Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

Những tên biệt kích cầm bút 2

Những tên biệt kích cầm bút 2

CHƯƠNG 17
Trích "Những Tên Biệt Kích Cầm Bút"
Cuộc họp giao ban thường lệ buổi sáng của Ban An Ninh công an thành phố. Chỉ huy các đơn vị trực thuộc đã đông đủ. Màn che tấm bản đồ thành phố đóng khung trải gần kín cả bề mặt vách tường được kéo ra. Cán bộ tham mưu thuyết trình về những diễn biến mới nhất trong hai mươi bốn giờ qua.
Chỉ huy trưởng lắng nghe. Bản báo cáo ngắn gọn. Thông thường đồng chí sẽ phát biểu một số vấn đề rút ra từ tình hình được phản ánh và ra những chỉ thị cần thiết. Cuộc họp chỉ kéo dài 15 phút.
Sáng hôm ấy cũng vậy. Nhưng khi chỉ huy các đơn vị rời phòng họp thì đồng chí Tư Tuân, phụ trách đơn vị chống phá hoại tư tưởng được mời ở lại.
Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.
- Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?
- Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng…. Tư Tuân định hỏi "có vấn đề mới gì không?" nhưng anh thấy câu hỏi ấy thừa, bởi chỉ huy trưởng đã mời ở lại, hẳn phải có "vấn đề" cần trao đổi. Vì vậy anh bỏ lửng câu nói, nhìn đồng chí cấp trên của mình, chờ đợi.
- Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng đó là khói của đốm lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải chú ý tới nó.
- Vâng, Tư Tuân vừa nói, vừa lắc đầu - Thú thật với anh, tôi chán ngấy mà vẫn phải đọc. Anh em Việt kiều về thăm quê hương cũng nói với tôi, họ chẳng bao giờ thèm để mắt tới món hàng ôi đó! Thế nhưng những tên bồi bút đã nhẵn mặt và số em út mới ngoi lên lại vẫn sản xuất ra những món hàng này để lên dây cót tinh thần lẫn nhau, gây ảo tưởng cho nhau. Chỉ một số người di tản bị lừa bịp, còn đa số những người khác không xa lạ gì với những lời dối trá ấy. Đọc những thứ ấy giống như phải mổ một xác chết thối rữa để giám định y khoa. Chán thật.
- Ừ. Chán thật. Kể ra, ta đâu có lạ gì chúng nó.
Đột nhiên đồng chí chỉ huy trưởng đặt một câu hỏi mà thoạt nghe, tưởng đâu như ngoài đề câu chuyện đang trao đổi:
- Anh Tư còn nhớ vụ áp phe Martine Bokassa năm nào chớ?
Nghe người chỉ huy hỏi. Tư Tuân sực nhớ câu chuyện cũ mà báo chí Sàigòn thời ngụy đã đăng tải dài dài, nhưng anh chưa hiểu đồng chí chỉ huy trưởng của mình nhắc lại câu chuyện giật gân ấy với dụng ý gì.
Bokassa nguyên là một trung sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp. Những năm sống ở Việt Nam, trong những mối quan hệ "nhân tình" ông đã gửi lại Sàigòn một đứa con gái. Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ, Bokassa trở về quê hương. Một thời gian sau, ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Trung Phi. Nhớ đến giọt máu còn để lại ở Việt Nam, ông ngỏ ý nếu ai tìm ra và đưa được người con gái của ông về Trung Phi ông sẽ hậu tạ.
Như vớ được một món bở, sứ quán một nước tư bản ở Sàigòn, lúc bấy giờ đã tìm một cô gái lai da đen đưa sang Trung Phi và bảo đó là con của vi đương kim Tổng thống nước này. "Sứ giả" được đón tiếp nồng nhiệt và trả công rất hậu. Người con gái da đen xấu số đang sống lam lũ ở một xóm nhà lá của Sàigòn, nghiễm nhiên trở thành "ái nữ" của một Tổng Thống. Báo chí gọi cô ta là Công chúa Lọ Lem của thời đại.
Ít lâu sau, bọn CIA lại tìm một cô gái da đen khác với đủ bằng chứng khẳng định cô Martine Bokassa thứ hai đó là con gái của Tổng thống Bokassa. Việt Định Phương, chủ nhiệm tờ báo Trắng Đen, cầm đầu phái đoàn nhận lãnh "sứ mạng" đưa cô gái ấy sang Trung Phi. Cùng đi với Việt Định Phương còn có bà mẹ của cô gái. Bokassa nhận ra người "vợ" cũ và thừa nhận cô gái bà ta là Martine Bokassa chính hiệu. Tuy thế, ông ta vẫn xử sự đẹp với cô gái thứ nhất: nhận cô ta làm con nuôi. CIA đã thắng lớn và kéo hẳn Bokassa về với nước Mỹ, đẩy lùi uy tín của nước tư bản kia. Song CIA không phải dừng lại tại ấy. Sau này cô gái ấy lấy một viên thiếu tá thân Mỹ và nghe đâu chính người con rể này đã làm cuộc đảo chính Bokassa. Xứ Trung Phi giầu kim cương đã rơi vào khu vực ảnh hưởng của Mỹ. Chắc rằng Việt Định Phương cũng kiếm chác khá nhiều đô la, chưa kể số kim cương do Bokassa thưởng công.
- Đấy! Vẫn giọng trầm dịu, đồng chí chỉ huy trưởng nói tiếp - Nay vẫn tên Việt Định Phương là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Trắng Đen. Lại cũng vẫn Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm "Sáng Tạo" do USIS dựng lên… Vẫn nhưng quân bài ấy trên tay bọn chủ cũ đang múa may ở Mỹ. Chúng đã sử dụng ngòi bút để tập hợp bọn phản động ở nước ngoài. Chính tên Việt Định Phương ấy núp dưới biệt danh Trúc Việt đã tô son vẽ phấn cho tên Võ Đại Tôn, suy tôn hắn thành "người hùng phục quốc", móc nối Võ Đại Tôn với Vàng Pao, đặt Tôn lên lưng cọp rồi đẩy hắn về Việt Nam để phá hoại. Âm mưu chưa thực hiện được thì Võ Đại Tôn đã bị ta tóm cổ trên đường thâm nhập.
Tư Tuân xen vào:
- Sau Võ Đại Tôn, chắc chúng sẽ nặn ra con rối khác.
- Đấy, đấy! - chỉ huy trưởng ngắt lời - Vấn đề là chỗ ấy. CIA đâu từ bỏ những tên âm binh ấy, cháy tên này thì chúng tạo ra tên khác đế… nướng tiếp. Không hiểu sau vụ ấy, cái tên chủ báo Trắng Đen kia nhận được bao nhiêu đô la nhỉ?
- Cái đó thì chịu. Nhưng có tin nhiều tên trong bọn phản động lưu vong định vặt lông tên đểu cáng ấy, khiến nó phải lỉnh ở xó xỉnh nào đó, ít thấy xuất hiện. Nghe nói nó chuồn qua Châu Âu rồi.
- Chắc thế thôi. Dẫu sao con rối ấy đã diễn xong phần kịch bản mà bọn chủ dành cho nó. Và đến lượt một con rối khác. À, mà tên thật của nó là gì nhỉ?
- Dạ, Phạm Thu Trước.
- Anh nhớ khá nhỉ, - Chỉ huy trưởng cười.
- Thật tình tôi không muốn nhớ những tên ấy, nhưng vẫn phải nhớ. Thật là "tai nạn nghề nghiệp"
- Sao "ông bạn" lại coi là tai nạn nhỉ? - Chỉ huy trưởng cười thông cảm và nói tiếp - Cuộc đấu tranh còn tiếp tục, thì ta còn phải tiếp tục nhớ đến chúng. Dầu cho bọn này chết già, chết ráo, cũng vẫn chưa xong. Lại có một số tên khác mới nẩy lên, không chỉ ở bên đó mà ngay cả ở đây - Chỉ huy trưởng lật những trang của tờ "Kháng Chiến" và dừng lại ở trang in bài ký tên Trần Tam Tiệp - Như tên này, anh Tư có biết không?
Tư Tuân kéo tờ báo đến trước mặt, đọc lướt vài dòng. Cái tên Trần Tam Tiệp ấy nghe rất lạ. Anh cố nhớ nhưng vẫn mù tịt. Chỉ huy trưởng nói tiếp:
- Tên này chưa từng xuất hiện trên làng văn, làng báo Sàigòn trước đây. Thật ra, trước đây hắn cũng có viết đôi bài báo nhưng đều ký tên người khác. Tôi cũng mới biết qua về lai lịch của hắn. Hắn nguyên là Trung tá An ninh Không quân ngụy. Điều này đã được bộ tàng thư xác định. Ấy thế mà nay nó lại là Tổng thư ký cái "Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại" đóng trụ sở ở Paris. Công khai đấy, khỏi cần kiểm chứng, vì chúng treo bảng hiệu đàng hoàng. Và Tiệp đã xách cặp đi dự hết hội nghị này đến hội thảo kia, còn chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là một trong những tay sai lâu năm của sứ quán Mỹ ở Sàigòn. Đằng sau bảng hiệu ấy là gì, đó lại là chuyện khác. Trong bài báo này, Tiệp lên tiếng đòi ta tha cho số bồi bút phản động đã bị bắt và cho bọn ấy ra nước ngoài. Láo thật. Anh đọc qua bài biết của nó đi, rồi ta bàn.
Tư Tuân đọc lướt mấy trang báo. Cũng những luận điệu vu cáo rẻ tiền. Cả cái lối hành văn, thuật ngữ đã quen thuộc đối với anh. Từ khi được giao phụ trách đơn vị này, anh đã chịu khó đọc hàng lô sách, tiểu thuyết của số "nhà văn" cũ và sách báo mới được bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài. Thật là chán đến buồn nôn. Nhưng anh vẫn ráng đọc "để xem chúng thế nào". Rặt một lũ chống cộng cuồng si, thể hiện lộ liễu ý thức phản động cao độ. Đã có anh em nói đùa rằng "anh Tư đang trở thành nhà nghiên cứu văn học thực dân mới" Cũng không ngoa đâu vì đến nay Tư Tuân có thể quen thuộc khuynh hướng, bút pháp những tên "nổi tiếng". Nhưng cái tên Trần Tam Tiệp này thì anh chịu.
Khi Tư Tuân đọc xong, chỉ huy trưởng hỏi:
- Anh thấy thế nào?
- Thằng này láo, - Tư Tuân buột miệng.
- Đành thế. Nhưng cái mà chúng ta quan tâm là sự tác động ngầm đối với những người ở lại đây, mặc dầu những người ấy không cần và không muốn nó bảo vệ. Sau gần mười năm sống dưới chế độ mới, họ đã tìm câu kết luận cho chính họ, họ đã tạo dựng một cuộc sống mới. Nhiều người tiếp tục theo đuổi nghề văn, nghề báo, một số đã chuyển sang nghề khác vì thấy phù hợp với họ hơn; trừ một số ít ngựa quen đường cũ, bị rủ rê, có người không đủ nghị lực, lại chứng nào tật ấy. Có người phải di chuyển đến một nơi xa xôi nào đó để cắt mối liên lạc cũ. Thậm chí có người tự nguyện trở vào trại.
Thế đấy. Cuộc sống nào cũng có quy luật riêng của nó. Ở đây là quy luật của bọn phản cách mạng, bọn vong quốc lang thang ở các nước Tây phương. Do bản chất và chịu sự tác động của bọn chủ, chúng còn biết làm gì khác, nếu không tiếp tục chống lại tổ quốc bằng cách thò vòi, kích động, móc nối những đồng bọn của chúng còn lại ở trong nước. Nếu ta chặt đứt những cái vòi ấy, chúng sẽ tịt ngòi.
- Vâng. Tôi nắm được vấn đề anh gợi ý. Xin anh cho tôi có thời gian nghiên cứu thêm.
Chỉ huy trưởng đứng dậy, trao cho Tư Tuân cả mớ báo ấy và dặn:
- Anh mang về đọc hết đi. Tôi chỉ xem qua, nhưng thấy có một số bài có giọng văn quen quen. Trong hoàn cảnh đất nước ta mọi sự phức tạp hơn chứ chẳng phải là chuyện văn chương nhảm nhí. Có những tín hiệu có ích cho chúng ta đấy! Tôi sẽ gửi thêm cho anh những tin tức từ bên ngoài để anh nắm thêm. Ta sẽ có dịp bàn tiếp.
Tôi bỏ qua không điểm khoảng 40 trang hai anh cớm cộng viết tưởng tượng lèm bèm về anh em chúng tôi. Chương VIII của NTBKCB quý bạn vừa đọc gồm 8 trang, đánh số từ 74 đến 81.
CHƯƠNG 18
T
rong Chương VIII hai anh đại tá công an Việt cộng đả động đến một số văn nghệ sĩ ở hải ngoại. Những ông văn nghệ sĩ đẻ bọc điều này, nhanh chân bỏ nước chạy lấy người, phú lỉnh được sang Pháp, sang Mỹ. Nếu các ông bị kẹt giỏ ở Thành Hồ chắc chắn tên tuổi các ông không được Cớm ViXi nhắc đến trong quái phẩm chúng gọi là "Truyện" này. Kẹt giỏ, các ông cũng giã từ vòng tay ấm, vòng tay lạnh của bà vợ gầy để đi tù mút mùa Lệ Thu như chúng tôi thôi.
Những người bị nhắc đến trong chương này là Việt Định Phương, em Martine Bokassa, rồi "Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm Sáng Tạo do USIS dựng lên…" - tên cúng cơm của thi sĩ Nguyên Sa được Cớm Cộng thêm vô một chữ O to tổ bố - Võ Đại Tôn, đặc biệt luật sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch - dường như anh là chủ tịch tiên khởi, tức bom-nhe, thứ nhất - của Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại - tôi không biết nên sài ở đây tiếng "bị" hay tiếng "được" với việc bọn Cớm Cộng nhắc đến Luật sư Trần thanh Hiệp và Hội Văn Bút: "… chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là tay sai lâu năm của Sứ quán Mỹ ở Sàigòn…"
Tôi thú nhận trong những gì tôi viết ra cứ 10 phần thì có 5 phần diễu cợt, bông lơn, tán nhảm, đấu hót lia chia, 3 phần do tôi phịa ra, chỉ có may mắn hai phần là sự thật. Song ở cái bài viết hôm nay - một sáng chủ nhật mùa xuân ở vườn đất xứ Mẽo Virginia của những người Mẽo yêu nhau, người Mít ở nhờ - tôi long trọng xin lỗi tất cả quý vị - nhân sĩ quốc gia, quốc dzô và bạn hữu, thân cũng như sơ - những người đã bị công an Việt cộng vu khống, bôi bẩn vì các vị có liên can xa gần đến anh em chúng tôi. Các vị đã phải chịu một tình trạng mà bọn tù nạn nhân cộng sản chúng tôi trong những nhà tù gọi là "bị văng miểng". Miểng đây là miểng lựu đạn. Bọn xấu quẳng lựu đạn vào gầm bàn bọn ngồi ăn nhậu ở cùng phòng ăn với các vị. Chúng định giết bọn kia nhưng vì các vị ngồi gần bọn kia nên các vị bị miểng lựu đạn nổ dzăng trúng, thường thì các vị bị trúng miểng lựu đạn nơi gọi là ti-bịa, các bà các cô thường bị trúng vào chỗ để ngồi.
Và "đặc bịt" Chương BKCB này đụng đến nhà văn Mai Thảo. Tôi nghe nói ông có làm bài thơ gì đó trong có hai câu:
Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta lịch sử chép ngàn chương.
Đời ông lịch sử chép ngàn chương là chuyện tất nhiên kiêm tự nhiên, chuyện chắc như bắp rang, như gạch tầu, như đinh 10 phân đóng cột gỗ lim. Trong số ngàn trang ấy tôi xí phần viết về ông vài ba trang lấy thảo.
Cả đời tôi không có một trang truyện nào ký tên tôi được xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Đúng thôi. Những gì tôi viết đều thuộc loại "hàng chợ", mà đã là "hàng chợ" tức là hàng rẻ tiền, hổng phải thứ hàng nghệ thuật cao giá. Ba mươi mùa cóc chín trước đây ở Sàigòn tôi nghe nói - tôi chỉ nghe nói lại thôi, người nói không nói trước mặt tôi - ông Sần Foóng, tức Trần Phong Giao, báo Văn, tòa soạn ở đường Phạm Ngũ Lão trước rạp xi nê Thanh Bình - xếp hạng tôi - Hát Hát Tê - hổng phải là "nhà văn". Nghe nói lại câu đó, không những tôi không buồn mà trái lại tôi còn coi ông Sần Foóng như người tri kỷ. Tôi hổng phải là nhà văn và chưa một lần tôi tự nhận là nhà văn. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự nhận tôi là người viết tiểu thuyết. Khi bị gọi là "nhà văn" tôi thấy ngượng. Bởi vậy việc tôi không có mặt trên tạp chí Sáng Tạo của ông Mai Thảo là hợp lý.
Và cũng bởi vậy, tôi không được giao du thân mật với ông chi nhiều, tôi hân hạnh được ông gọi bằng mày, xưng tao nên "kính trọng không bằng vâng lời", tôi cũng xưng tao với ông và kêu ông bằng mày.
Nhà văn Mai Thảo, tháng Ba, tháng Tư năm 1975, chỉ có một thân, một mình, không vợ, không con. Dường như tháng ấy, ngày ấy ông cũng chẳng có nhân tình, nhân bánh gì cả. Vậy mà nhiều ông văn nghệ sỡi vợ con đùm đề, có ông còn đèo bòng vợ lớn, vợ bé, vẫn bỏ nước chạy lấy người thoát thân, ông Mai Thảo cu ky đờ luých vẫn cứ lang thang trên những vỉa hè Sàigòn thất thủ. Trước ngày 30 Tháng Tư 75 ông ngụ trong một phòng ở Nhà Chiều Tím cạnh phở 79 đường Võ Tánh. Sau Tháng Tư đen hơn mõm chó ông về ở một phòng trong căn nhà của ông anh ông - ông Nguyễn đăng Viên - đường Phan Đình Phùng.
Từ 30 Tháng Tư năm 1975 ông Mai Thảo cũng sống lêu bêu, vất vưởng không khác gì các ông văn nghệ sĩ VNCH lớn nhỏ khác. Phải nói rõ, những ông văn nghệ sĩ được nói đây là những ông văn nghệ sĩ xi -dzin, tức là thường dân, lại có nghĩa là không ở trong quân đội. Những ông văn nghệ sĩ quân nhân còn kẹt lại một tháng sau ngày Việt cộng vào Sàigòn đã lên đường đi cải tạo hết. Ngày tháng phất phơ không có việc làm, các ông văn nghệ sĩ bắt chước các thầy Min Đơ, Min Toa đạp xế đạp đi lang thang tìm nhau, gặp nhau ở những quán cà phê vỉa hè, đi ăn nhậu cũng vỉa hè cho đỡ buồn. Thường dân Sàigòn thất nghiệp cũng mần y như những ông văn nghệ sĩ cho qua thì giờ. Nghĩa là thường dân ngày ngày cũng không có việc làm, cũng đạp xế đi lang thang, cũng ngồi cà phê vỉa hè cả buổi tán dóc cho đỡ buồn. Gặp nhau tất nhiên là hỏi thăm kẻ còn, người phú lỉnh, người đi cải tạo, rồi trao đổi những tin đồn. Thường dân làm như thế thì không sao, nhưng văn nghệ sĩ làm như vậy là không được, văn nghệ sĩ không có quyền tụ tập, trao đổi với nhau những tin đồn.
Những ngày ấy Sàigòn có thật nhiều tin đồn. Đại khái vài tin: quân ta còn rất đông trong rừng sẽ kéo về một ngày rất gần, Rằn ri xuất hiện ở ngay Cát Lái, Thủ Thiêm, phi cơ thả dù đồ tiếp tế xuống Dốc Mơ, Đà Lạt v.v… Ai sáng tác những tin đồn ấy? Tôi không biết. Tôi chỉ biết những ông văn nghệ sĩ kẹt giỏ Sàigòn không phải là những người sáng tác tin đồn. Các ông loan truyền những tin đồn các ông nghe được thì có, sáng tác thì không.
Hai ký giả Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến bị tóm ngay từ những ngày đầu tháng Năm 1975.
Tiếp theo là Uyên Thao, Vũ Ánh, Đoàn Kế Tường, Văn Chi. Nếu các ông Chu Tử, Hồ Anh, Phạm Duy còn kẹt lại ở Sàigòn tôi chắc bọn công an đặc vụ từ Hà Nội vào cũng đem xe bông đến tận nhà các ông, ưu ái đưa các ông đi cất ngay mà không đợi đến mùa ổi chín năm sau.
Tháng Ba năm 1976, công an Vixi mở chiến dịch bắt văn nghệ sĩ Saigon. Trước khi viết đến chiến dịch bắt bớ này, tôi ghi lại vài dòng về vụ nổ bom làm chết người mà bọn công an Việt cộng nói là có dính líu đến một số văn nghệ sĩ. Tôi xin nói ngay những gì tôi viết đây là những gì cá nhân tôi được nghe nói. Những sự kiện này không có gì bảo đảm là chính xác.
Vụ nổ xẩy ra ở Hồ Con Rùa đường Duy Tân. Cả Thành Hồ xã hội chủ nghĩa chỉ có một tờ nhật báo Saigon Giải Phóng. Tờ báo này không loan một mẩu tin nào về vụ nổ ở Hồ Con Rùa, nên người dân chỉ biết về vụ nổ qua những tin truyền miệng mơ hồ. Nghe nói có nhiều người chết oan. Vụ nổ Hồ Con Rùa xẩy ra vào khoảng đầu năm 1976. Vài tháng sau chiến dịch bắt bớ văn nghệ sĩ Sàigòn được tiến hành.
Huỳnh Bá Thành, dân Quảng Nam, trước năm 1975 vẽ biếm họa ký tên họa sĩ Ớt ở nhật báo Điện Tín do Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm. Trước năm 1975, làng báo Sàigòn có những họa sĩ Chóe, Tuýt, Hĩm, anh họa sĩ Ớt không sao nổi lên được. Việt cộng vào Sàigòn, anh cu Ớt trở thành công an nằm vùng Huỳnh Bá Thành. Quyển "Vụ án Hồ Con Rùa" do Huỳnh Bá Thành viết là quyển truyện mở đầu một lô những quyển "Vụ án đủ thứ" sau đó.
Vụ nổ xưa rồi. Đã hơn hai mươi mùa lá rụng trên đường Duy Tân cây dài bóng mát. Riêng tôi, tôi có hai điều cần viết về vụ nổ Hồ Con Rùa:
- Người anh em nào gài chất nổ tại sao không cho nổ ở một cơ sở nào của Việt cộng? Bất cứ cơ sở nào cũng được, không cần phải là cơ sở quan trọng. Ngay gần đó, có Nhà Thanh Niên của ta bị Việt cộng chiếm làm nhà triển lãm thường trực Tội Ác Mỹ Ngụy. Tại sao người anh em không làm cử chỉ đẹp, cho chúng tôi được vinh hạnh theo là cho nổ trong cái phòng triển lãm ấy? Biết là khó đấy nhưng anh em cho nổ ở công trường Hồ Con Rùa, người bị chết chỉ là anh em, con cháu chúng ta thôi.
Công an Việt cộng không bắt được ai là người đặt bom ở Hồ Con Rùa. Vụ án chìm dần trong quên lãng và thời gian. Bọn cộng sản có cái bệnh chung là chuyên giấu giếm, che đậy những sự kiện xấu xảy ra trong xã hội chúng cầm quyền. Việt cộng tiết lộ rất mơ hồ về vụ nổ Hồ Con Rùa cũng như về vụ cô đào Thanh Nga cùng ông chồng Đổng Lân bị bắn chết ở Thành Hồ năm 1978. Đây là thời gian Tàu cộng và Việt cộng đang hục hặc hăm he đánh nhau. Việt cộng đổ là do bàn tay lông lá của bọn phản động Bắc Kinh đã hạ sát đào Thanh Nga chỉ vì Thanh Nga đóng vai "Thái Hậu Dương Vân Nga" trong vở tuồng cùng tên. Đại khái sự tích vở tuồng như sau: Cuối đời nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt nhỏ bé ở miền Nam sau ít năm độc lập lại bị người Hán tính chuyện xâm lăng. Quốc gia lâm nguy, vua ít tuổi không thể lãnh đạo quân dân chống cường địch, may sao nước nhà có Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn là người anh dũng. Bà Thái Hậu họ Dương bèn dẹp tình riêng, lo chuyện chung, lấy hoàng bào của Vua cho Lê Tướng quân mặc. Hành động của bà Thái hậu đa tình cho nhân dân biết cơ nghiệp nhà Đinh - mở đầu bởi người hùng Cờ Lau Đinh Bộ Lĩnh - đến đây là chấm dứt. Ngôi Vua đã được đích thân Thái Hậu Mẹ Vua trao cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn để Tướng quân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước. Nghe nói Dương Thái Hậu còn đi xa một bước nữa trên đường thưởng công cho Thập đạo Tướng quân bằng cách trở thành vợ của Tướng quân.
Đấy là ý chính vở tuồng "Thái Hậu Dương Vân Nga." Ngoài việc kêu gọi đánh quân nhà Hán - năm 1978 là quân Trung cộng cờ đỏ búa liềm năm sao vàng - vở tuồng còn có ý đồ khuyên đàn bà con gái miền Nam bại trận nên quên chồng cũ - những anh bại trận này đã chết và còn sống cũng như đã chết - để trao thân gửi phận cho những anh chồng mới trẻ, khỏe hơn, những anh chiến thắng v.v….
Và chỉ có thế thôi - mà theo Việt cộng - "bọn phản động Bắc Kinh đã giết nữ nghệ sĩ Thanh Nga…" Năm 1962, đào Thanh Nga đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Hai Chuyến Xe Bông của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn hiện sống ở San José, Cali. Hai chuyến xe bông? Phải chăng đây là cái tên tiền định? Cô đào tài sắc có ông chồng chết theo. Đám tang hai người cùng cử hành một ngày, một giờ. Dù là vợ chồng cũng không tiện hai quan tài đi cùng một chuyến xe bông ra nghĩa địa. Khi cô đào bị bắn chết thê thảm anh Con trai bà Cả Đọi đang nằm phơi rốn cho muỗi đốt trong cái gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, anh chắc đám tang cô ít nhất phải có Hai Chiếc Xe Bông chứ không phải một.
Vòng vo tam quốc. Xin lỗi đã đưa quý vị đi theo cô đào Thanh Nga Cải Lương chi bảo tài sắc nổi nhất, đắt giá nhất một thời … đến nghĩa trang, bỏ quên nhà văn Mai Thảo Bảng Đường nằm cu ky hơi lâu trong căn phòng của ông ở đường Phan Đình Phùng. Căn nhà đẹp này nguyên là nhà của một ông anh của ông. Ông anh ù té chạy được trước 30 tháng 4. Một ông anh khác của ông về ở nhà này, dành cho ông một phòng. Có đêm theo ông đi chơi quá khuya - nhà tôi ở mút chỉ cà tha tận đầu đường Lê Văn Duyệt, bị đổi tên là đường Cách Mạng Tháng Tám, gần Ngã Tư Bẩy Hiền - tôi theo ông về ngáo với ông trong phòng này. Tôi thấy trong ngăn kéo bàn ngủ bên giường của ông có mấy bài thơ mới làm của Thi bá Vũ Hoàng Chương. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Thi bá và bà vợ bị đuổi ra khỏi cái vi la sang trọng trong khu Lăng Cha Cả - khi Thi bá là Thi bá, người ta hân hoan được mời ông về nhà ở với người ta trong vi la này. Khi cộng sản nói cối dép râu vào Sàigòn. Thi bá không những chỉ hết là Thi bá mà còn bị coi như một thứ tội nhân văn học, người ta đuổi ông bà đi không chút xót thương.
Thi bá cùng bà vợ về sống trong một khu lao động bên Khánh Hội, Thi bá vẫn mần thơ. Ông làm nhiều bài thơ ngắn, bốn câu, sáu câu, viết ngay vào mảnh giấy trao cho người đến thăm ông. Lý do Việt cộng bắt ông là: "sáng tác và phổ biến thi văn phản cách mạng".
Trong tác phẩm Quần đảo Ngục tù - The Gulag Archipelago - Tác giả Alexander Solzhenytsin viết đại khái: Sống trong kìm kẹp của bọn mật vụ cộng sản, người dân khiếp sợ đến nỗi không những không ai không dám làm một hành động phản kháng mà còn không ai dám bỏ trốn. Như con chim trước con rắn, người ta chỉ mong bọn công an đến gõ cửa nhà người khác. Nhớ lại thời người dân ở Leningrad bị khủng bố, tôi nghĩ nếu chúng tôi, những người dân hiền lành, chỉ chống đối bọn công an đêm đêm đi bắt người bằng cách lén ra phá hoại xe ô tô của chúng thôi, đã có biết bao nhiêu người không bị bắt, thoát khỏi việc bị chết trong ngục tù vì bọn công an Leningrad không có xe để đi bắt họ. Có thể nói tất cả mọi người dù biết mình sắp bị bắt vẫn cứ chịu chết ở nhà chờ chúng đến bắt. Người ta nghĩ rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của công an mình không thể nào trốn thoát được. Bỏ trốn chỉ thêm tội nặng. Nhưng tôi biết một sinh viên khi thấy bọn công an đến bắt anh, tung cửa sổ nhẩy ra vườn sau chạy thoát. Và anh thoát luôn. Mười mấy năm sau trở về thành phố tôi lại gặp anh….
Tình trạng người dân khiếp sợ bọn công an ở Nga dù sao cũng vẫn không nặng bằng tình trạng xẩy ra ở Sàigòn và những tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi từng là một quốc gia riêng với đủ thứ lệ bộ, lễ nghi của một quốc gia độc lập, nơi người dân trong mấy chục năm trời từng đổ máu, đổ nước mắt chống cộng sản. Trong cái gọi là Khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ Sàigòn, Hai Khuynh một cán bộ biên tập tạp chí Đại Đoàn Kết, đến dự với tư cách hướng dẫn viên, nói:
- Nếu chúng tôi còn yếu như năm 1954 thì lần này có thể trong số các anh có vài anh bị chúng tôi cho đi mò tôm rồi đấy. Chuyện trả thù tắm máu không xảy ra vì bây giờ chúng tôi mạnh rồi, chúng tôi có Đảng lãnh đạo với chính sách đúng đắn…

Ý Hai Khuynh muốn nói là Việt cộng khi vào Sàigòn đã tha, đã không đè cổ năm bảy văn nghệ sĩ VNCH ra cắt tiết lấy máu tươi cúng Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng ngày Chủ tịch dzô dinh Độc Lập. "Mò tôm" là hai tiếng mới tinh, mới có từ những năm 1946, 1947 trong ngôn ngữ Việt Nam bốn ngàn bốn mươi năm văn hiến diễn tả việc giết người của Việt cộng. Đêm đến, người chống đối hay không chống đối nhưng bị Việt cộng cho là nguy hiểm bị chúng trói tay, bịt mắt dẫn ra bờ sông, bãi cát vắng tanh - Tội nhân được đưa ra bờ sông không phải để đứng ngóng đò như trong thơ Tê Tê Ca Hát mà là để - bị bắn vào đầu, bị đâm, bị cắt cổ rồi bị đạp một đạp cho nhào xuống sông. Từ đó, nạn nhân sẽ vĩnh viễn làm bạn với cá tôm. Người dân miền Bắc gọi việc đó là "cho đi mò tôm". Hai Khuynh là dân miền Nam kháng chiến tập kết ra Bắc nên sài tiếng "mò tôm" khá nhuyễn.

Tôi nghĩ ta không nên vu cho Việt cộng nhiều tội ác hơn là những tội ác họ đã làm với đồng bào của họ. Việt cộng, nón cối, dép râu, AKa, tóc bím, răng cải mả, mông đít to như cái thúng, ngơ ngáo kéo nhau vào Sàigòn như đàn bò vào thành phố ba triệu dân mà chỉ có ba anh - Xin lỗi - Tính lại chỉ có bốn anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Vũ Hạnh và Thái Bạch là bốn người quen sơ sơ. Ký giả Thái Bạch, thường được anh em gọi là Thái Bịch, mặt mũi khó đăm đăm, những ngày trước 30 Tháng Tư năm 1975 ngồi xào nấu tin lô can, tin xe cán chó, tin người đánh nhau được gọi là tin "Từ thành đến tỉnh" trong tòa soạn nhật báo Xây Dựng của Linh mục Thiên Hổ Nguyễn Quang Lãm ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về mục Cờ Tây.

CHƯƠNG 19

C

ông tử Hà Đông nhấn nút linh tử xem lại vài cảnh bỏ nước chạy lấy người thê thảm hai mươi mốt mùa cô hồn tháng Bảy năm xưa. Phải nói là ngày ấy, tháng ấy, năm ấy Công tử gà què kẹt giỏ chạy không kịp chứ không phải là không muốn chạy. Từ trưa ngày 29 tháng Tư trực thăng Mẽo bay vần vũ trên trời Sàigòn, tiếng máy bay quần thảo suốt đêm. Tảng sáng Ba Mươi, trực thăng Mẽo vắng bóng trên thành phố đầu hàng. 11 giờ trưa "Toỏng Thoóng" Dương Văn Minh đọc lệnh buông súng trên ra-dzô, những người lính Việt Nam Cộng Hòa bại trận, buông súng, vừa đi vừa khóc trên hè phố. Đường phố Sàigòn náo loạn, người ta chạy lên, chạy xuống như kiến vỡ tổ. Bốn giờ chiều có anh nào đó tên là Tòng - Nguyễn hay Lê Văn Tòng - cùng vài anh nữa hát bài "Nối Vòng Tay Lớn" chào mừng Việt cộng trên đài phát thanh.

Năm, sáu, bẩy, tám, chín, mười ngày sau một số ký giả nhanh chân chạy đến "trình diện" ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Lê Lợi. Ở đây có một anh cán bộ nào đó tên là Kỳ Nhân cấp cho đám ký giả Sàigòn nhanh chân chạy đến với chủ mới những giấy chứng nhận "có đến trình diện" ký tên Kỳ Nhân. Ít ngày sau, anh Kỳ Nhân này mất tích. Nhiều ký giả nói với nhau: "Không biết thằng Kỳ Nhân là thằng nào. Có lẽ tên nó là Kỳ Nhông thì đúng hơn…"

Bọn Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam chiếm tòa Đại sứ Đại Hàn ở đường Nguyễn Du - nghe nói nhà này nguyên là nhà của ông Nguyễn Hữu Hào, ông Quốc cữu thời vua Bảo Đại - văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bảo nhau đến đó "trình diện cách mạng". Thực ra Việt cộng nó chỉ ra lệnh và kêu gọi các sĩ quan, công chức và đặc biệt là quý ông phú lít, bác sĩ, giáo viên, nhân viên bệnh viện v.v… đi trình diện thôi. Mới vào được Sàigòn Việt cộng đang có quá nhiều việc rối tinh, rối mù. Họ không ngờ họ chiếm được Sàigòn đẹp quá Sàigòn ơi dễ và nhanh ngon lành đến thế, hai là họ chẳng thèm để ý, để tứ, để mắt, để mũi gì đến đám văn nghệ sĩ Sàigòn nên họ hổng có kêu gọi mấy anh đi "trình diện, trình mạo" chi ráo trọi. Mấy ảnh sợ và mấy ảnh tưởng bở, mấy anh nghĩ "đi trình diện là tốt", nên mấy ảnh lơ láo đến Tòa Đại sứ Đại Hàn nay đã đổi chủ. Công tử Hà Đông cũng đến đấy.

Đến đấy mấy ảnh gặp ký giả Thái Bịch. Bộ mặt Thái Bịch những ngày Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh trông đã khó thương rồi, nay cờ đỏ sao vàng đầy thành phố bộ mặt ấy trông lại càng ghê rợn. Ký giả nhà ta lúc thì mặt lạnh như tiền, lúc thì hòa nhã với cái vẻ cố ý để cho những kẻ đến gặp anh biết anh muốn nói với họ: "Bi giờ ngươi đã biết Thái Bịch này chưa?"

Để chứng tỏ mình không phải là thường dân, mình là chiến sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mấy anh cách mạng Ba mươi chạy cờ, chạy hiệu, chạy bàn thường đeo cái băng đỏ ở cánh tay. Đặc biệt Ký giả Thái Bịch đeo sề sệ một khẩu Côn Đui bên hông.

Ký giả Thái Bịch nhờ ơn Bác, Đảng, được hạnh phúc đeo Côn Đui- hay Côn Bạt, súng Mỹ -liên tục dễ đến hơn cả tháng. Ít lâu sau, Việt cộng tổ chức lại, đem cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng về tòa nhà Tình báo Việt Nam Cộng Hòa đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Bộ mặt hãm tài của ký giả Thái Bịch không còn xuất hiện nữa.

Trở lại với Sàigòn ngày tan hàng. Nhiều anh em tù cải tạo gọi là Ngày Đứt Phim. Lấy ý như là mình đang ngồi trong rạp Rex xem đào E-Li-Za-Bét Tê-Lo mần tình với kép Rốc-Hất-sân. Đang cụp lạc bỗng màn ảnh tối om rồi đèn bật sáng. Những cặp tình nhân ngồi nghiêm chỉnh lại, tay chân, miệng lưỡi không còn dính nhau, những trinh nữ sửa lại y phục. Đèn sáng trong một lúc. Nhân tiện kháng giả đi đé. Đứt phim. Khi phim nối lại, cuộc sống sẽ trở lại như trước.

Saigon ngày tan hàng. Nhìn lên trời thấy những chiếc trực thăng bay ra biển Công tử Hà Đông cảm khái lẩy Kiều:

Ào ào gió dục mây vần

Trực thăng trong cõi hồng trần như bay…

Mai Thảo là văn nghệ sĩ Sàigòn duy nhất công an Việt cộng muốn bắt mà không bắt được. Đúng là con người có số. Số ông Mai Thảo, số ông Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều - những ông ba chân bốn cẳng vắt giò lên cổ chạy thoát được trước Ngày Ba Mươi Tháng Tư không nói làm chi - hai ông Mai Thảo, Lê Trọng Nguyễn sống ở Thành Hồ cả mấy năm mà vẫn không bị Việt Cộng bắt - Số hai ông là số không ở tù nên hai ông không bị ở tù. Giản dị và trong sáng, dễ hiểu như vậy thôi. Hai ông chẳng giỏi giang gì cả.

Công an Việt cộng, nhất là anh Huỳnh Bá Thành họa sĩ Ớt nhật báo Đồng Nai của Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông, rất lấy làm cay cú vì không bắt được Mai Thảo. Chúng lại càng ức hơn khi chúng biết Mai Thảo vẫn sống giữa lòng Thành Hồ, vẫn gặp anh em. Cuối năm 1977 sau khi vác mặt mo đi dự cái khóa Bồi dưỡng chính chị, chính em ruồi bâu kiến đậu Công tử Hà Đông được nhà văn lớn Bảng Đường cho người đến nhà đưa thư.

Thư nhà văn lớn viết đại ý: "Tưởng mày cũng bị bắt nên tao không liên lạc. Người cầm thư này là người thân của tao. Đưa nó mang về cho tao mấy quyển truyện trinh thám Pháp. Tao suốt ngày nằm đọc sách. Tao là kẻ thù của mặt trời…"

Công tử học hành dốt nát, tiếng Tây, tiếng Mẽo tiếng nào cũng ăn đong nhưng tiểu thuyết tiếng Tây, tiếng Mẽo lại có khá nhiều. Toàn là loại sách bìa mềm rẻ tiền. Đọc thư nhà văn lớn, Công tử bèn xếp, không phải mười quyển mà là hai mươi quyển liền một khi, đưa anh mang thư đem về cho nhà văn đọc. Đồng thời một thư cũng được gửi Công tử gửi cho nhà văn lớn: "Hôm nào mày đến nhà tao chơi…"

Người giao liên của Mai Thảo là anh cháu con bà chị của ổng. Anh và gia đình hiện ở San José, Cali. Lần sau trở lại, anh cho biết Mai Thảo chỉ ra khỏi nhà lúc sáng sớm và trở về nhà lúc tối mịt, anh sẽ đưa ông cậu anh đến nhà tôi sớm, để ông ở nhà tôi, tối anh đến đón về…

Một sáng Mai Thảo đến nhà tôi. Ông đội mũ phớt, để hàng ria mép. Vợ tôi nấu cơm. Tôi đi mời bà dì tôi ở gần nhà sang chơi. Bà dì tôi, vợ tôi, cậu, cháu Mai Thảo là bốn tay đánh chắn cừ khôi. Tôi chắn cạ A B C nhưng phải ngồi dzô cho đủ năm tay. Tôi sinh trưởng trong một gia đình tổ tôm, tài bàn, chắn cạ, bất, đố mười gia truyền. Những tờ giấy bạc lương thiện do sức lao động đầu tiên tôi kiếm được trong đời tôi là tiền chia bài. Những năm 40 với việc chia bài mỗi canh chắn khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ tôi kiếm được hai ba đồng tiền công chia bài. Tôi chi số tiền này vào việc đớp bò khô thoải mái. Năm ấy thịt bò khô Hà Đông - Sàigòn là gỏi đu đủ - một đĩa là một hào. Một đồng bạc Đông Dương đớp được những mười đĩa. Ở số tuổi một bó, một bó hai ba que tôi đớp liền tù tì bẩy tám dĩa thịt bò khô giấm chua trinh nữ són đé mà vẫn tỉnh queo không xót ruột, sót gan gì cả.

Vậy mà khi lớn lên, tôi lại không ưa cờ bịch một ly Cửu Sừng, Ông Cụ nào cả. Về bộ môn cờ bịch có thể nói tôi biết đủ thứ. Nhưng vì tôi không thích nên dù biết bí kíp mà không tập luyện nên võ công của tôi không cao. Chắn cạ, mạt chược, cờ tướng tôi chơi thấp hơn vịt… Vì thiếu chân nên tôi phải ngồi vào bàn chắn cho Mai Thảo tiêu thì giờ trong một ngày quanh quẩn ở nhà tôi từ sáng đến tối.

Trước sau Mai Thảo đến nhà tôi chừng ba lần. Thế rồi tình cờ khi gặp anh em ký giả ở đâu đó nghe họ nói:

- Mai Thảo bị bắt rồi

Tôi hỏi:

- Bị bắt hồi nào? Cách đây bao lâu rồi?

Với vẻ thản nhiên đầy quan trọng tôi nói:

- Bậy. Mới tuần trước Mai Thảo đến nhà tôi.

"Tin Mai Thảo đến nhà Hoàng Hải Thủy…" dần dần được chuyền đến tai bọn công an muốn bắt Mai Thảo. Tôi tuy ngu nhưng không đến nỗi không biết là tin ấy sẽ được truyền đến tai bọn công an Việt cộng, tôi chỉ ngu si - vì lúc đó tôi chưa bị bắt - khi nghĩ tôi không có tội gì khi tôi biết Mai Thảo bị lùng bắt mà tôi không báo cáo cho công an đến bắt Mai Thảo, là công dân tốt, theo nghĩa tốt của Việt cộng - tôi phải báo cáo với công an Việt cộng để họ giăng bẫy bắt Mai Thảo. Nếu tôi vì tính chất phản động không chịu làm việc ấy thì vợ tôi phải sáng mắt, sáng lòng đi khai báo mà không cho tôi biết.

Vì vậy, khi tôi bị bắt lần thứ nhất - lần bị bắt này của tôi không được hai anh Nam Thi - Minh Kiên nhắc đến, dù chỉ nhắc sơ nửa dòng trong quyển Những Tên Biệt Kích Cầm Bút - người phụ trách thẩm vấn tôi là Huỳnh Bá Thành. Lần thứ nhất gặp tôi trong phòng thẩm vấn của Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Huỳnh Bá Thành tự giới thiệu:

- Tôi là Huỳnh Bá Thành, họa sĩ Ớt báo Đồng Nai. Anh gặp những anh chị bị bắt và đã được thả chắc cũng có nghe nói đến tên tôi.

Khi tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu một số văn nghệ sĩ bị bắt tháng Ba, tháng Tư năm 1976 đã được thả về: Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca, Xuyên Sơn, Minh Vồ, Hồ Nam, Lê Xuyên, Trần Việt Sơn v.v… Tôi có nghe anh em kể vài mẩu chuyện trong tù nhưng thực sự tôi chưa một lần nghe nói đến tên anh Huỳnh Bá Thành.

Trước mắt tôi, Huỳnh Bá Thành gầy, đen, tóc chải sang bên trái cho tôi biết anh thuận tay trái. Anh cho tôi biết bí danh anh là Ba Trung. Anh cũng tự giới thiệu anh là tác giả quyển Vụ án Hồ Con Rùa.

Tôi không nói cho anh biết là tôi chưa nghe ai nói đến tên anh lần nào, tôi không biết họa sĩ Ớt và tôi cũng chưa từng để mắt đọc nửa trang truyện Vụ Án Hồ Con Rùa.

Tôi bị bắt chiều thứ Bảy - công an đến nhà tôi lúc 11 giờ trưa, khám xét, tìm tang vật mãi đến khoảng 5 giờ chiều tôi mới vào đến Biệt giam 15 khu B, Số 4 Phan Đăng Lưu - 10 giờ sáng Chủ nhật hôm sau Huỳnh Bá Thành đã gọi tôi ra phòng thẩm vấn.

Mỗi lần Ba Trung thẩm vấn tôi rất lâu. Ngoài phần hỏi đáp còn có phần nói chuyện linh tinh, lang tang về văn nghệ, văn gừng, chính em, chính chị. Ba Trung thường gọi tôi ra thẩm vấn vào buổi chiều, ngồi mãi đến chín, mười giờ tối mới thả tôi về biệt giam. Tôi không lấy gì làm phiền nhiễu vì những lần hỏi cung dài lòng thòng này. Mới bị bắt nằm xà lim một mình buồn thấy mồ đi. Được ra ngoài ngồi thoải mái, được có người nói chuyện qua lại - dù người đó là Vixi - cũng đỡ buồn hơn là cứ nằm đến mỏi nhừ cả người trên nền xi măng xà lim. Tôi phải nói rằng Huỳnh Bá Thành đối xử với tôi rất nhã nhặn, lịch sự. Anh ta không nói nặng tôi nửa câu, không tỏ ra khinh bỉ hay vô lễ với tôi, cũng không đe dọa tôi nửa lời. Anh có thể đe dọa tôi, nhưng anh đã không làm. Anh cũng không nói lời gì để tôi thêm buồn, thêm sợ. Anh có đọc tập thơ của tôi - Sau ngày oan nghiệt, tôi có làm một số bài thơ vẩn vương, chép vào một tập để ngay trên bàn. Bọn công an xét nhà vồ được tập thơ này của tôi. Giờ này tập thơ vẫn nằm yên trong kho Lưu trữ tang vật của Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh, trong tập có bài thơ tả cảnh Chợ Trời Saigòn sau ngày ta mất nước:

Chợ Trời

Trời chiều đi dạo Chợ Trời

Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui

Tìm vui chỉ thấy ngậm ngùi

Vỉa hè này những khóc cười bầy ra

Lạc loài áo gấm, quần hoa

Này trong khuê các, sao mà đến đây?

Chợ bầy những đọa cùng đầy

Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa

Bán đồ toàn những người ta

Mua đồ thì rặt những ma cùng Mường

Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường

Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây!

CHƯƠNG 20

V

iệt cộng vào Sàigòn, theo đúng thông lệ Cộng đi tới đâu ruồi bâu đến đấy, thành phố Sàigòn thất thủ một sớm, một chiều trở thành cái Chợ Trời khổng lồ. Người Sè Goòng mang ra vỉa hè bán đủ thứ linh tinh. Hai chợ Trời đông đảo nhất Sàigòn là Chợ Cũ và Chợ Lăng Cha Cả. Mộng ước cao đẹp nhất của những anh nông dân Bắc Việt đi lính cụ Hồ vào được Sàigòn là được làm chủ cái đồng hồ "không người lái". Người bán đồ toàn là dân Sàigòn, người mua đồ toàn là lính Bắc Việt cộng sản. Các em Lính Cái Việt cộng mông to hơn cái thúng đi chợ trời tìm mua "Áo Mông" - Montagut - đồ các em mua phải là đồ có chữ U Ét - US- hay U Ét A - USA.

Ba Trung có đọc bài thơ Chợ Trời, anh nói:

- Anh làm thơ gọi chúng tôi là Mán, là Mường. Nếu các chú đi bắt anh mỗi chú chỉ đánh anh một cái thôi giờ này anh cũng ngồi không vững.

Cay cú nặng vì vụ vồ hụt Mai Thảo, Ba Trung nói:

- Anh thấy đấy… Chúng tôi định bắt một trăm anh là đúng một trăm anh bị bắt. Chúng tôi chỉ có bắt hụt mỗi một mình Mai Thảo.

Thấy anh đối xử với tôi tử tế, tôi nói:

- Các anh bắt vậy là hay quá rồi. Chỉ vì cái sơ suất này mà các anh không bắt được Mai Thảo: chúng tôi có vợ con, khi nghe tin anh em chúng tôi bị bắt chúng tôi quyến luyến vợ con nên chúng tôi cứ ở nhà chờ không chịu bỏ đi. Mai Thảo không có vợ con, sau giải phóng nó lại quen ở nhà này ít lâu, ở nhà khác năm bữa nửa tháng. Nghe nói bị bắt là nó lững thững hai tay không nó đi. Lẽ ra các anh phải bắt Mai Thảo trước nhất, sau nó mới đi bắt những người khác.

Ba Trung hỏi:

- Anh có nhiều lần gặp Mai Thảo phải không?

Có cái tật không thích nói dối - mặc dầu đôi khi cũng nói dối như máy - và không nói dối được, tôi trả lời:

- Có. Mai Thảo đến nhà tôi vài lần.

Ba Trung bất thần hỏi mánh:

- Cũng có khi anh đến rủ Mai Thảo đi chơi chứ?

Phải nói thật là tôi chẳng lần nào đến chỗ Mai Thảo trốn tránh gọi anh đi chơi cả. Nên tôi trả lời ngay boong.

- Không.

Và tôi giải thích "tại sao không":

- Mai Thảo không nói cho tôi biết chỗ hắn ở là vì việc đó không cần thiết, tôi không cần biết chỗ hắn ở làm chi. Tôi không hỏi chỗ Mai Thảo ở vì tôi sợ nếu tôi bị bắt, các anh sẽ hỏi tôi Mai Thảo ở đâu. Tôi không khai thì sợ các anh hành hạ tôi. Tôi khai thì tôi ân hận vì tôi mà Mai Thảo bị bắt. Vì vậy, tôi không hỏi. Nhưng bây giờ, khi đã bị bắt vào đây rồi, nếu tôi biết chỗ Mai Thảo ở tôi khai với các anh ngay. Nếu tôi còn ở ngoài mà tôi làm cho hắn bị bắt, tôi mới ân hận. Đã bị bắt rồi, tôi chẳng có gì mà để sợ. Mai Thảo có bị bắt thì nó cũng chỉ khổ như tôi thôi. Tôi chẳng áy náy gì về việc khai ra chỗ nó ở để nó bị bắt vì tôi biết trước sau gì nó cũng bị bắt thôi. Làm sao nó trốn mãi được…

Ba Trung không nói gì cả. Chèn đét ơi… tôi nói có lý quá trời đi, còn bắt bẻ tôi vào đâu được. Bị Việt cộng bắt mình khai báo với nó phải có lý may ra mới được nó nể nang phần nào. Có lần, tôi nhớ vào buổi tối đã khuya, khi đã sửa soạn ra về, cho tôi vào xà lim ăn cơm tù nguội cứng ngắc, Ba Trung nói:

- Làm việc với anh, tôi cũng học được nhiều điều hay hay…

Ba Trung nuôi mộng qua tôi, qua vợ tôi, bắt được Mai Thảo. Có lần hắn bảo tôi:

- Tôi muốn anh viết một thư cho Hoài Bắc. Ý thư là anh báo cho Hoài Bắc biết người ta, tức là chúng tôi, đã biết chỗ ở của Mai Thảo, Hoài Bắc phải đến cho Mai Thảo biết để Mai Thảo đi nơi khác ngay…

Tôi biết ngay mánh mung của Ba Trung. Trong tù thường có người bị bắt khi được thả lén mang thư của người tù ra ngoài, đem đến cho thân nhân người tù. Ba Trung muốn tôi viết thư cho Hoài Bắc, hắn sẽ cho một chú công an nào đó giả làm tù ở chung phòng với tôi trong Số 4 Phan Đăng Lưu mới được thả, đem thư HHT đến cho Hoài Bắc. Được thư Hoài Bắc sẽ nhẩy lên ngựa sắt lọc cọc đến chỗ Mai Thảo hay cho người nhà đi báo tin cho Mai Thảo biết là công an đã biết chỗ ở của Mai Thảo, nên đi chỗ khác ngay.. Anh em Ba Trung chờ sẵn ngoài đường sẽ đi theo, ập vào nơi Mai Thảo ở, còng tay Mai Thảo ngon lành.

Tháng 10 năm 1977, khi tôi ngơ ngáo tay bị còng, theo những anh Công An Nhăn Dăn thành Hồ, đặt những bước chân đầu tiên đi vào con đường tù đầy nạn nhân Cộng sản, đặt những bước chân đầu tiên là lời nói văn huê để diễn tả việc loạng quạng đi vào trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, các ông Mai Thảo, Hoài Bắc vẫn còn vất vưởng ở Thành Hồ. Nói rõ hơn là ngày tôi bị bắt các ông chưa vượt biên đi thoát. Sở dĩ công an Thành Hồ không tóm được Mai Thảo là vì Thành Hồ có trò vượt biên. Nhờ có vượt biên, Mai Thảo mới thoát được tù đầy cộng sản. Nếu không có vượt biên làm sao ông có thể lẩn tránh mãi. Bị Việt cộng vồ trượt, lùng bắt từ tháng 3 năm 1976 cho đến đầu năm 1978 ông mới đi thoát. Thành tích sống ẩn mình chờ đi chui của ông như dzậy là khoảng hai niên. Kỷ lục Guiness Mít.

Khi Ba Trung Huỳnh Bá Thành đưa cho tôi mảnh giấy bao thuốc lá, cây bút, bảo tôi viết thư cho Hoài Bắc theo ý hắn, tôi ngồi lặng đi nửa phút. Tôi thầm đọc Ba Kinh Kính Mừng xin Đức Mẹ Maria làm cho lá thư tôi viết không gây tác hại gì cho các bạn tôi. Tôi cẩn thận khẩn cầu cho chắc ăn. Trong lòng tôi không tin Hoài Bắc khi nhận được thư tôi - nếu Ba Trung cho công an giả làm tù được ra đến đưa thư thực sự - lại lóc cóc đạp xe đến chỗ Mai Thảo ở để phi báo ngay. Tôi chắc vậy, vì tôi biết Hoài Bắc cũng không biết rõ chỗ Mai Thảo ẩn náu như tôi. Dù có nhận thư báo, anh cũng chỉ chờ anh cháu liên lạc viên của ông bạn lại mới nói cho biết. Nếu tôi là Hoài Bắc tôi cũng làm như vậy.

Hai mươi mùa lá rụng đã qua kể từ ngày ấy - không nhớ là sáng, hay chiều, hay tối, trong phòng thẩm vấn số 4 Phan Đăng Lưu, cửa ngõ tù đầy của những công dân thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, tôi cầm bút viết. Đại khái lời thư tôi còn nhớ:

Hoài Bắc,

Người ta đã biết chỗ ở của Mai Thảo. Mày đi cho nó biết ngay để nó đi chỗ khác. Ở lại đấy là bị vồ đấy.

H.H.T.

Tôi ký tờ thư ngắn. Ba Trung bảo tôi:

- Anh vẽ bông hoa dưới chữ ký anh.

Y xem tập thơ của tôi, thấy tôi thường vẽ bông hoa trên đầu bài, trên chữ ký. Tôi có con dấu bằng đồng hình bông hoa và chữ ký tôi khá đẹp. Khi đến bắt tôi, bọn công an lục soát lấy đi tất cả những con dấu hoa hòe hoa sói của tôi. Tôi vẫn nghĩ bông hoa là biểu hiệu tiền định của đời tôi. Hoa đẹp, hoa thơm, nhưng người ta không ăn được hoa. Đời tôi an nhàn, có chút tiếng tăm còm, có vài ba nữ độc giả ái mộ, vợ không đẹp lắm, con không khôn lắm nhưng cũng không quá ngu. Đời tôi đúng như bông hoa. Không có tiền. Phải chi thời trẻ tôi lấy dấu hiệu là trái sầu riêng hay trái mít. Tiếc thật. Lấy dấu hiệu là trái đu đủ cũng có ăn. Hoa thì hèn chi hổng nghèo phai nhạt nụ tầm xuân.

Dễ thôi. Tôi là người tù dễ bảo có hạng. Tôi vẽ bông hoa bên chữ ký theo lời của Ba Trung. Tôi tin dù thư có đến tay Hoài Bắc anh sẽ không tin đó là thư tôi. Vì tôi "mày tao" mí ông Mai Thảo, tôi không "mày tao" mí ông Hoài Bắc. Ông Hoài Bắc không mày tao với ai cả thì đúng hơn. Thư tôi "mày tao" vớí ông chắc vừa đọc ông đã thấy có cái gì khác lạ. Tôi có thể "toa, moa" nhưng nhất định không thể "mày, tao" vớí ông. Có vài lần tôi nghe ông Thanh Nam mày tao vớí ông Hoài Bắc, nhưng ông Hoài Bắc vẫn cứ "tôi, anh" với ông Thanh Nam.

Ba Trung có thực hiện mánh mung cho đàn em giả tù được thả đem thư rởm của tôi đến cho Hoài Bắc hay không? Chuyện đó tôi không biết và không bao giờ tôi biết. Hoài Bắc đã qua đời, hình như anh mất năm 1993. Ở Thành Hồ chúng tôi biết tin Hoài Bắc nhờ nghe đài VOA. Công an Việt cộng Ba Trung Huỳnh Bá Thành cũng đã chết.

Tôi bị giam 12 tháng 2 ngày trong xà lim, Biệt giam số 15 khu B hai tháng, Biệt giam 6 khu C Một mừời tháng. Khi sang phòng tập thể cuối năm 1978 tôi được anh em tù báo tin:

- Mai Thảo, Hoài Bắc, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu… đi thoát hết. Sang Mỹ cả rồi…

Nghe tin tôi nhẹ người.

° ° °

Tuy không biết nơi ẩn náu của Mai Thảo tôi vẫn có thể chỉ cho Ba Trung bắt được anh. Số là vợ chồng tôi chỉ về ở căn nhà nhỏ của mẹ tôi vẫn bỏ không trong Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ ba tháng sau ngày nón cối, dép râu ngơ ngáo vào Sàigòn. Khoảng tháng Mười, tháng Mười Một đen hơn mõm chó năm 1975 một tối buồn, trời trở lạnh, tôi đạp xế lang thang trong những đường phố tang thương của Sàigòn thương yêu. Khoảng mười giờ khuya ở đường Phan Đình Phùng, đèn tắt tối om, tôi gặp ông Mai Thảo, Hoài Bắc trên hai con ngựa sắt. Chúng tôi vào tiệm Nghi Xuân đớp phở. Khi đang dùng dằng chưa nỡ rời tay mà cũng chưa biết nên và có thể kéo nhau vào đâu chơi, chúng tôi nghe người gọi tên:

- Hoài Bắc… Mai Thảo… Hoàng Hải Thủy…

Gọi mà gọi lớn tiếng chứ không vừa đủ nghe. Ông Đoàn Khê - một tên khác là Khê Vinh - cầu thủ bóng tròn nổi tiếng trước năm 1954 - trên lưng ngựa sắt ghé đến. Chúng tôi trao đổi vài lời trên lề đường vắng.

- Bọn đá bóng Bắc Kỳ vào chúng nó có tìm ông không?

- Có chứ. Về bóng tròn thì tôi là Hồ Chí Minh của chúng nó…

Đó là lời tuyên bố giữa đường của ông Đoàn Khê, tức Khê Vinh, cựu cầu thủ Bắc Việt. Ba ông Khê Vinh, Mai Thảo, Hoài Bắc đều đã ra người thiên cổ.

Đêm ấy trời quá khuya, tôi theo ông Mai Thảo về ngáo một giường mí ông trong căn nhà một ông anh của ông phú lỉnh được để lại. Sáng hôm sau, tôi rủ Mai Thảo về nhà tôi chơi.

- Mẹ tao đau, vợ tao lên hầu bà cụ. Có mình tao ở nhà. Trưa mình đi đớp thịt chó.

Khu Ông Tạ Bắc Kỳ Ri Cư tám mươi phần trăm là dân công giáo, nổi tiếng khắp Sàigòn về mục Cầy Tơ. Ngã Ba Ông Tạ có một điểm độc đáo không nơi nào có là Ngã Ba được gọi bằng tên ông thầy thuốc hành nghề ở đó. Ông thầy thuốc tên là Tạ vẫn còn sống, vẫn ngày ngày hành nghề, nhân dân ta đã lấy tên ông đặt cho toàn khu. Không có văn bản địa đồ chính thức nào ghi địa danh ông Tạ nhưng địa danh ấy nằm trên cửa miệng của người Sàigòn từ những năm 1950 đến chưa biết bao giờ.

Trên đường đi, chúng tôi gặp Nguyễn Đình Toàn. Toàn đã biết nhà tôi, anh bảo:

- Chúng mày về trước. Trưa tao đến.

Mai Thảo chỉ đến nhà tôi ở Cư xá Tự Do có lần ấy. Khi nhờ anh cháu đến nhà tôi mượn truyện, anh chỉ có thể chỉ đường lờ mờ.

Anh cháu của Mai Thảo nói với tôi:

- Ông cậu tôi đâu có nhớ số nhà. Ông chỉ nói là ông ở trong cư xá Tự Do trước hồ tắm Cộng Hòa. Tôi có người quen ở ngay cùng dẫy với ông, chỉ cách nhà ông có mấy nhà. Tôi hỏi là trúng phóc.

Người quen của anh cháu Mai Thảo ở ngay gần nhà tôi. Mỗi lần đến nhà tôi, anh đều ghé nhà ấy trước. Tôi có thể khai với Ba Trung về người quen anh ở cùng cư xá với tôi. Nếu tôi khai biết đâu anh cháu Mai Thảo đã chẳng bị công an VC theo rõi và biết đâu nhà văn lớn đã chẳng vì thế mà theo tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu, biết đâu Mai Thảo đã chẳng ở lại với quê hương, biết đâu giờ này tên ông đã chẳng nằm trên một bảng đường nào đó ở thủ đô tị nạn. Biết đâu v.v…??

Hai mươi tháng tù đầy kéo dài trong ba niên. Cuối 1979, trở về căn nhà nhỏ Alice kể cho tôi nghe:

- Ba Trung nó gọi em lên Sở. Nó dụ em chỉ chỗ cho nó bắt Mai Thảo. Nó nói bóng gió là nếu em muốn anh sớm được tha thì em phải giúp chúng nó bắt Mai Thảo. Nó gọi em lên sở từ 9 giờ sáng để em chờ tới 11 giờ nó mới ra tiếp em. Nó nói đủ thứ ba lăng nhăng đến bốn, năm giờ chiều mới cho em về. Nó nói: "… Chúng tôi sẽ xây dựng nước Việt Nam thành một vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương…". Nó còn hỏi em đã coi phim Chiến Tranh Và Hòa Bình của Liên Sô chưa? Nó nói phim chiến tranh và hòa bình của Liên Sô mới thật vĩ đại. Phim Mỹ không đi đến đâu. Nó còn nói: "Cái gọi là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nó đã chết rồi. Anh ấy cứ đào nó lên anh ấy thương xót nó…". Em điên lên em nói: "Nếu mà nó đúng thì nó có chết đến một trăm năm cũng vẫn đào nó lên. Việt Nam Cộng Hòa mới mất có mấy năm nay mà…". Nó dọa em: "Chị mới là người đáng bị chúng tôi bắt…". Em nói: "Các anh làm ơn bắt ngay tôi đi. Tôi mừng. Bị bắt là tôi hết lo. Bây giờ tôi phải lo nuôi chồng tôi ở trong tù, lo nuôi các con tôi. Tôi không sợ các anh bắt đâu…"

Nàng cay cú nhiều vì bị Ba Trung quấy rầy. Nàng từng hẹn hò:

- Nếu có ngày đổi đời, phe ta lại nắm quyền, ai giành cái gì thì giành, em giành thằng Ba Trung. Em bắt nó về em xích cổ nó ở chân giường, em cho nó ăn uống tử tế nhưng em bắt nó suốt ngày phải nói câu: "Xây vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương…"

CHƯƠNG 21

"S

ở Công an thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án gián điệp hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh…"

Đó là câu đầu tiên trong cái gọi là bản khởi tố Bọn Gián Điệp của Sở Công An Thành phố mang tên bác Keo. Tôi đọc được mấy câu này trên tập khởi tố do chị nhân viên cái gọi là Viện Kiểm Sát Nhăn Dăn vào nhà tù Chí Hòa gọi tôi ra hỏi đôi câu ra cái điều viện cũng chú ý đến người tù, dù là tù phản động. Bản khởi tố ấy đặt ngược với tôi, vì mắt yếu tôi chỉ đọc ké được mấy dòng đầu.

Cứ như những gì hai anh Cớm cộng Nam Thi - Minh Kiên kể trong NTBKCB thì anh em chúng tôi chỉ can tội viết và gửi một số bài viết ra nước ngoài. Nhưng năm 1986 khi định đưa chúng tôi ra tòa, bọn Công An Thành Hồ, hung hăng con bọ xít khép chúng tôi vào tội gián điệp. Chúng đòi giết một người, cho tù chung thân một người trong chúng tôi.

Nhưng vở kịch "Vụ án gián điệp thành Hồ" do bọn Công An Thành Hồ dàn dựng như quả bóng xì hơi, đầu voi đuôi chuột. Bọn chúng la lối với ý định giết người nhưng rồi chúng tẽn tò, xụi lơ v.v… Đó là những chuyện đã xưa rồi.

Theo thủ tục những cái gọi là Truyện Vụ Án bao giờ cũng có vài chương đề cao cá nhân vài tên công an: "những chiến sĩ công an cương cường bắt, bỏ tù nhân dân không mệt mỏi". Trong đoạn dưới đây trích trong NTBKCB ta thấy nói đến đồng chí Tư Tuân, người phụ trách đơn vị công an "chống phá hoại tư tưởng"

Ban này có cái tên là "Ban Công tác chống phá hoại tư tưởng". Đại khái "chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn tốt đẹp, chủ nghĩa cộng sản sẽ đem lại hạnh phúc cho loài người". Chuyện ấy chắc hơn bắp rang, chắc hơn cua gạch. Kẻ nào nói ngược lại, hay chỉ cần tỏ vẻ nghi ngờ thôi, kẻ ấy can tội "phá hoại tư tưởng". Phải bắt giam kẻ ấy để bảo vệ tư tưởng chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao trí tuệ loài người.

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút:

Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

- Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

- Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng…

- Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng đó là khói của đốm lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải chú ý tới nó.

- Vâng, Tư Tuân vừa nói, vừa lắc đầu - Thú thật với anh, tôi chán ngấy mà vẫn phải đọc. Anh em Việt kiều về thăm quê hương cũng nói với tôi, họ chẳng bao giờ thèm để mắt tới món hàng ôi đó!

….

Tư Tuân đọc lướt mấy trang báo. Cũng những luận điệu vu cáo rẻ tiền. Cả cái lối hành văn, thuật ngữ đã quen thuộc đối với anh. Từ khi được giao phụ trách đơn vị này, anh đã chịu khó đọc hàng lô sách, tiểu thuyết của số "nhà văn" cũ và sách báo mới được bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài. Thật là chán đến buồn nôn…

Hai đoạn chữ in nghiêng trên đây được trích ở trang 79 NTBKCB. Anh cu Tư Tuân nói anh đọc và thấy "buồn nôn" thì cũng đúng thôi. Toàn là những gì viết về cái xấu, cái bẩn, cái tàn ác của Việt cộng, anh không thấy buồn nôn làm sao được. Có điều anh nói đó toàn là "những luận điệu vu cáo rẻ tiền" thì chúng tôi không dám đâu. Tội của mấy ảnh nhiều quá rồi. Cần gì chúng tôi phải vu cáo mấy ảnh. Hai nữa, chúng tôi muốn bịa thêm ra tội để vu cáo mấy ảnh cũng hổng có được. Loài người ác độc nghĩ ra được bao nhiêu cách hành hạ nhau, làm nhau đau đớn, giết nhau… mấy ảnh mần ráo trọi. Mấy ảnh còn sáng chế ra nhiều tội ác mới nữa mà loài người hổng thể nào ngờ được có những tên cũng nhận là người mà làm nổi. Sức mấy mà chúng tôi vu cáo nổi mấy ảnh.

Bọn công an Thành Hồ vẫn theo dõi anh em chúng tôi từ những ngày đầu chúng chiếm được Sàigòn. Tôi chắc đến năm 1982 chúng mới mở cuộc điều tra riêng về chúng tôi. Trong số "sách báo mới của bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài" được nói đến trong đoạn trên đây chắc chắn có tập "Tắm Mát Ngọn Sông Đào"

Trích: Tắm Mát Ngọn Sông Đào. Thơ, văn, nhạc sáng tác từ quốc nội

Nhà xuất bản Lá Bối in lần thứ nhất, Paris 1981.

Lời mở đầu

Những giai đoạn khó khăn của đất nước dù kéo dài đến mấy cũng không làm tiêu hao được niềm tin của chúng ta nơi khả năng của dân tộc, của cả một dân tộc. Đành rằng chiến tranh, tình trạng áp bức và nghèo khổ có làm băng hoại đi nhiều giá trị tinh thần, nhưng không phải vì vậy mà những viên kim cương bất hoại không được tiếp tục phát triển giữa lòng dân tộc. Ngày mai khi đất nước lại đi vào giai đoạn sáng sủa mới ta lại thấy được khả năng và tiềm lực của giống nòi. Sống xa quê hương, ta không thấy và không cảm được một cách trực tiếp và thường xuyên nỗi đau, niềm thương của người trong nước, vì vậy ta vẫn phải thỉnh thoảng về tắm lại trong dòng sông dân tộc để tự tìm lấy mình, để tự mình đánh mất mình, và như thế cũng có thể đóng góp được phần mình vào sức sống đi lên của dân tộc. Văn nghệ sĩ sống trong nước chính là những người có thể giúp ta rung cảm cái rung cảm của dân tộc, bởi họ chính là một trong những thành phần dễ bị rung cảm nhất bởi cái rung cảm chung. Đọc họ, nghe họ, ta có cảm tưởng được chia xẻ những nỗi đau, niềm thương của dân tộc, và như thế ta cũng có cảm tưởng được đất nước đưa hai cánh tay cứu chuộc ta về.

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh…

Nước mát ở ngọn sông đào và trái sim chín ở rừng xanh bao giờ cũng còn đó đợi ta. Ta có tắm mát và ta có ăn sim chín thì ta mới còn là người Việt Nam, dám nói, dám làm cho đất nước, cho dân tộc.

… Những tác phẩm Lá Bối trình bày trong tập này đều xuất phát từ quốc nội, trong đó nhiều bài đã được đưa ra từ chốn lao tù. Bạn đọc sẽ dễ dàng nhận ra sự kiện này. Một điều nữa mà ta nhận thấy khi đọc là các tác giả đã chứng tỏ một sức kiên nhẫn và chịu đựng lớn lao; nhiều người đã biết nhìn bằng con mắt từ bi hơn là con mắt căm thù. Chính ưu điểm là ở chỗ đó. Sức mạnh của dân tộc không nằm ở chỗ giận dữ hung hăng bên ngoài mà nằm ở khả năng bền bỉ chịu đựng và ý chí thắng vượt hoàn cảnh.

Mong rằng những giọt máu, những dòng lệ và những tiếng cười của họ có thể giúp chúng ta vượt thoát trạng thái vô tâm thụ động và quên lãng, đồng thời giúp ta phương tiện cứu chuộc lấy chính chúng ta.

Ông bạn Sáu Bó Gập, xưa là sĩ quan Dù, hiện làm việc tại Đại học NOVA, Virginia nói với tôi:

- Tôi đọc anh từ những năm tôi mới nhập ngũ, đọc anh dài dài trong bao nhiêu năm. Những năm 80 khi đọc mấy bài viết từ trong nước gửi ra ký tên Con Trai Bà Cả Đọi, tôi hỏi Trần Tam Tiệp, Con Trai Bà Cả Đọi có phải là anh không, hắn chịu ngay. Ngôn ngữ của anh nó lù lù ra đấy, làm gì bọn Việt cộng nó chẳng biết…

Ông bạn Sáu Bó Gẫy khác nói:

- Đọc những bài anh viết gửi ra tôi lấy làm lạ. Tôi tự hỏi, anh cu này không sợ Việt cộng nó bỏ tù hay sao mà dám viết phoong phoong gửi ra nước ngoài như thế này?

Nhiều ông, phải nói rất là nhiều ông, khi còn kẹt trong nước thì nín khe, một lá thư ngắn gửi ra nước ngoài cũng không viết, có ông khi được người đem tiền cứu trợ từ nước ngoài gửi về đến cho cũng sài lắc, không lãnh, dù đang đọi, sợ mang vạ. Các ông giữ thân: không dính dáng gì đến Việt cộng để ÔĐiPi Mẽo có cớ từ chối không cho mình và vợ con sang Mẽo, hai: không làm gì để cộng sản có cớ bắt lại, đi nằm ấp thêm vài niên, hỏng mất cơ hội đưa vợ con sang Xê Kỳ. Tám anh em chúng tôi chẳng có tài cán cũng chẳng can đảm hơn ai, những gì chúng tôi viết gửi ra ngoài cũng chẳng có gì đáng gọi là giá trị, nhưng ít nhất chúng tôi cũng đã viết, đã gửi tác phẩm ra phổ biến ở nước ngoài, gọi là nói lên một trong trăm ngàn nỗi đau thương, tuyệt vọng, căm hận của đồng bào ta sống trong kềm kẹp của cộng sản.

Năm 1980, tôi được người bạn cho mượn quyển tự truyện của Stefan Zweig. Ông viết quyển này vào khoảng năm 1944. Ông bà nguyên là người Đức gốc Do Thái, phải bỏ nước đi tị nạn, Hít Le Nazi muốn giết hết người Do Thái. Viết xong quyển tự truyện hồi ký này, hai ông bà cùng tự tử ở nước Anh. Trang đầu quyển sách in bức thư nhà văn viết để lại cho người đời. Hai ông bà thấy chiến tranh quá ghê rợn, dân Do Thái bị tàn sát quá mức khủng khiếp. Ông viết:

Các bạn còn niềm tin ở ngày mai tươi sáng, các bạn ở lại. Chúng tôi tuyệt vọng, chúng tôi đi thôi. Vĩnh biệt các bạn…

Trong căn nhà tối của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, năm 76, 77, có lần Alice nói với tôi: "Hay là chúng mình cùng chết đi anh…". Chúng tôi tuyệt vọng đến nỗi chúng tôi cũng có ý định chết như ông bà Stefan Zweig, nhưng chúng tôi không cùng tự tử được như ông bà. Định mệnh an bài. Ông bà Zweig mà tự tử chậm một tí thôi, chỉ chưa đầy một mùa lá rụng sau ông bà đã thấy Đức Quốc Xã sụp đổ không còn viên gạch, Hít Le Ria Cứt Mũi chết tồi tàn hơn con chó chết.. Vợ chồng Anh Con Trai Bà Cả Đọi Cư xá Tự Do Ngã Ba Ông Tạ Cờ Tây Leo Dây Xe Kiếm Đen cửa Nhà Dây Thép Gió tuy ngu ngây song cũng biết như ai cái chân lý ngàn đời: "Chết là thoát. Chết là hết khổ. Chết là quỵt hết nợ nần. Chết là những tên khốn nạn không còn hành hạ được mình. Mình chết là chúng nó trơ mõm…". Nhưng anh chị hổng chết được bởi vì trước hết anh chị nghèo quá, người ta nghèo không có miếng đất để cắm dùi, anh chị - những năm 80 - nghèo đến nỗi không có cả cái dùi đem đi tìm đất cắm nhờ. Sống đời dân Ngụy giữa lòng Thành Hồ những năm 80 muốn tự tử cho êm ả đôi chút cũng khó chứ không phải dễ.

Tôi đọc bản dịch Việt ngữ truyện "Lá Thư Của Người Không Quen Biết" từ trước 1945. Đến năm 1954, tôi đọc bản tiếng Pháp "Lettre d’une Inconnue". Truyện tình cảm động ướt át thuộc loại truyện diễm tình những năm 1920. Một ông nhà văn nổi tiếng Áo quốc, quốc gia có dòng sông Đa Nuýp Bờ Lơ, tuổi đời chừng Bốn Bó, độc thân, một tối về nhà nhận được thư của một người phụ nữ không quen biết. Người phụ nữ viết thư cho ông kể cô ta là độc giả ái mộ ông, cô coi ông còn hơn cả thần tượng. Cô ở với bà mẹ gần nhà ông nhưng ông đâu có biết cô là ai. Còn cô, tất nhiên là cô biết ông. Không những cô chỉ biết ông mà thôi, cô còn mê ông nữa. Cô đọc văn ông và cô mê đến nỗi cô muốn được gần ông, được ông yêu, dù chỉ là được ông yêu một lần. Cơ hội đến với cô. Một tối khuya cô đứng tránh mưa trong cửa vào tòa nhà trên lầu có phòng của nhà văn lớn, cô gặp ông đi về. Cô chào ông và ông chào lại. Đôi người bắt chuyện nhau. Cô độc giả ái mộ này con nhà lành, còn nguyên trinh, đẹp, có duyên, có học. Ông nhà văn mời cô lên phòng. Cô lên theo ông. Ông mời cô ăn tối, cô nói với ông về cảm nghĩ của cô đối với những tác phẩm của ông. Và rồi chuyện phải đến đã đến. Nam nữ gặp nhau, thi văn đàn địch gì thì rồi cũng phải sát lại làm một. Cuộc tình văn nghệ, văn gừng, văn sĩ, nữ độc giả ái mộ thơm hơn múi mít êm đềm diễn ra không phải trên bàn viết với cái máy đánh chữ hay máy computer mà là trên giường với nệm bông, mền gối.

Thư người phụ nữ không quen biết viết tiếp: "Sáng ra anh còn ngủ, em lặng lẽ ra đi. Được gần anh một đêm, nhà văn thần tượng của em, được anh yêu, em thỏa mãn rồi. Em không còn đòi hỏi gì hơn. Em sống suốt đời em với cảm giác hạnh phúc khi em được anh yêu…". Thế rồi cô viết tiếp: sau đêm yêu đương ấy cô có thai. Nhưng cô không cho nhà văn biết cô có thai. Cô chửa rồi cô đẻ, cô đẻ và cô đi mần cô nuôi con cô. Cô thương đứa nhỏ ghê gớm. Nhưng con cô và con nhà văn lớn bị bệnh… "… Khi em ngồi viết thư này cho anh con chúng ta sắp chết. Đêm khuya. Trời lạnh quá. Anh yêu ơi… Con của chúng ta đã chết rồi…"

Thư đến đây là hết. Ông nhà văn bàng hoàng. Người viết không đề tên, không cho ông biết địa chỉ, số phône. Đúng là thư của người nữ không quen biết. Mà người nữ không quen biết ấy lại là một nữ độc giả ái mộ, người từng ân ái với ông, người mẹ đứa con của ông mà ông không hay biết.

Không thể biết mức độ xúc cảm của ông nhà văn khi ông đọc bức thư ấy cao thấp chừng nào, cũng có thể ông tỉnh queo coi thư như một truyện ngắn. Chỉ biết những năm tuổi đời vừa ngoài một bó đọc truyện "Thư của người không quen biết" tôi thấy cuộc đời tư của những ông nhà văn mê ly hất hủi quá. Mấy ông được đàn bà đẹp yêu mê còn hơn cả kép hát. Chính vì bị mê hoặc bởi những truyện như "Thư của người không quen biết" nên ngay từ số tuổi chưa biết đàn bà với con gái giống nhau, khác nhau ra sao tôi đã mơ giấc mộng hoang tưởng cực kỳ là mai sau ta lớn ta mần văn sĩ.

CHƯƠNG 22

T

hế rồi, những mùa lá rụng theo nhau qua… Những năm tuổi đời ba bó có dzợ, có con, không có nhân tình, không dzợ bé, có công ăn, có việc làm báo, viết truyện giữa thành phố Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi đọc lại truyện "Lettre d’un Inconnue" tôi nghĩ: "Ông văn sĩ tiểu thuyết hóa hơi quá. Đồng ý là các ông nhà văn lớn có nhiều nữ độc giả thơm như múi mít ái mộ nhưng ái gì thì ái đâu có ái quá xá ể như cô nữ sinh trong truyện này." Bạn có thể nói tôi nghĩ như thế vì ghen tuông, vì tôi hổng được nữ độc giả nào ái mộ nên tôi ghen mí những ông nhà văn lớn. Bạn nói đúng một nửa. Quả thực là cả đời viết lách mấy chục mùa khoai lang, khoai sọ của tôi, tôi không có qua một nữ độc giả nào ái ố í é tôi cả, song thực tình tôi cũng rất muốn thấy những ông nhà văn lớn được nữ độc giả ái mộ đến cái độ cực kỳ như người nữ độc giả trong truyện "Lettre d’une Inconnue". Mấy ông được nữ độc giả yêu thì có thiệt hại gì đến của chìm, của nổi của tôi đâu. Nhưng tôi nghi không có hoặc ít nhất có nhưng không đến cái độ kịch liệt đem thân nữ độc giả trinh nguyên con gái nhà lành tình nguyện hiến dâng một đêm cho nhà văn rồi lặng lẽ ra đi khỏi đời chàng, ôm bầu tâm sự, yêu con chàng cho đến đêm con chết mới chịu ngồi vào bàn cầm bút viết thư cho chàng. Trong cuộc đời thực tế phũ phàng ta thấy có nhiều ông văn sĩ lớn nhỏ bị vơ, bị người yêu bỏ rơi thảm hại thấy mồ đi.

Như đã kể hơn một lần: tôi có tật viết lang thang chuyện nọ dọ sang chuyện kia. Tôi không có ý định viết về nhà văn Stefan Zweig để nói về chuyện những ông văn sĩ nổi tiếng được nữ độc giả ái mộ yêu mê. Đây là chuyện về ông Stefan Zweig mà tôi muốn viết:

Những năm 1927, 1928 ở Nga Sô, Stalin đã lên nắm chính quyền khá lâu, một số nhân sĩ trí thức Âu châu được mời sang thăm nước Nga để thấy tận mắt cuộc sống hồ hởi của nhân dân Nga dưới chính thể xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh, tiến bộ, để thấy những xưởng máy hoạt động rộn rịp, những nam nữ công nhân Xô-viết hân hoan làm việc, những trường học sáng sủa, sạch sẽ, học sinh học không mất tiền, những bệnh viện khang trang, bác sĩ phục vụ tận tâm, lương y như từ mẫu, những công dân có bệnh vào nằm như thượng khách quốc gia, hưởng mọi phương tiện y khoa mà không phải chi một đồng kopek nào v.v… Trong số nhân sĩ trong phái đoàn thăm Nga Sô có nhà văn Stefan Zweig.

Ông viết: "… Một tối về phòng khách sạn, tôi thấy trong túi áo của tôi có bức thư không biết ai đã bỏ vào đó. Thư viết vắn tắt: "Ông đừng có tin những gì chúng nó bầy ra cho các ông thấy. Cuộc sống thực ở xứ này không như thế đâu. Thê thảm lắm. Chúng tôi khổ cực lắm…"

° ° °

Một buổi tối cuối năm trời lạnh ở Thành Hồ - năm 1981, 1982 - ông bạn chở tôi trên chiếc xe Bridgestone cọc cạch của ông - ở Thành Hồ những năm 80 còn đi xe gắn máy được là dân hách - tôi ấm lòng khi nghe ông nói:

- Thằng nào giỏi chửi cộng sản ngay ở đây nè. Sang Pháp, sang Mỹ thằng nào chửi cộng sản chẳng được.

Đọc bài Lời Mở Đầu đăng trên trang đầu tập Tắm Mát Sông Ngọn Đào tôi sướng rên mé đìu hiu khi thấy mình được gọi là "Kim Cang Bất Hoại". Các vị trong Nhà Xuất bản Lá Bối dùng chữ tất nhiên phải đúng. Chắc quý vị dùng "Kim Cang Bất Hoại" để gọi những ai kia, không phải để gọi tôi. Tôi không kim cang bất hoại một ly ông cụ nào cả, tôi mềm hơi đậu hũ. Bị công an Việt cộng gọi từ xà lim ra phòng thẩm vấn, tôi mềm hơn bún thiu, tôi nhận tội liền tù tì tút suỵt. Không những chỉ nhận những gì bị cộng sản coi là tội mà thôi, tôi còn khai thêm những việc tôi làm mà họ không biết. Tôi không chối vì tôi thấy tôi chẳng có gì phải xấu hổ vì những việc tôi làm. Tôi nói với họ: "Tôi bắt buộc phải viết thôi. Mà viết là tôi phải gửi ra nước ngoài để phổ biến. Nếu không làm thế, tôi thấy tôi là thằng không có xương sống…"

Tôi nhận tội vì tôi biết tôi có nhận hay chối họ đã định giam tôi mấy niên là họ sẽ giam tôi đủ từng ấy niên. Bắt chước cộng sản đàn anh Nga, Tầu, Việt cộng có một cái gọi là Ủy ban Luận tội. Thành phần ban này gồm nhân viên công an, viện kiểm sát, tòa án. Kể là ba, nhưng chỉ là một. Ba anh đảng viên này quyết định án tù của người bị bắt. Người tù không bị đưa ra tòa sẽ chịu án tập trung cải tạo. Án này có cái khó chịu là không biết mức án mấy niên, án có thể co rãn, thường chỉ rãn chứ không co, cứ mòn mỏi ở trại khổ sai cải tạo mút chỉ cho đến ngày được gọi cho ra về.. Người tù bị đưa ra tòa sẽ bị bọn chánh án tay sai áp dụng mức án đã được cái gọi là Ủy ban Luận tội quyết định. Mức án của người tù đã được định trước khi tòa xử. Ra tòa, nếu người tù tỏ thái độ cương nghị, bất chấp cái gọi là tù đầy xã hội chủ nghĩa, bọn chánh án thường tăng mức án cao hơn, chẳng bao giờ chúng xử người tù dưới mức án phạt bọn Ủy ban Luận tội đã định trước.

Tòa án Việt cộng chỉ là nơi chúng dựng lên dễ tuyên những cái án đã định trước. Việc biện hộ, bảo vệ quyền lợi của người bị cáo trước tòa án cộng sản là chuyện vô ích. Tôi khó chịu khi thấy nhiều tổ chức tranh đấu nhân quyền thế giới vẫn đòi Việt cộng phải đưa những người tù lương tâm ra xử trước tòa. Đưa ra xử trước tòa án Việt cộng thì người tù lương tâm được lợi gì? Vẫn là án tù đó. Thay vì nó ỉm đi, nó đưa anh em đi tù mười niên, nó cho anh em ta ra tòa một buổi và nó tuyên án mười niên. Cũng vậy thôi. Muốn bảo vệ có hiệu quả đôi chút người tù chính trị, người ta phải đòi có luật sư đến với người tù ngay từ buổi thẩm vấn đầu tiên. Ít nhất người tù cũng phải được gặp riêng luật sư của mình vài lần trong thời gian giam cứu. Đòi nó đưa ra tòa xử và đến lúc đó mới gửi luật sư đến nói láp nháp dăm câu là việc làm ngớ ngẩn. Đòi cộng sản cho tù nhân chính trị được có luật sư, được gặp riêng luật sư trong thời gian giam cứu là chuyện Việt cộng nó không bao giờ tưởng tượng có thể có, nói gì đến chuyện nó chấp nhận.

Năm 1977 khi đến bắt tôi, bọn công an Thành Hồ vớ được tập thơ Ễnh Ương tôi để ngay trên bàn. Tập thơ này hiện nằm trong Kho Tang Vật Sở Công An Thành Hồ. Ba Trung Huỳnh Bá Thành nói với tôi trong cuộc thẩm vấn:

- Nếu anh làm thơ, hay anh viết bất cứ cái gì chống chúng tôi mà anh cất đi, chúng tôi không bắt anh đâu. Anh gửi ra nước ngoài thì chúng tôi phải bắt anh thôi…

Tù Đậu Hũ ngồi im re, trong bụng nghĩ thầm: "Anh đừng nói chuyện ruồi bâu, kiến đậu. Tôi viết rồi cất đi làm sao anh biết mà bắt tôi được. Nói vớ vẩn!" Tôi không nói ra ý nghĩ của tôi vì tôi thấy: nói ra làm quái gì, chỉ dậy khôn chúng nó. Dậy khôn cho nó là việc mình không nên làm." Chẳng hạn như khi Ba Trung nói đến tên ông William Colby, Y gọi là "… Côn Bai…" tôi không sửa là "Côn Bi". Tôi nghĩ thầm: "Lạ nhỉ. Nó biết nói Ken Nét Đi sao nó không gọi là Côn Bi mà gọi là Côn Bai…"

Huỳnh Bá Thành có lẽ vì ít học nên có mặc cảm tự ti, thỉnh thoảng lại nhét cho bằng được vài câu tiếng Mỹ vào những trang truyện hắn viết. Trong một đoạn tả Cớm Cộng thẩm vấn tù nhân, Huỳnh Bá Thành viết:

- Anh tên gì?

- ….

- Không. Cho tôi biết full name của anh kia…

Công an Việt cộng hỏi cung tù nhân Mít trong ngục tù thành phố Hồ Chí Minh quang vinh mà tự dưng tương vào hai tiếng full name. Thật quái dị.

Trong một buổi hỏi cung tôi năm 1977, 1978, Ba Trung hỏi:

- Anh nghĩ có thể nào những tổ chức văn hóa tư bản, như giải Văn Chương Nobel chẳng hạn, nó trao giải thưởng cho nhà văn ngụy trong nước để làm khó nhà nước ta không?

Tôi nghĩ đến Mai Thảo. Chắc Ba Trung khi nói đến câu đó cũng nghĩ đến Mai Thảo. Năm ấy, Hà Nội chưa có vụ Nguyễn Chí Thiện cầm tập thơ chạy vào gửi ở Tòa Đại Sứ Anh Quốc. Tôi nghĩ: "Làm mẹ gì có chuyện ấy. Nếu Nobel mà phát giải nhăng cuội như vậy thì Nobel đâu còn là Nobel nữa. Cộng sản Tàu chiếm Trung Hoa đã gần hai mươi niên rồi có tên văn sĩ Tầu ca tụng chủ nghĩa cộng sản hay chống chủ nghĩa cộng sản nào được Giải Văn Chương Nobel đâu? Việt Nam còn khuya…" Tôi nghĩ thế nhưng nói chuyện đó với Ba Trung làm quái gì? Tôi chỉ trả lời lửng lơ con cá vàng:

- Tôi chắc không có chuyện đó đâu.

CHƯƠNG 23

C

húng tôi, bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận, chúng tôi có anh có em. Trong nhục nhã, trong khổ cực, chúng tôi vẫn có nhau, chúng tôi vẫn là những văn nghệ sĩ Sàigòn. Cảnh "phi cầm, phi thú" hiện ra rõ nhất trong những cái gọi là buổi sinh hoạt tại Hội Văn Nghệ Sĩ Thành Phố Hồ Chí Minh, trụ sở đặt trong tòa nhà có vườn rộng trước 75 là một cơ sở nghe nói là Tình báo của Việt Nam Cộng Hòa, góc đường Trương Minh Giảng, Tú Xương. Bọn trong Ban Chấp Hành cái gọi là Hội Văn Nghệ, thường là Tổng thư ký Việt Phương, lên Ủy ban thành phố họp nghe chỉ thị gì đó về phổ biến với các văn nghệ sĩ. Những buổi như thế gọi là buổi sinh hoạt.

Trong những buổi sinh hoạt này bọn trong Ban Chấp Hành Hội ngồi hàng ghế chủ tọa đối diện với hàng ghế của văn nghệ sĩ Sàigòn. Hai bên ngồi đối mặt với nhau. Hai anh Kỳ Nhông, Kỳ Đà Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn cũng dự buổi sinh hoạt. Hai anh không thể ngồi cùng hàng ghế hay ngồi sau lưng bọn Giải Phóng Miền Nam. Sức mấy chúng nó cho hai anh ngồi chung. Hai anh không ngồi chung chỗ với bọn chúng tôi, chắc hai anh sợ ngồi với chúng tôi hai anh xấu hổ…

Hai anh ngồi sau đít bọn Văn nghệ Giải phóng đối diện với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận không được, hai anh không muốn ngồi chung với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn nhục nhã. Dzậy thì trong những buổi họp chia hai phe rõ rệt mặt đối mặt, chính tà hai phái như dzậy hai anh Kỳ Nhông đặt đít ở đâu???

Hai anh ngồi ở hai ghế bên cạnh. Hai anh không ngồi trong phe giải phóng, hai anh cũng không ngồi trong phe Việt Nam Cộng Hòa bại trận.

Dường như Phạm Trọng Cầu - Phạm Trọng: Em ra đi mùa thu…. mùa thu không trở lại… cũng đã được sáng mắt, sáng lòng đôi chút trước cái gọi là xã hội chủ nghĩa do cách mạng vô sản dựng lên vì thấy nó bê bối, bết bát, dơ dáy quá đỗi. Nhiều anh chị nhờ gia đình có tiền cho sang Tây ăn học đớp phải bả xã hội chủ nghĩa, tưởng bở, hung hăng con bọ xít, theo đuôi cộng sản mần "cách mạng", bị cộng sản cho hộc máu, vỡ mặt khi chúng cướp được chính quyền. Điển hình và đại diện cho giới "phi cầm, phi thú" này là Mợ Dương Quỳnh Hoa. Nghe nói chỉ sau vài mùa kỷ niệm bác Hồ đầu thai Phạm Trọng đã có vẻ thất vọng. Phạm Trọng có mần lời ca theo điệu nhạc bài Quê Em - Quê em miền Trung du. Đồng quê lúa xanh rờn. Giặc tràn lên cướp phá. Anh về quê cũ. Đi diệt thù giữ quê. Giặc tan đón em về - Lời ca của Phạm Trọng theo nhạc Quê Em có câu mở đầu:

Ba tôi trồng khoai lang…

Đào lên thấy khoai mì

Thật là điều phi lý…

Những anh Kỳ Nhông đi theo cộng sản mần "cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa" tưởng bở: Xã Hội Chủ Nghĩa nhất định phải tốt đẹp hơn xã hội tư sản dân chủ. Mấy ảnh vỡ mộng khi thấy sao nó bẩn quá. Thứ củ có thể ăn được người Bắc gọi là sắn, người Nam gọi là mì hoặc khoai mì. Những chị đi bán rong trong những xóm nghèo thường rao: "Ai khoai lang, khoai mì…" Thứ củ người Nam kêu là củ sắn, người Bắc gọi là củ đậu. Ông bố mấy anh Kỳ Nhông trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì cũng còn là khá, ông nội anh không có trồng khoai lang, khoai mì, ông nội ác ôn của anh trồng người. Các em nhỏ bất hạnh bị đem ra trồng đầu vùi dưới đất, chân chổng lên trời. Ở những cánh đồng cách mạng vô sản ấy, khi đào đất lên người ta không thấy khoai mì, khoai lang chi cả, người ta chỉ thấy có sọ người, có xương người và máu người.

Lo việc mười năm trồng cây

Lo việc trăm năm trồng người.

Câu nói của một Quân Tải Tàu nào ngày xưa, được ghi trong sách Minh Tâm Bảo Giám do ông Đoàn Trung Còn biên soạn. Già Hồ mượn dùng cũng được đi. Nhưng trồng là trồng cây: trồng cây si, trồng đậu, trồng gạch, trồng gì cũng được, "trồng người" nghe sao man rợ quá trời. Những anh cộng sản coi đồng bào như những con vật để họ sai khiến, bóc lột, như những cái cây để họ đem trồng. Những em bé Việt Nam bất hạnh được coi là những khúc măng non…

Em là khúc măng non…

Em chín queo trong nồi cách mạng

và:

Cháu lên ba… Cháu vô mẫu giáo

Cô thương cháu là cháu không khóc nhè…

Không khóc nhè…. È é e…

Em vào trường học

Mẹ cha vào nhà máy…

Ông bà lo cấy cầy…

Ông bà lo cấy cầy??? Chèng đét théng thèng ơi… Ông bà xã hội chủ nghĩa cho có trẻ lắm cũng phải sáu mươi, bẩy mươi… Khứa lão lọm cọm sống trong xã hội thối nát tư sản đến tuổi sáu bó là đã bị con cháu cho ngồi chơi xơi nước. Khứa ông buổi sáng nhâm nhi ly trà tầu nếu có tiền, ly nước vối nóng nếu sống giản dị, để móng tay dài, râu ba chòm, tay phe phẩy cái quạt, chống gậy đi chơi, gặp ông bạn cũng khứa lão đánh vài ván cờ tướng, trưa mùa rét ăn cơm uống ly rượu tăm rồi ngáo. Khứa bà trông nom các cháu, giúp con dâu, ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật, sáng sáng chiều chiều đến nhà thờ cảm ơn và xin ơn Thiên Chúa.

Đấy là đại khái vài hình ảnh, cuộc sống những ông già, bà lão trong xã hội tư sản. Những ông gia,ø bà lão trong xã hội vô sản ra đồng làm trâu bò cho đến lúc ngã xuống thở hơi cuối cùng. Trong khi đó thì thi sĩ Đảng Tố Hữu mần thơ diễn tả tấm lòng cao cả của bác Hồ muôn kính, ngàn yêu, ngày đêm bác vẫn mơ mộng làm sao để có:

Sữa tặng em thơ, lụa tặng già

° ° °

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, trang 82 đến 91

Thời gian một tuần đã trôi qua. Như thường lệ, sáng hôm ấy, Tư Tuân dến cơ quan từ sáu giờ rưỡi sáng. Còn đúng một tiếng đồng hồ nửa mới đến giờ làm việc, chỉ có các cán bộ trực đêm có mặt. Anh tự nấu nước để pha trà. Đêm qua, anh thức quá khuya để đọc đi đọc lại những bài đăng trên các báo phản động của bọn di tản. Dạo này, trời cuối năm trở lạnh làm những khúc xương của anh đau ê ẩm. Những năm tháng gian khổ trong ngục tù, những trận đòn man rợ của quân thù, những cơn sốt rét kéo dài đã tàn phá sức khỏe của anh như mưa nắng dội lên cội tùng già. Dường như bộ phận nào trong lục phủ, ngũ tạng của anh cũng suy yếu. Anh đã cố gắng chăm chút giữ gìn sức khỏe, thường xuyên luyện tập để có thể tiếp tục đứng vững. Năm mười hai tuổi chưa phải lúc cam chịu tụt về tuyến sau của cuộc sống đang rực lửa.

Vào khoảng hơn một giờ sáng, vợ anh thức giấc dục anh đi ngủ. Thấy anh vẫn chong đèn đọc, chị dậy pha cho anh ly sữa. Chị cũng là cán bộ, có thể hiểu và chia xẻ trách nhiệm nặng nề của chồng, nhưng cũng không thể để cho anh ngã bệnh.

- Này ông, ông tính làm cho mau chết hay sao? Việc gì cũng để đến mai làm tiếp có được không?

Anh cười giả lả:

- Bà lấy cái chết để dọa tôi đấy hả? Tụi mình sống được đến ngày nay là đã lời quá rồi, lẽ ra đã theo ông bà lâu rồi…

- Thôi đừng nói liều ông ơi! Chết thì không ai sợ, nhưng ngã xuống đau thì dừng báo hại vợ con.

- Bà đừng có lo, tôi coi vậy chứ ngon lành lắm, mấy cậu thanh niên theo không kịp đâu - Anh cười làm lành với vợ - Này, vậy chớ bà đã mua thuốc cho tôi chưa?

Chị Tư làm mặt giận:

- Xí, thuốc với thang. Người ta uống thuốc thì phải nghỉ ngơi, chứ làm thí mạng như ông thì uống làm gì. Chừng nào ông xin nghỉ phép năm thì tôi mới mua cho ông uống.

Tư Tuân lặng thinh. Anh không giận vợ - đúng hơn càng thương vợ. Nhưng chính lúc ấy, anh cảm thấy cột xương sống tê buốt. Nó muốn thừa cơ hội để tấn công anh chăng? Bệnh tật, làm thế nào tránh khỏi khi người ta đã ngoài năm mươi với ngần ấy gian truân. Tư Tuân hai mươi năm về trước còn đủ sức mang vác ba lô, vũ khí nặng mấy chục ký lô đi liền mấy ngày không nghỉ. Tư Tuân của tuổi hai mươi đã là một tiền đạo có tiếng của đội bóng tiểu đoàn.

Thấy anh trầm mặc, chị Tư sợ chồng giận, nắm bàn tay chồng thỏ thẻ:

- Thôi khuya rồi, mình đi ngủ đi mai còn đi làm.

Lát sau, Tư Tuân mới nói với vợ:

- Anh bao giờ cũng nghĩ rằng em rất hiểu anh và lo lắng cho anh. Em xem, tụi mình sống, lấy công tác làm vui. Nhiều lúc anh cũng muốn nghỉ vài tuần phép, cũng có lúc muốn xin đi chữa bệnh dài hạn, nhưng anh sợ nhất là sự nhàn rỗi. Vô công rỗi nghề thì buồn bực không gì bằng. Thôi thì cứ làm việc còn hơn. Nói vậy chứ mình đâu có phung phí sức. Nếu em thuốc thang cho anh thì anh còn sống lâu với em và các con chớ đâu đã đến nỗi nào.

Nghe anh nói, chị Tư ứa nước mắt. Chị có tính hay mủi lòng. Thương vợ, anh đã xếp hồ sơ và lên giường ngủ. Đến năm giờ sáng, theo thói quen, anh đã dậy tập thể dục, ăn qua loa mấy chén cơm chiên và đi làm. Khi anh dắt xe ra khỏi nhà, chị chạy theo trao cho anh một lọ thuốc và dặn:

- Em nhờ mấy anh bên Viện Y học dân tộc làm thuốc tễ cho anh đây, nhơ uống năm viên một lần vào lúc nửa buổi sáng và một lần trước bữa cơm trưa nghe.

Giờ đây ngồi ở bàn làm việc, Tư Tuân càng thấy thương vợ. Anh mở cặp lấy lọ thuốc ra, mở nắp đưa lên mũi ngửi. Vị thuốc thơm thơm làm anh sao xuyến.

CHƯƠNG 24

T

rích NTBKCB, tiếp theo:

Những hàng chữ trên các tập sách báo phản động vẫn lướt qua mắt anh, chúng thoạt nhòe đi khi anh nghĩ đến vợ và hiện ra những vết đen bẩn thỉu trên mặt giấy trắng chẳng khác gì lũ vi trùng trên tiêu bản đặt dưới ống kính hiển vi. Thật gớm ghiếc. Thế mà Tư Tuân vẫn phải đọc, vẫn phải chép trên giấy những đoạn cần thiết để làm tư liệu.

Nghe ấm nước sôi, Tư Tuân buông cây bút xuống bàn. "Mình cũng chưa hiểu hết chúng" - Anh tự nhủ thầm trong lúc pha trà - "Chúng là thế đấy. Đến lúc này mới nắm được là quá chậm"

Chén trà đầu tiên buổi sáng làm anh nguôi ngoai đi nỗi bực dọc. Chính lúc đó Kiên Trinh tươi tỉnh bước vào. Tư Tuân lên tiếng chào:

- Trà mới pha đấy. Còn sớm nên mình đang lo phải độc ẩm thì buồn chết. Trà ngon không có bạn hiền không ngon.

- Tôi đoán thế nào anh cũng đến sớm mà!

Trên bàn làm việc của Tư Tuân, cạnh ấm trà mới pha là bao thuốc lá Mai còn nguyên. Tư Tuân không nghiện thuốc, nên Kiên Trinh biết chỉ huy đơn vị dành cho anh.

- Thế nào, nhà nghiên cứu văn học! Tư Tuân thường có lối dùng từ ngữ dí dỏm như thế.

Kiên Trinh kéo ghế ngồi, nhận chén trà của người chỉ huy trao. Anh là thí sinh sắp trả bài, mà người chấm thi vui vẻ này lại rất nghiêm khắc khi ra đề thi. Anh lấy từ trong áo ra một tờ giấy nhỏ có ghi độ mươi dòng và cây bút bi.

- Cậu chưa chuẩn bị xong à? Tư Tuân ngạc nhiên hỏi.

- Tôi sẵn sàng báo cáo. Kiên Trinh giọng nghiêm túc.

- Nghĩa là cậu đã thuộc lòng? Tư Tuân cười. Thế thì tốt. Nào ta bắt đầu đi!

- Xin anh cho biết ta nên bắt đầu từ đâu?

Tư Tuân lại cười:

- Chà, cậu khôn lắm. Cậu nhường cho tôi giao bóng trước để thăm dò chứ gì? Thôi được, cậu lần lượt giới thiệu từng chương của "công trình nghiên cứu văn học" của cậu đi. Trước hết, sau khi nghiên cứu các bài vở đăng trên báo chí của bọn phản động lưu vong, được chúng quảng cáo là do các tác giả trong nước gửi ra, cậu thấy thật giả thế nào, nếu có thật thì khả năng tên nào viết? Hai là nếu có bọn trong nước viết bài thì chúng gửi ra bằng đường nào, làm sao phát hiện các đường dây ấy?

Kiên Trinh dụi điếu thuốc vừa mới đốt vào gạt tàn. Anh nhìn vào tờ giấy trước mặt. Chắc chắn với mười dòng chữ trên đó không thể nào gói gọn nội dung trả lời hai câu hỏi ấy. Tuy thế, Tư Tuân biết rõ người cán bộ dưới quyền mình đã chuẩn bị để giải đáp các vấn đề do anh đặt ra. Nhưng cậu ta vẫn có thói quen chừng nào vấn đề còn phải được bàn cãi thì chưa vội viết thành văn bản báo cáo. Kiên Trinh giải thích rằng viết các báo cáo mà vấn đề chưa được nghiên cứu hoàn chỉnh là động tác thừa. Tư Tuân tán đồng quan điểm ấy và anh cũng đã rất tin vào trí nhớ của đồng chí mình. Đối với anh, trí nhớ tốt là điều kiện bắt buộc của nghề nghiệp. Hàng chục năm làm cán bộ quân báo trong kháng chiến, anh đã có thói quen bắt bộ óc phải ghi nhận tin tức, tài liệu thay cho giấy tờ để bảo đảm an toàn, chỉ khi nào cần gửi báo cáo đi xa anh mới dùng đến chữ nghĩa dầu là với mực bí mật hoạc vi ảnh.

- Xin báo cáo trước với anh, những điều tôi sẽ trình bày chỉ là đánh giá từ những cơ sở chưa có chứng cứ chắc chắn. Tôi đã đọc hai mươi mốt bài ký tên mười bốn tác giả khác nhau. Dựa trên nội dung, cách hành văn, tôi tin rằng ít nhất có mười lăm bài do ít nhất bốn tên từ trong nước gửi ra, nhưng lấy nhiều bút hiệu. Dĩ nhiên không có tên nào dại dột dùng bút hiệu cũ. Cái khó là chỗ đó. Nhưng điều may mắn là văn chương cũng như chữ viết có đặc điểm riêng của người viết. Hình như khoa học hình sự chưa có bô môn xác định văn phong như xác định tự dạng. Tuy thế không phải ai cũng viết văn được. Do đó, số người viết văn không nhiều lắm, nên ta dễ "khoanh" lại.

- Hay lắm - Tư Tuân cười hóm hỉnh - Xem ra cậu có thể là nhà phát minh ra một môn mới trong khoa học điều tra hình sự rồi đấy. Cậu đang giữ bóng tốt đấy, sút đi.

- Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống cộng "có cỡ" cả. Tôi xin trình bày từng loại dễ "nhận diện" nhất. Đó là loại phiếm luận như bài tựa "Nếu chàng Trương Chi đẹp trai" chắc chắn tác giả của nó trước đây thuộc nhóm "nồi niêu xoong chảo" của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương. Anh Quân bỏ báo Hòa Bình đem theo cả nhóm này về báo Độc Lập. Hiện nay ở thành phố ta chỉ còn vài ba tên trong cái nhóm đó thôi. Còn những bài ký tên Công tử Hà Đông tôi nghĩ đến Hoàng Hải vì tên này quê quán ở Hà Đông, vốn công tử bột, con thầy Thông phán, cháu ruột quan tri huyện.

- Tạm chấp nhận cách suy luận và "bộ môn xét nghiệm" văn phong của cậu - Tư Tuân suy nghĩ rồi phát biểu - Nếu giả thuyết đó đúng thì vấn đề còn lại là… bắt đối tượng vào lưới nhặt bóng. Nhưng chính sự thành công dễ dàng ấy khiến ta không dễ dàng chấp nhận cách nhìn đơn giản toàn bộ vấn đề. Cậu nghĩ xem đằng sau các tờ báo rẻ tiền ấy là gì? Trong những điều kiện hiện nay, thử hỏi chúng sử dụng loại tay sai nào khác cho những hoạt động chiến tranh tâm lý? Nhiều khi chiến tranh tâm lý chỉ là những thứ hỏa mù để che đậy cho những hoạt động ngầm khác, đành rằng loại kẻ thù này chúng ta đã từng chạm mặt và quá quen thuộc bài bản của chúng: chúng rất "rẻ tiền" nhưng cũng rất xảo quyệt. Bọn trong nước gửi bài, tin, bọn bên ngoài đăng trên báo, tạp chí. Gần đây lại có thêm đài phát thanh của bọn được mệnh danh là "phục quốc" đặt ở biên giới Thái Lan cũng đã léo nhéo phát trên sóng nhiều bài, tin của bọn này. Cứ bên ngoài bọn chúng càng la to, bọn bên trong càng dễ lộ mặt. Việc làm này của chúng nào có khác gì cho "voi đẻ giữa chợ" thì khó nói đến chuyện giấu kín được.

Bọn chúng đánh giá thấp chúng ta chăng? Tư Tuân tự đặt một câu hỏi và liền sau đó anh ta tự trả lời - Chưa hẳn thế. Đánh nhau mấy chục năm, biết rõ nhau quá rồi. Nhưng chúng vẫn chống ta vì hận thù, vì ảo tưởng. Hơn thế nữa, chống cộng là hái ra tiền. Thằng nào cũng có "mánh" riêng. Cái đám Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu lợi dụng chiêu bài "phục quốc" để quyên tiền trong số người Việt di tản và đút vào túi hàng chục triệu đô la của nước ngoài. Trần Tam Tiệp cũng vậy thôi. Có khác nhau chăng là hắn nhân danh hoạt động văn hóa để tổ chức quyên góp và nhận tài trợ của bọn phản động các nước để "cứu tế" văn nghệ sĩ ở trong nước. Giờ đây, nếu nằm im không "lên tiếng" bằng cách này hay cách khác thì moi được tiền của ai, nhất là bọn chủ của chúng cũng chẳng phải bọn ngu ngốc cứ tung tiền mà không thu lại được gì. Đám văn nghệ sĩ phản động còn lại trong nước đối với chúng vẫn còn có tác dụng trong việc gây lung lạc một số quần chúng trong và ngoài nước. Bọn này bị "tóm" ư? Chẳng lỗ lã gì với bọn quan thầy. Thậm chí chúng sẽ vin vào đó để mở chiến dịch vu cáo cộng sản khủng bố tù đầy văn nghệ sĩ. Và đây lại là một cú áp phe mới. Rồi sau đó, chúng tiếp tục tìm cách tạo dựng ra những âm binh mới để tác động, hòng gây tình hình không ổn định thường xuyên cho ta. Tôi nói thủ đoạn của chúng "rẻ tiền" vì hai lẽ: một là nó ít tốn kém mà có hiệu quả, hai là nó không có gì mới lạ. Song đó cũng chính là sự xảo quyệt của kẻ thù. Liên hệ thực tế vụ án này cậu nghĩ thế nào?

- Thú thật với anh, khi khoan lại diện đối tượng như đã trình bày và cho anh em rà lại để xác minh đánh giá của mình, tôi cảm thấy thất vọng vì đã có những cơ sở bước đầu cho thấy giả thiết của tôi có khả năng là hiện thực. Tôi thất vọng vì cái mà anh gọi là thành công dễ dàng và sự "rẻ tiền" của đối thủ mình. Còn điều thứ hai mà anh gợi ý, quả thật tôi chưa nghĩ đến.

- Đừng vội thất vọng, anh bạn trẻ. Hãy đi vào vấn đề cụ thể này là làm thế nào chúng có thể gửi đều đặn các bài viết ra ngoài? Hẳn có đường dây ổn định. Nghĩa là có một tổ chức hẳn hoi, một thứ "tòa soạn tại chỗ" để đặt hàng và trả tiền cho bọn bồi bút đó. Cái tòa soạn bí mật đó là đối thủ trực tiếp của chúng ta. Cậu có tin tức gì chưa? Nếu chưa có thì tính toán để có lời giải tiếp theo.

Tư Tuân làm việc không biết mệt mỏi, làm ngày, làm đêm. Mần việc đến một, hai giờ đêm, ngáo đến năm giờ sáng mà đã mò dậy tập thể dục và "ăn qua loa mấy chén cơm chiên…" Mèn ơi, cơm chiên mà đảng viên ta chỉ đớp qua loa mỗi sáng có mấy chén thôi. Cơm chiên mà đảng viên ta buổi sáng đớp qua loa được những mấy chén thì dù không có ưa cộng sản đến mấy, ta cũng phải nhận đảng viên đớp khỏe quá. Đảng viên có thể đau bất cứ bệnh gì, song chắc chắn không phải là đau dạ dày.

Khi anh dắt xe ra khỏi nhà chị chạy theo trao cho anh lọ thuốc và dặn:

- Em nhờ mấy anh bên Viện Y học dân tộc làm thuốc tễ cho anh đây, nhớ uống năm viên một lần vào lúc nửa buổi sáng và một lần trước bữa cơm trưa nghe.

Giờ đây ngồi ở bàn làm việc, Tư Tuân càng thấy thương vợ. Anh mở cặp lấy lọ thuốc ra, mở nắp đưa lên mũi ngửi. Vị thuốc thơm thơm làm anh sao xuyến.

Ta nói "nửa đêm" nhưng chẳng ai nói "nửa buổi sáng". Ta nói "giữa buổi sáng" hay chín, mười giờ sáng. Riêng Cớm Cộng vợ dặn chồng uống thuốc vào lúc "nửa buổi sáng". Nhưng thôi, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ấy. Ta nên nói đến thứ thuốc tễ đặc bịt mà Cớm Tư Tuân, trong lúc ngồi lên phương án truy tầm tung tích và tóm bọn Biệt Kích Thành Hồ, đưa lên mũi ngửi và thấy thơm thơm.

Sau ngày Ba Mươi Tháng Tư những người dân Việt Nam Cộng Hòa bại trận tối tăm mắt mũi trong một sớm một chiều thấy mình mất hết tất cả. Sàigòn đang đầy ắp hàng hóa, thực phẩm, thuốc men, Việt cộng trên răng vẩu, cải mả, dưới lựu đạn thối, ngơ ngáo dắt nhau vào Sàigòn, bỗng dưng Sàigòn trở thành một Chợ Trời, chợ vỉa hè khổng lồ. Tất cả những cửa hàng đều đóng cửa. Những người có tiền gửi ngân hàng đều không được lấy ra, mất trắng. Những người mắc nợ ngân hàng, nợ Nhà Nước VNCH, bị Việt cộng truy tầm đòi trả nợ đến nơi, đến chốn. Nhiều người miền Nam Cộng Hòa cũng biết bọn Việt cộng Bắc Kỳ đói khổ nhưng thực tình chẳng ai ngờ chúng lại đói rách đến cái độ cực kỳ như thế.

Bọn lý thuyết gia cộng sản từng viết những câu hung hăng con bọ xít hơn cả thánh tổ của chúng là Các Mác, Ăng Ghen - anh cu Lê Nin không đáng được nói đến - chẳng hạn như câu:

- Chủ nghĩa tư bản ngay từ lúc nó ra đời đã mang máu tươi trên từng lỗ chân lông của nó…

CHƯƠNG 25

L

ời nhận xét và kết tội ấy áp dụng cho chủ nghĩa cộng sản mới đúng. Cũng như câu tiên đoán của Mác trong tuyên ngôn của đảng cộng sản năm 1884.

Chủ nghĩa tư bản có đặc tính ăm bám, thối nát và đang giẫy chết.

Đến giờ này mà còn lải nhải kể chuyện cộng sản chuyên môn lừa bịp nhiều Cố Hồng chắc chắn sẽ kêu: "Biết rồi… Khổ lắm… Nói mãi…" Vì vậy chỉ kể sơ thôi. Thuốc men Nga cộng, Tầu cộng là thứ dở ẹt nhất thế giới. Nga cộng, Tàu cộng chỉ chi viện súng đạn, mìn, hỏa tiễn cho đàn em. Nhưng Tầu cộng có phương thuốc tễ thần sầu quỷ khốc bổ dưỡng cho các lãnh tụ, những bạo chúa cuối thế kỷ hai mươi.

Tầu cộng truyền phương thuốc bí truyền lãnh tụ cộng sản chi bảo ấy cho đàn em Việt cộng. Cũng rất có thể đàn anh khoảnh độc, giữ bí mật chỉ cho đàn em thuốc sực thôi, không chỉ cách mần. Nhưng đàn em ma lanh, ma bùn, học lén được bí kíp chế tạo mật phương. Nhờ bí phương này có thể nói tất cả lãnh tụ cao cấp thế giới cộng sản đều béo tốt, hồng hào, phương phi trông no đủ hơn hẳn những nhân vật lãnh đạo các nước tư bản.

Phương thuốc bổ dưỡng đại quý Việt cộng học lén được của đàn anh Tầu cộng là Nhân Cao. So với Nhân cao, thì cao hổ cốt, cao ban long, cao xương khiếu, cao khỉ đột không đi đến đâu. Nhân cao, hay cao nhân, như tên gọi, là cao người, được cộng sản làm bằng thịt và xương người. Không phải thịt và xương những người tầm thường đã mất nguyên khí hay nguyên trinh mà là xương thịt thai nhi. Trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa dài lòng thòng việc con gái - những cháu ngoan bác Hồ mười sáu, mười bẩy tuổi, con gái còn trinh chứ không phải đàn bà - chửa hoang đi nạo thai là việc được chế độ khuyến khích, bảo vệ. Thai nhi được lấy ra bất chấp sự an nguy của người mang thai. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thiên hạ lấy thai ra khỏi bụng mẹ như thiến gà, thiến chó.

Ở những xưởng đẻ Xã hội Chủ nghĩa thai con nít nhiều đến nỗi được lấy đi nuôi lợn. Một số thai được dược học Xã hội Chủ nghĩa làm thành Nhân cao. Những cái tên gọi là Viện Y Học Dân Tộc Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ có mỗi một thứ thuốc khốn nạn gọi là Xuyên Tâm Liên. Nhân cao chỉ để dành cho cán bộ đảng viên. Thứ thuốc vợ Tư Tuân nhờ mấy đồng chí bên cái gọi là Viện Y học Dân tộc đặc chế đưa cho chồng chính là một trong những dược phẩm nhân cao ác ôn. Nhân cao được làm bằng xương, thịt, máu bào thai, bất cứ người nào ngửi cũng thấy tanh tưởi. Bọn công an cộng sản không giống người thường, như Tư Tuân chẳng hạn, y ngửi thấy thơm thơm.

Theo như chi tiết được tả Cớm Tư Tuân phải làm việc ngày đêm, ăn thì chỉ ăn sáng qua loa có mấy chén cơm chiên - Cớm mà đớp thật tình chắc phải hết cả chảo - mà Cớm mần việc chi mà dữ quá dzậy? Ngôn từ Việt cộng gọi là "khẩn trương". Cớm ngày đêm đọc "sách báo của bọn phản động lưu vong ở nước ngoài" tìm xem những tên gan cóc tía nào sống dưới gông cùm cộng sản mà dám viết những bài tố cáo tội ác cộng sản, mô tả đời sống cực khổ của nhân dân, cười khóc thay cho nhân dân, nguyền rủa cộng sản thay cho nhân dân. Tìm ra những tên mật lớn này để tóm cổ chúng nhốt vào tù mút mùa Đỗ Đít.

Việc làm này dễ ợt, dễ hơn đớp cơm sườn. Những năm 81, 82 ở Thành Hồ, bọn văn sĩ Sàigòn viết được và dám viết bài gửi ra ngoại quốc có thể đếm được trên mấy đầu ngón tay. Để có thể có những bài viết, gọi là bài viết thôi, đừng nói đến "tác phẩm" đao to búa lớn - để có thể có được những bài viết tả đời sống thật của nhân dân Thành Hồ gửi ra nước ngoài, điều kiện cần nhất và quan trọng nhất là người viết "dám viết, dám gửi đi, nhận chịu nguy hiểm". Nhiều ông ra được nước ngoài viết vung xích chó, viết loạn cào cài châu chấu, nhưng trong khi còn ở trong nước thì thủ khẩu như bình, một chữ cũng không viết đi. Mấy ông như dzậy là mấy ông khôn. Chỉ có những thằng ngu sống dưới ách Việt cộng chưa biết chết lúc nào mà còn ngứa ngáy viết bậy viết bạ gửi ra nước ngoài. Bị tù mút chỉ cà tha, bị bỏ mạng trong tù là đáng kiếp.

Nhưng đến đoạn này ta lại thấy lòi ra anh Cớm cộng Kiên Trinh. Vậy là thủ trưởng giao việc điều tra tóm bọn văn nghệ sĩ Sàigòn viết bài gửi ra nước ngoài cho Tư Tuân, Tư Tuân trao việc này cho Kiên Trinh. Vậy mà vừa mới đoạn trên ta thấy tả Tư Tuân nghiên kíu điều cha, điều mẹ ngày đêm, chị vợ phải đi kiếm nhân cao cho đương sự tẩm bổ. Đây là lời báo cáo của anh cớm cộng có cái tên không hợp với cớm cộng chút nào là Kiên Trinh:

- Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống cộng "có cỡ" cả. Tôi xin trình bày từng loại dễ "nhận diện" nhất. Đó là loại phiếm luận như bài tựa "Nếu chàng Trương Chi đẹp trai" chắc chắn tác giả của nó trước đây thuộc nhóm "nồi niêu xoong chảo" của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương. Anh Quân bỏ báo Hòa Bình đem theo cả nhóm này về báo Độc Lập. Hiện nay ở thành phố ta chỉ còn vài ba tên trong cái nhóm đó thôi. Còn những bài ký tên Công tử Hà Đông tôi nghĩ đến Hoàng Hải vì tên này quê quán ở Hà Đông, vốn công tử bột, con thầy Thông phán, cháu ruột quan tri huyện.

Chàng Công tử Hà Đông sướng rên mé đìu hiu - chữ của Duyên Anh Tuổi Ngọc những năm tháng xa xưa - khi được Cớm cộng gọi là "Công tử bột". Dân Bắc kỳ ngày xưa - ngày xưa tức là phần đầu nửa thế kỷ Hai mươi Trần ai khoai củ - có câu "Công tử Bột, Tiểu thư Vôi" để gọi những cô cậu cũng ăn diện đấy nhưng không được thanh lịch, không sang, rẻ tiền. Đúng vậy, Công tử Hà Đông đúng là một thứ Công tử Bột Bắc kỳ điển hình và chính cống. Nhưng mà Công tử Bột cũng là, vẫn là công tử. Đời trước, đời này, đời sau không biết ra sao, có thật ít người dám nhận mình là công tử. Vài ba anh tự phong mình là công tử ăn diện đúng mác thường bị người đời chê là rởm, khoác lác hoặc phét lác. Khi Công tử Hà Đông tự nhận là Công tử Hà Đông tức là chàng muốn nhận chàng chỉ là một thứ công tử bột "… Công tử bột con thầy thông phán, cháu ruột quan tri huyện…". Ní nịch trích ngang, trích dọc không có gì nhiều, không nặng mà cũng không nhẹ, song nghe cũng không không đến nỗi quá ư hạ cấp.

Có điều cần viết cho đúng về câu nói của anh Cớm cộng Kiên Trinh trên đây: "… như bài tựa đề "Nếu chàng Trương Phi đẹp trai" chắc chắn tác giả nó trước đây thuộc nhóm "nồi niêu soong chảo" của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương..". Bài được đăng dưới bút hiệu "Lão Dương". Con nít lên ba, cụ già chín bó cũng biết "Lão Dương" là Dương Hùng Cường Dê Húc Càn. Thứ hai, nhóm "nồi niêu soong chảo" là nhóm ký giả trẻ chủ lực của tòa soạn báo Sống của anh Chu Tử Chu Văn Bình từ những ngày đầu ho hen kèn cựa, chết đi sống lại của báo Sống đầu năm 1965. Sau ngày ba anh em ông Diệm, Nhu, Cẩn bị bắn chết, đảng Cách Mạng Quốc Gia, đảng Cần Lao Nhân Vị, Lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa xẹp nhanh hơn bong bóng xà bông, nguyên thủ Ngô Đình Diệm bị bể đầu, Big Minh lên thay chức nguyên thủ chưa đầy ba tháng thì bị Nguyễn Khánh chỉnh lý hạ bệ, cho ngồi chơi xơi nước mút chỉ. Những cuộc binh biến theo nhau xảy ra, những thủ tướng theo nhau rớt đài, anh Chu Tử không ra được báo nên phải mướn "măng xét" của báo người khác để làm. Làng báo Sàigòn - và toàn thể làng báo Bắc Kỳ, Nam Vang, Viên Chiên do quan thầy Phú Lang Sa truyền nghề. Vì vậy báo Sàigòn dùng rất nhiều thuật ngữ chuyên môn tiếng Phú Lang Sa. "Măng xét: Manchette" là tên tờ báo có giấy xuất bản. Nhiều anh viết cái biên lai giặt ủi cũng ướt mồ hôi trán nhờ những thế lực nào đó xin được giấy phép ra báo. Mấy ảnh mà báo bổ ký gì. Mấy ảnh mướn ký giả chuyên nghiệp hoặc cho ký giả chuyên nghiệp mướn giấy phép ra báo của mình. Việc làm đó được giới trong nghề gọi tắt và giản dị là "Mướn măng xét". Mỗi lần báo bị đóng cửa, anh Chu Tử mô tả nhóm anh em ký giả của anh "lêu bêu như chó mất chủ". Khi mướn được một măng xét nào đó trong bài trình làng anh viết: "Nhóm chủ trương báo Sống sẽ đua hết nồi niêu soong chảo sang tờ báo này vv.." Từ đó thành cái tên Nhóm Nồi Niêu Soong Chảo. Toàn Nhóm Nồi Niêu Soong Chảo sẽ tái ngộ với bạn đọc thân mến trên tờ báo X v.v…"

Nhóm "Nồi niêu soong chảo" không bao giờ là "của Anh Quân". Anh Quân có thời làm ký giả báo Sống, nhưng chính Anh Quân không ở trong nhóm "Nồi niêu xoong chảo" của báo Sống những ngày đầu. Sau khi anh Chu Tử bị bắn mà không chết vào giữa năm 1965, báo Sống sống vững, mấy tiếng "Nồi niêu xoong chảo" không được dùng đến nữa và bị quên dần. Năm 1970, nhân báo Sống đăng phóng sự làm lớn vụ PM Mẽo dẹp khu lều dân Việt nghèo dựng lên ngoài hàng rào căn cứ quân sự Mỹ trên bán đảo Cam Ranh để bán sì ke cho GI Mỹ, cho đó là vụ lính Mỹ xâm phạm, đi bốt đờ sô lên chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, báo Sống bị đóng cửa. Ký giả báo Sống mới tản đi kiếm sống ở những báo khác.

Nhóm "Nồi niêu soong chảo" chính cống gồm có Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Tú Kếu, Trần Tử, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Anh Hợp. "Hiện nay tại thành phố ta còn vài ba tên trong nhóm đó thôi." Khi Cớm cộng nói câu đó thì ở cái gọi là "thành phố ta" chỉ còn có hai tay cựu "nồi niêu soong chảo" là Nguyễn Thụy Long và Nhã Ca là còn lạng quạng vất vưởng ở ngoài nhà tù. Ký giả Trần Tử, Anh Hợp đã chết, Nguyễn Văn Đông sang Mỹ, Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Tú Kếu đang ở trong những trại tù khổ sai. Dê Húc Càn Dương Hùng Cường và tôi, người viết những dòng này, không ở trong nhóm ký giả gọi là nhóm "Nồi niêu xoong chảo" do anh Chu Tử đứng đầu.

- Dĩ nhiên không có tên nào dại dột dùng bút hiệu cũ. Trong một chế độ mà người viết văn, làm thơ không dám ký tên thật dưới những tác phẩm của mình, bọn cầm quyền, bọn đầu sỏ của chế độ đó phải thấy xấu hổ, thấy nhục nhã hơn những người viết không dám ký tên thật. Người viết không dám ký tên thật can tội hèn nhát. Đúng vậy. Nhưng họ còn có lý do chạy tội là họ muốn giữ bí mật tên tuổi để không bị bọn đầu trâu mặt ngựa nửa đêm ập đến nhà còng tay đưa đi năm bảy mùa thu lá rụng chưa nhìn thấy mơ hồ bóng dáng đường trở về mái nhà xưa. Họ mong họ không bị bắt để họ còn có thể viết được nhiều nữa.

Đời nào cũng vậy thôi, rất nhiều người làm văn nghệ nhưng chỉ có rất ít người được nổi tiếng. Nổi tiếng và được đời công nhận là văn nghệ sĩ. Nổi tiếng cũng là thành công. Như Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, không cần có hai tiếng thi sĩ đứng trước tên. Phạm Duy, Văn Cao, Hoài Bắc không cần có hai tiếng nhạc sĩ, như Thái Thanh không cần được giới thiệu là nữ ca sĩ. Có rất nhiều người viết rất nhiều truyện ngắn, truyện vừa, làm nhiều bài thơ nhưng vẫn chẳng được ai nhìn nhận là văn sĩ hay thi sĩ. Người viết tạo được một văn phong riêng, bút pháo riêng - nôm na là giọng văn riêng, cách viết riêng, lối nhận xét cuộc đời trần ai khoai củ riêng - lại rất khó và hiếm.

Cớm Kiên Trinh báo cáo với cớm Tư Tuân:

- Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống Cộng "có cỡ" cả…

Cớm cộng đọc 15 bài anh em chúng tôi viết ra, công nhận: "Tất cả đều loại chống cộng "có cỡ". Trong khi đó thì chính anh em chúng tôi, những người viết những bài cớm cộng cho là "chống cộng có cỡ" ấy, chúng tôi coi những gì chúng tôi viết gởi đi chỉ là loại viết chơi vì quá buồn. Chúng tôi không có ý viết những lời đao to, búa lớn. Chúng tôi áy náy vì thấy mình không diễn tả, không ghi lại được một phần trăm những đau khổ, những oán hận của nhân dân, những tai họa do cộng sản gây ra cho nhân dân ta.

"Những tên biệt kích cầm bút" trang 79, anh cu Tư Tuân cớm cộng, trưởng cái ban gọi là Ban Công Tác Chống Phá Hoại Tư Tưởng, được giám đốc cớm Thành Hồ giao nhiệm vụ điều tra mấy tên văn nghệ sĩ Sègoòng gan cóc tía dám viết bài tố cáo chế độ cộng sản ác ôn côn đồ gửi ra nước ngoài. Nói là điều tra cho huê dạng, đúng ra là giao cho anh cu Tư Tuân việc tìm bắt, bỏ tù bọn gan cóc tía. Tư Tuân đọc những bài báo phản động và thấy "buồn nôn vì toàn là những luận điệu rẻ tiền.." nhưng đến trang 87, tức là chưa đến mười trang sau, anh cu Kiên Trinh, anh Cớm Cộng có cái tên không có vẻ cớm chút nào là Kiên Trinh, được Trưởng ban Tư Tuân giao lại việc tìm bắt bọn gan cóc tía, báo cáo:

- Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống Cộng "có cỡ" cả…

Thằng đàn anh vừa chê: "… luận điệu vu cáo rẻ tiền. Chán đến buồn nôn…" Ngay sau đó thằng đàn em dộng tủ đứng, dộng luôn cả cái bàn thờ Chủ tịt Đảng vào mồm thằng đàn anh bằng câu nói:

- Em đọc 15 bài của chúng nó thấy bài nào cũng thuộc loại chống cộng "có cỡ" cả…

Rẻ tiền tức là không có cỡ, mà có cỡ tức là có giá trị, và có giá trị tức là không rẻ tiền. Anh cu Kiên Trinh, cái tên anh cu cớm cộng Thành Hồ này cũng kỳ. Bác Hồ học mót lối dùng bí danh có vẻ bình dân để gọi nhau trong Đảng của Tầu Cộng, bác lấy tên là Sáu Keo. Từ đó, bọn đảng viên Việt cộng anh nào cũng có tên mang số thứ tự hai, ba, năm, sáu đứng đầu. Chẳng hạn như Tư Bốn, Ba Thiên, Năm Lành, Bốn Lù v.v… Có anh còn mang cái tên gợi cảm là Hai Bi, Ba Bi. Nhưng ở trang này, ta lại thấy lòi ra một anh cớm cộng có cái tên là Kiên Trinh - Anh cu Kiên Trinh chỉ mới đọc có 15 bài còm của vài tên văn nghệ sĩ Sègoòng kẹt giỏ viết gửi ra nước ngoài là anh đã phải nhận là "… chống cộng có cỡ…" Nếu hai anh cu này đọc 150 bài do anh em chúng tôi viết về cuộc sống thê thảm của nhân dân thành Hồ dưới gông cùm Việt cộng, chắc hai anh sẽ buồn nôn đến cái độ nôn ra máu.

Được cớm cộng "đánh giá" là viết toàn những bài "chống cộng có cỡ" nghe cũng khoái tỉ. Nhưng quy luật của tự nhiên, theo Ăng Ghen là "càng được cộng sản đánh giá chống cộng cao cấp chừng nào càng bị cộng sản bỏ tù lâu chừng ấy". Những trang NTBKCB cho anh em chúng tôi thấy tại sao bọn công an Thành Hồ lại hục hặc kết anh em chúng tôi vào tội gián điệp, đưa chúng tôi ra tòa với tội gián điệp và muốn tử hình một người trong bọn chúng tôi, bỏ tù chung thân tên thứ hai trong danh sách gián điệp, bỏ tù hai mươi cuốn lịch Tam Toong Méo tên đứng hạng thứ ba, mười lăm mùa khoai lang tên đứng thứ tư, mười hai mùa củ đậu tên đứng hạng thứ năm, mười mùa cốm giẹp tên đứng hàng thứ sáu. Hai tên gián điệp cuối cùng trong số 8 tên, tên số tám và tên số bẩy: mỗi tên tám mùa cô hồn cháo lá đa.

Bị tó tháng Năm 1984, một tháng sau ngày Nhóm Già Lam Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Thích Trí Hải giã từ cửa Thiền lên xe bông dzô cửa tù, chúng tôi bị bọn viết báo cộng sản chửi lai rai, chửi dài dài từ năm 1985. Năm 1986 trước ngày bọn công an Thành Hồ đưa chúng tôi ra tòa, bọn báo Công An và bọn báo Tuổi Trẻ Thành Hồ cùng đăng những bài mới về chúng tôi. Khi những tờ báo có những bài viết ấy vào đến tay chúng tôi trong nhà tù Chí Hòa, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, người ở tù cùng phòng với tôi trong suốt năm mùa Lễ Vu Lan, nói với tôi:

- Sao chúng nó thù các bác quá…

Tôi gọi Trí Siêu bằng thầy. Trí Siêu gọi tôi bằng bác. Trí Siêu kém tuổi tôi mười mùa bác Hồ đầu thai phá dân hại nước.

Nhưng như tôi đã viết, xin viết lại ở đây cho câu chuyện được mạch lạc, bạn đọc dễ theo dõi hơn. Công an Thành Hồ đã dàn dựng sân khấu, làm om sòm trên báo để đưa "bọn gián điệp ra tòa. Chúng sẽ phải cúi đầu nhận tội…v.v…"

Năm 1986, trước ngày chúng họp cái gọi là Đại Hội Đảng Mả Mẹ kỳ 6. Nhưng rồi, chúng không thể đưa chúng tôi ra tòa như chúng đã loan báo rình rang trên các báo. Chúng tẽn tò. Loạt bài nửa phóng sự, nửa điều tra, nửa chuyện bịa viết nhiều kỳ về bọn gián điệp mới đăng được ba kỳ trên báo Công An, Tuổi Trẻ bị ngưng. Không cả một mẩu tin cho độc giả biết phiên tòa xử bọn gián điệp được loan báo xử ngày đó, tháng đó đã được hoãn.

CHƯƠNG 26

B

ọn Công an thành Hồ có sách báo Việt hải ngoại không có gì khó. Sách báo Việt hải ngoại bán tự do. Chúng chỉ việc cho tay sai bỏ tiền mua gửi về. Nhưng chắc chắn chúng cũng không thể nào mua và có được tất cả các sách báo Việt chống cộng phát hành ở hải ngoại. Vì vậy anh cu Kiên Trinh chỉ được đọc có 15 bài. Và chỉ mới đọc 15 bài thôi anh đã phải nhận: "… bài nào cũng thuộc loại chống cộng có cỡ…"

Riêng tôi, tôi không lấy gì làm quan trọng những bài tôi viết. Tôi viết toàn những chuyện phiếm, tôi viết như tôi nói chuyện. Tôi tự coi tôi như anh lom khom đứng ở góc vườn, vạch rào nói ra ngoài, tiếng được, tiếng mất, mong những người đi ngoài đường nghe tiếng:

- Mấy ông, mấy bà ơi… Đừng có tin mấy thằng ăn cướp chúng nó chiếm cái nhà này của chúng tôi. Chúng nó nói với mấy ông, mấy bà là mọi người sống trong căn nhà này đều sung sướng là chúng nó nói láo. Chúng nó đểu lắm, ác lắm. Chúng nó làm chúng tôi điêu đứng…

Vì đã có thời làm phóng viên nhà báo, tôi tự cho tôi biết những người Việt bỏ của chạy lấy người trước ngày đứt phim trong thời gian ấy- những năm 76 đến 84 - sống lưu vong ở những nơi chân trời, góc biển muốn nghe, muốn đọc, muốn biết những chuyện gì đang xảy ra ở Sàigòn. Tôi tự đặt tôi vào tình trạng tinh thần của những người Việt lưu vong, những người từ đời ông cố, ông sơ sống truyền kiếp ở Sàigòn, quen thân từng ngõ ngách, từng vỉa hè, đôi mông quen thuộc với tất cả những chiếc ghế da rạp Rex, Đại Nam, Kim Châu, Khải Hoàn, Eden, Thanh Bình, Quốc Tế, Bonard Vĩnh Lợi… quen luôn cả những Lido, Đại Quang, Victory bỗng dưng một sớm một chiều bị bốc ra khỏi môi trường sống. Người Việt sống ở Sàigòn thoải mái, hồn nhiên, tự nhiên, thiên nhiên, tất nhiên, mặc nhiên, nghiễm nhiên, đủ thứ nhiên hằm bà lằng xíu oát, như con cá lóc sống trong biển Hồ Pleiku, nơi có người em Pleiku má đỏ, môi hồng, nơi cuộc đời quanh năm mùa đông. Người Việt Sègoòng bị trực thăng Mẽo bốc ra nước ngoài tình cảm chắc cũng không khác gì em cá bông lau bị đưa lên chợ Cá Trần Quốc Toản. Xin lỗi, không đến nỗi bi đát như thế nhưng nếu tôi là những người tha hương sầu xứ đột ngột và bất đắc dĩ ấy, tôi muốn được nghe, được đọc những chuyện gì đang xẩy ở Sàigòn.

Nếu tôi là người Việt lưu vong, tôi sẽ muốn đọc, muốn biết những chuyện linh tinh, lặt vặt xẩy đến trong cuộc sống thường ngày của người dân thường Sègoòng. Người Sègoòng sống ra sao, mần ăn chi, có bị Việt cộng hành hạ khổ sở lắm không? Dân Sègoòng nghĩ gì về bọn Việt cộng nay làm chủ Sàigòn? Vì vậy, tôi đã viết ra nước ngoài những việc rất thường như chuyện dân Sègoòng đi lãnh đồ ở những nhà bưu điện, ở kho hàng Tân Sơn Nhất.

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh

Đôi tay anh vín đôi cành

Quả chín anh hái quả xanh anh vồ

Năm sáu năm nay anh ăn ở thành Hồ

Anh ra bưu điện lãnh quà em cho

Đồ em vừa nặng vừa to

Anh đã con mắt anh no cái mồm

Tôi viết về những nghề mới của dân Sègoòng sau Ba mươi tháng Tư: bơm mực bút bi, mua bán chợ trời, chợ đất, thuốc tây, ve chai - một loại dze chai mới xã hội chủ nghĩa - nghề chà đồ nhôm. Trang điểm những bài viết ấy là những bài thơ nho nhỏ:

Chà đồ nhôm

Đi đâu bỏ con ở nhà?

Hỏi Em, Em nói: Đi chà đồ nhôm!

Đi đâu tay xách, nách ôm?

Hỏi Em, Em nói: Đi chôm đồ nhà!

Cộng sản đi đến đâu đói khổ, nheo nhóc, dơ dáy đi đến đấy. Quy luật ấy đã có từ bẩy mươi mùa củ chuối và đã xảy ra ở quá nhiều nơi. Nhưng như cái gọi là Thiền, phải đến những năm 75, 76 đen hơn cái lá đa dân Sègoòng mới thấy, mới biết, mới bị nó quật cho tối tăm mắt mũi, ứa máu ra đủ bẩy lỗ gọi là Thất khiếu. Như chợ trời chẳng hạn. Cộng sản đến bất cứ thành phố nào trên trái đất bất hạnh vì có tai họa cộng sản này lập tức thành phố đó xuất hiện những chợ vỉa hè. Người dân đem đủ thứ vật dụng ra vỉa hè bày bán. Đặc biệt năm 1975, có nhiều nhà cho Mỹ mướn, nhiều nhà giàu bỏ của, bỏ nhà, bỏ nước chạy lấy người, số vật dụng được dân nghèo vào những nhà đó lấy ra thật nhiều. Không chỉ quần áo, đồ dùng vặt vãnh mà thôi, người dân Sègoòng bán cả bàn ghế, giường tủ, xe gắn máy. Người ta như bị say đòn bán đồ. Thấy người khác bán đồ, nhiều người không cần tiền cũng đem đồ ra bán tống, bán tháo. Có người sợ: "Nhà mình nhiều đồ quá, nó để ý…" "Nó" đây là Việt cộng.

Giấc mộng huy hoàng nhất của những anh "bộ đội cụ Hồ" là có một chiếc đồng hồ tay. Những câu "đồng hồ không người lái, một cửa sổ, hai cửa sổ" xuất hiện trong ngôn ngữ dân Sègoòng. Nhân tiện nói đến chuyện đồng hồ, xin nhắc lại chuyện "giả chân" trong bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu.

Phùng Quán - nghe nói là cháu gọi Tố Hữu là cậu - viết một bài ngắn tả cảnh ông đi tù về đến nhà thăm ông cậu. Ông tả thời Tố Hữu đang hiển hách, khi Tố Hữu là Phó Thủ tướng kiêm đại đầu sỏ Văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhà Tố Hữu được canh gác như một phủ chúa, cận vệ bận đồng phục trắng, an ninh nổi chìm khắp dinh, quan khách ra vào tấp nập. Thế rồi Đảng cộng sản Nga tiêu tán thoòng, Liên Sô thành trì xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, thánh tổ Lenin bị kéo cổ cho ra nằm bãi rác.

Biết rồi…. Nói mãi… Xin vắn tắt: Tố Hữu bị thất sủng. Đang là vị lãnh tụ được chuẩn bị thay thế Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội Đồng Chánh Phủ, tức là làm Tể Tướng - Tố Hữu tụt xuống làm một thứ dở ông, dở thằng không giống ai và không ai giống. Phùng Quán tả nhà ông cậu xuống chó vắng như chùa Bà Đanh, như nhà cô Đạm Tiên khi người khách viễn phương đến thăm. Rồi Phùng Quán kể đến bài thơ mới làm của ông cậu xuống chó.

Thơ như vầy:

Anh bộ đội đi mua đồng hồ

Thật giả khó phân anh rất lo

Anh hỏi cô hàng, cô tủm tỉm:

Giả mà như thật, khó chi mô!

Ra cái điều Tố Hữu chửi bọn Đỗ Mười, Võ Văn Kẹt là bọn đệ tử Mác giả hiệu. Ý nghĩa bài thơ này, em bé lên ba, cụ già chín bó đọc qua đều biết. Bọn đệ tử Mác vẫn thường chửi nhau là đệ tử Mác giả hiệu, miệng nói theo Mác, việc làm phản lại lý thuyết Mác. Không những chúng chỉ chửi nhau mà thôi, chúng còn nhân chuyện ấy giết nhau tàn tệ. Từ lâu rồi, người ta đã nói: Nếu Các Mác mà sống dưới thời Sít Ta Lin, Các Mác cũng bị Sít Ta Lin bỏ tù vì tội "hiểu sai chủ nghĩa Mác"

Điều lạ là anh Tố Hữu, thi sĩ cộng sản đoạt giải thơ nâng bi lãnh tụ nhiều năm liên tiếp, tác giả những câu ca tụng Chúa Đỏ Sít-ta-lin đến cái độ ghê rợn - biết rồi, khỏi kể - đã không biết nhục mà còn mần thơ chửi bọn Mác Xít hoạt đầu. Bài viết ngắn của Phùng Quán tả cuộc đến thăm Tố Hữu chỉ được nhiều người để ý vì có bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu.

Có điều lạ nữa là dường như chẳng ai thấy cái vớ vẩn của bài thơ. Ý bài thơ không ăn khớp. Anh bộ đội đi mua đồng hồ nói một đường, chị bán đồng hồ trả lời một nẻo. Ý bài thơ anh chẳng, ả chuộc, anh nói gà, ả nói vịt vô lý quá rõ. Vậy mà tôi chẳng thấy ai nói gì về chuyện ấy cả.

Này nhé, anh bộ đội đi mua đồng hồ. Chợ xã hội chủ nghĩa bán nhiều thứ giả mạo quá, anh sợ anh mua phải đồ giả. Anh hỏi cô hàng làm sao phân biệt được đồng hồ nào giả, đồng hồ nào thiệt. Thay vì trả lời câu hỏi đó, cô hàng lưu manh trả lời một câu không ăn nhập gì đến câu hỏi:

- Đồng hồ giả mà làm như đồng hồ thật có gì khó đâu.

Anh bộ đội cụ Hồ có thể nổi cáu:

- Chị đừng có ăn nói vớ vẩn. Tôi hỏi nằm thao biết đồng hồ lào giả, đồng hồ lào thật… Chị khoe chị làm cho đồ giả như thật là nghĩa chi?

Bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu, theo tôi, phải như sau mới có nghĩa:

Anh bộ đội đi bán đồng hồ

Đồng hồ anh giả, anh rất lo

Anh nhờ cô hàng, cô tủm tỉm:

Giả mà như thật, khó chi mô!

Có lần tôi bi phẫn trước cảnh những anh chị dze chai mới đi khắp xóm rao mua đủ thứ đồng hồ, mắt kính, ra-zô, bàn ủi, máy may, nồi cơm điện… Chẳng thấy ai rao mua người. Anh bạn tôi nói:

- Cũng có đứa nó mua người chứ. Sao anh lại nói chẳng ai mua người…

Phẫn nộ một cách hết sức dzô dzang, tôi đi một đường Tác-giăng nổi giận:

- Nó mua là nó mua đàn bà, con gái còn sài được. Nó có mua loại đàn bà ho hen, kèn cựa, vú lép, mông teo đâu. Đằng này đồ hư, đồ cũ, đồ xập xệ, đồ nát. Đồ gì cũng có người mua hết. Đàn bà ốm nhách, xanh leo, xanh lét có cho không nó cũng không thèm lấy. Còn cái ra-zô cũ, chuột gặm mốc meo anh mua từ thời lính Mẽo chưa tham chiến ở Việt Nam nghe hết được anh bỏ quên trong gậm tủ, nay anh mang ra bán vẫn có người mua.

Vật quý hơn người. Đó là lẽ thường, lẽ tự nhiên và đương nhiên. Tôi bất bình vì chuyện đồ cũ bán có người mua, người cũ không ai mua cả là tôi vô lý. Quẳng cái bàn ủi cũ ra đường năm phút sau có người ôm đi ngay. Quẳng một em bốn bó, kể luôn cả ba bó, ho lao hen suyễn khặc khừ, hay đang trong tình trạng thượng thổ, hạ tả ra vỉa hè, nằm bẩy ngày người qua đường không ai thèm dừng chân lại nhìn cho một cái làm phúc. Tôi cũng dzậy thôi. Bố bảo tôi cũng không khiêng những em ốm o ấy về nhà, đừng nói đến chuyện tôi bỏ tiền ra mua.

Bất bình tắc minh. Tức cảnh sinh tình. Trong những năm 1976, 1977, rồi trong hai năm 1982, 1983 tôi viết một số bài linh tinh về những chuyện vặt đại khái như tôi vừa kể gửi ra nước ngoài. Rất tiếc, những bài tôi viết ra nước ngoài thời ấy, tuy được đăng trên nhiều báo ở Mỹ, Úc, Pháp, nhưng vì không được in thành sách nên bị chìm mất theo thời gian. Nay ở Rừng Phong tôi chỉ còn được một hai bài đăng trong tập "Tắm Mát Ngọn Sông Đào", nhà xuất bản Lá Bối ấn hành ở Paria năm 1982, một bài trong Thời Tập, tạp chí do Viên Linh chủ trương, ấn hành ở Mỹ năm 1979.

CHƯƠNG 27

T

ôi trang trọng cám ơn bạn đã đọc tôi dến dòng chữ này. Mời bạn đọc - mời bạn đọc lại nếu bạn đã đọc rồi - một bài tôi viết về đời sống dân thành Hồ gửi ra nước ngoài năm 1981.

Chà Đồ Nhôm

Trích "Tắm Mát Ngọn Sông Đào," bài viết ở Thành Hồ năm 1981.

Trong tiểu thuyết "1984″ George Orwell viết dự tưởng rằng năm 1984 của thế kỷ này, cái gọi là "socialism" - chế độ xã hội chủ nghĩa - được thiết lập ở nước Anh. Orwell viết "1984″ vào năm 1948, trong đó ông dự tưởng một số sự kiện sẽ xảy ra vào năm 1984 ở nước Anh xã hội chủ nghĩa. Trong số sự kiện này, có việc Orwell cho rằng khi xã hội chủ nghĩa được đặt ở nước Anh nước đó sẽ "mười lăm ngày có một kỳ xổ số"

Khi viết truyện đó cách đây ba mươi hai năm, Orwell cho rằng "mười lăm ngày một kỳ xổ số" là ghê gớm kỳ dị, khó chấp nhận, khó tưởng tượng lắm lắm. Thật ra George Orwell ngây thơ không biết chừng nào. Nếu ông còn sống đến năm nay, chắc ông phải ngượng vì sự dự tưởng không đúng mức, kém xa mức độ hiện thực, không đi đến đâu, chưa đáng gì, chưa nói được gì hết của ông ta. Bởi vì ở đây, từ năm 1980, trong cuộc sống của một nước xã hội chủ nghĩa đang lên, non trẻ, đầy sức sống "xổ số không phải là chỉ nửa tháng mà là một ngày ba kỳ".

Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, người ta xổ số mỗi ngày hai lần, có những ngày đặc biệt xổ ba lần, kể cả ngày chủ nhật. Một tháng trung bình tám mươi kỳ xổ số. Kỹ nghệ phồn thịnh này do nhà nước chủ trương và khai thác. Nó phát triển sâu rộng khắp miền Nam, đi sâu vào mọi ngã ngách, vào từng nhà ở thành cũng như tỉnh. Người ta nói một trong những nguyên nhân làm giá giấy đắt, học trò thiếu tập chép bài, quyển vở một trăm trang giấy đen hiện giá bốn đồng, là vì nhà nước dùng quá nhiều giấy để in vé số và giấy ban khen, tuyên dương công nhân tiên tiến. Về giấy khen trong vài năm đầu, những người được khen còn dán lên tường, đặt trong tủ kiến nhưng nay thì xếp đống, vì nhiều quá không có chỗ nào trưng nữa.

Ngành xổ số hiện cung cấp việc làm cho cả trăm ngàn người dân Thành Hồ. Ngoài những người mù, người già, người què, người sồn sồn, trẻ em mang vé đi bán ở những quán ăn, tiệm cà phê, vào các xóm, đi đường bạn thấy chỗ nào cũng có sạp bán vé số. Có những chỗ bán lớn đặt hai ba cái bàn, trên bầy kín các tập vé số, đằng sau có ba bốn cái bảng đen ghi bằng phấn kết quả những kỳ xổ số vừa ra trong ngày hôm qua. Những chỗ này tấp nập người ra vô, buổi sáng đến lựa mua số, buổi chiều đến dò số, đổi vé trúng. Mỗi chiều vào lúc bốn giờ rưỡi, xổ số được xổ và loan báo trên đài phát thanh. Báo không đăng nhưng những kết quả xổ cũng chẳng bao giờ lầm. Người có vé số chỉ việc ra đầu đường là có sẵn tấm bảng kết quả để dò. Mỗi chiều, công nhân đi làm về, xe đạp và người đứng chật cả nửa đường ở những chỗ đặt bảng kết quả xổ số.

Mỗi thành phố, mỗi tỉnh ở miền Nam đều được quyền mở xổ số để lấy lời cho quỹ tỉnh mình. Vì vậy có những kỳ xổ số của Thành phố Hồ Chí Minh, gọi tắt là số thành phố, và Tiền Giang, Hậu Giang, Đồng Nai, Sông Bé, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Cửu Long, Tây Ninh, Long An v.v… Phần lớn những vé này được tiêu thụ ở Thành Hồ. Mỗi địa phương mỗi tuần chỉ có một kỳ xổ số thôi, nhưng cứ tính sơ sơ như vậy, ta cũng thấy số lần xổ số trong một ngày, lại thỉnh thoảng có những kỳ đặc biệt. Hoặc thành phố có thể xổ số mỗi tuần ba kỳ.

Tưởng cũng nên nhắc qua lịch sử xổ số ở xứ này. Loterie do thực dân Pháp mang vào Đông Dương, có lẽ lần đầu vào những năm 1920. Vào thời kỳ này, Anh Con Trai Bà Cả Đọi còn đang giữ việc điếu đóm ở Thiên Đình, chưa bị Ngọc Hoàng đầy xuống trần ai, nên không biết rõ lắm. Có lẽ vào thời kỳ đầu tiên đó, xổ số được gọi là Xổ số Đông Pháp, phát hành khắp Việt-Miên-Lào Đến năm 1951, cái gọi là chính phủ quốc gia ở Sàigòn mở lại xổ số bán một đồng, độc đắc một triệu đồng, một tháng một kỳ. Qua Đệ nhất Cộng Hòa xổ số tiến lên một tuần một kỳ, tăng giá mười đồng cho đến ngày tan hàng.

Vì ngành xổ số phát hành đều mỗi ngày nên kỹ nghệ phụ của nó là Xổ Đề, đánh đề cũng theo nó bành trướng mạnh. Dân Thành Hồ có câu "Cả nước xổ số, toàn dân đánh đề" nói lên một cách rất đúng đắn hiện thực xã hội này. Trẻ con cũng chơi đề, nuôi số đề và việc chơi đề, nói lái là "đời chê" đem lại niềm vui, an ủi và hy vọng cho nhiều triệu người ở miền Nam.

Ngoài nghề bán, mua xổ số, huyện đề, chơi đề, nhân dân Thành Hồ hiện làm những nghề gì nữa? Nhân dân làm hàng trăm thứ nghề mới cũ do xã hội và thời cuộc tạo ra. Song đại đa số đều là những nghề buôn bán, cung cấp dịch vụ, không sản xuất vật phẩm. Đầy lề đường, nhân dân ngồi bán thuốc lá. Khoảng trăm thước có một chỗ sửa xe đạp. Giá vá một lỗ thủng xe đạp nay đã lên hai đồng, công bơm hai bánh xe đạp là năm mươi xu. Ở cửa các trường học có những người ngồi bơm mực bút bi cho học trò. Mỗi ống mực bơm là một đồng, trong lúc giá mua một bút mực Bic ngoại quốc mới là tám đồng. Từ sáng sớm có những ông già, bà lão, trẻ em lưng đeo cái bao bố, tay cầm móc sắt, đến những chỗ đổ rác, đi vào các xóm, bới các thùng rác nhặt bao ny lông, giấy vụn, bao rách, giấy bẩn, cứ ny lông và giấy là lượm, đem về bán cho Ba Tầu nấu lại. Bao, túi ny lông cũ nấu đi nấu lại nhiều lần, ép thành những bao túi mới mầu cà phê, mầu nâu. Giấy cũ tái sinh thành giấy carton.

Cũng trong các xóm đông đúc của Sàigòn ta thấy có nhiều nghề vặt hay hay. Chẳng hạn có nhiều người rao "đồ cũ đổi đồ mới". Có những anh Tầu đi xe đạp chở một cần xé dép cao su đủ mầu, đi bán và đổi dép cũ đứt. Tất nhiên là phải các thêm tiền. Có những bà gánh nồi niêu xoong nhôm, đèn dầu tây đi bán, đổi. Đến năm nay, giá những chậu thùng bằng plastic quá đắt, dân Sàigòn bắt đầu quay lại dùng đồ sành. Vì nấu ăn bằng củi than, người Sàigòn dùng lại bếp lò. Cần đồ đựng nước, gạo, người dân Sàigòn dùng lại vại, chum sành. Có những ông chở trên một chiếc xe đạp bẫy cái vại cỡ trung đem vào các xóm bán từng nhà. Chắc bạn không sao tưởng tượng được bằng cách nào người ta có thể chở trên một cái xe đạp bẩy cái vại cồng kềnh và rất dễ vỡ. Người ta dùng những cái boọc ba ga bằng sắt lớn và chắc, lấy cây gỗ buộc thêm, giữa để một vại, hai bên sáu vại cân đối nhau, dùng dây chão chằng lại. Tất nhiên muốn chở nặng như vậy, xe đạp phải là xe tốt, khung niền cứng, vỏ ruột mới, loại xe gọi là xe thồ được chế tạo đặc biệt để chở đồ. Và người chạy xe phải thật cứng gân, cứng tay lái.

Trên đây là kể sơ sơ một số những nghề ít vốn, ai làm cũng được. Nếu có tiền, có chỗ, người Sàigòn mở tiệm ăn, cà phê, chè đường, trái cây có nước đá bào gọi là cocktail, mua bán quần áo cũ ở những chỗ gọi là khu chợ trời, bán đồ xe đạp, thuốc tây. Nhiều vốn nữa thì bán radio-cassette, quần áo ngoại quốc v.v… Tất cả đều mua đi bán lại. Tình trạng ly kỳ đập mạnh vào mắt mọi người và không ai trước đây có thể tưởng tượng nổi là Sàigòn hiện nay, 1981, lại có nhiều hàng hóa ngoại quốc hơn Sàigòn 1975. Ai có thể dự kiến được rằng sau sáu năm trái tim tư bản vẫn đập mạnh trong các xác vô sản gầy còm, khô khan. Trái tim tư bản đó sở dĩ còn đập được là vì nó được ngày ngày tiếp máu hồng từ những dòng máu tư bản ở khắp bốn châu truyền về. Tôi kể bốn châu là trừ châu Phi quá đọi nên không cung cấp gì cho Sàigòn. Những dòng máu đó là đường dây chi viện tư nhân do Việt kiều ở khắp thế giới gửi về cho người thân. 90% những người được hưởng chi viện này đều ở thành phố Hồ Chí Minh. Mọi thứ hàng về tới tám phần mười đổ ra bán ở thị trường. Trước tháng 6 năm 1980, khi thuốc lá ngoại quốc còn được gửi về, chưa bị tịch thâu, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có bán Pall Mall, 555, Lucky, Craven A. Vào thời đó, thuốc lá ngoại át hẳn thuốc lá nội hóa, mua một gói Pall Mall dễ hơn, sẵn hơn là mua một gói Vàm Cỏ. Nay thì thuốc lá Anh Mỹ gần như hết hẳn ở Sàigòn. Chỉ còn thuốc Samit của Thái Lan được đổ lậu qua biên giới Thái-Kampuchia về và nếu có tiền chịu khó đi tìm thì ta vẫn còn mua được một gói 555 giá năm mươi đồng, một gói Craven A mười điếu cũng năm mươi đồng.

Những quần jean, áo pull, xà bông, kem đánh răng, vải xoa, nước hoa, bút, bật lửa thì chưa bao giờ Sàigòn có nhiều và đẹp như bây giờ. Sàigòn hiện có nhiều khu bán đồ ngoại quốc. Khu Huỳnh Thúc Kháng bán radio, cassette. Khu này bị dọn dẹp, cấm bán mấy lần, rồi lại cho bán. Quần áo, đồ dùng, thực phẩm và những đồ ngoại khác được bán rất nhiều ở khu Nguyễn Thông, đầu Hồng Thập Tự - chỗ công trường liền với Lý Thái To,å chợ An Đông, chợ Tân Định, khu Hải Ký mì gia và ở đường Tạ Thu Thâu chợ Bến Thành.

Khu nào đồ cũng nhiều và đẹp. Song tôi thấy không khu nào đồ nhiều, đẹp, sang, tốt nhìn mát mắt bằng khu Tạ Thu Thâu. Suốt con đường ngắn này và trên vỉa hè nhìn sang chợ Bến Thành, nhà nước cho dựng sạp đàng hoàng, mỗi sạp rộng một thước, hai dẫy đâu lưng nhau, treo bầy kín những quần jean, blousons, sơ mi đủ màu, đủ quốc tịch toàn cỡ vừa tầm người Việt, mua là mặc ngay, khỏi sửa. Có cả quần áo phụ nữ và trẻ em, giầy mũ là những thứ mà trước đây hàng PX Mỹ không hề có. Các tủ bầy nước hoa cũng có đủ thứ quốc tịch, xà bông, kem đánh răng đủ hiệu. Ngày xưa muốn mua một quần jean vừa ý, người ta phải kiếm mỏi mắt ở chợ trời khu Nhà Băng, nay thì theo ước lượng của tôi, muốn mua 50.000 bộ jeans-blousons người ta có thể đến khu Tạ Thu Thâu mua được ngay trong nửa tiếng đồng hồ. Giá quần jean từ hai trăm, đến năm trăm, pull và sơ mi rẻ hơn, khoảng một trăm năm mươi đến hai trăm đồng một áo.

Khu Hải Ký mì gia bán toàn thực phẩm: bơ, sữa, rượu, nho khô, bánh ngọt, trà sâm, kẹo mứt v.v… Đúng ra thì khu nào cũng có bán đủ mặt hàng, chỉ có nhiều hơn hoặc ít hơn, khu nào cũng có bán thuốc tây, bút. Nhưng thuốc tây nhiều nhất là ở khu Nguyễn Thông, bút bi, bút mực, bút chì, đồ văn phòng nhiều nhất ở vỉa hè Lê Lợi chỗ trước cửa nhà hàng Kim Hoa, cạnh Casino Sàigòn. Ở đây có đủ các thứ bút và bật lửa của Mỹ, Pháp, Đức, Nhật… Khu vỉa hè Tax bán phim ảnh v.v…

Tôi khó có thể tả hết những cảnh buôn bán của Sàigòn hiện nay. Vì thật ra tôi không thể biết hết. Và cũng không có đủ tài, đủ điều kiện để thu thập dữ kiện và diễn tả. Những gì tôi mô tả đây chỉ là một phần nhỏ của sinh hoạt Sàigòn. Còn biết bao nhiêu chuyện nữa không được viết vào đây. Thôi thì tôi dùng câu an ủi thông thường của tôi "Được bao nhiêu hay chừng nấy, Tùy duyên phương tiện".

Những nghề tôi vừa kể ở thành Hồ đều là những nghề ít nhiều đã có từ trước ở Sàigòn. Trước năm 1975, người Sàigòn đã bán xổ số, đánh đề, làm đĩ, ăn cướp, ăn xin, đi moi thùng rác, bán quần áo cũ, bán chợ trời, đạp xích lô, mua ve chai v.v… Chỉ có trước năm 1975, dân Sàigòn bị Mỹ, Ngụy kìm kẹp nên ít người làm những nghề đó, nay thì được thả giàn.

Bây giờ đến một số nghề mà chỉ có Sàigòn xã hội chủ nghĩa hoặc thành phố Hồ Chí Minh mới có, Sàigòn tiền 75 không có. Cũng khá nhiều, như nghề đứng ở cửa nhà Bưu Điện để hỏi mua lại thuốc tây của những người đi lãnh đồ. Số này toàn thanh niên, nam nữ. Có những em đẹp ra gì, từ khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi. Các em đón mua thuốc cho những sạp bán thuốc ở các chợ hoặc cung cấp thẳng cho bác sĩ, y sĩ Sàigòn hành nghề tư được quyền bán thuốc tây luôn cho khách. Bán thuốc tây là nguồn lợi chính của y sĩ, không phải tiền coi mạch hay khám bệnh. Thường thì bà vợ y sĩ giữ việc bán thuốc. Bác sĩ Huỳnh Kim Hữu đã già nhưng vẫn còn hành nghề. Bà vợ ông bán thuốc và mỗi toa thuốc của ông bác sĩ nổi tiếng này ít nhất cũng từ 1.000 đến 5.000 đồng.

Tôi đã viết về tình trạng sau khi cộng sản hạ những cái gọi là bức màn sắt, bức màn tre xuống nước Nga, nước Tầu, phải đợi đến cả hai mươi mấy mùa cóc chín sau thế giới tự do mới thấy lai rai vài bài viết tố cáo chế độ cộng sản ác ôn, bất nhân, bất lương, về thực trạng cộng sản bị thất bại nặng trong việc mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, do những người viết trong nước Nga, nước Tầu gửi ra. Đích xác hơn, ta thấy Nga cộng cướp chính quyền từ năm 1920 đến năm 1979 Nga mới có Alexandre Solzhenytsin. Đánh Nga cộng như Solzhenytsin mới thật là đánh. Tầu cộng cướp trọn lục địa Trung Hoa năm 1948, mãi đến cuối thập niên 80 mới thấy lác đác vài nhân vật Tầu trốn sang được Âu châu viết vài tác phẩm mỏng dính kết án cộng sản Tầu và Mao Sì Tung. Anh em chúng tôi, một số người viết phải ngơ ngáo và ngơ ngác sống trong ác mộng thấy Việt cộng đi ngờ ngờ trong thành phố, chỉ sáu tháng, một niên sau ngày trời long, đất ngả nghiêng, chúng tôi đã có lai rai những bài viết về đời sống cực khổ của đồng bào ta dưới ách cộng sản gửi ra nước ngoài.

Làm được việc ấy, thực ra anh em chúng tôi cũng chẳng can đảm hay giỏi giang gì mấy. Năm 1975, tình hình có khác với năm 1954, Việt cộng chiếm Sàigòn, đường liên lạc bưu tín giữa Sàigòn và các nước tự do Anh, Pháp, Mỹ vẫn không đứt đoạn. Những lá thư từ nước ngoài nườm nượp gửi về tìm hỏi người thân kẹt lại, còn hay đã chết. Những lá thư con cá trong nước cũng lũ lượt kéo nhau ra đi.

Chúng tôi lợi dụng tình trạng tương đối tự do về thư tín ấy. Nếu Việt cộng làm như Pol Pot Khờ Me Đỏ, ra lệnh hủy bỏ bưu điện, nhân dân không có thư từ điện tín, điện thoại chi ráo, chắc anh em chúng tôi đã không làm được cái việc viết và gửi tác phẩm khơi khơi bằng đường bưu cục ra nước ngoài.

Công an VC rất khó kiểm soát được hữu hiệu số thư của nhân dân trong nước gửi ra những nước ngoài. Lý do, quá nhiều thư gửi đi, bọn công an bảo vệ văn hóa có đông đến mấy cũng không có thể mở từng phong thư ra kiểm duyệt được. ViXi không nắm được những địa chỉ khả nghi ở các nước Âu Mỹ. Nghe nói ở Bưu điện Trung ương Sàigòn, bọn cán bộ thường kiểm duyệt bằng cách lấy đại một số thư mở ra coi. Thư trong nước gửi ra nước ngoài, những lá thư bị gọi là "phản cách mạng, phản động" như thư của chúng tôi chìm lẫn trong cả ngàn lá thư đi mỗi tuần. Vixi có rình cũng khó vồ được thư của chúng tôi. Nhưng thư từ nước ngoài gửi về thì tình hình lại khác hẳn.

Công an VC rất dễ kiểm duyệt thư từ nước ngoài gửi về. Nhà dân được chia thành từng khu, mỗi khu chừng 400 đến 500 hộ. Một nhân viên bưu cục phát thư phụ trách việc phát thư cho hai khu. Nhà tôi ở quận Tân Bình, thư gửi cho tôi được đưa về bưu cục Tân Bình, bưu cục nằm trên đường Võ Tánh xưa của ta, nay là đường Hoàng Văn Thụ, khoảng trước con đường đi vào Đệ Nhất Khách Sạn. Tại đây, thư của tôi được đưa vào hộp chờ người phát thư khu tôi lấy đem đi. CAVC chỉ ra lệnh giữ số thư nước ngoài gửi về khu nhà tôi tại bưu cục chờ kiểm soát. Bọn công an mới vào nghề được gọi theo Tầu cộng là những trinh sát viên hoặc chiến sĩ trinh sát, những năm đầu đói rách đạp xế guồng rạc cẳng, nay thì tên nào cũng Honda mới hoặc cũ, vài ba ngày đến bưu cục Tân Bình một lần. Chúng chỉ việc kiểm số thư gửi về khu nhà tôi, thấy có thư của tôi là lấy, đem về sở mở ra coi. Bằng chứng tôi có liên lạc với "bọn phản động chống phá cách mạng" ở nước ngoài nằm trong những lá thư anh em tôi gửi về đó.

Tôi viết bài gửi ra nước ngoài nhiều nhất trong hai năm 1982, 1983. Tôi nhớ những năm ấy tôi gửi bài viết linh tinh cho từng này người:

- Cô Phương Hương, anh Trần TamTiệp, Paris, Pháp.

- Ông Hồ Anh, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Hoa Kỳ.

- Anh Nhất Giang ở Cabramatta, Úc.

Viết bài gửi đi, nhiều khi tôi bâng khuâng nghĩ đến chuyện không biết thư mình có đi thoát, có đến tay người mình gửi hay không? Một trong những sung sướng của tôi là được đọc bài viết của mình in trên trang giấy, sáng sủa, sạch sẽ, gọn gàng. Trong nhiều năm ở Thành Hồ, tuy vẫn viết bài gửi đi, tôi không hưởng được cái lạc thú ấy. Có lần tôi viết dặn ông chủ nhiệm Văn Nghệ Tiền Phong:

- … Anh viết về cho tôi biết anh nhận được bao nhiêu bài của tôi, ngày nào. Anh viết là "áo hoa" tôi hiểu.

Ông chủ nhiệm Văn Nghệ Tiền Phong làm đúng lời tôi yêu cầu. Tôi nhận được lá thư từ Hoa Kỳ gửi về:

- …Tôi nhận được ngày… hai áo hoa anh gửi, ngày … hai áo hoa nữa…

Đọc thư tôi thở hắt ra. Công an nó không đọc thư này thì thôi, nó mà đọc là nó biết tỏng tòng tong cái gọi là "áo hoa" này là cái gì. Bất cứ người dân Thành Hồ nào cũng có thể gửi áo hoa sang Tây, sang Mỹ, sang Úc, sang Ăng-lê - những năm đầu 80 có phong trào người Thành Hồ gửi những sấp hàng may áo dài cho thân nhân ở nước ngoài, những sấp hàng này được vẽ hoa nên gọi tắt là áo hoa - riêng Anh Con Trai Bà Cả đọi, anh em cùng vợ với Công tử Hà Đông, thì không thể. Cái gọi mánh "áo hoa, áo hoét" trong thư này chỉ là những bài viết phản động của anh thôi.

Khi CAVC nghi, mở cuộc theo dõi họ rất dễ tìm ra bằng chứng những người bị nghi phạm tội. Chúng tôi cứ viết, cứ gửi đi, cứ nhận thư về ngay nhà mình, một năm rồi hai năm. Cứ như vậy không thay đổi. Chuyện bại lộ và bị bắt là chuyện không thể tránh được.

CAVC chặn thư, mở thư xem, có thư họ lấy luôn, có thư họ chụp photocopy rồi để lại vào phong bì, gửi đến người nhận. Có những đêm nằm trằn trọc trên căn gác nhỏ Ngã Ba Ông Tạ, tôi xem lại lá thư mới nhận, lo âu khi thấy rõ vết phong bì thư bị mở ra, dán lại. Tôi sợ khi thấy những triệu chứng tôi sắp bị bắt lại. Nghe nói ở đời này có những người không ngán sợ tù đày, tôi không ở trong số những người đó. Tôi sợ tù đầy. Tôi đã nằm tù một lần hai mùa lá rụng, tôi đã biết thế nào là sự bẩn thỉu, nỗi buồn chán ghê rợn của cuộc sống trong tù. Những tháng giữa năm 1977, 1978, khi bị bắt lần thứ nhất, tôi nằm 12 tháng 2 ngày một mình còng queo, vò võ, buồn và nóng ruột nhiều khi muốn phát cuồng, trong hai xà-lim, văn huê kiểu Việt cộng là Biệt giam và Ca sô - số 15 khu B và số 6 khu C Một Nhà Tạm Giam số 4 Phan Đăng Lưu, tôi bắt chước thi sĩ Trần Văn Hương làm thơ:

Đã buồn cho nó buồn luôn

Vào tù xem mặt tù buồn ra sao

Vào tù mới rõ thấp cao

Buồn tù chẳng có buồn nào buồn hơn

Vào tù mới rõ nguồn cơn

Buồn nào thì cũng chẳng hơn buồn tù.

CHƯƠNG 28

N

hân nhắc đến những năm 77, 78, tôi nằm xà lim ở Số 4 Phan Đăng Lưu, xin nhắc lại một vài kỷ niệm:

Trước hết là anh Nguyễn Mạnh Côn, một trong những ông đàn anh văn nghệ của tôi. Anh bị bắt trong chiến dịch càn quét văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại Sàigòn tháng Ba năm 1976.

Một chiều thứ bẩy, tháng Chín năm 1977, tôi vào xà lim số 15 khu B Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu. Khoảng 10 giờ sáng Chủ nhật hôm sau, tôi nhìn thấy anh Nguyễn Mạnh Côn.

Anh ở phòng tập thể số I khu B ngay trước dẫy xà lim trong có tôi. Chủ nhật, cai tù mở cửa phòng giam cho tù ra sân ngồi phơi nắng chừng nửa giờ. Tù phòng này được ra nửa giờ, trở vào phòng rồi mới mở cửa phòng tù khác.

Anh Côn ngồi xa tôi chừng 15 thước. Anh bận bô bà ba nâu. Người tù nào da dẻ cũng xanh mướt như tàu lá chuối non. Anh Côn tóc bạc, râu bạc. Buổi sáng hôm ấy tôi mới vào tù, tôi bồi hồi nhìn ông đàn anh của tôi qua ô cửa gió nhỏ bằng quyển sách trên cửa xa-lim. Hình ảnh anh Côn gầy yếu trong bộ bà ba nâu ngồi trong nắng trước cửa phòng tù số I khu B Nhà Tù Sâố 4 Phan Đăng Lưu hai mươi mùa thu trước sáng nay trở về ẩn hiện trước mắt tôi..

Anh Côn mua lại căn nhà lầu của Phạm Duy trong cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Vì anh chưa trả hết tiền, nên Phạm Duy chưa sang tên nhà cho anh, 30 Tháng Tư đến, Phạm Duy đi mất, anh chị Côn chưa chính thức làm chủ căn nhà. Tôi không biết anh chị Côn gặp khó khăn như thế nào vì căn nhà chưa sang tên này. Việt cộng theo lời dạy của thánh tổ Lênin, tịch thu hết "tài sản của những kẻ bỏ trốn ra nước ngoài"

Tôi vào tù được chừng bẩy ngày, được nói qua, nói lại với anh Côn vài câu ngắn ngủi, rồi tôi ngàn thu vĩnh biệt anh. Một tối nằm trong xà lim, tôi nghe có tiếng lịch kịch mở cửa sắt, tiếng gọi tên bên ngoài. Cánh cửa gió nhỏ ở trên xà lim bị đóng lại để người tù biệt giam không biết có chuyện gì xẩy ra bên ngoài. Đây là cuộc chuyển trại. Những người tù được chuyển đi, thường là sang Chí Hòa hoặc lên trại cải tạo, được gọi ra tập trung vào một hai phòng, chờ lên xe đi. Anh Côn đi khỏi số 4 Phan Đăng Lưu trong đêm hôm đó.

Nhiều đêm nằm trằn trọc trong xà lim đèn lờ mờ, tôi gợi ký ức nhớ lại đủ thứ chuyện. Tôi hình dung lại căn nhà của gia đình tôi ở Hà Đông. Tôi sắp xếp đồ đạc ở trong nhà: cửa sơn mầu nâu gụ, ngay bên cửa ra vào là hai cái ghế, bộ sa-lông Tàu kê ở giữa nhà, rồi sập gụ, tủ chè, hoành phi, câu đối, chiếc đồng hồ quả lắc treo cạnh cái đầu trâu rừng đắp bằng đất nung, cặp sừng là sừng thật, sản phẩm của nhà thủ công nghệ Hà Đông, cây súng săn Ca-líp Xe-giờ của thầy tôi đặt trên cái giá sừng hươu trên tủ chè…

Và tôi nhớ lại cuộc giao tình của tôi với anh Côn. Như tôi đã viết trong số những người viết trẻ từng thân với anh Côn như Nguyễn Đình Toàn, Duyên Anh, Trần Dạ Từ, chỉ có tôi là "bạn đồng sàng, đồng bàn đọi" với anh Côn.

Anh Côn có bàn thờ Cô Ba tại gia nhưng anh thích đi hút ở tiệm hơn. Anh hút nhiều, tự làm thuốc lấy vất vả, mất thú. Ít khi anh tiếp ai ở bàn đọi của anh. Đi hút ở tiệm quá đô rồi về nhà anh vẫn đốt đèn làm vài bi để chị Côn yên trí là anh không hút ở tiệm.

Tôi được anh tiếp tại bàn đọi ở nhà mấy lần. Anh bảo tôi:

- Vợ tôi bà ấy nói tội nghiệp cậu. Tôi nói nó kiếm được tiền, sợ quái gì. Vợ tôi nói: "…nhiều hay ít thì rồi cũng vất vả như anh thôi…"

Anh Côn mất khoảng năm 1979 trên trại cải tạo Xuyên Mộc, chị Côn mất khoảng năm 1990 tại thành Hồ. Anh chị có hai con trai. Cháu lớn ở với vợ con trong căn nhà anh chị mua lại của Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh. Cháu thứ hai sống với vợ con ở Houston, Texas.

Anh Côn là đại biểu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội trong quốc hội thứ nhất của ta sau năm 1945. Anh nói:

- Năm ấy, chúng tôi làm một bản tổng kết tình hình đất nước sau chiến tranh. Bản tổng kết có kể nạn đói năm Ất Dậu làm đồng bào ta chết đầy đồng. Chúng tôi quyết định để là hai triệu người chết. Đâu có làm thống kê được mà biết chắc con số người chết vì không có ăn trong năm ấy là bao nhiêu. Con số hai triệu do chúng tôi đặt ra trở thành số liệu lịch sử.

Khi tôi và anh Côn chơi ở tiệm Đ.Q hẻm trường Đại học Vạn Hạnh cạnh cầu Trương Minh Giảng, anh Triều Đẩu cũng hay lui tới đây. Anh Triều Đẩu là tác giả tiểu thuyết phóng sự Trên Vỉa Hè Hà Nội đăng trên Tạp chí Thế Kỷ xuất bản khoảng năm 1952, 1953 ở Hà Nội. Tôi đọc Trên Vỉa Hè Hà Nội của anh Triều Đẩu thấy anh viết thật hay, giọng văn có duyên, hỏm hỉnh, hấp dẫn. Một phần nhờ đọc Trên Vỉa Hè Hà Nội mà tôi nẩy ra ý bắt chước, viết cái gọi là phóng sự tiểu thuyết tếu Ông Tây, Bà Đầm, Bà Lớn, Yêu Tì, đưa ra những nhân vật không giống ai và không ai giống như ký giả Cuốc Tô, bà Zô-zan Chủ tịch hội Lát-Sốt-sì-sần, Cập-pi-tên La Lô, ông Đội Đèn, chị em Ngọc Tũn ái nữ ông Lang Toe, có thế võ Kim kê áp noãn thần sầu quỷ khốc không nam cao thủ võ lâm nào chịu nổi.

Anh Triều Đẩu là công chức, anh không phải là người viết chuyên nghiệp. Anh nghiên cứu tử vi và giải số tử vi nổi tiếng. Cung cách tử vi của anh có mục gọi là "Thất sát triều đẩu" nên anh lấy bút hiệu là Triều Đẩu. Bút hiệu thật hay và đặc biệt. Bên bàn đọi, anh xem tử vi cho nhiều người. Tôi đích thân chứng kiến vài chuyện anh chỉ căn cứ vào tên mấy ngôi sao trên tờ giấy mà gọi ra đời tư người ta đúng vanh vách. Đơn cử một chuyện:

Anh bạn Đại úy hít tô phê nhờ anh Triều Đẩu xem giùm lá tử vi đã lập thành. Giải linh tinh một hồi, không có gì quan trọng, thầy nói:

- Theo lá số này, thì chị vợ của anh đã có một đời chồng.

Đại úy cười gượng:

- Thưa nhân tình, nhân bánh thì chắc có, chồng thì chưa…

Tôi nghe anh Triều Đẩu nói:

- Tôi nói là đã có một đời chồng kia. Nếu không phải thì tôi đoán sai, tôi xin lỗi.

Thầy xin lỗi và thầy không giải nữa.

Đại úy bèn nhận là vợ mình đã có một đời chồng và xin thầy giải tiếp. Sau đó, tôi được nghe một ông Đại úy cũng trong hội hít tô phê khác kể tại bàn đọi này:

- Vợ nó là nữ trợ tá, bị thằng Thiếu tá trưởng phòng nó lấy. Nhưng thằng Trưởng phòng đã có vợ con rồi, nó lấy ít lâu nó buông, nó làm mối em cho tên này lúc ấy mới là Thiếu úy. Chuyện ấy anh em trong Nha tôi ai mà chẳng biết….

Tôi kể lại chuyện xưa tích cũ để nói về tài giải đoán tử vi của anh Triều Đẩu. Anh đã qua đời ở Thành Hồ. Tôi chỉ théc méc một điều: coi tử vi cho anh Côn và tôi anh Triều Đẩu nói cả hai chúng tôi đều có hậu vận êm đềm, càng ngày càng có tiếng, sống lâu lên lão làng, địa vị bền vững….

Lời anh tiên đoán về hậu vận của chúng tôi chắc chắn là đúng nếu chúng ta không bại trận, nếu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đứng vững. Nhưng chuyện xảy ra cho tôi thấy cuộc đời anh Nguyễn mạnh Côn hoàn toàn khác với lời giải của anh Triều Đẩu. Trước năm 1975, làm sao tôi có thể tin nếu có người nói: "Anh Côn, anh Hoạt sẽ chết thảm thiết trong tù, các tướng lãnh, sĩ quan của ta sẽ đi tù hết…"

Tôi không tin nếu có người nói như thế, nhưng sự thực là chẳng có ai, kể cả những ông bà thầy bói mù lẫn bói sáng nói một câu như: "Coi chừng. Đến năm 1975 tử vi của ông đi vào đại hạn đen hơn mõm chó mực. Ông bị mất chức, mất nhà, mất cả vợ, ông bị đi tù…" Có một thời, những năm đầu của thập niên 70, từ ông Tổng thống đến ông Tống thư văn, từ vị Đại tướng đến vị binh Nhì, tất cả đều mê tín tử vi, xem tử vi lu bù kèn. Nhưng tử vi của vị nào cũng sáng hơn gương Tầu, quan văn, quan võ đều thăng quan tiến chức, tả phù, hữu bật, nhà buôn đều nhất bản vạn lợi, phúc lộc dồi dào. Đùng một cái, Việt cộng nó kéo vào Sàigòn. Banh ta lông tú lơ mo. Tử vi, tử véo của anh nào cũng có sao Quả Tạ đồng cung với sao Bị Gậy….

Anh Chu Tử Chu Văn Bình chết trên tầu Việt Nam Thương Tín khi tầu trên đường ra cửa biển, anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt chết trong nhà tù Chí Hòa, anh Nguyễn Mạnh Côn chết trong trại cải tạo Xuyên Mộc.

Tôi được nghe anh em kể anh Côn chết vì anh tuyệt thực đòi Việt cộng phải trả tự do cho anh. Không biết vì sao anh nghĩ rằng án tù của anh chỉ là ba năm và anh đã ở tù đủ ba năm, Việt cộng phải trả tự do cho anh.

Cai tù Việt cộng học cách đàn áp tù nhân của đàn anh Nga cộng, Tầu cộng, tàn ác khủng khiếp với những người tù dám công khai chống đối bạo quyền của chúng. Chúng đàn áp thẳng tay những người tù đó để trấn áp những người tù khác. Người tù nào không chịu làm khổ sai là bị chúng nhốt phòng tối, trần truồng, không mùng mền, không chiếu, ăn cơm nhạt, không được tắm rửa… Chúng nhốt cho chết luôn. Người tù sống sót chỉ được thả ra sau khi năm bẩy lần van xin bằng miệng, bằng đơn từ. Người tù nào tuyên bố tuyệt thực là chúng bắt phải chết bằng cách "không chịu ăn, không cho uống nước luôn…"

Nghe nói người ta có thể nhịn ăn và lả dần cho đến chết, nhưng không sao có thể nhịn uống được.. Bằng chứng là những năm Sàigòn bát nháo từ 1965 đến 1970 nhiều tu sĩ thường đến trước dinh Độc Lập để tuyệt thực, với những bình nước sâm Cao ly thượng hảo hạng do các nữ đệ tử cúng dâng. Ở trại cải tạo Xuyên Mộc, anh Côn tuyên bố tuyệt thực đòi tự do, bọn cai tù không cho anh uống nước cho đến lúc anh chết.

Từ Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, tác giả Đem tâm tình viết lịch sử, Ba người lính nhẩy dù lâm nạn, Mối tình mầu hoa đào, Tình cao thượng, Hòa bình… Nghĩ gì…? Làm gì…? bị Việt cộng đưa lên trại cải tạo Xuyên Mộc, Bà Rịa. Anh đến đó và nằm tại vùng rừng già ấy.

Hận thù nào rồi cũng qua đi với thời gian. Mai sau dầu có bao giờ… con cháu chúng ta đọc được những trang sử ghi lại những hận thù, những đau thương của ông cha chúng trong nửa cuối thế kỷ thứ 20 đầy máu và nước mắt chắc sẽ phải ngạc nhiên khi thấy ông cha chúng giết nhau, thù hận nhau quá đỗi.

Khi sống trong tù, mắt nhìn thấy những người bạn tù chết thảm thương, tôi vẫn nghĩ các bạn tôi chết, tôi cũng có thể chết như họ. Tại sao không phải là Hoàng Hải Thủy chết cứng trên nền xi măng xà lim số 4 Phan Đăng Lưu và hôm nay Dương Hùng Cường ngồi viết ở Rừng Phong Arlington kể lại cái chết thê thảm của bạn?

Tôi mượn lời văn sĩ Elie Wiesel để diễn tả tâm trạng tôi khi tôi viết những trang này. Văn sĩ Elie Wiesel người gốc Do Thái, sinh trưởng ở Romania, hiện sống trên đất Hoa Kỳ. Ông viết nhiều về thảm họa dân Do Thái ở Âu châu bị Đức quốc xã giết hại trong thế chiến thứ hai. Ông được tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1986:

- Tôi không có quyền tha thứ cho bọn giết người về cái tội chúng đã tiêu diệt sáu triệu người Do Thái. Quyền tha thứ hay không là ở những người đã chết.

CHƯƠNG 29

C

hỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

- Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

- Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng… Tư Tuân định hỏi có gì mới, nhưng anh thấy câu hỏi ấy thừa, bởi vì chỉ huy trưởng đã mời ở lại phải có "vấn đề cần trao đổi". Vì vậy anh bỏ lững câu nói, nhìn đồng chí cấp trên của mình chờ đợi.

- Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng nó là khói của một đám lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải chú ý đến nó…

Một đoạn trích từ những trang 74-75 của truyện "Những tên biệt kích cầm bút". Hai anh Cớm Cộng Thành Hồ Minh Kiên - Nam Thi đồng tác giả. NTBKCB gọi những tờ báo của "bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài" là "xấp lá cải". Nhưng nếu hai anh bị người nào đó hỏi "Tại sao lại gọi là báo lá cải?" chắc chắn hai anh trả lời không thông. Vì mặc cảm răng đen, mã tấu lớ ngớ trước bọn " ngụy dân Sàigòn" tên nào cũng học thức hơn mình, bọn Cán Cộng thường gồng mình tỏ ra hiểu biết một cách hết sức ngô nghê. Chuyện này chẳng có gì đáng phải théc méc. Đời nào và ở đâu cũng vậy, những anh "xấu hay khoe tốt, dốt hay nói chữ". Đặc biệt là trong những bài viết của mấy anh VC người ta thường thấy tự dưng mấy ảnh tương vào vài câu tiếng Pháp, tiếng Anh không cần thiết và không giống ai.

Những năm 82, 83 đen hơn mõm chó mực ở Thành Hồ tôi thường tìm trong tờ tuần báo Công An Thành Hồ những tin tức có thể khai thác thành bài báo gửi ra nước ngoài, tất nhiên những tin tôi khai thác đều là những tin bất lợi cho Cộng sản, những tin nói lên đời sống cơ cực của người dân cùng sự bất lực cộng với sự thối nát, ngu ngốc của bọn Bắc Việt Cộng chiếm đóng miền Nam. Có lần tôi tình cờ nhìn thấy mấy chữ tiếng Anh in nghiêng một cách trịnh trọng trong phần truyện dài đăng từng kỳ "Lệnh Truy Nã" của Huỳnh Bá Thành - tức Họa sĩ Ớt báo Điện Tín Chủ nhiệm Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông. "Lệnh Truy Nã", tức "Lệnh Bắt Người" đăng trong tờ Công An Thành Hồ:

Đại úy Trường Sơn, cớm ViXi được Huỳnh Bá Thành diễn tả như một nhân vật Công An VC hào hoa phong nhã - anh Đại úy này chính là hóa thân của Cớm Huỳnh Bá Thành tức Ba Trung - khi thẩm vấn một can phạm Đại úy CAVC Trường Sơn ra lệnh:

- Cho tôi biết tên anh…

Can phạm trả lời.

Cớm lắc đầu:

- Không… Cho tôi biết full name của anh kia…

Bố khỉ. Có khỉ thì cũng khỉ vừa thôi, để cho người khác người ta khỉ mí chứ. Hai anh Mít đặc ở giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng giả, hơn nữa còn ở giữa phòng thẩm vấn của bọn Công an Việt Cộng, bọn nổi tiếng về mục bắt người dễ dàng, giam người thật lâu, bỏ quên người trong tù là chuyện thường ngày, đang tự nhiên phang nhau hai tiếng "full name". Cớm Ba Trung học lóm được ở đâu hai tiếng "full name" lập tức đem ra xài trong tiểu thuyết để chứng tỏ mình cũng biết tiếng Mẽo như ai.

Nhân nói đến chuyện Cớm ViXi ham xài tiếng nước ngoài quê mấy cục, xin kể một chuyện nhỏ về chuyện vợ chồng tên Năm Tốt ở trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, cửa vào thế giới tù đầy của những công dân Thành Hồ.

Năm Tốt, dân miền Nam, tập kết ra Bắc năm 1954, thuở thiếu thời từng theo học Đại học Chăn Trâu với Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh - Năm Tốt ở dưới đàn anh Nguyễn Văn Linh vài lớp - Ra Bắc, cũng như đa số thanh niên Nam bộ chưa có vợ hay có vợ mà bỏ lại trong Nam, Năm Tốt lấy một chị vợ Bắc Kỳ chính cống Bà Lang Trọc, Vợ Năm Tốt có cái tên giả khá đẹp là Thị Loan. Thị người mập mạp, đặc biệt mặt thị ngắn và gẫy trông như mặt loài chó Fox. Những năm 1984, 1985 khi những tu sĩ nhóm Già Lam Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Ni cô Thích Trí Hải, Thượng tọa Thích Đức Nhuận cùng bọn tám người bị gọi là "Những Tên Biệt Kích Cầm Bút" đang ăn cơm tháng dài hạn ở Đại Học Xá Số 4 Phan Đang Lưu, Năm Tốt là Trưởng Trại, tức Quản Đốc Nhà Tù.

Những năm ấy - 1984, 1985- Năm Tốt trạc Năm Bó Gẫy tuổi đời, Thị Loan Năm Bó Chẵn. Thị Loan không phải là nhân viên Trại nhưng Thị tranh chức nhận thuốc và phát thuốc cho tù. Năm Tốt trao trách nhiệm nhận, phát thuốc cho Vợ để Thị ăn chặn thuốc của tù. Việc nhận phát thuốc cho tù là công việc béo bở, ra tiền nhiều và dễ dàng nhất trong nhà tù. Bọn Công An dưới quyền Năm Tốt cay cú nhưng vì sợ Năm Tốt nên chỉ lèm bèm chửi Thị Loan những lúc chúng ngồi riêng với nhau.

Sáng tinh sương ngày 2 tháng 5 năm 1984 tôi thiểu não theo bọn Công An đi vào hành lang khu C 1 Số 4 Phan Đăng Lưu, ông bạn cao niên của tôi là ông Vương Văn Bách - Luật sư - đã nằm ngâm thơ Trần Văn Hương được sáu tháng trong xà lim số 11 khu này. Tôi được đưa vào xà lim số 10. Nửa năm sau anh Bách và tôi đoàn tụ với nhau trong phòng giam tập thể số 6 cùng khu C 1. Anh với tôi ăn chung, nằm cạnh nhau cho đến ngày chúng tôi lên xe sang Thánh Thất Chí Hòa. Có lần tôi nghe anh kể:

- Thằng Năm Tốt sợ vợ thấy mẹ đi. Đàn bà Bắc kỳ loại con mụ Thị Loan đanh đá hạ cấp lắm. Trông cái mặt nó là biết nó nặc nô rồi. Năm Tốt hung hăng con bọ xít ở đâu chứ trước mặt Thị Loan là im re. Các cậu có biết con mụ Loan nó nói với thằng chồng nó ra sao không? Nó nói: "… Nè anh Năm à… anh chơi con đàn bà nào nó hai l… bốn vú thì anh hãy chơi, còn con nào nó chỉ có một l… hai vú thì anh đừng chơi. Tôi đây cũng có…"

Ông bạn cao niên của tôi học Albert Sarrault, từng than thời trẻ ông không học trường Việt nên khi chúng tôi nói với nhau những điển tích trong những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Độc Bản: "Ai bảo chăn trâu là khổ? Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy… không nơi nào đẹp bằng quê hương… Xuân đi học coi người hớn hở v.v…," ông không biết gì để tham dự. Hai lần ông du học Pháp Quốc về ngành Luật. Vậy mà ông kể chuyện mụ vợ Năm Tốt nẹt chồng trơn tru, lưu loát và hết sức có duyên. Nằm bên ông tôi théc méc:

- Con vợ Năm Tốt nó chửi thằng chồng nó ở nhà nó, ai nghe được câu nó chửi chồng? Anh ở biệt giam anh lại càng không nghe được. Dzậy mà anh kể như chính tai anh nghe vậy?

Anh cười tủm:

- Cậu tưởng tôi bịa à? Tôi làm sao có đủ tài bịa một câu hay đến như thế? Vợ Năm Tốt chửi chồng nó công khai, càng nhiều người nghe nó càng khoái. Bọn công an nghe được, nói lại với nhau. Tù ra làm lao động nghe được chuyện bọn công an, kháo lại với nhau. Tôi đứng cửa gió biệt giam hóng chuyện chúng nó nên tôi nghe được.

Chừng một hai tháng Năm Tốt lờ phờ đi một vòng kiểm soát nhà tù. Khi đứng lại trước cửa một phòng tù Y có cái cử chỉ ruồi bâu kiến đậu là đưa tay lên bịt mũi, tay kia vẫy vẫy ra hiệu cho Trưởng phòng đứng lùi lại, đừng có đứng ngay sau cửa. Nhà tù là nhà tù Việt Cộng, bọn đàn anh Năm Tốt giao cho y giữ tù. Phòng tù chỉ có thể giam được 15 mạng, nó nhét vào đến 40 có khi 45 mạng. Cầu tiêu ngay trong phòng. Nước không có. Dàn ống dẫn nước lâu năm đóng rỉ sét, không có một giọt nước vào cầu tiêu trong tù. Làm gì mà không hôi thối. Thay vì Cai Tù Trưởng Trại phải xấu hổ vì phòng tù nhà nó hôi thối, nó lại bịt mũi khinh bỉ cái hôi thối của chính nhà nó.

Tết 1985, ngày 28 hay 29 Tết chi đó. Năm Tốt đi một vòng, gọi Trưởng Phòng Tù ra đứng cửa, nói:

- Ba ngày Tết tôi để cho mấy anh em vui chơi thong thả nhưng không được ồn ào. Sau ba ngày Tết triệt để cấm cờ bạc. Anh nào đánh bạc bắt được tôi phạt bảy ngày, Trưởng phòng tôi cho đờ-mi tăng…

Bẩy ngày là bẩy ngày nằm xà lim, bị còng chân hoặc còng tay. Năm Tốt cho "Trưởng phòng đờ-mi tăng" tức là cho Trưởng Phòng nằm xà lim, còng tay chân… ba ngày rưỡi.

Chỉ cần nói thêm vài dòng nữa về mục nhận, phát thuốc của tù của Thị Loan. Trong truyện của Aleksandre Solzhenytsin viết về một ngày trong đời anh tù Ivan Denisovitch ở Liên Xô, tác giả tả anh tù Ivan may mắn được bọn công an cho ra hầu hạ chúng những việc vặt. Nhờ vậy Ivan được hưởng chút cà phê thừa, bánh mì vụn của bọn cai tù. Tù Liên Xô sống nhờ bọn cai tù. Tù Việt Cộng ngược hẳn: Bọn cai tù sống nhờ tù. Chúng bóc lột, ăn chận, ăn gian, ăn bớt, ăn chĩa của tù không chút ngượng ngùng.

Nhà tù Số 4 Phan Đăng Lưu không cho phép tù giữ số thuốc người nhà gửi vào, kể cả thuốc bổ. Khi đến gửi đồ nuôi thân nhân phải nộp số thuốc cho Thị Loan. Thị ngồi riêng một bàn nhận thuốc. Cũng ghi tên, ghi số thuốc vào sổ đàng hoàng nhưng người tù có thuốc xin được dùng thuốc của chính mình rất khó. Muốn xin thuốc của mình người tù phải nhờ mấy anh tù được ra làm lao công quét dọn, khiêng cơm, phát cơm trong

khu. Mấy anh tù này nói lại với Thị Loan. Thị Loan không xuất hiện, anh tù lao động không có trách nhiệm cũng không có thẩm quyền xin, đòi thuốc cho bất cứ ai. Và anh tù có thuốc chịu chết.

Thuốc gửi vào tù mười, người tù có thuốc được lãnh hai, ba phần là may. Nhiều người không biết người nhà mình gửi cho mình những thứ thuốc gì. Thị Loan đem bán số thuốc Thị lấy của tù cho lái thuốc để cung cấp cho thị trường Âu dược. Những năm ấy bất cứ thứ thuốc Tây nào cũng bán được và bán có giá ở Thành Hồ.

Hôm nay trong số những bạn đọc những dòng này viết về vợ chồng cai tù Năm Tốt và Nhà tù Số 4 Phan Đăng Lưu chắc phải có một số bạn từng sống những năm 84- 85- 86 ở nhà tù này. Đã từng biết Năm Tốt - Thị Loan, các bạn làm chứng là tôi viết đúng.

CHƯƠNG 30

T

rích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, từ trang 92 đến trang 98.

Kiên Trinh và số anh em trong đội của mình đã kiệt kê một danh sách 21 tên tàn quân của đội biệt kích văn hóa - tư tưởng của Mỹ có thể là thành viên của cái "tòa soạn bí mật tại chỗ" mà Tư Tuân đã gợi ra. Công việc ấy không mấy khó khăn vì chỉ cần lật ra các tập tài liệu, trao đổi với một số người am hiểu giới nhà văn, nhà báo cũ ở Sàigòn thì có thể lòi ra từng tên rằn ri đang núp ở xó xỉnh nào đó. Hầu hết, số người này quen thói lêu bêu, tối ngày la cà, bù khú với nhau ở quán cóc, cà phê cà pháo với nhau. Chỉ cần liếc qua là biết họ đang sống thế nào. Đó là những con ngựa quen đường cũ, chuyên gieo rắc nọc độc hòng gây tác hại về mặt chính trị tư tưởng. Sự tiêu xài vung vít mỗi khi được chủ trả tiền công cũng góp phần tự tố cáo chúng.

Căn phòng của Kiên Trinh nhỏ nhưng khá náo nhiệt. Chuông điện thoại reo từng chặp, mấy chiếc máy đánh chữ hiệu Remington mổ lốc cốc liên hồi. Chỗ này, một anh trinh sát trẻ hí hoáy viết, chỗ khác mấy anh đang hăng hái tranh luận với nhau, không khí giống hệt tòa soạn một nhật báo trước giờ báo lên khuôn, chỉ thiếu mùi mực in và dĩ nhiên không thiếu khói thuốc mù mịt. Kiên Trinh quen thuộc với khung cảnh và nhịp điệu sinh hoạt này đến nỗi mỗi khi ngồi viết một mình trong căn phòng vắng lặng, anh cảm thấy dường như thiếu một cái gì đó kích thích tính năng động của bộ óc. Các nhà khoa học cho rằng tiếng ồn ào ảnh hưởng xấu đến sự hoạt động tinh thần, nhưng với anh, loại tiếng ồn thân thương này là một chất liệu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.

Trông bề ngoài, Kiên Trinh ốm yếu: người dong dỏng cao gầy, mặt thon, lúc nào cũng không rời cặp kính trắng. Nhưng anh dẻo dai như một sợi mây rừng. Anh có thể ngồi lì suốt ngày xem tài liệu như một tu sĩ khổ hạnh, nhưng khi hành động thì anh lại rất nhanh nhẹn. Anh em kháo nhau rằng Trinh giỏi vũ thuật. Anh không hề nhận điều này nhưng thường lấy một trong những phương châm của vũ thuật cổ truyền vận dụng cho người trinh sát để tự rèn luyện mình: "Đi như lá, trụ như đá" Nghĩa là khi hành động thì nhẹ nhàng, linh hoạt như chiếc lá bay trong gió và khi tập trung nghiên cứu vấn đề gì hoặc trước mặt kẻ thù thì kiên trì vững vàng như tảng đá đầu non. Thật ra, anh không khỏe hơn ai về mặt sức vóc, nhưng có lẽ nhờ vận dụng phương châm ấy cộng với ý chí được tôi luyện trong chiến đấu, trong gian khổ, đã giúp anh nhân sức lực và trí tuệ của mình lên.

Đồng đội của anh mỗi khi thấy anh bù đầu ở phòng làm việc trong mấy ngày liền là đoán được sắp có cú "làm ăn lớn". Anh em vẫn thường nói đùa với nhau: đó là sự im lặng trước giờ nổ súng.

Thật tình mà nói, Kiên Trinh cũng không tránh khỏi những lúc "bí rì rị" như hôm nay. Có những việc tưởng như sự thật đã phơi bày ra đó nhưng khi bắt tay vào mới thấy khó. Những lúc ấy anh cần có trí tuệ tập thể của đồng đội, nhưng hoàn toàn không ỷ lại vào tập thể. Chừng nào bản thân đã cố hết sức xoay xở vẫn không xong, lúc ấy anh mới yêu cầu đồng đội tiếp tay.

Vấn đề của anh hôm nay là trước mớ sự kiện ngổn ngang đã thu thập được, trước hàng tá đối tượng với hàng trăm trang tài liệu ấy, anh nên bắt đầu từ chỗ nào. Thế mà ngày mai anh đã phải trình chỉ huy trưởng bản kế hoạch rồi. Chỉ còn ngày và đêm nay nửa thôi.

Mười giờ sáng, Trinh tìm một bàn vắng người dưới gốc cây trứng cá đằng sau căng tin của đơn vị. Cái dạ dầy hay giở chứng của anh không ưa cà phê, nhất là cà phê đá. Đến giờ này, chén cơm chiên ăn lúc sáng đã tan biến từ lâu rồi, không cho phép anh thưởng thức chất cà-phê-in.

Nhưng anh vẫn cảm thấy không cưỡng nổi, gọi một ly cà phê đen, nếu như Hồng Sơn, một đồng đội trẻ của anh không kịp thời mang đến cho anh một chai xá xị. Anh thầm cảm ơn sự chăm sóc của bạn, nhưng trong mắt thoáng đôi chút thất vọng.

Sau khi châm điếu thuốc Đà Lạt, nhấp một ngụm nước ngọt, Kiên Trinh lên tiếng trước.

- Thế nào?

- Anh hỏi tôi? Hồng Sơn ngước lên nhìn Kiên Trinh thăm dò.

- Ừ. Chả lẽ mình lại nói chuyện với đầu gối của mình. Việc của cậu đi đến đâu rồi?

- Việc nào? Bọn tôi đang chờ bật đèn xanh đấy, sao anh lại hỏi tôi?

- Chờ mình là thế nào? Việc ai nấy làm chớ?

- Nhưng anh đã phân công cụ thể cho tôi làm gì đâu? Ngày mai mấy "cụ" mới duyệt kế hoạch của anh kia mà. Đến đâu rồi?

Kiên Trinh chột dạ, mặc dầu hơn ai hết, anh biết rõ thế nào Hồng Sơn cũng hỏi anh câu ấy. Năm phút trước đó, anh quyết định rủ Hồng Sơn đi uống nước để xả hơi đôi chút. Anh tin rằng Hồng Sơn sẽ giúp anh những ý kiến hay như bao nhiêu lần trước để anh bổ sung, củng cố những "tư duy chiến thuật" của mình. Vì thế, anh không do dự đặt ván đề với Hồng Sơn:

- Theo cậu, ta nên bắt đầu từ đâu?

- Tôi biết mà - Hồng Sơn cười khoái trá - Anh cần lính tráng "hiến kế" mới chịu rủ anh em xuống đây chớ dễ gì?

- Ừ. Hiểu thế cũng được. Nhhung cậu nhớ cậu cũng có trách nhiệm trong vụ này đấy, lại phải chịu phần "mũi nhọn" nữa là khác.

- Thôi được. Hồng Sơn làm ra vẻ long trọng. Thưa đồng chí đại úy, tôi xin được hiến kế…

- Nói đại đi, đừng kiểu cách "dỏm" nữa. "Vạn sự khởi đầu nan". Nói đi, ta nên khởi đầu chỗ nào? - Kiên Trinh dục bạn.

Hồng Sơn xoa xoa mái tóc ngắn cắt đúng điều lệnh nội vụ và nói thẳng vào vấn đề mà đội trưởng mình đang quan tâm, dường như chính anh đã chuẩn bị trước. Anh bắt đầu trình bày:

- Đến nay, tài liệu chúng ta có trong tay khẳng định một điều là bọn phản động trong nước và số lưu vong ở nước ngoài đã thiết lập sự liên lạc thường xuyên với nhau. Nhưng chúng liên lạc với nhau bằng con đường nào, với phương tiện gì thì ta chưa rõ. Đây là vấn đề sống chết của bất cứ tổ chức gián điệp nào. Về mặt lý luận, liên lạc là khâu trọng yếu nhất và cũng dễ bộc lộ nhất, có phải vậy không? Đánh vào đó là trúng yết hầu của địch.

- Đúng. Bài bản của bất kỳ trường huấn luyện tình báo và phản gián nào trên thế giới đều thống nhất điều đó. Nhưng trong vụ này thì thế nào? Vấn đề là ở chỗ đó! Xin lỗi, mình không làm cậu mất hứng đấy chứ? Tiếp tục đi!

- Anh yên tâm. Dù sao tôi cũng tiêu hóa được ít nhiều bài học lý thuyết ở nhà trường để "hiến kế" với anh. Nhưng điều tôi vừa nói là đặc điểm chung nhất của bất kỳ tổ chức gián điệp nào. Nhưng những điều rất thông thường, ai cũng biết, không có nghĩa là điều dễ dàng giải quyết.

- Cậu vào vấn đề chính đi. Nhập đề như thế là bài bản lắm rồi! Thú thật với cậu, tôi thấy bọn này làm ăn nửa kín nửa hở, nếu không muốn nói là hơi bầy hầy. Cậu xem cái gã Trần Tam Tiệp ấy dám quảng cáo trên báo truyện "Nếu chàng Trương Chi đẹp trai" do "một tác giả còn kẹt trong nước gửi ra". Và cũng lúc đó, nhà xuất bản Nam Á cũng quảng cáo sắp phát hành tập "Bình thơ Nguyễn Du" do một tên quỷ quái nào đó có bút hiệu Dương Hồng Ngọc, từ trong nước gửi ra. Bọn chúng tung hỏa mù chăng?

- Cũng có thể đây là thủ đoạn "gây nhiễu" để che dấu một hoạt động khác nguy hiểm hơn, nhưng cũng không loại trừ cái trò "lộng giả thành chân". Điều đó ta có thể khẳng định qua công trình xét nghiệm "văn phong" của anh. Tôi hoàn toàn nhất trí với anh "Nếu chàng Trương Chi đẹp trai" dứt khoát do một tên nào đó trong nhóm "Hòa Bình, Độc Lập" cũ viết thì kẻ "Bình thơ Nguyễn Du" chắc chắn không ai khác ngoài tay Hoàng Hải. Cái giọng bình thơ xỏ lá ấy chỉ có hắn thôi.

- Chuyện đó để hồi sau phân giải. Cậu trở lại vấn đề đi: Làm thế nào bọn Trần Tam Tiệp nhận được bài vở của những tên biệt kích văn hóa ấy? Và đổi lại, bọn biệt kích ở đây được trả công như thế nào? Nếu không có xơ múi gì, tôi cam đoan chẳng tên nào chịu viết một chữ. Chúng căm thù chế độ cộng sản, chống đối một cách có ý thức và quyết liệt, nhưng đồng thời cũng là những tên rất hám tiền và háo danh.

- Vì vậy, anh đã nắm được chân lý của Archimède đã tìm ra nguyên lý về sức đẩy của nước. Đúng, tiền, tiền phải đóng vai trò nào đó trong vụ này. Nói khái quát, không chỉ là tiền mà là "lợi ích vật chất". Đương nhiên cái ấy phải đi đôi với ý thức phản cách mạng.

- Tiền! Không loại trừ. Nhưng bằng hình thức nào khác?

- Hàng, chẳng hạn? Hồng Sơn trả lời ngay.

Kiên Trinh vụt đứng dậy. Anh thấy lóe ra một dấu hiệu rất đáng phấn khởi. Trong truyện "Nếu chàng Trương Chi đẹp trai" có nói đến việc Trọng Thủy lần theo vết lông ngỗng mà Mỵ Châu đã rắc trên đường bôn tẩu với cha. Phải chăng trong vụ này, tiền, hàng - chứ không thể gì khác - là dấu chân ngỗng để phăng ra mối liên hệ trong ngoài của địch thủ.

- Hay! Kiên Trinh kêu lên.

- Đề nghị đại úy hãy bình tĩnh. Nếu có reo lên tiếng "Euréka" như Archimède cũng được nhưng chớ bắt chước nhà bác học ấy để tồng ngồng mà chạy từ sông về nhà giữa ban ngày khi ông tìm ra nguyên lý về sức đẩy của nước phải không, thưa đại úy?

Cả hai cười phấn chấn hẳn lên, cất tiếng cười sảng khoái.

Ta thấy đồng chấy Thủ trưởng, tức Giám đốc Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh quang vinh rực rỡ tên vàng giả, giao công tác đi bắt bỏ tù mút chỉ cà tha mấy tên văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bỏ của, bỏ nước chạy lấy người không thoát, dám liều mạng viết những bài tố cáo, châm biếm xã hội chủ nghĩa ưu việt ác ôn côn đồ, gửi ra nước ngoài đăng trên những tờ báo Việt hải ngoại, cho đồng rận Tư Tuân, trưởng cái gọi là Ban Công tác chống phá hoại tư tưởng. Đồng rận Tư Tuân lãnh công tác về nhà nghiên kíu, điều cha, điều mẹ năm bẩy ngày đêm, người ngợm phờ phạc, mất ăn bỏ ngủ với vợ. Chị vợ phiền não phải chạy sang nhờ đồng bọn bên Nhà Đẻ Nhân Dân cung cấp một số thuốc bổ thận Nhân cao chế tạo bằng thai nhi xã hội chủ nghĩa để anh chồng tẩm bổ. Thế rồi qua những trang sau đó, ta thấy - dù ta có căm thù cộng sản đến mấy ta cũng phải nhìn nhận: dường như đồng rận Tư Tuân trên thực tế chẳng có làm cái mẹ gì cả- Đồng rận giao toàn bộ công tác bắt bỏ tù bọn bị gọi là Những tên biệt kích cầm bút cho đồng rệp Kiên Trinh.

Buổi sáng trước khi tới sở làm công tác bắt bớ nhân dân, đồng rận Tư Tuân đớp nhẹ có "mấy chén cơm chiên". Đến đây ta lại thấy tả đồng rệp Kiên Trinh ở vào cảnh "đến giờ này, chén cơm chiên ăn lúc sáng đã tan biến tự lâu rồi…" Cớm cộng đớp toàn cơm chiên thôi ư? Cũng chẳng có gì để ta phải théc méc. Cộng sản chuyên lấy máu nhân dân nhuộm cờ đỏ, lấy mỡ nhân dân chiên cơm đảng viên đớp ngon lành. Dzì dzậy nhân dân ta mới có câu: "Đừng có no. Để đảng no…"

Đồng chấy Thủ trưởng giao công tác cho đồng rận Tư Tuân, đồng rận Tư Tuân giao cho đồng rệp Kiên Trinh. Đến đây, người đọc ngây thơ lương thiện tưởng các cớm đẩy công tác xuống hạ tầng đến đồng rệp Kiên Trinh là hết, nhưng đồng rệp Kiên Trinh lại đẩy công tác bắt bớ, bỏ tù nhân dân xuống một tầng thấp hơn nữa. Nhân vật thứ tư xuất hiện là đồng xám xây cọoc Hồng Sơn.

- Theo cậu, ta nên bắt đầu từ đâu?

- Tôi biết mà - Hồng Sơn cười khoái trá - Anh cần lính tráng "hiến kế" mới chịu rủ anh em xuống đây chớ dễ gì?

- Ừ. Hiểu thế cũng được. Nhhung cậu nhố cậu cũng có trách nhiệm trong vụ này đấy, lại phải chịu phần "mũi nhọn" nữa là khác.

Tiếp đó Đồng xám xây cọoc Hồng Sơn long trọng thuyết trình:

- Đến nay, tài liệu chúng ta có trong tay khẳng định một điều là bọn phản động trong nước và số lưu vong ở nước ngoài đã thiết lập sự liên lạc thường xuyên với nhau. Nhưng chúng liên lạc với nhau bằng con đường nào, với phương tiện gì thì ta chưa rõ. Đây là vấn đề sống chết của bất cứ tổ chức gián điệp nào. Về mặt lý luận, liên lạc là khâu trọng yếu nhất và cũng dễ bộc lộ nhất, có phải vậy không? Đánh vào đó là trúng yết hầu của địch.

Ný nuận ba hoa chích chòe nghe chơi dzậy thôi. Ở Thành Hồ, em nhỏ lên ba, cụ già chín bó đều biết nhân dân thành Hồ muốn niên nạc, niên mỡ với người nước ngoài chỉ cần tình thư con cá oong đưa toa lét mang ra bưu điện chi tiền cò gửi đi là xong. Nói theo ngôn từ cộng sản những cuộc niên nạc kiểu này đều là tự phát. Nhân dân Sàigòn trước năm 1975 có cuộc sống tương đối an ninh và sung túc nhất nước. Rất đông người Sàigòn mần lương tháng, kiếm được bao nhiêu sài hết bấy nhiêu, tháng sau lại có lương, chẳng mấy người tính chuyện để dành, để sọt. Bởi dzậy nên nón cối, dép râu, mông đít bự chỉ ngơ ngáo kéo vào Sàigòn có năm bữa, nửa tháng là một số đông cư dân Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi đã thấy cái đói lù lù đứng trước chân giường nát. Các anh con trai bà Cả Đọi ngẩn ngơ thấy những anh con trai bà Cả cũng như mình được trực thăng Mỹ bốc đi thoát, được đưa sang Mẽo quốc xứ thần tiên no đủ bơ sữa thịt bò vứt bỏ đầy đường, whisky tràn ống cống, đô la nhiều như lá Rừng Phong. Mấy ảnh lúc đầu chỉ gửi thư đi với mục đích đau thương và cao thượng là hy vọng mấy anh con trai bà Cả đẻ bọc điều sang được Mẽo quốc giầu đẹp thương tình bớt đớp, bớt xài chi cho vài chịch đô cứu đói. Những bức thư đầu tiên gửi ra nước ngoài - do đó - đều là những lá thư "Con cá nó sống vì nước. Dzợ chồng, bố con em sống nhờ quý ông, quý bà…"

Nhưng lẽ tự nhiên, tất nhiên, kiêm thiên nhiên, nhân nhiên là muốn gợi lòng thương hại của quý ông, quý bà để quý ông, quý bà đẻ bọc điều, tu mười kiếp, được Thủy Quân Lục Chiến Mẽo nó bốc lên trực thăng bay ra biển, chi về cho ít đô, những lá thư con cá bắt buộc phải kể khổ. Ngoài những nhớ thương biệt ly, nhớ nhung từ đây, chiếc lá trôi theo heo may… Người sang Mẽo có hay… rồi nỗi sầu tử biệt, sinh ly, kẻ ở người đi, lệ rơi thấâm đá, tơ chia rũ áo lụa Hà Đông, rách luôn cả áo lông Hà Nội, thư con cá phải kể về cuộc sống u tì, đen sì, đen sịt, đen hơn cái lá đa ca dao, đen hơn mõm chó mực của nhân dân Thành Hồ. Trong số đó, đời sống của các anh con trai bà Cả Đọi chiếm giải quán quân về mặt đen tối, rách nát và bi đát.

Từ kể khổ sang kể oán chẳng có mấy hồi. Kể khổ với kể oán liền nhau như hai mặt của lưỡi lame Gillette. Điều nguy hiểm là sống trong gông cùm cộng sản người dân có cả một triệu nguyên nhân để căm hận chế độ. Và bọn cộng sản ác ôn khi nắm được quyền ở nước nào cũng vậy, đều bắt nhân dân phải nhận chế độ của chúng là trong sạch, công bằng, nhân ái, đầy tình người một trăm một ngàn lần tốt đẹp hơn chế độ tư sản cũ. Chúng bắt nhân dân phải tỏ ra "phấn khởi, hồ hởi", phải nói mình sung sướng, mình được giải phóng. Người dân nào than sầu khổ - chỉ cần than thở thôi, chưa nói đến chuyện tố cáo cộng sản ác độc, bóc lột, ăn cắp, nói dối - là đã bị coi là phản động, phải bắt cất đi để khỏi làm "nhiễm độc sầu buồn" lây lan người khác.

CHƯƠNG 31

N

ăm 1977, trong phòng thẩm vấn nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Ba Trung Huỳnh Bá Thành nói với tôi:

- Trong lúc toàn dân phấn khởi, hồ hởi xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, anh làm thơ Buồn. Bài thơ của anh có thể làm nhiều người khác buồn lây. Vì vậy, chúng tôi phải bắt anh…

Lúc ấy bẩy tám giờ tối. Khu thẩm vấn vắng tanh, đèn vàng nhờ, bốn bề yên lặng. Ba Trung thường vào thẩm vấn tôi lúc bốn năm giờ chiều, ngồi mãi đến tám, chín giờ tối mới thả tôi về xà lim. Tô cơm tù được anh em tù đưa vào từ lúc bốn giờ chiều khô cứng trên sàn xi măng. Khi tôi nghe Ba Trung nói câu trên, quả thực trong lòng tôi có sự ngậm ngùi, tim tôi nặng như đá đeo. Tôi hối hận nghĩ: "… Thơ mí thẩn. Thơ con cóc. Mần thơ làm cái quái gì để cho nó bắt, nó nhốt thảm cảnh xã hội thế này! Vợ con nheo nhóc, mình thì tù tội mút chỉ cà tha, xa mùa lệ thủy. Việt cộng dzô Sègoòng, người Sègoòng nào mà chẳng buồn, nhưng người ta buồn, người ta chịu, người ta đâu có mần thơ. Nó nói nhân dân vui sướng, mình mần thơ tả nhân dân buồn khổ, nó cho mình dzô xà lim là đúng thôi."

° ° °

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút từ trang 117 đến trang121

Về phần Hoàng Hải, người vợ như một dòng sông mà hắn có thể ngụp lặn, tắm mát thỏa thích sau những ngày bon chen vất vả. Thân hình đầy đặn, sung mãn của người phụ nữ sinh trưởng ở đồng bằng Nam Bộ cộng với khuôn mặt sắc sảo phảng phất những nét Tây phương đã nâng nhan sắc của bà ta lên trên mức bình thường. Trong đời Hoàng Hải có hai thích thú mà hắn cho là kỳ diệu là đôi mắt của người vợ và ngọn đèn dầu lạc trong tiệm hút. Nhìn vào đó, hắn thấy cả độ sâu thẳm của lòng mình, sự níu kéo của cuộc sống, vừa đam mê vừa tỉnh táo, vừa rực rỡ vừa mờ ảo. Đó là những nguồn gợi hứng cho hắn suy nghĩ và sáng tác.

… Với gia cảnh ấy, con người ta thường dễ yên phận với tuổi xế bóng. Song Hoàng Hải đâu phải là một con người như vậy. Hắn luyến một thời xưa. Hắn hi vọng về một sự cứu rỗi, về một cơ may đủ sức xoay ngược tình thế hiện tại. Và hắn đã nhận được tín hiệu từ xa vọng đến đầy hứa hẹn, thúc giục hắn vùng vẫy. Đó là một ảo vọng, nhưng đối với hắn lại là một vũng nước xanh mát trong sa mạc mà hắn là kẻ sắp chết khát. Những tín hiệu đến với hắn bằng nhiều cách. Những lá thư của bạn bè gửi đi từ bên kia đại dương, những buổi phát thanh bằng nhiều ngôn ngữ ngày đêm vút lên không gian mà Hoàng Hải đón nhận bằng chiếc radio hiệu Zenith cực mạnh. Hắn biết rằng qua những tín hiệu ấy, từ những xứ sở xa xôi, người ta còn quan tâm đến "sự tồn tại" của hắn.

Có những câu, những ý hắn gần như thuộc nằm lòng: "Chúng tôi sẽ làm hết mình để anh trở thành immortel"

Hoàng Hải còn nhớ rất rõ nét chữ quen thuộc của người bạn ở Oa-sinh-tơn gửi cho hắn năm 1976. Có lẽ người bạn ấy cho rằng từ immortel trong tiếng Pháp thâm thúy hơn từ bất tử trong tiếng Việt Nam nên đã cố tình sử dụng từ ấy đến hai lần trong mấy chục dòng của lá thư đầu tiên gửi cho Hoàng Hải.

"… Ở đây mọi người đều nghĩ và tin chắc rằng thế nào Việt Nam cũng có những Xôdennítson. Dễ gì có thể viết một cái gì đại loại như "Quần đảo Gulắc" để biện minh cho tên phản bội Vlasov. Nhưng hắn biết chắc bạn bè của hắn benâ kia đại dương đang cần những "món" gì. Lúc cháy khát cổ, một ly nước lã cũng quý không kém gì một chai Coca Cola ướp lạnh.

Hoàng Hải đã làm cho cơ quan USOM từ năm 1954, đến năm 1973 lại làm việc chu USIS. Cách nhau gần hai mươi năm, ở hai thời điểm mở đầu và kết thúc sự có mặt chính thức của người Mỹ ở Sàigòn, hắn có đủ thời gian để hiểu người Mỹ. Trước kia họ là như thế thì nay và sau này họ vẫn thế: nếu không có Coca Cola thì họ sẵn sàng nhận ly nước lạnh. Có còn hơn không!

Hoàng Hải tự cho mình không chỉ là một ly nước lạnh bình thường mà là một ly nước lạnh hiếm hoi trong sa mạc. Sự khan hiếm ấy nâng cao giá trị của hắn lên.

Năm 1976, 1977 hắn đã hái ra tiền nhờ nhạy bén khai thác tình trạng khan hiếm ấy. Nhưng hắn đã phải trả giá khá đắt. Chính vì thế, sau khi dự cuộc họp ở nhà bà chị của Kiều Trang về, Hoàng Hải thấy có điều không ổn, lần trước chỉ một mình hắn độc quyền "làm ăn" với bên ngoài, thế mà công an đã phăng ra, khiến hắn phải vô trại giam. Hắn đã viết rất nhiều thể loại truyện, phiếm luận, nghị luận, văn học, thơ … với đủ các bút hiệu hắn đã ký tên những bài đã được in trên các báo của "phe hắn" xuất bản ở nước ngoài, nào là "Người Sàigòn", "Ngụy Công Tử", "Con trai Bà Cả Đọi", "Yên Ba", "Hạ Thu"… Hắn không ngờ công an lại bỏ công sưu tầm và nghiên cứu "sự nghiệp văn chương" của hắn kỹ đến thế. Biết dấu không được, hắn đã khai tuốt tuột. Đó là phương thức "tối ưu" - thà rằng khai cái người ta đã biết để được nhẹ tội còn hơn chối quanh. Về mặt này, hắn cũng tự hào rất am hiểu công an cộng sản. Hắn được khoan hồng thật. Hắn không tiếc lời thề thốt và viết trong bản cam kết:

"Khi được nhà nước khoan hồng cho về sum họp với vợ con, tôi sẽ lo làm ăn v.v…"

Tôi thích viết, vẽ, chơi đàn từ thuở tôi chưa biết thích đàn bà, con gái. Tức là lúc tuổi đời chưa đầy một bó. Thuở xa xưa ấy tôi không chỉ thích văn, họa, nhạc bình thường như mọi người, tôi hung hăng con bọ xít muốn mai sau mình sẽ trở thành văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ. Nói cách khác, tôi muốn sáng tác văn, họa, nhạc. Khi tôi nói tôi học nhạc không phải chỉ để chơi đàn suông, tôi muốn sáng tác những bản nhạc như các ông Jôhan Sìtờrao, ông Bít Tô Vơ, ông Môza, tôi bị khựng khi ông anh tôi nói: "Mày chơi được mấy bản nhạc của mấy ông ấy cũng đủ hết đời mày rồi. Ở đấy mà đòi sáng tác nhạc.."

Những năm học tiểu học ở thị xã Hà Đông - trường Tự Đức, hiệu trưởng cậu giáo Kiên - tôi là tên vẽ khá nhất những lớp có tôi là học sinh. Bạn học có giấy thường đưa cho tôi vẽ cao bồi cưỡi ngựa, bắn súng đuổi mọi da đỏ, vẽ chó mèo, đôi khi vẽ cả những cảnh trai gái theo sự tưởng tượng bậy bạ của bọn nhóc chúng tôi. Năm 1946, tôi theo gia đình tản cư lánh nạn chiến tranh về quê tôi ở ven sông Đuống. Năm 1947, tôi đi kháng chiến ở vùng Bắc Bắc - Bắc Ninh, Bắc Giang - năm 1950, tôi theo gia đình hồi cư về Hà Nội. Từ đó tôi bỏ vẽ và giấc mộng họa sĩ của tôi tiêu tán thoòng. Tôi học đàn ghi ta ba lần. Lần thứ nhất học thầy Tạ Tấn ở Hà Nội, lần thứ hai học thầy Vĩnh Lợi ở Sàigòn, lần thứ ba học thầy Lâm Tuyền cũng ở Sàigòn. Tôi thích nhạc nhưng có lỗ tai trâu, mù tịt về nhịp điệu, thêm cái tật cầm cây đàn là muốn thánh thót du dương ngay, không chịu ngồi gù lưng mà phứng phưng cả tiếng đồng hồ.

Năm 1983 con tôi đi học vẽ. Thầy dậy là bà họa sĩ Nguyễn Thị Tâm và ông chồng là họa sĩ Nguyễn Long Sơn. Ông bà mở lớp dậy tại nhà riêng sau trường Mỹ thuật Gia Định. Tôi theo con tôi đến thụ huấn ông bà họa sĩ Sơn Tâm. Vì yêu họa từ ngày còn nhỏ lại sống đời dân Ngụy tại thành Hồ quá nhàn rỗi, ngày tháng phất phơ toàn chủ nhật, quanh năm chủ nhật, hết năm này 365 ngày chủ nhật đến năm khác 365 ngày chủ nhật, tôi đi học vẽ cho đỡ buồn, cho có việc làm. Ở đời có những ông "Già năm mươi tuổi chưa đeo kính. Thức suốt năm canh chỉ sợ già…" tôi mới bốn mươi đã đeo kính lão. Thầy Sơn nói:

- Vẽ mà cứ bỏ kính ra nhìn, đeo kính lên, vẽ được vài nét lại bỏ kính ra… thì vẽ viếc cái gì… Mấy ông trên năm mươi học vẽ chỉ để chơi thôi…

Thầy nói đúng. Tôi học vẽ những năm 80 không phải để trở thành họa sĩ mà chỉ để đỡ buồn. Tuy nhiên tôi nghĩ, tôi có thể minh họa được những truyện ngắn của tôi. Mình viết truyện, mình vẽ tranh đi kèm truyện theo đúng ý mình. Là nhất. Học vẽ chừng vài tháng, tôi bắt đầu vẽ được hí họa. Bức vẽ anh Nguyễn Văn Nghêu số 4 Phan Đăng Lưu khệ nệ ôm thùng quà nước ngoài gửi về đề thêm bốn câu lục bát tôi cho là hay cực kỳ. Bốn câu thơ có âm điệu lá đa dân tộc, theo sự đề cao có thể là quá đáng của tôi, xứng đáng được chọn làm ca dao ghi lại cả một thời nhân dân Thành Hồ Con Cá, Cái Bang ba, bốn túi tấp nập đến chầu chực ở những nhà bưu điện, kho hàng Tân Sơn Nhất chờ lãnh những thùng đồ cứu đói. Thời gian người Thành Hồ sống nhờ đồ Pháp, đồ Mỹ kéo dài từ năm 1978 đến năm 1990. Bốn câu bất hủ nguyên là tám câu:

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh

Đôi tay anh vín đôi cành

Quả chín anh hái quả xanh anh vồ

Năm sáu năm nay anh ăn ở thành Hồ

Anh ra bưu điện lãnh quà em cho

Đồ em vừa nặng vừa to

Anh đã con mắt anh no cái mồm

Trong hai triệu người Việt sống ở các nước Tây Dương chắc phải có 50.000 vị từng được hưởng niềm sung sướng được đi lãnh đồ ở Thành Hồ. Xin quý vị làm chứng: thơ tôi tả đúng hay sai? Ở đời ta thấy có những thứ đồ thật to mà không nặng, như bao rơm chẳng hạn, lại có những thứ đồ thật nặng mà không to, như cục sắt. Riêng với đồ ngoại quốc gửi về cho ta, ta mơ ước thùng đồ có đủ hai điều kiện: nặng và to. Đồ vừa nặng vừa to là nhất. Trước hết nhìn thùng đồ hai chục ký, ba chục ký lô to vuông, vững chãi, phương phi, sung túc, phồn vinh, hiện đại mắt ta truyền cảm được thống khoái đi khắp châu thân ta, đến từng chân lông, ngọn tóc của ta. Ta mệt mỏi một cách sướng khoái ôm thùng đồ về nhà. Sau khi mắt ta nhìn đã - đây là sướng - ta hiu hiu ngồi chờ những nhóm anh chị chuyên săn mua đủ các thứ đồ ngoại thấy ta có đồ lớn, xin ta địa chỉ, theo ta đến tận nhà xin mua đồ của ta. Ta bán đồ lấy tiền mua gạo nếp, gạo tẻ, thịt cá rau dưa, vợ chồng, bố con, ông cháu hí hửng dắt nhau đi ăn mì vịt tiềm, phở, bún bò giò heo, ta cùng bạn hữu hạ cờ tây, bia Trung quốc. Chị vợ gầy guộc xanh leo xanh lét vì đói, vì lo của ta có ít tiền còm yên tâm được một hai tháng, chị sẽ dzui dzẻ đôi chút với anh chồng gà què ăn quẩn cối xay. Cuộc sống như dzậy chẳng phải là đỡ khổ ư? No cái mồm nhờ đồ em, dù chỉ no được một tháng cũng là no.

Những ngày ấy, tháng ấy, năm ấy - thấm thoát đã qua mười mấy mùa cóc chín - tôi di chuyển bằng xế đạp - người Thành Hồ gọi là xế Điếc - mang theo trong cái túi vải xách tay đủ thứ linh tinh bịch thuốc, hộp quẹt, cặp kính, chìa khóa, thêm quyển sổ tay và cây bút chì để khi ngồi cà phê vỉa hè lấy ra hí hoáy ghi hình. Về nhà tôi dùng bút mực vẽ lại, đôi khi tô màu. Bọn công an thành Hồ đến nhà tôi đêm mùng Hai tháng Năm năm 1984 vớ được tập hí họa của tôi. Vì vậy hai anh Nam Thi - Minh Kiên mới thấy bức họa "Đồ em vừa nặng vừa to" của anh chàng phản động Hoàng Hải.

Việc đi học vẽ và vẽ mấy bức hí họa của tôi bị hai anh cớm cộng Nam Thi - Minh Kiên diễn tả bằng những câu:

… Vì thế hắn đã chọn để lại một thứ có thể thanh minh rằng hắn đã biết hối cải và không làm gì xấu. Gần đây, hắn học thêm nghề hội họa. Trong mớ tài liệu mà hắn không đốt có tập phác họa do hắn vẽ. Hắn có thể nói với công an: "Thưa các ông, đây là công việc hàng ngày của tôi. Các ông xem, tôi già rồi, sức yếu còn làm gì nổi, nên tôi đã học vẽ, may ra có đươc một nghề vừa sức, hợp với khả năng để sống…"

Đại tá Tổng Biên Tập chi mà viết quá ngu. Một người tuổi đời năm bó, làm báo, viết truyện chuyên nghiệp từ năm mới hai bó gập, hai mươi mấy mùa táo tầu Nghị Hách sống đàng hoàng, sống ung dung, sống phơi phới với nghề viết truyện giải trí lương thiện, bỗng dưng bị bọn cộng sản bẻ gẫy cái cần câu cơm, bắt dzô tù, còn đổi nghề, đổi nghiệp cái gì được nữa! Thay vì phải lấy làm hổ thẹn vì chế độ của chúng đập bể nồi cơm của người dân lương thiện, bọn đầu trâu mặt ngựa, tim heo, óc chó lại tỏ ra hiu hiu tự đắc khi thấy những người dân miền Nam vì chúng mà lâm vào cảnh đói khổ.

Hai mươi niên vất vả ở Thành Hồ, tám niên ngồi rù trong những Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, tôi có phạm một số việc không được đàng hoàng chi mấy. Khi ra tòa năm 1988, tôi có nói: "Thưa bà chánh án" - Mụ chánh án xử tôi là mụ Nguyễn Thị Thu Phước, bao nhiêu phước, mụ ấy thu ráo trọi vào lòng mụ - nhưng tôi không -: "Thưa quý tòa…" như nhiều anh em ta. "Quý Tòa" là danh từ gọi tòa án quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Với người dân Việt Nam Cộng Hòa tòa án cộng sản có cái gì là "quý"? Chúng muốn tuyên án tử hình cho mình lên thùng phuy bãi bắn Thủ Đức, chúng muốn bỏ tù mình mút mùa Lệ Liễu kiêm Lệ Thủy - Lệ Thu… Vậy mà mình cứ phải "quý trọng" nó thì ngoài sự nhục nhã thậm tệ còn có sự lạ lùng không chấp nhận được.

Nhưng với bọn công an thành Hồ đến bắt tôi, thẩm vấn tôi, tôi không "Thưa ông…" với tên nào cả. Tôi trích đăng đoạn hai anh Nam Thi - Minh Kiên viết về chuyện tôi đi học vẽ để bạn thấy Việt cộng chửi rủa chúng tôi đểu cáng đến chừng nào. Tôi bị chúng chửi, mạ lỵ, bới móc tàn tệ nhất trong số tám người bị chúng gọi là "Những tên biệt kích cầm bút". Các bạn thấy đấy: Cả ông ngoại tôi cũng bị chúng lôi vào chuyện. Chúng viết tôi kính cẩn: "Thưa các ông…" vẫn còn là nhẹ. Trong một tập sách mỏng chúng viết về một ông từ nước ngoài trở về bị chúng bắt sống ở Lào, tôi đọc được năm 1982, chúng viết ông chiến sĩ quốc gia này gọi chúng bằng "ông", xưng "con".

CHƯƠNG 32

T

rích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút

Căn phòng nhỏ của Kiên Trinh lại trở nên náo nhiệt với các loại tiếng ồn ào quen thuộc, thân thương: Những chiếc máy đánh chữ đang mổ liên hồi để hoàn thành gấp bản báo cáo kết thúc vụ án, xen lẫn những câu chuyện mà những trinh sát vui miệng kể cho nhau nghe.

Hồng Sơn dí dỏm:

- Nếu cho Hoàng Hải chỉ là nhà văn, nhà thơ gì đó, quả là chưa đủ. Phải tính thêm hắn vaò danh sách soạn giả kiêm diễn viên! Thủ vai chính trong vở kịch trá hàng, hắn đến công an thành phố nhằm đánh lạc hướng mũi nhọn điều tra vào họa sĩ Ý Nhi. Vở kịch không thành công. Hôm bị bắt, hắn lại chuyển sang đóng vai cải lương. Buồn cười là khi bọn mình vào nhà "hỏi thăm" hắn thì hắn nói nghe tỉnh rụi:

- Trời! Tôi chờ các anh đã mấy ngày nay rồi. Tưởng đâu các anh đến sớm hơn chớ!

Chẳng lẽ giờ G của kế hoạch phá án được chuyển dời, mấy tướng nhà mình cứ thấp thỏm sợ lọt mất hắn nên bám quá sát khiến hắn ngửi thấy tấm lưới bủa vây.

Hắn lại tỏ ra "thanh thản" lúc phải "khăn áo ra đi". Hắn vừa vẫy tay, vừa nói lời từ biệt vợ: "Thôi… anh ra đi lần thứ hai nghe em.."

Nhiều tiếng cười cùng cất lên một lúc khi một số trinh sát hình dung lại điệu bộ và lời nói "rất chi là cải lương" ấy của Hoàng Hải.

Quý bạn vừa đọc một đoạn trong hai trang 195-196 chương XXII, quyển "Những tên biệt kích cầm bút". Anh cu Hoàng Hải bị kể phạm tội "trá hàng" và có lời nói "rất chi là cải lương" khi anh bị công an Việt cộng, hai giờ sáng đến nhà dựng cổ dậy, đọc lệnh bắt và sau đó "khăn áo ra đi"

Nhiều tiếng cười cùng cất lên một lúc khi một số trinh sát hình dung lại điệu bộ và lời nói "rất chi là cải lương" ấy của Hoàng Hải. Bọn đầu trâu, mặt ngựa tỏ ra sung sướng, khoái lạc với việc đi bắt người cho vào tù. Chúng thích thú khi thấy người khác sợ hãi, đau khổ. Giống như bọn văn nô ca tụng việc Đảng giết người, bọn công an cộng sản nhẩy múa, ca hát trên xiềng xích và trên xác chết những nạn nhân của chúng, những đồng bào của chúng:

Ông cha ta có câu:

Một đời làm lại

Bại hoại ba đời…

đời chúng ta có câu:

Một đời cộng sản

Tàn mạt ba đời…

Tôi, người mang cái tên Hoàng Hải "rất chi là cải lương" là công tử bột, con nhà thông phán, nhưng quán tính con nhà Tổng đốc, con nhà Thượng thư, tôi ăn chơi, chưng diện không bằng ai, nhưng tôi có cái tật tôi rất khó chịu khi tôi làm việc gì rởm, lố bịch, không được thanh lịch hay khi tôi bị người khác chê cười, chọc quê, cho là quê, rởm. Vì vậy, tôi coi lời hai cớm cộng Nam Thi - Minh Kiên diễn tả tôi "có điệu bộ và lời nói rất chi là cải lương" là lời mạ lỵ tôi nặng nhất trong tất cả những trang Những tên biệt kích cầm bút viết về tôi.

Hai giờ sáng ngày 2 tháng 5 năm 1984, chừng 10 tên công an thành Hồ kéo vào nhà tôi. Đọc lệnh bắt, khám xét, làm biên bản, khoảng 5 giờ sáng, chúng đưa tôi ra khỏi nhà.

Chỉ có vợ chồng tôi sống trong căn nhà nhỏ Cư xá Tự Do trước cửa hồ tắm Cộng Hòa, Ngã ba Ông Tạ. Tháng 11 năm 1977, khi công an Thành Hồ đưa xe bông đến nhà rước tôi đi lần đầu, Alice ở lại nhà một mình, lần thứ hai, nửa đêm, chúng đưa xe bông đến nhà đưa tôi đi, Alice cũng ở nhà một mình.

"Hắn lại tỏ ra ‘thanh thản’ lúc phải khăn áo ra đi". Tôi phải nhận cớm cộng diễn tả đúng tâm trạng vợ chồng tôi lúc ấy. Chúng tôi cũng buồn, cũng ngao ngán, nhưng chúng tôi "bình thản" vì chúng tôi biết trước việc bắt bớ sẽ xẩy ra, việc tôi bị tù đầy bắt buộc phải có, không tránh được, việc tôi bị bắt là tự nhiên, hợp lý. Chúng tôi đã làm những việc chúng tôi phải làm, chúng tôi biết rõ là làm những việc đó bọn công an Thành Hồ không để cho chúng tôi yên.

Nếu tôi viết: ".. Đêm chúng đến nhà bắt tôi lần thứ hai tôi thanh thản ra đi.." trong các bạn có thể có bạn nghĩ: "Anh này dzóc. Công An ViXi nó nửa đêm đến nhà còng tay dẫn đi, sức mấy mà ra đi thanh thản.." Nhưng chính bọn Công An ViXI viết như thế về tôi.

Một người bạn nói: "Viết tả lại những vụ Việt cộng bắt người ngoài những thủ tục như đọc lệnh, còng tay, khám xét, moi móc v.v… có lẽ ta nên viết về tâm trạng của người bị bắt…" Tôi đồng ý với anh. Chỉ có điều, nếu tôi tả lúc tôi bị bắt vợ chồng tôi bình thản nhiều bạn đọc có thể sẽ không tin. May cho tôi là cớm cộng đến bắt tôi đêm ấy xác nhận "hắn lại tỏ ra ‘thanh thản’ lúc ra đi..."

Và đây là việc tôi làm, lời tôi nói với Alice trước khi tôi xách túi theo bọn đầu trâu, mặt ngựa ra khỏi căn nhà tình ái của chúng tôi.
Nhớ lại lần trước vào Số 4 Phan Đăng Lưu, tôi bị lấy mất cái dây nịt thắt lưng - cái dây lưng Mỹ, hai mặt đen, nâu, đẹp nhất, vừa nhất, tôi ưa nhất - nên lần này khi sửa soạn ra đi tôi cởi dây lưng để trên bàn. Dây lưng đó của tôi thuộc loại to bản theo kiểu 1970, có cái khóa to và nặng, khi đặt lên bàn phát ra một tiếng kịch.
Tôi nói bốn câu với Alice trước khi ra khỏi nhà:
- Anh bỏ không hút thuốc nữa. Khi được thăm nuôi, đừng gửi thuốc lá cho anh.
Tôi hôn nàng. Và đây là câu nói thứ hai:
- Anh dâng đời anh lên Thiên Chúa.
Đây là câu thứ ba:
- Anh sẽ về với em.
Tôi cầm tay nàng:
- Đi với anh ra cửa
Khi tên trưởng đội ra lệnh đưa tôi đi, bọn công an ra ngoài đứng quanh chiếc xe ô tô đã mở sẵn cả bốn cửa. Nhưng một tên vẫn đứng trong cửa nhìn chừng chúng tôi. Khi tôi dắt Alice ra đến hàng ba, tên đứng cửa nghe được câu tôi vừa nói với Alice, hỏi tôi:
- Anh nghĩ là anh còn có thể trở về được cái nhà này à?
Đây là câu tôi trả lời hắn:
- Tôi còn sống thì tôi còn trở về chứ.
Câu "Trời…. Tôi chờ các anh đã mấy ngày rồi…" là câu cớm cộng bịa. Tôi không nói câu đó.
Người tù bị bắt nửa đêm ở nhà, tảng sáng bị còng tay đưa đi, đi một chuyến đi âm u không biết ngày về, đi theo lũ cai tù tàn bạo, ác ôn nhất lịch sử, người tù ấy hôn vợ và nói với vợ:" Anh sẽ về với em.." Chỉ có bọn công an cộng sản mới thấy việc làm và lời nói đó của người tù "rất chi là cải lương.." Nếu chúng không thấy như thế chúng không phải là công an cộng sản.
Sáu mùa lá rụng sau, một sáng đầu xuân tôi trở về mái nhà xưa lần thứ hai. Ông bạn ở sát nhà tôi sang thăm. Ông kể lúc tôi bị đưa ra khỏi nhà, ông đứng bên cửa nhà ông và ông nghe rõ tiếng tên công an hỏi tôi và câu tôi trả lời. Ông nói:
- Thằng đó nó hỏi ngu quá. Người ta còn sống thì người ta trở về chứ. Chúng nó muốn giam người ta cho đến chết sao.
Hai bà trong cư xá, buổi chiều ngồi nói chuyện với nhau trên hiên nhà cho mát, một bà nói khi tôi đi ngang:
- Chúng nó muốn giết người ta nhưng đâu có được. Còn có Trời nữa chứ!
Chuyến đi kéo dài sáu năm, năm năm sống quanh quẩn giữa những bức vách phòng tù, những hàng song sắt, một năm ở trại lao cải. Tôi đã làm đúng lời tôi hẹn với vợ tôi buổi sáng tháng Năm xa xưa khi tôi ra đi: "Anh sẽ về với em.." Sáu năm sau tôi trở về với nàng.
Thực ra, ngay khi tôi còn ở trong Thánh thất Chí Hòa, đọc vài trang NTBKCB do vợ con tôi gửi được vào cho tôi, tôi thấy tức cười nhiều hơn là sợ hay hờn giận. Các con tôi đọc những trang NTBKCB viết về bố mẹ chúng chúng cười lên hô hố. Tôi dám chắc người nào đọc NTBKCB cũng phải cười, vì họ thấy bọn Công An Việt Cộng viết về chúng tôi "kỳ" quá, không có qua một điểm nào giống chúng tôi..
… Về phần Hoàng Hải, người vợ như một dòng sông mà hắn có thể ngụp lặn, tắm mát thỏa thích sau những ngày bon chen vất vả. Thân hình đầy đặn, sung mãn của người phụ nữ sinh trưởng ở đồng bằng Nam Bộ cộng với khuôn mặt sắc xảo phảng phất những nét Tây phương đã nâng nhan sắc của bà ta lên trên mức bình thường…
Đó là lời hai anh Cớm Cộng Nam Thi-Minh Kiên viết về Alice, vợ tôi, trong Những Tên Biệt Kích Cầm Bút. Một đêm trong Phòng 10, Lầu Ba, Khu ED, Lầu Bát Giác Chí Hòa, nằm trong mùng đọc trang báo mới gửi vào lúc ban ngày bằng cách dùng để gói thức ăn thăm nuôi, đọc xong câu trên tôi nói với Trí Siêu Lê mạnh Thát, ngày ấy, tháng ấy, năm ấy hai chúng tôi nằm cạnh nhau:
- Chúng nó viết chửi tôi tàn độc quá, nhưng chúng nó khen vợ tôi đẹp và vợ tôi yêu thương tôi, tôi xí xóa với chúng nó.
Viết ở Rừng Phong, Virginia, Hoa Kỳ, năm 1955.
Sửa lại Tháng Tư năm 2000.

2/6/2016
Hoàng Hải Thủy
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...