bà biến sắc ú ớ
không trả lời được, cách một hồi lâu bà mới nói ai đem vô để trong phòng hồi
nào bà không hay. Thầy nghĩ đó mà coi có phải bà kế mẫu tôi tráo thuốc đặng giết
má tôi mà giựt chồng hay không? Việc gian ác như vậy mà cha tôi lúc đó còn làm
Cai Tổng, lại không nói tới dì tôi, để giải thầy thuốc Ðài lên tòa làm cho ổng
bị tòa án kêu hai năm tù. Khi ông ngoại tôi về tới nhà thì chôn cất má tôi xong
hết rồi, ông ngoại tôi đấm ngực kêu trời, bỏ ăn bỏ ngủ. Cách vài hôm ông ngoại
tôi nghe xầm xì chuyện tráo thuốc mới qua nhà hỏi cha tôi. Cha tôi trả lời lôi
thôi, mà ý lại binh vực dì tôi, nên ông ngoại tôi giận, rầy rà một hồi rồi bỏ
ra đi về, từ ấy về sau không thèm nhìn biết đến cha tôi nữa, hễ nhớ tôi thì sai
người qua rước tôi về chơi, chớ ông ngoại tôi không thèm tới lui. Ông ngoại mới
thuận với cha tôi chừng vài năm nay, chớ mười mấy năm trước chẳng hề khi nào chịu
nói tới cha tôi. Tôi chắc chuyện nầy ông ngoại tôi chưa nói cho thầy nghe bởi
vì thuở nay ông ngoại tôi chẳng hề khi nào nói với tôi. Tôi biết rõ đầu đuôi mà
thuật lại đây là nhờ có ông già Sen, ổng nói với tôi. Từ khi tôi biết rồi, thì
tôi oán hận dì tôi lắm, tôi quyết làm thế nào tôi cũng báo thù cho má tôi được
mới vui lòng. Có khi tôi muốn dọ ý ông tôi nên tôi đem việc ấy ra mà nói, chẳng
dè nói tới thì ông tôi dàu dàu nên tôi không biết ý ông tôi thế nào. Tôi nói
thiệt với thầy và nói cho có mặt đèn làm chứng cho tôi. Nếu tôi chưa trả thù
cho má tôi được, thì tôi không thèm hưởng giàu sang chi hết. Cái thù của mẹ tôi
mang nặng quá, mấy năm nay tôi ở chung một nhà với dì tôi thì tôi đã tím ruột bầm
gan rồi, cha chả có lẽ nào bây giờ tôi đi phối hiệp với cháu của dì tôi là kẻ
thù cho được. Bởi tôi nghĩ như vậy tôi mới trốn mà đi đây. Miễn tôi trả được
thù cho má tôi thì thôi, tôi không kể thiên hạ cười chê chi hết.
Bạch Tuyết nói mà sắc mặt giận lắm. Chí Ðại ngồi nghe cũng
phát giận song anh ta có ý muốn nghe cho rõ nên cứ ngồi lặng thinh. Chừng Bạch
Tuyết nói rồi, anh ta thở dài mà nói rằng:
- Chuyện của cô tôi nghe mà tức quá, tôi ở Cà Mau hơn một
năm. Ông bác có nói chuyện đó cho tôi nghe đâu. Chớ chi mà tôi biết quan Phủ sử
sự như vậy, nói thiệt, thà tôi nghèo đói tôi chịu chớ không dám gần. Quan Phủ
hiền từ lắm mà ngài nghe lời tiểu thiếp rồi làm những việc như vậy thì lòng
nhơn của ngài chẳng khác nào lòng gian ác. Hèn chi ngài đuổi tôi! Hỗm rày tôi
suy nghĩ hoài chẳng hiểu vì cớ nào, ngài đương chuộng tôi khi không lại đuổi
tôi, rồi chừng tôi từ giả mà đi thì ngài cũng chẳng tỏ một lời thương tiếc. Cô
có nói đây tôi mới hay, chớ không thì tôi có dè đâu!
Hai người chong đèn ngồi ngang nhau, người ngó ra cửa sổ mà
trong trí lo tính, còn người cúi mặt xuống đất mà khóc thút thít. Chí Ðại suy
nghĩ một hồi rồi nói với Bạch Tuyết rằng:
- Phận cô làm con phải báo thù cho mẹ thì phải lắm. Nhưng mà
cô chẳng nên oán quan Phủ, bởi vì con oán cha thì trái luân lý cang thường.
- Cha tôi có giết tôi đi nữa tôi cũng không dám oán. Tôi quyết
trả thù là trả thù dì tôi chớ.
- Hồi cô còn nhỏ chẳng nói làm chi, từ khi cô lớn khôn rồi cô
quyết báo thù sao cô không tính với ông bác?
- Tôi đã nói với thầy, hễ tôi nhắc tới chuyện má tôi thì ông
ngoại tôi buồn xo. Có khi tôi tỏ ý muốn báo thù thì ông ngoại tôi cứ lắc đầu mà
nói rằng người quấy để cho trời hại, mình chẳng nên kết oán mà tổn đức. Thầy
nghĩ đó mà coi, ông ngoại tôi tánh ý như vậy mà tôi muốn báo thù sao đặng.
- Bây giờ cô muốn báo thù mà cô tính làm như thế nào? Cô toan
giết bà Phủ cho chết hay là tính làm sao?
- Thưa thầy, tuy tôi oán dì tôi, song tôi không có lòng độc
ác như dì tôi vậy được. Nếu tôi muốn giết dì tôi thì tôi cần gì phải trốn đi.
Tôi muốn làm thế nào mà cáo với quan trên, đặng quan trên làm tội dì tôi mà
thôi. Miễn là làm cho ra lẽ dì tôi thuốc má tôi chết cho cha tôi biết, bao
nhiêu đó thì đủ rồi, chẳng cần giết dì tôi làm chi.
Chí Ðại gầt đầu, mắt ngó Bạch Tuyết trân trân và nói rằng:
- Phận gái ít ai có tánh khí như cô mà cũng ít ai có lòng
nhơn như cô vậy. Cô nói mấy lời ấy làm cho tôi kính phục cô quá, làm như vậy đã
trọn thảo với mẹ mà cũng không mất thảo với cha nữa. Nhưng mà cô phải xét lại
cho kỹ, chẳng nên hốt tốc[2], bởi vì hốt tốc sợ việc không thành mà còn phải bị
hại nữa. Nay cô muốn đến quan mà cáo bà Phủ thì trước hết cô phải có đủ chứng cớ
cho chắc chắn. Quan Phủ đang có quyền thế mạnh mẽ, tôi sợ thầy Ðài với anh Vận
không dám làm chứng cho cô đâu. Ðã vậy mà việc tráo thuốc xẩy ra mười mấy năm rồi,
bây giờ không còn tang cớ chi hết, tôi sợ Tòa không thể làm tội bà Phủ được.
Tôi chắc bấy lâu nay ông bác ôm lòng sầu mà nhịn thua, ấy cũng là vì không có
tang chứng, chớ không phải lòng nhơn từ của ông đến đỗi dung thứ kẻ gian ác như
vậy đâu. Không được, tôi sợ cô đi kiện không thành, mà lại bị tội cáo gian nữa.
Bạch Tuyết nghe Chí Ðại phân rõ các điều hơn thiệt, cô lấy
làm tức quá nên khóc và nói rằng:
- Nếu vậy, người ta giết mẹ tôi chết rồi bây giờ tôi không thể
nào báo thù cho mẹ tôi được sao?
Chí Ðại thấy cô đau đớn thì động lòng, không muốn cho cô thất
vọng, nên kiếm lời nói êm rằng:
- Không phải không thể báo thù được, nhưng xin cô thủng thẳng
đợi dịp thuận tiện rồi sẽ hay.
- Ðợi mười bốn năm rồi, bây giờ còn đợi đến chừng nào nữa? Chớ
chi biết trước việc nầy như vậy thì tôi ở nhà tự vận mà chết phức cho rồi, đi
đâu làm chi!
Bạch Tuyết khóc mùi, làm cho Chí Ðại xốn xang hết sức, song
không biết lấy lời chi mà khuyên giải. Chí Ðại để cô khóc một hồi lâu cho thỏa
lòng sầu, rồi mới nói rằng:
- Tôi chỉ chỗ lợi hại cho cô thấy mà thôi chớ không phải tôi
nói báo thù không được. Xin cô bớt buồn để trí tỉnh táo mà lo.
- Thưa thầy, thầy là người có học, nếu thầy biết thế nào mà
báo thù giùm cho tôi được thì tôi nguyện trọn đời đem thân nầy làm trâu ngựa đền
ơn cho thầy.
- Nếu tôi biết kế chi thì tôi chỉ liền cho cô, cần chi phải đợi
cô mượn. Tôi khuyên cô phải chậm chậm đợi ông bác đi Huế về rồi cô sẽ tính với
ông. Phải có ông mới xong. Bây giờ tôi xin cô mau mau trở về Cà Mau mà ở. Có lẽ
trong một vài tháng đây ông bác sẽ về, chớ không lâu lắc chi mà sợ.
- Úy! Tôi về Cà Mau sao được! Tôi về thì cha tôi bắt gả ép
tôi cho cháu của dì tôi còn gì.
Chí Ðại châu mày, ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi mới nói:
- Cô phải trở về, nếu không về thì cô đi đâu? Chớ chi cô là
con trai thì dễ, ngặt cô là gái, lìa nhà ra đi có dễ chi đâu. Cô phải về, cô về
nhà, nếu cô không ưng cháu bà Phủ thì thôi, quan Phủ ép cô mà cô không chịu,
không lẽ quan Phủ giết cô?
- Tôi nghĩ kỹ rồi hết, tôi không thể nào trở về nhà được. Dầu
cha tôi không thương có đánh chết tôi đi nữa tôi cũng không phiền. Ngặt vì người
ta vu cho tôi lấy thầy, tôi tức giận nên trốn mà đi, lên đến đây lại gặp thầy nữa,
bây giờ nếu tôi trở về thì lời vu oan ấy thành ra lời có thiệt, tôi mang tiếng
xấu với thiên hạ đã đành rồi, mà còn hổ thẹn với dì tôi nữa, tôi chịu sao được.
Tôi đã nhứt định, nếu tôi không báo thù cho má tôi được thì tôi không trở về Cà
Mau.
- Nếu cô không về, bây giờ cô đi đâu? Xin cô phải suy nghĩ lại:
phận cô là gái, mà lại con quan nữa, cô phải trọng danh tiết hơn người thường.
Cô lo báo thù cho mẹ thì đáng khen, song nếu báo thù được, mà thất tiết của
mình, thì sự khen ấy sợ cân không nặng bằng sự chê đâu.
Bạch Tuyết ngước mặt ngó ngay Chí Ðại và nói rằng:
- Sự đau đớn của tôi không biết lấy tiếng chi mà nói cho thầy
hiểu rõ được. Tôi tuy là con gái nhà quan, mà tánh nết tôi chắc là không giống
con nhà quan khác. Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói
cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự
nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại
tôi, thì trìu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp
mặt thì ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được. Chừng tôi được
mười hai tuổi, ông Sen thuật chuyện dì tôi tráo thuốc giết má tôi cho tôi nghe.
Từ ấy cho đến bây giờ, tôi coi dì tôi là người thù, tôi không tin lòng cha tôi
nữa, ở trong nhà tôi muốn việc gì cũng không nói cho ai biết, tính việc gì cũng
không nói cho ai hay, ở với cha mẹ mà cũng như ở một mình trong rừng, dường ấy
làm sao tôi giống người thường được. Xưa nay khi vui mà lại buồn thảm, khi buồn
mà phải giả vui, tập quen tánh dối rồi nên với ai tôi cũng dối hết thảy, bởi vì
tôi biết có ai thương tôi đâu mà nói thiệt tình với họ. Việc riêng của tôi, tôi
đem mà tỏ với thầy từ hồi đầu hôm cho tới bây giờ, ấy là tôi nói ra lần thứ nhứt,
chớ thuở nay tôi chưa nói cho một người nào nghe hết. Tôi thấy ông ngoại tôi
thương thầy, tôi chắc thầy là người biết điều, tôi không nghi ngại chi hết, nên
tôi mới dám tỏ thiệt.
Bạch Tuyết nói tới đó rồi ngưng lại, coi bộ suy nghĩ lắm.
Cách một lát, cô nói tiếp rằng:
- Tôi đã tỏ thiệt việc nhà của tôi cho thầy nghe rồi, bây giờ
tôi cũng bày luôn lòng dạ của tôi cho thầy biết nữa, không lẽ tôi dám dấu diếm
thầy. Không biết thầy có hiểu hay không, chớ hơn một năm nay tôi coi ý ông ngoại
tôi yêu thầy lắm. Tuy ông ngoại tôi không tỏ ra, chớ ông ngoại tôi nói chuyện với
tôi thường thường ông nói nhiều tiếng tôi hiểu ý muốn gả tôi cho thầy...
Bạch Tuyết nói mấy lời ấy rồi coi bộ hổ thẹn, nên cô ngồi day
mặt vào vách, gỡ đất dính trong móng chơn, lặng thinh một hồi lâu, rồi thở ra
mà nói tiếp rằng:
- Thân phận tôi bây giờ thiệt là khổ lắm. Nếu thầy thương ông
ngoại tôi, thì thầy làm ơn cứu giùm tôi. Bây giờ tôi cũng như người lạc trong rừng,
không biết đường đâu mà đi, trở về thì bị tay kẻ thù, bước tới thì bị sa chơn vào
đường đời nguy hiểm, thiệt tôi không biết liệu sao cho được. Vậy tôi ký thác
thân tôi cho thầy, xin thầy thương giùm. Nếu thầy không cứu tôi thì thà tôi chết,
chớ tôi không thể nào trở về Cà Mau.
Chí Ðại rõ ý Bạch Tuyết thì mặt mày tái xanh, mồ hôi nhỏ giọt.
Anh ta đi qua đi lại một hồi rồi đáp rằng:
- Cô tính như vậy thì quấy lắm. Cô theo tôi sao được. Cô theo
tôi thì cô mang nhơ, mà tôi để cho cô đi theo tôi thì tôi cũng phải mang nhục nữa.
- Nếu thầy không thương thì tôi phải chết, chớ sống sao được.
Chí Ðại đứng lại, ngó ngay Bạch Tuyết mà nói rằng:
- Sao cô biết tôi không thương cô? Vì tôi thương nên tôi giữ
tròn danh tiết cho cô, chớ làm nhục cô thì thương nỗi gì?
- Chớ bây giờ tôi tính làm sao?
- Cô không hiểu việc riêng của tôi. Tôi vốn con nhà bần tiện,
chút thân côi cúc không nơi nương tựa, nên lưu lạc đến Cà Mau. Ông bác có lòng
nhơn từ quảng đại, đem tôi về đải như thượng khách, rồi lại kiếm chỗ cho tôi
làm ăn. Cái ơn tri ngộ ấy tôi chưa đền bồi, hễ nghĩ tới thì tôi rất buồn, có lý
nào tôi lại còn dám làm điều trái đạo.
- Thầy để cho tôi đi theo thầy, ấy là thầy cứu tôi trong cơn
khốn khổ nầy, chớ phải thầy dụ dỗ chi đó hay sao mà thầy ngại.
- Ai biết được trong bụng ngay của tôi mà cô khuyên tôi đừng
ngại?
- Tôi biết thì đủ rồi, cần gì ai nữa.
Chí Ðại gãi đầu rồi đi qua đi lại, coi bộ bối rối lắm. Bạch
Tuyết ngồi ngó anh ta không nói chi hết, trong trí chờ nghe coi anh ta định lẽ
nào, Chí Ðại lại đứng gần Bạch Tuyết chống tay lên ghế nói nhỏ rằng:
- Nầy cô, thiệt nếu cô biết giùm bụng tôi thì tôi không ngại
nữa. Xin cô đừng có tưởng rằng tôi không thương cô. Cô tưởng như vậy tôi đau
lòng lắm. Tuy tôi biết mặt cô đã hơn một năm nay rồi, nhưng mà đêm nay tôi mới
giáp được mặt nói chuyện với cô thong thả. Cô đã lấy thiệt tình mà đãi tôi,
không lẽ tôi giả dối với cô. Tôi nghe rõ việc riêng của cô nãy giờ, lòng tôi ái
truất không thể nào nói ra cho được. Tôi nói thiệt trong đời nầy, trừ cha mẹ ra
rồi chẳng còn thương ai hơn là thương cô nữa. Chớ chi thương cô mà có thể báo
thù giùm cho cô được, lại cũng giữ giùm cho cô toàn vẹn danh thơm tiếng tốt thì
dầu cho tôi mang hại đến nỗi tan xương nát thịt đi nữa tôi cũng chẳng xá gì. Ngặt
vì thân tôi côi cúc, phận tôi bần cùng, đã không có thế lực, mà cũng không có
tiền tài, bởi vậy dầu thương cô tôi cũng chẳng biết làm sao giúp cô, thế thì cô
theo tôi cô đã nhơ danh mà lại không có ích gì.
Bạch Tuyết đáp rằng:
- Mấy lời thầy nói hồi nãy tôi nghĩ phải lắm: thủng thẳng mà
tính chớ không nên hốt tốc. Vậy thì tôi đi theo thầy đỡ ít ngày rồi sau ông ngoại
tôi về rồi sẽ tính, chớ biết làm sao?
- Còn một điều nầy lấy làm khổ cho cô nữa; cô vốn con nhà
sang trọng. Thuở nay ăn no ngủ kỹ, vào ra kẻ dạ người thưa, phận tôi nghèo nàn
hèn hạ, cô kết tóc với tôi sợ e cô phải dầm sương gội nắng cực khổ thân cô.
- Việc đó là việc riêng của tôi, xin thầy chớ lo. Tôi vốn con
quan, mà thầy dám chắc thuở nay tôi sung sướng sang trọng lắm sao? Thuở nay
thân tôi thiệt no ấm, song trí tôi sầu não, nghĩ chẳng có khổ nào hơn. Thà là
tôi cực khổ mà có người yêu mến cho tôi bày tỏ việc buồn của tôi, còn hơn là trở
về sung sướng mà phải phối hiệp với kẻ thù, hoặc phải chết không trả oán cho mẹ
được.
- Nãy giờ tôi lo là lo cho phận cô. Còn phận tôi, xin cô cũng
lo giùm một chút chớ. Tôi mà dắt cô đi, tuy là vì tình vì nghĩa, vì thương yêu
nhau, vì biết bụng nhau nhưng mà đối với thiên hạ tôi lấy làm hổ thẹn lắm. Tôi
kết tóc trăm năm với cô, chi cho khỏi thiên hạ dị nghị, họ nói tôi giúp việc với
quan Phủ, thấy cô giàu sang nên khuyến dụ cô. Mà đối với thiên hạ thì tôi ít
lo, chớ thiệt đối với ông ngoại cô, tôi lấy làm thẹn thùa quá. Tôi nói chắc, hễ
cô với tôi thương nhau thì không khi nào tôi dám thấy mặt ông ngoại cô nữa.
- Tôi có dặn ông Sen ở nhà chờ ông ngoại tôi về thuật rõ việc
khổ của tôi cho ông ngoại tôi nghe. Hễ ông ngoại tôi biết rồi thì thầy có quấy
chi đâu mà ngại.
- Thế nào ông lại không nghi, mà dầu ông không nghi, tôi làm
như vầy thì trái đạo nghĩa lắm.
- Nếu thầy tính hơn thua, phải quấy hoài, thì thân tôi còn
gì?
Bạch Tuyết tủi lòng, nên ngồi khóc nữa. Chí Ðại thấy vậy xốn
xang không chịu được nên bỏ đi lại đứng cửa sổ mà ngó ra ngoài. Trời đã khuya rồi,
trong quán đều ngủ hết, dưới đường vắng vẻ, không có một người qua lại.
Anh ta suy tới tính lui, không biết liệu thế nào cho xong, nếu
mình giữ cho toàn danh nghĩa của mình, dắt Bạch Tuyết trở về Cà Mau mà giao lại
cho quan Phủ thì sợ cô cùng trí rồi cô tự vận, tội ấy tại mình; còn nếu mà mình
đem cô ấy đi kiếm chỗ mà giấu đặng chờ Bạch Khiếu Nhân về, thì lại e trai tơ
gái lịch gần gũi nhau không thể giữ gìn cho trọn lễ nghĩa được.
Anh đứng suy nghĩ, một lát đứng ngó Bạch Tuyết một cái, thấy
cô hình dung đẹp đẽ, sóng sắc dồi dào, đã vậy mà đêm khuya thanh vắng tình cảnh
ngổn ngang, làm cho anh ta như dại như ngây bỏ trở đi vô, lúc gần tới bạch Tuyết
ngồi nói rằng:
- Trời khiến như vậy, còn biết sao mà liệu.
Bạch Tuyết nghe mấy lời vùng đứng dậy, khít bên mình Chí Ðại,
nước mắt nước mũi chàm ngoàm, ngó Chí Ðại một cách hữu tình mà nói nho nhỏ rằng:
- Em cảm ơn thầy lắm.
Chí Ðại đứng ngó trân trân, không nói chi được hết, chỉ gục mặt
xuống đất mà khóc.
Hai người khóc một hồi lâu, bỗng nghe đồng hồ gõ năm giờ,
ngoài đường thiên hạ đi lại nói chuyện inh ỏi, trong quán kẻ làm công thức dậy
mở cửa lộp cộp. Bạch Tuyết lấy gói vàng trao cho Chí Ðại và hỏi coi tính sáng
ngày dắt nhau đi đâu.
Chí Ðại mở gói thấy vòng vàng kiềng nhiều quá thì lòng chẳng
vui nên nói rằng:
- Cô đem vàng theo nhiều chừng nào càng nhục thêm cho tôi nhiều
chừng ấy.
- Ðồ nầy của ông ngoại em sắm riêng cho em, chớ không phải của
cha em đâu.
- Của ai cũng vậy.
- Nếu thầy không vui thì em bỏ, em không cần đeo vòng đeo kiềng
chi đâu.
- Ðể sáng tôi gởi về trả cho quan Phủ.
- Tự ý thầy, thầy tính sao cũng được.
Sáng ngày Chí Ðại kiếm một cái hộp, bỏ hết vòng kiềng vào rồi
đem lên nhà dây thép mà gởi về cho quan Phủ tại Cà Mau. Anh ta đến nhà ông Bá Hộ
nói dối rằng anh ta có việc nhà phải trở về cho mau, nên chưa dạy học đi dắt Bạch
Tuyết xuống tàu về Vũng Liêm.
Chí Ðại về tới quê quán, ở đậu nhà phó xã Măng một bữa, đem Bạch
Tuyết ra lạy mồ mả cha mẹ, rồi dắt nhau đi Sài Gòn, mà trước khi ra đi lại căn
dặn vợ chồng phó xã Mang, nếu có ai đến hỏi thăm thì đừng nói có anh ta về đó.
Chí Ðại làm việc tại Cà Mau hơn một năm, tuy ăn ở khỏi tốn tiền
song phải mua sắm quần áo, xài phí chút đỉnh, nên lúc ra trong mình chỉ còn dư
được 50 đồng mà thôi.
Ở Bạc Liêu mấy ngày rồi về Vũng Liêm hao tốn nữa, nên khi lên
tới Sài Gòn, trong túi còn có hai mươi lăm đồng. Tiền riêng của Bạch Tuyết còn
được bốn mươi lăm đồng, hai người nhập chung thì thành số bảy chục đồng.
Hai vợ chồng không quen biết với một người nào ở Sài Gòn, nên
lên tới đó không có chỗ ở đậu đặng kiếm sở làm, phải ở tại khách sạn Phước Lai,
cứ mỗi ngày phải trả tiền phòng sáu cắc bạc. Vợ chồng nghĩ mình tiền bạc, hẹp
hòi, còn kiếm chỗ làm cũng không chắc được, bởi vậy ăn xài tiện tặn hết sức, ăn
cơm thì lại quán mua canh cải thịt kho sơ sài, đi chơi thì cứ dắt nhau đi bộ.
Chí Ðại làm đơn vào sở Trường Tiền mà xin chỗ làm, thì họ nói không có chỗ trống,
nên không thế cho được.
Bữa sau anh ta nghe nói sở Ba Son dễ xin mới làm đơn men tới
nào dè đã có nhiều người vào đơn xin trước rồi nên họ bắt thi.
Tuần sau Chí Ðại vào thi đậu số 2, trong bụng mừng thầm chắc
sẽ có chỗ làm chẳng dè họ biểu số l đi làm liền, còn số 2 phải chờ ít ngày, chừng
nào có giấy đòi sẽ đi làm.
Chí Ðạt lật đật về khách sạn, nói lại cho vợ hay, tưởng là
trong năm ba bữa họ sẽ kêu đi làm, té ra chờ hơn hai mươi ngày mà cũng chưa thấy
tin tức chi hết. Anh ta nóng nảy làm đơn vào nhắc, thì họ biểu chờ chừng nào có
chỗ trống họ sẽ kêu.
Ở Sài Gòn gần giáp tháng, túi nhẹ, mà chưa có chỗ làm. Chí Ðại
buồn rầu, ban ngày đi thất thơ, ban đêm nằm nhau nháu.
Ðêm nọ, khách ở mấy phòng đều ngủ hết, anh dậy chong đèn ngồi
mà lo, dòm thấy Bạch Tuyết nằm ngủ, tay gác qua trán mà mặt sáng như hoa nở, miệng
vui như chúm chím cười, thì động lòng thương, rơi nước mắt.
Bạch Tuyết giựt mình mở mắt thấy chồng ngồi khóc. Chẳng hiểu
việc gì, nên tay vịn chồng mà hỏi rằng:
- Có việc chi mà thầy buồn dữ vậy?
- Hôm ở dưới Bạc Liêu tôi đã nói với cô rằng tôi không có thể
giúp ích cô được, mà lại sợ cô theo càng khổ thân cô...
- Bây giờ thầy ăn năn hay sao?
- Không, việc tôi làm lỡ rồi bây giờ dầu nát thân tôi, tôi
cũng vui lòng, có lẽ nào tôi ăn năn. Tôi lo là lo cho phận cô đó mà thôi chớ.
- Xin thầy đừng lo cho em, bởi vì nếu tại em mà phải nhọc
lòng thầy thì em buồn lắm.
- Vậy chớ cô quên báo thù cho mẹ hay sao?
- Làm sao mà em quên được. Em nghe thầy nói để thong thả ngày
sau sẽ tính nên em làm lơ lảng mà chờ chừng nào thầy liệu được thì em cậy thầy
làm chớ.
- Sự báo thù cho cô tôi coi khó lắm mà bây giờ cái khổ đã rấp
tới nữa, bởi vì tiền bạc đã gần hết mà tôi kiếm chưa đươc chỗ làm. Nếu mai mốt
hết rồi lấy chi mà nuôi nhau. Tôi đã nói trước với cô khổ lắm, cô ơi?
Chí Ðại nói tới đó nước mắt tuôn đầm dề. Bạch Tuyết lấy khăn
lau nước mắt cho chồng và to nhỏ khuyên rằng:
- Xin mình đừng buồn, ở đời ai khỏi cực; có cực rồi chừng được
sung sướng mới vui, chớ từ nhỏ chí lớn sung sướng hoài thì biết vui là gì. Nói
cùng mà nghe, ví như Trời không thương, bắt đôi ta khốn khổ quá chịu không nổi,
thì vợ chồng ta nằm ôm nhau mà chết cũng vui lòng, xin mình đừng buồn việc chi
hết.
Chí Ðại nhìn vợ trong lòng khoan khoái vô cùng, mấy lời vàng
đá ấy làm cho anh ta rất phỉ tình, mà cũng đau đớn. Bạch Tuyết thấy chồng
thương cảm, thừa dịp nói rằng:
- Mình đừng kêu tôi bằng cô nữa chớ. Tiếng cô nghe vô tình
quá.
- Thì em cũng đừng kêu qua bằng thầy nữa.
Hai người cười với nhau rồi kè vai nằm ngủ.
Chí Ðại tính không đợi sở Ba Son kêu nữa được, nên mấy ngày
sau đi rảo khắp mấy hãng buôn xin chỗ mà làm. Ði tới đâu họ cũng hỏi trước đó
có làm việc tại hãng nào hay không. Chí Ðại thiệt thà cứ nói tự thuở nay chưa
giúp việc cho hãng nào hết, nên không hãng nào cho làm.
Bữa nọ Chí Ðại nghe nói Tòa Tân Ðáo có thiếu một người lon
ton[3] đi giấy anh ta muốn xin vào làm đỡ, song làm việc hạ tiện sợ vợ không
vui, nên về dọ thử bụng vợ rằng:
- Bạc của mình bây giờ còn có mười mấy đồng nếu đóng sòng phẳng
mà chờ cho có sở sang trọng mới làm, thì vợ chồng ta chắc chết đói. Qua nghe
nói Tòa Tân Ðáo đương cần dùng một người đi giấy qua muốn xin vô mà làm đỡ, ngặt
làm tay sai cho người ta thẹn thùa quá nên qua chưa nhứt định.
Bạch Tuyết đáp rằng:
- Tìm vinh lánh nhục là lẽ thường. Nhưng mà em nghĩ nếu mình
có tiền ở không mà ăn, thì thân mình mới khỏi ai giằn thúc; chớ mình nghèo đi
kiếm chỗ làm ăn, làm chỗ nào lại khỏi bị người ta sai khiến. Chừng nào mình làm
quấy, gạt gẫm người ta mà lấy tiền, hoặc chém giết người ta mà giựt của thì mới
nhục. Xin anh đừng ngại chi hết, bất luận sang hèn, anh coi chỗ nào làm được
thì anh xin mà làm, miễn là có chỗ dung thân rồi em sẽ đi may mướn vá thuê với
anh kiếm tiền mà độ nhựt.
Chí Ðại nghe được mấy lời vàng đá, trong lòng đang buồn mà
hóa ra vui. Rạng ngày anh ta vào Tòa Tân Ðáo xin đi lon ton.
Quan bằng lòng cho làm và định lương mỗi tháng là chín đồng.
Anh ta vào làm việc gặp thầy tên Tú, vốn là bạn học anh ta hồi trước ở Vĩnh
Long, vì thi rớt không vào trường Mỹ Tho được nên xin việc làm. Chí Ðại ngó thấy
mừng rỡ hết sức, nên lật đật chạy lại hỏi thăm. Chẳng dè thầy nọ làm lơ, đã
không chịu quen với Chí Ðại, lại còn bắt lỗi Chí Ðại vô phép làm cho Chí Ðại hổ
thẹn mà nực cười, thẹn là thẹn thân hèn hạ, cười là cười thói kiêu căng, thầm
nghĩ chớ chi mình giàu sang, chắc người không quen cũng xúm lại niềm nở.
Tối lại Chí Ðại thuật chuyện vô tình của thầy Tú lại cho Bạch
Tuyết nghe, thì vợ tức cười, chớ không phiền trách. Anh ta thấy vợ chồng đồng
tâm hiệp ý thì vui vẻ vô cùng, mới tính với vợ rằng mình ăn lương mỗi tháng
chín đồng, tính ra nhầm một ngày có ba cắc. Ở khách sạn mỗi ngày tới sáu cắc,
còn ăn cơm hết ba bốn cắt nữa, nếu ở như vậy hoài thì làm sao mà đủ xài nữa.
Bạch Tuyết khuyên chồng kiếm chỗ ở đậu đặng đỡ tốn hao, rồi
cô ta kiếm áo quần may mướn đặng thêm tiền chút đỉnh. Bữa sau Chí Ðại làm quen
với lon ton Thiệt rồi xin ở đậu mỗi tháng chịu một đồng bạc tiền phố.
Lon ton Thiệt chịu cho, song nài phải chịu phân nửa tiền phố
là một đồng rưởi. Chí Ðại bằng lòng, mua một cái chõng, một chiếc chiếu và sắm
chén đũa, nồi trách, rồi dọn dẹp về ở với lon ton Thiệt trên phía Cầu Kiệu.
Bạch Tuyết vì thương chồng nên không nệ cực khổ, hễ khi chồng
đi làm thì cô ở nhà lãnh áo quần mà may mướn, mỗi tháng kiếm được năm bảy đồng
nhập với lương của Chí Ðại thì đủ xài không thiếu hụt bữa nào.
Tuy chồng nghèo mà cô chẳng buồn, tuy chồng hèn hạ mà cô cũng
kính luôn luôn, chẳng làm điều chi, chẳng nói chi mích bụng chồng mà thấy thiên
hạ giàu sang cô cũng không phân bì so sánh.
Chí Ðại làm lon ton là tính làm đỡ chờ sở Ba Son kêu chẳng dè
làm đến bốn tháng mà cũng chưa nghe tin tức. Bữa nọ anh ta đi làm về thấy Bạch
Tuyết có sắc buồn. Tối lại anh to nhỏ với vợ rằng:
- Vì qua nên em hư danh xủ tiết, vì qua mà em phải cực hèn.
Qua là đứa bất nghĩa, nhờ ơn ông, trở làm xấu cho ông, qua là đứa tiểu nhơn
không cứu em lại làm cho em mang hại, bởi vậy ngày nay trời đất phạt qua nghèo
hèn cực khổ như vầy đã đành rồi. Thảm cho em vì muốn báo thù cho mẹ mà phải hư
thân, thiệt qua nghĩ đến việc ấy chừng nào, qua càng nát gan đứt ruột chừng nấy.
Qua tính với em như vầy: có lẽ lúc nầy ông ngoại đi Huế đã về rồi, vậy để cho
qua đưa em về Bạc Liêu đặng hỏi coi như ông ngoại về thiệt rồi, thì em ở với
ông ngoại cho thân em hết cực khổ nữa.
Bạch Tuyết nghe nói vùng ngồi đậy hỏi rằng:
- Anh về với em hay không?
- Qua về sao đặng?
- Sao vậy?
- Qua còn mặt mũi nào dám thấy ông nữa.
- Em đã nói lỗi nầy tại em, chớ nào phải tại anh hay sao mà
anh ngại.
- Qua không biết kiên tâm trì chí, bởi vậy lỗi tại qua chớ
nào phải tại em.
- Thôi anh đừng cãi chi nữa cho thất công. Em nói thiệt nếu
anh chịu về Cà Mau với em thì em mới đi, bằng không thì anh ở đâu em ở đó, giàu
nghèo chẳng cần gì.
- Em cần phải về Cà Mau đặng toan mưu lo kế với ông ngoại mà
báo thù cho má chớ.
Bạch Tuyết nghe nhắc việc báo cừu thì ngồi lặng thinh suy nghĩ
một hồi rồi nắm tay chồng mà khóc và nói rằng:
- Em muốn báo thù cho má lắm. Ngặt vì anh đang gặp hồi hoạn nạn
như vầy, em không nỡ lìa anh một ngày đặng. Thôi việc ấy để thủng thẳng ngày
sau sẽ tính, chớ bây giờ em về, em sợ cha mẹ không thương lại càng khổ cho em nữa.
Chí Ðại thấy vợ có tình có nghĩa quá như vậy càng kính trọng
hơn nhiều nữa.
Ngày qua tháng tới thấm thoát Chí Ðại làm lon ton tính đã quá
một năm. Bữa nọ Bạch Tuyết có nghén mà lại cảm phong sương nên nóng vùi. Chí Ðại
lo sợ, chạy đi kiếm thầy hốt thuốc cho vợ, nên đi làm trễ hết một giờ. Ông chủ
vô nhà giấy kêu lon ton hai ba lần mà chẳng thấy mặt Chí Ðại, ông giận rầy la
om sòm, rồi chạy giấy phạt tám ngày lương. Chừng Chí Ðại bước vô, nghe chuyện
như vậy thì sợ nên lật đật vô năn nĩ ông chủ mà xin lỗi. Anh ta năn nĩ hết sức
mà ổng không tha.
Anh trở ra bàn mà ngồi, phần thì lo cho vợ ở nhà, phần thì buồn
vì nỗi bị phạt, nên ông chủ kêu hai ba tiếng mà anh ta không nghe. Ông chủ tưởng
anh ta cứng đầu cứng cổ, nên kêu vô đánh hai bốp tai rồi chạy tờ xin đuổi.
Chí Ðại bị đánh lấy làm nhục nhã, tức giận muốn bỏ đi về,
song nghĩ nhà nghèo vợ đau, nếu không nhẫn nhịn thì e khốn khổ hơn nữa nên phải
dằn lòng ở mà làm. Chẳng dè sự nhẫn nhịn ấy không có ích gì bởi vì cách ba bữa
có giấy quan trên cho đuổi, ông chủ kêu Chí Ðại vô mà cho hay, rồi dạy phải ra
khỏi sở ngay lập tức. Chí Ðại hay tin chẳng lành ấy thì sảng sốt, tuy trong trí
lo không có chỗ làm ăn, song bước chơn ra về lòng chẳng tiếc chúc nào hết. Anh
ta về nhà thuật lại chuyện ấy cho vợ hay rồi vợ chồng nhìn nhau coi bộ buồn lắm.
Sáng bữa sau Chí Ðại kiếm chỗ khác xin làm, đi luôn trọn năm
ngày mà chưa kiếm được chỗ nào hết. Trong rương còn có sáu bảy đồng bạc, anh ta
lấy hốt thuốc cho vợ uống và mua gạo mua cá mà ăn, trong mấy ngày thì tiêu hết.
Bữa nọ hết tiền không biết lấy chi mua gạo mà ăn, Bạch Tuyết
mới khuyên chồng đem một mớ quần áo ra tiệm cầm đồ mà cầm. Chí Ðại cùng thế rồi
nên mới bất đắc dĩ đi, nhưng quá đau đớn trong lòng nên rưng rưng nước mắt.
Cầm mớ quần áo được ba đồng bạc đem về ăn xài mới năm sáu bữa
thì hết nữa, mà cũng chưa có chỗ làm.
Bạch Tuyết nhờ uống thuốc nên hết nóng lạnh, mà dầu khỏi tốn
tiền thuốc nữa, song cơm gạo không thể nhịn đặng, bởi vậy ba mớ áo với bốn cái
quần lãnh của cô lần lần đã vào trong tiệm cầm đồ hết.
Chí Ðại lo sợ nên đi tối ngày không về nhà. Chiều bữa kia đi
mỏi chơn quá mới lại ngồi trên cái băng để tại cầu Thủ Ngữ mà nghỉ.
Trên trời mây giăng đen kịt, dưới sông nước chảy lờ đờ. Người
có việc buồn thấy cảnh như vầy càng buồn thêm.
Chí Ðại ngồi lo nỗi nhà không có gạo, mà vợ lại gần lâm bồn
thì chua xót trong lòng, rồi thấy cảnh u ám dường như dục lòng buồn thêm, thì
thối chí muốn nhào xuống sông Bến Nghé mà trả phức nợ trần cho rồi. Vừa tính
cùng như vậy Chí Ðại liền nhớ tới Bạch Tuyết, nên ngồi ngó mặt nước trân trân
mà suy nghĩ rằng: ''Bạch Tuyết vì muốn báo thù cho mẹ nên trao thân gởi phận
cho mình, mình đã biết không đủ sức giúp người mà không dằn lòng được, làm cho
phải thất tiết với mình bao nhiêu đó mình đã có tội nhiều rồi. Nay thấy nguy hiểm
lại giựt mình muốn tìm đường mà tránh sao". Chí Ðại vùng đứng dậy rồi lầm
lũi đi về nhà.
Ðêm ấy anh ta không ngủ được, nằm tính trong trí rằng, nghề
nào cũng nghề làm ăn, rất đỗi bọn cu ly kia, nó còn nuôi được vợ con nó thay,
mình cũng đủ tay đủ chơn như nó, lý gì mình không chịu làm như nó. Anh ta sợ vợ
buồn, nên không nói cho vợ hay.
Rạng ngày sau, thức dậy mặc áo quần cũ đi tuốt xuống nhà ga
xe lửa Mỹ Tho tính kiếm mà vác mướn. Lúc Chí Ðại bước vô nhà ga xe lửa gần chạy
nên thiên hạ lộn chộn, kẻ chen lấn mua giấy, người lật đật bưng đồ còn sắp bam
bù đứa chạy đầu nầy xin vác rương, đứa chực đầu kia xin xách gói.
Tuy hồi hôm Chí Ðại đã quyết chí ra đó mà làm mướn, song đến
nơi rồi thì mắc cỡ nên bợ ngợ đứng ngó, chớ không đành chạy tò tò theo người ta
mà năn nỉ xin vác đồ, bởi vậy xe chạy rồi mà anh ta còn ngẩn ngơ chưa tỉnh lại.
Xe lửa chạy rồi, thiên hạ tản lạc lần lần, trong nhà ga còn
có một khách đứng chơi vơi với vài tên bam bù ngồi ăn bánh.
Chí Ðại ra phía sau khoanh tay dựa lưng vào vách mà nghĩ thầm
rằng làm bam bù thiệt là đê tiện mà nếu sợ xấu hổ không chịu làm thì mai mốt tiền
đâu mà mua gạo ăn, rồi chừng vợ đẻ lấy chi mà nuôi nó.
Anh ta quyết chí chờ xe Mỹ Tho lên sẽ làm, chớ không dụ dự nữa.
Gần bảy giờ rưỡi rồi, nghe có tiếng xe lửa síp-lê[4] xa xa.
Xe kiếng[5], xe kéo chạy lại nhà ga rần rần, còn bam bù, cu
ly[6] cũng tựu hội đông nức. Những người đi đón rước bà con đứng dọc theo mé
nhà ga, còn bọn chực xách gói đứng dài theo đường xe lửa.
Chí Ðại bước lại gần bọn vác đồ. Cu ly đứa nào cũng tranh đứng
trước, nên chen lấn nhau đấm cú nghe đùi đụi. Chí Ðại thấy vậy lấy làm buồn nên
đứng sau xa mà ngó, chớ không dám bước lại gần.
Xe lửa vừa chạy tới, bọn cu ly nhảy ào lên, xô lấn nhau, có đứa
té nhào xuống xe gần bị cán. Chí Ðại lắc đầu, thấy nghề hèn hạ mà còn giành giựt
với nhau mới làm được thì thối chí ngã lòng, nên xây lưng đi về, tính mướn xe
kéo mà kéo, tuy mệt một chút mà khỏi năn nỉ giành giựt.
Tối lại, Chí Ðại khóc mà tỏ thiệt với vợ việc mình tính làm hồi
sớm mai mà không làm được và luôn dịp cũng nói mình quyết sáng ngày mai sẽ đi
mướn xe mà kéo.
Bạch Tuyết nghe nói biến sắc, ngồi nhìn chồng một hồi rồi rơi
lụy chứa chan, nói rằng thà hết tiền thì vợ chồng nằm ôm nhau mà chết một lượt
còn vui lòng hơn nhiều.
Chí Ðại phải lấy lẽ phải quấy mà khuyên vợ lại.
Bạch Tuyết cản hết sức không được, nên sáng bữa sau phải để
cho chồng đi, mà Chí Ðại vừa ra khỏi nhà thì cô cũng đội khăn đi nữa, tính đi
kiếm chỗ làm mướn, chớ không để cho chồng cực khổ một mình, may có vợ lon ton
Thiệt chạy theo níu lại, nói rằng có bụng có dạ phải dưỡng lấy thai, nên cô mới
chịu trở vô nhà nằm mà khóc.
Chí Ðại thế giấy thuế thân mướn được một cái xe kéo. Khi thay
áo xám quần cụt rồi nắm gọng xe kéo ra ngoài đường thì mặt mày tái xanh, trong
lòng lạnh ngắt, hai hàng nước mắt rưng rưng.
Bữa đầu, ăn cơm và trả tiền xe rồi còn dư được chín cắc, Chí
Ðại đem tiền về đưa cho vợ, Bạch Tuyết gượng gạo thò tay lấy tiền mà nước mắt
chảy dầm dề.
Chí Ðại thấy vợ như vậy, phải gượng làm vui và không dám than
mỏi mệt.
Kéo xe được mười ngày, mỗi ngày dư được năm, bảy cắc hoặc một
đồng, đều đưa hết cho vợ cất. Bạch Tuyết không thể cản chồng được, mà phận mình
mang mên gần ngày nên không thể giúp chồng thì buồn rầu hết sức.
Bữa nào cũng vậy, chồng đi kéo xe ăn cơm ngoài quán, vợ ở nhà
không nỡ ăn cá thịt, cứ mua nước mắm húp mà nuốt cơm.
Ðêm nọ Chí Ðại hỏi vợ rằng:
- Em có tính thử coi ngày nào đẻ hay không?
- Em tính chắc tháng tới đây, lối chừng mùng năm, mùng sáu.
- Em gần ngày qua lo quá. Mình không có tiền dư lại ở đậu với
người ta, chừng em đẻ tiền đâu mà thuốc men. Còn em đẻ ở nhà đây, biết vợ chồng
anh lon ton Thiệt có vui lòng hay không?
- Hôm nay vợ anh lon ton Thiệt theo biểu em đẻ ở nhà hoài.
Song em nghĩ ở nhà bất tiện lắm, bởi vì nhà chật, phần thì anh không có ở nhà.
Vậy em tính em vô nhà thương thí trong Chợ Lớn mà nằm, chừng cứng cáp sẽ về.
- Em tính như vậy cũng xong, bởi vì việc sanh sản qua không
hiểu chi hết, nếu đẻ ở nhà qua sợ quá.
Qua bữa mồng năm, Chí Ðại muốn ở nhà với vợ, Bạch Tuyết nói rằng
bụng chưa đau đớn chi, nên chắc là chưa đẻ. Chí Ðại yên lòng mới đi kéo xe.
Ðến trưa, may gặp mối đi Tân Ðịnh, anh ta thừa dịp ấy mới đi
thẳng về nghỉ một lát, chừng sửa soạn ra kéo xe đi nữa thì nghe vợ nói đau bụng.
Anh ta lính quýnh hối vợ lên xe đặng anh ta kéo chạy riết vô nhà thương.
Ðường tuy xa song anh ta lo quá, nên chạy không biết mệt. Vô
tới nhà thương, cậy mụ coi giùm thì họ nói tới tối mai mới đẻ. Chí Ðại để vợ ở
đó kéo xe đem về trả cho chủ rồi mới trở vô thăm vợ.
Ðúng bảy giờ tối, Bạch Tuyết sanh được một đứa con trai, tóc
đen mắt lớn, coi mạnh dạn lắm, vợ chồng thảy đều mừng rỡ. Bạch Tuyết móc túi lấy
đưa cho Chí Ðại mười hai đồng bạc mà nói rằng:
- Anh lấy tiền đây mà cất giùm chút.
- Tiền đâu đó vậy?
- Hai mươi mấy ngày rày anh đưa cho em nên em để dành đó, chớ
tiền ở đâu.
- Vậy chớ em không ăn xài hay sao mà tiền còn dữ vậy?
- Anh cực khổ quá mà em ăn xài sao đành. Anh cất giùm tiền rồi
chừng em về sẽ mua mền và mua vải may quần áo cho con bận.
Chí Ðại lấy tiền bỏ túi, nghĩ tới tánh tình của vợ lại càng
thương hơn trước nữa. Bạch Tuyết nằm trong nhà bảo sanh mười ngày, Chí Ðại ở
nhà ban ngày đi kéo xe, ban đêm rảnh vô thăm vợ thăm con, chẳng sót bữa nào.
Qua ngày thứ mười một nhà thương không cho nằm nữa, Chí Ðại mới
kéo xe vô rước vợ con đem về. Bạch Tuyết cứng cáp, ăn ngon, ngủ được, nên về
nhà ra vô như thường. Chí Ðại có con thì thêm một mối lo nữa, nên ngày đêm kéo
xe không dám nghỉ.
Bạch Tuyết tuy mạnh, song quanh quất một mình chẳng có ai
giúp đỡ ban ngày, phải nấu cơm mà ăn, ban đêm phải thức mà săn sóc con cực nhọc
dồn dập nên chưa đầy tháng mà đã mang bịnh thũng. Chí Ðại thấy vợ đau thì lo sợ,
chạy mua thuốc lăng xăng, có mười mấy đồng bạc dư đem ra xây xài gần hết mà bịnh
không thấy giảm.
Bởi Bạch Tuyết đau nên sữa không được tốt. Con bú sữa ấy rồi
cũng sanh bịnh nữa, nên ngày đêm không ngủ cứ la khóc hoài. Bạch Tuyết trong
mình không giỏi dỗ con không được. Chí Ðại thảm thiết, không đành bỏ vợ ở nhà
mà đi kéo xe, nên phải ở nhà bồng con cho vợ nghỉ. Thằng nhỏ không đủ sữa bú
nên la khóc om sòm, Chí Ðại bồng con mà ru, hai hàng nước mắt nhỏ giọt. Chí Ðại
không đi kéo xe năm ngày thì trong nhà không còn một xu muốn mua cho con một hộp
sữa bò thì không tiền mà mua, muốn hốt cho vợ một thang thuốc bắc, thì hốt chịu
họ không hốt. Anh ta lấy làm bối rối, mới cậy lon ton Thiệt hỏi giùm cho năm đồng
bạc, hứa góp mỗi ngày bốn cắc, góp mười lăm ngày thì dứt nợ.
Họ không chịu cho bạc rẻ như vậy, nài phải góp mỗi ngày năm cắc.
Chí Ðại phần không thuốc cho vợ uống, phần không sữa cho con bú, túng thế quá
nên phải chịu lấy năm đồng bạc góp nửa tháng, mỗi ngày gốp năm cắc.
Lấy năm đồng bạc về thì lật đật đi mua một hộp sữa bò cho con
và rước thầy coi mạch hốt thuốc cho vợ liền. Thằng nhỏ có sữa bú thì bớt khóc một
chút, còn Bạch Tuyết có thuốc uống mà bịnh không thấy giảm bao nhiêu.
Chí Ðại đi kéo xe chưa được, mỗi ngày phải lấy số tiền mới
vay đem về đó mà góp lại. Anh ta góp được ba bữa, nghĩ làm như vậy mình thiệt hại
quá, mới năn nỉ với chủ nợ xin đình chừng nào vợ bớt đau, mình đi kéo xe được rồi
sẽ góp. Chủ nợ mắng nhiếc một hồi rồi sợ làm gắt Chí Ðại trốn thì mất bạc nên
giả lòng nhơn mà cho đình song buộc phải bỏ ba ngày đã góp rồi đó đi, chừng nào
khởi góp lại thì phải góp mười lăm ngày khác.
Thằng nhỏ nhờ có uống sữa bò thì bớt khóc, nhưng mà uống sữa
rồi nó sanh bịnh hạ hơi. Bạch Tuyết biết con không ưa sữa bò song bị đau nên không
có sữa, bây giờ biết lấy chi mà cho con bú.
Mấy đồng bạc đi vay đem về đó, lẩn quẩn ít ngày thì đã tiêu hết
rồi, mà Chí Ðại cũng chưa đi kéo xe được, Chí Ðại muốn vay thêm bạc nữa, ngặt
mình hỏi trước mà chưa góp được, bây giờ ai dám giùm thêm nữa.
Thằng nhỏ không có sữa bú một ngày một đêm la khóc tắt tiếng.
Vợ lon ton Thiệt thấy vậy động lòng, mới mua cho một hộp sữa bò. Vì thằng nhỏ
khát sữa lâu rồi nên chừng có sữa nó đòi uống hoài. Uống mới hết một phần hộp sữa
thằng nhỏ sanh bịnh kiết rồi ít ngày nó vong mạng.
Vợ chồng Chí Ðại ôm con than khóc nghe rất thảm thiết. Chiều
lại Chí Ðại gói con rồi vác đi chôn. Một mình lui cui cuốc đất rủi cuốc nhằm
ngón chơn cái, máu chảy linh láng. Anh ta rán đào lỗ chôn con rồi thủng thẳng
cà nhắc đi về lấy giẻ rách nhúng dầu hôi mà nịt ngón cẳng cái lại.
Qua bữa sau, Chí Ðại khuyên vợ ở nhà, để mình đi kéo xe mà kiếm
tiền. Nào dè cầm xe chạy được một mối, ngón cẳng cái đứt hôm qua đó chảy máu ra
nữa, nên nhức nhối chạy không được, phải trả xe mà về. Chí Ðại nằm gác tay lên
trán mà than với vợ rằng:
- Em ôi! Có lẽ tại qua bất nghĩa nên Trời Ðất mới phạt qua khốn
khổ như vầy. Qua nghĩ tội qua đáng lắm, nên qua chẳng dám phiền hà. Qua buồn là
buồn cho phận em, vì qua mà phải chịu cực khổ đến nước nầy, nên qua thấy em qua
đau lòng xót dạ hết sức. Qua đã suy xét kỹ rồi, nên qua tính nhự vầy: em để qua
đưa em về dưới ông ngoại, em ở cho an thân. Còn phần qua thì rán làm ăn chừng
nào khá rồi vợ chồng sẽ tái hiệp với nhau, chớ qua nghèo khổ mà em theo qua
hoài, thì tội nghiệp thân em lắm, qua chịu không được.
Bạch Tuyết ngước mặt ngó chồng coi bộ không vui, song hỏi dịu
dàng rằng:
- Anh biểu em về ở với ông ngoại, rồi anh đi đâu?
- Qua tính xuống dưới mấy chiếc tàu buôn xin ở làm công, đặng
đi cùng các nước coi chỗ nào dễ làm ăn thì ở mà làm, chớ xứ mình qua coi khó
làm giàu được.
- Làm giàu mà vợ chồng phải lìa nhau thì làm giàu, mà chi?
- Chớ ở chung với nhau, mà em cực khổ quá như vậy, qua vui
sao được?
- Anh thấy em cực khổ anh thương nên anh muốn tính làm cho
thân em sung sướng phải hay không?
Chí Ðại day mặt vào vách không dám trả lời. Bạch Tuyết tay vuốt
tóc chồng, miệng nói tiếp rằng:
- Thân em được như vầy thì em chẳng trông mong chi nữa. Phận
em là gái, hễ có chồng thì phải theo chồng, may giàu sang thì chung hưởng, rủi
nghèo hèn thì đồng cực với nhau. Anh tưởng thân anh ăn bữa đói bữa no, còn phận
em mâm cao cổ đầy như vậy em chịu được hay sao? Anh muốn trọn đạo làm chồng,
nên tính cho thân em sung sướng; em đây em cũng muốn trọn đạo làm vợ, há em
đành để cho anh cực khổ một mình sao? Em xin anh từ rày về sau cứ coi em là con
nhà nghèo hèn kết bạn với anh đặng lo làm ăn vậy thôi chớ đừng có coi em là con
nhà giàu sang nào hết.
- Em vì thương qua nên không nỡ lìa nhau, nếu em không nỡ lìa
nhau thì em phải chịu cực mãn đời còn gì! Em phải xét lại, trời sanh em đã định
cho em vào chỗ giàu sang sung sướng rồi, tại anh làm quấy, nên thân em mới sa
vào vòng khổ não. Vậy em hãy nghe lời qua, nếu em cãi thì qua buồn lắm.
- Trời mưa cũng có khi nắng, người nghèo cũng có lúc giàu. Ở
đời giàu nghèo ai dám đoán trước được. Xin anh đừng có thấy ngày nay cực khổ
như vầy mà ngã lòng.
- Không, phận qua làm trai, Trời muốn khiến thế nào thì qua
cũng chiều theo thế ấy, qua có buồn chí nản lòng bao giờ đâu. Qua lo là lo cho
thận em mà thôi chớ.
- Xin anh đừng lo cho thân em, mà đừng có tưởng tại anh nên
em mới cực khổ. Ngày nay vợ chồng mình cực khổ đây, chắc là tại Trời Phật định
như vậy, chớ không phải tại ai hết. Mà nếu muốn chỉ lỗi ra, thì lỗi tại em, chớ
có phải tại anh đâu. Thôi, xin anh hãy an lòng; bữa nay bịnh em mười phần đã giảm
được năm rồi, còn ngón cẳng của anh có lẽ ít bữa đây nó sẽ lành. Vậy để em mạnh
rồi, em sẽ lãnh đồ may mướn, vợ chồng xúm nhau làm mà nuôi nhau, miễn là vui với
nhau thì thôi, giàu nghèo cần gì.
Qua bữa sau hết gạo nấu. Chí Ðại không vay hỏi bạc tiền nữa
được túng thế phải lại tiệm gạo Chệt Xỏn ở gần đó năn nỉ mua chịu. Chệt Xỏn bán
chịu cho một đồng bạc, song giao năm bữa phải lại giã gạo cho nó mà trừ. Chí Ðại
mừng rỡ, lật đật bưng gạo đem về.
Chừng nấu cơm chín rồi, ngó lại chai nước mắm đã cạn khô, Chí
Ðại trong lưng không còn một đồng xu, biết lấy chi mà mua đồ ăn nên hỏi vợ lon
ton Thiệt xin ít hột muối bỏ vào ơ mà rang, rồi đâm nhỏ ra vợ chồng ăn với
nhau.
Cách ít ngày Chí Ðại đã lành ngón cẳng cái, nên đi kéo xe mà
kiếm tiền.
-----------------------------------------------
[1] còn gọi là ngù ngà. Ngù là nắp tròn chụp lên trên cái
chót. Gù ngà là cái ngù tròn bằng ngà voi có chơn răng để vặn ở guốc đàn bà.
Khi mang người ta dùng ngón chơn cái và ngón giữa kẹp cái chơn ngù.
[2] hấp tấp
[3] (planton) tùy phái
[4] thúc kèn
[5] loại xe do một hoặc hai con ngựa kéo. Thùng xe thường có
bốn chỗ ngồi đối diện nhau. Bên hông xe có gắn kiếng (kính) để che mưa gió, vì
vậy gọi là xe kiếng.
[6] (coolies, coul): phu khuân vác
CHƯƠNG 4 -
Ô
ng Bạch Khiếu Nhàn đi Huế ở chơi gần bốn tháng. Khi về tới
nhà ông liền hỏi gia dịch vậy chớ lúc ông vắng mặt ở nhà có việc chi lạ hay
không. Chú Phú đương ôm hành lý của ông đem vô buồng, nghe ông hỏi như vậy thì
đáp rằng:
- Ông đi được hơn một tháng cô hai ở nhà trốn đi đâu mất.
- Cô hai nào?
- Bẩm ông, cô hai là cô quan Phủ ở bển.
- Úy! Cha chả! Nó trốn đi đâu?
- Dạ con không biết. Quan Phủ có sai người đi kiếm trên Bạc
Liêu, mà kiếm không được.
- Nó đi với ai?
- Bẩm cổ đi một mình.
Khiếu Nhàn ngồi sảng sốt, mồ hôi nhỏ giọt, tay cầm cây quạt
mà quạt, râu bay phất phơ. Chú Phú nói tiếp rằng:
- Bẩm ông, thầy ký Ðại cũng thôi làm việc với quan Phủ rồi.
Thầy về có viết phong thư để lại cho ông đây.
- Thầy thôi làm việc đi về hồi nào?
- Dạ, thầy thôi mà về, rồi cách ít bữa cô hai đi.
- Thơ đâu đưa coi.
Chú Phú lật đật lại bàn thờ lấy phong thơ của Chí Ðại mà đưa
cho Khiếu Nhàn. Ông thấy phong thơ đã xé niêm rồi liềm hỏi rằng:
- Ai xé niêm đây?
- Bẩm. Cô hai qua cô xé cô xem rồi biểu tôi cất lại ông về
trao lại cho ông.
- Nó có nói việc chi hay không?
- Dạ, không.
- Mầy nói con Bạch Tuyết trốn đi, mà nó xé thơ coi hồi nào?
- Bẩm cô coi thơ rồi khuya lại cô mới đi.
Khiếu Nhàn dỡ thơ ra đọc đi đọc lại hai ba lần, rồi ngồi suy
nghĩ. Ông đã nghi cho Chí Ðại với Bạch Tuyết có tư tình với nhau nên dắt nhau
mà trốn, chừng ông đọc thơ thấy có câu "Sợ là phận cháu khờ dại e sơ sẩy
làm việc không xứng ý bác" thì ông càng nghi hơn. Ông lại bàn viết thấy có
một miếng giấy đút dưới cuốn sách. Ông rút ra coi thì có ba chữ ''Ông ngoại
ôi'', tuồng chữ quả là chữ của Bạch Tuyết viết, song không thấy chữ chi nữa,
ông lấy làm lạ, mới xếp bỏ chung vô bao thơ của Chí Ðại rồi mở tủ cất hết. Khiếu
Nhàn thay áo rồi đi riết qua Phủ hỏi thăm chuyện Bạch Tuyết.
Quan Phủ nói có lệnh quan trên đuổi Chí Ðại đi được vài ngày,
rồi Bạch Tuyết tom góp quần áo vàng bạc mà đi, ông có sai người lên Bạc Liêu
tìm kiếm mà không gặp. Bạch Tuyết đi được ba bữa rồi có gởi một hộp vàng và kiềng
về trả, coi con dấu nhà dây thép thì gởi tại Bạc Liêu.
Quan Phủ thuật tới đó rồi ngồi thở dài mà nói rằng:
- Thứ đồ hư quá; theo trai làm xấu ông bà cha mẹ, tôi giận
không thèm sai đi kiếm nữa. Nó chết đi nữa, tôi cũng không tiếc một chút.
Khiếu Nhàn ngồi buồn nghiến, chừng quan Phủ nói rồi, ông mới
hỏi rằng:
- Sao không sai người lên làng Chí Ðại ở đó mà hỏi thăm thử
nó có theo lên đó hay không?
- Tôi biết Chí Ðại ở xứ nào đâu mà sai đi.
Khiếu Nhàn từ giã quan Phủ mà về.
Tối lại ông già Sen xin phép quan Phủ qua thăm Khiếu Nhàn,
ông mới thuật lại mọi việc tại nhà lại cho ông Khiếu Nhàn nghe. Khiếu Nhàn giận
vợ chồng quan Phủ và nghĩ thương cháu ngoại hết sức.
Sáng buổi hôm sau ông bỏ ít trăm bạc vào lưng, quyết đi tìm Bạch
Tuyết với Chí Ðại.
Ông đọc thơ Chí Ðại lại, nói về quê quán mà thăm mồ mả rồi sẽ
kiếm chỗ làm ăn, chừng nào ở yên nơi chắc chỗ rồi sẽ viết thơ cho ông hay.
Từ ấy đến nay không có cái thơ nào nữa, có lẽ Chí Ðại còn ở
Vũng Liêm.
Ông tuốt qua Vũng Liêm hỏi dọ lần lần, họ chỉ đến nhà ông phó
xã Mang. Ông hỏi thăm có Chí Ðại về đó hay không? Phó xã Mang đi khỏi, vợ ở nhà
tuy nhớ lời Chí Ðại dặn, song thấy ông Khiếu Nhàn diện mạo nhơn từ, y phục tử tế
đem lòng tin ông, nên tỏ thiệt rằng cách đây ba tháng trước Chí Ðại có về ở
chơi vài bữa lại có dắt vợ theo.
Khiếu Nhàn hỏi thăm hình dạng vợ Chí Ðại thì biết quả là cháu
mình nên trong bụng mừng thầm, song ngồi lo không biết bây giờ chúng nó dắt
nhau đi đâu mà kiếm. Ông cho con phó xã Mang vài đồng bạc rồi hỏi thăm coi có
biết Chí Ðại bây giờ ở đâu không?
Vợ phó xã Mang thấy ông tử tế, bụng muốn chỉ dùm ngặt không
biết ở đâu mà chỉ. Khiếu Nhàn đi thẳng lên Sài Gòn ở gần một tháng đi cùng khắp
các nẻo đường mà không gặp.
Ông trở xuống Mỹ Tho ở chơi năm sáu bữa nữa, mà cũng không gặp
được.
Tiền bạc đem theo ăn xài đã gần hết, túng thế ông phải trở về
Cà Mau, tính nghỉ ít ngày rồi đi kiếm nữa. Nào ngờ ông về nhà rồi mang bịnh
rét, uống thuốc hoài mà bịnh dây dưa không dứt, nên ông không đi được nữa.
Qua năm sau Khiếu Nhàn biết trong mình thiệt mạnh nên mới sắm
sửa hành lý mà đi tìm. Chuyến nầy ông ghé hết mỗi tĩnh, chỗ thì ở mười bữa, chỗ
thì ở nữa tháng, mà đến chỗ nào ông hỏi thăm cũng chưa ra mối, nên lần lần ông
lên tới Sài Gòn. Ông nghĩ lần trước mình cứ đi mấy đường lớn hoài nên không gặp;
vậy chuyến nầy sớm mai mình ra chợ, buổi chiều mình đi mấy đường chẹt, nẻo tắt
hoặc hay có gặp hay chăng.
Bữa nọ, lối 4 giờ chiều, Khiếu Nhàn lần bước lên Cầu Kiệu,
dòm phía đầu cầu bên kia thấy có một dãy phố lá.
Ông qua cầu rồi thủng thẳng đi dài trước dãy phố ấy, mỗi căn
ông mỗi dòm vô, đi tới căn thứ tư ông thấy có một người đàn bà đương ngồi tựa cửa
mà may, song day lưng ra ngoài nên không thấy mặt. Ông coi người ấy y phục bần
tiện mà bộ ngồi giống Bạch Tuyết nên ông đứng lại chờ day mặt qua đặng ông coi
có phải hay không.
Cách một hồi người đàn bà ấy đứng dậy ngó ra đường thấy Khiếu
Nhàn vùng la lớn:
''Ủa, ông ngoại!". Khiếu Nhàn cũng la lên: ''Cháu'' rồi
xốc xốc đi vô.
Người đàn bà ấy thiệt quả là Bạch Tuyết.
Mấy bữa rày Chí Ðại lành ngón chơn cái rồi, nên đi kéo xe kiếm
tiền, trước mua gạo mà ăn, sau góp cho người ta. Bạch Tuyết bịnh đã giảm nhiều,
nên lãnh một cái quần rán mà ngồi may mướn.
Khiếu Nhàn bước vô tới cửa, Bạch Tuyết ngồi bẹp xuống đất và
khóc và lạy và nói rằng: ''Xin ngoại tha lỗi cho cháu". Khiếu Nhàn đứng
ngó cháu mà khóc không nói tiếng chi được hết. Vợ lon ton Thiệt đang nấu cơm
đàng sau nghe lộn xộn chạy ra hỏi thăm; chừng nghe nói ông cháu gặp nhau mới trải
chiếu trên ván rồi mời Khiếu Nhàn ngồi.
Khiếu Nhàn nhìn Bạch Tuyết, thấy cháu mặc cái quần lãnh cũ có
vá một miếng lớn tại đầu gối, cái áo vân đen càng cũ hơn nữa, tay mặt rách nên
xé cụt tới cánh chỏ, còn vạt trước vạt sau mấy cái bông lủng hết nên có lỗ như
đít rổ. Ông lại nhìn trong nhà không thấy có vật chi đáng, ông định chắc vợ chồng
cháu nghèo lắm, nên ông càng đứt ruột nát gan. Ông chờ vợ lon ton Thiệt ra sau
rồi ông mới hỏi rằng:
- Cô ở nhà trong đó là ai vậy?
- Thưa, chị đó là chủ nhà cháu ở đậu.
- Té ra cháu ở đây là ở đậu, chớ không phải nhà cháu sao?
- Dạ.
- Còn Chí Ðại đi đâu?
Bạch Tuyết nghe hỏi tới chồng thì đau đớn mà hổ thẹn nên day
mặt vào vách ú ớ một hồi rồi thưa nho nhỏ rằng:
- Ði làm tối mới..về.....
Khiếu Nhàn hiểu ý cháu, nên nói rằng:
- Cháu đừng ngại chi hết. Ông về đến nhà ông Sen có thuật rõ
chuyện của cháu cho ông nghe rồi. Ông không giận cháu đâu mà sợ. Bởi vì ông
thương Chí Ðại lắm, năm trước ông cũng có ý muốn gả cháu cho thầy, song ông sợ
quan Phủ ngăn trở nên ông tính đi Huế về ông sẽ định liệu. Chẳng dè ở nhà vợ chồng
quan Phủ mưu sự muốn làm bức cháu nên mới ra nông nỗi nầy. Việc dĩ lỡ rồi, mà
cũng giống ý ông muốn, nên ông không buồn chi hết. Ông có trách vợ chồng cháu
là trách sao từ khi ông về đến nay vợ chồng cháu không về ở với ông mà cũng
không gởi thơ cho ông biết chỗ ở, để ông già cả mà phải lặn lội đi tìm khắp xứ,
thiệt khổ cho thân ông quá.
Bạch Tuyết khóc mà đáp rằng:
- Thưa ông, cháu thương nhớ ông, nhiều đêm cháu ngủ không được.
Cháu cũng muốn về thăm ông, ngặt vì chồng cháu hổ thẹn không dám thấy mặt ông,
cháu đã khuyên chồng cháu nhiều lần, bởi việc nầy là bởi cháu cậy thầy cứu cháu
chớ thầy chẳng có ý bất nghĩa, nhưng mà thầy cố chấp lễ nghĩa quá, cháu khuyên
không được. Nhiều khi vợ chồng nghèo cực quá, thầy muốn đưa cháu về ở với ông
cho sung sướng tấm thân đặng thầy rảnh rang mà đi kiếm phương làm ăn. Cháu thấy
chồng nghèo không nỡ phân ly, nên cháu không chịu, tại như vậy mà gần hai năm
nay vợ chồng cháu không về, mà cũng không gởi thơ cho ông, vậy xin ông nghĩ
tình mà tha lỗi cho vợ chồng cháu.
Khiếu Nhàn biết Chí Ðại vì liêm sỉ, còn Bạch Tuyết thì vì
thương chồng, nên mới bị ông trách, bởi vậy ông cười mà nói rằng:
- Cháu nói bao nhiêu đó ông đủ hiểu rồi. Thôi, nay gặp được
nhau thì vui vậy cháu đừng khóc nữa, chồng cháu đi làm mấy giờ mới về?
- Thưa, chừng bây giờ.
- Cháu lấy tiền đi mua đồ nấu cơm tối rồi ông trở lại ông ăn.
Thẳng nó có về sớm, cháu biểu nó ở nhà mà chờ ông, chừng sáu giờ rưỡi ông trở
lên.
Khiếu Nhàn đưa cho Bạch Tuyết mười đồng bạc, rồi kêu xe kéo
mà đi. Chừng lối sáu giờ rưỡi, thiệt quả ông trở lại, có chở một gói áo quần
lùm sùm. Ổng để gói lên ván rồi mở ra lấy đưa cho Bạch Tuyết một cây lãnh đen với
hai xấp xuyến đen mà nói rằng:
- Cháu lấy hàng đây mà may áo quần vợ chồng bận cho lành lẽ;
nghèo khổ rách rưới tội nghiệp quá!
Bạch Tuyết ôm hàng để bên cái chõng mình nằm, lấy mền đắp lại
rồi đi ra nhà sau nấu cơm.
Khiếu Nhàn nằm trên ván mà nghỉ, chừng nửa giờ đồng hồ, bỗng
nghe ngoài đường có tiếng chệc như vầy: "'T...m...nị là đồ ăn cướp người
ta. Lấy gạo của người ta tem (đem) về ăn hôm nay sao không chịu giã gạo cho người
ta, tiểu na má, nị là ăn cướp mà. Mai nị phải lại, hông lại ngộ kéo tầu (đầu)
a, nói cho mà piết (biết)".
Lại có nghe tiếng trả lời nho nhỏ, rồi lại có tiếng đàn bà la
lớn rằng: "Cậu, cậu đã lành mạnh, đi kéo xe hai bữa rày, sao cậu chưa đem
tiền mà góp cho tôi, cậu chờ tôi lôi lưng cậu phải hôn! Bữa nay đi xe được bao
nhiêu đâu, góp liền bây giờ đi, không được hẹn mai hẹn mốt gì nữa hết."
Khiếu Nhàn bước ra, ngó thấy Chí Ðại mặc quần bố xám, quần cụt
tới đầu gối, đứng trân trân, một người chệc đang xĩ xô trong mặt, còn một người
đàn bà đang lật lưng lấy tiền, ông lấy làm khó chịu hết sức, liền hỏi thiếu nợ
bao nhiêu ông trả cho.
Chí Ðại ngó thấy ông, mặt mày tái mét, đứng trân trân, hai
hàng nước mắt nhỏ giọt, không nói tiếng chi được hết.
Khiếu Nhàn hỏi thiếu tiền gạo bao nhiêu, người chệc nói một đồng,
ông lấy bạc trả liền. Ông hỏi người đàn bà coi thiếu bao nhiêu tiền, người ấy
nói thiếu mười lăm ngày tiền, mỗi ngày năm cắc. Ông đưa bảy đồng rưỡi bạc cho
người đàn bà ấy rồi nắm tay Chí Ðại dắt vô nhà. Chí Ðại mặt mày sượng sùng, nên
cứ đi theo như con nít, không nói một lời nào hết.
Vô tới nhà rồi, Khiếu Nhàn nói rằng:
- Ông không dè vợ chồng cháu nghèo đến nước nầy!
Chừng ấy Chí Ðại mới tỉnh lại, liền lạy ông và khóc và nói rằng:
- Cháu lỗi với ông nhiều quá, xin ông thứ tha.
Khiếu Nhàn đỡ dậy mà nói rằng:
- Cháu đùm Bạch Tuyết, nó mới khỏi sa tay vào kẻ thù, vậy ông
mang ơn cháu, chớ cháu có lỗi chi đâu.
- Thưa ông, dầu ông thương cháu, ông tha lỗi cho cháu đi nữa,
cháu cũng hổ thầm hoài, bởi vì cháu thọ ơn ông, cháu chưa trả được mà cháu lại
làm phạm đến danh giá nhà ông nữa thì cháu còn mặt mũi nào dám ngó thấy ông.
Ông nói cháu cứu vợ cháu, thưa ông, cháu nghe lời ấy cháu càng thẹn thùng thêm
nữa. Chớ chi cháu là đấng trượng phu quân tử thì gặp lúc vợ cháu hoạn nạn như vậy
cháu phải tận tâm bảo hộ nó hoặc phải liệu thế nào mà chống cự với kẻ nghịch,
hoặc phải kiếm chỗ tử tế gởi nó ở rồi nuôi dưỡng nó, chờ ông về mà giao lại cho
ông. Cháu lại không biết bền chí kiên tâm coi nghĩa nhẹ hơn tình, làm cho vợ
cháu khi mới ra đi thì chịu tiếng oan mà thành tiếng hư thiệt, dường ấy thì
cháu là đứa thất phu bất nghĩa, thế nào mà không hổ thẹn được.
- Dầu cháu không nói cho hết lời, ông cũng đã hiểu rồi. Việc
nầy tại Trời khiến như vậy chớ không phải tại ai hết mà nếu muốn bắt lỗi ra thì
một đứa một chút, chớ không phải lỗi một mình cháu.
Bạch Tuyết ở sau lắng nghe đủ mọi lời, chừng nghe tới đó liền
bước ra mà nói rằng:
- Thưa ông, lỗi nầy tại cháu, chớ không phải tại ai hết, bởi
vì lúc cháu trốn ra đi cháu đã mang tiếng lấy Chí Ðại rồi, bởi vậy cháu thầm
nguyện kết tóc trăm năm với ảnh mà thôi, chớ không lẽ thác thân với người nào
khác nữa được. Ðã vậy mà cháu lại hiểu ông muốn gả cháu cho ảnh nữa, nên lên tới
Bạc Liêu, cháu tỏ thiệt không ái ngại chi hết.
Khiếu Nhàn cười và nói rằng:
- Thôi, bỏ chuyện cũ đi, chẳng cần phải giành lỗi với nhau
làm gì ông đói bụng rồi. Vậy nếu cháu nấu cơm rồi thì dọn ra đây mà cho ông ăn
với.
Bạch Tuyết đi dọn cơm, còn Chí Ðại đi thay đổi áo quần. Anh
lon ton Thiệt về nghe Khiếu Nhàn là ông ngoại của Bạch Tuyết thì anh ta niềm nỡ
vô cùng. Ðêm ấy Bạch Tuyết thuật hết mọi việc lao khổ của Chí Ðại cho Khiếu
Nhàn nghe rồi nói rằng:
- Thưa ông, vợ chồng cháu phối hiệp đã gần hai năm rồi mà
chưa có hôn thơ hôn thú được. Nay sẵn có ông đây cháu xin ông bằng lòng cho vợ
chồng cháu ra Xã Tây mà làm hôn thú cho rồi.
Khiếu Nhàn cười mà đáp rằng:
- Bây giờ đã thành hôn rồi còn xin phép tắc gì nữa. Mà thôi,
để mai rồi ông sẽ tính việc đó cho.
Sáng mai Khiếu Nhàn bảo Chí Ðại ở nhà nói chuyện chơi cho vui
và lén đưa cho Bạch Tuyết năm mươi đồng bạc đặng đi chợ mua ăn hoặc muốn sắm vật
chi tự ý.
Ông nghe nói ở dãy phố đó có ông Nhiêu Tâm, thuở nay hốt thuốc
cho Bạch Tuyết uống, ông mới lại làm quen chơi, rồi cậy đứng chủ hôn giùm cho
Chí Ðại, còn ông thì đứng chủ hôn cho Bạch Tuyết, đặng có làm hôn thú cho cháu.
Ông Nhiêu Tâm vẫn đã có lòng thương Chí Ðại, nên nghe cậy thì
ông chịu liền. Ðợi ít ngày may áo quần cho vợ chồng Chí Ðại xong rồi, mới dắt
nhau xuống trước mặt Xã Tây xin làm hôn thú đủ phép.
Làm hôn thú xong rồi, ông cháu trở về nhà. Khiếu Nhàn với Bạch
Tuyết vừa lòng phỉ nguyện nên vui vẻ vô cùng.
Chí Ðại tuy cũng vui, song nếu dòm mặt cho kỹ thì thấy anh ta
có sắc lo.
Tối lại Khiếu Nhàn nói với Chí Ðại rằng:
- Sự nghiệp cũa ông tính hết cũng được mấy muôn đồng, mà cháu
của ông bây giờ duy còn có một mình con Bạch Tuyết mà thôi. Ông biết cháu là
người chí cao bụng tốt, bởi vậy từ ngày gặp cháu đến nay, ông yêu mến cháu cũng
như cháu ruột của ông vậy. Nay ông gả Bạch Tuyết cho cháu được rồi, thì ông toại
chí vui lòng, chẳng còn lo buồn chi nữa. Vậy ông tính đem hai cháu về ở với
ông, trước hai cháu đỡ cực thân, sau ông có người hủ hỉ. Sự nghiệp của ông đó
là sự nghiệp của hai cháu, vậy cháu phải về mà cai quản chớ ông già yếu rồi ông
không coi sóc nữa được. Thôi hai cháu sửa soạn đồ đạc đặng bữa nào đi với ông.
Chí Ðại ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi thưa rằng:
- Thưa ông, cháu là đứa nghèo hèn côi cút, ông đem lòng
thương cháu, đã không chê cháu bất lương, bất nghĩa, mà lại còn tính làm cho
cháu ấm áo no cơm, lẽ thì cháu phải vưng lời mau mau dắt vợ cháu về ở với ông,
đặng lo giấc ngủ, bữa ăn mà đền bồi ơn trọng mới phải. Ngặt vì vợ cháu, nó vì đại
nghĩa nên mới quyết trao thân gởi phận cho cháu, mà đại nghĩa ấy cháu chưa làm
giùm cho vợ cháu được, trong lòng cháu vẫn ái ngại hoài, nên không vui mà tính
chuyện chi khác được.
- Việc đại nghĩa cháu nói đó là việc gì? Cháu nói rõ cho ông
nghe thử coi.
- Thưa ông, ngày vợ cháu lên gặp cháu tại Bạc Liêu đó, nó có
thuật rõ sự bà Phủ tráo thuốc mà giết nhạc mẫu cháu đặng giựt chồng, rồi cậy
cháu ra giúp sức nó mà trả thù báo oán. Cháu biết sức cháu là châu chấu không
thể chống với xe nổi mà cháu không biết dằn lòng để nhượng cái trách nhiệm ấy
cho người có thế lực họ gánh cho. Cháu kết duyên với vợ cháu, tức là phải lo
báo thù giùm cho vợ cháu, mà hơn một năm nay cháu không lo chi hết, nên cháu hổ
thẹn vô cùng.
Khiếu Nhàn nghe nói nửa chừng, liền day qua ngó thấy Bạch Tuyết
đang ngồi khóc, ông mới hỏi rằng:
- Chuyện tráo thuốc ai cho cháu biết mà cháu quyết chí báo
thù.
- Thưa ông Sen.
Khiếu Nhàn lắc đầu rồi ngó ra ngoài đường, rưng rưng nước mắt.
Cách một hồi ông mới nói với Bạch Tuyết rằng:
- Việc ấy xảy ra đã hơn 15 năm rồi, cháu còn nhắc lại làm
chi! Bây giờ cháu tính báo thù, mà chừng báo thù được rồi mẹ cháu nó sống lại
được hay sao?
Bạch Tuyết và khóc và nói rằng:
- Vậy chớ kẻ sát nhơn ông đành để cho an hưởng phú quí hoài
sao? Cháu đã nguyện nếu cháu không trả thù cho mẹ cháu được, thì cháu không chịu
thấy mặt người ấy.
- Chi vậy cháu! Ở đời làm lành thì gặp lành, làm dữ thì gặp dữ.
Ðứa dữ thì để cho Trời hại nó, mình nuôi hờn kết oán làm chi.
- Ông biểu để Trời soi xét, họ làm như vậy mà 15 năm nay có
thấy Trời hại họ đâu.
- Ðừng nói quấy không nên. Ông biểu cháu phải nghe lời. Hồi
trước ông vừa nghe việc tráo thuốc thì ông cũng giận như cháu, ông muốn đi kiện
cho quan trị tội đứa sát nhơn, song ông nghĩ dầu quan có phân thây xẻ thịt nó đi
nữa, mẹ cháu cũng đã mất rồi, không thể nào sống lại được, nên ông mới bỏ qua.
Thôi cháu nghe lời ông đừng thèm nhớ tới đi việc ấy nữa.
- Không nhớ sao được!
- Vậy chớ cháu thương má cháu mà hơn ông thương con hay sao?
Ông biểu cháu, cháu phải nghe lời, đừng có trái ý ông.
Bạch Tuyết không dám trả lời, song ấm ức trong lòng nên ngồi
khóc rấm rứt. Khiếu Nhàn muốn kiếm chuyện nói lãng nên day qua hỏi Chí Ðại rằng:
- Sao? Cháu tính bữa nào đi về Cà Mau với ông?
- Thưa ông, cháu tính khó đi lắm.
- Sao vậy?
- Bởi vì vợ chồng cháu thành hôn với nhau trái ý quan Phủ lắm,
nếu nay mà vợ chồng cháu dắt nhau trở về Cà Mau thì coi như tuồng muốn chọc giận
quan Phủ vậy. Ðã vậy mà phận cháu nghèo hèn, tuy ông thương cháu nên đem cháu về,
mà cháu cũng vì muốn phục vụ ông nên mới về chớ chẳng có ý chi khác, song người
ngoài không rõ đặng bụng cháu, họ dòm vô, chi cho khỏi họ nói ngày trước cháu
thấy vợ cháu giàu sang, nên cháu rù quến đặng ăn của. Cháu không trả thù giùm
cho vợ cháu được thì cháu hổ thẹn với vợ cháu rồi, nếu cháu còn phải hổ thẹn với
thiên hạ nữa, thì cháu sống sao được. Thưa ông, như ông có lòng thương vợ chồng
cháu, muốn cho cháu toàn danh tiết, và vợ cháu khỏi cực khổ tấm thân, thì xin
ông làm ơn cho cháu gởi vợ cháu nương náu ít năm, chừng nào cháu làm nên thì vợ
chồng cháu sẽ sum hiệp.
Bạch Tuyết châu mày mà thưa với ông rằng:
- Thưa ông, cháu cũng biết phận gái mà bỏ nhà ra đi thì nhục
nhã cho tông môn lắm, nhưng tại dì cháu xúi cha cháu quá, nên bất đắt dĩ cháu
phải liều thân. Hơn một năm nay, hễ cháu nhớ đến ông ở nhà một mình vào ra hiu
quạnh thì cháu đau lòng xót dạ chịu không đặng. Nay cháu thiệt muốn về mà hủ hỉ
với ông nhưng mà có về thì về cho đủ vợ đủ chồng, chớ đạo vợ chồng phú tắc cộng
lạc, bần tắc cộng ưu[1], lẽ nào cháu về vui hưởng thanh nhàn, còn để chồng cháu
dày bừa gió bụi cho đành.
Khiếu Nhàn lắc đầu nói rằng:
- Hai đứa bây, đứa nào nói nghe cũng phải hết. Có về thì về đủ
vợ chồng, chớ kẻ bắc người nam sao được... Chớ chi gia tài ông một gánh một
bưng, thì ông cũng túm mà đi ở với vợ chồng bây cho xong. Thôi, nếu vợ chồng
cháu không chịu về thì để ông tính như vầy: "Gia tài của ông đó chính là
gia tài của vợ chồng cháu. Vậy bây giờ cháu muốn năm bảy ngàn, hoặc bao nhiêu
làm vốn buôn bán mà làm ăn thì cháu cứ nói đi, ông về ông lấy đem lên liền cho.
Còn như ý cháu muốn làm thông ngôn ký lục thì cũng nói cho ông biết, dầu tốn
hao bao nhiêu ông cũng rán lo cho cháu.
Chí Ðại đáp rằng:
- Thưa ông, cháu mang ơn ông rất nhiều, mấy năm nay cháu làm
buồn cho ông thì có trả ơn cho ông thì chưa. Ông thương cháu, ông nói chuyện
nãy giờ đó, cháu cầm cũng bằng bạc muôn rồi. Vả lại phận cháu làm trai đủ tay đủ
chơn như người. Nếu Trời Ðất định số cháu phải cực khổ trọn đời, mà ông cứu vớt
cháu thì sợ nghịch ý trời đất. Vậy xin ông an dưỡng quí thể, đừng lo cho phận
cháu mà nhọc lòng ông.
- Khiếu Nhàn cười mà đáp rằng:
- Cháu luận nghe còn sơ siển lắm. Chẳng phải ông không đủ
lòng mà cãi với cháu, song ông biết cháu là đứa chí cao, tánh cứng nên không
cãi làm chi. Ðã vậy mà sách có câu: ''Quân tử ái nhơn dĩ đức, tiểu nhơn ái nhơn
dĩ cô truất'[2]': bởi ông không muốn ép cháu về Cà Mau, mà cũng không muốn ép
cháu thọ tiền bạc nữa.
Chí Ðại ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp rằng:
- Thưa ông, nếu được như vậy thì cháu chịu.
Khiếu Nhàn mừng rỡ liền nói rằng:
- Thôi, để thủng thẳng ông sẽ tính cho. Ông tính mai ông về
thẳng nhà, vậy ông để lại cho vợ chồng cháu vài trăm đồng bạc mà xài, đợi ông
trở lên rồi sẽ hay.
Chí Ðại nghe nói tới tiền bạc thì mắc cỡ ngồi cúi mặt lặng
thinh. Khiếu Nhàn biết ý nên nói tiếp rằng:
- Ông thấy vợ chồng cháu nghèo khổ quá, ông chịu không được.
Ông bàn tính câu chuyện với cháu đây là lấy thiệt tình mà nói, chớ chẳng có ý
khinh cháu đâu mà cháu ái ngại. Ông cũng biết trên đời nầy kẻ giàu gả con cháu
cho người nghèo thì thường khi bạc chàng rể, nếu có thương thì bất quá cho tiền
bạc chút đỉnh, chớ chẳng hề tính lập nghiệp hoặc giúp cho nó lên danh bao giờ.
Còn người nghèo hễ cưới được vợ giàu thì trông cậy nhờ, có kẻ bụng xấu lại lại
mong cho ông cha bên vợ mau chết mà ăn của. Ông đây bụng chẳng phải như bụng những
kẻ giàu nọ, mà ông cũng biết bụng cháu chẳng phải như bụng mấy chú rể kia. Cháu
với ông gần gũi trót một năm, há chẳng thấu lòng nhau hay sao mà còn nghi ngại?
Chí Ðại nghe lời tri kỷ thì cảm động, nên cúi lạy Khiếu Nhàn
mà nói rằng:
- Ông biết bụng cháu thật cháu cám ơn vô cùng. Ơn nầy biết
ngày nào cháu đáp được và biết lấy chi mà đáp cho vừa. Như ông muốn để tiền bạc
lại, thì cháu xin lấy hai mươi bốn đồng đặng cậy ông Nhiêu Tâm làm một tễ thuốc
cho vợ cháu uống mà thôi. Lúc nầy cháu nghèo, mà ông Nhiêu Tâm nói bịnh vợ cháu
phải uống một tễ thuốc nữa mới thiệt mạnh. Vậy xin ông cho bao nhiêu đó, còn tiền
ăn xài để mặc cháu lo chạy, có nhiều xài nhiều, có ít xài ít chẳng hại chi. Khiếu
Nhàn lắc đầu, miệng chúm chím cười và lấy hai mươi bốn đồng bạc đưa cho Chí Ðại.
Sáng bữa sau, Khiếu Nhàn về Cà Mau. Vợ chồng Chí Ðại đưa ông
xuống ga xe lửa. Khi tới ga, Chí Ðại lo mua giấy, còn Khiếu Nhàn với Bạch Tuyết
lên xe ngồi trước.
Ông đưa cho Bạch Tuyết ba trăm đồng bạc, dặn để dành mà xây dựng,
đừng cho Chí Ðại hay. Bạch Tuyết sợ trái ý chồng nên dục dặt, ông ép riết mới
chịu lấy.
Khi xe lửa sửa soạn chạy, Khiếu Nhàn kêu vói Chí Ðại mà dặn
phải ở chỗ đó chờ ông, đặng chừng ông lên ông kiếm cho dễ.
Xe lửa chạy rồi, vợ chồng Chí Ðại thủng thẳng dắt nhau trở về.
Ði dọc đường, Chí Ðại tính nghỉ thêm một bữa đó nữa rồi sẽ đi
kéo xe. Bạch Tuyết tỏ dấu buồn bực, không muốn cho chồng làm nghề ấy nữa, Chí Ðại
sợ đói nên không nghe lời, túng thế Bạch Tuyết phải nói thiệt sự ông có để lại
ba trăm đồng bạc. Chí Ðại châu mày mà trách vợ sao không biết trọng danh giá
cho chồng. Bạch Tuyết năn nỉ nói rằng: ''Xin anh đừng phiền. Hồi nãy thiệt em
không muốn lấy bạc, vì em cũng biết làm như vậy thì hổ bụng anh. Ngặt em, thấy
thân anh cực khổ em thương quá, nên bất đắc dĩ em phải lấy mà xây xài đỡ. Ðã biết
ra ai làm ăn nghề nào cũng vậy, nhục vinh tại mình chớ không phải tại nghề,
nhưng mà làm ăn cũng nên lựa nghề nào cho khỏe thân một chút. Nếu anh giận em,
anh đi kéo xe nữa, em buồn rầu ăn ngủ không được, chắc bịnh sẽ phát lại, càng
khổ thêm cho anh nữa''.
Chí Ðại nghe nói như vậy mới xiêu lòng.
Rạng ngày sau, anh ta mặc áo dài đi xuống Sài Gòn, tính kiếm
việc xin làm.Vừa đi ngang qua sở Họa Ðồ bỗng nghe hai người lon ton nói chuyện
với nhau rằng trong sở ấy có một thầy xin thôi việc. Chí Ðại liền làm đơn vào
xin chỗ. Ông chủ sở Họa Ðồ thấy tuồng chữ hay, nên chấp đơn cho làm và định
lương mỗi tháng mười tám đồng. Chí Ðại mừng rỡ, mãn giờ đi riết về nói lại cho
vợ hay thì Bạch Tuyết cũng mừng. Tối lại anh ta lại nhà ông Nhiêu Tâm mà xin ổng
làm một tễ thuốc[3] cho vợ uống. Ông Nhiêu Tâm vừa nghe nói, liền lấy gói thuốc
đưa cho Chí Ðại và nói Khiếu Nhàn đã biểu ông làm thuốc hôm nay mà cũng đã trả
tiền trước rồi. Chí Ðại đứng chưng hửng.
Ông Nhiêu Tâm vẫn đã có nghe Khiếu Nhàn thuật tánh khí khái của
Chí Ðại rồi nên thấy anh ta lưỡng lự ông mới nói rằng: ''Tiền bạc là vật nhỏ mọn,
cháu chẳng nên hiềm nghi lắm mà nhọc lòng''. Chí Ðại tạ ơn rồi đem thuốc về.
Mấy người cho tiền ngày, tiền tháng hôm nay nghe nói vợ Chí Ðại
con nhà giàu, thì đã đem lòng kính phục, nay thấy Chí Ðại được làm thầy thông
thì lại càng thêm kiêng nể nữa. Còn ông Khiếu Nhàn đi về dọc đường suy tới tính
lui không biết dụng kế nào giúp đỡ Chí Ðại mà anh ta khỏi hiềm nghi hổ thẹn.
Về đến Cà Mau rồi, bữa sau ông qua dinh quan Phủ nói dối rằng
ông đi chơi trên Mỹ Tho gặp Bạch Tuyết ở chung với Chí Ðại, ông biểu về hai đứa
trẻ không nghe lời, nói như vậy đặng thử coi ý quan Phủ thương ghét lẽ nào.
Quan Phủ lặng thinh một hồi rồi nói rằng: 'Thứ con hư, nó chết đâu thì chết khuất
mắt, cha còn biểu nó về làm chi''. Khiếu Nhàn thấy vậy không nói chuyện Bạch
Tuyết nữa, lại xin cho đem ông già Sen về mà coi sóc việc nhà.
Lúc ấy ở Cà Mau có một người khách Hải Nam tên là Lâm Liễn
Thành, buôn bán lớn, có kho để trữ cá khô, than đước và gạo trắng, lại có sắm bốn
chiếc ghe biển, tục kêu là tàu Hải Nam, để chở mấy vật ấy qua Hạ Châu, hoặc
Hương Cảng hoặc Xiêm La mà bán.
Chiều bữa nọ ông Khiếu Nhàn ghé tiệm Lâm Liễn Thành nói chuyện
chơi. Trong lúc đàm luận chuyện buôn bán, Liễn Thành nói rằng buôn bán bây giờ
chẳng có chi lợi bằng qua Ấn Ðộ dương vớt ngọc điệp[4] đem về Quảng Ðông, Hương
Cảng mà bán, ngặt vì anh ta không có vốn đủ và không có người đi coi vớt ngọc
điệp nên làm không đặng. Khiếu Nhàn nghe nói liền hỏi phăng[5] coi làm việc ấy
phải xuất vốn chừng bao nhiêu, Liễn Thành nói phải xuất vốn hai muôn đồng mới đủ.
Khiếu Nhàn ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Nếu chú muốn làm việc đó thì tôi hùn một muôn, phần chú một
muôn được hay không?
- Ông chịu hùn thì được, ngặt vì ông gia thế lớn, không lẽ bỏ
nhà được, tôi thì mắc coi buôn bán ở đây. Ðặt người ở Quảng Ðông, Hương Cảng
coi bán thì dễ, còn người đi tàu đi vớt ngọc điệp biết giao cho ai bây giờ?
- Không hại chi. Người đi coi vớt ngọc điệp để tôi kiếm cho.
- Nếu có người thì tốt lắm.
Hai người bằng lòng cả hai, nên bữa sau hội lại mà lập tờ hiệp
đồng, trong tờ có định người đi coi vớt ngọc điệp ăn tiền công mỗi tháng sáu
mươi đồng, lại hễ buôn bán có lời thì còn được lãnh thêm tiền huê hồng, tính thập
phân chi nhứt.
Các việc tính xong rồi, Khiếu Nhàn biểu ông Sen coi nhà, còn
ông đi tuốt lên Sài Gòn cho Chí Ðại hay. Chí Ðại nghe nói hết sức mừng rỡ nên
chịu đi liền và xin gởi vợ ở nhà với ông đặng đi một mình cho dễ. Bạch Tuyết thấy
chồng với ông ngoại đều như vậy nên không dám cãi song mặt không vui.
Khiếu Nhàn thấy vậy mới nói rằng: ''Cháu đừng có buồn. Cháu về
ở nhà với ông cho chồng cháu đi làm ăn một đôi năm, nếu may làm giàu được nó trở
về vợ chồng sum hiệp an hưởng thanh nhàn vậy chẳng vui hay sao?''
Chí Ðại xin thôi làm sở Họa Ðồ. Vợ chồng từ giã hai vợ chồng
lon ton Thiệt và ông Nhiêu Tâm rồi theo ông ngoại về Cà Mau.
Khi tới rồi, tối lại Khiếu Nhàn dắt vợ chồng Chí Ðại qua dinh
mà nói cho chàng lạy quan Phủ, bà Phủ. Quan Phủ giận nằm trong phòng không chịu
ra, còn bà Phủ ngồi xỉa thuốc sống[6], trổi giọng thấp giọng cao mà nhiếc Bạch
Tuyết, mà cũng chịu cho lạy.
Bạch Tuyết vì sợ trái ý ông ngoại nên phải qua bên Phủ; chừng
qua tới đó, thấy tình cảnh như vậy, cô lấy làm bất bình, nên vợ chồng đem để
khay trầu rượu trên bàn thờ mẹ mà lạy rồi ra về không thèm cậy bà Phủ an ủi
giùm cho quan Phủ bớt giận.
Sáng bữa sau, Khiếu Nhàn dắt Chí Ðại xuống tiệm Lâm Liễn
Thành cho giáp mặt nhau và bàn tính việc đi vớt ngọc điệp.
Ðịnh chắc ngày khởi hành rồi, Khiếu Nhàn lén đem phần hùn một
muôn đồng mà giao cho Lâm Liễn Thành và căn dặn đừng nói công việc hùn hiệp cho
Chí Ðại biết.
--------------------------------------------
[1] giàu cùng chung vui, nghèo cùng chung lo
[2] Người quân tử thương người thì làm cho cái đức của người
càng lớn thêm, còn kẻ tiểu nhơn thương người thời làm cho người được sung sướng
rồi trụy lạc» lời của Quản Trọng. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên.
[3] thuốc huờn đông y.
[4] (perle) ngọc trai
[5] hỏi tới, đào sâu
[6] dùng thuốc sống, lúc ăn trầu
CHƯƠNG 5 -
C
hí Ðại đi rồi, Bạch Tuyết ở nhà xốn xang, ăn chẳng biết mùi,
ngủ không yên giấc, thương nỗi chồng chơn trời góc biển linh đinh, rồi lại giận
phận mình không rửa hờn báo oán đặng.
Khiếu Nhàn thấy cháu không vui cứ theo kiếm lời khuyên dỗ
hoài. Bạch Tuyết sợ ông phiền nên trước mặt thì ráng làm vui mà sau lưng thì
châu mày ủ mặt. Bạch Tuyết đã không đành an hưởng thanh nhàn, còn để cho chồng
linh đinh cực khổ mà cách chừng một tháng không hiểu quan Phủ có ý chi, ngài
qua xin Khiếu Nhàn cho rước con đem về. Tuy Khiếu Nhàn không cho, nói rằng Bạch
Tuyết ở với ông đặng vào ra hủ hỉ cho vui, song Bạch Tuyết phát nghi, sợ bà Phủ
bày mưu tính kế chi đây, nên mới xúi quan Phủ qua rước, cô bèn tính trốn nữa, một
là tránh bà Phủ, hai là quyết làm cho cực khổ tấm thân như chồng, đợi chừng nào
chồng về sẽ sum hiệp mà chung hưởng phú quí.
Tối bữa nọ Khiếu Nhàn ngủ rồi, Bạch Tuyết đương ngồi may thấy
ông Sen đứng sớ rớ gần đó, cô mới kêu lại và khóc và nói rằng:
- Tôi thấy ông ngoại tôi càng ngày càng thêm già yếu rồi, phận
tôi là gái có chồng, khó nghĩ mà trọn đạo thần hôn với ông ngoại tôi được. Tôi
tớ trong nhà tôi trông cậy có một mình ông mà thôi. Vậy xin ông nghĩ bụng má
tôi dưới cửu tuyền ráng lo lắng cho ông ngoại tôi. Nếu ông hết lòng thì dầu
ngàn năm vợ chồng tôi cũng chẳng dám quên ơn nữa.
Ông Sen nghe lạ tai, bèn hỏi rằng:
- Cháu nói cái gì vậy? Nay cháu đã về đây, mà ông cũng đã về
bên nầy rồi nữa, cháu còn lo sợ nỗi gì?
Bạch Tuyết không trả lời, lại day mặt vào vách mà khóc.
Cách vài ngày, Khiếu Nhàn đi đám cưới trong Trèm Trẹm, Bạch
Tuyết ở nhà lén ông Sen tom góp quần áo và lấy ba trăm đồng bạc, rồi mướn ghe
đi mất.
Khiếu Nhàn đi đám cưới về hay việc Bạch Tuyết trốn thì ông sửng
sốt lo sợ phận gái liễu bồ[1], lộ đồ hiểm trở, nên biểu ông Sen coi nhà đặng
ông theo mà tìm.
Khiếu Nhàn thương cháu như vậy, mà Bạch Tuyết đành lòng bỏ
ông mà đi, nghĩ thiệt tội nghiệp cho ông mà cũng đáng giận cho Bạch Tuyết. Có lẽ
cô ta từ nhỏ chí lớn không gần gũi ông, nên thương thì thương, mà không trìu mến,
bởi vậy cô mới đành vì chồng mà phụ lòng ông.
Bạch Tuyết ra khỏi nhà, lật đật mướn ghe đưa lên Sài Gòn quyết
tình đến chốn kinh thành xông pha gió bụi, dày đạp tuyết sương như chồng, chớ
chồng cực khổ, mình thanh nhàn thì không trọn niềm phu phụ.
Cô đi tàu Lục Tỉnh lên tới Cần Thơ, tàu vưa cập cầu, bỗng thấy
một thầy trạc chừng vài mươi tuổi, da trắng môi son, mình mặc đồ Lang Sa, tay cầm
dù lục soạn, bước xuống tàu rồi đi thẳng vào phòng nhì, sau lưng có một đứa nhỏ,
theo xách va ly.
Sáng bữa sau, tàu lên đến Châu Ðốc, thầy leo lên bong[2] trên
đứng hứng mát, hai tay cầm ống dòm kê vào cặp mắt mà xem tứ hướng, rồi day qua
ngó thấy Bạch Tuyết, thầy men men lại gần, miệng cười chúm chím mà hỏi rằng:
- Xin phép cô cho tôi hỏi thăm một chút, biết có được hay
không?
- Thưa thầy muốn hỏi việc chi?
- Tôi thấy cô tôi nhớ mày mạy, mà không biết cô ở đâu?
- Thưa tôi ở Sóc trăng.
- À phải! Năm nay cô chưa có chồng hay sao, mà đi một mình
như vầy?
Bạch Tuyết hiểu ý con trừu nầy muốn chọc ghẹo mình nên cười
thầm rồi đáp rằng:
- Thưa, tôi có chồng, song chồng tôi khác, chớ không phải như
thầy.
- Vậy chớ như ai?
- Thưa, như mấy người nghiêm nghị, ăn nói khiêm cung, cử chỉ
tề chỉnh kìa.
- Nói vậy thì tôi đây chẳng là liến xáo, xấc xược lắm sao?
- Thưa lời ấy tôi đâu dám nói!
- Chẳng biết chồng cô là ai? Xin cô cho tôi biết đặng tìm mà
học.
- Thưa, chồng tôi ở bên Vũng Liêm.
- Ủa! Ở Vũng Liêm là ai kìa. Tôi ở tại Long Hồ, nếu cô nói
tên có lẽ tôi biết.
- Thưa, chồng tôi là Phan Chí Ðại.
- Cơ khổ dữ hôn? Tôi xin lỗi chị, vì tôi không biết nên tôi lầm
vậy xin chị chớ chấp.
Bạch Tuyết không hiểu chưng hửng là ai, vừa muốn hỏi thì thầy
ấy nói tiếp rằng:
- Tôi đây là con ông Hội Ðồng Viễn ở Long Hồ, anh ở nhà khi
còn nhỏ lên ở tại nhà ông già tôi đi học. Có lẽ khi anh có nói chuyện đó lại
cho chị nghe chớ?
- Dạ, có nói. Xin lỗi thầy, thầy có phải tên là Lý Trường
Thành hay không?
- Phải. Khi anh ở nhà thi đậu vào trường Mỹ Tho thì tôi còn ở
học tại Long Hồ. Chừng tôi được vào trường Mỹ Tho thì anh thôi học, bởi vậy từ ấy
đến nay anh em không gặp mặt nhau nữa. Chị đi đâu đây? Còn anh bây giờ ở đâu,
làm ăn khá hay không?
Bạch Tuyết tỏ thiệt rằng chồng mình gặp thời vận chẳng may
nên nghèo nàn. Nay làm từng khạo[3] mướn cho chệc, ngồi tàu đi qua Ấn Ðộ Dương
mà vớt ngọc điệp, có để vốn liếng lại chút đỉnh, nên mình tính lên Sài Gòn ở
mua bán làm ăn đỡ mà chờ chồng về. Còn việc của cô thì cô giấu, không chịu nói
con ai và gốc ở đâu. Lý Trường Thành nói rằng mình học vừa mới thi đậu về nhà gặp
tang cha. Bây giờ mẹ lại mang bịnh ho lao nên đi qua Cần Thơ rước thầy hốt thuốc
cho mẹ, luôn dịp đòi bạc của họ thiếu.
Tối bữa sau tàu tới Vĩnh Long, Lý Trường Thành mời Bạch Tuyết
ghé chơi cho biết nhà. Bạch Tuyết tính ghé đó, đặng sáng ngày xuống Vũng Liêm
thăm mộ cha mẹ chồng, song cô nghĩ ở Long Hồ cô không quen với ai, và phận cô
là gái không lẽ đi theo Trường Thành mà về nhà trong lúc đêm hôm, nên cô từ chối
mà đi luôn, không chịu ghé.
Tàu tới Mỹ Tho, Bạch Tuyết ban đầu muốn kiếm chỗ ở đó đặng
may thuê vá mướn mà độ nhựt, song cô nghĩ lại người Bạc Liêu, Cà Mau hay lên xuống
Mỹ Tho, nếu ở đó sợ lậu tin rồi ông ngoại theo kiếm bắt, nên cô phải thẳng lên
Sài Gòn.
Cô lên tới Sài Gòn, tuy quen biết phía Cầu Kiệu nhiều, song
không dám lên đó mà ở, vì sợ ông ngoại biết chỗ lên kiếm. Cô mới lần vô phía chợ
Ðũi, tính kiếm nhà xin ở đậu mà may mướn. Cô đương xách gói đi thơ thẩn ngoài
đường bỗng gặp bà già bán cháo đậu, đương ngồi dựa gốc cây bàng mà nghỉ mát. Bạch
Tuyết ngồi xề một bên giả mua cháo đặng làm quen hỏi thăm nhà cửa. Bà già ấy
nói nhà ở trong đường hẻm Mặc Mầu (MacMahon). Bạch Tuyết hỏi thăm đến chồng con
thì bà nói bà ở có một mình không có bà con chi hết. Bạch Tuyết mừng thầm liền
năn nỉ xin ở đậu, chịu chia tiền phố với bà.
Bà già nghĩ nhà mình rộng rãi, mà khi đi bán cháo thì không
có ai coi nhà, nên chịu cho Bạch Tuyết ở và dắt Bạch Tuyết về nhà. Bạch Tuyết
thấy nhà không có đồ đạc chi hết, nên ngồi nghỉ một hồi rồi bà già dắt đi mua
giường chiếu mùng mền đem về dọn chỗ nghỉ ngơi.
Bà già nầy không ai biết tên là chi, thuở nay lối xóm cứ kêu
là ''Bà già bán cháo đậu'' mà thôi. Bữa nào cũng vậy, hễ khuya bà thức dậy sớm
nấu cháo, sáng ra bà gánh đi bán các nẻo đường, mỗi ngày mua cơm gạo, trầu thuốc
rồi còn dư chừng vài ba cắc.
Bà bổn tánh thuần hậu, vui vẻ, nên ai cũng thương, ngặt bà có
một tật là bà lẻo mép[4], chuyện đầu nầy bà hay đem nói đầu kia mà thôi. Có Bạch
Tuyết ở đậu, bà đi bán khỏi khoá cửa nữa. Mà Bạch Tuyết cũng nhờ bà đi bán, nên
bữa nào cũng gởi tiền cho bà mua cá thịt chút đỉnh nên khỏi đi chợ.
Tuy bà lẻo mép mà bà làm lợi cho Bạch Tuyết, bởi vì bà đi đến
đâu bà cũng khoe Bạch Tuyết may khéo, nên Bạch Tuyết ở đó chưa được bao lâu, mà
người gần kẻ xa đem áo quần đến mướn cô không đủ thì giờ may cho kịp. Bạch Tuyết
ở đó được vài tháng, may mướn tiền xài không hết nên mấy trăm đồng bạc cô đem
theo còn y nguyên không bớt một đồng nào. Chiều bữa nọ, Bạch Tuyết thấy trời tốt,
muốn đi mua ít thước vải để may áo vắn[5] mặc trong nhà, nhưng vì cô ít đi chơi
nên nhát đi một mình, mới cậy bà bán cháo đậu đi với cô.
Mua đồ rồi chừng trở về ngang qua nhà ga xe lửa Chợ Lớn, Bạch
Tuyết ngó thấy một cô độ chừng mười lăm hoặc mười sáu tuổi, mình mặc áo quần vải
đen, đầu choàng khăn lụa đỏ, tuy bộ tướng quê mùa song mặt mày sáng rỡ, một tay
ôm dù, một tay xách gói, ở trên xe bước xuống đứng bợ ngợ, giáo giác, dường như
không biết đi ngả nào.
Khi Bạch Tuyết với bà cháo đậu đi gần tới, thì nghe cô hỏi
thăm một người kéo xe rằng:
- Anh ơi, anh biết nhà chị Tư Kiều ở đâu xin anh làm ơn chỉ
giùm chút, anh.
Rồi lại nghe người kéo xe đáp rằng:
- Trời Ðất ơi! Ở đất Sài Gòn nầy, thiên hạ muôn ngàn, ai biết
hết cho đặng? Ở đường nào, số mấy. Nói cho rõ người ta mới chỉ cho chớ.
Bộ cô nọ biết lời hỏi của mình quê mùa, nên cô thẹn thùa, đứng
dụ dự, rồi nói một mình rằng:
- Chỉ có nói mà bây giờ có nhớ đâu.
Bạch Tuyết đã đi qua khỏi rồi, nghe mấy lời ấy biết cô nọ là
người Lục tỉnh chưa từng lên Sài Gòn, vừa muốn trở lại hỏi thăm cho rõ, rồi chỉ
giùm làm nghĩa, kế thấy một người xe kéo khác kề xe lại hỏi rằng:
- Tôi biết mà! Cô lên xe tôi kéo đi lại nhà cho.
Cô nọ tưởng thiệt, nên sắc mặt mừng rỡ, vừa leo lên xe, may Bạch
Tuyết trở lại kịp mà cản rằng:
- Anh xe kéo nói bậy, cô đừng có nghe lời.
Cô nọ chưng hửng, đứng lơ láo không biết phải tin ai. Bạch
Tuyết hỏi nghiêm chỉnh rằng:
- Cô ở đâu mà đi đây?
- Tôi ở Long Hồ, lên đây thăm chị Tư Kiều.
- Thuở nay cô có lên trên nầy lần nào hay chưa?
- Chưa.
- Nếu vậy thì cô làm sao mà biết nhà người quen được.
- Thiệt tôi không biết.
- Bây giờ trời đã tối rồi, mà cô không biết nhà người quen ở
đâu mà tìm, vậy đêm nay cô đi đâu?
- Tôi đi đây là đi liều mạng, thiệt hồi ra đi không dè khó
quá như vậy.
- Thôi, cô vô nhà tôi mà nghỉ đỡ một đêm; rồi sáng mai sẽ kiếm,
chớ vát nầy[6] cô đi bơ vơ một mình, lúc ban đêm như vầy không dễ gì đâu.
- Cô nọ thấy Bạch Tuyết hảo tâm thì mừng song không biết lấy
tiếng gì mà tạ ơn, nên ríu ríu đi theo.
Người kéo xe gạt không được nên chửi thề rằng: "Sướng dữ!
Ðú họ, máng tào kê rồi''. Cô nọ nghe nói giựt mình, đứng lại ngó Bạch Tuyết. Bà
cháo đậu day lại mắng người kéo xe rằng:
- Bây nói bậy, tao đào nát bây cho bây coi. Người ta quê mùa,
bây muốn gạt người ta sao?
Bạch Tuyết nắm tay kéo cô nọ đi và nói rằng:
- Ðồ khốn nạn, nó gạt không được nên kiếm chuyện nói bậy, cô
đừng có tin. Cô đi theo tôi, tôi không hại đâu mà sợ.
Cô nọ phát nghi, song nếu không đi theo Bạch Tuyết thì biết
đi đâu nên cực chẳng đã phải đánh liều. Về đến nhà, bà cháo đậu mở cửa, đốt
đèn, rồi Bạch Tuyết dắt cô nọ vô biểu ngồi trên ghế đó mà nghỉ. Bạch Tuyết đi đọn
cơm mời cô nọ ăn. Cô nọ tuy đói, song bợ ngợ nên nói no. Bạch Tuyết ép riết cô
mới chịu ăn một chén.
Cơm nước xong rồi, bà cháo đậu lo đi ngủ đặng khuya có dậy sớm
mà nấu cháo. Bạch
Tuyết đóng cửa, đem đèn vô giường rồi lấy đồ ra ngồi may, mời
cô nọ qua nằm một bên mà nghỉ. Bạch Tuyết và may và hỏi rằng:
- Cô ở Long Hồ mà còn cha mẹ, anh em hay không?
- Tôi mồ côi cha mẹ, mà cũng không có anh em chi hết.
- Chẳng giấu cô làm chi, tôi cũng là người Lục tỉnh lưu lạc
lên trên nầy ở đậu nhà bà Sáu bán cháo đậu đây mà may mướn, chớ không phải tôi
là người Sài Gòn đâu. Cô đừng ngại chi hết. Tôi thấy cô bợ ngợ cũng như tôi lúc
mới lên lần đầu, nên tôi thương tôi biểu giùm cho, chớ không phải có ý chi
khác. Ở đất nầy kiếm đàng lung lắm. Không hại gì mai cô đi kiếm không được, trở
lại đây mà nghỉ. Cô đừng có tin người ta mà lầm chết đa!
Cô nọ nghe lời thật tình thì động lòng, nên ngồi lặng thinh một
hồi rồi nói rằng:
- Tôi không lẽ giấu chị, tôi tên là Trần Băng Tâm, cha mẹ khuất
sớm, không có anh em nên về ở với cậu tôi từ bảy tuổi tới bây giờ là chín năm rồi.
Khi tôi mới được mười ba tuổi thì cậu mợ tôi cho tôi đi bán mía, bán chuối.
Cách chừng ba bốn tháng nay có một cậu con nhà giàu, học trường bổn quốc thi đậu
rồi về ở không mà chơi, không chịu đi làm thầy thông, thầy ký. Ðêm nào cũng vậy,
cậu ấy cứ ra hàng mía mà ghẹo chọc tôi hoài. Tôi giả như điếc, như câm, không
thèm nghe lời cậu nói, mà cũng không thèm đối đáp với cậu. Cậu lại cậy người nầy
người kia nói với tôi rằng, nếu tôi thuận tình với cậu thì cậu sẽ cho tôi tiền
bạc và sắm quần áo, vòng bông cho tôi nữa. Phận tôi tuy nghèo hèn côi cút, song
tôi không ham tiền mà làm hư danh tiết, bởi vậy hễ ai làm mai mối thì tôi lạy họ
xin họ đi kiếm con gái khác mà nói chớ đừng nói với tôi. Mai mối nói hơn một
tháng mà cột tôi không được, cậu giận mới quyết làm dữ, ban đêm tôi đi bán mía
về cậu đón đường. Ban đầu cậu ghẹo chọc tôi không thèm trả lời. Lần lần cậu đi
theo muốn đụng mình tôi, tôi hăm la làng, cậu sợ xấu nên không dám đụng. Cậu
đón tôi hai ba lần rồi thôi, không thấy đón nữa mà đêm nào cậu cũng nghễu nghến[7]
ngang hàng mía tôi hoài. Cách năm sáu bữa rày đây, tôi ngủ cựa mình đụng một
người nằm lên tôi. Tôi thất kinh vùng kêu cậu tôi mà nói rằng: "'Cậu ôi, cậu
đốt đèn lên giùm chút coi. Ăn trộm hay là ai mới đụng tôi đây nè''. Cậu tôi lặng
thinh không trả lời, mà tôi nghe tiếng mợ dâu tôi cười nho nhỏ rồi la rằng:
"Ngủ đi, đừng có nói bậy nào". Tôi nghi cậu mợ tôi có ý muốn hại tôi
nên tôi nhảy xuống đất, muốn chạy ra ngoài ván, nào dè có một người nắm vạt áo
tôi mà kéo lại rồi kê miệng vào lổ tai tôi mà nói rằng: ''Qua đây chớ phải ai
đâu mà sợ. Nằm lại đây qua nói chuyện cho em nghe''. Tôi nghe tiếng mới biết cậu
con nhà giàu đó, nên tôi nói lớn lên rằng: ''Cậu buông tôi ra bằng không tôi la
lên đây, cậu mang khốn đa. Cha chả! Cậu tưởng đâu ở trong rừng, trong núi không
có làng xóm hay sao, nên cậu làm ngang dữ vậy. Tôi nói chưa dứt tiếng, người ấy
choàng tay ôm ngang cổ tôi, rồi kế mợ tôi ứng tiếng nói rằng: ''Con chết bầm
đó, khéo nhỏng nhẻo hôn! Mầy ào ào đó mầy chết bây giờ đa!'. Tôi đương giận mà
nghe mấy lời như vậy tôi càng giận thêm nữa, túng thế quá tôi nhảy xuống sông
Long Hồ. Cậu tôi lật đật nhảy theo vớt tôi lên, rồi dắt tôi vô nhà. Mợ tôi đốt
đèn lên, tôi thấy người khốn nạn ấy đương ngồi trên ván mà hút thuốc. Tôi đứng
úp mặt vô vách mà khóc, quần áo đầu cổ ướt loi ngoi. Mợ tôi lại nói nhỏ với người
đó ít tiếng rồi người đó mở cửa ra về.
Băng Tâm thuật tới đó, rưng rưng nước mắt; Bạch Tuyết động
lòng nên lắc đầu thở ra mắt ngó Băng Tâm trân trân. Băng Tâm ngồi một chút rồi
nói tiếp rằng:
- Tôi nhớ tới chừng nào tôi giận cậu ấy chừng nấy. Mình là
con nhà giàu có, lại học hành giỏi, thiếu chi chỗ đương môn hộ đối[8] sao không
nói mà cưới lại cứ theo quyết làm nhục tôi chi vậy. Thân tôi côi cút thiệt là
khổ quá! Chị tưởng tôi không chịu đó rồi yên hay sao. Cậu nhà giàu đó về rồi,
thì mợ tôi nói đắng, nói cay làm cho cậu tôi nổi giận đánh tôi bầm mình mẩy, lại
nhiếc tôi, nói nuôi tôi uổng cơm thân tôi chết đói mà không lo, không như vậy
mà tôi còn chê để đi lấy du côn mới vừa ý. Tôi bị đòn mà ít phiền, chớ nghe mấy
lời đó tôi phiền quá. Tự tôi nhớ ơn cậu mợ tôi nuôi tôi mặc dầu, mà ép uổng tôi
việc hư như vậy tôi lạy cậu mợ tôi đừng ép tôi mà tội nghiệp. Cậu mợ tôi mắng
nhiếc tôi một hồi nữa, rồi sáng ngày đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi sợ ở Long Hồ không
yên mà may tôi bán mía chắt mót[9] để dành được ít đồng bạc nên tôi mới lên
đây. Thuở nay tôi không ra khỏi chợ Long Hồ, nên không biết xứ nào hết. Hồi chiều
xe lửa lên tới Chợ Lớn, tôi thấy bộ hành rùng rùng leo xuống, tôi tưởng đã tới
Sài Gòn rồi, nên cũng xuống theo, té ra mới hay là Chợ Lớn. Tôi trở lại vừa muốn
leo lên xe thì xe đã rút chạy rồi, nên tôi không dám theo. Tôi bơ vơ, may gặp
ông già ổng chỉ đường tôi lại ga xe lửa mua giấy khác đi ra Sài Gòn, kế gặp chị
đó.
Bạch Tuyết nghe Băng Tâm tỏ hết đầu đuôi việc riêng của mình
biết cô là người chơn chất mà lại trọng trinh tiết, nên đem lòng thương.
Bạch Tuyết có việc buồn riêng, mà mấy tháng nay không tỏ cùng
ai được, nay gặp Băng Tâm mới đem việc của mình mà tỏ cho Băng Tâm nghe. Hai
người nói chuyện với nhau, tâm đầu, ý hiệp vô cùng. Ðêm khuya thiên hạ ngủ hết,
ngoài đường vắng teo, Bạch Tuyết mới hỏi Băng Tâm rằng:
- Hồi chiều cô nói đi kiếm chị Tư Kiều nào đó, vậy mà chị có
bà con chi với cô hay không?
- Không. Chỉ là người Long Hồ, tôi quen mặt vậy thôi, chớ
không phải bà con.
- Chỉ làm việc chi ở trên nầy?
- Năm ngoái chỉ về, tôi gặp chỉ tôi hỏi thăm, thì chỉ lấy anh
Sáu Nhỏ dọn nhà ở trên nầy; chỉ có rủ tôi lên chơi, nên khi ra đi tôi tính lên
nhà chỉ nương ngụ ít ngày rồi sẽ kiếm việc làm ăn, không dè đất Sài Gòn, minh
mông quá, biết đâu mà kiếm.
- Tưởng là bà con thì chẳng nói chi, chớ chỉ như vậy nghĩ
cũng chẳng nên kiếm, bởi vì tôi coi tánh ý cô đây chắc là ở chung một nhà với
chị không tiện. Thôi, cô ở đây làm chị em với tôi; tôi lãnh đồ rồi hai chị em
mình may với nhau, tôi tưởng có lẽ kiếm đủ tiền nuôi miệng được, chẳng cần phải
đi đâu làm chi.
- Chị có lòng thương tôi, hồi chiều chị cứu tôi cho khỏi lầm
thiên hạ, ơn ấy đã trọng rồi, bây giờ chị làm phước cho tôi nương ngụ nữa thì
ơn của chị biết ngày nào tôi mới trả đặng. Tôi nói thiệt với chị, phận tôi côi
cút nghèo hèn nên từ nhỏ chí lớn không biết may vá. Nếu chị làm ơn cho tôi ở
đây thì tôi tính làm bánh hoặc mua trầu cau, chuối mít gánh đi bán kiếm lời mà
ăn, chớ may vá chắc là không được.
Bạch Tuyết nghe lời thiệt lấy làm vui lòng, nên cười mà đáp rằng:
- Cô muốn buôn bán cũng được. Như cô lạ, chưa biết đường, thì
theo bà Sáu ở nhà đây ít bữa rồi quen. Ðể sáng tôi nói với bà Sáu.
- Tôi nhỏ hơn chị, vậy xin chị kêu bằng em, chớ đừng kêu bàng
cô.
Bạch Tuyết gặc đầu, hai người ngó nhau mà cười rồi dẹp đèn đi
ngủ. Sáng ngày sau Bạch Tuyết nói với bà Sáu bán cháo đậu cho Băng Tâm ở. Bà
Sáu vui lòng cho liền. Bạch Tuyết biết Băng Tâm không tiền làm vốn mà mua bán,
nên lấy bạc của mình mà đưa cho Băng Tâm mười đồng. Băng Tâm nói nhiều nên lấy
có bốn đồng mà thôi.
Ngày ấy, hai chị em ở nhà nói chuyện với nhau.
Qua bữa sau, Băng Tâm đi theo bà Sáu ra chợ mua thịt và lòng
heo đem về nấu cháo rồi gánh theo bà mà bán, một người bán cháo đậu và một người
bán cháo lòng.
Bữa nào bà bán hết trước thì bà cũng chờ cho cô bán hết rồi mới
về một lượt. Còn bữa nào cô bán hết trước thì cô cũng theo bà, bởi vì cô không
biết đường nên về một mình sợ lạc. Mỗi bữa lời được năm ba cắc thì Băng Tâm đưa
cho Bạch Tuyết cất, chớ không chịu giữ tiền.
Vã Băng Tâm có sắc da trắng, tóc dài, môi son, mày phụng, đi
đứng yểu điệu, ăn nói dịu dàng, bởi vậy từ mấy thầy thông ngôn ký lục cho đến sắp
dọn bàn nấu ăn, ai thấy cô cũng buông lời chọc ghẹo. Cô nghĩ phận gái cơ hàn,
ra đi buôn bán làm ăn thường nhiều việc hiểm trở, nên cô buồn.
Ðêm nọ, cô nằm than thở với Bạch Tuyết rằng:
- Em thấy chị ở nhà ngồi may vá thiệt em muốn hết sức, ngặt
phận em vụng về, nên phải đi mua gánh, bán bưng, chớ làm nghề của em nhiều khi
hổ thẹn quá.
Bạch Tuyết hiểu ý, mới biểu Băng Tâm ở nhà cho cô dạy may, đừng
đi bán cháo nữa.
Băng Tâm chẳng xiết nỗi mừng, từ ấy hai chị em ở nhà, Bạch
Tuyết dạy lần lần, Băng Tâm may lấy chỗ dễ, còn chỗ khó thì để cho Bạch Tuyết.
Mỗi tháng kiếm trên mười hai đồng luôn luôn, ăn uống xài phí
rồi còn dư vài đồng.
Hai chị em ở với nhau được bảy tám tháng, Bạch Tuyết mua mà
may cho Băng Tâm được một cái quần lãnh, một cái áo xuyến, Băng Tâm mừng rỡ hết
sức.
Tới lễ Chánh Chung, hai chị em nghe lời bà Sáu nói việc
"diễn binh'' ngộ lắm, mới năn nỉ bà nghỉ bán một bữa đặng dắt giùm hai chị
em đi coi.
Hai chị em đi coi với bà Sáu lên tới Nhà Thờ, thì gặp một chú
mái chín[10] cứ theo chọc ghẹo hoài. Hai chị em mắc cỡ, muốn dắt nhau trở về.
Bà Sáu nói họ chọc mặc họ, mình đi chơi thì đi, chuyện gì phải sợ mà về.
Hai chị em dằn lòng đi nữa, chẳng dè chú mái chín cứ đi theo,
kiếm lời chọc ghẹo hoài. Hai chị em không thèm trả lời, lên tới ''ba hình'' nắm
tay nhau đứng dựa lề đường, chờ lính tới mà coi. Chú mái chín theo chọc nữa, lại
thừa dịp đông người, chú chen vô đứng khít một bên Băng Tâm rồi làm bộ bị họ lấn,
té đụng mình hai chị em chơi. Bạch Tuyết thấy chú chệc vô lễ, giận câm gan,
song dằn lòng nhịn thua dắt bà Sáu với Băng Tâm đi tìm chỗ khác mà đứng.
Cách chừng ít phút đồng hồ, chú mái chín theo nữa. Chú đứng
làm bộ bị họ lấn nên té ôm ngang mình Băng Tâm. Băng Tâm với Bạch Tuyết mắc cỡ,
vừa muốn chen mà ra, bỗng nghe một cái bốp, rồi thấy chú mái chín té sấp dưới đất,
trên đầu máu chảy đỏ lòm.
Hai chị em thất kinh, lật đật kéo bà Sáu mà chạy về, không
dám coi diễn binh nữa, mà cũng không biết ai đánh chú mái chín lỗ đầu.
Cách nửa tháng sau Bạch Tuyết với Băng Tâm đương ngồi may bỗng
thấy thầy thông ở căn phố ngang cửa đó khiêng ghế dọn bàn đem ra xe mà chở đi.
Qua ngày sau, lại thấy có hai người cu ly lại mở cửa căn
phòng trống ấy, vô quét rửa, chùi lau sạch sẽ, rồi chiều lại có mấy xe chở giường
nệm, ghế, bàn, tủ thứ nào cũng mới và đẹp đem vô nhà mà dọn hực hỡ.
Sáng bữa sau, hai chị em đã thức rồi, mà còn nằm rán trong
giường, nghe bà sáu mở cửa gánh cháo ra ngoài rồi nói lớn rằng: ''Ủa! Té ra thầy
dọn căn phố nầy hay sao? Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà tôi tưởng ai ở đâu lạ chớ!"
Rồi lại nghe có tiếng người trả lời rằng: "Thưa phải, tôi mới dọn lại đây chiều
hôm qua."
Bà Sáu trở vô nhà kêu Bạch Tuyết mà nói rằng: ''Nầy cháu, thầy
mới dọn căn phố ngang của mình đó quen mà? Hổm nay, tôi đi bán gặp thầy hai ba
lần, thầy nói chuyện nhỏ nhoi tử tế quá. Tôi có khen hai cháu may khéo quá, thầy
hứa để thầy mua hàng đem về lại mướn may đồ thường đa.
Bà nói mấy lời rồi ra khép cửa lại, gánh cháo đi mất. Chừng
sáu giờ rưỡi, mặt trời mọc lên rồi, Bạch Tuyết mới mở cửa dòm qua căn phố ngang
đó, thấy Lý Trường Khanh là con ông Hội đồng Viễn ở Vĩnh Long, đương nằm trên ghế
xích đu mà đọc nhựt trình thì cô chưng hửng chẳng hiểu vì cớ nào, cách mấy
tháng trước mình gặp anh ta dưới tàu thì anh ta nói mẹ đau nặng, mà bây giờ lại
lên dọn nhà ở đây.
Bởi cô chưa rửa mặt gỡ đầu, cô không muốn cho Trường Khanh thấy
nên cô quày quả đi ra nhà sau. Cô thấy Băng Tâm đương rửa mặt, cô mới nói rằng:
- Thầy dọn về ở ngang nhà mình, bà Sáu nói hồi nảy đó tưởng
ai lạ, té ra Lý Trường Khanh, là con ông Hội Ðồng Viễn ở Long Hồ mà.
Băng Tâm nghe nói quên lau mặt, đứng ngó Bạch Tuyết trân trân
mà hỏi rằng:
- Chị nói tên gì?
- Lý Trường Khanh.
- Sao chị biết?
- Hồi qua trốn mà đi lên trên nầy qua có gặp dưới tàu. Ban đầu
thầy theo chọc qua, chừng qua nói tên chồng qua rồi thầy chưng hửng nên năn nỉ
xin lỗi, vì thầy quen với chồng qua.
- Ðâu để em ra coi thử coi có phải hay không?
- Băng Tâm lau mặt rồi đi ra đứng núp dựa cánh cửa lén dòm một
hồi.
Chừng Bạch Tuyết gỡ đầu bới rồi, Băng Tâm trở vô bùng thụng[11]
mà nói rằng:
- Phải rồi đó đa!
Bạch Tuyết không hiểu lời Băng Tâm, nên hỏi:
- Phải giống gì?
- Người đó là người muốn làm cưỡng bức em đưới Long Hồ đó.
Bây giờ còn theo lên tới trên nầy nữa chớ!
Bạch Tuyết chưng hửng, chưa kịp nói chi hết, thì Băng Tâm
nguy nguýt đi vô mùng mà nằm. Bạch Tuyết thấy Băng Tâm buồn, nên theo an ủi.
Băng Tâm năn nỉ xin Bạch Tuyết kiếm chỗ khác mà ở đặng tránh Lý Trường Khanh.
Bạch Tuyết cũng muốn làm cho vừa lòng Băng Tâm, nhưng sợ đến
chỗ khác không được tử tế như chỗ nầy, lại sợ ở lạ chỗ không có quần áo mà may
nên khuyên Băng Tâm an lòng, nhà mình thì mình ở đừng thèm nói tới ai thì thôi.
Lý Trường Khanh dọn lại ở độ gần một tháng, mỗi ngày ra vô
khi thì coi sách, khi thì nằm coi nhựt trình, song không đi đâu hết mà cũng
không ngó qua nhà Bạch Tuyết và Băng Tâm.
Băng Tâm thấy người ta không nói động đến mình, mà lại ỷ có Bạch
Tuyết binh vực nên lần lần hết lo sợ nữa. Còn Bạch Tuyết tuy bề ngoài vui cười
như thường, song bề trong thương ông, nhớ chồng, giận mẹ ghẻ, nên nhiều đêm
Băng Tâm ngủ giựt mình thức dậy thì thấy cô chong đèn mà khóc.
Thiệt Băng Tâm thường hay kiếm lời khuyên giải, nói rằng đạo
vợ chồng có lìa nhau, chừng hiệp nhau mới vui, nhưng mà Bạch Tuyết nỗi sầu dồn
dập lâu rồi, nhứt là chồng đi gần một năm mà chẳng có tin tức chi hết, chẳng hiểu
chồng có bình an hay không, bởi vậy nỗi sầu của cô không thể nào gỡ được.
Có khi cô nghĩ nếu Chí Ðại không gặp cô, thì có lẽ ngày nay
không đến nỗi dày bừa gió bụi, ly biệt quê hương như vầy, nghĩ đến đó cô càng
đau lòng xót dạ hơn nữa.
Bạch Tuyết rầu buồn ăn uống không được, nên càng ngày càng ốm.
Băng Tâm lo sợ, mới xúi gởi thơ cho ông ngoại mà hỏi thăm Chí Ðại về hay chưa.
Bạch Tuyết muốn nghe lời, song sợ nếu mình gởi thơ mà chồng chưa về, rồi ông
ngoại biết chỗ ở bắt mình về thì mình không trọn nghĩa với chồng được, nên cô
không dám gởi thơ.
Bữa nọ, Bạch Tuyết nhuốm bịnh, Băng Tâm lật đật đi chợ mua
thuốc cho Bạch Tuyết uống. Trường Khanh nằm bên nhà, vừa thấy Băng Tâm đội khăn
ra khỏi cửa, liền bước qua, thấy Bạch Tuyết đương nằm ngoài ván ngoài mà đắp mền,
bèn hỏi rằng:
- Bữa nay trong mình chị khó ở hay sao?
Bạch Tuyết lồm cồm ngồi dậy chào hỏi và đáp rằng:
- Nãy giờ tôi ớn lạnh và nhức đầu quá.
Trường Khanh lật đật chạy về nhà lấy một liều thuốc với một
ve dầu đem qua khuyên Bạch Tuyết uống thuốc cảm rồi thoa dầu đó tự nhiên hết bịnh.
BạchTuyết tạ ơn, lấy đầu thoa rồi rót nước uống thuốc. Trường Khanh nhắc một
cái ghế tre để dựa cửa rồi nói rằng:
- Em xin lỗi chị, em dọn lại ở đây hơn một tháng rồi, em thấy
chị hằng ngày, nhưng vì em có một việc hiềm nghi riêng, nên không dám qua thăm
chị, chớ không phải em làm kiểu, làm cách chi đâu.
Bạch Tuyết chúm chím cười mà hỏi rằng:
- Thưa thầy, hiềm nghi việc chi?
Trường Khanh cúi mặt mà đáp rằng:
- Em nói thiệt cho chị biết, em dọn nhà ở đây là có ý muốn tỏ
hết tâm sự của em cho chị nghe, rồi cậy chị làm ơn giúp giùm em một việc, ngặt
vì hổm rày cô Băng Tâm ở nhà hoài, nên em không dám qua. Nay cô đi khỏi, vậy em
thuật chuyện riêng cho chị nghe: ''Năm ngoái em thi đậu rồi về nhà ở không mà
chơi, em là con một, nên cha mẹ cưng, muốn chơi thế nào cũng không ngăn cản, mà
nhà em lại giàu lớn, sẵn tiền sẵn bạc nên em muốn tiêu xài bao nhiêu cũng được.
Em là trai mới lớn lên, nên hay say hoa đắm nguyệt. Bữa nọ em đi chơi, thấy cô
hai ở nhà đây ngồi bán mía, tuy y phục tầm thường mà dung nhan xinh đẹp, em phải
lòng, nên em quyết ân ái với cô cho phỉ tình hoài vọng. Chẳng dè em cậy mai mối
nói hết lời mà cô không xiêu lòng, em theo chọc ghẹo, dụ dỗ đủ cách mà cô không
chịu. Túng thế, em đem cho cậu mợ cô một trăm đồng bạc mà năn nỉ thuận tình ban
đêm mở cửa cho em vô nhà mà ngủ với cô. Thiệt, lúc ấy em tính chơi qua đường,
chớ chẳng phải muốn lấy chồng vợ chi đó, mà em cũng tưởng con nhà nghèo hễ cho
tiền nhiều thì nó chịu, chớ không có khó gì, nào dè cô rầy la om sòm rồi lại nhảy
xuống sông muốn tự tử nữa. Em trở về nhà nằm nghĩ chẳng hiểu vì cớ nào mà cô nầy
khó như vầy; thuở nay em muốn cô nào cũng được hết thảy, dẫu nhà giàu đi nữa em
cũng muốn được thay, huống chi là con nhà nghèo hèn côi cút như cô mà lại muốn
không được. Em ghét nên em không thèm nhớ tới cô nữa. Cách chừng một tháng bà
già em đau nhiều, tính cưới vợ gấp cho em, nên biểu chú em dắt em đi coi hai ba
chỗ con nhà giàu. Em đi coi vợ thì đi, mà trong bụng em không muốn chỗ nào hết,
bởi vì em nghĩ con gái nhà giàu đứa nào cũng như đứa nấy, em có biết tánh ý đứa
nào tốt, đứa nào xấu mà chọn lựa; nếu em nhắm mắt mà cưới bướng, rủi gặp nhằm đứa
hư rồi em làm sao. Phận em giàu có, em chẳng cần kiếm gia tài thêm nữa, nếu em
đi cưới vợ thì là kiếm trinh tiết, kiếm nhơn nghĩa, chớ kiếm tiền bạc mà làm
chi, mà trinh tiết, nhơn nghĩa biết ai đâu mà kiếm? Em sực nhớ lại cô Băng Tâm,
tuy là con nhà bần hàn côi cút, mà cô trọng trinh tiết hơn là tiền bạc, thuở
nay chưa thấy con gái nhà ai tánh nết được như cô vậy. Em có ý muốn tỏ thiệt với
bà già em, rồi xin cậy mai đi nói. Rủi bịnh bà già em trở nặng, em lo thuốc men
hết sức mà không xong, cách ít ngày bà già em mất. Lo tống táng xong rồi, bà
con ai cũng khuyên em kiếm vợ đặng có người coi sóc trong nhà. Em mới mượn họ hỏi
thăm cô hai Băng Tâm, vì em quyết cưới cô chớ không thèm nơi nào khác. Chẳng dè
hỏi lại mới biết cậu mợ đánh đuổi cô đi đâu mất lâu rồi. Em hay việc ấy thì ăn
năn vô cùng, em đã ăn năn sự vô lễ đã cưỡng bức cô hồi trước, mà em lại ăn năn
sự em làm cho đến đỗi cô bỏ xứ đi. Nếu cô đi ra mà có tai nạn điều chi thì lỗi
tại nơi em hết thảy. Từ ấy đến nay, em quyết cưới cho được cô để chuộc tội em ở
quấy với cô hồi trước. Em làm tuần bá nhựt cho bà già em rồi em qua Mỹ Tho ở gần
nửa tháng không gặp cô, em mới tuốt lên Sài Gòn. Em ở đậu nhà thầy ký Huỳnh gần
một tháng nữa mà kiếm cũng không gặp. Hôm lễ Chánh Chung em đi dạo chơi tình cờ
gặp chị đi với cô hai và bà ở nhà đây. Em mừng quá muốn chạy đại lại xin lỗi, tỏ
thiệt việc em tính đó cho cô hai biết và cậy chị đứng làm mai cho em cưới,
nhưng vì cô còn giận em, lại nói giữa đường e cô mắc cỡ, nên em dằn lòng, cứ
nom theo xa xa, tính tìm coi nhà ở chỗ nào rồi em sau sẽ tới. Chị với cô hai chắc
là không thấy em, nên đi coi tự nhiên quá. Chừng em thấy có một thằng mái
chín[12] cứ theo chọc ghẹo rồi cọ trong mình hai chị em, thì em nổi giận muốn
chạy lại đánh cho biết chừng, song em nghĩ nếu đánh nó thì sanh sự rồi chị với
cô hai đi mất, em biết đâu mà tìm. Em nghĩ như vậy, nên em dằn lòng. Chừng em
thấy nó vô lễ một lần nữa, nên em xốc lại bổ cho nó một cây ba ton[13] trên đầu
phun máu. Lính tuần thành áp lại bắt em dắt về bót, em không sợ chi hết, duy sợ
lạc mất chị với cô hai không biết đâu mà kiếm. Vô bót em chịu thiệt với ông Cò
rằng thằng chệc vô lễ với đàn bà con gái quá, nên em phải đánh mà răn nó. Ông
Cò giải em qua Tòa, em cũng cứ nói như vậy, em lại mướn trạng sư cãi giúp cho
em nữa, nên đòi hỏi lòng dòng ít bữa, Tòa tha em. Vụ kiện xong rồi em mới kiếm
lại. Bữa nọ tình cờ em gặp bà già bán cháo đậu coi giống bà đi với chị hôm trước,
nên làm quen hỏi thăm lần lần mới hay chị và cô hai ở đây.
Bạch Tuyết trước thấy tánh nết Trường Khanh dưới tàu, sau
nghe Băng Tâm thuật cử chỉ hoa nguyệt nữa, bởi vậy thầy nói thiệt tình mà cô
chưa tin nên hỏi rằng:
- Thầy đánh chú mái chín dê đó giùm cho chị em tôi thiệt tôi
cám ơn thầy lắm, mà thầy biết chị em tôi ở đây rồi thầy dọn nhà ở gần làm chi?
- Thưa chị, bà bán cháo đậu chỉ nhà cho em rồi tối lại em lén
đi ngang qua đây coi có thiệt quả chị ở đây hay không. Em thấy chị với cô hai
đương ngồi may em muốn tỏ hết tâm sự của em cho cô hai biết và xin lỗi cô rồi cậy
chị làm mai cho em cưới. Em muốn như vậy, mà rồi em sợ cô hai giận em dầu nói
thiệt cô cũng không tin, nên em tính mướn phố ở gần đặng cô vô ra thấy mặt ít
ngày cho nguôi bớt nước giận rồi em sẽ phân hơn thiệt với cô. Em nói thiệt cho
chị thương, thầy thông ở căn phố em mướn đó có phải khi không mà thầy dọn đi
đâu. Em muốn ở đây nên năn nỉ chịu cho thầy hết năm mươi đồng bạc, thầy mới chịu
đọn đi chỗ khác cho em đó.
- Thầy thiệt là có tình quá!
- Thưa chị, gia thế em lớn lắm, vì em muốn kết tóc trăm năm với
cô hai, nên em bỏ hết mà đi tìm. Hổm nay em muốn qua nói thiệt với cô mà em sợ
cô không thương cô nhắc chuyện cũ rồi mắng nhiếc xấu hổ, nên em không dám. Vậy
em xin chị làm ơn lựa lời êm ái nói giúp giùm cho cô hai hết giận đặng chịu kết
duyên với em, trước em có được người xứng đáng tề gia nội trợ; sau em có thể
chuộc cái quấy xưa, thì ơn của chị dầu ngàn ngày em cũng không dám phụ.
- Làm trai ở được như thầy vậy thiệt là ít có, mà còn tánh nết
được như con hai Băng Tâm cũng không dễ kiếm đâu. Tuy nó nghèo hèn, song nhiều
người sang giàu cũng không sánh với nó kịp. Tôi làm chị em với nó gần một năm
nay, tôi biết rõ tánh ý nó. Nó nhỏ mặc dầu mà ăn ở khít khao cẩn thận, tôi đây
cũng thua nó nữa.
- Xin chị làm ơn nói giùm.
- Nói giùm thì tôi không tiếc với thầy, song không biết thầy
thiệt có bụng quyết kết tóc trăm năm với nó hay không, chớ thầy giàu, nó thì
nghèo, tôi sợ...
- Chị hai còn nghi bụng em nữa sao? Chị đừng có nói chuyện giàu
nghèo, bây giờ em biết khôn rồi, nên em trọng cái phải, cái tốt, chớ giàu sang
mà hư thì sá gì. Nếu chị không tin bụng em, thì để em thề cho chị tin. Em mà có
bụng quấy, muốn chơi qua đường thì...
- Thôi thôi, thầy đừng thề thốt làm chi. Ðể thủng thẳng tôi dọ
ý nó coi, rồi tôi sẽ cho thầy hay. Cha chả! Mà bộ nó còn phiền thầy nhiều lắm
nên sợ phải lâu ngày mới nói được.
- Không hệ gì, miễn chị hết lòng nói giúp giùm em cưới được
thì thôi dầu chờ bao lâu em cũng chịu.
- Tôi hỏi thầy, ví như nó nói không ưng thầy làm sao?
Trường Khanh cúi mặt xuống đất, lặng thinh một hồi, coi bộ buồn
lắm rồi nói rằng:
- Nếu em không cưới đặng cô hai Băng Tâm thì em không thèm cưới
ai hết.
Bạch Tuyết cười và nói rằng:
- Thầy đa tình quá!
- Thưa không, em trọng trinh tiết chớ có phải là đa tình đâu.
Trường Khanh vừa nói dứt lời thì Băng Tâm bước vào ngó thấy
liền nguýt đi thẳng vô buồng. Trưòng Khanh đứng dậy cáo từ Bạch Tuyết mà về. Bạch
Tuyết thấy Trường Khanh về đã lâu mà Băng Tâm còn nằm trong buồng hoài, bèn kêu
mà nói rằng:
- Người ta đã về mất rồi mà còn sợ ai nên nằm hoài ở trỏng vậy?
Băng Tâm bước ra hỏi rằng:
- Nãy giờ chị bớt nóng hay không?
- Em đi rồi, nhờ thầy Trường Khanh qua nhà nói chuyện, qua bớt
nóng.
- Hứ!
Bạch Tuyết có ý muốn ghẹo cho Băng Tâm hỏi đặng mà nói, chẳng
dè Băng Tâm hứ một cái mà không chịu hỏi, lấy tay rờ trán Bạch Tuyết mà nói rằng:
- Sẵn bụng chị đói, thôi để em đi sắc thuốc cho chị uống. Chị
rán uống thuốc cho mạnh, chớ chị không giỏi trong mình, em buồn quá.
Băng Tâm nói dứt lời rồi quày quã đi ra nhà sau súc siêu bắc
thuốc. Ðêm ấy nhờ uống thuốc nên Bạch Tuyết trong mình khoẻ khoắn ngủ được. Ðến
ba giờ khuya, cô thức dậy thấy Băng Tâm chưa ngủ, mới hỏi. Băng Tâm đáp rằng:
- Em thấy chị đau. Em lo sợ quá, nên ngủ không được.
Bạch Tuyết không chắc Băng Tâm vì giận Trường Khanh hay là vì
thấy mình đau mà ngủ không được, song cô không hỏi, cứ dậy súc miệng, rửa mặt,
ăn trầu, rồi to nhỏ thuật hết lời của Trường Khanh lại cho Băng Tâm nghe. Bạch
Tuyết lại nói:
- Người ở được như vậy thiệt cũng đáng khen. Người ta đã biết
lỗi bây giờ muốn cưới em đặng chuộc lỗi. Vậy em chẳng nên phiền trách nữa. Em
xét lại mà coi, thuở nay người giàu sang thường kiếm con nhà giàu sang mà cưới,
chớ có ai cả gan dám tính cưới con nhà nghèo hèn bao giờ; họ không kể nên hư phải
quấy, họ sợ cưới con nhà nghèo về xí[14] hết gia sản của họ đi, hoặc họ nghĩ
con nhà nghèo không thể gì làm giàu cho họ được. Chị thường thấy nhiều người
tham tiền, tham bạc thái quá, trong nhà đã có của dư dùng không hết mà còn lo
đi kiếm vợ giàu đặng kiếm thêm của nữa, tham đến nỗi chúng khinh mà không biết
nhục, vợ lấy trai mà sợ hụt ăn nên không dám bỏ. Thầy Trường Khanh đã giàu có,
mà lại học giỏi. Thầy trọng trinh tiết chớ không kể tiền bạc, nên quyết cưới
em, vậy em chẳng nên hờn hoài mà hẹp bụng thầy.
Băng Tâm cười gằn mà nói rằng:
- Chị tin người đó, chị lầm chết đa!
- Em đừng nói vậy! Thầy nói qua nghe cũng phải, mà bộ thầy
thiệt tình lắm mà!
- Chị nghe nói chị thấy bộ, chớ trong lòng người ta chị biết
sao được. Thầy giàu, em nghèo, thầy muốn em là thầy muốn chơi qua đường, chớ
nhà giàu mà nhơn nghĩa gì. Nếu thầy biết nhơn nghĩa thì hồi trước đâu có làm
như vậy. Thầy muốn em chừng nào, em càng oán thầy nhiều chừng nấy.
- Thầy xin cưới em đem về làm vợ, chớ phải tính việc gì hay
sao mà em nghi.
- Ðã biết con gái hễ lớn lên thì phải có chồng, song em không
muốn có chồng như vậy.
- Vậy chớ em muốn chồng thế nào?
- Thầy Trường Khanh thì giàu sang, còn em thì nghèo hèn, bây
giờ thầy muốn, thầy nói liều mạng. Em sợ thầy cưới em về ít năm, thầy đã thèm rồi,
thấy con nhà giàu sang thầy tiếc, thầy hất hủi thân em, càng nhục cho em nữa.
Em nghèo. Em lựa chỗ nghèo mà biết nhơn nghĩa mà kết bạn, miễn vợ chồng biết trọng
nhau, biết thương nhau, dầu ăn muối em cũng vui.
Bạch Tuyết nghe mấy lời rồi nghĩ tới chuyện của mình thì động
lòng, nên ngồi lặng thinh mà ngó đèn.
- Chị nói phải quấy cho em đó thôi, chớ duyên của em chị đâu
dám ép. Thôi, để thủng thẳng dọ tình ý thầy thế nào, chị tưởng nhà giàu có người
cũng biết nhơn nghĩa vậy chớ.
Chị em đàm luận đến gần sáng mới chịu tắt đèn mà ngủ.
Sáng ngày Băng Tâm thấy bịnh Bạch Tuyết giảm nhiều thì mừng.
Cô muốn đi hốt thuốc thêm cho Bạch Tuyết uống, mà vì cô sợ nếu cô ra đi, ở nhà
Trường Khanh lén qua òn ỷ với Bạch Tuyết nữa, nên cô đợi chiều bà Sáu đi bán
cháo về rồi, cô cậy bà đi; chớ cô không dám đi.
Bạch Tuyết uống vài thang đầu thì thấy bịnh giảm nhiều mà uống
thêm mấy thang sau bịnh lại trở nặng nữa, nóng nóng lạnh lạnh tối ngày nên nằm
thiêm thiếp hoài. Tuy bịnh đau không may vá được, song nhờ có mấy trăm đồng bạc
đem theo nên chạy thuốc rước thầy mà khỏi lo túng rối.
Trường Khanh thấy Bạch Tuyết đau lâu rồi, nghe bà Sáu nói đau
nhiều, muốn qua thăm, nhưng vì sợ Băng Tâm nghi ngại, nên không dám qua.
Bữa nọ bà Sáu gánh cháo đi rồi, anh ta đánh liều qua thăm.
Băng Tâm thấy dạng Trường Khanh thì lật đật bỏ đi ra nhà sau. Trường Khanh đứng
tại cửa buồng dòm vô, thấy Bạch Tuyết nằm nhắm mắt, anh ta tưởng cô ngủ nên lén
bước ra ngoài, đứng bợ ngợ không biết làm sao mà hỏi thăm. Băng Tâm tuy ghét
Trường Khanh, song thương Bạch Tuyết, nên ngồi suy nghĩ một hồi rồi bước ra
chào Trường Khanh. Trường Khanh được tiếng cô chào thì thơ thới trong lòng, liền
hỏi thăm lăng xăng.
Băng Tâm mới nói với Trường Khanh rằng Bạch Tuyết vì nhớ chồng
mà sanh bịnh, nếu chồng về thì chắc cô mạnh liền. Băng Tâm cậy Trường Khanh viết
thơ cho ông Khiếu Nhàn ở Cà Mau mà hỏi thăm coi Chí Ðại về hay chưa. Cô lại căn
dặn nếu viết thơ thì đừng nói tên Bạch Tuyết, xin trả lời đề tên Trường Khanh,
và hễ viết thơ rồi có ai đến hỏi thăm Bạch Tuyết thì đừng chỉ.
Trường Khanh không hiểu Băng Tâm có cớ gì riêng mà căn dặn mấy
điều ấy, song anh ta được nói chuyện với Băng Tâm thì mừng rỡ, không thèm hỏi
chi hết, lật đật chạy về viết thơ rồi đem qua đọc nho nhỏ cho Băng Tâm nghe.
Băng Tâm chịu rồi Trường Khanh liền kêu xe kéo chạy riết lên nhà thơ[15] mua
cò[16] mà gởi.
Tình thương cháu như tình ông Khiếu Nhàn thiệt ít có!
Bạch Tuyết làm nhọc ông đã nhiều mà ông không trách chi hết.
Bạch Tuyết trốn ông đi lần nầy, ông tuốt theo mà kiếm nữa. Ông lên Sài Gòn hỏi
thăm ông Nhiêu Tâm với lon ton Thiệt, thì họ nói không thấy, ông đi bơ vơ ít
ngày tìm không ra mối, túng thế ông phải trở về.
Vì ông buồn rầu lại thêm lo sợ, nên sanh bịnh rồi không đi kiếm
nữa.
Bữa nọ ông còn đau mà tiếp được thơ của Trường Khanh hỏi thăm
Chí Ðại, ông nghĩ hoài mà không biết Trường Khanh là ai. Ông nghi Bạch Tuyết cậy
người hỏi thăm giùm, nên muốn lên kiếm hỏi cho ra mối đặng đem cháu về, ngặt vì
trong mình ông còn bịnh, không thể đi xa được nữa, nên phải trả lời cho Trường
Khanh rằng Chí Ðại chưa về và luôn dịp hỏi thăm coi có biết vợ Chí Ðại ở đâu
hay không. Trường Khanh tiếp được thơ liền đem qua đọc cho Băng Tâm nghe. Băng
Tâm nghe Chí Ðại chưa về thì chắc lưỡi lắc đầu rồi dặn Trường Khanh đừng trả lời
về khoản của Khiếu Nhàn hỏi.
Hai người thấy Bạch Tuyết nằm thiêm thiếp, tưởng cô ngủ, nên
đọc thơ thong thả, chẳng đè Bạch Tuyết nằm lóng tai nghe hết, hay chồng chưa về
trong lòng càng lo sợ, càng buồn rầu, càng thương nhớ nên bịnh đã không giảm mà
coi mòi nặng thêm.
Băng Tâm cứ ràng một bên mà săn sóc, còn Trường Khanh thì kiếm
thầy đổi thuốc, chạy không hở chơn.
Nhờ có Bạch Tuyết đau, nên hai người mới gần nhau. Mà tuy gần
gũi hằng ngày, song Băng Tâm cứ nghiêm nghị hoài, còn Trường Khanh nói chuyện
lo thuốc men cho Bạch Tuyết mà thôi, chớ không hề dám tỏ lời chi khác.
Bữa nọ, lối ba giờ chiều, Băng Tâm đỡ Bạch Tuyết mà dắt ra
ván ngoài nằm, cho khoảng khoát, đặng thầy thuốc coi mạch. Thầy coi mạch rồi
đương ngồi viết toa, còn Băng Tâm với Trường Khanh thì đứng xớ rớ chung quanh
đó. Có một người đàn bà trạc chừng ba mươi tuổi, ăn mặc tử tế, đi ngang qua nhà
Bạch Tuyết, đứng dòm một hồi rồi bước vô sát cửa mà hỏi Trường Khanh rằng:
- Thầy ở đây, vậy chớ thầy có biết con Bạch Tuyết ở Cà Mau
lên trên nầy mà nó ở căn nào đâu thầy há?
Trường Khanh chưng hửng, không biết có nên trả lời hay không,
nên day lại ngó Băng Tâm, Băng Tâm rước[17] mà nói với người đàn bà ấy rằng:
- Không biết... Mà cô có bà con với người đó hay sao mà kiếm?
Người đàn bà ấy chưa kịp trả lời, Bạch Tuyết day mặt qua coi
ai hỏi mình; người đàn bà ấy ngó thấy vùng la:
- Ủa con!
Rồi chạy đại vô nắm tay Bạch Tuyết và khóc và nói tiếp rằng:
- Con đi đâu làm cho dì kiếm dữ quá vậy con? Con ông nầy ông
kia, giàu sang tột bực mà không chịu ở nhà, bỏ đi làm chi đến nỗi đau ốm cực khổ
như vầy không biết! Cha con ở nhà rầu rĩ, ăn ngủ không được, ông ngoại con cũng
khóc hoài, vậy con phải về với dì.
Bạch Tuyết trở mình day vô vách, không nói chi hết. Ông thầy
thuốc, Trường Khanh với Băng Tâm không hiểu vì cớ nào mà người đàn bà ấy tỏ lời
yêu mến như vậy mà Bạch Tuyết lại làm lơ nên nhìn nhau lơ láo.
Ông thầy thuốc từ giã mà về, dặn Băng Tâm cho uống một thang
rồi mai ông sẽ tuần mạch lại. Trường Khanh đưa thầy thuốc ra khỏi cửa rồi lôi
vô kéo ghế mà ngồi. Người đàn bà ấy cũng ngồi trên ván dựa nên Bạch Tuyết, rồi
ngó Trường Khanh với Băng Tâm mà nói rằng:
- Bà con không biết, chớ con tôi đây là con riêng của quan phủ
ở nhà. Tuy tôi là mẹ ghẻ mặc dầu, song tôi nuôi nó từ nhỏ đến lớn nên tôi
thương nó còn hơn con ruột của tôi nữa. Cha nó muốn gả nó lấy chồng tử tế mà nó
không chịu, cha nó giận la rầy, nên nó bỏ nhà mà đi, chớ mẹ con tôi ở với nhau
như bát nước đầy, có giận nhau chi đâu.
Người đàn bà ấy nói tới đó rồi khóc nữa, và day lại vỗ về
khuyên lơn Bạch Tuyết về Cà Mau. Bạch Tuyết cứ nói có mấy tiếng nầy:
- Dì về đi, tôi không có thể nào về Cà Mau được đâu.
Người đàn bà ấy năn nỉ hết sức không được, mới đứng dậy đội
khăn, nói với Băng Tâm và Trường Khanh để đi ra chợ mua đồ một chút rồi tối sẽ
trở vô.
Người nầy thiệt là kế mẫu của Bạch Tuyết.
Vì ông Bạch Khiếu Nhàn tiếp được thơ của Trường Khanh, ông muốn
đi kiếm Bạch Tuyết mà vì có bịnh đi không được, ông tức tưởi thở than hoài nên
tôi tớ trong nhà hay Bạch Tuyết ở Sài Gòn trong đường hẻm Mạc Mầu, rồi qua chơi
bên Phủ, xầm xì nói chuyện lại với mấy tên lính.
Bà Phủ hay việc ấy, bà mới nghĩ thầm rằng Khiếu Nhàn đau hoài
sợ nay mai ông chết. Gia tài của ông thì lớn, nếu ông chết mà Bạch Tuyết còn sống,
vợ chồng nó hưởng hết gia tài còn gì. Bà nghĩ như yậy nên mới nói dối với chồng
đi Bạc Liêu, đặng bà đi tìm Bạch Tuyết.
Bà Phủ từ giã Băng Tâm với Trường Khanh ra đi rồi thì Bạch
Tuyết dây lại khóc và nói:
- Thầy với con hai đừng có tin, dì tôi có ý gì đó nên mới tìm
đến đây chớ không phải thương gì tôi đâu. Con hai có sắc thuốc, hay nấu cơm hoặc
nấu nước phải có ý cho lắm nghe hôn em.
Băng Tâm gật đầu nói rằng:
- Em hiểu rồi chị để đó mặc em.
Còn Trường Khanh không hiểu chi hết, nên đứng xớ rớ, ngó giáo
giác, mà trong bụng đã sanh nghi rồi.
Ðêm hôm ấy gần tám giờ, bà Phủ mới trở lại. Trường Khanh nằm
êm bên nhà, ngó thấy bà Phủ lại, anh ta cũng men men đi qua. Bà Phủ ngủ ở tại
nhà Bạch Tuyết, cứ theo năn nĩ biểu về hoài, mà Bạch Tuyết không chịu nghe lời,
nên sáng bửa sau bà khóc nghe rất thảm thiết và để lại ba mươi đồng bạc cho Bạch
Tuyết uống thuốc rồi bà ra xe lửa mà về.
Bà Phủ về rồi, Bạch Tuyết cậy Trường Khanh kiếm mướn giùm một
căn phố đặng có dời đi chỗ khác. Trường Khanh sẵn lòng đi kiếm phố giùm, nhưng
vì anh ta muốn kiếm mướn cho được hai căn gần nhau đặng anh ta dọn về ở gần, mà
đi đến đâu cũng thấy trống có một căn, còn mấy chủ ở gần thì chịu tiền cho họ
mà họ cũng không chịu dọn đi chỗ khác cho mình ở, bởi vậy anh ta đi luôn đến
chín mười bữa, mà đi không về rồi, không mướn được chỗ nào khác. Còn bà Phủ về
đến nhà rồi, tối lại nằm làm thuốc cho chồng hút, bà to nhỏ nói rằng:
- Bữa hôm tôi nói với ông tôi lên Bạc Liêu mua đồ, mà lên đến
đó cô Huyện cổ rủ quá, tôi phải theo cổ lên Sài Gòn chơi, nên về trể. Mà đi
chơi chớ cũng là may! Tôi đi bậy mà lại gặp con Bạch Tuyết! Cha chả! Nó đau nhiều
quá, mà nó nghèo khổ không có tiền uống thuốc. Tôi thấy vậy tôi động lòng, nên
biểu nó đi theo mà về, nó nói sợ ông rầy, nó không dám về. Tôi không biết làm
sao, túng thế phải để ít chục đồng bạc cho nó uống thuốc. Thiệt, con nó hư tôi
giận nó lắm mà lên trển tôi thấy nó như vậy thiệt là tội nghiệp nên hôm nay tôi
về dọc đường hễ tôi nhớ tới nó thì tôi ứa nước mắt. Ông nghĩ lại mà coi, bát bể
đánh con nào đành. Con nó có dại thì mấy năm nay nó cực khổ như vậy cũng đủ rồi,
không lẽ mình giận hoài, mà bỏ con chết hay sao. Mình thì giàu sang, còn con
mình thì mình bỏ nó nghèo cực, đau không có tiền uống thuốc thiên hạ họ thấy
như vậy có lẽ họ cũng cười mình chớ. Phận tôi là mẹ ghẻ, chắc sao họ cũng nói tại
tôi. Nếu ông bỏ nó thì tôi mang tiếng hơn hết. Vậy ông xin phép nghỉ ít ngày,
lên đem nó về mà nuôi, đặng thiên hạ khỏi nói tôi độc hiểm.
Quan Phủ nghe lời vợ bèn xin nghỉ nửa tháng. Vợ chồng dắt
nhau lên Sài Gòn kiếm Bạch Tuyết mà đem về.
Bữa nọ Trường Khanh đi lên Ðất Hộ kiếm phố không được, chừng
trở về thì thấy Bạch Tuyết đương ngồi ăn cháo, anh ta mới ghé lại hỏi thăm. Hai
người nói chuyện chưa được mấy tiếng thì bà Phủ bước vô, sau lưng lại có quan
Phủ đi theo nữa.
Bạch Tuyết thấy Cha thì kinh hãi buông cái muỗng rớt bể hai,
té xỉu nằm ngay dựa bên mâm cháo. Trường Khanh la lên một tiếng lớn. BăngTâm ở
nhà sau lật đật chay ra thấy Bạch Tuyết như vậy thì ôm mà khóc. Bà Phủ cũng lật
đật leo lên ván mà đỡ Bạch Tuyết và khóc om sòm, quan Phủ hối đi lấy lửa mà đem
ra hơ. Trường Khanh lính quýnh, nên chạy riết xuống bếp rinh luôn lò lửa đem
lên. Băng Tâm với bà Phủ áp hơ chừng năm phút đồng hồ. Bạch Tuyết mở mắt ra rồi
nói nho nhỏ rằng:
- Tôi không về đâu! Thà có chết thì ở đây cũng được.
Quan Phủ ngồi thở ra mà nói rằng:
- Con phải về đặng cha lo thuốc men cho con chớ. Ở đây sao đặng.
Cha đã lên rước con thì con còn ngại nỗi gì.
Quan Phủ nói mà ứa nước mắt. Bạch Tuyết cũng khóc, nước mắt
tuôn dầm dề. Tuy Bạch Tuyết tỉnh mặc dầu, song cô còn mệt lắm nên không nói nhiều
được.
Ðêm ấy, bà Phủ ngồi ràng một bên mà săn sóc, quan Phủ biểu bà
hết sức mà bà không chịu đi nghỉ. Băng Tâm cũng ngồi dựa bên Bạch Tuyết sáng
đêm, còn Trường Khanh tuy về nhà mà trong lòng lo lắng quá nên ngủ không được.
Sáng ngày, quan Phủ đi mướn đò dọc mà chở Bạch Tuyết về Cà
Mau. Bà Phủ ý muốn đi tàu, song nghe quan Phủ nói con đau nhiều quá đi tàu gió
máy không tốt, nên bà không đám cãi. Lối chín giờ, quan Phủ đi mướn đò, còn bà
Phủ đi chợ mua đồ chút đỉnh đem theo ăn dọc đường.
Trường Khanh đi ra nhà thuốc mua dầu nhãn mới về, nên đem qua
cho Bạch Tuyết ngửi. Bạch Tuyết ngửi dầu thì trong người khỏe khoắn, ngó quanh
quất thấy có một mình Băng Tâm với Trường Khanh mà thôi, bèn nói rằng:
- Cha của chị lên mà rước chị đó là tại mưu của mẹ ghẻ chị
bày. Mẹ ghẻ chị muốn giết chị như bả giết mẹ chị ngày trước, nên bả mới tính
như vậy, chớ không phải thương yêu gì đâu. Nếu hai em có lòng muốn cứu giùm
tánh mạng chị, thì xin dời chị đi nhà khác cho mau.
Băng Tâm vốn đã có nghe Bạch Tuyết thuật sơ chuyện mẹ ghẻ thuốc
mẹ ruột hồi trước, nay cô nghe nói mấy lời thì cô biến sắc. Còn Trường Khanh
tuy không hiểu chi hết, song bụng muốn làm ơn cho Bạch Tuyết, nên bước lại gần
nói rằng:
- Bây giờ gấp quá, biết dời đi đâu. Vậy để em dọn mùng chiếu
rồi đem chị qua nhà em, đặng tránh quan Phủ được hôn?
Bạch Tuyết gặc dầu, Trường Khanh lật đật về nhà biểu đứa ở dọn
giường. Anh ta vừa mới trở qua đặng dắt Bạch Tuyết đem về thì quan Phủ đi mướn
đò rồi, ngài trở vô ngồi chim bỉm trên ghế làm cho Trường Khanh và Băng Tâm
nhìn nhau rồi lắc đầu không dời Bạch Tuyết đi được.
Chừng nửa giờ sau, bà Phủ trở vô; nghe quan Phủ nói mướn đò rồi,
bà liền kêu xe kéo lại đem Bạch Tuyết xuống đò. Băng Tâm đau đớn trong lòng chịu
không được, nên cúi đầu lạy quan Phũ mà nói rằng:
- Thưa ông, chị tôi đau nhiều quá, nếu ông đem về tôi sợ chị
tôi chết dọc đường. Vậy xin ông chờ tới ngày chị tôi uống thuốc mạnh rồi ông sẽ
đem về, nghĩ chẳng muộn gì.
Quan Phủ châu mày mà đáp rằng:
- Tôi có rảnh rang chi đâu nên ở đây mà chờ cho được. Con của
tôi lẽ nào tôi không thương hay sao, cần gì cô phải lo.
Trường Khanh đã không ưa quan Phủ mà nghe ngài nói tiếng xẵng[18]
với Băng Tâm càng thêm giận, nên nói rằng:
- Thưa ông, người ta sao lại không biết thương con! Nhưng ông
thương chị tôi đây, ông lại quyết giết chị tôi chết cho mau, thế thì cái thương
đó hại hơn là cái ghét nữa.
Quan Phủ liếc ngó Trường Khanh mà không thèm trả lời. Ông
vùng đứng dậy biểu bà Phủ cậy Băng Tâm phự đỡ Bạch Tuyết đem ra xe. Băng Tâm do
dự rồi ngó Trường Khanh dường như muốn hỏi, kế Trường Khanh hội ý, bèn nói rằng:
- Thôi cô hai đỡ giùm chị mà đi ra xe đi, mình nói hết sức mà
ông không nghe, biết liệu làm sao bây giờ. Nầy, mà cô ở nhà cũng chẳng có việc
chi, vậy cô làm ơn theo đò đưa chị xuống Cà Mau rồi sẽ về.
- Băng Tâm hiểu ý, liền thưa với quan phủ rằng:
- Thưa ông, tuy tôi không có bà con chi với chị tôi đây song
chị em ở chung với nhau đã lâu, nên thương yêu nhau chẳng khác gì ruột thịt.
Nay ông đem chị tôi về, mà chị tôi bịnh nhiều quá, thiệt tôi lo sợ không nỡ lìa
chị tôi. Vậy tôi lạy ông xin cho phép tôi theo săn sóc chị tôi chừng nào chị
tôi mạnh tôi trở về.
Băng Tâm và nói và khóc. Trường Khanh vừa ý nên gật đầu lia lịa.
Bà Phủ không muốn cho Băng Tâm đi theo. May nhờ quan Phủ nghe lời trung hậu, động
lòng ngài cho theo, nên Băng Tâm mới gói áo quần đi với Bạch Tuyết được.
-------------------------------------
[1] yếu đuối như cây liễu, cây bồ
[2] (pont): sàn tàu từng trên
[3] quản lý
[4] ưa kể chuyện người khác
[5] ngắn
[6] lúc nầy, độ nầy
[7] đi tới đi lui
[8] môn đăng hộ đối: tương xứng danh vọng, tiền của
[9] Nhín nhút, tiện tặn
[10] thầu khoán, người đại diện một công ty
[11] vẻ mặt hờn giận
[12] (compradore): mại bản, người đại diện một hãng buôn để
giao thiệp, môi giới với khách hàng.
[13] (bâton): gậy
[14] lượm, tom góp
[15] bưu điện
[16] tem thơ
[17] cướp lời
[18] nói nặng, nói thẳng
CHƯƠNG 6 -
T
rường Khanh đưa Bạch Tuyết xuống đò, thừa lúc vợ chồng quan
Phủ ở trong mui, còn có một mình Băng Tâm đứng ngoài, anh ta mới lấy tay chỉ chỏ
ra dấu.
Trạo phu[1] không hiểu hai người muốn tỏ ý gì nên dứng ngó
trân trân. Ðò đi rồi, Trường Khanh trở về tính đi tàu xuống Cà Mau, trước bảo hộ
Bạch Tuyết, sau gần gũi Băng Tâm, nên thâu gom quần áo bỏ vào va-ly, biểu một
tên gia đinh ở lại coi nhà, còn dắt một đứa theo đỡ tay chơn.
Anh ta chắc đò đi chậm, không thể tới trước mình được, nên thừa
dịp ấy ghé Vĩnh Long thăm nhà và lấy bạc đem theo một ngàn nữa. Trường Khanh đi
dọc đường suy nghĩ hoài không hiểu vì cớ nào Bạch Tuyết lại nói mẹ ghẻ rước về
mà giết. Anh ta nhớ lại cách tháng trước, Băng Tâm có nói với mình Bạch Khiếu
Nhàn là ông ngoại của Bạch Tuyết và biểu viết thơ hỏi thăm Chí Ðại, nên khi xuống
Cà Mau, anh ta hỏi thăm nhà Khiếu Nhàn mà đến.
Chú Phú đang tưới kiểng, thấy Trường Khanh vào hỏi thăm Khiếu
Nhàn thì nói ông đau nằm trong buồng hoài, không tiếp khách được. Trường Khanh
biểu vào thưa rằng có mình tên là Trường Khanh ở Sài Gòn xuống và xin phép vô
trong mà nói chuyện riêng với ông.
Khiếu Nhàn đau phong thấp nên nằm hoài, vừa nghe tên Trường
Khanh thì ông chờn vờn ngồi dậy và hối chú Phú ra mời vào cho mau. Trường Khanh
bước vào thi lễ, Khiếu Nhàn đáp lễ rồi mời ngồi, và nói rằng:
- Tôi có bịnh ra ngoài tiếp khách không được, xin thầy miễn
chấp.
Trường Khanh không trả lời câu ấy, kéo ghế lại ngồi khít bên
đầu giường rồi hỏi rằng:
- Thưa ông, con gái quan Phủ tên là Bạch Tuyết đó có phải là
cháu ngoại ông hay không?
- Phải, nó là cháu ngoại tôi. Thầy biết nó bây giờ ở đâu hay
không? Sao hôm tháng trước tôi gởi thơ hỏi thăm mà thầy không trả lời giùm một
chút vậy!
- Thưa ông, tôi không trả lời cho ông, ấy là tại chỉ không muốn.
- Té ra thầy biết nó hay sao?
- Thưa biết, mấy tháng nay chỉ ở trên Sài Gòn thì phố tôi đâu
mặt với phố chỉ.
- Bây giờ nó còn ở đó hay không? Nó cậy thầy xuống thăm tôi
phải hôn?
- Thưa không, chỉ về gần tới Cà Mau nên tôi xuống trước mà
cho ông hay.
- Úy cha chả! Nếu được vậy thì tôi có phước biết chừng nào.
Khiếu Nhàn vừa nói vừa cười vừa khóc, bộ ông mừng rỡ không thể
tả cho rõ được. Trường Khanh để cho ông than thở vui mừng đã rồi mới đem chuyện
Bạch Tuyết nhớ chồng, thương ông, mà sanh bịnh, bà Phủ lên rước cô không chịu về,
quan Phủ lên nữa, bắt đại cô đem xuống đò chở về Cà Mau, mà thuật lại cho ông
nghe.
Khiếu Nhàn nghe rõ rồi, ông không khóc mà cũng không mừng nữa,
cứ ngồi xuống chiếu, bộ ông lo lắng lắm.
Trường Khanh thấy vậy mới hỏi rằng:
- Thưa ông, tôi không hiểu vì ý gì chị Bạch Tuyết không chịu
theo cha mẹ về Cà Mau mà chỉ lại nói chỉ phải chết về tay mẹ ghẻ cũng như má chỉ
hồi trước vậy? Chẳng giấu ông làm chi, tôi đây là anh em bạn của anh Chí Ðại. Từ
ngày tôi biết chị Bạch Tuyết là vợ của anh Chí Ðại thì tôi theo bảo bọc chỉ
luôn luôn. Vì tôi nghe chỉ nói mẹ ghẻ chỉ quyết rước chỉ về mà giết chỉ nên tôi
tuốt xuống đây trước cho ông hay, sau lập thế cứu chỉ. Vậy xin ông tỏ hết việc
nhà của ông cho tôi biết đặng tôi liệu cho.
Khiếu Nhàn nói rằng:
- Cháu gái tôi nó sợ phải lắm, bởi vì bà Phủ giết người không
gớm tay, chớ không phải tay tầm thường. Ðể tôi nói tắt cho thầy nghe: bà Phủ
khi mới vô làm bé quan Phủ, bà thừa dịp con gái tôi đau, bà tráo thuốc độc cho
con gái tôi uống mà chết đặng mà giựt chồng. Sau bà thấy tôi giàu lớn mà con
cháu duy còn có một mình con Bạch Tuyết mà thôi. Bà biết gia tài tôi sau nầy sẽ
về con Bạch Tuyết ăn, nên thừa lúc tôi đi khỏi, bà ép uổng quan Phủ gả nó cho
cháu bà. Con Bạch Tuyết nó nhớ thù mẹ nó, nên nó không ưng. Quan Phủ đánh khảo,
nó giận mới trốn mà đi theo Chí Ðại. Từ ấy đến nay bà ghét nó lắm, bà làm sao
không biết mà quan Phủ cũng ghét nó nữa. Bà có thương yêu gì, nên nghe nó đau,
lên rước đem về mà nuôi.
- Ờ ờ, tôi biết rồi, chắc là chồng nó đi xa, tôi đau ốm không
làm chi được, nên bà mới lập mưu giết luôn nó đặng ngày sau bà đoạt gia tài của
tôi cho thằng con trai quan Phủ ăn. Con Bạch Tuyết không có con, hễ nó chết rồi
thì ngày sau gia tài của tôi về quan Phủ ăn, chớ Chí Ðại giành sao được.
Trường Khanh nghe nói mồ hôi nhỏ giọt. Khiếu Nhàn thở ra mà
nói thêm rằng:
- Cha chả! Cháu tôi có bịnh nhiều mà đi dưới đò đây tôi sợ không
xong.
Trường Khanh đáp rằng:
- Xin ông đừng lo, ở dưới đò có cô Băng Tâm là chị em bạn thiết
với chị Bạch Tuyết. Cô cũng tận tâm với chỉ như tôi vậy. Tuy vậy mà cũng phải
tính phương nào hễ ghe về tới ông rước về bên nầy mà nuôi mới tiện.
Khiếu Nhàn gật đầu, hứa để Bạch Tuyết về tới, ông sẽ qua Phủ
rước đem về. Ông lại nói tiếp rằng:
- Thầy có lòng thương, nên không nệ cực khổ, theo bảo hộ cháu
tôi như vầy, thiệt tôi mang ơn thầy quá.
Ông bèn kêu gia đinh dọn cơm cho Trường Khanh ăn, rồi sửa soạn
giường chiếu đặng cho Trường Khanh nghỉ. Trường Khanh ở tại nhà Khiếu Nhàn được
bốn ngày, bữa nào cũng sai đứa ở theo mình đó đi chơi đặng rình coi hễ thấy ghe
đò quan Phủ về thì chạy về cho mình hay.
Qua ngày thứ năm, nó về báo rằng, quan Phủ về tới lại có đủ hai
cô nữa.
Trường Khanh mừng rỡ liền hỏi rằng:
- Sao mầy biết rõ dữ vậy?
- Hồi nãy tôi đi ngay qua Phủ, thấy có một chiếc đò lớn đậu
dưới bến. tôi giả nhà quê thấy đò tốt xuống coi chơi, rồi tôi hỏi ghe đâu đóng
kiểu lạ dữ vậy. Bạn đò cười tôi rồi nói ghe đó ở Sài Gòn đưa con quan Phủ về dưới
nầy. Tôi hỏi sao không đi tàu cho mau lại đi đò. Chúng nó nói người ta bịnh nhiều
đi tàu sao đặng. Tôi hỏi bịnh nhiều hay ít. Chúng nó nói hôm mới xuống đò tưởng
là chết gấp không về tới Cà Mau, may nhờ có cô nhỏ đi theo cổ săn sóc và đêm
nào cổ cũng nói xầm xì hoài, nên bịnh mới nhẹ lần, bữa nay gượng ngồi chút đỉnh
được.
Trường Khanh nghe nói mừng rỡ, chạy riết vô buồng thuật lại
cho Khiếu Nhàn nghe. Khiếu Nhàn đau phong thấp, nên hai chơn tê ngắt, đi không
được.
Ăn cơm rồi ông mới biểu gia đinh lấy võng mà võng ông xuống
ghe đặng ông qua Phủ xin rước Bạch Tuyết về nuôi. Quan phủ thấy Khiếu Nhàn qua
thì chào hỏi và nói rằng ngài hay Bạch Tuyết đau nhiều, nên lật đật lên Sài Gòn
rước về mới về tới.
Ngài nói như vậy song không cho Khiếu Nhàn thấy mặt cháu. Khiếu
Nhàn hỏi thăm chứng bịnh và hỏi thăm chuyện đi dọc đường một hồi rồi xin rước Bạch
Tuyết về nuôi.
Quan Phủ lặng thinh, không nhứt định.
Bà Phủ trong buồng bước ra nói rằng:
- Bác già cả mà lại bịnh hoạn, nếu đem nó về thì càng rối
thêm cho bác. Ðể nó ở bên nầy vợ chồng tôi nuôi lại không bằng bác hay sao?
Khiếu Nhàn ròng ròng quyết một xin đem Bạch Tuyết về hoài.
Ông nói thét bà Phủ giận nên đáp rằng:
- Bác thương nó sao bác không đi kiếm nó đem về đi. Ai đi rước
nó sẵn về đây cho bác hay sao, mà bây giờ bác giành nữa.
Khiếu Nhàn nghe nói xẳng thì giận mà lại lo, nên ngồi ngó
quan phủ trân trân, không nói chi được nữa. Quan Phủ ngó lơ, không rầy vợ, mà
cũng không nói cho mát lòng cha vợ trước. Khiếu Nhàn liệu nói nữa cũng vô ích,
mà nếu mắng lộn thì mắng không lại bà Phủ, nên hối gia đinh võng ông về.
Trường Khanh nghe Khiếu Nhàn về nói bà Phủ không cho rước mà
cũng không cho thấy mặt Bạch Tuyết thì lo sợ, nên đi ra đi vô gãi đầu hoài. Khiếu
Nhàn bị võng đi động nên hai chơn nhức lại. Trường Khanh hối gia đinh lấy dầu
thoa cho ông một hồi bớt nhức, rồi anh ta nhắc ghế lại gần bên giường mà hỏi rằng:
- Bây giờ ông tính phải làm thế nào mà đem chị Bạch Tuyết về
bên nầy được?
- Xin thầy làm ơn tính giùm, chớ tôi bại chơn bây giờ có đi đứng
gì được mà sanh sự.
- Thưa ông, tuy ở bên có cô Băng Tâm mặc dầu, song tôi nghe
ông nói bà Phủ ác độc thì tôi lo quá. Thế nào cũng phải đem về bên nầy mới yên.
Tôi có một kế, song xin ông cho phép tôi hỏi một đôi điều rồi tôi mới tính được.
- Miễn là thầy cứu cháu tôi được thì thôi, thầy biểu thế nào
tôi cũng chịu hết thảy. Thầy muốn hỏi điều chi?
- Ông nói bà Phủ nhỏ hồi trước tráo thuốc mà giết bà Phủ lớn,
vậy mà ông có đủ chứng cớ hay sao?
- Sao lại không có. Thầy hỏi ông Sen thì rõ, đầu đuôi có ông
hết thảy. Ông nói tôi mới biết rõ chuyện đó.
Trường Khanh bước ra ngoài, kêu ông Sen vô, rồi biểu ông thuật
rõ việc tráo thuốc lại cho anh ta nghe. Trường Khanh ngồi suy nghĩ một hồi rồi,
mới nói rằng:
- Có lẽ cứu được!
Khiếu Nhàn mừng rỡ liền hởi:
- Làm sao?
- Chớ chi trong nhà có người nào thuở nay hay qua lại nhà bà
Phủ thì càng dễ hơn.
- Có ông Sen đó, ông ở bên Phủ mười năm, ổng mới về bên nầy
hơn một năm nay đó đa.
- Ðược vậy thì tốt lắm. Tôi tính làm như vầy đây. Tôi sai ông
Sen qua bên dinh giả bộ thăm Bạch Tuyết, hẹn hò Băng Tâm, ban đêm lúc trong nhà
ngủ hết cô lén mở cửa đem chị Bạch Tuyết ra ngoài đặng phụ tôi rước tuốt về bên
nầy. Như sáng ngày quan Phủ có hay chạy qua mà đòi thì ông cự hẳn đừng có trả,
không lẽ quan Phủ dám bắt ông mà sợ. Nói cùng là nghe, ví như bà Phù có xúi
quan Phủ lên Toà mà kiện đi nữa, thì tôi ở nhà gìn giữ, còn ông với ông Sen đi
đối nại, luôn dịp ông cáo bà Phủ về sự tráo thuốc mà giết bà lớn nữa, và xin
quan Biện Lý đòi chứng tra hỏi cho minh bạch. Vợ chồng quan Phủ mắc lo việc đó,
tự nhiên hết đòi bắt chị Bạch Tuyết nữa.
- Thầy tính hay lắm! Tôi tu nhơn tích đức, không muốn sanh sự.
Mà nếu họ muốn làm dữ thì tôi chống cự chớ sợ gì.
Ông Sen nói rằng:
- Ðược để tối nay tôi qua dinh lén cho cô Băng Tâm hay, rồi
biểu cô liệu coi bữa nào là được thì khắc kỳ[2] đặng tôi qua phụ với cô.
Trời vừa chạng vạng tối thì ông Sen lò mò qua dinh. Bà Phủ
ngó thấy ông thì hỏi ông đi đâu. Ông nói nghe Bạch Tuyết mới về nhà trong mình
có bịnh nên ông qua thăm. Bà Phủ hứ một cái rồi nói rằng:
- Nó đau để cho nó nghỉ, đừng có vô buồng nói lộn xộn nó mệt.
Ông Sen đứng ngoài dòm vô cửa buồng, thấy dạng Băng Tâm đi
qua đi lại, mà mắc bà Phủ ngồi tại bộ ván dựa cửa buồng, và bà ngó ông chằng chằng,
nên ông không nói mà cũng không ra dấu được. Ông đứng xớ rớ trót một giờ. Lính
sửa soạn đóng cửa, ông phải ra về.
Trường Khanh với Khiếu Nhàn tuy chưa thi kế được, song không
thối chí, biểu ông Sen đi ngủ tồi tối mai sẽ qua bên dinh nữa.
Bà Phủ thật là tay độc ác. Bà đem được Bạch Tuyết xuống đò
thì trong túi bà có sẳn thuốc độc rồi, nhưng vì bị Băng Tâm giữ gìn thuốc men,
cơm nước cho Bạch Tuyết hoài, nên bà không ra tay được. Bà sanh lòng oán giận
Băng Tâm, nên lúc ở dưới đò thì bà tính về Cà Mau bà sẽ lập thế giết Băng Tâm
chết trước rồi bà làm tới Bạch Tuyết mới nhẹm.
Ðò vừa về tới nhà thì bà cho người dọ tin Khiếu Nhàn, họ nói
Khiếu Nhàn còn đau chơn đi đây không được mà trong nhà lại có một thầy lạ mặt.
Bà hỏi tướng mạo thì biết là Trường Khanh, nên trong lòng không vui. Bà nhớ lại
lúc ở trên nhà Bạch Tuyết, bà thấy Trường Khanh với Băng Tâm tình ý khác thường;
nay bà đem Bạch Tuyết về Cà Mau mà Trường Khanh đi theo chắc là anh ta vì Băng
Tâm mà đi chớ anh ta kêu Bạch Tuyết bằng chị không lẽ anh ta có tư tình với Bạch
Tuyết. Bà Phủ nhớ tới việc đó thì trong lòng bà sanh lo, bởi vì bà coi bộ tướng
Trường Khanh hẳn hòi, nếu anh ta ở đây mà bà động tới Băng Tâm hoặc Bạch Tuyết
thì chắc anh ta sanh việc khó. Bởi bà lo lắng, không biết liệu thế nào cho kế
thành mà khỏi sanh chuyện, nên ông Sen qua bà quạu quọ không cho vô thăm Bạch
Tuyết.
Chừng ông Sen về rồi, bà nghi Trường Khanh sai qua nói chuyện
chi đây, bởi vậy bà tiếc không cho ông Sen vô buồng đặng bà rình nghe coi nói
chuyện gì, rồi bà sẽ lập kế mà hại Trường Khanh trước.
Chiều bữa sau, ông Sen lơn tơn qua dinh quan Phủ, bà Phủ hỏi
ông đi đâu, thì ông nói ông Khiếu Nhàn sai ông qua thăm Bạch Tuyết xem bịnh nhẹ
hay chưa. Bà Phủ không gắt gao trơn trớt như bữa trước nữa, bà cười và nói rằng:
- Bữa nay nó đã khá nhiều. Ông về thưa lại với bác rằng hồi
chiều nó rán ăn được nửa chén cơm. Nó nằm chơi trong buồng, ông vô thăm nó một
chút.
Bà nói dứt lời liền đứng dậy đi ra nhà sau. Ông Sen nghe bà
biểu đi vô buồng thì mừng quá nên xâm xâm đi riết vô. Bà Phủ giả bộ đi ra sau
nhà, mà chừng đi ngang qua cái buồng trống, khít bên cái buồng của Bạch Tuyết
thì bà bước vô đó rồi kê mặt dựa kẹt vách ván mà dòm. Bà thấy ông Sen đứng nói
chuyện xầm xì với Băng Tâm, hai người nói nhỏ quá bà nghe không rõ, duy thấy
Băng Tâm gặc đầu lia lịa và nghe nói rằng: 'Tối nay hai giờ''. Bà lại thấy ông
Sen bước ra ngoài rồi Băng Tâm ngồi trên giường ôm lỗ tai Bạch Tuyết mà hỏi nhỏ
một hồi, bà biết Băng Tâm hẹn hò việc chi đây nên bà gật đầu cười thầm rồi trở
ra cửa buồng mà đi xuống nhà sau.
Ông Sen về thuật lại cho Trường Khanh và Khiếu Nhàn hay rằng,
ông đã giáp mặt hai cô nói chuyện thong thả và Băng Tâm hẹn hai giờ khuya đêm ấy
cô sẽ lén mở cửa đem Bạch Tuyết ra ngoài, mà cô căn dặn phải có ai núp ngoài vườn
đặng tiếp với cô đắt Bạch Tuyết về bên nầy chớ cô không thuộc đường sá. Trường
Khanh gật đầu đáp rằng: ''Tối nay tôi đi với ông''
Ðồng hồ gõ một giờ, Trường Khanh mặc quần lãnh đen, áo bành
tô nỉ đen, mang giày tây đen, đội kết cũng đen, đi theo ông Sen qua dinh quan
Phủ.
Ðêm ấy nhằm đêm mùng bảy, trăng đã lặn mất hồi đầu canh hai rồi,
nên trời tối đen như mực. Qua đến cầu mát quan Phủ, ông Sen nói chó trong nhà
quen với ông nên không sủa, vậy ông khuyên Trường Khanh tạm ngồi đó, còn ông
lén bước nhẹ nhẹ vô cửa dòm coi trong nhà động tịnh lẽ nào. Ông nghe im lìm, lại
thấy trong buồng Bạch Tuyết còn đèn chong leo lét.
Cách một hồi lâu, ông mới thấy dạng Băng Tâm đi qua đi lại,
ông lật đật trở ra cầu mát nói cho Trường Khanh nghe, rồi hai ngưòi dắt nhau
lén đi vô núp dựa bên mấy chậu kiểng để trước cửa. Trường Khanh núp giây lâu,
không nghe chi hết, mới đứng dậy ngóng cổ dòm vô nhà, thì thấy Băng Tâm đứng
trước cửa buồng ngó giáo giác bốn phía, rồi lần bước lại cửa mạch. Anh ta chắc
Băng Tâm sẽ mở cửa đó mà ra, nên ở ngoài cũng lần bước đi lại phía đó.
Trường Khanh, ông Sen đứng ngoài im lìm mà chờ, Băng Tâm mở cửa
nhẹ nhẹ bước ra, ngó thấy Trường Khanh thì mừng, nên đưa tay ra dấu biểu ở tại
đó mà chờ. Cô quày quã trở vô, tính dắt Bạch Tuyết đem ra, nào dè cô vừa mới
xây mình vô chưa khỏi cửa bỗng nghe tiếng la bài hải:
- Ăn trộm, mở cửa đó, bắt nó! Bắt nó!
Băng Tâm giựt mình, không biết ăn trộm ở đâu, muốn chạy riết
vô buồng, mà chơn rung lập cập, chạy không dược. Cô tưởng ăn trộm mở cửa sau,
bà Phủ hay nên bà la, chừng cô thấy một gói đồ rớt bên chơn cô, rồi bốn năm chú
lính vây cô biểu cô đưa tay đặng họ còng, chừng ấy cô mới hay cô bày kế mà mắc
kế, nên cô thất kinh, đứng trân trân, không nói được tiếng chi hết.
Trường Khanh ở ngoài nghe hô ăn trộm, thì biết mưu đã lậu rồi,
nên dắt ông Sen ra cầu mát mà ẩn mặt. Anh ta chạy được một khúc, nghe tiếng bà
Phủ biểu ''còng con nhỏ đó lại'' biết Băng Tâm đã bị hại nên không nỡ đi luôn,
mới trở lại quyết vô bào chữa cho Băng Tâm. Ông Sen sợ Trường Khanh liên lụy
nên chạy theo níu kéo lại.
Trường Khanh nghe tiếng Băng Tâm khóc trong lòng đau đớn như
dao cắt, nên xô ông Sen rồi xốc xốc đi vô nhà, ngó thấy Băng Tâm hai tay bị
còng hết thì giận quá, nên một tay thì nắm cái còng, còn một tay chỉ mấy chú
lính mà nói rằng:
- Việc đâu còn có đó, bây không đặng phép làm ngang, phải mở
còng ra cho mau.
Bà Phủ nghe Trường Khanh nói lớn tiếng, bà nổi giận, nên xốc
lại chỉ Trường Khanh mà nói rằng:
- À sắp mày dùng nội công ngoại kích đây mà! Thầy đứng ngoài
rình, còn con nọ mở cửa đưa đồ ra chớ gì! Cai Quới, mầy còng luôn thằng nầy nữa
cho tao.
Trường Khanh trợn mắt đáp rằng:
- Bà đừng vu oan cho người ta, tôi ăn trộm của bà vật gì? Bà
muốn làm dữ thì để tôi tới Tòa rồi bà sẽ biết tôi là người gì.
Cai Quới với mấy tên lính đứng dụ dự không biết phải còng
luôn Trường Khanh hay không. Bà Phủ nghe Trường Khanh hăm he thì giận quá, nên
giậm chơn nạt lớn rằng:
- Cai Quới, tao biểu mày bắt nó, sao mầy không chịu vưng lời
tao? Tao sẽ lột lon mầy cho mầy coi!
Bốn tên lính thấy chú Cai bị quở, nên xúm lại bắt Trường
Khanh mà còng. Trường Khanh có một mình vùng vẫy hết sức mà cự không lại, túng
thế phải chịu thua, để cho chúng còng, song trợn mắt ngó bà Phủ lườm lườm.
Lúc đương lộn xộn ấy, quan Phủ ngồi tại bộ ghế giữa mà hút
thuốc, không nói chi hết, còn Bạch Tuyết nằm trong buồng kêu trời mà khóc. Ông
Sen thấy việc chẳng lành thì lật đật chạy vô cho Khiếu Nhàn hay.
Bà Phủ thấy lính còng Trường Khanh được rồi, mới day lại nói
quan Phủ rằng:
- Ông làm phước bẩm đặng giải hai đứa ăn trộm nầy lên Tòa liền
bây giờ cho tôi. Tang cớ đủ hết đây, chúng nó không nói gì nữa được.
Quan Phủ biểu lấy gói đồ mở ra coi thì thấy có một cái áo xuyến
đen, hai cái quần lãnh với một chiếc neo. Quan Phủ dạy dắt hết gian nhơn đem
giam dưới trại rồi lấy bút mực ra làm phúc bẩm. Bà Phủ lại nói:
- Ông cũng làm thêm một tờ phúc cho quan Chánh Bố xin lột lon
cai Quới cho tôi. Lính tráng mà nó nghịch mạng quá như vậy không để làm gì.
Quan Phủ ừ, rồi ngồi viết. Chừng quan Phủ viết xong rồi, bà biểu đọc lại cho bà
nghe. Bà chê ông nói yếu ớt, nên sửa lại hai ba chỗ.
Khiếu Nhàn nghe ông Sen về nói Trường Khanh với Băng Tâm bị
nhà bà Phủ phao là ăn trộm nên bắt còng hết hai người, thì ông thất kinh, ngồi
than trời trách đất một hồi rồi tính sáng ngày biểu gia đinh võng ông qua Phủ đặng
ông kêu nài cho hai trẻ. Chẳng dè sáng bữa sau, lúc mặt trời mới mọc, ông Sen
đi thám dọ về bảo rằng quan Phủ đã sai lính giải Trường Khanh với Băng Tâm lên
Tòa hồi khuya rồi. Khiếu Nhàn đổ mồ hôi, tay chơn run lập cập nằm ngửa trên giường
mà khóc.
Bà Phủ làm cho Băng Tâm đi khỏi nhà rồi thì trong lòng bà thơ
thới bởi vậy bà ra vô an ủi săn sóc Bạch Tuyết luôn luôn.
Chiều bữa sau quan Phủ đi vô kinh Bạch Ngưu đặng phân ranh đất
của dân xin khẩn. Bà Phủ ở nhà, lúc mặt trời chen lặn bà vô buồng mở tủ lấy một
thang thuốc rồi xuống bếp nhúm lửa mà sắc. Chừng thuốc tới rồi bà cho tôi tớ
lính tráng qua chợ chơi hết; bà bưng chén thuốc đem vô buồng, kêu Bạch Tuyết thức
dậy mà nói rằng:
- Bầy trẻ nó sắc thuốc rồi đây con, rán ngồi dậy mà uống. Phải
uống riết cho mau mạnh, kẻo dì lo quá.
Bạch Tuyết nghi thuốc ấy chẳng hiền, nên không chịu uống,
song sợ mích lòng mẹ ghẻ, nên phải nói dối rằng:
- Hôm rày uống thuốc bắc hoài, đắng miệng quá. Thôi, để nghỉ
một bữa. Bà Phủ đáp rằng:
- Phải uống luôn cho mau mạnh, chớ nghỉ sao đặng. Thuốc sắc lỡ
rồi, con không chịu uống bây giờ phải đổ hay sao?
Bà Phủ năn nĩ không được thì giận, nên hăm he. Chừng bà thấy
Bạch Tuyết quyết không chịu uống, bà không thèm nói nữa, bỏ đi đóng cửa buồng
cho chặt, rồi leo lên giường, tay thì đè Bạch Tuyết, còn tay thì bưng chén thuốc
đổ vô họng. Bạch Tuyết đau lâu tay chơn yếu nhớt, vùng không lại sức bà Phủ,
nên nằm mà la, song cắn răng mím miệng hoài, bà Phủ đổ thuốc không được. Bà Phủ
tay mắc đè còn tay bưng thuốc, không thể vạch miệng được, lây quây một hồi bà mệt
nên bà tính bóp họng Bạch Tuyết đặng có hả miệng cho bà đổ thuốc.
Bà vừa mới chận cổ Bạch Tuyết, bỗng nghe động cửa buồng một
cái rầm, cánh cửa tróc ngã ngang, rồi thấy có hai người xông vô, một trai là
Phan Chí Ðại với một ông già là ông Sen. Bà Phủ kinh hãi nên ngồi sửng sốt trên
mình Bạch Tuyết, tay hãy còn bưng chén thuốc.
Còn Bạch Tuyết thấy chồng với ông Sen thì chờn vờn muốn ngồi
dậy, mà bị bà Phủ đè nên gượng dậy không nổi. Chí Ðại chạy lại, tay giựt chén
thuốc đưa cho ông Sen cầm, còn tay thì kéo bà Phủ xuống. Bà Phủ riu ríu xuống,
cặp mắt chớp lạch, mặt mày tái xanh, coi bộ sợ sệt lắm.
Chí Ðại ôm vợ đỡ ngồi dậy, Bạch Tuyết choàng tay ôm cổ chồng
và khóc và nói rằng:
- Nếu trễ một chút nữa thì chắc vợ chồng hết thấy mặt nhau.
Chí Ðại nói rằng:
- Lỗi nầy tại qua. Mà qua đã về rồi, thôi em đừng sợ chi hết.
Chí Ðại day qua thấy bà Phủ còn ngó trân trân thì nói rằng:
- Hồi trước bà giết bà già tôi rồi mà bà chưa vừa lòng, nay
bà còn muốn giết luôn vợ tôi nữa? Việc dữ tại bà gây trước, vậy bà đừng trách.
Bà độc ác quá, tôi phải trừ bà mới xong.
Anh ta kêu ông Sen mà nói rằng:
- Ông bưng chén thuốc cho kỹ, coi chừng đừng cho đổ, bởi vì
chén thuốc đó có ích lắm. Bà Phủ nghe nói thất kinh, chờn vờn xốc lại, muốn giựt
chén thuốc may nhờ Chí Ðại ngó thấy, đưa tay mà cản bà té dựa vào cái tủ, ông
Sen mới bưng chén thuốc bước ra ngoài được.
Chí Ðại thò tay ẵm vợ đem ra ngoài rồi biểu ông Sen về; ông
Sen bưng chén thuốc đi trước Chí Ðại ôm Bạch Tuyết theo sau. Bà Phủ muốn la
làng, nhưng không hiểu tại bà nghĩ chén thuốc quan hệ hay tại bà sợ Chí Ðại làm
dữ, mà bà không dám la, đứng tại cửa ngó theo, mặt mày xanh dờn, mồ hôi xối xả.
Tôi tớ đi chợ về thấy bà Phủ áo quần bàu nhàu, tóc tai xụ xợp,
cửa buồng ngã nghiêng, không hiểu có chuyện chi, nên lật đật hỏi thăm.
Bà Phủ nói rằng: Chí Ðại làm ngang qua bắt Bạch Tuyết, bà cản
không nổi, nên nó phá nhà, phá cửa, rồi bồng vợ đi mất. Bà nói như vậy rồi nằm
gác tay qua trán mà suy nghĩ. Bà đã đáng tội rồi mà chưa biết ăn năn.
Chiều bữa sau, quan Phủ về, bà còn kiếm chuyện nói dối rằng
Chí Ðại qua phá nhà và đánh bà mà bắt vợ, rồi bà xúi quan Phủ nhứt diện qua bắt
Bạch Tuyết lại, nhứt diện lên Tòa kiện Chí Ðại về tội đánh bà. May cho quan Phủ
lần nầy ngài không dám nghe lời vợ nữa, ngài nói rằng tuy Bạch Tuyết theo không
Chí Ðại, song Khiếu Nhàn có làm hôn thú cho vợ chồng nó rồi, nên bây giờ vợ nó
thì nó bắt, mình không phép ngăn cản. Bà Phủ giận quan Phủ không nghe lời, nên
nằm dàu dàu không thèm nói chuyện Bạch Tuyết nữa.
Chí Ðại đi hơn một năm, đi tuy không hẹn, song về kịp kỳ quá!
Tàu vừa tới bến, thì tuốt lên nhà Khiếu Nhàn, thấy ông ngoại
vợ đang ngồi than khóc, hỏi sơ chuyện nhà thì thất kinh, nên lật đật biểu ông
Sen đi theo, tính qua dinh quan Phủ rước vợ đem về...
Bước vô dinh không thấy lính tráng, bạn bè chi hết, lại thấy
cửa buồng của Bạch Tuyết đóng kín mít, trong lòng phát nghi. Hai người kề tai
vào cửa thì nghe tiếng la nho nhỏ, và có tiếng vùng vẩy è è.
Chí Ðại nóng nảy kề vai phá cửa mà vô, mới gặp cuộc hung ác của
bà Phủ đó. Chí Ðại đem Bạch Tuyết về tới nhà thuật sơ mọi việc lại cho Khiếu
Nhàn nghe, thì ông mừng quá mà chảy nước mắt.
Ông Sen bưng chén thuốc đem cất trong tủ, rồi đi giăng mùng.
Quét giường, dọn chỗ cho Bạch Tuyết nằm, còn Chí Ðại thì trở xuống tàu kêu ông
thầy thuốc Quảng Ðông lên coi mạch hốt thuốc cho Bạch Tuyết uống.
Bạch Tuyết nhờ thuốc thang hay, mà cũng nhờ mừng chồng về,
nên khuya lại trong mình nhẹ nhàng khỏe khoắn lắm. Cô ngồi dậy to nhỏ thuật hết
lại việc nhà cho chồng nghe. Chí Ðại hay vợ vì mình mà phải dày bừa gió bụi thì
kính trọng vô cùng.
Anh ta nghe chuyện Băng Tâm với Trường Khanh thì chưng hửng,
rồi chừng tới lúc bà Phủ vu oan đặng làm hại hai người ấy trước rồi vợ mình
sau, thì anh ta giận quá, liền đi lấy ve đổ thuốc của ông Sen bưng đem về đó rồi
nhét nút chặt mà cất.
Sáng bữa sau, Chí Ðại bắt một con chó đổ thử một chút thuốc ấy
vô họng, thì con chó đi gật gù, gật gưỡng chừng một giờ đồng hồ rồi té xỉu nằm
chết.
Chí Ðại thất kinh, mà Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn thấy vậy cũng
giùn mình. Chí Ðại biểu thầy thuốc Quảng Ðông xem mạch Bạch Tuyết lại thì thầy thuốc
nói bịnh mười phần giảm được năm rồi, không còn lo chi nữa. Thầy coi mạch luôn
cho ông Khiếu Nhàn thì cũng nói bịnh ông có thể cho thuốc chừng một tháng ông
đi được.
Chí Ðại mừng rỡ vô cùng. Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn khuyên Chí
Ðại hãy lên Tòa minh oan giùm cho Trường Khanh với Băng Tâm. Chí Ðại gầt đầu, rồi
xuống tiệm Lâm Liễn Thành biểu chủ tiệm đưa cho mượn một ngàn đồng bạc, đặng lo
tính việc nhà, rồi ít bữa sẽ tính sổ. Chí Ðại bỏ bạc vào túi, trở về nhà căn dặn
gia đinh phải giữ gìn cẩn thận rồi vào trong từ giã Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn
mà đi Bạc Liêu, quyết báo oán cho vợ nên có đem ve thuốc theo nữa.
Chí Ðại lên tới Bạc Liêu thì thẳng vô Tòa, đọc hết các việc
gian của bà Phủ Cà Mau cho quan Biện Lý nghe, nào là tráo thuốc giết bà Phủ lớn
mà giựt chồng, nào là ép gả con ghẻ cho cháu mà đoạt của, nào giả thương yêu rước
con ghẻ về mà làm hại, nào là vu oan cho Trường Khanh với Băng Tâm đặng rảnh
tay, nào là đè con ghẻ đổ thuốc độc cho chết đi đặng có đoạt hết gia tài của
Khiếu Nhàn.
Chí Ðại nói đủ đầu đuôi rồi đưa ve thuốc cho quan Biện Lý xem
rồi van xin thả Trường Khanh với Băng Tâm là người ngay, còn xin bắt tội bà Phủ
là người đã giết chết bà Phủ lớn, mà lại còn toan giết luôn Bạch Tuyết nữa.
Quan Biện Lý chăm chú nghe kỹ lắm, ngài cầm ve thuốc xốc lên
xốc xuống mà coi rồi nói rằng:
- Vụ Trường Khanh với Băng Tâm bị cáo về tội ăn trộm thì tôi
đánh dây thép qua Vĩnh Long hỏi thăm tánh hạnh đã biết rõ là người tử tế bị cáo
gian, nên tôi đã thả hồi sớm mai nầy rồi. Còn vụ bà Phủ Nguyễn Thị Phường là vợ
ông Phủ Lê Xuân Thới, thì thầy phải làm một lá đơn kể cho đủ mọi việc thầy vừa
nói với tôi đó, rồi tôi sẽ xét ngay gian cho. Ve thuốc thầy để đây đặng tôi gởi
cho lương y thí nghiệm. Thầy đi làm đơn đi; như chiều nay vô không kịp thì sáng
mai vô hầu cũng được.
Chí Ðại nghe dạy như vậy liền xá quan Biện Lý mà ra, tính đi
mướn Trạng Sư làm đơn kiện mới mạnh. Anh ta vừa tới nhà Trạng Sư, thấy Trường
Khanh đương đứng trước cửa nhà mà nói chuyện với một cô nhỏ, nghĩ chắc cô ấy là
Băng Tâm, nên mừng rỡ đi riết lại. Trường Khanh thấy Chí Ðại thì chưng hửng, vụt
hỏi rằng:
- Anh Chí Ðại đó phải hôn?
- Phải.
- Anh về bao giờ? Anh có ghé Cà Mau hay không?
- Tôi ở Cà Mau lên đây.
Băng Tâm thuở nay chưa biết mặt Chí Ðại, song nghe người ấy
là chồng Bạch Tuyết thì kính mến tự nhiên, bởi vậy vừa nghe Trường Khanh kêu
tên, thì cô đã mừng rồi mà chừng nghe Chí Ðại ở Cà Mau lên, thì cô không ái ngại
chi hết, vụt hỏi rằng:
- Anh có gặp mặt chị Bạch Tuyết hay chưa? Anh lên đây chi vậy?
Bà Phủ có hại chỉ hay không?
Chí Ðại cúi đầu chào Băng Tâm, miệng chúm chím cười mà nói rằng:
- Anh đã gặp vợ anh rồi, mà cũng đã rước đem về bên nhà rồi nữa,
hai em chớ lo. Anh nghe vợ anh thuật chuyện hai em hết lòng bảo hộ vợ anh đến nỗi
phải mang họa, thì anh cám nghĩa hết sức, chẳng biết lấy chi mà tạ ơn hai em
cho vừa.
Trường Khanh nói bứt ngang[3] rằng:
- Chuyện đó hơi nào anh nói thất công. Bây giờ anh đi đâu
đây? Sao không ở nhà với chị?
Chí Ðại đáp rằng:
- Anh lên đây là quyết minh oan cho hai em, và luôn dịp anh
kiện bà Phủ đặng báo thù cho vợ anh nữa. Anh đã vô Tòa thưa với quan Biện Lý rồi.
Quan Biện Lý nói ngài biết hai em bị cáo gian, nên thả hai em rồi. Còn vụ bà Phủ
thì ngài dạy anh phải làm đơn, nên anh lại đây mướn Trạng Sư làm cho hẳn hoi, bởi
vì bà Phủ dữ quá anh về anh gặp bà đang đổ thuốc độc cho vợ anh, may anh phá cửa
vô cứu kịp, chớ không vợ anh chết rồi. Anh lấy được thuốc độc mới nạp cho Tòa hồi
nãy.
Trường Khanh với Băng Tâm nghe nói chắc lưỡi lắc đầu. Trường
Khanh lại nói rằng:
- Tòa mới thả hai em hồi sớm mai. Hai em lại đây cũng tính mướn
Trạng Sư kiện bà Phủ đặng đem chị về bên ông mà nuôi, và luôn dịp kiện thể diện
hai em nữa. May anh đã về rồi, vậy anh liệu coi phải làm thế nào?
Chí Ðại nói:
- Hai em đừng lo, chuyến nầy anh quyết ra tay trừ bà Phủ đặng
khỏi hậu họa. Vậy hai em theo anh vô Trạng Sư đặng anh cậy ổng làn đơn.
Ba người đắt nhau vô phòng Trạng Sư, Chí Ðại đọc hết đầu đuôi
chuyện bà Phủ tráo thuốc mà giết mẹ vợ và chỉ chứng là ông Sen, thầy thuốc Ðài
với tên Vân, ở Cái Tàu. Anh ta cũng thuật luôn chuyện bà Phủ cáo gian Trường
Khanh với Băng Tâm rồi cậy Trạng Sư làm đơn. Trạng Sư biên hết lời của Chí Ðại
nói, rồi đòi ăn nội vụ sáu trăm đồng bạc. Chí Ðại chịu.
Sáng bữa sau Băng Tâm đi chợ mua đồ, còn Trường Khanh với Chí
Ðại lên đọc đơn lại và ký tên, rồi chồng bạc cho Trạng Sư. Trạng Sư khuyên hai
người về, để mặc ông hầu nài, chừng nào xử sẽ có trát đòi.
Chí Ðại, Trường Khanh với Băng Tâm ngồi ghe trở về Cà Mau. Bạch
Tuyết uống thuốc của ông thầy Quảng Ðông mấy bữa trong mình khá nhiều, ăn ngủ
được, nên đã đi ra đi vô chút đỉnh. Cô thấy chồng về mà lại có Băng Tâm với Trường
Khanh thì cô mừng nên hỏi thăm không dứt. Khiếu Nhàn cũng mừng, nên biểu ông
Sen vịn cho ông rán đi ra ngoài mà nói chuyện. Trường Khanh thuật chuyện Tòa thả
mình với Băng Tâm rồi thì Chí Ðại tiếp mà thuật chuyện mình đã mướn Trạng Sư
làm đơn cáo bà Phủ.
Bạch Tuyết vui lắm, nói chuyện không ngớt, nhứt là theo hỏi
Chí Ðại với Trường Khanh coi chắc Tòa bỏ tù bà Phủ hay không. Khiếu Nhàn ngồi lặng
thinh ngó Bạch Tuyết một hồi rồi nói rằng:
- Ở đời mình chẳng nên gieo thù kết oán làm chi, miễn mình khỏi
bị hại thì thôi, ai quấy để cho ông Trời hại họ. Bây giờ cháu bỏ tù bà Phủ, rồi
mẹ cháu sống được hay không, mà cháu làm nhơ danh cha cháu.
Bốn người nhỏ nghe nói tới câu chót thì giựt mình, nên ngồi
nhìn nhau không biết tiếng chi mà trả lời.
Cách ít ngày nghe nói có trát đòi quan Phủ và bà Phủ đi hầu,
mà chừng về thì có một mình quan Phủ, còn bà Phủ bị Tòa giam. Bạch Tuyết uống
thuốc chừng nửa tháng thì mạnh lại như thường, còn Khiếu Nhàn nhờ thuốc đó nên
cũng bớt tê chơn, đi chút đỉnh được.
Bữa nọ có trát đòi ông Sen, vợ chồng Chí Ðại, Băng Tâm với
Trường Khanh đi hầu. Mấy người đi dọc đường gặp thầy thuốc Ðài với tên Vân cũng
đi hầu nữa. Tòa tra hỏi chứng cứ rõ ràng ngày trước bà Phủ tráo thuốc giết bà
Phủ lớn mà lương y khám nghiệm ve thuốc của Chí Ðại nạp đó cũng là thuốc độc,
nên quan Biện Lý định giải bà Phủ lên Tòa đại hình Long Xuyên.
Ðến bữa xử, Tòa đòi đi hầu một lượt nữa. Tòa kêu án bà Phủ
tám năm cấm cố, quở quan Phủ Lê Xuân Thới làm quan bất minh. Quan Phủ ở trong
Tòa bước ra xuôi xị, đi không muốn nổi. Bạch Tuyết thấy cha như vậy thì ứa lụy,
nước mắt chảy ròng ròng, lật đật chạy lại vịn cha mà nói rằng:
- Xin cha chớ phiền con, bởi vì dì giết mẹ con, mà lại muốn
giết con nữa, nên con phải trả thù, con không dè làm như vậy mà liên lụy đến
cha.
Quan Phủ lau nước mắt mà nói rằng:
- Cha đáng tội lắm, con chẳng có lỗi chi đâu.
Vợ chồng Chí Ðại với Trường Khanh, Băng Tâm thấy quan Phủ suy
nhược tinh thần quá, thì lo sợ nên theo an ủi, rồi đi với ngài mà về không chịu
để ngài đi riêng. Về đến Cà Mau, quan Phủ ghé nhà Khiếu Nhàn khóc lạy mà xin lỗi.
Khiếu Nhàn thấy quan Phủ ăn năn, ông động lòng nên ngồi khóc, không nói chi hết.
Bạch Tuyết thấy ông, cha như vậy nên cũng khóc mùi.
Có lẽ tại Tòa viết thơ cho quan Chánh Bố mà kể tội quan Phủ
Lê Xuân Thới, nên cách ít ngày quan Phủ được tờ quan trên dạy phải làm đơn xin
hưu trí lập tức. Ngài biết mình đáng tội nên vưng lịnh làm đơn gởi liền, không
dám kêu nài chi hết.
Chí Ðại vừa về tới, kế gặp việc nhà lộn xộn, chưa tính sổ
sách thâu xuất được. Chừng cứu vợ, trả thù xong, anh ta xuống tiệm Lâm Liễn
Thành mà suy tính. Tính ra thì vốn hai muôn, lời được hai muôn nữa. Chí Ðại lấy
tiền huê hồng hai ngàn đồng, lãnh tiễn lương trong một năm rưỡi chín trăm đồng
nữa cộng chung là hai ngàn chín trăm đồng. Anh trả lại cho Lâm Liễn Thành một
ngàn còn dư được một ngàn chín trăm đồng. Lâm Liễn Thành trả một muôn đồng bạc
vốn lại và chia lời gần một muôn nữa.
Chí Ðại chưng hửng hỏi:
- Tôi không có hùn đồng vốn nào mà chia lời, chia vốn nỗi gì?
Lâm Liễn Thành không thèm trả lời, đi lấy tờ hiệp đồng đưa
cho Chí Ðại coi. Chí Ðại đọc từ đầu chí cuối, thấy tên mình đứng hùn rõ ràng mà
ông Bạch Khiếu Nhàn thay mặt ký tên giùm, chừng ấy mới hiểu ông ngoại vợ mình
muốn giúp mình làm ăn, song ông sợ mình thẹn thùa, nên ông làm kín như vậy.
Chí Ðại xách hết bạc lời, bạc vốn đem về, thấy Khiếu Nhàn
đương ngồi nói chuyện với Trường Khanh, Băng Tâm, Bạch Tuyết và quan Phủ, anh
ta mới đến ngay trước mặt Khiếu Nhàn mà nói rằng:
- Thưa ông, phận cháu nghèo hèn, ông lấy bực quân tử mà đãi
cháu, giúp cho cháu làm ăn bạc muôn mà không nói cho cháu biết, thiệt xưa nay
cháu chưa thấy ai đãi cháu ngoại rể như ông vậy. Chẳng nói cái ơn làm chi, cái
tình của ông đó dầu muôn năm cháu cũng còn cảm hoài. Cháu đi buôn bán hơn một
năm nay, số vốn một muôn sanh lợi cũng gần một muôn nữa, cháu lãnh tiền lương
và tiền huê hồng đã nhiều rồi, vậy cháu xin ông lấy vốn và lời lại.
Ai nấy thấy bạc nhiều, mà lại nghe Chí Ðại nói như vậy, không
hiểu duyên cớ làm sao, nên ngồi ngó Khiếu Nhàn không nháy mắt. Khiếu Nhàn vuốt
râu cười mà nói rằng:
- Ông muốn cho cháu tiền bạc hoài mà cháu hiềm nghi không chịu
lấy, nên ông phải tính thế cho cháu mà không nói cho cháu biết đặng cháu đi làm
ăn, may được giàu lớn như người ta. Nay cháu làm ăn khá, một vốn sanh một lời, ấy
là cái may của cháu. Bạc nầy ông đã quyết cho cháu rồi, nào ông lấy lại. Cháu
đem cất đi, để làm vốn buôn bán có lẽ làm ăn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét