Phùng Quán trong tôi
CHƯƠNG 1: GẶP GỠ
Tôi chơi thân với Hải Bằng từ cuối năm 1966, lúc Hội Văn Nghệ
và Ty Văn hóa còn sơ tán lên làng Phú Vinh. Qua Hải Bằng tôi được biết rất nhiều
về cuộc đời và con người Phùng Quán. Trước đó những năm đầu 60 tôi đã đọc cuốn
Bọn Nhân văn-Giai phẩm trước toà án dư luận cùng rất nhiều bài viết khác, thông
qua Hà Nhật thầy giáo dạy văn và một số học sinh cấp 3 Quảng Bình cho mượn.
Chưa gặp nhưng tôi đã trọng, vì đó là con người khác người. Chữ “người” thời ấy
gần như cùng chung mẫu số. Ai cũng như ai, khó mà bộc lộ cá tính trước đám
đông.
Cuối năm 1973 tôi theo học Trường Bồi dưỡng những Người viết
văn Trẻ ở Quảng Bá. Thật may mắn. Tôi nói với Hải Bằng, em học ở Hà Nội, có dịp
anh ra chơi để được gặp anh Phùng Quán. Hải Bằng chưa ra, Phùng Quán đã lên Quảng
Bá thăm chúng tôi, hỏi thăm Hải Bằng và tình hình Quảng Bình. Hồi đó một lời
nói trực tiếp sốt nóng hơn thư từ. Thư gửi đi có lúc sáu, bảy tháng mới nhận được.
Phùng Quán đèo tôi về nhà mẹ nuôi. Một căn nhà lá nền đất, nằm sau lưng đình
Nghi Tàm bên Hồ Tây. Ông tự ghép lấy chiếc ghế bằng cành ổi, ngồi lâu ngày đôi
tay vịn nhẵn bóng. Bà cụ Hai Dơi suốt ngày gánh hàng lặt vặt lên đê Yên Phụ bán
cho người qua đường. Ông vội vã nấu cơm tiếp tôi, rồi ra đường đỡ gánh cho bà cụ
vừa về. Đêm ấy, lần đầu tiên tôi được gặp con-người-Nhân-văn bằng xương bằng thịt.
Ông mặc một thứ vải thô nhuộm nâu, chân guốc mộc. Tại nơi đó, cũng lần đầu tiên
tôi được nghe nhiều bài thơ ông. Tôi không sao quên được cái giọng đọc pha
ngâm, trầm và ấm: Hồ khuya sương tịch mịch/ Trộn nước lẫn cùng trời/ Con dế
chân bờ dậu/ Nỉ non hoài không thôi.../ Tựa lưng ghế cành ổi/ Vai khoác áo bông
sờn/ Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ/ Vợ vừa nghe vừa đan. Ba mươi năm ly quê, cho tận mãi
sau này cái giọng vẫn thế, vẫn Huế mà rất Phùng Quán. Rồi ông im lặng, không
khóc, nhưng tôi biết ông đang xe xót chìm trong mờ ảo khói thuốc lào rít sau mỗi
bài thơ.
Không sai lời hẹn, Hải Bằng ra Hà Nội. Sau bao năm xa kể từ
ngày ông vác ba lô về làng Cảnh Dương, rồi làm phát hành sách cho ty Văn hoá. Đến
nơi, Hải Bằng giục tôi đèo xe tìm Phùng Quán. Ánh điện nhập nhoà, đường về bà mẹ
nuôi đất đá gồ ghề, chúng tôi phải xuống xe đi bộ. “Anh đi từ sáng đến giờ chưa
về, giờ không về là ở lại rồi” – Bà cụ Hai Dơi nói vậy. Chúng tôi đến 3-Hàng
Cân, nhà chị Bội Trâm, vợ Phùng Quán đang ở. Đường phố vắng hoe, Hải Bằng cứ đứng
giữa lòng đường gọi hết cỡ: “Quán ơi. Quán ơi. Quán ơi!.. Không có tiếng đáp lại.
Hải Bằng sốt ruột: “Phùng Quán ơi! Phùng Quán ơi!...”. Tôi hiểu vì sao Phùng
Quán chưa trả lời. Những năm đó những bài viết đánh Nhân văn chỉ còn lác đác,
vì tất cả dồn sức vào cuộc chiến. Nhưng không vì thế mà cuộc đấu tranh chống
Nhân văn đã kết thúc. Một tiếng gọi có thể thân thiết, cũng có thể vận hạn. Hơn
nữa Phùng Quán không muốn trong đêm thanh vắng lại oang oang hai tiếng Phùng
Quán, gắn với vụ án văn chương. Từ gác hai, Phùng Quán mở cửa nhìn xuống, hớt hải:
“Tôn à. Nhỏ thôi, nói nhỏ thôi, ra khi mô rứa?” (Tôn tức là Vĩnh Tôn, tên chính
của Hải Bằng). Đã lâu quay quắt nhớ, quay quắt gặp, nhưng Hải Bằng vẫn xẵng:
“Mi hỏi tao ra khi mô là răng? Tao ra là đến mi liền, chứ còn đi mô nữa?”. Hai
người ôm lấy nhau. Hải Bằng khóc hu hu như trẻ nhỏ. Chúng tôi kéo nhau đi ăn, dốc
hết tâm sự tới sáng.
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐÊM NGỦ
Phùng Quán có tới ba nơi ở, Nghi Tàm, 3-Hàng Cân và Lê Văn
Hưu. Mùa đông tôi thường xuống Nghi Tàm ngủ lại. Có khi Phùng Quán nấu thêm cơm
rồi hẹn xuống, có khi nạo cơm cháy qua loa, rồi chuyện trò. Những bài thơ tôi
viết hồi đó ông đọc hết và còn góp ý để tôi sửa lại.
Tôn Ái Nhân, Trần Anh Trang ở cùng phòng, thường bảo tôi là đứa
ham chơi, ít khi ở nhà trọn một ngày. Tôi nói có việc mình mới đi. Có người gặp
tôi đi theo Phùng Quán, nhắc nhở, lãnh đạo biết đấy. Tôi kệ. Gặp được con-người-khác-
người này là quý hoá, là may mắn cho mình.
Một buổi chiều tôi vừa bước vô nhà đã gặp người khách lạ.
Chưa kịp chào, anh ấy đã tự giới thiệu:
“Mình là Tuân Nguyễn. Mình nghe nói về Hoàng Vũ Thuật từ Quảng
Bình ra, đang chờ cậu tới đây”.
“Cám ơn, chắc chắn anh Quán kể chứ gì”.
Tuân Nguyễn vừa ở tù ra sau gần chín năm bị giam vô cớ. Không
bản án, không luận tội. Anh bị bắt cũng như được thả, đều mù mờ. Tuân Nguyễn
làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, đẹp trai, dong dỏng cao, đeo kính trắng. Phùng
Quán nói với tôi, Tuân Nguyễn sẽ tá túc vài ngày, nhờ bạn cho chiếc xe đạp đi lại.
“Tĩnh dưỡng” cho khoẻ rồi Tuân Nguyễn sẽ tìm cách dịch thuê mà sống. Tĩnh dưỡng
là nói vậy chứ vợ chồng Tuân Nguyễn chỉ ăn cơm với rau muống luộc, chắm nước mắm
hết ngày này qua ngày khác. Đêm lạnh, tôi được nằm giữa. Ba người đắp chung cái
chăn bông sờn. Khi Phùng Quán kéo thì Tuân Nguyễn hụt, khi Tuân Nguyễn kéo thì
Phùng Quán hụt. Chỉ có tôi là được ấm. Tôi bảo, đổi chỗ em nằm ngoài cho. Tuân
Nguyễn ôm lấy người tôi: “Chín năm anh quen cái lạnh rồi. Em ngủ đi mai còn về
trường, khéo mà ngủ gục”. Phùng Quán ho lốc khốc. Bà Hai Dơi nói vọng: “Không
biết đến bao giờ mới hết lạnh”.
Tết tôi về Quảng Bình. Tuân Nguyễn gửi thư cho người bà con tập
kết đang làm cán bộ có chức vụ trên huyện, gia đình sinh sống gần làng tôi. Anh
dặn khi nào ra cậu ghé lại hỏi thăm, có gì gửi không. Tôi ghé nhà, trước lúc ra
Hà Nội, người bà con không gửi gì, kể cả thư tay, chỉ nói: “Cậu ấy làm cậu ấy
chịu”. Tuân Nguyễn cùng Phùng Quán nghe thuật chuyện. Phùng Quán nói, nằm trong
tù chẳng ngán, chuyện vặt.
Nhiều lần đến Nghi Tàm không gặp, tôi lên 80 Lê Văn Hưu (hồi
đó là nhà khách Bộ Văn hoá). Phùng Quán được bố trí ở trong buồng một toilét
không dùng nữa. Ông phủ lên mặt toilét cái thùng gỗ làm chỗ viết. Mùa đông lót
báo dưới, trải chiếu lên trên. Nhiều khi ông và tôi không nói gì. Mỗi người
theo đuổi một ý nghĩ hoặc công việc gì đó. Ông thường hài hước: “Ở thế này là
sang lắm rồi, tầng hai hẳn hoi”. Còn tôi thì thương cho cái kiếp lao đao của
nhà thơ có đến ba nơi ở mà chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Sáng dậy, chúng tôi ra
chợ Đồng Xuân ăn bún thang. Thứ bún thêm vào thìa ruốc nêm, ông rất thích. Về tới
trường, lại có người nhắc nhở đừng chơi với Phùng Quán, người ta theo dõi đấy.
Tôi không để ý tới câu nói, vì mình có làm việc gì đâu. Chính nhờ Phùng Quán
tôi mới gặp Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung và một số người khác. Phùng Cung
chép đề tặng tôi bài thơ, có câu: “Ngọn đèn toả sáng nước da dưa”. Một ngọn đèn
hiu hắt màu da dưa chỉ đủ soi cho trang giấy. Đêm đêm được Phùng Quán khêu lên,
ngồi hút thuốc lào, bóng mờ in lên vách, bên Hồ Tây để viết “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ
Phủ cho vợ nghe”.
CHƯƠNG 3: IN SÁCH PHÙNG QUÁN
Đầu năm 1981, tôi được điều chuyển từ Quảng Bình vào Huế nhận
công tác Phó trưởng Ban biên tập nhà xuất bản Thuận Hoá. Một ngày cuối xuân năm
1982, tôi đến muộn. Trên bàn tôi đã có bản thảo Buổi đầu thử thách”của Đào
Phương, với dòng chữ ghi: “Anh Thuật tổ chức biên tập để in đúng kế hoạch”. Ký
tên Vương Hồng. Tôi mừng thầm. Đây rồi, lại gặp nhau. Bởi tôi đã đọc nó vào
tháng 4, tháng 5 gì đó tại căn gác toilét Lê Văn Hưu. Bấy giờ không có hai chữ
Đào Phương, mà là Phùng Quán. Nét chữ nghiêng đều đặn, mực tím không lẫn vào
đâu được. Khác chăng bản thảo bị gạch xoá khá nhiều. Chắc đã qua tay một người
đọc. Tôi tìm cách thông tin cho Phùng Quán. Ông viết mấy dòng rất kín đáo: “Cứ
làm cho anh, anh xin Đào Phương rồi. Cẩn thận”. Tôi đã gặp Đào Phương, tác giả
cuốn Thồ Điện Biên ở Hà Nội, bây giờ không hình dung nổi. Tôi hỏi ông Lê Trọng
Sâm, phó tổng biên tập. Ông ấy bảo mình rất biết, giúp Đào Phương với. Lặng lẽ
đọc lần nữa, cố lấy lại những đoạn không nên bỏ, giữ lại những chữ cần thiết, rồi
tôi giao cho cô Loan đánh máy, ký tên biên tập, trình Tổng biên tập duyệt.
Năm 1983 sách đến tay Đào Phương cùng nhuận bút do Lê Trọng
Sâm và tôi ra Hà Nội giao tại nhà. Đào Phương cười nói vui vẻ, cám ơn tôi. Có lẽ
Đào Phương tưởng rằng tôi không biết bản thảo này là của Phùng Quán. Hồi ấy,
tuy đất nước đã thống nhất mấy năm, nhưng vẫn còn cách nhìn cách nghĩ cũ kỹ,
ràng buộc lắm thứ. Chưa đổi mới. Cánh Nhân văn - Giai phẩm im lặng chờ đợi. Giả
dụ sự việc ấy mà lãnh đạo nhà xuất bản biết, muốn hay không tôi sẽ bị đuổi việc
ngay lập tức. Cho dù tôi nói là tôi không biết. Tôi tin cho Phùng Quán khoản
nhuận bút và sách tác giả. Sau này, ông bảo tôi, Đào Phương cho lại mình một
ít. Tôi không rõ là bao nhiêu, nhưng đối với ông là quý lắm, theo cách nghĩ của
ông. Buổi đầu thử thách, chính là tập một của ba tập tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội
sau này.
CHƯƠNG 4: PHÙNG QUÁN ĐỌC THƠ Ở HUẾ, IN THƠ Ở ĐÀ NẴNG
Tôi đang dẫn chương trình Đêm thơ tại 26-Lê Lợi, do Phân hội
Văn học tổ chức. Vinh Nguyễn nói nhỏ vào tai: “Anh Phùng Quán và chị Hương Quân
ở Hà Nội vừa vào”. Tôi ra cửa đón ông và chị, đồng thời giới thiệu với Nguyễn
Khoa Điềm. Anh Điềm bắt tay thăm hỏi, nhắc tôi giới thiệu Phùng Quán đọc thơ nữa
nhé. Sau vài lời phi lộ, Phùng Quán chắp tay như cúng lễ đọc ngay bài thơ “Tạ”:
Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm
Quỳ rạp trán xuống đất làng
Con tạ...
Rồi ông quỳ rạp thật. Ông đứng lên trong tiếng vỗ tay không
ngớt. Đêm thơ lắng lại để nghe Phùng Quán đọc tiếp những bài thơ khác. Nếu tôi
không nhầm, năm 1986, đêm đầu tiên trở về quê hương, sau bao năm xa cách và lần
đầu tiên ông đọc thơ tại nơi chôn rau cắt rốn của ông. Mặc dù bài Tạ được ông
viết từ 1975. Những ngày sau đó ông trở thành khách quý của những người ngưỡng
mộ ông. Đám trẻ tuổi chúng tôi thường theo ông để được “ăn theo”, “uống theo”
“nói theo” cho có bạn.
Một năm sau, Phùng Quán vẫn chưa về nhà. Hương Quân đã ra Hà
Nội. Ông nói với tôi, khi đi anh nói với chị ra phố mua bao thuốc lá. May mà bấy
giờ đã có điện thoại liên lạc, không thì đã phải báo mất tích từ lâu.
Phùng Quán vào Đà Nẵng. Ông đọc thơ tại Nhà hát Thành phố, ở
huyện Điện Bàn và nhiều nơi khác. Trở lại Huế, ông cầm xấp báo Đà Nẵng chủ nhật,
ra ngày 15/2/87, đăng “Trường ca cây cà”, ký tặng bạn bè. Tôi được một tờ. Đầu
chương một, ông viết: “Ba mươi năm trước/ Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ/ Tôi lại
hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang/ Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy tôi
dũng khí bền gan”. Đó là bài thơ đầu tiên ông in tên thật của mình, mãi sau tạp
chí Sông Hương mới tiếp tục đăng những bài khác.
CHƯƠNG 5: KIỂM ĐIỂM VÌ PHÙNG QUÁN
Chia tỉnh, tôi về lại Quảng Bình làm Tổng thư ký (Chủ tịch Hội
bây giờ). Gần hai năm sau, đầu tháng 4/1991, Phùng Quán từ Hà Nội vào thăm
chúng tôi. Mừng lắm, không ngờ lại được gặp ông sau ngày chia tỉnh. Tôi hội ý với
Ban Thư ký rồi lên kế hoạch, đồng thời đi cùng ông trên chiếc xe la đa cũ, tài
sản lớn nhất được chia ra từ Hội Bình Trị Thiên.
Chiều 12/4 chúng tôi đến Hoàn Lão. Ông Lê Chiêu Nẫm– Bí thư
Huyện uỷ Bố Trạch và anh Thoan - Trưởng Ban Tuyên giáo niềm nở đón tiếp chúng
tôi. Anh Thoan dẫn chúng tôi về giao lưu với Trường Bồi dưỡng Giáo viên của huyện.
Sau buổi tiếp xúc ấy, trường phổ thông trung học số 1 đăng ký mời Phùng Quán
nói chuyện thơ. Hôm sau trên đường về anh Thoan tìm gặp xin chuyển địa điểm về
nhà Văn hoá Trung tâm để bà con thị trấn được nghe nữa. Cuộc nói chuyện không
thành. Họ ghi điện thoại cho tôi xin hoãn. Tôi hỏi, vậy thì bao giờ có thể tổ
chức? Họ trả lời không biết nữa.
Thế nhưng Phùng Quán vẫn tiếp tục được mời nói chuyện ở trường
phổ thông trung học Đào Duy Từ và trường cấp 2 Đồng Mỹ. Người nghe đứng chật ra
tận hành lang. Anh Lại Minh Thương, bạn tôi, học sinh cũ của trường cấp 3 Quảng
Bình, là đội trưởng Hợp tác xã đánh cá Hồng Mỹ, Bảo Ninh nghe tin, mời Phùng
Quán và tôi sang nhà thết đãi, nghỉ lại đọc thơ cho xóm giềng. Tôi sung sướng
và cảm động. Đâu đâu người ta đều ngưỡng vọng nhà thơ, muốn được nghe thơ, được
nhìn rõ con - người - nhà - thơ như thế nào. Đó là dấu hiệu văn hoá lành mạnh.
Ông nói chuyện say sưa, đọc thơ say sưa, hồn nhiên như người “cấm khẩu” lâu
ngày bỗng nhiên bật lên tiếng nói. Không lần nào giống lần nào, con người ấy có
sức cảm hoá đến kỳ lạ. Vẫn cái giọng trầm và ấm, cái giọng trải qua nhiều cay đắng
nghiệt ngã, kiên gan trước cuộc đời ba động, đã đúc nên thứ âm thanh như có thần
phép kia.
Nhưng tất cả những cuộc đi đâu về đâu đều có người theo dõi. Chúng
tôi đi là họ đến. Họ cấm không được tổ chức gặp gỡ, đọc thơ hay nói chuyện gì nữa.
Phùng Quán là Nhân văn.
Những ngày lưu lại nhà tôi đã thành một sự kiện.
Tôi nhớ sáng nào vợ tôi cũng dọn sẵn trên bàn một chén cà sống,
bát ruốc, góc chai rượu ngon. Khi thì đĩa bánh cuốn, khi thì cháo trắng. Những
thứ hợp khẩu với ông. Tôi cụng với ông một ly, nhấm nháp qua loa để đến cơ quan
kịp giờ làm việc. Ông ngồi bên chai rượu cho tới khi tôi về để còn đi thăm những
người quen biết.
Thế rồi đột ngột tỉnh giao tôi nhiệm vụ tháp tùng đoàn của Bộ
Văn hoá lên hai huyện Tuyên Hoá và Minh Hoá. Ông rất muốn theo tôi. Khi hỏi đi
cùng ai, ông bảo, mình trở thành kẻ bị săn đuổi tới nơi rồi. Thôi đi đi, mình
không đi nữa. Tôi bàn với ông lên nhà Hải Kỳ, ở chơi vài ngày đợi tôi về. Ông ừ.
Sau này được Hải Kỳ kể lại, ông và Hải Kỳ vừa ra khỏi nhà, lập tức công an vào
hỏi. Vợ Hải Kỳ khôn khéo đem giấu cái bị cói của Phùng Quán ra sau bàn thờ,
không thì họ lấy cũng nên.
Quả như vậy, khi tôi về đã thấy giấy mời lên làm việc với Thường
vụ Tỉnh uỷ. Người trực tiếp gặp tôi là phó bí thư thường trực cùng một số người
nữa. Ngồi vào bàn ông nói ngay: “Anh là cán bộ lãnh đạo Hội. Phùng Quán là ai,
anh biết rồi đấy. Gần nửa tháng qua anh đưa anh ta đi đâu, gặp gỡ ai, nói chuyện
gì”. Tôi trả lời ngay không cần nghĩ ngợi: “Phùng Quán là nhà văn thế hệ chống
Pháp. Năm 1988 anh đã được phục hồi hội viên. Anh công tác ở cơ quan văn phòng
Bộ Văn hoá, đã từng in...” Chưa dứt lời ông cắt ngang với hai hàm răng rít chặt:
“Không nói nhiều, anh về viết bản kiểm điểm gửi cho chúng tôi. Cần nhớ rằng anh
thuộc diện cán bộ chúng tôi quản lý...”. Tôi không đáp lại nữa. Ra về mà lòng cứ
ấm ức. Chẳng lẽ thế? Chẳng lẽ người ta vẫn còn kỳ thị, nghi ngờ đến thế? Phùng
Quán đã xuất hiện ở Huế, lúc ông làm Phó Giám đốc Công an cơ mà. Ông không biết
Phùng Quán đã đọc thơ và nói chuyện nhiều nơi, đã in trên báo Đà Nẵng và tạp
chí Sông Hương hay sao. Vả lại, hồi năm 81, 82 khác. Năm 86, 87 đất nước đã đổi
mới, văn nghệ được cởi trói. Giờ đã là 91. Ông định làm gì nữa đây?
Tôi về nhà viết bản kiểm điểm gửi cho bốn tổ chức, Thường vụ
Tỉnh uỷ, Đảng Đoàn Văn nghệ, Ban Thư ký, Chi bộ Cơ quan Hội. Những dòng tôi
trích dưới đây y nguyên trong bản đánh máy trên mặt giấy pơ luya màu thẩm hồi
đó. Tất nhiên tôi phải mất hẳn một buổi tìm lại từ “thư viện gia đình”. Tính
tôi luộm thuộm, không ngăn nắp như người ta. Mở đầu tôi viết: “Nhà văn Phùng
Quán, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả tiểu thuyết Vượt Côn Đảo, gần đây
với bộ tiểu thuyết ba tập Tuổi thơ dữ dội được tặng thưởng văn học của Hội Nhà
văn, chuyển dựng thành phim được tặng thưởng phim hay năm 1990...” Không lâu,
trên một trang báo Nhân dân, in danh mục những phim chiếu phục vụ trong dịp Đại
hội Đảng, có Tuổi thơ dữ dội. Trang 5, cuối bản kiểm điểm ở phần nhận khuyết điểm,
tôi thẳng thừng: “Song không khí hôm Thường trực Tỉnh uỷ làm việc, rõ ràng là nặng
nề. Có một số việc tìm hiểu chưa cụ thể vội vàng kết luận. Thí dụ: Đồng chí Phó
Bí thư Tỉnh uỷ cho rằng, tôi phải chịu trách nhiệm trước Thường vụ toàn bộ sự
việc trên. Đồng chí còn nói: Tôi đã bất chấp chỉ thị cấp trên, tiếp tục tổ chức
để anh Phùng Quán nói chuyện hai nơi (tức trường Phổ thông trung học Đào Duy Từ
và trường cấp 2 Đồng Mỹ), lại còn qua cả Bảo Ninh.
Tôi là một nhà văn, được Thường vụ giao trọng trách quản lý Hội
Văn Nghệ, tôi có nhân cách và lòng tự trọng của mình. Việc gì chưa rõ ràng thì
cần được nhắc nhở trao đổi rút kinh nghiệm, sai trái thì kiểm điểm, cao hơi thì
kỷ luật. Nhưng không thể xử sự với tôi bằng một thái độ vội vã kết luận, khẩu
khí căng thẳng khi chưa điều tra kĩ lưỡng. Việc đó rõ ràng không tạo thuận lợi
cho tôi trong việc quản lý Hội và đội ngũ văn nghệ sĩ trong tình hình còn phức
tạp hiện nay”.
Bản kiểm điểm gửi đi. Họ im lặng không tiếp tục hành xử tôi nữa.
Nhưng rõ ràng tôi không gặp thuận lợi về sau đó.
Năm ngoái, Phùng Quán được Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật. Tôi định cầm mấy bộ sách tuyển tập thơ, tiểu thuyết của Phùng Quán
và những cuốn khác do Ngô Minh biên soạn đến nhà ông Phó Bí thư Tỉnh uỷ, chỉ để
nói với ông một câu. Ông thấy không, cái bằng chứng này cao hơn cả. Nếu Phùng
Quán có gia đình ở đây, chắc ông phải ngậm ngùi tổ chức lễ trao Giải thưởng Nhà
nước cho Phùng Quán. Mặc dầu ông đã nghỉ hưu lâu rồi. Nhưng chuyện đời, lẽ sống
con người đâu có nghỉ hưu!
CHƯƠNG 6: LỄ TRUY ĐIỆU CÓ MỘT KHÔNG HAI
Tôi thường tâm sự với lớp trẻ, đã làm nhà văn phải có hai nhân
cách. Nhân cách sống và nhân cách viết. Nhân cách viết, có thể có nhiều người
thành đạt. Nhưng nhân cách sống không hẳn ai cũng được như nhau. Có người im lặng
viết, miễn sao tròn một công dân. Có người viết tốt, sống tốt mà vẫn vào vòng
lao luý. Phùng Quán thuộc hạng người này. Cả đời ông là một chuỗi đau thương.
Nhưng không lúc nào ông chùn bước. Cuộc đời ông, ai đã biết là mến mộ, kính trọng.
Ông bị bệnh gần hai năm nay. Phải nằm ngửa kê tay vào giá đỡ trước mặt mà viết.
Một bàn viết ngược. Xưa nay ông đã viết, phải ngồi vào bàn, dù chiếc bàn ấy là
tấm ván, hộp gỗ chăng nữa. Giấy của ông được kẻ dòng như loại giấy vở học trò.
Phải là người có khí chất sống, khí chất văn chương mới nghĩ ra cái giá đỡ kỳ
quái để viết cho tới dòng sau chót đời mình.
Tôi định bụng bàn với nhà văn Hữu Phương, bấy giờ là phó chủ
tịch Hội, tổ chức lễ truy điệu vọng cho ông. Nghĩ lại, bao nhiêu chuyện còn đó,
người ta còn đây. Thử có ích gì? Thế là tôi rủ Hữu Phương cùng một số anh chị
em, học sinh yêu văn học lên nhà Hoàng Quang Đông chơi. Đông là thầy giáo, bạn
tôi, đã có lần gặp Phùng Quán. Tôi thông báo nhà văn Phùng Quán mất rồi, lúc 16
giờ 50 phút, ngày 22/01/1995. Tin này nhờ một người bạn điện thoại vào cho tôi
hay. Tất cả bàng hoàng. Im lặng. Không ai nói câu gì. Trong khoảnh khắc đó, tôi
lấy ra tờ giấy trắng, chiếc bút dạ, ký hoạ rất nhanh chân dung Phùng Quán. Sau
này tôi không hiểu vì sao mình vẽ được như vậy. Một chân dung Phùng Quán trăm
phần trăm. Gương mặt hơi trẻ. Chân dung ấy tôi ép latíc để trong “thư viện gia
đình” như một báu vật.
Không ai bảo ai, người kê tấm ván vuông vức lên chẻ ba cây
đào, người hái hoa cắm vào bình, người tìm thứ làm bát hương... Trong làn khói
hương thơm phức, tất cả như những pho tượng đứng bất động. Tôi lên tiếng trước:
“Chúng em xin cúng vọng anh, một nhà thơ tài hoa, một nhà văn suốt đời chỉ viết
trên giấy kẻ dòng, một nhân cách sống hiếm thấy”. Mọi người lặng lẽ bước lên cắm
những que hương trên chiếc bàn thờ có một không hai.
Lúc ấy là 4 giờ chiều ngày 28 tháng 01. Sau sáu ngày Phùng
Quán từ giã bạn bè người thân ra đi. Đồng Hới.
15/10/2020Hoàng Vũ Thuật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét