Người vợ mất tích 1
CHƯƠNG 1
Những cánh cửa sổ của văn phòng mở ra nhìn xuống dòng sông
Sàigòn. Trước đây mười năm, khúc sông này đậu chật ních thuyền bè. Những chiếc
thuyền chuyên chở cả một gia đình chồng vợ và những lũ con lúc nhúc. Nhưng từ
ngày có kế hoạch chỉnh trang thành phố, thuyền ghe bị cấm tới khúc sông này, cảnh
vật ở đây trở nên đẹp và sang trọng, sạch sẽ. Một vùng sông nước khá rộng mở ra
trước mắt người nhìn từ cửa sổ này. Sáng nay, ánh nắng chan hòa trên dòng sông,
trên những ngọn cây bên kia bờ, mặt nước phản chiếu ánh nắng nhiều chỗ lấp lánh
như dát bạc.
Vẫn dòng sông ấy, vẫn làn nước ấy, vẫn những ngọn cây ấy, vẫn
ánh nắng ấy. Trần Huy đã ngồi trong chiếc ghế này, nhìn qua khung cửa sổ này ra
cảnh vật đó cả ngàn lần, nhưng sáng nay, Trần Huy thấy dường như tất cả đã đổi
khác.
Chàng có còn là Trần Huy, người luật sư trẻ tuổi nhưng sớm nổi
tiếng và được kể là vị luật sư có nhiều tương lai sáng nhất thủ đô này nữa hay
không? Vẫn còn chứ. Ai có thể nói được rằng chàng không còn là luật sư Trần
Huy? Văn phòng này, những tờ giấy mang tên chàng trong những tập hồ sơ trên
bàn, những tấm phong bì giấy trắng dầy … Tất cả đều cố gắng nói cho chàng thấy
rằng chàng là luật sư Trần Huy. Nhưng chính chàng, chính luật sư Trần Huy,
chàng không tin như thế. Chàng nhận thấy mình đã đổi khác nhiều. Chàng như một
người khác hẳn, một tâm hồn khác ở trong một thân thể khác.
Nếu Huy soi kính, chàng thấy một hình ảnh quen thuộc: khuôn mặt
hơi dài, đôi mắt sáng nhưng u buồn, mái tóc hoa râm nơi hai thái dương, vài nếp
răn rất đẹp và gợi cảm trên vầng trán, những nếp răn của con người trí thức suy
nghĩ nhiều. Năm nay Huy 38 tuổi, chàng xứng đáng là người đàn ông “hào hoa,
phong nhã” của giới thanh lịch trí thức Sàigòn.
Đó là nhận xét của Bà Cố vấn và cũng là nhận xét của nhiều
bà, nhiều cô thanh lịch khác của thủ đô này.
Sàigòn không có nhiều luật sư nổi tiếng. Con số luật sư xuất
sắc vượt bực được nhiều người nghe nói đến tên biết ngay là luật sư chỉ có chừng
mười vị là cùng. Một nửa số đó là những ông già đã có chừng ba hoặc bốn mươi
năm trong nghề. Con số còn lại gồm vài ông trẻ tuổi quá ham tiền, chỉ biết có
chuyện làm tiền nên không còn chú ý đến gì khác. Trần Huy, tuy không để lộ ra mặt,
vẫn thầm khinh những người bạn đồng nghiệp trẻ tuổi của chàng, nhất là vài người
khả ố đến nỗi quanh năm không đánh răng. Răng lợi “bựa” cả đống. Mỗi lần những
ông này cười với chàng, chàng cảm thấy buồn nôn. Nếu còn là sinh viên, chàng đã
nói đùa về những hàm răng “bựa cả đống, bựa đến cắm tăm” được đó với câu: “Các
hãng thuốc đánh răng chúng nó họp nhau lại để kiện mầy …” Trong số những luật
sư trẻ tuổi, nổi tiếng, biết ăn diện hào hoa, phong nhã, chỉ có chừng hai người.
Trần Huy và một người khác.
Huy thốt ra một tiếng thở dài và quay mặt đi không nhìn ra cửa
sổ. Dù không muốn chàng cũng phải mở cuốn tập này. Cuốn tập đang để trên bàn
trước mặt chàng. Huy biết rằng chàng phải đọc nó. Bắt buộc phải đọc. Nhưng
chàng cố gắng kéo dài thời gian. Lát nữa đây, chàng sẽ mở nó, chàng sẽ đọc.
Nhưng ngay bây giờ thì chàng chưa thể. Bây giờ thì quá khó. Việc đọc những gì quá
khó khăn với chàng.
Một lần nữa, Huy đọc lại những hàng chữ viết trên trang đầu:
- “Nếu tôi có mệnh hệ nào, nghĩa là nếu có gì nguy hiểm xẩy đến
cho tính mạng tôi, xin trao tập viết này tới tận tay bạn tôi là Luật sư Trần
Huy.”
Không. Không thể được. Hoàng Tuấn, người bạn thân nhất của
chàng, người viết những dòng chữ này, không thể gặp một tai họa nào đến nỗi phải
viết những dòng chữ này. Tính mạng của một người như Hoàng Tuấn không thể bị đe
dọa vì bất cứ một tai họa nào. Vì Hoàng Tuấn là một hình ảnh đẹp tượng trưng
cho tuổi trẻ, niềm yêu đời, niềm vui sống. Đôi mắt sáng trong lúc nào cũng sáng
lên niềm vui, tình yêu và lòng tin. Đôi môi Hoàng Tuấn lúc nào cũng cười vui. Nụ
cười của Hoàng Tuấn làm cho người bi quan nhất cũng phải thấy rằng ở đời này có
tình yêu và niềm tin, có người hài lòng với cuộc sống, có người đang vui sống.
Đột ngột, Huy có một cảm giác đau đớn. Từ trước đến giờ, chưa
bao giờ chàng bị đau đớn thể xác vì một ý nghĩ đến như thế này. Chàng không bao
giờ có thể ngờ rằng người ta có thể cảm thấy đau đớn vì một ý nghĩ. Nhất là
chàng. Chàng không ngờ chàng có thể đau đớn khi nghĩ đến một người đàn ông
khác.
Nhưng ngay sau đó chàng tự trấn tĩnh được ngay. Biết đâu nỗi
đau đớn này sẽ lại chẳng chóng qua như một giấc mơ. Biết đâu đây lại chẳng là một
cơn ác mộng?
Huy bắt đầu mở đọc trang đầu.
– 1 –
Huy − Tôi viết những dòng này gửi tới Huy, bởi vì bây giờ tôi
còn có mỗi mình Huy ở đời, bởi vì chỉ có Huy mới có thể hiểu tôi.
Tôi thấy rằng thật là vô lý khi tôi lại kể lại cho Huy nghe một
lần nữa câu chuyện này, một chuyện mà Huy cũng biết rõ không kém gì tôi. Tôi
“viết” cho Huy đọc là một câu chuyện có vẻ lố bịch, vì tôi vẫn gặp Huy mỗi
ngày. Nhưng tôi viết là vì tôi cảm thấy một sự cần thiết phải ghi lại từng sự
kiện trên mặt giấy. Viết lại chuyện này tôi sẽ sống lại từng giây phút đầu và sống
lại từng giai đoạn của nó như sống lại một cuộc phiêu lưu, vì đây chính là một
cuộc phiêu lưu. Tôi cần viết lại nó vì viết là hồi tưởng, và tưởng nhớ lại, tôi
hy vọng có thể thấy một vài sự kiện nào đó mà tôi đã không thấy trước đây. Tôi
sẽ hiểu. Tôi sẽ biết rõ tất cả những gì đã xẩy đến với tôi. Chắc chắn phải có một
lời giải thích cho vụ này và sau cùng, chúng ta sẽ tìm thấy nó.
Khi tôi nhìn thấy Huy, không hiểu tại sao tôi cảm thấy khó
nói. Tuy nhiên vào mùa xuân năm nay, khi Huy tới thăm vợ chồng tôi ở Nam Vang,
tôi gặp lại Huy và thấy Huy thật gần tôi. Giữa chúng ta có một sự cảm thông tư
tưởng và cảm giác huyền diệu. Thời gian, năm tháng, cách xa không thay đổi gì hết
tình bạn của chúng ta, mối tình bạn có từ ngày chúng ta cùng học chung ở Chu
văn An và đã làm cho chúng ta được các bạn tặng danh hiệu là “đôi tri kỷ”. Trái
lại, sự xa cách trong không gian và thời gian lại làm cho chúng ta gần nhau
hơn. Và sự có mặt của Ngọc ở giữa chúng ta lại tạo thêm cho chúng ta một sợi
giây liên lạc nữa.
Nhưng bây giờ … mỗi lần gặp Huy − thật là kỳ lạ − tôi thấy
như tôi nhìn Huy qua một làn kính ngăn cách. Và khi nói chuyện với Huy, tôi có
cảm tưởng như tôi với Huy nói chuyện với nhau qua máy điện thoại.
Có lẽ vì tôi lo âu, sợ hãi nên tôi trở thành thay đổi, khép
kín, làm cho tôi mất cái khả năng ghi nhận sự có mặt của người khác. Chính vì vậy
mà tôi cố gắng kể lại vụ này từ đầu. Đây là hy vọng cuối cùng của tôi để thông
cảm với Huy, để nối lại sự thông cảm đã có với Huy, với cuộc sống, với hạnh
phúc, nghĩa là với Ngọc.
Ngày đó là ngày Thứ Năm 15, ngày Ngọc nhận được bức điện tín
của bà mẹ nàng. Mới chỉ cách đây có ba tuần lễ thôi, nhưng tôi tưởng là có những
năm dài đã trôi qua kể từ ngày đó. Như cuộc đời tôi đã chia ra làm hai phần:
trước điện tín và sau điện tín.
Trước là hạnh phúc. Và hạnh phúc là một danh từ quá thường,
quá nhẹ không đủ để diễn tả tình trạng sung sướng của đời tôi bên Ngọc. Tôi đã
muốn tìm một danh từ khác để diễn tả tình trạng đó. Anh biết chúng tôi đủ để hiểu
tôi muốn nói gì.
Anh biết vợ chồng tôi, biết Nam Vang, biết tòa nhà của chúng
tôi ở Biển Hồ, anh biết rõ tôi, nhất là anh biết rõ Ngọc. Anh biết rằng giữa
tôi và Ngọc − tôi không thể nào viết là “đã có” − vẫn có một sự hòa hợp hoàn
toàn và huyền diệu đến nỗi hai chúng tôi chỉ là một. Có rất nhiều người lấy làm
lạ vì sự hòa hợp đó của chúng tôi. Những người đó từ chối không chịu nhận rằng
một người thanh niên Bắc Kỳ lai Miên lại có thể cảm thông hoàn toàn với một thiếu
nữ hoàn toàn Nam Kỳ. Trong số những kẻ không tin ấy có nhiều kẻ ghen ghét. Họ
ghen vì họ thèm muốn hạnh phúc của chúng tôi. Nhiều kẻ tuy thèm muốn nhưng vẫn
không tin rằng 5 năm chung sống vợ chồng, vẫn không làm phai nhạt chút nào tình
yêu của tôi và Ngọc.
Nhưng sự thật là như vậy. Năm năm đã qua. Chúng tôi yêu nhau
và sống với nhau như vợ chồng đã năm năm, chúng tôi vẫn yêu nhau như ngày đầu.
Chúng tôi chưa có con. Chúng tôi chưa có con chính là vì chúng tôi không thể
nào chịu nổi một người nào khác chen vào giữa chúng tôi, dù kẻ xen vào đó có là
con của chính chúng tôi. Có thể nào định mệnh đã trừng phạt chúng tôi chính vì
thế?
Như vậy là ngày Thứ Năm 15 tháng Chín Ngọc nhận được bức điện
tín. Khi tôi từ Ngân Hàng về nhà, vào lúc 6 giờ chiều, nàng đứng trong phòng
khách. Bây giờ tôi còn nhìn thấy nàng đứng in hình trên nền cửa kính mờ, với
làn nắng chiều vàng sau lưng. Ánh nắng làm vàng mái tóc của nàng. Nhìn nàng tôi
biết ngay là có gì lạ xẩy đến. Chưa bao giờ tôi thấy nàng đứng im như thế. Mọi
ngày, theo như lệ thường, mỗi khi tôi về tới nhà, nàng chạy ra ôm chầm lấy tôi,
và tôi cảm thấy nàng ở trong tay tôi ngay cả trước khi tôi kịp nhìn thấy rõ
nàng.
Nàng là người nói trước:
- Má em đau nặng, sắp chết. Em phải về ngay.
Tự nhiên là tin đó làm cho tôi phải xúc động.
Tôi có cảm tình nhiều với Bà Ngà, bà mẹ vợ tôi. Tôi cũng gọi
bà là Má. Và tôi biết rằng Ngọc, vợ tôi, mặc dầu hồi sau này có nhiều chuyện
không đồng ý với má nàng, cũng mến thương má nàng nhiều lắm. Hai nữa tôi xúc động
là vì tôi không chờ đợi tin Bà Ngà đau nặng. Bà má vợ tôi chưa quá 55 tuổi, bà
rất khỏe mạnh và trẻ hơn tuổi. Từ 5 năm qua tôi không thấy bà có chứng bệnh nào
cả. Bà cũng không hay đau yếu. Năm trước đây bà ta có tới nhà chúng tôi ở chơi
một tháng. Hồi đó tôi vẫn thấy bà vui vẻ, mạnh khỏe, yêu đời và nhanh nhẹn hơn
bao giờ hết.
Tôi ấp úng nói vài câu gì đó. Ngọc đọc cho tôi nghe bức điện
tín nàng vừa nhận được trước đó một tiếng đồng hồ. Điện tín do một cô y tá tên
là Nhàn gửi đi và ký tên. Bây giờ nói ra thì tôi thấy tôi thật là ngớ ngẩn và gần
như là ngây ngô nhưng thật sự là tôi không nhớ rõ lúc đó tôi có nhìn vào điện
tín đó hay không.
Tôi chỉ nhớ rõ có một điều là Ngọc đọc cho tôi nghe những lời
ghi trong điện tín: Bà Ngà bị cơn đau tim nặng bộc phát. Bác sĩ xét thấy tình
trạng bà nguy kịch nên khuyên thân nhân tới ngay. Thân nhân gần nhất của Bà Ngà
là Ngọc, con gái Bà.
- Em đã gọi dây nói ra Hàng Không. Họ cho biết 12 giờ đêm nay
có phi cơ về Sàigòn. Em đã giữ chỗ rồi. Đêm nay em đi.
Tự nhiên là tôi không nói gì để ngăn cản nàng hết.
Lẽ tự nhiên là Ngọc phải có mặt bên mẹ nàng trong những giờ
phút cuối cùng của đời bà. Hai nữa, một người trong chúng tôi đã quyết định điều
gì, quyết định ấy mặc nhiên trở thành quyết định chung của cả hai.
Tôi chỉ ghì chặt Ngọc trong vòng tay tôi và tôi hôn nàng với
tất cả tình yêu và trìu mến của tôi.
Nhưng tôi không còn thấy nàng gần tôi như ngày thường, như
trước đó. Tuy nàng cố gắng làm ra thản nhiên, nàng cố trấn tĩnh, tôi cũng thấy
rõ là nàng đang xúc động nhiều. Nàng đang sợ hãi. Một nỗi sợ hãi lớn bóp chẹt
trái tim nàng. Nỗi sợ hãi đó làm cho nàng trở thành cứng rắn.
Sau giây phút đó, chúng tôi lo đến những việc cần thiết thực
tế hơn: soạn hành lý, tiền, giấy thông hành và căn cước của Ngọc, những việc
tôi sẽ phải làm trong khi vắng nàng.
Những giờ sửa soạn ấy trôi qua mau. Tôi lái xe đưa nàng ra
phi trường. Lần nào tôi đi xa vì công việc, Ngọc cũng lái xe đưa tôi tới phi
trường và ngược lại. Chưa bao giờ chúng tôi để nhau đi xe của Hãng Máy Bay.
Tôi mắt kém nên không thích lái xe ban đêm. Nhất là đêm hôm
đó tôi cảm thấy khó chịu nhất vì tôi cảm thấy sự có mặt của Ngọc bên tôi. Nàng
“căng thẳng” không thoải mái, dịu dàng như những ngày thường. Nàng lo âu và nỗi
lo âu của nàng làm cho tôi cũng như bị nghẹn thở. Cổ họng tôi như bị nghẹn vì nỗi
lo âu đó của nàng. Ngọc hút thuốc lá liên miên. Tôi thấy rõ là nàng bối rối qua
hành động hút thuốc lá của nàng. Ngày thường, nàng cũng hút thuốc nhưng rất ít,
mỗi ngày nàng hút chừng ba điếu sau những bữa ăn. Đêm đó nàng hút liên miên
nhưng mỗi điếu nàng đốt lên chỉ hút có vài hơi là lại vứt đi qua cửa xe và lại
châm điếu khác.
Từ nhà tôi tới phi trường Pochentong đêm đó, Ngọc hút tới 20
điếu thuốc.
Chúng tôi tới phi trường vào lúc 11 giờ đêm. Chúng tôi còn
thì giờ để vào tiệm ăn ở ngay phi trường ăn với nhau hai tô mì vịt. Ngọc thích
ăn ở đây. Nàng thích khung cảnh của phòng ăn này ở phi trường. Nàng nói nàng
thích không khí tiễn đưa, chia ly. Mỗi lần tới đây, hoặc là đưa tôi đi, hoặc
nàng đi, nàng thường cùng tôi vào quán ăn này ăn mì. Nhưng đêm đó tôi thấy rõ
là khung cảnh phi trường cùng tô mì vịt mà nàng vẫn thích không làm cho nàng
ghi nhận mảy may.
Tôi nói nhiều với nàng, tôi định dùng lời nói để trấn tĩnh
nàng, để làm cho nàng bớt sợ, nhưng tôi thấy rõ là vô ích. Nàng nghe tôi nhưng
không biết là tôi nói gì. Một vài thủ tục về giấy tờ cuối cùng làm xong là
phóng thanh mời hành khách lên phi cơ. Chúng tôi nắm chặt tay nhau và hôn nhau
lần cuối. Lần này, giây phút này, tôi cảm thấy nàng gần tôi, như nàng vẫn gần
tôi tự bao giờ. Tin tưởng, trao gởi, như nàng vẫn là một phần thân thể của tôi.
Giây phút cảm thông đó thoáng qua như một ánh chớp. Nàng rời
xa tôi ngay. Nàng đi vào cổng ra của phi cảng. Trên đường đi xa tôi, nàng dừng
lại một lần và tôi trông thấy nàng lần cuối cùng dưới ánh đèn nê-ông, hình dáng
đẹp, thanh của ẻo lả như chờ đợi tôi bảo vệ. Nàng bận bộ áo xám ngọc, mầu tôi
thích nhất, làn môi dầy quyến rũ, đôi mắt trong như nước hồ thu và mái tóc
nhung óng ánh. Lúc đó tôi không thể nào quan niệm được rằng một phần thân thể của
tôi lại có thể đi xa tôi, lại có thể trôi đi như một chiếc thuyền không bến.
Nàng làm một cử chỉ nhỏ chào tôi bằng tay, rồi nàng đi theo vào dòng người xa lạ.
Đó là lần cuối cùng tôi trông thấy nàng.
– 2 –
Tôi sợ tôi không ngủ được nhưng trái lại, trước sự ngạc nhiên
của tôi, đêm đó tôi chìm ngay vào một giấc ngủ dài và ngon lành, không mộng mị.
Tôi không thấy qua một triệu chứng nào báo trước có chuyện không hay sắp xẩy đến.
Sáng hôm sau, trời đã muộn khi tôi tỉnh giấc. Tôi phải vội
vàng ra khỏi nhà để tới sở làm. Sáng đó tôi có hẹn với Văn Phúc – ông đại diện
Ngân Hàng của tôi – Huy đã được tôi giới thiệu với Văn Phúc và Huy cũng đã biết
ông ta đối với tôi ra sao. Khi tôi nhớ tới Ngọc, tôi vẫn thấy trái tim tôi có một
cảm giác đau nhói nhưng tôi không thể nói được đó là lo âu hoặc là sợ hãi.
Chúng tôi đã nhiều lần xa nhau, Ngọc và tôi, trong khoảng thời gian 5 năm chung
sống.
Tôi không lấy làm vui mỗi lần Ngọc và tôi xa nhau trước đây,
song tôi thấy những lần xa nhau trước đó, tôi thấy sung sướng vì sắp được gặp lại
Ngọc nhiều hơn là buồn vì sự vắng mặt của nàng.
Tuy nhiên, lần xa nhau này của chúng tôi có khác. Lần này Ngọc
xa tôi vì bắt buộc. Có một cái tang đang chờ đợi nàng. Chắc vì vậy mà lần này
cuộc chia ly tạm thời của chúng tôi có một cái gì nặng nề, nhưng chia ly rồi,
bây giờ tôi chỉ còn phải chờ ngày tái ngộ. Tôi bắt đầu sống với hy vọng. Và hy
vọng sắp được gặp lại nàng làm cho tôi trở thành vui sống, yêu đời.
Cuộc gặp gỡ giữa tôi và Văn Phúc đem lại cho tôi thêm nhiều lạc
quan. Lúc nào Phúc cũng có ảnh hưởng tốt với tôi như vậy. Tôi thấy ở đời này có
nhiều người đem ảnh hưởng tốt đến cho đời chúng ta cũng như có nhiều kẻ chỉ gây
cho ta toàn những gì không may, tai hại. Với tôi ngoài việc là một người trên cấp
rất đàng hoàng, Văn Phúc còn là một người bạn tốt.
Chúng tôi có nhiều việc phải bàn luận với nhau. Sau hai tiếng
đồng hồ nói về công việc của Ngân Hàng, Phúc đưa tôi đi ăn trưa. Khi tôi báo
tin rằng đêm qua, Ngọc đã phải cấp tốc về Sàigòn vì mẹ nàng đau nặng, Phúc tỏ vẻ
ngạc nhiên:
- Chưa bao giờ anh nói cho tôi hay rằng bà nhạc anh bị yếu
tim.
- Chính tôi cũng không biết là bà ấy yếu tim nữa. Tôi vẫn yên
trí là bà ấy mạnh lắm.
- Bà nhạc anh bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Tôi cũng không biết rõ. Năm mươi tư hay năm mươi nhăm gì
đó.
Người đàn bà thường bị bệnh tim quật ngã vào khoảng tuổi bốn
mươi. Đó là tôi nói những người bị bệnh tim kìa. Còn khi các bà ấy đã quá năm
mươi tuổi, các bà ấy sống lâu lắm. Tôi chắc bà ấy chẳng có gì nguy kịch lắm
đâu. Vài ngày nữa anh sẽ thấy chị ấy bình an và vui vẻ trở về.
Văn Phúc dặn tôi nếu có tin gì mới về bà nhạc tôi, tôi phải
báo cho ông biết ngay. Ăn xong, chúng tôi chia tay nhau. Ngân Hàng của chúng
tôi là một chi nhánh của một Ngân Hàng ngoại quốc nên làm việc liền một buổi.
Tôi trở ngay về văn phòng để làm việc. Tôi để hết tâm trí vào việc làm, yên tâm
rằng đến chiều khi về đến nhà, tôi sẽ nhận được một điện tín của Ngọc. Ngọc có
hứa là nàng sẽ đánh giây thép cho tôi ngay sau khi nàng gặp mẹ nàng.
Nhưng chiều đó khi về tới nhà, tôi không tìm thấy một tờ điện
tín nào bỏ trong thùng thư trước cửa nhà hay trong nhà hết. Tôi thất vọng nhưng
lại mừng vì tôi nghĩ rằng như vậy là bệnh trạng Bà Ngà không có gì đáng ngại lắm.
Nếu có gì nguy hiểm chắc chắn Ngọc đã báo ngay tin cho tôi biết.
Sáng hôm sau, cũng vẫn không có tin tức gì của Ngọc. Tới văn
phòng, tôi gọi dây nói ra nhà Bưu điện dặn nhân viên phòng điện tín rằng nếu họ
nhận được điện tín nào từ Sàigòn gửi tới cho tôi, họ cho người mang thẳng tới
văn phòng cho tôi chớ đừng đưa tới nhà tôi.
Sau đó suốt buổi sáng, tôi bận việc liên miên. Tôi quên hẳn
chuyện nhà Bưu Điện không gọi lại cho tôi. Tôi phải chọn lựa nhiều quyết định
trong buổi sáng ấy. Chuyện lôi thôi nhất là tôi phải mở cuộc điều tra về trường
hợp một kế toán viên bị nghi ngờ là gian lận sổ sách. Ông Giám đốc người Anh của
Ngân Hàng yêu cầu sa thải người nhân viên đó nhưng tôi phản đối. Do đó tôi phải
tìm cho được bằng chứng là người nhân viên đó không có lỗi.
Buổi trưa, tôi không có thì giờ đi ăn cơm trưa nữa, tôi nhờ
người mua sandwich về văn phòng cho tôi ăn.
Đến ba giờ chiều, tôi chợt nhớ đến Ngọc. Tôi ngạc nhiên tự hỏi
tại sao tôi lại có thể quên được nàng lâu đến thế. Tôi vội vàng gọi điện thoại
ra nhà Bưu Điện hỏi lại và tôi lại càng ngạc nhiên khi nghe người ta trả lời là
tôi không có qua một điện tín nào hết.
Suốt buổi sáng hôm sau, rồi cả ngày sau đó không có gì gửi tới.
Không điện tín, không có điện thoại, không có thư từ … Im lìm hoàn toàn.
Trong 48 tiếng đồng hồ đầu tiên, tôi thật sự không thấy lo ngại
gì lắm. Tôi vẫn yên trí là không thể có chuyện gì nguy hiểm xẩy đến với Ngọc.
Nghĩ đến chuyện Ngọc gặp nguy hiểm là vô lý và lố bịch. Tôi thú nhận rằng nếu
tôi có nghĩ gì đến Ngọc là nghĩ một cách ghen tuông rằng nàng đã mải lo cho mẹ
nàng mà quên tôi. Tôi hiểu rằng Ngọc có thể không có thì giờ viết thư cho tôi,
nhưng nàng có thể gửi điện tín cho tôi chứ. Nếu cần có mặt ngày đêm bên cạnh Bà
Ngà, nàng cũng vẫn có thể nhờ người thân trong nhà mang vài chữ ra nhà Bưu Điện
gửi về cho tôi, không có lý nàng lại không có thể nhờ được ai. Nàng biết là tôi
mong tin nàng chứ. Điều làm tôi buồn nhất là nàng đã làm sai lời hứa. Nàng đã hứa
với tôi trước khi đi là nàng sẽ gửi điện tín về cho tôi ngay khi nàng về tới
Sàigòn. Và nếu tôi không nhớ lầm thì đây là lần đầu tiên Ngọc sai lời hứa với
tôi.
Ngày chủ nhật tới, tôi bắt đầu thấy lo.
Chúng tôi không thích ngồi không. Những chủ nhật trước đây,
tôi và Ngọc vẫn đi chơi cuối tuần. Chúng tôi bầy chuyện đi chơi, đi săn, đi
câu. Mỗi ngày chủ nhật ở nhà, chúng tôi có nhiều chuyện để làm, nào là rửa xe,
làm vườn, sửa mái nhà, xếp lại tủ sách. Và nhất là chúng tôi bận yêu nhau, yêu
nhau như chúng tôi là một việc làm không bao giờ nhàm. Chúng tôi có tình yêu,
chúng tôi không bao giờ sống nhàm chán, không bao giờ chúng tôi buồn.
Nhưng sáng chủ nhật này, tôi sống một mình, tôi không có việc
gì làm. Và tôi cũng không muốn làm gì hết. Tôi có thể nói rằng đó là buổi sáng
chủ nhật đầu tiên trong đời mà tôi bắt đầu đau khổ. Tôi đau khổ rất âm thầm. Tức
là tôi khởi đầu đau khổ một cách âm thầm, lặng lẽ, từng hồi, không rõ rệt. Có một
điều tôi biết chắc đó là điều tôi đã mất thăng bằng của cuộc sống. Tôi không
còn vui sống nữa, tôi đã mất cái hăng hái lăn xả vào cuộc sống để sống và hưởng
thụ như trước đây. Chúng tôi đã sống hăng hái, hăm hở như hai đứa trẻ cắn vào một
trái chín.
Từ buổi sáng chủ nhật ấy tới giây phút này, tôi không bao giờ
còn được có cái cảm giác yêu đời, hăm hở sống đó nữa.
Đến tối một ý nghĩ sáng lên trong óc tôi. Ý nghĩ đó làm cho
tôi nhức nhối khó chịu như một mụn ong châm.
Tôi nghĩ: nếu phi cơ Ngọc đi bị tai nạn? Từ ngày Ngọc đi tôi
không đọc báo. Nếu có đọc tôi chỉ đọc sơ qua mấy hàng tít lớn trong bữa ăn. Đọc
với một sự lơ đãng. Nếu báo có đăng tai nạn phi cơ có thể tôi đã bỏ sót tin đó.
Tôi lại không nghe radio, cũng chẳng nói chuyện phiếm với ai. Nhất là trong thời
gian gần đây những công ty Hàng Không thường có thói quen giữ kín các tai nạn
không cho báo chí biết. Tôi lại nghĩ nếu có tai nạn, người ta phải báo ngay cho
thân nhân hành khách biết dù rằng người ta giữ kín tin đó với báo chí, và tôi,
tôi có vợ đi trên phi cơ, người ta bắt buộc phải báo tin cho tôi trước hơn ai hết.
Xong tôi lại nghĩ biết đâu đấy, rất có thể vì một lý do gì đó căn cước của Ngọc
bị thất lạc, ai biết có những chuyện gì bê bối, rắc rối xẩy ra trong và sau một
tai nạn phi cơ.
Tôi định tới ngay trụ sở Công Ty Hàng Không, nhưng sáng chủ
nhật, nơi đó đóng cửa nghỉ. Tôi tới văn phòng và gọi dây nói ra phi trường. Ở
đây có một văn phòng thường trực của Công ty. Nhân viên ở đây cam đoan với tôi
là không có một tai nạn phi cơ nào xẩy ra trên đường bay Nam Vang – Sàigòn
trong ngày thứ năm vừa qua hết.
Nhưng khi tôi hỏi về một hành khách trên phi cơ đi từ Nam
Vang về Sàigòn hôm ấy, nhân viên trực ở phi trường trả lời rằng Y không có đủ
thẩm quyền để trả lời. Y yêu cầu tôi chờ tới sáng thứ hai hỏi trụ sở chính. Chỉ
trụ sở chính mới có thể cho tôi biết rằng người hành khách mà tôi hỏi đó có thật
sự xuống phi cơ ở Sàigòn hay không.
Không cần phải nói chắc anh cũng biết rằng đêm đó tôi không
chợp mắt được. Suốt đêm tôi tranh đấu với chính tôi. Tôi đặt ra những trường hợp
bi thảm mà Ngọc có thể gặp và chính tôi lại tự thuyết phục là những trường hợp
đó không thể nào xẩy ra được. Tôi tự trấn tĩnh mà không được.
Mờ sáng thứ hai tôi đã trở dậy. Tôi tắm nước lạnh cho tỉnh rồi
vào xe đi ngay xuống tỉnh. Lẽ tự nhiên là tôi tới quá sớm. Tôi phải ngồi ở tiệm
cà phê Royal chờ suốt một tiếng đồng hồ trước khi trụ sở Hàng Không mở cửa.
Lại phải chờ thêm nửa giờ nữa nhân viên có thẩm quyền, tức là
một ông chủ sự phòng mới tới. Người ta kiểm soát lại và nửa giờ sau, tôi đã được
trả lời dứt khoát. Phi cơ về Sàigòn ngày thứ năm đã đi tới nơi về đến chốn. Bà
Hoàng Tuấn, nhũ danh Đỗ thị Như Ngọc có tên trong bảng danh sách hành khách xuống
phi cơ tại phi trường Tân sơn Nhứt.
Tôi vui mừng đến nỗi thiếu chút nữa thì tôi la lên và ôm hôn
cô thư ký. Ôm hôn cả ông chủ sự già và anh tùy phái. Ra tới đường phố, tôi muốn
hát vang lên vì đời quá đẹp. Tôi vẫn chưa được tin gì về Ngọc, nhưng ít nhất
nàng bình yên, nàng đang ở Sàigòn. Đó là điều quan trọng. Rồi trước hay sau, sớm
hay muộn, tôi cũng sẽ được tin nàng. Thế nào rồi nàng cũng trở lại với tôi. Rồi
chúng tôi lại yêu nhau …
Tôi từ Trụ sở Hàng Không ra đi thẳng tới Bưu điện. Tại đây
tôi gặp ông chủ sự phòng Điện tín, người tôi đã nói chuyện bằng điện thoại mấy
lần trong ngày hôm qua. Tôi trình bày với ông này câu chuyện của tôi một lần nữa.
Ông ta nói với tôi một câu làm cho gánh nặng của tôi nhẹ hẳn
đi, tôi ngạc nhiên về chuyện tại sao tôi lại không nghĩ đến trường hợp đó. Có lẽ
vì quá lo, tôi trở thành kém thông minh. Người ta thường nói kẻ ở trong cuộc
thường lấp lú là như vậy:
- Rất có thể là điện tín của bà nhà gửi cho ông từ Sàigòn lên
đã bị thất lạc. Việc ấy vẫn thường xẩy ra. Ngay cả đến chúng tôi cũng không hiểu
rõ nguyên do những vụ thất lạc điện tín ấy. Nhiều khi có những điện tín mất đến
8 ngày mới tới nơi. Nếu ông muốn biết gấp, chúng tôi có thể gửi điện về Sàigòn
hỏi. Còn nếu như muốn có tin sớm hơn nữa, sao ông không gửi điện tín hỏi ngay
bà nhà? Ông có địa chỉ của bà ở Sàigòn chứ?
Chuyện giản dị chỉ có thế … Tại sao tôi lại lú lấp không nghĩ
ra nhỉ? Dễ quá. Tôi chỉ cần gửi ngay một điện tín về Sàigòn. Không có nói một lời
cám ơn Ông chủ sự “thông minh” ấy tôi vớ vội lấy một mẫu gửi điện tín, viết
ngay về Sàigòn cho Ngọc.
Đến lúc đó tôi mới chợt nhớ là hiện nay tôi không biết rõ Ngọc
ở đâu. Nàng ở nhà Bà Ngà hay nàng ở khách sạn. Trong những lần về Sàigòn thăm
bà Ngà trước đây có lần Ngọc ở với Bà Ngà, có lần nàng ở khách sạn. Ngọc thường
thích tự do. Nàng không muốn làm phiền ai, dù người đó có là mẹ đẻ của nàng.
Hai nữa, tôi đã nói rằng Ngọc và bà mẹ nàng trong thời gian sau này không hòa
thuận với nhau mấy.
Tôi nghĩ rằng trong trường hợp Bà Ngà đau nặng như hiện nay,
chắc chắn Ngọc phải ở gần bà đêm ngày. Nhưng tôi không rõ là Bà Ngà nằm ở nhà
hay ở bệnh viện. Tôi chắc là bà nằm ở bệnh viện vì bức điện tín gửi tới chúng
tôi do một nữ y tá – Cô Nhàn – ký tên. Nếu Bà Ngà nằm ở bệnh viện, Ngọc chắc là
ở nhà bà.
Những lần trước về Sàigòn, nếu ở khách sạn, Ngọc vẫn quen ngụ
tại khách sạn Continental. Muốn chắc chắn tôi gửi liền hai điện tín giống nhau,
một về Bà Má vợ tôi, một về khách sạn Continental. Tôi viết như sau: “Rất lo
không nhận được tin Ngọc từ ngày thứ năm. Stop. Cho biết tin ngay bằng điện tín
hay điện thoại. Stop. Rất mong. Yêu em nhiều”.
Ngày thứ hai đầu tuần ấy êm ả trôi qua, tôi đã tìm lại được
niềm vui và tự tin. Tôi lại làm việc hăng hái suốt ngày. Cho tới chiều khi về
nhà, tôi mới lại cảm thấy buồn rầu và thất vọng khi không thấy có một điện tín
nào chờ đợi tôi ở nhà.
Sáng hôm sau tôi nhận được điện tín trả lời của khách sạn. Người
ta đã nhận được điện tín của tôi và cho tôi biết là khách sạn hiện không có bà
khách nào là bà Hoàng Tuấn hết.
Tôi lại gọi dây nói tới nhà Bưu điện cho ông chủ sự:
- Ông không thấy có điện tín nào của nhà tôi gửi tôi ư?
Câu hỏi thật thừa nhưng tôi vẫn cứ phải hỏi.
- Không thấy ông ạ. Nếu có tôi gửi đến cho ông ngay mà.
Thật là lạ, nếu Ngọc ngụ ở một khách sạn nào khác, hay ở nhà
ai, chắc chắn nàng cũng phải nhận được điện tín tôi gửi về nhà mẹ nàng và phải
trả lời tôi rồi. Khách sạn không có nàng còn trả lời nữa là nàng, thật là khó
hiểu. Nỗi lo sợ của tôi lại có dưới một hình thức khác. Tôi lo sợ như người đứng
trước một cái gì khó hiểu của định mệnh, một tình trạng mà người không thể giải
thích được.
Đến thứ tư, vào buổi chiều, tôi như người nổi cơn điên. Điện
tín gửi đi gửi lại đều đặn và dễ dàng giữa Nam Vang và Saigon. Điện tín trả lời
của khách sạn Continental chứng minh điều đó. Mặt khác tôi biết chắc Ngọc hiện
có mặt ở Saigon. Bản danh sách của Công ty Hàng Không chứng minh điều đó. Vậy
thì sao lại có sự yên lặng này?
Đột nhiên óc tôi lóe lên một tia sáng: Ngọc về Saigon sáng thứ
sáu tuần trước, nhưng nàng có thể đã đi nơi khác. Nàng có thể đi vì một lý do
nào đó mà tôi chưa được biết. Nàng có thể … thật ra nàng có thể làm được những
gì? Nếu nàng không thông tin được cho tôi, chồng nàng, biết đâu lại chẳng phải
vì nàng không thể thông tin cho tôi được? Biết đâu nàng lại chẳng “bị cầm giữ” ở
một nơi nào đó??
Ngọc có thể bị bắt cóc … Nàng có thể bị giữ vì bị tình nghi
buôn lậu?? Có thể lắm chứ … Nghĩ thế không còn do dự nữa tôi nhấc ngay máy nói
lên gọi tới Thanh Tra Sam. Sam thường được gọi là ông Cò Sam. Vì công việc của
Ngân Hàng tôi phải giao thiệp với hành chánh địa phương và giao du khá thân với
Cò Sam. Anh là người Miên lai người Việt Nam. Anh đã đi học ở Trường Chasseloup
Laubat trước đây cũng như Thái Tử Shihanouk nước anh vậy. Anh thường làm đại diện
Nha Cảnh sát tới dự các cuộc tiếp tân của Ngân Hàng nên anh có vài lần gặp Ngọc.
Tôi nói tôi có chuyện cần đến anh, Sam trả lời anh sẵn sàng
giúp tôi tất cả những gì anh có thể làm được. Mười phút sau tôi đã có mặt trong
văn phòng của Sam.
Sam yên lặng và chăm chú nghe chuyện tôi. Đợi tôi kể xong,
anh mới hỏi:
- Bây giờ anh muốn tôi làm gì?
- Tôi muốn nhờ anh tìm dùm vợ tôi.
- Tôi có thể liên lạc với Cảnh sát Saigon về việc này nhưng
trước hết muốn tìm một người chúng tôi phải có bằng chứng là người ấy mất tích
đã.
Lần đầu tiên tôi nghe nói tới hai tiếng “mất tích”, hai tiếng
mà tiềm thức tôi đã nghĩ tới mà tôi vẫn chưa dám nói với chính tôi.
Tôi rùng mình như khi nghe nói đến một cái gì mà tôi kinh sợ,
tôi hỏi lại:
- Như thế này chưa đủ để anh mở cuộc điều tra hay sao?
- Muốn tôi tìm chị ấy hoặc là bất cứ người đàn bà nào, điều cần
là chị ấy, hoặc người đàn bà ấy, phải mất tích trước đã.
- Như thế này chưa phải là vợ tôi mất tích sao?
- Tôi muốn giúp anh lắm. Anh nên nhớ như vậy. Công việc của
tôi là luôn luôn làm dùm những việc của người khác. Lẽ tự nhiên là tôi hết lòng
muốn giúp anh rồi. Anh đồng ý với tôi điều đó chứ?
Tôi gật đầu, Sam nói tiếp:
- Nhưng trong vụ này anh chưa có qua một bằng chứng nào chứng
tỏ chị ấy bị mất tích hết. Tôi không thể nào mở một cuộc điều tra, phái nhân
viên đi công tác đây đó chỉ vì bà Hoàng Tuấn, nhũ danh …
Tôi nhắc anh:
- Đỗ thị Như Ngọc … Aline Như Ngọc …
- Chỉ vì Bà Như Ngọc đi vắng không gửi tin về cho ông chồng từ
… Hoặc nói cho đúng ra là vì ông Hoàng Tuấn không nhận được tin tức gì của bà vợ
kể từ … từ một tuần lễ nay. Anh nên biết rằng có rất nhiều bà vợ hiền, yêu
thương chồng, còn để thời gian cách xa không cho chồng biết tin mình hơn thế
nhiều …
Lúc đó, nếu tôi đừng rối trí quá, nếu tôi tỉnh táo một chút,
chỉ cần một chút thôi, tôi đã nhớ ra rằng Cò Sam, người đang nói chuyện với tôi
lúc đó, đã bị bà vợ bỏ cách đây ba năm.
Nhưng lúc đó tôi không còn có thể nghĩ đến, tưởng đến cái gì
khác, ai khác ngoài Ngọc.
- Việc của tôi khác chứ …
Tôi nói lớn gần như là la lên:
- … Tôi không cần biết về những bà vợ khác. Vợ chồng tôi
khác. Chúng tôi yêu thương nhau. Chưa bao giờ nàng đi xa tôi đến ba ngày mà
không viết thư cho tôi. Như là … như là …
Lúc đó chắc tôi có cái vẻ đặc biệt của một người điên. Bởi vì
từ lúc đầu Sam vẫn nói chuyện với tôi với vẻ nghiêm trọng của kẻ đối thoại với
một người bạn đang có chuyện buồn, nay anh bỗng đổi thái độ. Anh nói với cái vẻ
hiền từ, chịu đựng của người lớn nói với đứa trẻ không biết điều, vòi vĩnh những
chuyện không thể được. Sam còn mỉm cười như để tha thứ cho cơn la hét vô lý của
tôi nữa:
- Tôi biết như vậy. Trường hợp của anh và chị Như Ngọc khác
nhiều lắm. Khổ nỗi cảnh sát bao giờ cũng cần có những bằng chứng cụ thể để mở bất
cứ một cuộc điều tra nào. Anh nói rằng Hàng Không Việt Nam cho anh biết rằng chị
Ngọc có đáp phi cơ của họ bình an xuống phi trường Tân sơn Nhất … Vậy thì làm
sao chúng tôi quyết định rằng chị ấy mất tích ở đâu đó cho được. Ít nhất chúng
tôi cũng cần có một cái gì, một lá thư, một điện tín của thân nhân của anh ở
Sàigòn chẳng hạn, báo cho anh biết rằng không thấy chị ấy tới nơi.
- Thì tôi đã đưa anh coi điện tín của Khách sạn Continental
đó?
- Trước khi đi chị ấy có gửi điện dặn giữ phòng ở Khách sạn
đó không?
Tôi phải thú nhận với Sam là không. Thật ra tôi cũng không được
biết rõ lần này Ngọc có định về ngụ ở Khách sạn Continental hay không nữa.
Sam lại nói:
- Nếu anh muốn tôi có thể nhờ cảnh sát Sàigòn tìm dùm chị ấy ở
địa chỉ của bà nhạc anh. Nhưng tôi nói trước với anh là nếu họ có làm dùm mình,
lâu lắm mới có kết quả. Vì đây không phải là một việc công. Nếu là việc chính
trị thì lại khác. Cảnh sát lúc nào cũng có nhiều việc phải làm, ấy là nếu yêu cầu
không khéo, có khi chúng tôi còn bị họ cự nữa.
- Sao anh không liệt lời yêu cầu này vào loại “khẩn” hoặc
chính trị?
- Tôi không có quyền làm vậy. Muốn yêu cầu như vậy phải là
ông Tổng giám đốc của tôi mới làm được. Anh dư biết quyền hạn của tôi chỉ thâu
hẹp ở một quận này. Nhưng theo tôi anh cần gì phải nhờ đến Cảnh sát? Việc này dễ
mà. Anh chỉ cần nhờ một người bạn nào của anh ở Sàigòn làm dùm việc anh cũng được
mà. Còn mau hơn là nhờ cảnh sát nữa. Như ông bạn thân nào của anh làm luật sư ở
Sàigòn đó …
Huy ơi, Huy hãy tha lỗi cho tôi khi Huy đọc những dòng này:
trong cơn bối rối tôi không nghĩ tới Huy. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ đến
Huy cả. Chuyện thật dễ giải quyết. Nhờ cảnh sát làm chi cho mất công, mất thì
giờ. Lời Cò Sam nói cất cho tôi cả một gánh nặng. Cái chuyện mà tôi cho là khó
giải quyết quá đó thực sự chỉ là một việc dễ như bỡn.
Tuy nhiên tôi vẫn nói:
- Một mặt tôi nhờ bạn tôi, nhưng tôi nghĩ cảnh sát có nhiều
thẩm quyền hơn chứ …?
- Nếu cần truy tầm bắt một kẻ tình nghi phạm phát hay chính
trị phạm nào tôi đồng ý với anh là cảnh sát làm việc hữu hiệu hơn, nhưng nếu
tìm tin một người nào không trốn tránh, cảnh sát đôi khi không làm nhanh bằng một
người thường. Anh cứ nhờ anh bạn của anh đi. Nếu có gì khó khăn cần đến cảnh
sát, tôi sẵn sàng giúp anh.
Tôi cám ơn Cò Sam. Nhưng tôi chỉ nhã nhặn với Y vì phép lịch
sự tối thiểu bắt buộc tôi như vậy mà thôi. Thật sự, tôi bực tức giận dữ vì Y.
Tôi thấy Y đã không tỏ ra sốt sắng trong việc giúp tôi. Tôi thì nóng như lửa đốt
mà Y thì vẫn thản nhiên. Điều đó tôi, lẽ ra không thể trách Cò Sam được vì đây
là chuyện của tôi chứ đâu có phải chuyện của Y. Ngày vợ Y đi mất, nếu Y có nhờ
gì đến tôi, chắc chắn tôi đã tỏ ra thản nhiên hơn Y bây giờ. Nhưng sau đó tôi
cũng nhận rằng Cò Sam nói đúng. Việc tìm vợ của tôi nên nhờ bạn hơn là nhờ cảnh
sát. Cảnh sát Nam Vang gửi điện xuống Cảnh sát Sàigòn, rồi nếu Cảnh sát Sàigòn
có giúp, ông Cò lớn sẽ truyền lệnh cho ông Cò con, ông Cò con sẽ truyền lệnh
cho ông Cò cháu, khi xuống đến anh lính đi tìm ít nhất thời gian cũng trôi qua
cả nửa tháng.
Tôi cũng chẳng còn cách nào hay hơn là làm theo lời khuyên của
Sam.
Nhưng cơn giận và bực bội làm cho tay tôi run và trí óc tôi bấn
loạn đến nỗi tôi không thể nào viết nổi mấy dòng điện tín gửi cho anh được gẫy
gọn và để cho anh có thể hiểu được khi đọc nó. Suốt nửa tiếng đồng hồ sau khi từ
giã Cò Sam, tôi không thể làm gì được. Tôi muốn viết thật nhiều cho anh, nhưng
một điện tín làm sao có thể nhiều lời như một lá thư …? Sau đó tôi quyết định gọi
dây nói cho anh. Nhưng cô giữ điện thoại ở nhà Bưu điện cho tôi biết rằng muốn
gọi về điện thoại tư gia ở Sàigòn tôi phải hẹn giờ trước và sớm lắm là tới sáng
mai tôi mới có thể liên lạc được với anh. Đó là chưa kể trường hợp trục trặc,
Nhà Bưu điện có khi không bảo đảm là có thể liên lạc được bằng điện thoại giữa
Nam Vang và Sàigòn.
Ý nghĩ phải chờ đợi nửa giờ thôi cũng đã đủ làm cho tôi điên
người đừng nói gì chuyện chờ đợi một ngày.
Tôi chợt nhớ đến Phúc. Anh Phúc có dặn tôi là hôm sau nhớ gọi
dây nói cho anh biết về tình trạng sức khỏe của Bà Ngà. Dường như có lần tôi đã
nói cho Huy biết rằng Anh Phúc là người có khả năng làm cho tôi dịu lại mỗi bối
rối, làm cho tôi bình tĩnh lại mỗi khi tôi gặp chuyện gì lôi thôi. Anh là người
có ảnh hưởng thật tốt với tôi. Huy có nhận thấy vậy không? Ở đời, chúng ta có
những người chuyên làm tốt, có ảnh hưởng tốt đến cuộc đời của chúng ta, và ở đời,
chúng ta cũng có những người chuyên có ảnh hưởng xấu đến đời chúng ta. Có những
kẻ đang yên lành mà ta gặp họ là y như rằng đời ta có chuyện xấu xa, rắc rối.
Tôi có ít người bạn có ảnh hưởng xấu, nhưng chắc chắn là tôi có hai người bạn
có ảnh hưởng tốt cho đời tôi. Hai người đó là Huy và anh Phúc.
Phúc đã nhiều lần gỡ rối cho tôi, cũng như Huy đã nhiều lần
đem lại cho tôi niềm tin tưởng và tình yêu đời. Không ngần ngại, tôi gọi ngay
dây nói tới Phúc.
Một lần nữa tôi kể lại cho Phúc nghe câu chuyện của tôi từ đầu
đến cuối. Tôi kể luôn cho Phúc nghe chuyện tôi mới gặp Cò Sam và lời Cò Sam
khuyên tôi. Phúc nghe. Anh không hỏi tôi thêm một câu, anh nói ngay:
- Còn chờ gì nữa … anh phải về Sàigòn ngay.
Tôi hỏi lại một cách ngớ ngẩn:
- Tôi về Sàigòn?
- Phải. Anh phải về dưới ngay. Nếu chị ấy mất tích … tôi nghĩ
rằng anh lo sợ là đúng … chỉ có mình anh mới có thẩm quyền làm mọi chuyện cần
thiết để tìm ra chị ấy … Và để giúp chị ấy. Bạn anh, Luật sư Trần Huy, sẽ giúp
anh được rất nhiều, nhưng việc này có thể còn có nhiều rắc rối và mất thì giờ,
khó khăn nữa. Phải là anh tìm chị ấy mới được.
Phúc nói thật đúng.
Nhưng vì một lý do thật khó nhìn nhận, tôi vốn hèn nhát, chắc
Huy biết là tôi vốn hèn nhát hơn ai hết, tôi vốn sợ sự thật, sợ trách nhiệm,
tôi ngần ngại:
- Tôi về dưới thì … ai lo công việc của sở trên này?
- Anh có thể nghỉ một tuần, nửa tháng … Chúng ta nghỉ phép
hàng năm là chuyện thường. Nếu anh đau ốm hay gặp tai nạn, thì ta cũng phải nghỉ
vậy. Ngân hàng vẫn có thể hoạt động đều, dù cho chúng ta có vắng mặt cả tháng.
Hai nữa, trong tình trạng bối rối tinh thần của anh lúc này, anh có đi làm cũng
chẳng có lợi gì cho sở.
Phúc nói thêm bằng một giọng thật hiền và tràn đầy tình
thương mến:
- Anh cứ yên tâm về Sàigòn đi. Nếu các ông ở bên anh có phiền
hà gì, đã có tôi. Nói thế thôi, tôi tin là không có gì đâu. Anh có thể hoàn
toàn tin ở tôi.
Nếu lúc đó anh Phúc đứng ngay trước mặt tôi, tôi đã nhẩy tới
ôm chầm lấy anh, hôn anh như tôi là một đứa trẻ ôm hôn người thân yêu nhất đời
của mình. Nghe anh nói thế, tôi cảm động đến nỗi tôi chỉ ấp úng không nói rõ được
lời nào để cám ơn anh.
24 tiếng đồng hồ sau đó trôi qua trong đời tôi với nhiều chuyện
làm cho tôi bận rộn đến nỗi tôi tạm quên được gần hết nỗi lo âu của tôi.
Tôi phải ở lì văn phòng Sở gần 8 tiếng đồng hồ để đọc cho cô
thư ký ghi bằng tốc ký chừng 50 bức thư trả lời những vụ cần thiết nhất, nói
qua cho Lê Tâm, người phụ tá của tôi biết qua những việc đang cần giải quyết để
anh thay mặt tôi lo việc. Tôi phải gọi dây nói tới Hàng Không Việt Nam để giữ
chỗ trên chuyến phi cơ về Sàigòn ngày hôm sau và gửi Sổ Thông Hành của tôi đi
xin chiếu khán về nước. Tôi nhờ người gửi điện về cho Huy hay là tôi sắp về tới
và giữ phòng ở khách sạn. Đêm tới tôi về nhà lo sửa soạn hành lý …
Tâm giúp tôi nhiều trong 24 tiếng đồng hồ ấy. Phúc và Tâm làm
cho tôi hoàn toàn yên tâm về công việc. Tâm lái xe đến nhà tôi vào lúc sáng sớm
đưa tôi đi ăn sáng rồi đưa tôi ra phi trường. Tâm ở lại với tôi cho tới lúc tôi
xách cập theo cô tiếp viên áo xanh ra phi cơ. Nhờ Tâm và sự có mặt liên tục của
anh bên tôi, cuộc sửa soạn để ra đi của tôi trôi đều và tôi không phải chịu nỗi
khổ tâm là nhớ lại từng giây, từng phút chuyến tôi đưa tiễn Ngọc đi hôm nào.
Phúc cũng thân tới phi trường đưa tiễn tôi.
Không một giây phút nào tôi nhìn Phúc và Tâm mà lại nghĩ rằng
đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy họ, cũng như tôi vẫn tin rằng qua bao nhiêu
rắc rối tôi cũng sẽ trở về cùng với Ngọc.
Trong phòng ăn của phi cảng, Phúc còn nói với tôi và cả ba
chúng tôi cùng cười:
- Chúng ta đang sống trong những giây phút mà người ta gọi là
… “suýt-păng” của đạo diễn Hít-cốc đây. Nhưng tôi tin rằng sau cùng sẽ chẳng có
chuyện gì bi thảm xẩy ra với chúng ta hết. Chị Ngọc chắc sẽ ngạc nhiên nhiều và
sẽ rất sung sướng khi chị ấy biết chúng mình cuống quýt đi tìm chị ấy như thế
này. Anh chị sẽ có dịp mừng mừng, tủi tủi đoàn tụ với nhau và anh sẽ có dịp hưởng
lại một tuần trăng mật mới. Anh chị lấy nhau đã năm năm rồi, đây đúng là lúc để
hưởng tuần trăng mật thứ hai đây. Người ta nói “Tân thú bất như viên quy” … Anh
Tâm có hiểu là gì không? Các cụ Ta và Tầu ngày xưa “suya” thật. Các cụ nói theo
kinh nghiệm nên đúng lắm. Câu xổ Nho tôi vừa nói đó có nghĩa là: “Vợ mới không
thú bằng vợ chồng xa nhau gặp lại nhau” … Vợ mới cưới không thú bằng … vợ cũ
khi mình đi xa lâu mới về … Hơi hướng, thèm muốn, nhớ nhung nhau … Hai anh chị
sẽ yêu nhau hơn trước. Tôi không có vợ nên vợ mới tôi không được hưởng mà cái
thú đi xa về tôi cũng không có nốt. Đừng nói lấy vợ là khổ … Người ta chỉ khổ
khi nào vợ chồng không yêu nhau mà phải gần nhau, hoặc là khi đã hết còn yêu
thương nhau kia …
Chúng tôi bắt tay nhau lần cuối đúng chỗ hôm nào cách đấy
chưa lâu tôi đã hôn Ngọc. Đúng bẩy ngày sau ngày Ngọc đi, tôi đi theo nàng,
cùng giờ, cùng chỗ, mà có thể là cùng cả chiếc máy bay nữa.
– 3 –
Sau cảm giác căng thẳng thần kinh kéo dài từ cả một tuần lễ vừa
qua, đột nhiên, tôi cảm thấy một sự mệt mỏi lớn lao. Mệt đến như chưa bao giờ mệt
thế. Lúc đang mệt mỏi đó, nếu có ai báo cho tôi biết rằng khi xuống phi trường
Tân sơn Nhất tôi sẽ thấy Ngọc đứng chờ đón tôi, có lẽ tôi cũng không đủ cả sức
để mà mừng rỡ.
Khi lên phi cơ và khi phi cơ đã bay đi, tôi không thể nào ngủ
được mặc dầu tôi rất mệt. Tôi cố gắng bắt tâm trí phải nghĩ tới những chuyện gì
khác, tôi cố nhìn những hành khách quanh tôi để quên Ngọc, nhưng nhìn họ tôi lại
chỉ thêm tưởng tượng ra Ngọc.
Tôi tưởng tượng ra Ngọc ngồi trong phòng phi cơ này trước đây
một tuần. Phi cơ chật ních hành khách nhưng không có một khuôn mặt nào, đàn ông
cũng như đàn bà, làm cho tôi phải chú ý. Trừ một người.
Người đó là một thiếu phụ trạc tuổi Ngọc, nàng hao hao giống
Ngọc. Nàng đi một mình, và tôi thấy nàng dường như có một điểm giống tôi, hình
như nàng cũng có chuyện gì lo âu. Nét lo sợ, khắc khoải, suy tư hiện rõ trên nét
mặt nàng. Nhìn nàng tôi có cảm giác như nhìn một cô gái nhỏ bị bỏ rơi.
Và nhìn người thiếu phụ xa lạ ấy, tôi tưởng nhớ lại Ngọc, người
đàn bà tôi yêu dấu nhất đời, người mà tôi quen thuộc như chính bản thân tôi vậy.
Tôi thắc mắc tự hỏi không biết trong năm năm trời chung sống vừa qua, có bao giờ
tôi nhìn thấy nét ưu tư hay chán chường trên mặt Ngọc hay không. Ngọc có bao giờ
tỏ ra chán đời không? Không. Chắc chắn là không.
Ngọc là người yêu đời, nàng kiêu hãnh và tự tin. Tôi nghiệm
thấy những người nào kiêu hãnh và tự tin không bao giờ chán đời, ít khi bi
quan. Người kiêu hãnh không mấy khi than thở về đời sống của mình hoặc của người.
Chưa bao giờ tôi nghe tiếng Ngọc than thở về những nỗi khổ đau của nàng. Đến
bây giờ hồi tưởng lại tôi mới thấy rằng dường như Ngọc không bao giờ đau khổ.
Vậy mà … trong cơn buồn lo, bối rối của tôi, tôi không tìm thấy
cái gì khác giữa người thiếu phụ xa lạ đang lo âu kia và Ngọc.
Tôi tưởng tượng ra vợ tôi dưới nét mặt âu lo của người đàn bà
xa lạ kia.
Rất có thể là trong chuyến đi cách đây một tuần của nàng từ
Nam Vang về Sàigòn, Ngọc cũng ngồi âu lo như vậy, và rất có thể là một gã đàn
ông nào đó đã gợi chuyện làm quen với vợ tôi cũng như tôi đang nghĩ đến chuyện
gợi ý làm quen với người thiếu phụ này. May sao chỗ tôi và chỗ người thiếu phụ
kia ngồi cách xa nhau, tôi trông thấy nàng nhưng dường như nàng không biết là
có tôi đang nhìn nàng. Và biết đâu Ngọc, vợ tôi, lại chẳng mất tích chỉ vì trên
phi cơ về nước thăm mẹ, nàng đã nói vài lời với một gã đàn ông lạ …?
Tôi chợt rùng mình tỉnh lại.
Chỉ cần tôi nghĩ bậy như vậy về Ngọc cũng đủ cho tôi thấy rằng
thần kinh tôi bị rung động và mất quân bình đến là chừng nào.
Vợ tôi nhất định không phải là một người đàn bà lẳng lơ đến
cái độ có thể đi vào một cuộc phiêu lưu ái tình bậy bạ. Người chồng biết tự trọng
nào cũng tin ở tình yêu và lòng chung thủy của vợ mình, nhưng riêng tôi, tôi có
lý do để tin vợ tôi hơn ai hết.
Tôi vội nghĩ sang chuyện khác. Có lẽ anh Phúc nói đúng. Chắc
Ngọc, giờ này, đang ở bên giường bệnh của Bà Ngà, và nàng sẽ ngạc nhiên nhiều,
ngạc nhiên lắm, khi thấy tôi xách va ly tìm đến nhà. Nàng sẽ cảm động, nàng sẽ
giải thích trong vài lời cái lý do làm cho tôi không có tin tức của nàng và tất
cả những lo âu này sẽ tan biến đi như một cơn ác mộng.
Tôi cố nghĩ tới viễn ảnh tươi sáng đó.
Và tôi kinh hoàng nhận thấy là ngay lúc này, mới cách xa nhau
mới mấy ngày, tôi đã thấy khuôn mặt và nét mặt của Ngọc như mờ, như xa, như lạ
lắm. Tôi thấy tôi không còn quen thuộc mấy với nét mặt của Ngọc như tôi tưởng.
Tôi nằm ngả hẳn đầu lên thành ghế, mắt nhắm lại để tưởng tượng
ra nét mặt Ngọc. Và những nét mắt, mũi, miệng … của Ngọc mờ mịt, lẫn lộn vào
nhau. Đáng sợ và kỳ lạ nhất là những nét mặt riêng của Ngọc lại mờ lẫn với nét
mặt của người thiếu phụ xa lạ ngồi kia. Tôi cố gắng nhớ đến mặt Ngọc, nhưng
càng cố gắng, tôi càng thấy tâm trí mờ mịt. Sau cùng tôi ngủ thiếp đi.
Tôi ngủ một giấc nặng nề, say sưa, ngủ như người chết rồi.
Tôi tỉnh lại khi phi cơ sắp hạ cánh xuống phi trường Tân sơn
Nhất. Trong vài giây đồng hồ đầu tiên tôi hoang mang không còn nhớ rõ tôi đang
ngồi ở đâu, đang làm gì? Tôi nhìn quanh và thấy đông người, ai nấy đều ngồi im
trên ghế và đèn sáng chung quanh, tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trong một rạp
hát bóng và tôi đã ngủ chợp đi trong rạp và bây giờ phim đã hết, đèn đã bật
sáng, tôi nên ra về.
Quên hẳn là mình đang ở trên phi cơ, tôi loạng choạng đứng dậy
định bước ra khỏi hàng ghế, cho đến khi cô tiếp viên hàng không áo xanh tới ra
hiệu cho tôi ngồi xuống và thắt dây lưng, tôi mới nhớ.
Trời bình minh bắt đầu có nắng vàng chiếu chan hòa phi trường
khi phi cơ hạ cánh và ngừng bánh trước cửa phi cảng. Tôi nhanh nhẹn xách cặp bước
xuống sân nhựa. Giấc ngủ vừa qua làm cho tôi tỉnh táo hẳn lại.
Từ ngày lên Nam Vang lập nghiệp: “Nam Vang đi dễ khó về. Trai
đi có vợ gái về có con …” tôi đã nhiều lần về Sàigòn vì công việc. Nhưng chưa
bao giờ tôi thấy phi cảng Tân sơn Nhất đẹp bằng trong buổi sáng sớm có nắng
vàng hôm nay.
Anh chàng Hoàng Tuấn nhanh nhẹn, tháo vát của Đội Báo − Đội
Hướng đạo sinh mà Huy làm đội trưởng ngày xưa − đã chiến thắng anh chàng Hoàng
Tuấn “cù lần” lo sợ vẩn vơ. Trông tôi xuống phi trường lúc đó không ai có thể
ngờ được rằng tôi là một kẻ yêu thương vợ nhất đời và vừa mới mất tin vợ, đang
lo âu đến phát điên vì vợ, đang nhớ vợ. Tôi quên bẵng mất người thiếu phụ cùng
đi trên phi cơ mà tôi thấy có vài điểm hao hao giống vợ tôi. Vừa vào tới phi cảng,
nàng đã biến mất. Có lẽ nàng có người nhà ra đó đón và người nhà nàng quen với
những nhân viên kiểm soát ở phi cảng cho nên nàng đi qua phòng kiểm soát mau
hơn tất cả mọi người.
HUY… Tôi vui mừng được gặp lại Huy. Phải nói rằng ý nghĩ sắp
gặp lại Huy, sắp được sống gần Huy nhiều ngày không có công việc gì làm chia
cách – tôi vẫn tin rằng tôi sẽ dễ dàng tìm được Ngọc và chúng ta sẽ có dịp cùng
sống vui với nhau ít ngày, có thể chúng ta sẽ cùng đi Đàlạt – đã làm cho tôi hứng
khởi suốt chuyến đi. Tôi vẫn muốn chúng ta gặp nhau trong những dịp khác vui
hơn, nhưng con người ta vẫn vậy, chỉ khi nào buồn phiền, chúng ta mới thấy những
lúc vô sự, không âu lo là vui sướng. Khi tôi trông thấy Huy đứng chờ tôi trong
phi cảng, tôi cảm thấy trái tim tôi chan hòa một niềm vui ngọt như mật.
Trông thấy Huy, tôi mừng vui và sung sướng như tôi được thấy
một phần Ngọc.
Nhưng nỗi vui mừng ấy, tôi nói thật, Huy đừng nên giận tôi,
Huy không giữ nổi cho nó sống được lâu trong lòng tôi. Chỉ mười phút sau, khi
chúng ta đã bắt chặt tay nhau, khi tôi ngồi trong chiếc xe hơi của Huy chạy
trên đường từ phi trường về thành phố, tôi lại cảm thấy buồn và cô đơn. Ngồi
bên Huy, tôi vẫn thấy buồn và cô đơn hơn bao giờ hết. Như vậy tôi có bất công
không? Có phải là lỗi ở tôi hay không? Tuy có Huy ở bên tôi vẫn nghĩ và thấy rằng
tôi đang có một cuộc chiến đấu tuyệt vọng và tôi phải một mình chiến đấu, đơn độc
và vô vọng, không một người nào, kể cả Huy nữa, có thể giúp được tôi trong cuộc
chiến đấu này.
Như tất cả các bạn thân của tôi đều đã mất tích, như tôi
không còn ai thân nữa.
Tôi đã mất tất cả, như tôi đã mất Ngọc.
Huy có còn nhớ những lời chúng ta nói với nhau buổi sáng đó
không?
Tôi kể cho Huy nghe những chuyện vừa xẩy ra trong đời tôi và
Huy tỏ ra ngạc nhiên nhiều. Nếu người kể chuyện đó không phải là tôi, chắc chắn
Huy đã không tin. Huy ngạc nhiên nhất là việc Ngọc đã đi vắng cả tuần lễ mà
không cho tôi biết là nàng đi đâu, ở đâu, làm gì? Sự ngạc nhiên này của Huy
càng làm cho nỗi lo âu về tình trạng của Ngọc trong lòng tôi tăng thêm. Huy cho
tôi biết là từ ngày đó, ngày Ngọc về tới Saigon bằng phi cơ Hàng Không Việt
Nam, nàng không tới thăm Huy và cũng không hề cho Huy biết tin.
Huy khuyên tôi nên tới ngay nhà bà mẹ vợ tôi. Huy bận vụ kiện
đang xử ở Tòa nên không thể cùng đi với tôi được, nhưng chúng ta hẹn nhau đến tối
gặp nhau và cùng đi ăn bữa tối.
Huy lái xe đưa tôi về khách sạn Continental. Tôi chỉ lên
phòng thay bộ đồ khác, rửa mặt qua loa, xuống nhà hàng uống một ly cà phê đậm,
tôi không ăn gì được rồi nhẩy vào một chiếc xe tắc xi đi luôn.
Vào khoảng nửa năm nay, tôi không về Saigon. Sàigòn, hôm nay,
với sự có mặt của binh sĩ Đồng Minh, đang kiến thiết nhiều và thay đổi quá rõ
trước mắt một người Sàigòn đi xa lâu ngày mới về.
Nhiều bin-đinh lừng lững mọc lên ở những nơi mà lần trước về,
tôi thấy còn là bãi hoang hoặc có những xóm nhà lụp xụp, tồi tàn. Và nhất là
Sàigòn có nhiều Snack-bar. Xe tắc xi dường như trở nên hiếm. Tôi phải chờ khá
lâu ở đầu đường Tự Do mới tìm được một chiếc tắc xi không có khách.
Từ ba năm nay, nghĩa là từ sau ngày tôi và Ngọc kết hôn, Bà
Ngà sống trong một tòa nhà ở Trường Đua Phú Thọ. Trước ngày Ngọc thành vợ tôi,
Bà Ngà cư ngụ trong một vi la ở gần trung tâm Sàigòn, nhưng về sau, vi la đó trở
thành quá đắt đối với một bà góa sống một mình nên Bà đổi lên sống ở chỗ mới.
Tôi chưa tới nhà mới của Bà lần nào song qua những lời nói chuyện của Ngọc, tôi
biết qua đó là một loại nhà nhiều tầng, chia ra làm nhiều phòng cho mướn. Bà nhạc
tôi ở đó một mình, đi khóa, về mở, tiện hơn.
Khi chiếc tắc xi lăn bánh trên đường Lý Thái Tổ tiến gần về
phía Trường Đua, tôi lại cảm thấy bồn chồn, hồi hộp. Những cảm giác trước là lo
âu, sợ hãi, hoang mang, đến lúc này tôi mới cảm thấy hồi hộp. Vì tôi sắp đi gần
tới đích.
Tôi sắp được “biết” – chưa biết là tôi sắp được “biết” chuyện
gì, tin gì ở đầu con đường này, nhưng chắc chắn là tôi sắp được biết một điều
gì đó quan trọng, hoặc ít nhất cũng có liên hệ nhiều đến vợ tôi và sự vắng mặt
đầy nghi vấn của nàng.
Tôi sắp gặp Bà Ngà, hoặc ít nhất tôi cũng sẽ gặp một người
nhà nào đó nếu Bà Ngà đau nặng và phải đi nằm nhà thương, và người đó sẽ nói
cho tôi biết vợ tôi hiện ở đâu, nàng có về đây hay không. Mà chắc chắn là vợ
tôi phải về đây trước nhất. Nàng về đây rồi có đi đâu nàng mới đi. Người ta sẽ
chỉ cho tôi nơi để tôi tới kiếm nàng. Sàigòn này tuy là thành phố lớn nhất Đông
dương, cũng chỉ là một thành phố mà người ta có thể đi bằng xe tắc xi từ đầu nọ
đến đầu kia trong vòng hai tiếng đồng hồ. Trưa nay, tôi sẽ được gặp Ngọc.
Và trưa nay, chậm lắm là trưa nay, bây giờ là 10 giờ sáng, giờ
Sàigòn trên mặt chiếc đồng hồ Eternamatic của tôi, tôi sẽ gặp Ngọc. Và chính miệng
Ngọc, bằng những lời ngọt ngào, êm dịu của nàng, sẽ nói cho tôi biết lý do tại
sao tôi lại không nhận được tin tức gì của nàng từ một tuần nay.
Người Sàigòn đi lại thật đông. Trời nắng đang đẹp. Nắng xuyên
qua những tàn cây đùa trong tà áo của những nàng thiếu nữ đi học về trên những
chiếc xe Solex. Nhìn những cô nữ sinh đó, tôi lại nhớ đến những ngày nào xa xưa
chúng ta đạp xe máy đi theo những nàng nữ sinh áo trắng của những Trường Trưng
Vương, Sainte Mary Hà nội, những buổi sáng mùa thu nắng vàng thật đẹp đạp xe đi
theo các nàng quanh Hồ Gươm … Rồi hình ảnh của Ngọc lại hiện ra, tôi nhìn những
nữ sinh đó và tôi như trông thấy Ngọc ngày nào năm xưa cũng đạp xe đến trường
như vậy. Ngọc đã từng đi học ở Sàigòn. Nàng là nữ sinh Gia Long. Rất có thể là
trước đây mười năm, chính nàng đã nhiều lần đạp xe đi với các cô bạn đồng tuổi
trên con đường nắng đẹp này.
Xe chạy tới trước cửa Trường Đua. Tôi nhớ mang máng địa chỉ
nhà Bà Ngà ở đâu quanh đây. Tôi nghĩ đi bộ tìm nhà tốt hơn nên bảo xe ngừng lại.
- Ông cho năm mươi đồng.
Nghe ông tài xế tắc xi nói thế, tôi ngạc nhiên vì tôi nhớ lần
trước về Sàigòn, tôi đi tắc xi và không thấy giá xe đắt quá đến như thế. Tuy ở
Nam Vang và tuy cuộc bang giao giữa hai chánh phủ Sàigòn và Nam Vang có không
được tốt đẹp mấy song nhờ làm việc trong cơ sở tư ngoại quốc được cả hai chánh
phủ vị nể, nên tôi vẫn có nhật báo ở Sàigòn gửi lên đọc đều đều. Do đó tôi đọc
thấy trên các báo những lời than phiền là hồi mới đây, kể từ ngày Sàigòn có
bóng dáng binh sĩ ngoại quốc đông đảo, những binh sĩ này nhiều tiền, chịu chi,
nên anh em tắc xi chỉ thích chạy xe chở họ. Và vì tình trạng cung cầu chênh lệch,
người đi xe nhiều mà xe có ít nên sanh ra chuyện các ông tắc xi không chạy theo
đồng hồ tính tiền nữa mà là chạy theo cuốc. Tiền xe tùy các ông tài định đoạt.
Tôi quên bẵng chuyện đó đi, nhưng tôi cũng móc tiền ra trả.
Khi chiếc tắc xi đã chạy đi bỏ tôi lại đầu đường, tôi mới nhớ đến chuyện tôi đã
được đọc trong các nhật báo về việc các xe tắc xi tại Sàigòn không chạy xe theo
đồng hồ tính tiền trong xe nữa.
Tôi đứng một mình trước cửa Trường Đua, những cánh cổng đóng
im ỉm. Bãi cỏ cao có nhiều chỗ cháy xém. Tôi đón hỏi một chú có vẻ là sinh viên
đi ngang con đường mà tôi nhớ là có tòa nhà của bà Ngà.
Chú chỉ cho tôi con đường ngay trước mặt.
Đó là một con đường cụt, dài chừng hai trăm thước. Trong đó
tôi chỉ thấy có mỗi một tòa nhà lớn. Nhưng trông tòa nhà ấy có nhiều vẻ tiêu điều.
Những cánh cửa sổ trên mặt tiền tòa nhà cao bốn tầng ấy đóng kín. Vẻ tiêu điều,
vắng lặng của tòa nhà cho tôi cái cảm nghĩ đó là một tòa nhà không có người ở.
Cảm nghĩ đó làm cho nỗi lo âu trong tôi chợt tăng thêm.
Tôi nhìn lên tấm bảng tên đường gắn trên thân cột đèn đầu ngõ
và thấy khác với cái tên phố tôi muốn tìm. Tôi hỏi cậu sinh viên:
- Đây không phải là phố đó? Tên phố trên bảng khác mà …?
- Tên phố mới đổi. Đúng đó mà. Tôi ở đây tôi biết.
Tôi chỉ tòa nhà:
- Có phải bin-đinh kia có phòng cho mướn không cậu?
Có lẽ tưởng tôi là người đi mướn phòng, cậu ta đáp:
- Phải đấy. Nhưng hồi mới đây hình như người ta đuổi khách Việt
Nam đi để sửa nhà lại cho Mỹ mướn thì phải. Tôi thấy hồi này ít còn người Việt ở
trong đó lắm. Chắc họ không cho người Việt mướn nữa đâu. Ông cứ vô hỏi coi, mất
gì …
Khi nghe nói câu đó trong lòng tôi đã lờ mờ nghĩ đến chuyện
Bà Ngà đã dọn nhà đi nơi khác. Tôi không dám nghĩ đến chuyện đó lâu, vì tôi sợ.
Tôi sắp đi tới đích nhưng cái đích đó lại đe dọa lùi xa.
Nếu Bà Ngà đi nơi khác, chắc rồi tôi cũng tìm ra, nhưng tôi lại
phải mất thêm một thời gian đợi chờ, tìm kiếm nữa.
Với tâm trạng âu lo đó tôi bước những bước nặng nề trên con
đường chưa trải nhựa đi tới cửa vào tòa nhà. Đúng như cảm nghĩ đầu tiên của tôi
khi tôi để mắt trông thấy tòa nhà đó, nó không có người ở, hoặc chỉ còn rất ít
người ở. Từng đống vật liệu, gạch đá đã được sắp sẵn quanh nhà chờ sửa lại nhà.
Cửa chính ra vào bin-đinh đóng kín. Nhìn qua khung cửa sắt vào nhà, tôi thấy cầu
thang và lối đi đầy rác bẩn có cả nước trôi lõng bõng trên những bậc cầu thang.
Dường như người ta đã cúp điện và cúp cả nước máy vào tòa nhà này.
Tôi nghĩ đến chuyện chủ nhà đuổi nhà. Biện pháp cúp điện nước
là một biện pháp hữu hiệu nhất dùng để tống khứ ra khỏi những bin-đinh những
thân chủ không còn được coi là tốt tiền nữa. Người thanh niên tôi vừa hỏi thăm
nói đúng. Những người Việt Nam cư ngụ trong tòa bin-đinh này đang bị chủ nhà đuổi.
Những người còn ở lại là những người gan lì nhất hoặc không có phương tiện đi
mướn nhà khác.
Tôi đứng xớ rớ mãi ở đó.
Tôi đi vòng ra sau bin-đinh. Ở đây tôi thấy mấy đứa nhỏ chơi
nghịch trên một đống cát cao như núi. Tôi hỏi đứa lớn nhất. Đó là một đứa con
gái:
- Tôi muốn hỏi ông gác dan. Ông gác dan ở đâu em?
Như một lũ trẻ con vừa câm vừa điếc, hoặc như những đứa nhỏ
nghe nói tiếng ngoại quốc, bọn trẻ trố mắt nhìn tôi.
Tôi nhắc lại câu hỏi đến hai ba lượt chúng cũng vẫn không trả
lời.
Chợt tôi nghe tiếng người:
- Cái chi?
Tôi quay lại. Người đàn ông là một anh Chà lai. Chắc là lai
Miên. Mặt anh ta đầy vẻ tàn nhẫn và đôi mắt anh tràn đầy nghi ngờ. Anh Chà này
cho tôi có một linh tính xấu về cuộc đi tìm người của tôi. Xuất hành mà gặp anh
Chà này thì nguy rồi.
Tôi bước tới. Anh Chà nói ngay, giọng nói trơ trớ, ngọng ngọng
của anh ta nghe thật trối tai:
- Không có cho mướn đâu. Đừng hỏi mất công.
Tôi nén bực bội để hỏi:
- Không. Tôi không tới mướn nhà. Tôi hỏi thăm một người trước
ở đây, chú làm ơn chỉ dùm bà ấy còn ở đây không …
Anh ngắt lời:
- Đi hết trơn rồi.
- Chú gác dan ở đây phải không?
Anh gật đầu.
- Chú có biết một bà trước kia ở đây. Bà ấy tên là Bà Ngà, bà
ấy đã khá nhiều tuổi rồi … Bả ở một mình thì phải. Bả người thấp một chút …
- Biết số phòng bao nhiêu không?
- Không.
- Bao nhiêu là người ở đây. Hỏi vậy làm sao nói …
Anh xua xua tay đuổi tôi đi:
- Mà cũng đi hết rồi, không còn ai ở đây nữa …
Tôi cố bám lấy tia hy vọng nhỏ nhoi:
- Chú có biết bà ấy dọn đi đâu không?
- Làm sao biết được?
Anh ta thốt ra một câu chửi thề ngon lành.
Như sợ tôi lén vào tòa nhà quí báu của anh, anh gác dan thô bỉ
cứ đứng đó mặc dầu anh cố trình bầy một bộ mặt để tống khứ tôi đi. Tôi cố nén
giận để đứng lại, để hỏi thêm. Vì thực ra, tôi quen biết rất ít về bên họ hàng
của Ngọc. Có thể nói là trừ Bà Ngà là mẹ vợ tôi ra, tôi không còn quen biết ai
là thân nhân của nàng hết.
- Chú nhớ dùm tôi coi … Bà Ngà, bà ấy thâm thấp … người trắng
…
- Đã bảo là không có biết …
Chợt một giọng nói vang lên sau lưng tôi:
- Ông hỏi ai thế?
Tôi quay lại, người hỏi tôi là một chàng thanh niên trạc hai
mươi nhăm hai mươi sáu tuổi, có vẻ dễ thương và khinh bỉ, ác cảm với tên gác
dan ra mặt.
- Tôi muốn hỏi thăm một người, một bà … ở trong nhà này …
Chàng hất hàm ra hiệu cho tôi đi theo:
- Ông hỏi mấy thằng khốn nạn gác cổng này làm gì …
Chàng nói lớn, dường như cố ý cho tên Chà lai Miên nghe tiếng.
- Bọn chủ nhà khốn nạn đang đuổi chúng tôi để lấy nhà lại cho
các bố Mẽo chúng nó ở. Chúng nó cúp hết cả điện lẫn nước … Bọn khốn nạn … Nước
mình có mất không phải là vì bọn Việt cộng hay hớm gì mà là vì những bọn con
buôn này …
Tôi thấy cần phải dẹp cơn nóng nẩy của tôi lại để chia sẻ nỗi
bực giận của chàng:
- Tôi mới ở trên Nam Vang về. Tôi có nghe nói hồi này ở
Sàigòn nhà cho mướn hiếm lắm, nhưng tôi không ngờ người ta lại đuổi nhà quá thế
này.
- Bọn chúng nó khốn nạn lắm … Ông mới ở Nam Vang về đấy à …?
Tôi theo chàng lạ mặt đi về phía đường. Chúng tôi đứng bên vệ
đường, dưới hàng cây. Không hiểu sao tôi nghĩ rằng người thanh niên lạ này
chính là người tôi cần gặp, và chàng có thể giúp tôi được nhiều trong việc tôi
đi tìm Ngọc. Mà thực vậy, tôi chỉ còn trông cậy vào cái hy vọng thật mỏng manh
này.
Tôi chờ chàng ta cất tiếng:
- Ông nói ông tới đây tìm ai?
Tôi vội vã:
- Bà mẹ vợ tôi … Bà ấy tên là Bà Ngà … đã có tuổi rồi … nhưng
vẫn sống một mình …
Chàng gật đầu:
- Tôi không quen nhưng có biết bà ấy … Tôi là Thổ công trong
nhà này, tôi biết tất cả mọi người đã sống ở đây. Tôi tới ở đây đầu tiên mà … Đến
bây giờ tôi cũng là người cuối cùng đi ra khỏi đây …
- Bao giờ ông định đi?
- Chủ nó đuổi chúng tôi đi lâu rồi, nhưng tôi và mấy thằng bạn
tôi ở cù nhầy, thêm được ngày nào hay ngày ấy … Ông không thấy nó phong tỏa
chúng tôi bằng cách cắt nước cắt điện cho tối om đó sao?
Anh chàng đột ngột:
- Bà mẹ vợ ông dọn đi từ lâu rồi …
Tôi choáng váng:
- Lâu … là từ bao giờ?
- Cách đây khoảng nửa năm. Mới có chuyện đuổi nhà là bà ấy đi
ngay. Bà ấy là một trong những người đầu tiên rời khỏi bin-đinh này … Bà ấy có
tiền mà … Chỉ có bọn nghèo mạt như chúng tôi là cố chịu đấm ở lại thôi …
Chàng nhún vai:
- Ông bảo nhà cửa ở Sàigòn này bây giờ … Mỹ, Đại hàn, Phi luật
Tân đến đông quá … Chúng nó ham tiền, đuổi hết đồng bào đi, lấy nhà lại, cho
ngoại kiều mướn, lấy tiền nhiều hơn gấp cả chục lần … Bọn nhà văn, nhà báo
chúng tôi lấy tiền đâu mà sang? Có Tây cũng không đấu tiền được với mấy anh Mẽo.
- Ông là nhà báo?
Anh chàng gật đầu:
- Nhà báo nghèo …
- Ông có biết Bà Ngà … bà mẹ vợ tôi dọn nhà đi đâu không ông?
Chàng lắc đầu:
- Tôi không biết, nhưng hình như có thằng bạn tôi nó biết.
Ông có cần gặp bà ấy gấp lắm không? Tôi chỉ cho ông đến hỏi thằng bạn tôi, nó
cũng làm báo … Ông có thể gọi điện thoại đến cho nó …
Chàng kéo tay tôi đi về sạp bán báo ở ngã tư đường:
- Ông ra đây mua tờ báo, lấy số điện thoại của nó. Tôi chúa
hay quên … Ông có hỏi số điện thoại của chính tòa báo tôi, tôi cũng không nhớ …
Lại một tia hy vọng nữa lóe sáng trong bóng tối mù mịt của cuộc
đi tìm. Tôi đi từ hy vọng đến thất vọng và ngược lại. Nhưng không sao, miễn là
tôi còn hy vọng. Con người ta chỉ đau khổ, chỉ có thể chết nếu con người không
còn hy vọng. Nhưng ngay khi đã tuyệt vọng rồi, con người vẫn còn tự bầy cho
mình hy vọng để đánh lừa chính mình. Lúc đó có lẽ tôi chính là một kẻ tự cho
mình hy vọng, những hy vọng mà thật ra tôi không thể có.
Tôi cầm tờ báo và cái tên của một phóng viên nhà báo mà tôi
chưa bao giờ quen biết trở lại trung tâm của Sàigòn. Tôi về Nhà Bưu điện để gọi
điện thoại về tòa báo và chừng nửa giờ sau, tôi đã tìm được địa chỉ mới của Bà
mẹ vợ tôi.
Bà Ngà, sau thời gian ngụ tại bin-đinh gần Trường Đua, dời về
số nhà 118 đường Hoàng Tử Cảnh.
CHƯƠNG 2
S
ài gòn ngày tôi ra đi cách đây năm năm, còn là một thành phố
có những tên đường Tây như Mayer, Général Lizé, Éryaud des Vergnes, Dixmude, Cầu
Mac Mahon v.v…
Bây giờ, tất cả những tên đường phố đều đã được đổi thành tên
danh nhân Việt Nam, tôi không thể biết đường Hoàng tử Cảnh nằm ở khu nào của
thành phố. Từ phòng máy điện thoại ra, tôi hỏi thăm ngay mấy người đứng bên
ngoài, không một ai biết đường Hoàng tử Cảnh ở đâu. Họ chưa từng nghe nói đến
tên con đường ấy. Họ khuyên tôi ra ngoài hỏi mấy ông tắc xi.
Tôi trở ra cửa nhà Bưu điện.
Lúc đó kim đồng hồ trước cửa nhà Bưu điện chỉ 12 giờ.
Tắc xi ở Sàigòn thật hiếm. Người ta tranh cướp nhau vào xe
trước cửa nhà Bưu điện, bất chấp cả lịch sự. Đàn bà có con nít đi theo và bà
già mặc, có xe tới, các cậu, các cô trẻ tuổi nhào vô ngay cả từ khi xe chưa ngừng
hẳn. Tôi thấy có những chiếc tắc xi chạy ngang và tài xế chê khách, lắc đầu quầy
quậy. Tôi chờ mãi mới tranh được một xe, nhưng ông tài xua xua tay khi tôi hỏi
đường về đường Hoàng tử Cảnh:
- Không biết …
Ông ta lái xe chạy thẳng bỏ tôi đứng lại ngẩn ngơ bên đường.
Tôi vừa giận vừa buồn, vừa nóng ruột. Mỗi phút trôi qua chỉ
làm cho tôi thêm bàng hoàng và bối rối. Tôi trở lại phòng điện thoại tìm số điện
thoại của Huy, gọi về văn phòng Huy và cô thư ký của Huy cho tôi biết rằng ông
Trạng sư đi Tòa.
Tôi nẩy ra một sáng kiến: mua một tập bản đồ thành phố Saigon
có bản đối chiếu tên đường cũ, đường mới. Tôi đến sạp bán tem và báo ở trước cửa
nhà Bưu điện và mua được ngay một cuốn. Tôi mở tìm và thấy đường Hoàng tử Cảnh
nằm ở bên đường Chi Lăng, Gia Định.
Tôi mướn hẳn một chiếc xe lô ở bến xe đường Lê Lợi. Trước
đây, tôi quen gọi con đường này với cái tên cũ của nó là đường Bonard. Giá xe
lô: 1.000 đồng một giờ. Giá đó có mắc, nhưng với tôi lúc này, mắc một chút còn
hơn là đứng chờ xe bên đường cả tiếng đồng hồ.
Trời bỗng đổ mưa lớn, những cơn mưa trút xuống bất ngờ, đột
ngột của Saigon. Trời đang sáng nắng bỗng tối xầm lại … Huy ơi, có bao giờ Huy
vì sự thay đổi của trời đất mà cảm thấy buồn rầu và thất vọng không Huy? Buổi
sáng đó, buổi sáng đầu tiên tôi đi tìm vợ tôi, người tôi yêu thương nhất đời ở
Saigon, và chỉ một cơn mưa, tôi đã cảm thấy buồn rầu và thất vọng.
Có bị khổ đau, chúng ta mới biết là trước đó chúng ta đã sung
sướng. Tôi nhớ đến một câu viết về Đạo Phật của vị Thượng tọa nào đó mà tôi được
đọc ở Nam Vang trong một Tập san Tôn giáo xuất bản ở Paris do một số người Phật
tử ở đó cho in. Câu nói về khổ đau và con người như sau: chúng ta cần có khổ
đau để được giải thoát, con người chúng ta chết đuối trong khổ đau nhưng được
giải thoát nhờ khổ đau …! Khi đọc câu đó, tôi cảm thấy “có một cái gì rất thực,
rất quí nằm trong đó”, nhưng tôi chỉ cảm thấy suông vậy thôi. Tôi không xúc động
gì, vì tôi chưa bị khổ đau, tôi chưa hiểu khổ đau là gì nên lúc đó, chính tôi,
tôi chưa biết tôi đã sung sướng đến bực nào.
Đường đi tới đường Hoàng tử Cảnh thật xa. Nước mưa, tràn trên
kiếng xe, mưa như không bao giờ tạnh. Quanh tôi trời đất đầy nước. Chỉ thấy có
nước. Thành phố chìm trong màn mưa.
Chiếc xe lô đưa tôi đến một vùng vắng vẻ toàn những vi la mới
được xây cất. Nhiều vi la treo bảng “House for rent”. Trong và trước nhiều vi
la, tôi trông thấy những chiếc xe hơi treo bảng số Hoa kỳ. Có nhà có cả binh sĩ
Mỹ đứng gác.
Xe dừng đúng số nhà 118. Tôi nhìn qua khung kiếng cửa xe, qua
màn mưa vào nhà và thấy nhà không có qua một bóng người nào. Cảm giác đầu tiên
của tôi là nhà này không có người ở. Mọi cửa sổ đều đóng kín.
Không có áo mưa, tôi đội mưa xuống xe. Ông tài, một ông khá lớn
tuổi, có vẻ không lấy gì làm lưu manh lắm, thương hại tôi, ông hỏi lớn:
- Ông có chắc là số nhà này không?
Tôi chỉ có thể gật gật đầu. Chưa chắc nguồn tin ông nhà báo
không quen biết đó cho tôi đã là đúng. Con đường đất đỏ chưa được tráng nhựa
lũng bũng nước mưa. Tôi lội lõm bõm, nước lên đến cổ chân tôi. Cổng nhà số 118
có nút chuông điện. Tôi nhấn nút nhưng không chắc là trong nhà − nếu trong nhà
có người − nghe được tiếng chuông hay là không.
Trước đó, tôi đã không còn tin ở chuyện Bà Ngà ốm nặng cần sự
có mặt của Ngọc. Tôi không thể giải thích nổi tại sao tôi lại không tin, nhưng
linh tính cho tôi biết là có một cái gì bí ẩn trong chuyện đó. Và tôi chỉ có thể
biết khi tôi gặp Ngọc.
Vi la này cũng khá lớn. Bà Ngà nếu có đi đâu hoặc thật là bà
đau nặng đi nằm bệnh viện, nhà này chắc chắn cũng có người ở coi giữ. Tôi đứng
chịu trận dưới trời mưa, nhấn nút chuông mãi. Nước mưa chẩy từ cổ vào trong
mình tôi. Vô ích. Nhà này đúng là không có ai ở. Chợt tôi nhìn thấy hộp thư làm
bằng kẽm đặt ở một bên cánh cổng sắt.
Tôi đến gần và đọc thấy dòng chữ kẻ bằng sơn trắng trên hộp
thư: Bà Thérèse Lê Thị Ngà.
Đúng là nhà bà mẹ vợ tôi đây rồi. Anh nhà báo không cho tin
sai. Nhưng ngay lúc đó tôi thấy dòng chữ viết bằng phấn trắng dưới tên Bà Ngà.
Nét phấn gặp nước mưa đã phai mờ gần hết. Dòng chữ phấn đó viết: “Đi vắng xa”.
Sự thật khi tôi đọc những dòng chữ viết bằng phấn mờ này, tôi
không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Trong tôi như đã có sự chờ sẵn chuyện đó xẩy
ra. Nhưng tôi cần được biết rõ: Bà Ngà đi vắng xa là đi đâu? Khi bà chủ nhà đau
nặng và phải vào bệnh viện, người nhà không viết dòng chữ “Đi vắng xa” để cho
khách tới đọc như thế này.
Tôi không có thể chờ đợi nhiều, lâu. Tôi cần biết rõ ngay
trong thời gian ngắn nhất. Tôi nhìn quanh hy vọng tìm được một nhà nào có người
ở gần nhất để tôi có thể hỏi thăm.
Vi la ngay bên cạnh đó có người ở. Tôi thấy cô bé nhìn qua cửa
sổ ra chỗ tôi đứng. Tôi giơ tay vẫy cô bé. Cô bé trạc trên dưới mười tuổi, giơ
tay vẫy lại tôi. Cô bé thông minh nên hiểu rằng tôi muốn hỏi thăm cô. Cô quay lại
nói với người nào đó trong phòng. Một bà già nhìn qua vai cô ra ngoài. Thấy
tôi, bà quay vào. Một lúc sau có một người đàn bà có vẻ là chị vú ra cổng.
Tôi đi vội qua:
- Chị làm ơn cho tôi hỏi thăm … Tôi muốn biết Bà ở vi la bên
này đi vắng đã lâu chưa?
Gia đình tôi hỏi chắc chắn phải là một gia đình gia giáo, hoặc
ít nhất, chủ nhà phải là một người rất tốt, vì chị vú vui vẻ trả lời tôi ngay:
- Thưa … tôi không được biết rõ lắm. Mời thầy vô nói chuyện với
bà chủ tôi. Bà tôi chắc biết …
Tôi ngần ngại:
- Sợ phiền bà chủ …
- Thưa không sao. Bà chủ tôi mời thầy vô. Bà chủ tôi với bà
bên đó có quen …
Tôi quay lại ra hiệu cho ông tài xe lô chờ và bước vào nhà.
Bà chủ là bà già mà tôi trông thấy bên cửa sổ sau cô bé hồi nẫy. Bà trạc ngoài
năm mươi tuổi, tóc bạc người nhỏ nhắn, trông thật đẹp lão. Nhìn bà, tôi nhớ lại
mẹ tôi ngày xưa. Mẹ tôi cũng “đẹp” như bà cụ này. Ở đời có nhiều người đàn bà đẹp
từ lúc trẻ đến già vẫn đẹp. Cái đẹp lúc già có khác, nhưng vẫn là đẹp. Trong số
đó có mẹ tôi và bà cụ tiếp chuyện tôi ở Sàigòn buổi sáng trời mưa này.
Bà cụ tiếp tôi với một vẻ vui và niềm nở như tôi là người
quen biết từ lâu. Bà cụ không tỏ ra có chút nghi ngờ nào về tôi hết. Bà cho tôi
biết rằng bà là người Bắc di cư, trước bà ở Hà Nội, bà có ba ông con trai. Cả
ba ông con đều ở trong quân ngũ. Ông cả hiện nay đã là Quan Tư hay Quan Năm gì
đó. Bà cụ không phân biệt được hai cấp Trung tá và Đại tá của ông con. Cậu nhỏ
nhất vừa mới ra trường sĩ quan ĐàLạt. Một ông, có lẽ là ông thứ hai, làm tỉnh
trưởng. Bà cụ đã có nhiều cháu nội, cháu ngoại. Cô bé xíu tôi thấy ngồi cạnh bà
cụ đó là cháu nội của bà cụ.
Tôi ngồi nghe chuyện mà lòng nóng như ngồi trên lò lửa. Song
tôi không dám ngắt lời bà cụ. Có thể nói là tôi cũng không muốn ngắt lời. Tôi sợ
tôi lại gặp thất vọng lớn. Mà đúng như sự sợ hãi của tôi, sau cùng, bà cụ nói đến
chuyện bà mẹ vợ tôi.
Bà có quen và hay gặp Bà Ngà. Cả hai bà cùng là bà góa. Bà
Ngà mới tới đây được nửa năm nhưng vừa tới là hai bà làm thân với nhau ngay.
Bà cụ khen ngợi bà mẹ vợ tôi hết lời.
Cứ nghe bà cụ nói, bà mẹ vợ tôi là một bà lịch sự nhất đời. Lịch
sự, đẹp mà lại còn trẻ, lại sống cuộc đời gương mẫu, không chút tì vết. Không,
Bà Ngà không đau ốm gì hết. Nghĩa là bà cụ không thấy bà Ngà đau nặng đến nỗi
phải vô bệnh viện, cũng không thấy có bác sĩ đến nhà. Từ ngày dọn về đây, Bà
Ngà vẫn khỏe mạnh. Bà Ngà có nói là về ở đây, nhờ yên tĩnh, bà khỏe hơn hồi bà ở
trên phố nhiều lắm.
Bà Ngà đi vắng được chừng nửa tháng nay. Trước hôm đi, Bà Ngà
có qua đây và nói là đi ĐàLạt hay Nha Trang gì đó để đổi gió. Bà Ngà có nhiều
bà bạn sống ở những nơi đó nên ở Sàigòn chán, bà lại đi chơi. Chính Bà cụ cũng
hay đi chơi như vậy. Bà Ngà có gửi nhà cho bà cụ bên này để ý coi dùm, vì bà chỉ
có một cặp vợ chồng người làm và nhân dịp bà chủ đi vắng, cặp vợ chồng này cũng
xin phép về thăm quê.
Bà cụ có nghe Bà Ngà nói nhiều đến cô con và chàng rể, tức là
bà cụ có nghe nói nhiều đến vợ chồng tôi. Theo lời Bà, Bà Ngà rất quí tôi và rất
trọng tôi. Bà cụ tỏ ra buồn tiếc nhiều về việc tôi từ Nam Vang cất công về đây thăm
bà mẹ vợ mà lại không được gặp. Bà cụ hỏi tôi có biết nhà người quen của mẹ vợ
tôi ở ĐàLạt hay ở Nha Trang không? Bao giờ thì tôi phải về Nam Vang?
Bà cụ còn hỏi thăm vợ tôi nữa.
Tôi hỏi bà cụ trong khoảng mấy ngày vừa rồi có ai tới hỏi
thăm bà Ngà không? Không. Không có ai hết. Bà cụ ở nhà suốt ngày, và qua cửa sổ,
bà cụ nhìn thấy con phố này suốt từ đầu phố. Bà cụ nhìn rõ tất cả những gì xẩy
ra bên nhà Bà Ngà. Bằng cớ là tôi vừa tới gọi cổng, bên này bà cụ đã biết ngay.
Tôi hỏi rõ Bà có thấy một thiếu phụ nào trạc hai mươi sáu,
hai mươi bẩy tuổi ăn bận lịch sự, tới hỏi Bà Ngà trong vòng bẩy ngày trở lại
đây không? Bà cụ quả quyết là không.
Tôi không muốn làm phiền bà cụ. Nếu tôi kể cho bà cụ biết rằng
tôi nghi vợ tôi bị bắt cóc và sự thật thấy rõ là cho tới bây giờ, vợ tôi đã mất
tích, tôi chỉ làm cho bà cụ kinh sợ, rối loạn vô ích.
Cho đến phút này, tôi được biết hai chuyện rõ ràng: một là Bà
Ngà không có mặt ở Sàigòn trong lúc có một kẻ nào đó gởi một điện tín lên Nam
Vang cho Ngọc nói rằng Bà Ngà đau nặng và gọi Ngọc về gấp, hai là Ngọc không tới
được nhà mẹ nàng.
Con đường dài dằng dặc dưới trời mưa tầm tã đưa tôi trở về
trung tâm thủ đô. Trời vẫn còn mưa lớn. Người ta nói rằng thời tiết miền Nam từ
vài năm nay đã thay đổi nhiều. Trước đây những cơn mưa ở Sàigòn không bao giờ
kéo dài quá một tiếng đồng hồ. Bây giờ thì mưa liên miên, có thể là mưa suốt
ngày. Và Sàigòn có những ngày lạnh phải bận áo rét nữa. Sự thay đổi có lẽ là vì
ảnh hưởng của những vụ thử bom nguyên tử.
Tôi trở về khách sạn và nhận được tin của Huy gọi lại bằng
dây nói. Huy cho tôi biết là Huy bận việc đến khuya và hẹn gặp tôi vào sáng hôm
sau. Một mình tôi sống trong phòng khách sạn cô đơn giữa một thành phố gần như
là hoàn toàn xa lạ. Tôi thức gần trắng đêm với những yếu tố của một bài toán
không thể nào tìm được giải pháp.
– 5 –
Huy … Tại sao tôi lại phải viết cho Huy những dòng này? Tại
sao? Vì Huy với tôi chỉ là một, Huy cũng như là tôi vậy. Chúng ta thân nhau và
hiểu nhau, thương nhau hơn tất cả những người bạn thân thiết, yêu thương nhau
nhất trên cõi đời này. Nếu không có Huy buổi sáng hôm đó, đời tôi không biết đã
ra sao. Có thể tôi đã chết vì tuyệt vọng.
Huy có thấy tôi yếu đuối quá không Huy? Sáng hôm đó, Huy cho
tài xế đem xe đến khách sạn đón tôi. Tôi đi tới văn phòng của Huy với một tâm
trạng não nề, nặng trĩu, hoàn toàn chán chường và tuyệt vọng. Nếu không có Huy,
chắc chắn tôi đã bỏ cuộc trước khi bắt tay vào cuộc tìm kiếm.
Nhưng chỉ vài lời nói thật đúng chỗ của Huy, những lời nói
đúng, không thừa không thiếu, Huy đem lại cho tôi niềm tin và sự can đảm cần
thiết. Huy đặt tôi trở lại đúng con đường mà tôi phải đi.
Huy nói với tôi về Ngọc. Lời nói thật đúng lúc vì tôi đang cần
nghe nói về nàng. Chúng ta cùng nhau ôn lại tất cả những sự việc đã xẩy ra và
đi đến kết luận rằng chỉ có cảnh sát mới có thể giúp tôi trong vụ này và bây giờ
đã đến lúc chúng ta phải báo cho cảnh sát biết nội vụ. Và phải báo ngay cho cảnh
sát biết.
Cũng nhờ Huy, tôi tránh được tất cả những phiền nhiễu và mất
thì giờ vì những thủ tục khai báo, chờ đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau đó, tôi đã ngồi
trong phòng làm việc của Thiếu tá Đặng Như Trịnh, Đặc trách Sở Truy Tầm của Tổng
Nha CSQG. Nếu không có Huy và sự quen biết cùng uy tín của Huy, tôi không thể
có hy vọng gì ngay trong buổi sáng thứ bẩy đi thẳng vào gặp ngay người cao cấp
nhất của Sở Truy Tầm và nhờ đi tìm một người không phải là một nhân vật chính
trị.
Từ trước, vì những thành kiến và những điều mắt thấy, tai
nghe tôi vẫn không ưa những người làm nghề cảnh sát, một nghề mà tôi cho rằng
chuyên đi bắt bớ, làm hại người khác và vô cùng thất đức. Song tôi phải thành
thực mà nhận rằng Thiếu tá Trịnh là một người hành nghề cảnh sát có học thức,
và nếu tôi không lầm, có nhiều đức độ. Không phải vì ông ta nhận lời giúp tôi,
nếu gặp ông ta ở một nơi nào khác, tôi có cảm tình ngay với ông.
Thiếu tá Trịnh có vẻ bình tĩnh, học thức, lịch sự. Ông có cái
vẻ mềm dịu của những người hành động cương quyết và nhẫn nại. Cảnh sát thời
xưa, tôi muốn nói là dưới thời Tây và Bình Xuyên nắm quyền “công an, cảnh sát” ở
Saigon, những nhân vật cao cấp của họ không thể có những đức tính như Thiếu tá
Trịnh.
Thiếu tá Trịnh nghe lời tôi kể. Không một giây phút nào, cũng
như không có một cử chỉ nào của ông làm cho tôi hiểu rằng ông muốn coi nhẹ sự
lo âu của tôi, hoặc coi chuyện của tôi là một chuyện không quan trọng. Ông nói
ít, và suốt buổi, ông chỉ nói với tư cách của một sĩ quan cảnh sát.
Ông không hề tỏ ra nghi ngờ những gì tôi nói. Ông không công
nhận mà cũng không phủ nhận ngay rằng việc vợ tôi vắng nhà là một vụ bắt cóc. Nếu
có đưa ra những giả thuyết − tự nhiên là một cảnh sát viên quen thuộc với những
vụ mất tích và đi tìm phải có nhiều giả thuyết và phải nắm được đầy đủ những dữ
kiện của người vắng mặt − Thiếu tá Trịnh cũng trình bầy những giả thuyết của
ông với một vẻ lịch sự hiếm có. Ông đưa những giả thuyết có thể làm cho tôi buồn
với một vẻ hối tiếc mà phải nói như thế.
- Ông có thể đoan chắc với tôi … là giữa ông và Bà nhà không
hề có sự hiểu lầm nhau chăng? Ông có chắc chắn rằng bà ấy không dấu ông một
chuyện gì chăng? Tôi muốn nói rằng … có thể nào bà vợ ông dấu ông một chuyện gì
đó có thể giải thích được sự vắng mặt của bà ấy?
Nghe hỏi câu đó tôi cố nén để cơn giận của tôi không nổ bùng
ra. Tôi đã để cho cơn giận của tôi nổ ra một lần khi ông Cò Sam ở Nam Vang nói
một câu tương tự. Hôm nay, tôi nén cơn giận dễ dàng, vì Thiếu tá Trịnh không
hay biết gì về con người của Ngọc. Cả hai người, Cò Sam cũng như Cò Trịnh, đều
đáng được tôi tha thứ và đáng được hưởng trường hợp tha thứ. Họ đều là những
người làm một cái nghề đụng chạm và quen thuộc nhiều với dối trá, tội lỗi và thầm
kín.
Nhưng tôi có thể làm sao để giải thích cho Cò Trịnh cũng như
Cò Sam hiểu rằng họ nghi ngờ lầm …? Tôi có thể dùng những lời lẽ nào để họ có
thể hiểu được một phần trong số cả ngàn triệu phần yêu thương của vợ chồng tôi?
Làm sao tôi có thể làm cho họ nhận thức được một phần nhỏ xíu mối tình Ngọc yêu
tôi??
Phản ứng của tôi không giống chút nào phản ứng của một người
chồng nghi vợ … lừa dối mình. Không, nói thẳng ra tiếng đó: nghi vợ ngoại tình.
Vì tôi không nghi nên tôi không có mặc cảm. Tôi có thể nói thẳng tới danh từ
“ngoại tình” đó.
Thực ra, nếu tôi biết chắc rằng Ngọc yêu một người đàn ông
nào khác, tôi sẽ đau đớn lắm. Nỗi đau đớn của tôi sẽ rất khủng khiếp. Nhưng tôi
tin rằng cơn đau đớn qua đi, tôi sẽ có thể tha thứ nàng. Tôi yêu Ngọc đến cái độ
tôi có thể xa nàng, có thể để cho nàng xa tôi đi sống bên người nàng yêu nếu việc
đó làm cho nàng sung sướng.
Tôi biết ở đời này ít có người chồng nào có thể yêu vợ mình đến
có thể vui vẻ để cho vợ đi sống với người khác. Tình yêu nhiều vị kỷ, bản chất
của tình yêu nam nữ − theo quan niệm của tôi − là vị kỷ. Cũng có nhiều người đã
nói như tôi, nhưng ít ai làm được như lời nói. Song tôi tin rằng tôi có thể làm
đúng và ở đời này có hai người tin rằng tôi nói đúng và tôi có thể làm được
đúng như lời tôi nói. Hai người đó là Ngọc và Huy.
Tôi chắc chắn Huy cũng nghĩ như tôi, vì Huy cũng biết Ngọc và
biết rõ mối tình của chúng tôi. Đó là chuyện Ngọc không thể nào nói dối tôi.
Không thể được vì nàng là một phần của chính tôi. Nàng là tôi rồi. Người ta có
thể nói dối người khác nhưng không ai có thể nói dối chính mình.
Nếu tay chân ta bị đau, ta phải biết ngay chứ. Làm sao tay
chân ta có thể lừa dối làm cho ta thấy là không đau cho được …?
Giữa tôi và Ngọc, lừa dối là hai tiếng không có nghĩa lý gì hết.
Ngọc là một phần của thân thể tôi. Tay chân tôi có thể lìa xa
tôi vì tai nạn, nhưng nếu nói tay chân tôi tự ý xa tôi là một lời nói hoàn toàn
vô lý.
Lẽ tất nhiên là tôi không thể nói những lời này với Cò Trịnh.
(Ngay cả với Huy tôi cũng không nói được). Song, tôi tìm được những lời lẽ
khác:
- Giả thuyết Thiếu tá đặt ra có thể đúng nếu vợ tôi xa tôi vì
ý muốn của riêng nàng, nhưng dường như ông quên rằng vợ tôi đi vì có kẻ nào đó
gửi cho nàng một điện tín báo tin rằng mẹ nàng đau nặng. Điện tín ấy cố nhiên
là một điện tín giả chỉ cốt để lừa vợ tôi về Sàigòn. Vì bà mẹ vợ tôi hiện không
có mặt ở đây và tôi tin chắc rằng bả không đau yếu gì.
Thiếu tá Trịnh nở một nụ cười lịch sự và kín đáo:
- Ông đi tới kết luận dễ dàng và mau chóng quá.
Trong nghề cảnh sát, chúng tôi vẫn quen rất thận trọng. Thận
trọng và rất nhiều nghi ngờ. Muốn có bằng cớ đúng là bà nhạc của ông không đau
yếu cần phải có lời xác nhận của chính bà ấy. Bằng cớ đó hiện có vẻ khó có được
ngay vì bà ấy vắng mặt.
Vậy chúng ta cần có trong tay tờ điện tín ấy để tìm coi nó được
gửi đi từ đâu. Tức là cần biết xuất xứ của nó. Từ đó tìm ra người gửi điện tín
đó. Nhưng tất cả phần điều tra đó không thể thực hiện được – ít nhất cũng là
ngay lúc này.
Tôi cũng nhận rằng có một sự liên hệ nào đó giữa điện tín ấy
và sự vắng mặt của bà vợ ông. Nhưng chúng tôi không thể chỉ có từng ấy dữ kiện
mà kết luận rằng bà Tuấn đã bị bắt cóc.
Với tất cả những gì ông cho biết, chúng tôi chỉ có thể nói rằng
Bà Hoàng Tuấn, nhũ danh Đỗ Thị Như Ngọc … Aline Đỗ thị Như Ngọc … Vợ ông, không
có tin tức gì cho ông chồng biết về bà ấy và nơi cư ngụ của bà ấy kể từ ngày bà
ấy đặt chân vào phi cơ xuống phi trường Tân sơn Nhất cách đây 7 ngày.
Ông ta lại mỉm cười, nụ cười có nhiều hiền từ, khuyến khích
hơn là mỉa mai:
- Nguồn tin có quá ít, nhưng việc của chúng tôi là việc
chuyên tìm những người mất tích, vắng mặt. Và ông lại là bạn thân của Luật sư
Huy … Luật sư có giúp cảnh sát chúng tôi rất nhiều. Đây là dịp để chúng tôi trổ
tài chuyên môn và đền ơn những người mà chúng tôi chịu ơn.
Nghe một ông cảnh sát nói đến ơn nghĩa và trả ơn là một chuyện
mới lạ.
Nhưng tôi không có thì giờ và tâm trí để nói, hỏi thêm về sự
lạ ấy:
- Xin Thiếu tá cho tôi biết qua ông sẽ tiến hành việc giúp
tôi như thế nào?
- Bằng những phương pháp thật cổ điển, nhưng cho đến bây giờ,
nhất là ở xã hội ta, những phương pháp cổ điển ấy vẫn còn tỏ ra có nhiều hiệu lực
và mau chóng có kết quả nhất.
- Như vậy nghĩa là …?
- Nghĩa là chúng tôi sẽ khởi sự tìm ở những bệnh viện. Việc
kiểm soát này sẽ được làm thật mau và dễ dàng. Và tôi có thể nói ngay với ông
là tôi nghĩ là chúng ta sẽ không tìm thấy Bà Aline trong các bệnh viện. Bởi vì
nếu bà ấy gập tai nạn, người ta đã tìm ra ngay căn cước của bà ấy và ông đã được
báo cho biết. Các bệnh viện ở Sàigòn hiện nay có tổ chức một ngành để báo tin
cho thân nhân biết những nạn nhân.
Có khi Bà Aline có thể bị thương vì bị hành hung, bị cướp và
mất giấy căn cước, nhưng trong trường hợp này, chúng tôi đã được báo tin cho biết.
Các bệnh viện, các nhà thương điên, các nhà xác … có nhiệm vụ báo ngay cho
chúng tôi biết khi họ có những nạn nhân vô danh. Chính tôi coi báo cáo đó mỗi
ngày và từ một tuần nay tôi không thấy có người nào có hình mạo có thể nghi là
bà Aline … Tuy nhiên, tôi cũng cho tìm lại lần nữa cho chắc chắn …
Đã lâu lắm tôi không được nghe ai nói đến cái tên Aline thật
đẹp của Ngọc. Hồi mới kết hôn, tôi thường gọi Ngọc với tên đó. Sau này tôi chỉ
gọi nàng là Aline trong những lá thư tôi gửi về cho nàng.
Giờ đây tôi xúc động khi nghe Cò Trịnh nói đến tên đó. Trịnh
gọi vợ tôi là Aline thật đúng là lịch sự.
Tôi đang xúc động vì cái tên riêng của vợ tôi. Cò Trịnh làm
cho tôi rùng mình khi ông nói đến nhà xác.
Dạ dầy tôi quặn lại rõ ràng. Tôi như người muốn ói mửa. Song tôi
nghĩ: không thể có chuyện ấy được. Làm gì mà vào tới nhà xác. Bậy …
Lần đầu tiên, tôi thấy Thiếu tá Trịnh nói bậy.
Như không biết phản ứng đó của tôi, Thiếu tá Trịnh nói tiếp:
- Sau những nơi đó, chúng tôi đi tìm … Theo đúng thủ tục, những
khách sạn, những chung cư cho mướn phòng ngày hoặc tháng. Sau những lời ông
nói, rất có thể là Bà ấy hiện ở trong một khách sạn nào lắm. Có khi bà ấy ở
khách sạn ông đang ở.
- Tôi đã hỏi ở khách sạn tôi hiện ở rồi. Những lần về Sàigòn
trước đây vợ tôi thường tới đó ngụ, nhưng lần này không có.
Thiếu tá Trịnh nhìn lên tập lịch để bàn:
- Bây giờ là thứ bảy. Chúng tôi sẽ xúc tiến cuộc điều tra
ngay. Đến sáng thứ ba nếu vẫn không có tin gì về Bà Aline, chúng tôi sẽ ra lệnh
cho tất cả các Ty Cảnh sát tỉnh tìm bà ấy. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đăng
báo nhờ tìm, loan tin và tả hình dạng bà ấy trên đài phát thanh, đăng hình bà ấy
trên báo … Và hiệu nghiệm nhất là nhờ TiVi phát hình bà ấy, nhờ tất cả mọi người
nếu ai thấy bà ấy ở đâu, cho chúng tôi biết. Hồi này Sàigòn mới có TiVi, nhiều
người ham coi TiVi lắm. Mà ông có mang theo hình bà ấy đấy chứ?
- Tôi có hình nhà tôi ngay đây.
- Thật may. Tôi đã gặp nhiều ông chồng yêu thương vợ lắm, đi
tìm vợ mà không có một tấm hình nào của bà vợ yêu mến hết … Có nhiều ông còn
không làm sao tả nổi được hình dáng của bà vợ mới khổ cho chúng tôi chứ.
Lúc nào tôi cũng mang theo trong ví tôi hai tấm hình của Ngọc.
Đây là hai tấm hình mà tôi ưa nhất trong số những bức hình đẹp
mà nàng chụp. Một tấm do chính tôi dùng máy Canon chụp cho nàng ở Biển Hồ cách
đây chừng một năm. Trong hình Ngọc bận áo sweater, quần jean, tóc nàng bay theo
chiều gió, miệng nàng cười tươi, một tay nàng dơ lên vẫy gọi. Một hình do thợ
hình nhà nghề chụp trong phòng có đèn. Trong hình này Ngọc cũng cười tươi.
Hai tấm hình chụp “trung thành”, nghĩa là giống nàng lắm.
Song tôi thấy rõ là chúng không thể nào ghi lại được vẻ tươi mát, yêu đời và
tính yêu đời, yêu tôi của nàng. Từ người nàng có phát xuất một luồng nhân điện
mà gần nàng không ai là không bị thâu hút, bị ảnh hưởng.
Ý nghĩ này làm cho tôi nhớ lại tôi có đọc trong một cuốn khảo
luận về tôn giáo một đoạn văn viết về những con người thánh thiện ở cõi đời
này, sống giữa chúng ta, vẫn có những người đức độ, thánh thiện, và gần những
người đó, con người chúng ta thấy cao đẹp hơn, an lạc hơn. Có lẽ người viết đã
viết đúng. Ngọc không phải là một người “thánh thiện” như một nhà tu hành. Ngọc
là người có nhiều tình yêu nên gần nàng, người ta bị lây niềm tin vui và yêu đời
của nàng.
Cò Trịnh yêu cầu tôi đưa hai tấm hình ấy của Ngọc cho ông.
Tôi còn vài tấm hình đẹp nữa của Ngọc để trong cặp da và trong va li, nhưng tôi
ngần ngại khi phải xa hai tấm hình này, tôi có cái cảm giác đau đớn khi trao
hình cho người lạ, như làm như vậy tôi lại phải xa Ngọc thêm chút nữa.
Việc phải viết đầy bản mô tả tướng mạo, hình dạng của người mất
tích còn là một cực hình tàn nhẫn hơn nhiều. Có một cái gì đó phải kể là “vô
nhân đạo” trong những câu hỏi in sẵn trên tờ giấy. Những câu hỏi thật chính xác
nhưng không có một câu nào hợp với người thân yêu của chúng ta. Và đúng như Cò
Trịnh vừa nói, tôi là chồng nhưng tôi vẫn ngần ngại khi phải diễn tả hình dáng
của vợ tôi. Tôi không biết trả lời như thế có đúng hay là sai. Trán rộng hay hẹp?
Mũi cao hay thấp? Da trắng? Da xanh? Mắt dài hay tròn? Đặc điểm??
Tôi có cảm giác như phải mô tả một xác chết.
Khi trao lại cho Cò Trịnh bản mô tả, tôi hỏi bằng một giọng
ngại ngùng:
- Thiếu tá cũng cho người đi tìm ở phi trường chứ?
- Tất nhiên. Nhưng tôi không hy vọng có kết quả mấy. Phi trường
là nơi có nhiều người ra vô. Những người làm ở đó sẽ không nhớ được riêng một
ai hết.
- Thiếu tá cho biết … đến bao giờ tôi hy vọng được biết … một
vài kết quả?
- Tôi không thể trả lời ông ngay như thế này được. Những cuộc
điều tra tìm người như thế này thường có những kết quả không giống nhau. Có khi
chỉ vài ngày là ra. Có khi kéo dài hàng tháng. Nhưng đặc biệt với ông, chúng
tôi sẽ làm hết sức và tôi sẽ báo ngay để ông biết nếu có gì xẩy ra, hay không
có gì mới cũng vậy. Hiện ông ở đâu?
- Tôi ở khách sạn Continental và tôi sẽ còn ở đấy mãi.
- Có gì tôi sẽ gọi điện thoại về đó cho ông hay. Về phần ông,
ông muốn gọi điện thoại cho tôi hay tới đây gặp tôi giờ nào cũng được.
Tôi lo ngại khi đặt câu hỏi cuối cùng:
- Thiếu tá có thể cho tôi biết … ông tiên đoán về vụ này ra
sao?
- Tôi biết nói sao bây giờ? Cuộc điều tra chưa tiến hành … và
chắc ông cũng biết rằng những người cảnh sát chúng tôi không bao giờ tiên đoán
hết.
Tôi cố nài:
- Nhưng … tôi nghĩ Thiếu tá có thể nói những cảm tưởng riêng
của ông về vụ này. Ông có thể nói với tư cách riêng … Như người bạn nói với bạn
…
Ông ta suy nghĩ vài giây trước khi nói:
- Nếu ông muốn biết ý kiến của tôi, tôi chỉ có thể nói được
là bà vợ ông có thể đã bị lừa vào một cạm bẫy. Bức điện tín bà ấy nhận được chứng
minh điều đó. Nhưng bà ấy đã bị lừa với mục đích gì? Nếu là bắt cóc để đòi tiền
chuộc, ông đã được báo tin để sửa soạn tiền rồi chứ?
- Có thể nào tin báo của bọn bắt cóc đã tới địa chỉ của tôi ở
Nam Vang mà tôi lại về đây nên không nhận được chăng?
- Cũng có thể lắm. Ông có nhiều bạn thân ở trên đó và các bạn
ông sẽ thông tin cho ông nếu trên đó có chuyện gì xẩy ra mà ông cần biết chứ?
Cuộc nhờ cậy, khai báo và nói chuyện riêng đến đây là chấm dứt.
Tôi không còn làm được gì hơn là cáo từ.
Cuộc khai báo này làm cho tôi thêm thất vọng và buồn hơn. Khi
cáo từ Thiếu tá Trịnh, tôi có cảm giác như tôi càng đi xa Ngọc hơn trước. Tôi
xa nàng hơn vì tôi đã làm cho sự vắng mặt của nàng trở nên “công khai” và do
đó, làm cho sự xa cách thêm xa hơn, sâu rộng hơn, khó hàn gắn hơn.
Trước khi đi khai báo với cảnh sát, tôi còn hy vọng ở một
phép lạ.
Giờ đây tôi chỉ còn có thể hy vọng ở cuộc điều tra của cảnh
sát.
Tôi thất vọng và cảm thấy buồn hơn là vô lý. Huy nói cho tôi
biết như thế với giọng nói hiền từ nhưng cương quyết của Huy. Chính tôi cũng nhận
thấy tôi buồn vô lý nhưng tôi vẫn không thể nào có thêm hy vọng. Huy an ủi và cố
gắng truyền cho tôi một chút niềm tin của Huy trong lúc chúng ta ăn trưa với
nhau trong tiệm ăn nhỏ nhưng sang và ngon ở vùng Chợ Cũ. Huy còn nhớ bữa ăn đó
chứ? Vợ chồng ông Chủ Tây cùng xuất hiện và thân lấy các món gọi của chúng ta.
Ông Tây niềm nở khuyến cáo chúng ta các món ngon nhất trong ngày và đặc biệt
đãi chúng ta một chai rượu vang loại không còn có bán ở Đông Dương nữa. Dường
như đi tới đâu, gặp bất cứ ai, Huy cũng được kính nể. Sự kính nể chen lẫn niềm
yêu mến. Chỉ thấy sự kính mến Huy của người khác, tôi cũng biết Huy đã làm tốt
cho nhiều người. Người ta sợ những ai có quyền lực, nhưng người ta chỉ mến những
người có lòng tốt, có đức độ.
Trong bữa ăn đó, chúng ta cùng nhau ôn lại những kỷ niệm cũ của
thời thơ ấu xa xưa: nhiều nhất là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau trong sân Trường
Bưởi − thời đó thường được gọi là Lyceé Protectorat − ngày đó tôi là một chú học
trò mới, khờ khạo và nhút nhát trong lúc cũng là học trò mới như tôi, Huy đã tỏ
ra vui vẻ, không sợ sệt và tinh anh. Trước mắt tôi, Huy thời đó là tượng trưng
cho sự tinh anh, thông minh, tự chủ như một hiệp sĩ đạo, tháo vát và chắc chắn
là mai sau sẽ thành công đẹp đẽ trong đời. Chúng ta kết bạn với nhau trong sân
trường ngay từ phút đầu tiên chúng ta gặp nhau, nhìn thấy nhau. Tôi muốn gần
Huy, muốn được là bạn với Huy vì tôi thán phục sự tinh anh và bạo dạn vui vẻ,
yêu đời của Huy. Còn Huy? Tôi vẫn nghĩ rằng Huy muốn gần tôi là vì tôi là một đứa
trẻ có vẻ ngoài khác hẳn với Huy. Tôi nhút nhát, sợ sệt, muốn cười đùa lắm mà
không dám cười đùa. Huy đã bênh vực tôi trong suốt những năm học dài chúng ta sửa
soạn thành người ấy.
Từ ngày gặp nhau đầu tiên ở sân trường đó cho đến mãi tận bây
giờ, Huy là bạn tôi. “Bạn” với cái nghĩa “Bạn” của người đời xưa, bạn có thể hy
sinh tất cả vì nhau chứ không là bạn theo cái nghĩa “Bạn: camarade” của người
bây giờ. Ngoài Huy, tôi cũng có nhiều người bạn khác, nhưng chỉ có Huy mới là “bạn”
tôi. Viết đến đây tôi mới nhớ đến một câu chuyện về bạn hữu mà tôi được đọc
trong một tập Truyện Cổ Nhật Bản. Truyện kể một thanh niên Nhật đi du học ngoại
quốc mấy năm mới trở về nước. Thanh niên về nhà, vào chào mừng ông bố. Ngồi hầu
bố một lúc anh nói: “Bây giờ con xin phép bố con đi thăm mấy người bạn thân của
con …” Ông bố nghe nói kinh hoàng mà hỏi “Con nói con có những mấy người bạn
thân ư? Nếu đúng như con nói thì con có phước lắm. Vì bố đây, suốt đời bố, bố
tìm mãi mà cho đến tận bây giờ, bố vẫn chưa thấy bố có một người bạn thân nào cả
…”
Truyện cổ này muốn chứng tỏ hai điều. Một là người đời thường
dùng sai danh từ “bạn” và hai là, ở đời này, chúng ta khó lòng có được lấy một
người bạn đúng nghĩa là “bạn”. Phải không Huy? Nhưng tôi may mắn hơn ông trưởng
giả Nhật bản trong truyện, tôi đã có được một người bạn, người đó là Huy.
Ngày mới bước chân vào Trường, tôi chỉ là một thiếu niên tỉnh
lẻ, khờ khạo, ngốc nghếch. Còn Huy, Huy được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Gia
đình Huy giầu sang, quyền lực trong khi cha tôi chỉ là một tiểu công chức và mẹ
tôi là người đàn bà quê mùa. Có thể nói là Huy muốn gì được nấy và Huy có thể kết
bạn với bất cứ người thiếu niên tinh anh nào mà Huy thấy có mặt trong trường.
Nhưng Huy đã chú ý đến tôi, một gã thiếu niên tỉnh lẻ vừa nghèo vừa ngốc không
đáng làm bạn với Huy chút nào.
Và Huy đã hướng dẫn cho tôi trong cuộc sống, trong việc học.
Nói đúng ra là Huy đã giúp cho tôi trở thành “người”. Tất cả những gì tôi có thể
kể là tôi có, là sung sướng, là thành công hôm nay phần lớn là nhờ Huy giúp.
Lẽ tự nhiên là cuộc đời đã làm cho chúng ta ở xa nhau, nhưng
cuộc đời không thể làm cho chúng ta chia rẽ. Thời gian cũng như không gian
không có ảnh hưởng gì hết đến tinh thần của chúng ta. Mãi mãi chúng ta vẫn thân
nhau như ngày đầu.
Ngay chiều hôm đó, khi tôi trở về khách sạn vào lúc 4 giờ chiều,
tôi ngạc nhiên khi nhận được một tin của Thiếu tá Trịnh gửi lại bằng điện thoại.
Ông yêu cầu tôi gọi điện thoại lại văn phòng của ông gấp.
Tôi lại có một hy vọng vô lý: có thể nào cảnh sát đã tìm ra
…? Cảnh sát Sàigòn hoạt động hữu hiệu đến như vậy chăng? Chỉ có mấy tiếng đồng
hồ đã tìm ra ngay …?
Nhưng ngay sau đó tôi trấn tĩnh lại được. Tôi tự biết rằng điều
mà tôi hy vọng là hoàn toàn vô lý. Tôi mới gặp và nhờ Thiếu tá Trịnh mở cuộc điều
tra tìm dùm sáng nay. Cuộc điều tra có thể là chưa bắt đầu. Chắc là Thiếu tá Trịnh
cần tôi cho ông biết thêm một chi tiết nào cần thiết mà hồi sáng nay ông chưa hỏi.
Tôi cũng lấy làm lạ vì chiều nay là chiều thứ bẩy, Thiếu tá
Trịnh làm việc cả chiều thứ bẩy sao?
Không suy nghĩ gì nhiều vô ích, tôi yêu cầu cô điện thoại
viên của khách sạn cho tôi nói chuyện với số điện thoại riêng của Thiếu tá Trịnh.
Một phút sau, tôi nghe thấy tiếng nói trầm trầm của Thiếu tá
Trịnh vang lên trong ống nói.
Khi nghe tôi xưng danh, giọng nói của ông vẫn không thay đổi:
- Ông Tuấn ạ. Tôi không muốn trách gì ông đâu … Nhưng hồi
sáng nay tôi đã yêu cầu ông nói thật cho tôi biết tất cả mọi chi tiết về đời tư
của bà Aline, dù là những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Tôi cần biết tất cả để dễ xúc
tiến cuộc điều tra hơn. Nhưng tại sao ông dấu tôi chứ …? Nếu không cố ý dấu tôi
thì tôi không thể hiểu tại sao ông quên không kể cho tôi nghe một sự việc quan
trọng đến như thế …?
Ngạc nhiên, tôi ấp úng:
- Sự kiện gì? Tôi không hiểu? Tôi chẳng dấu ông chuyện gì hết
…!
- Chuyện tai nạn xe hơi của bà ấy năm nào đó …! Dù chuyện tai
nạn ấy không có liên hệ gì trực tiếp đến vụ bà ấy bị mất tích, chúng tôi cũng cần
phải được biết … Cũng may ở đây chúng tôi có đủ hồ sơ và chúng tôi quen làm việc
theo đúng thủ tục. Có thể mất thì giờ một chút nhưng chắc chắn hơn và không sợ
có chuyện gì bất ngờ có thể xẩy ra được. Thú thực với ông Tuấn rằng chính tôi,
nhiều khi tôi cũng quên không áp dụng đúng những thủ tục cần thiết, nhưng tôi
có một người phụ tá cừ khôi lắm. Sau này có thể ông sẽ gặp người phụ tá của tôi
nhiều hơn tôi. Ông ấy là Thượng sĩ Bái. Tôi đã giao vụ của ông cho Thượng sĩ
Bái lo về việc đầu tiên mà ông ấy làm là vào phòng Sưu Tra Lục Hình tìm xem có
phiếu nào về bà Như Ngọc trong đó không …
Tôi vừa bực bội, vừa sợ, vừa giận:
- Phòng Sưu Tra Lục Hình? Vợ tôi có làm gì phạm pháp đâu mà
…?
- Ông chẳng nên ngạc nhiên? Chắc ông cũng dư biết rằng chúng
tôi có một phòng Lưu trữ căn cước tất cả những người có liên hệ gần xa đến cơ
quan chúng tôi và Tòa án. Như ông chẳng hạn, khi ông xin xuất ngoại, chúng tôi
có một phiếu căn cước của ông cất giữ trong đó để phòng khi cần đến. Như bản
căn cước ông khai cho chúng tôi biết về bà Aline Như Ngọc sau này cũng được gửi
vô đó cất giữ. Nói tỷ dụ như mai đây, nếu chúng tôi không thể tìm được bà ấy,
hàng chục năm sau rất có thể chúng tôi vẫn có tài liệu để tìm ra bà ấy như thường.
Chẳng hạn như, đây là tôi nói tỷ dụ thôi, vài ba năm nữa … bà ấy có muốn đi ra
ngoại quốc … bà ấy phải xin xuất ngoại và khi làm hồ sơ cho bả người kế tiếp
tôi giữ việc tôi làm hôm nay vẫn có thể biết được bà ấy là người mà chúng tôi
đi tìm hôm nay …
Tôi nghẹn lời:
- Thiếu tá … Thấy tên vợ tôi có trong hồ sơ lưu trữ những người
có tội?
- Tôi không nói là bà ấy có tội. Tên bà ấy có trong hồ sơ lưu
trữ của chúng tôi chỉ là vì bà ấy có dính líu tới tai nạn xe hơi …
Tôi ngắt lời:
- Tai nạn nào?
Giọng nói của tôi chắc là làm cho Thiếu tá Trịnh tin rằng tôi
không đóng kịch, chắc hẳn trước đó ông nghi rằng tôi biết mà tôi dấu ông và tôi
giả vờ không biết khi ông nói cho tôi biết rằng ông ta đã tìm biết.
Ông dịu giọng và chầm chậm nói:
- Ông không biết gì về vụ đó thật sao?
Chúng tôi cùng im lặng vài giây. Tôi gọi dây nói cho ông ngay
trong phòng Tiếp Tân của khách sạn, khi nghe tôi nói lớn gần như là la lối, mấy
viên thư ký tiếp khách của Khách sạn ngửng nhìn tôi, sau đó họ lại tiếp tục làm
việc, nhưng tôi biết là họ vẫn chú ý lắng nghe xem tôi nói những gì tiếp đó.
Giọng nói của Thiếu tá Trịnh trở nên nghiêm trọng hơn:
- Nếu quả thực ông không hay biết gì về chuyện này hết thì đó
có nghĩa là bà vợ ông đã dấu ông. Và do đó vụ này có thể có một tầm quan trọng
lớn hơn là một tai nạn thường. Theo tôi nghĩ rất có thể nó có liên hệ nhiều đến
vụ bà ấy vắng mặt hôm nay.
Vào năm 1954, hai tháng sau ngày chiến tranh Việt – Pháp chấm
dứt và Hiệp định Genève được ký kết chia cắt đất nước … Chắc ông cũng biết thời
gian đó lộn xộn lắm … Đồng bào ta di cư từ ngoài Bắc vào Nam thật đông, chánh
phủ thay đổi, quyền cảnh sát ở Sàigòn nằm trong tay Bình Xuyên … Rồi lại còn sự
có mặt của quân Viễn Chinh Pháp. Tôi muốn nói rằng thời gian đó tình hình
Sàigòn lộn xộn nhiều … Bà Aline Như Ngọc phải tới Cảnh sát cuộc khai báo căn cước
vì bà ấy có mặt trong một chiếc xe hơi đụng vào một chiếc xe khác ở trên đường
Sàigòn − Cấp … Và chiếc xe hơi gây tai nạn mà bà ấy cùng đi với vài người bạn nữa
là một chiếc xe hơi bị mất trộm …
Cảm nghĩ đầu tiên của tôi khi nghe Thiếu tá Trịnh nói câu đó
là: chuyện này không thể có thật. Chắc chắn người phụ tá của ông này lầm lộn Ngọc
với ai khác. Ngọc chưa bao giờ nói với tôi về chuyện đó và đó là một chuyện rất
quan trọng. Nếu có, chắc chắn là nàng phải cho tôi biết. Tôi là người đầu tiên
nàng nói chuyện đó. Vợ chồng tôi có bao giờ dấu nhau chuyện gì đâu, dù chuyện
thầm kín, riêng tư nhất …
Và, theo như lời Thiếu tá Trịnh nói, tai nạn trên, nếu quả là
có Ngọc can dự, đã xẩy ra vào khoảng 6 tháng trước ngày tôi và Ngọc kết hôn.
- Chắc là ông Thượng sĩ lầm rồi, Thiếu tá. Vợ tôi không bao
giờ dính líu vụ nào như thế đâu.
- Ông tin là không, nhưng chuyện gì có thực vẫn là có thực …
Ông ta đọc trên tờ giấy để trong một tập hồ sơ:
- … Trong đêm 19 rạng 20 tháng 11 năm 1954 … vào khoảng 2 giờ
sáng, có một cô tên là Đỗ Thị NHƯ NGỌC, sinh ngày 23 tháng 8 năm 1938, con của
bà Lê thị Ngà … đương sự không có nơi cư ngụ nhất định … có mặt trong một chiếc
xe Cadillac do một người đàn ông tên là … Trương văn … Paul, tức Paul Văn, tức
Tony Văn, cầm lái. Người đàn ông này là một nhân vật có thành tích bất hảo đã bị
cảnh sát chú ý theo dõi từ lâu và đã có một vài án tích nhỏ. Tony Văn … hoặc là
Paul Văn không có nghề nghiệp nhất định. Trong chiếc xe Cadillac đó còn có cô
Trần Thị Kim Phụng. Cô Kim Phụng tự khai là nữ ca sĩ tân nhạc. Người thứ tư có
mặt trong xe là một ông … ông này dường như là một nhân vật … chính trị. Theo
như tôi hiểu thì nhân vật này thuộc về một giáo phái được đưa ra làm chính trị
thì đúng hơn. Ông này chắc phải là một nhân vật có nhiều thế lực hồi đó cho nên
tên tuổi ông ta được giữ kín và ông ta không phải tới cảnh sát cuộc để khai báo
gì hết. Chắc ông cũng còn nhớ rằng thời đó cơ quan Cảnh sát Sàigòn còn do Bình
Xuyên nắm giữ.
Ông ta lật qua một tờ khác trong hồ sơ:
- … Chiếc xe Cadillac đó là xe bị mất trộm trước đó 20 ngày.
Xe đó nguyên là một chiếc xe từ ngoài Bắc đem vô. Chủ xe là một người Pháp. Đêm
đó xe gây tai nạn trên đường Sàigòn – Cấp. Họ đi chơi Cấp về. Anh chàng Paul
Văn lái xe chạy hết tốc lực nên để xe đụng vào một chiếc xe du lịch khác chạy
ngược chiều. Xe Cadillac có lỗi. Người lái chiếc Peugeot nạn nhân bên kia cũng
là một người Pháp. Do đó vụ này được đưa đến Nha Cảnh sát Nam Việt. Sau khi gây
tai nạn, chiếc Cadillac còn lao xuống ruộng. Paul Văn bị thương nặng nhất, còn
những người trên xe, trong số có bà vợ ông, chỉ bị xây xát nhẹ. Ông Pháp lái xe
Peugeot bị đụng cũng bị thương nhẹ. Paul Văn phải nằm nhà thương vì gẫy xương ống
quyển. Vụ này ra Tòa, Y bị tù 6 tháng vì tội xử dụng xe gian. Y khai Y mua lại
xe này của một người quen nhưng người đó trốn mất. Tòa còn xử Y phải bồi thường
100.000 đồng tiền mặt cho ông Tây nạn nhân của Y. Hồ sơ ghi rõ là Y có ở tù, có
bồi thường đủ số tiền ấy. Từ ngày Paul Văn ra tù, chúng tôi mất biệt tông tích
của Y. Có thể Y đã qua Pháp. Dường như có một thời nhờ ông bố, Y có quốc tịch
Pháp. Có thể là Y đã chết … Các người khác trên xe đều được xử vô can. Nhưng vì
đi trên xe gian nên họ phải khai trình và do đó có phiếu lý lịch của họ trong Hồ
sơ Lưu trữ của chúng tôi.
Sự việc quá rõ ràng. Bây giờ tôi có không muốn tin, tôi có muốn
nghĩ là Thượng sĩ Bái và Thiếu tá Trịnh lầm Ngọc với người khác, cũng không được.
Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Còn cô ca sĩ Kim Phụng đâu?
- Từ ngày đó cô Kim Phụng không làm việc gì để phải đến cảnh
sát cuộc nên chúng tôi không biết gì hơn về cô. Tôi chắc cô ta vẫn còn ở
Sàigòn. Có điều chắc chắn cô ta không trở thành một nữ ca sĩ nổi tiếng mà thôi
… Nếu ông cần địa chỉ của cô ấy, chúng tôi có thể giúp ông được, Thượng sĩ Bái
sẽ tìm địa chỉ cô ta cho ông.
- Cám ơn …
Tôi nói “Cám ơn” một cách máy móc. Vì tôi không thể nói gì
hơn.
Chúng tôi im lặng một lúc. Sau cùng Thiếu tá Trịnh còn nói:
- Ngay lúc này thì việc tìm ra tai nạn năm xưa này không có lợi
gì cho chúng tôi hết. Chúng tôi không thể dùng nó, và chúng tôi cũng không muốn
dùng nó trong việc dò tìm dấu vết của Bà Ngọc. Nhưng biết đâu sau này chúng tôi
lại chẳng phải dùng đến? Ai biết? Nghề của chúng tôi là không được bỏ qua bất cứ
một bằng cớ hay sự việc nào liên can đến người và việc mà chúng tôi phải điều
tra, theo dõi. Chúng tôi không được bỏ qua hoặc coi thường một sự việc nào … Biết
đâu chúng ta lại chẳng gặp lại anh chàng có cái tên kỳ cục và lai căng Paul
Văn, Tony nào đó ở một khúc quanh của cuộc điều tra của chúng ta?? Có điều …
ông cũng chẳng nên lo âu quá đáng. Chúng tôi chỉ có thể khuyên được ông như vậy
…
Thiếu tá Trịnh còn nói vài câu nữa. Song tôi không nghe rõ lời
ông. Bàng hoàng như người vừa qua một cơn ác mộng, tôi buông ống nói xuống và
bước ra khỏi phòng Tiếp Tân của khách sạn như một người vô hồn.
– 6 –
Với một người đàn ông tuy là người Việt Nam nhưng không sinh
trưởng ở Sàigòn lại vừa sống nhiều năm ở ngoại quốc mới về nước, đang có cái
tâm trạng của kẻ đi tìm vợ, tìm người mình yêu quí nhất đời, Saigon giờ đây,
sau khi đất nước bị chia cắt làm đôi, vào ngày chủ nhật, có thể là một ngày sống
buồn thảm nhất.
Ở Saigon, tôi không có ai là bạn, ngoài Huy ra. Tánh tôi vốn
không ưa kết bạn và Huy cũng biết tôi khó kết bạn biết là chừng nào. Tánh Huy
cũng vậy. Có lẽ chính vì vậy mà thoạt đầu tiên, trong những ngày cả hai chúng
ta mới ngơ ngác đặt chân vào nội trú Trường Buởi, chúng ta đã chú ý tới nhau.
Tôi cũng có vài người quen ở Saigon. Nếu về Saigon vào những
dịp khác, tôi đã đến tìm họ, nhưng lần này khác. Tôi không thể đến thăm họ với
bộ mặt buồn rầu của kẻ đi đưa đám ma. Họ, những người không thân thiết lắm với
tôi đó, sẽ không hiểu được tại sao tôi lại có thái độ kỳ lạ đến thế nếu tôi
không nói cho họ biết là vợ tôi mất tích và tôi về để tìm vợ tôi.
Mà tôi thì tôi không muốn nói chuyện về Ngọc mất tích, Ngọc
đi xa tôi, với ai nữa, ngoài Huy ra và Thiếu tá Trịnh. Tôi nói với Huy vì Huy
đã biết từ trước và vì Huy là một phần của chính tôi, tôi nói về Ngọc với Thiếu
tá Trịnh vì cần thiết.
Sáng chủ nhật, tôi buồn đến nỗi nhiều lúc tôi phải can đảm lắm
mới không để cho ý nghĩ “tự tử” ám ảnh.
Nếu ngày chủ nhật đầu tiên của tôi ở Saigon khi Ngọc đã mất
tích ấy có Huy …
Nhưng Huy đã có hẹn đi chơi “weekend” với người thân của Huy
từ lâu. Tôi hiểu, vì Huy có kín đáo nói cho tôi hiểu, người mà Huy có hẹn là một
thiếu phụ mà Huy có thể cưới làm vợ. Huy giữ kín danh tánh nàng vì chuyện chưa
đi sâu đến giai đoạn để Huy có thể nói về người thiếu phụ ấy với các bạn của
Huy. Nhưng Huy có hứa với tôi là tôi sẽ là người thứ nhất được biết tin nếu Huy
cưới vợ.
Tôi không muốn Huy thất hẹn nên đã đòi Huy phải đi, tôi đã cố
tình tỏ ra không bằng lòng nếu Huy ở lại. Hai nữa, Huy có ở lại với tôi cũng chẳng
có lợi gì cho tôi. Chúng ta đã đem việc nhờ đến cảnh sát, chúng ta phải chờ cho
cảnh sát làm việc.
Huy có đề nghị tôi cùng đi. Nhưng ai lại đi như thế bao giờ.
Có tôi, người thiếu phụ kia sẽ nghĩ gì về Huy, về tôi? Nhất là trong trạng thái
tinh thần bất an, lo âu của tôi lúc này, tôi không muốn gặp ai, không muốn phải
trò chuyện với ai hết. Bắt tôi phải cười nói, vui vẻ tức là bắt tôi chịu cực
hình.
Vì vậy, vào một buổi sáng chủ nhật, tôi thấy tôi bơ vơ, trơ
trọi, cô đơn kinh khủng ở giữa quê hương tôi. Cô đơn và hiu quạnh, buồn rầu hơn
cả kẻ lưu vong ở một xứ sở coi thường mình nhất.
Có lẽ ở Saigon với hai triệu dân, không có kẻ nào cô đơn hơn
tôi ngày chủ nhật ấy.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn đủ sáng suốt để biết rằng dù ở Saigon
hay ở bất cứ đâu, với tâm trạng của tôi, tôi cũng vẫn cô đơn, bơ vơ và buồn khổ
như thường. Chủ nhật tuần trước, ở ngay Nam Vang, thành phố quen thuộc của tôi,
tôi chẳng buồn rầu, chẳng cô đơn là gì?
Văn chương trữ tình và lãng mạn của Pháp có câu: “… un seul
être vous manqué et tout l’univers est dépeuplé …” Thật đúng. Khi ta yêu ai mà
ta thiếu sự có mặt của người đó, mà người đó xa ta, ta thấy tất cả cuộc đời này
vắng vẻ. Ngày xưa khi đọc thấy câu đó và những câu tương tự trong tiểu thuyết,
tôi vẫn coi thường, cho rằng các nhà văn đã “quan trọng hóa” quá đáng sự hiện
diện của tình yêu, đã đề cao quá đáng sự có mặt hay vắng mặt của người đàn bà.
Nhưng …
Chính vì Sàigòn này không có Ngọc, hoặc nói một cách khác,
chính vì đời tôi vắng mặt Ngọc nên tôi thấy cả Sàigòn này buồn thảm và hiu quạnh.
Nghĩ lại, tôi thấy rằng dường như chủ nhật trước ở Nam Vang
tôi không buồn không khổ lắm bằng chủ nhật này tôi sống ở Sàigòn. Và tôi nghĩ
ra rằng đó là vì chủ nhật trước, tôi mới chỉ xa Ngọc có ba ngày.
Còn chủ nhật này, tôi xa Ngọc đã … 10 ngày rồi.
Đây là ngày chủ nhật thứ hai mà đời tôi vắng Ngọc.
Đã mười ngày rồi tôi không được hôn nàng, không được hít ngửi
mùi da thịt của nàng, không được chạm tay vào mình nàng, không được ôm nàng,
không được nghe tiếng nàng nói …
Nhiều lúc, nhất là về ban đêm, tôi thèm khát những cảm giác
trên đây mạnh đến nỗi tôi phải cố nén để khỏi hét lên … Hét lên vì nhớ Ngọc.
Huy ơi … để tôi kể cho Huy nghe một chuyện thê thảm này. Tôi
chợt nhớ tới nó và tôi rùng mình kinh sợ. Ngày xưa, năm tôi còn nhỏ nhưng cũng
đã đủ trí khôn để suy xét và ghi nhận, tôi ở nhà bà cô tôi để học lớp Nhất Tiểu
học. Cô tôi mở tiệm May âu phục. Trong số thợ của cô tôi có một anh thợ hiền
lành vẫn được gọi là anh Tư. Có nhiều lúc vắng anh, các bạn đồng nghiệp của anh
thường gọi anh là Tư Ho. Về sau tôi mới biết là anh có bệnh ho lao. Chắc Huy
không hiểu gì hết về cuộc sống trong các nhà may đâu nhỉ? Trong nhà thợ may nào
cũng vậy, có vài anh thợ may và một số các cô gái chuyên viền khuyên và đơm cúc
áo, trong này gọi là “nút”. Đó là các cô “khuy nút”.
Trong số thợ may của cô tôi có anh Tư Ho như đã nói. Lại có một
cô khuy nút trông khá quyến rũ. Anh Tư yêu thương cô khuy nút đó và hai người lấy
nhau. Chuyện rất thường, hai vợ chồng cùng làm nghề may. Mai sau, họ để dành được
tiền, họ sẽ ra mở riêng một tiệm may của họ. Họ sẽ mướn người làm, họ sẽ thành
ông bà chủ, con cái họ được học hành đến nơi, đến chốn sẽ có thể trở thành bác
sĩ, kỹ sư … Chuyện thật dễ. Chuyện chẳng có gì là tiểu thuyết hoặc mơ mộng quá.
Có điều là với cặp vợ chồng “chồng may Tây, vợ khuy nút” này, chỉ có người chồng
là yêu vợ còn chị vợ không yêu không thương chồng.
Hai vợ chồng chung sống được chừng nửa năm, một hôm chị vợ đi
làm rồi đi luôn không về nhà. Anh Tư đi tìm vợ khắp các tiệm may và nhà quen.
Không thấy. Rồi anh như người điên, lang thang đi tìm vợ dưới trời nắng buổi
trưa. Anh hỏi cả những người đi đường anh không quen biết là có thấy vợ anh ở
đâu, chỉ cho anh đến tìm …
Và sau cùng, đi tìm vợ khoảng hai, ba tháng gì đó, anh Tư chết.
Anh chết trong nhà thương thí. Chết không ai biết, vì anh đi tìm vợ quá xa …
Ngày đó, tuy còn nhỏ, tôi cũng đồng ý với người lớn là anh Tư
quá dại. Tại sao lại cứ nhất định phải chạy theo một người đàn bà khi người đó
cố tình trốn lánh mình? Tại sao lại cứ phải yêu một người khi người đó không
yêu mình? Đời thiếu gì đàn bà? Chỉ sợ mình không có tiền, nếu có tiền thì không
thiếu đàn bà đẹp. Cô ả này không yêu mình thì mình tìm cô khác, mình yêu cô
khác …
Nhưng Huy ơi, nếu tình yêu chỉ giản dị như thế thì cõi đời
này đã chẳng có ai chết vì yêu, đã chẳng có những vụ tự tử giết người, chặt đầu,
móc mắt, quăng lựu đạn vào nhà nhau vì yêu.
Và nếu tình yêu chỉ giản dị có thế thì anh Tư Ho của tôi ngày
xưa đã không chết …
Và những lúc nhớ Ngọc như điên cuồng, nếu có kẻ nào đề nghị với
tôi rằng ngay lúc đó, tôi có thể ôm Ngọc trong tay năm phút … chỉ năm phút
thôi, rồi sau đó tôi và nàng cùng chết … tôi tin rằng tôi nhận lời ngay. Nói
như vậy để Huy hiểu rằng tôi “thèm khát” nàng đến là chừng nào.
Tôi còn phải chịu đựng sự xa cách này bao lâu nữa?
Trong ngày chủ nhật thứ hai xa cách Ngọc này, ngoài nỗi nhớ
nàng, tôi còn đau đớn vì một chuyện khác nữa. Tôi có thể nói thật với Huy: tôi
đau đớn vì chuyện Thiếu tá Trịnh cho tôi biết chiều qua, chuyện trong năm 1954,
khi chưa thành vợ tôi, khi chưa gặp tôi và chưa yêu tôi, Ngọc đã dính líu vào một
vụ trộm xe hơi.
Tôi đau đớn không phải vì “Ngọc dính líu với một tên trộm xe”
mà là vì nàng đã dấu không cho biết chuyện đó. Chỉ nội cái tên … Paul Văn đó đã
đủ làm cho tôi điên lên vì giận hờn. Tại sao một người như Ngọc lại có thể giao
du với một tên chơi bời đàng điếm như tên đó. Nội cái tên Tây lai căng, Tây mất
gia phả của nó cũng đủ tố cáo thành tích của nó. Tôi biết vụ đó chỉ xẩy ra trước
ngày Ngọc gặp tôi có nửa năm, nàng chưa thể nào quên được chuyện ấy. Tôi nhớ
chưa từng bao giờ nàng nói về tai nạn đó với tôi. Tôi chắc chắn nàng ngồi trong
xe đó, nàng đi chơi với tên Paul đó vì nàng không biết chiếc xe hơi nó đi là xe
mất trộm.
Tuy không có lời nào giao ước với nhau, tuy chưa từng bao giờ
nhắc đến dù xa hay gần, tôi và Ngọc cùng đồng ý rằng chúng tôi không dấu nhau
điều gì. Chúng tôi không có đời tư, chúng tôi chỉ có một đời chung. Chúng tôi đồng
ý cho nhau cả những gì thầm kín nhất, xấu xa nhất của nhau – nếu có – và những
gì đẹp nhất. Vợ chồng tôi đã đồng ý không dấu diếm nhau điều gì.
Về phần tôi, tôi đã làm đúng như thế. Tôi đã kể cho Ngọc
nghe, cho nàng biết, tất cả những gì đã xẩy ra trong đời tôi, kể cả những chuyện
mà đáng lý ra tôi phải dấu diếm, che đậy hoặc “hóa trang” cho chúng trở thành
khác đi đôi chút. Tôi “cho” nàng hết. Có những chuyện mà không người đàn ông
nào lại nói cho đàn bà hay, nhất là lại nói với vợ mình, tôi vẫn nói cho nàng
nghe.
Ngọc biết hết cả về tôi. Ngược lại, tôi cũng nghĩ, cũng tin
là tôi biết hết cả về nàng. Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng nàng lại có thể dấu tôi
chuyện gì.
Vậy mà giờ đây, hôm nay, tôi bắt buộc phải nhận rằng … tôi đã
lầm, tôi đã tin sai. Vì một lý do nào đó mà tôi chưa được biết rõ, Ngọc đã dấu
tôi một vài sự việc khá quan trọng đã xẩy ra trong đời nàng. Rất có thể là chuyện
tai nạn xe hơi và việc đi trên chiếc xe bị lấy trộm đó cũng chẳng có chi là
“quan trọng” lắm, nhưng nếu nó không quan trọng, tại sao nàng lại dấu tôi?
Tại sao chưa bao giờ nàng nói với tôi đến cái tên Paul Văn, đến
nữ ca sĩ Kim Phụng? Nàng có thể cười đùa mà nói đến chuyện nàng lầm không biết
nên đi chơi trên một chiếc xe mất trộm rồi xẩy ra tai nạn và nàng bị cảnh sát bắt
giữ vài giờ, nửa ngày lắm chứ?
Và, ngay từ hôm qua, có một chuyện đã làm cho tôi ngờ vực nhiều:
Bà Ngà đã đổi nhà từ nửa năm nay, tại sao Ngọc không nói cho tôi biết gì hết?
Chắc chắn Ngọc phải biết địa chỉ mới của mẹ nàng chứ?
Khi biết là Bà Ngà đã đổi nhà, tôi tự đánh lừa tôi – và tôi
đã thành công nếu không có phát giác mới của Thiếu tá Trịnh về vụ xe hơi – tôi
cố nghĩ là Ngọc đã có báo cho tôi biết về việc Bà Ngà đổi nhà nhưng vì lơ đãng,
tôi đã quên đi.
Nhưng bây giờ thì tôi biết chắc, và tôi không làm sao còn có
thể tự lừa tôi được nữa, Ngọc đã không nói gì hết với tôi về chuyện Bà Ngà. Tôi
biết mỗi tuần, chậm và ít lắm là hai tuần, Bà Ngà đều có gửi thư cho con gái.
Chắc chắn thế nào Bà cũng cho con gái biết về tình trạng đuổi nhà để lấy nhà
cho Mỹ mướn xẩy ra ở Sàigòn, đến chuyện Bin-đinh bà đang ở cũng bị đuổi, người ở
ra tòa kiện nhau với chủ nhà, đến những khó khăn của bà trong việc đi tìm một
nơi cư ngụ mới. Những lá thư như thế chắc chắn phải có tới cả 10 chiếc trước
khi có thư Bà Ngà đã tìm được nhà mới. Bà mẹ vợ tôi chịu khó viết thư lắm … Vậy
mà Ngọc không nói qua cho tôi biết về chuyện ấy …!
Tại sao? Tại sao??
Hai tiếng hỏi đó vang dội trong đầu tôi. Ngọc đã không nói
cho tôi biết chuyện Bà Ngà dọn nhà cũng như nàng không hề nhắc nhở gì đến hai
cái tên Paul Văn, và Kim Phụng. Nàng dấu biệt tôi chuyện cái xe Cadillac.
Với tôi, sự im lặng của nàng là “lừa dối” là “phản bội”. Tôi
không dùng những tiếng quá nặng cũng như tôi không quan trọng hóa sự việc đâu
Huy. Đối lại với lòng thành thật của tôi, sự im lặng của Ngọc chính là “lừa dối
và phản bội”.
Dù hai chuyện lừa dối đó, chuyện không nói gì cho tôi biết về
việc Bà Ngà đổi nhà mới, vụ tai nạn xe hơi, có liên hệ hay không đến việc Ngọc
mất tích hôm nay, những sự thật vẫn còn đó, nặng nề, không thể chối bỏ, không
thể nói là không có. Sự thật đó tàn nhẫn, vô nhân đạo. Nó càng tàn nhẫn, càng nặng
nề, càng vô luân vì tôi không thể giải thích được chúng.
Người mà tôi yêu thương, quí báu nhất đời, người mà tôi quí
hơn tất cả, hơn cả đời tôi, hơn cả những kỷ niệm về người mẹ hiền của tôi, người
mà tôi sẵn sàng đổi tất cả những gì tôi có trong đời tôi để có nàng, người để
tôi có thể chết để cho nàng sống, người đó đã có thể dấu diếm tôi, lừa tôi, dối
gạt tôi … Nếu một chuyện khủng khiếp đến như thế có thể xẩy ra, cuộc đời này
còn có gì đáng quí nữa?
Nếu chuyện đó có thể xẩy ra, tôi tin rằng tất cả những gì khủng
khiếp nhất cũng có thể xẩy đến với tôi.
Đúng thế … Nếu Ngọc có thể lừa dối tôi, hoặc nói một cách
khác, nếu tôi có thể bị Ngọc − vợ tôi − lừa dối, thì tất cả những tai họa lớn
nhất, kinh dị nhất cõi đời này, đều có thể và dễ dàng xẩy đến với tôi, xẩy đến
và bắt tôi phải chịu đựng.
Tôi như tự thôi miên tôi về những chuyện mà Ngọc dấu tôi,
nhưng thực ra những chuyện đó có liên hệ gì tới vụ nàng mất tích hay không? Những
gì nàng “lừa dối” tôi đó lẽ cố nhiên là quan hệ đến tình yêu của tôi rồi đó,
nhưng có thể một mai tôi sẽ tìm thấy lời giải đáp cho chúng, còn Nàng, còn Ngọc,
người mà tôi yêu thương nhất đời, tôi có ngày nào tìm lại được nàng hay không?
Lúc này Ngọc đang ở đâu? Ngọc đang làm gì? Đang ở gần ai?
Thiếu tá Trịnh có nói đến một “cạm bẫy”. Một “cạm bẫy người”
− nhan đề một tập phóng sự tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng về cờ bạc bịp − dùng
trong trường hợp vợ tôi mất tích nghe thật chối tai và tàn nhẫn, nhưng đó chính
là một danh từ dùng đúng chỗ. Đúng là vợ tôi bị gạt đưa vào cạm bẫy của một tên
chuyên tống tiền nào đó. Những tên mà người Pháp gọi là “maitre chanteur”. Nàng
là nạn nhân, nàng đang bị cầm tù, giam giữ, hành hạ ở một nơi nào đó. Có thể
nàng đang đau yếu, nhưng nếu nàng còn sống … Chỉ cần nàng còn sống, nàng sống
và trở về với tôi, mọi khổ đau hiện nay của tôi sẽ tan biến như sương đêm gặp
ánh nắng sớm.
CHẾT …!! Nhưng nếu Ngọc đã chết? Có thể nàng đã chết. Tôi sẽ
không bao giờ còn nhìn thấy nàng, còn nghe tiếng nàng cười, nói, tôi sẽ không
bao giờ còn có thể chạm tay được vào da thịt nàng, được ôm nàng trong tay, được
cười, được nói với nàng nữa!! … Từng ấy thứ khủng khiếp có thể xẩy ra trong lúc
tôi đứng ngẩn ngơ như một thằng ngốc, nghĩ đến chuyện tại sao nàng lại nói dối
tôi … tại sao nàng lại thế nọ, tại sao nàng lại thế kia …
Tôi thật là ngốc dại …
Nghĩ đến đó thiếu chút nữa tôi la lên …
Tôi chỉ còn có mỗi một cách cứu vãn tạm thời trong lúc này để
khỏi phát điên: uống rượu, uống cho thật say – tôi không có hy vọng uống để quên
mà là chỉ để làm dịu bớt một phần nào cảm giác đau đớn đang hành hạ tôi, để tôi
có thể chịu đựng được nó – tôi đi ngay ra khỏi phòng.
Khách sạn này cũng có Bar rượu, nhưng khung cảnh của nó không
phải là nơi để cho người uống có thể uống đến say mèm. Nhưng đường này, con đường
trước khi tôi rời khỏi nước còn có cái tên Tây là Catinat, nay được đổi là đường
Tự Do, có thừa những Bar rượu “lý tưởng” để tôi có thể uống say quên trời, quên
đất. Những nhà gọi là “Snack-bar” mọc lên quá nhiều trên đường Tự Do. Cứ cái đà
này, nếu không có gì thay đổi, chỉ hai năm nữa là con đường trung tâm của thủ
đô Sàigòn sẽ chỉ có toàn những Bar rượu phục vụ binh sĩ ngoại quốc và tất cả những
người đàn bà, con gái đi vào con phố này đều là những người sống với giúp vui
cho binh sĩ ngoại quốc.
Tôi đến trước cửa một Snack-Bar. Ngày chủ nhật, đường Tự Do
đông đầy người ngoại quốc. Ngày xưa, trước năm 1954, đường này vào ngày chủ nhật
đầy lính và sĩ quan Pháp. Bây giờ cũng vậy. Cảnh và người có thay đổi chút xíu
nhưng tựu trung vẫn là người ngoại quốc ở đây nhiều hơn người Việt Nam.
Trước cửa Bar, tôi thấy có nhiều người đàn ông và nhiều xe
scooter tụ tập. Thoạt đầu tôi nghĩ họ là những người đàn ông làm cái nghề tồi bại
nhất là nghề “ma cô”. Nhưng khi thấy họ chào mời những người ngoại quốc ở trong
Bar bước ra tôi mới hiểu rằng họ làm cái nghề tương đối lương thiện và tốn sức
lao động là nghề “đưa rước” người ngoại quốc di chuyển bằng xe hai bánh. Sàigòn
hiện đang thiếu xe tắc xi.
Nhưng rõ ràng người ta chỉ chú trọng tới khách ngoại quốc. Dường
như người ta không ưa những người đồng bào với người ta la cà tới những chỗ ăn
chơi mà người ta lập ra cốt để tiếp người ngoại quốc này. Ở Nam Vang, đôi khi
được đọc báo Sàigòn, tôi thấy có nhiều đoạn, viết gần như than thở rằng có nhiều
quán rượu từ chối thẳng vào mặt khách “lô-can”, không thèm bán cho khách Việt.
Đọc những đoạn đó tôi nửa tin, nửa ngờ. Giờ đây tôi tin là thật.
Dường như những người Việt, đàn ông cũng như đàn bà, sống với
nghề phục vụ người ngoại quốc, còn có chút liêm sỉ nên họ không muốn để cho đồng
bào của họ trông thấy họ lúc họ làm những việc mà họ cho, họ nghĩ là họ có thể
bị khinh. Nếu đúng như tôi nghĩ, họ cũng còn “nhất điểm lương tâm” đấy chứ. Tôi
vào một Bar. Căn nhà này trước kia, nếu tôi nhớ không lầm, trước ngày tôi đi
sang Nam Vang, là một nhà có cái tên long trọng là “Câu Lạc Bộ Văn Hóa”. Cái
Câu Lạc Bộ này hồi đó do một ông Cựu Bộ Trưởng làm chủ. Bây giờ nó đã trở thành
một “Snack-Bar” điển hình. Bar đầy người và khói thuốc, tiếng nhạc và tiếng cười
đùa. Cửa ra vào đóng kín, ánh đèn lờ mờ không đủ sáng. Tôi nhìn không rõ nét mặt
những người mà danh từ mới gọi là những “nữ chiêu đãi viên”. Họ cũng chẳng để ý
gì đến tôi, họ đang mải lả lơi, cười đùa, ôm ấp và hôn hít những người lính ngoại
quốc. Tôi thấy tất cả các cô trong Bar này đều mặc “đầm”. Y phục của họ đều là
loại đắt tiền nhưng không vì thế mà trông họ có vẻ sang và lịch sự. Trái lại nữa
là khác. Những bộ đồ “đầm” đắt tiền ấy chỉ tố cáo với thiên hạ một cách quá rõ
rệt rằng họ làm nghề “nữ chiêu đãi”.
Trong cái Bar này không có lấy một người đàn ông Việt Nam nào
ngoài tôi ra. Tôi chọn được một cái ghế đẩu khuất trong góc. Cô bán hàng đứng
trong quầy, dường như những cô đứng trong quầy thuộc vào một loại “nữ chiêu
đãi” khác hơn là những cô chiêu đãi bên ngoài, hỏi tôi uống gì? Có điều mỉa mai
nhưng cũng dễ hiểu là cô ta tưởng tôi là người ngoại quốc, người Phi hoặc người
Thái lan gì đó, nên cô hỏi:
- What you want to drink?
Tôi trả lời gọn lỏn:
- Whisky.
Rượu họ rót cho tôi là rượu hạng chót. Nhưng không sao, miễn
là có chất rượu. Song cảnh và người trong phòng rượu này làm cho tôi chán ngắt.
Chỉ còn một cách là tôi mua rượu về phòng uống một mình. Song tôi vốn kém về tửu
lượng. Chỉ cần ba ly rượu nhạt uống trong cái Bar đó đã đủ làm cho tôi say. Tôi
đi ra đường. Buổi trưa đã xuống tự bao giờ. Đường Tự Do, trung tâm của thủ đô
Sàigòn, chỉ đông người và rộn rịp vào buổi sáng. Từ 12 giờ trưa trở đi, nó vắng
lặng một cách buồn tẻ. Tôi đi qua cửa tòa nhà Quốc Hội biến thể từ Nhà Hát Tây.
Nếu tòa nhà này mà Chánh Phủ ngỏ ý bán lại hoặc cho sang, chắc chắn là bọn chủ
“Snack-Bar” giầu sụ ở Sàigòn cũng dám bỏ tiền ra mua, bao nhiêu chúng cũng có
thể mua được, để chuyển hóa thành một Nhà Casino cho binh sĩ ngoại quốc đến giải
trí. Tôi đi lên bờ sông. Những con tầu chiến đậu bến mới sơn lại, mầu sơn xám
dưới ánh nắng buổi trưa, trở thành trắng lóa mắt. Nhà Khách sạn Majestic đã được
sửa lại nhưng vẫn không thể bằng được Nhà Hàng mới có tên là Caravelle. Những kỷ
niệm và hình ảnh xưa hiện lên trong trí tôi. Nhà Hàng Caravelle được xây dựng
trên một miếng đất ngày xưa có tiệm sách. Và không hiểu tại sao tôi nhớ tới
hình ảnh nhà Nouveautés Catinat ngày xưa. Bây giờ Phòng Thông Tin Đô Thành đặt ở
nơi trước kia là nơi bán nhiều mỹ phẩm của Pháp nhất Saigon.
Không có gì để nhìn thêm cho đỡ buồn ở bờ sông Saigon vào buổi
trưa, tôi đi trở lại Nhà Thờ lớn nay có tên là Vương Cung Thánh Đường. Chúa Nhật,
nhà thờ mở cửa suốt ngày. Trên bãi cỏ trước cửa Vương Cung, dưới chân tượng Đức
Mẹ, tôi thấy có một thiếu phụ bận đồ tang, đứng chắp tay, mặt ngước lên nhìn Đức
Mẹ nguyện cầu. Bà ta đứng giữa trời nắng buổi trưa như thế không biết đã tự bao
giờ.
Tôi dừng lại dưới gốc cây trước cửa nhà Bưu Điện nhìn người
thiếu phụ đang nguyện cầu. Đó là một người đàn bà trạc 40 tuổi, người không có
nhan sắc mấy. Người như thế có thể gọi là xấu. Rồi tôi thấy bà ta nằm phục xuống
trước tượng, dưới chân tượng Đức Mẹ.
Tôi nhìn đồng hồ tay coi bà ta nằm phục dưới nắng gắt buổi
trưa như vậy trong bao nhiêu lâu. Năm phút rồi 10 phút trôi qua, bà ta vẫn nằm
im bất động. Niềm tin và hy vọng của người đàn bà cầu nguyện ấy như vượt qua
quãng đường đến tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi nghĩ rằng người đàn ấy phải có một nỗi
đau buồn hoặc lo sợ nào lớn lao lắm. Và lòng tin của bà ta cũng lớn như nỗi lo
âu ấy. Tôi tin rằng với cuộc cầu nguyện này, chắc chắn bà ta sẽ được đáp ứng.
Không có một thần linh nào vô tình với sự cầu xin của người hết lòng, nhất là Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Nếu Đức Mẹ không có lòng cứu giúp, chắc chắn Đức Mẹ Maria đã
chẳng được thờ phụng lâu đến 20 thế kỷ. Chắc chắn là Đức Mẹ Maria có cứu giúp
loài người. Tôi là người ngoại đạo, tôi cũng tin như vậy. Song, từ trước đến giờ,
tôi chưa bao giờ tới cầu xin Đức Mẹ là vì tôi chưa có gì để mà phải cầu xin cả.
Tôi khỏe mạnh, tôi có một việc làm đài thọ tôi đầy đủ, tôi yêu một người đẹp và
được người đó yêu lại. Nếu những ngày trước đây tôi là người có đạo – Bà Ngà có
đạo, Ngọc có đạo song tôi thì không – tôi có tới Đức Mẹ thì chỉ là để cám ơn Đức
Mẹ đã ban cho những hạnh phúc mà tôi đã và đang được hưởng. Khi tôi và Ngọc yêu
nhau và sau đó kết hôn, Ngọc không đưa điều kiện bắt buộc tôi phải theo đạo của
nàng, và tôi, tôi cũng không muốn nàng bỏ đạo. Nếu có điều kiện đó, chắc chắn
tôi theo ngay, không chút do dự. Và thực sự mà nói, tôi thấy Ngọc chẳng có vẻ
gì ngoan đạo lắm, mặc dầu có sáng chủ nhật, nàng cũng đi nhà thờ dâng lễ, nàng
cũng giận và tỏ ra không bằng lòng khi ai nói về tôn giáo và nói những lời mỉa
mai, chống báng tôn giáo của nàng. Song, chỉ thế thôi, nàng không nói đến chuyện
xưng tội, chịu lễ, và tôi cũng chẳng bao giờ hỏi nàng về tôn giáo của nàng.
Có điều cô đơn, và sợ hãi như buổi trưa hôm nay, tôi hối hận,
tiếc vì tôi không phải là một tín đồ của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Vẫn biết Đức Mẹ
có quyền phép và có lòng cứu giúp tất cả mọi người và tôi vẫn nghe nói đến những
chuyện người ngoại, nhiều người cầu xin lại hay được Đức Mẹ ban ơn hơn là người
có đạo. Song tôi thấy thật sự tôi không có tư cách gì để tới cầu xin Đức Mẹ như
người đàn bà kia. Tôi có thể nhân danh Đau Khổ và nếu có thể có lòng tin như
người đàn bà đang nằm dưới nắng kia – tôi không cho đó là một hành động “ăn vạ”,
đó là một sự biểu lộ niềm tin quá nhiều, một tình cảm không biểu lộ sao cho hết
− nếu tôi có thể làm được như bà ta, có lẽ tôi sẽ vơi được nhiều đau đớn và lo
sợ.
Tôi thấy có một thiếu niên từ trong nhà thờ đi ra. Chú nhỏ đó
chắc là con trai của bà mẹ đang nằm đó. Chú nhìn bà mẹ với một cặp mắt vừa lo
âu vừa đau khổ, vừa hy vọng – tuy đứng xa nhìn tới, nhưng tôi đoán biết cặp mắt
của chú bé như vậy, tôi như cảm thấy hy vọng tràn đầy cùng với đau đớn trong
lòng chú – chú đi tới cúi xuống, trìu mến nâng bà mẹ dậy. Bà mẹ không chịu. Chú
cúi bên mẹ nói nhỏ nhỏ những câu gì đó. Bà mẹ đưa tay cho chú nâng và chậm chạp
và mệt mỏi đứng dậy. Chú nhỏ dìu mẹ đi vào bóng râm của hàng cây bên kia đường.
Tôi bước đi, trong vài phút, tôi nghĩ rằng nỗi đau khổ của
tôi chưa chắc đã lớn bằng nỗi đau của hai mẹ con người đàn bà đó. Tôi bỗng thấy
người đàn bà đó cũng là một “Đức Mẹ”. Ít nhất bà ta cũng là “Đức Mẹ” của chú nhỏ.
Tôi chợt thấy tôi lảm nhảm trong miệng đoạn kinh “Đức Mẹ” mà tôi thuộc. Tôi có
học vài Kinh và hiểu chút ít về Thiên Chúa Giáo để có thể nói chuyện với Ngọc
và Bà Ngà khi cần đến. Tôi đọc với tất cả niềm tin của tôi.
Đột ngột, không một dấu hiệu gì báo trước, trời giáng xuống một
cơn mưa lớn. Mưa mau đến nỗi nhiều cô gái đi xe Solex qua chưa kịp vào trú mưa
trong hiên nhà Bưu Điện hoặc trong hiên Nhà Thờ Lớn đã bị ướt hết. Sự thay đổi
thời tiết từ nắng to qua mưa lớn quá mau làm cho tôi khó chịu, cộng thêm hai ly
rượu dở tôi vừa uống làm cho tôi nôn nao đến cái độ muốn ói mửa. Tôi vội tới ngồi
bệt xuống một bậc thềm nhà Bưu Điện, hai tay ôm lấy đầu, ủ rũ như một tên chán
đời chính hiệu.
Mà tôi chẳng chán đời là gì? Còn có kẻ nào trên đời này chán
đời hơn tôi nữa? Chán nản đến cái nước rã rời chân tay, không còn muốn, mà gần
như là có muốn cũng không thể làm cái gì được nữa.
Mưa quá lớn. Tôi không nhớ là tôi ngồi ôm đầu, gục mặt vào đầu
gối như vậy trong bao lâu, khi tôi ngước lên nhìn, công viên trước mặt tôi đã
tràn đầy nước. Nước chẩy không kịp vào những miệng cống, làm cho mặt đường giống
như một mặt hồ. Và gió lạnh thổi bay nước mưa vào tận chỗ tôi ngồi. Tôi bỗng
rùng mình vì lạnh.
Gan ruột tôi như làm một cuộc nổi loạn. Từ ngày ra đời tới giờ,
nói thực với Huy là tôi cũng có ba, bốn lần đau ốm nặng nhưng chưa bao giờ tôi
lâm vào cảnh ói mửa ở ngoài đường. Nhưng buổi trưa chúa nhật buồn thảm, cô đơn
này, tôi đã bị ói mửa ở ngay những bậc thềm nhà Bưu Điện.
Lúc đó có chừng mười người cùng trú mưa với tôi ở đó. Chắc họ
không biết rằng tôi say rượu. Ai lại say đến nỗi nôn mửa ra đường vào lúc mới 1
giờ trưa bao giờ. Họ tưởng tôi bị cảm. Có người tới đưa cho tôi ve dầu cù-là.
Tôi mửa ra toàn nước. Chất nước do rượu biến thể tanh tanh
làm cho tôi cảm thấy ghê tởm chính tôi. Ngọc sẽ nghĩ về tôi ra sao? Nàng là người
lúc nào cũng sang, cũng sạch, cũng đẹp? Nàng có tin rằng tôi khổ sở như thế này
khi chúng tôi gặp lại nhau không? Nhưng …
Có bao giờ chúng tôi gặp lại nhau nữa không nhỉ?
Chắc chắn là chúng tôi còn gặp nhau nữa chứ. Tuy sầu muộn,
tuy thất vọng, tôi vẫn tin chắc như vậy. Nước Việt Nam chúng ta nhỏ bé lắm, nước
chúng ta đã nhỏ mà còn bị cắt ra làm đôi. Nước ta chỉ có vài ba thành phố lớn:
ĐàLạt, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ … Những người ở Sàigòn muốn đi trốn chỉ
có thể đến những thành phố đó. Để tìm người đi trốn ở nước ta, trừ khi người đi
trốn có đi ra ngoại quốc. Ở bên Âu Châu người ta có thể đi trốn mà không tìm được
vì ở bên đó, người ta có thể đi tự do từ nước nọ sang nước kia, hoặc ở Hoa Kỳ,
người ta cũng có thể đi trốn được, vì Hoa Kỳ gồm nhiều tiểu bang … Mỗi tiểu
bang của họ lớn bằng cả nước ta … Nhưng lạ chưa kìa … đã mửa ra hết rượu rồi,
tôi vẫn còn say ư? Dường như tôi vừa nói thành lời những ý nghĩ của tôi và những
người trú mưa quanh tôi dường như đã nghe thấy tôi nói lảm nhảm. Quá ngượng,
tôi cắm đầu đi trong mưa.
° ° °
Tôi đi mãi và sau cùng mưa cũng tạnh. Quần áo tôi ướt sũng nước
rồi dần dần khô đi tự lúc nào tôi cũng không hay. Khi tôi bàng hoàng tỉnh lại
tôi nhìn đồng hồ tay, thấy đôi kim chỉ 3 giờ chiều. Tôi đã đi bộ lang thang
trong thành phố Sàigòn trong hai tiếng đồng hồ.
Tôi nhìn quanh và thấy tôi đang ở giữa một khu đông nhà ở
nhưng nhà nào cũng nhỏ, và dường như nhà nào cũng đông người, cũng nhiều trẻ
con. Ở đây trời cũng mưa lớn và nhà nhà đang quét nước ra đường. Khu phố này thấp,
chắc hệ thống ống cống thoát nước không có hoặc bị nghẹt sao đó nên nước mưa
tràn hết vào nhà. Trẻ con dắt nhau ra đường nghịch nước đông vui như ngày hội.
Buổi chiều chúa nhật chỉ có đường Tự Do là vắng và buồn, còn ở các xóm nghèo
khác ở Thủ Đô Sàigòn, đời sống vẫn vui nhộn như ngày thường.
Lúc đó tôi đứng trước lối vào một khu có những căn nhà làm
cùng một kiểu và cùng một kích thước, những khu nhà mà người ta gọi là cư xá.
Tôi nhìn lên tấm bảng tên phố nơi đầu lối vào cư xá và mắt tôi nhìn thấy một tấm
bảng khá lạ. Tấm bảng bằng tôn, khá lớn, trên vẽ một cái Bát Quái.
Tấm bảng Bát Quái đó đập vào mắt mọi người lạ mới tới cư xá
này lần đầu. Dưới hình Bát Quái đó có mấy hàng chữ:
MINH TÂM
CHIÊM TINH TƯỚNG SỐ
Độc nhất vô nhị tại VIỆT NAM
Vô Cư Xá quẹo tay mặt 300 thước
Tấm bảng và những dòng chữ quảng cáo làm cho tôi nẩy ra ý định
vào coi bói. Tôi vốn không tin bói toán dị đoan, mê tín vớ vẩn. Từ trước, tôi vẫn
coi bói toán, đồng cốt là trò nhảm nhí. Tôi cũng giống như Ba tôi. Ông cụ không
hề tin và tỏ ra khinh bỉ ra mặt những trò cúng bái, bói toán. Nhưng hôm nay
khác … Hôm nay là một buổi chiều chúa nhật buồn phiền, ảo não nhất trong đời
tôi, một buổi chiều mà tôi cô đơn đau khổ, tôi chẳng có việc gì làm hay hơn là
việc vào coi bói.
Và … biết đâu đấy … những chuyện bói toán “thần sầu”, thầy
bói gọi ra vanh vách những chuyện sống chết của những người nổi tiếng do những
người khác kể lại cho tôi nghe − những chuyện mà tôi nghe nhưng không tin, tôi
chỉ cười, không phê bình, vì tôi không muốn làm mất lòng người kể chuyện − chợt
trở lại với tôi. Biết đâu vì một sự lạ huyền bí nào đó, ông Thầy bói “đại tài”
này lại chẳng có thể chỉ cho tôi biết một vài điểm về tương lai, cái tương lai
sáng tươi có mặt của Ngọc.
Niềm hy vọng trở lại trong tôi. Tôi không đói ăn, không khát
uống, tôi chỉ thèm, tôi chỉ “đói khát” hy vọng.
Tôi đi vào cư xá. Nhà ông thầy bói hiện ra rõ ràng với một tấm
bảng Bát Quái khác. Trên khung cửa ra vào, tôi còn thấy có treo lủng lẳng một nắm
chân gà, chân vịt khô queo. Một tấm bảng viết chữ khác nữa cho tôi đọc thấy những
dòng quảng cáo như sau:
MINH TÂM
Đặc tài Chiêm Tinh Tướng số
Biết hết quá khứ, kể rõ hiện tại, nói quyết vị lai. Nói trúng
tên tuổi thân chủ, con cái mấy người, vợ chồng ra sao mà không cần hỏi. Chỉ rõ
hoạn nạn cùng cách giải trừ, hữu sinh vô dưỡng là tại làm sao, chỉ bảo tận tường,
quyết đoán người đi có về hay không, sống chết ra sao. Không đúng cam đoan trả
lại tiền thù lao. Kính mời quí khách.
Mấy chữ … “người đi có về hay không …” đập mạnh vào mắt tôi.
Không do dự gì nữa, tôi bước vào căn nhà đó.
Một cái bàn không nhỏ cũng không lớn nằm ngay nhà ngoài, trên
có bầy mấy tấm hình đàn bà trông như người Thái Trắng miền Thượng du Bắc Việt.
Đó là bàn tiếp khách của Ông Thầy. Không thấy ông thầy đâu, trong vài giây đứng
đó, tôi nghe tiếng người nói trong phòng trong vang ra, tiếng đàn bà và trẻ
con, dường như trong đó đang có một đám đánh bạc, đám bạc cò con trong gia đình
chơi với nhau.
Một người đàn bà thò đầu ra ngoài tấm màn hoa nhìn tôi, tôi
cúi đầu chào, không chào lại, người đó quay vào và tôi nghe tiếng Thị nói:
- Có khách.
Dáng chừng nhà Chiêm tinh, nhà tướng số dám đăng báo tuyên bố
là “Đệ nhất vô nhị tại Việt Nam” cũng là một chân bạc trong đám bạc cò con ấy.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế gỗ chờ. Bên ngoài trời đã ngừng mưa
nhưng bầu trời vẫn còn nặng trĩu, hứa hẹn một trận mưa khác có thể kéo dài suốt
tới đêm khuya. Ngồi trong căn nhà lạ đó nhìn ra con đường cư xá nhỏ hẹp chỉ đi
vừa một chiếc xe hơi, tôi thấy rằng trời mưa lớn ban đêm làm cho thành phố thật
sạch sẽ vào buổi sáng, nhưng bẩn. Đó là trường hợp trận mưa lớn trưa hôm nay.
Ông thầy bói ra. Phải gọi Y là một gã thầy bói mới đúng. Tôi
vốn có ác cảm sẵn với bọn thầy bói, nhất là bọn thầy bói sáng. Những người mù
chẳng may bị tật nguyền không trông thấy gì, họ phải tìm một nghề dễ kiếm sống.
Thầy bói mù không có mắt đâu để coi tướng tay, tướng mặt cho thiên hạ được nên
họ còn phải mất công học coi tử vi, và tử vi là một khoa học thực nghiệm còn khả
dĩ có thể tin được đôi chút, đến như bọn làm thầy bói mà sáng cả hai con mắt
thì thật đáng bỉ.
Tôi chỉ vào tiệm coi bói này vì quá buồn, vì không có việc gì
làm trong một buổi chiều chúa nhật đi tìm vợ, trước khi gặp mặt gã thầy bói này
tôi còn có vài ba hy vọng nhỏ nhoi được nghe nói vài câu về vợ tôi, người vợ tự
dưng đi mất tích của tôi, nhưng từ giây phút nhìn thấy y tôi mất hết ngay cái
hy vọng nhỏ xíu ấy.
Gã trạc 40 tuổi. Mặt y có cái vẻ tai tái, bì bì của kẻ nghiện
rượu đế nặng. Trông y có vẻ “quê quê”, cái quê của một anh Việt Cộng hồi chánh.
Nhưng chỉ nhìn mặt y, người kém nhận xét và thiếu thông minh đến mấy cũng thấy
rõ là y bịp, trừ những người đàn bà nạ dòng Việt Nam có chồng có vợ bé ngu si
và dốt nát hơn y.
Y bận áo sơ mi dài tay bỏ ngoài, cái quần Tây xám. Đúng là y
đang dở canh bạc gia đình, và dù đó có là canh bạc cò con đi chăng nữa, Y cũng
không lấy gì làm hào hứng phải rời chân ra tiếp khách.
Y để lộ sự bực dọc ấy ra mặt:
- Ông coi bói.
Y hỏi tôi bằng cái giọng hơi sỗ sàng.
Có lẽ vì Y đã quen được thiên hạ kính trọng gọi tôn là “thầy”,
một điều “thưa Thầy … Nhờ Thầy giúp cho …”. Nên Y sinh ra kiêu mạn. Cũng có thể
Y tỏ ra kiêu căng như vậy để thử thách. Vẻ kiêu căng đó có thể là một thủ đoạn
của Y. Ai cần thì ở lại coi để cho Y bịp, ai không ưa thì bỏ đi ngay, những người
nào không chịu được vẻ khinh mạn của Y sẽ không để cho Y bịp.
Tôi gật đầu:
- Phải. Coi bói. Ông coi …?
Y gật đầu, giơ tay mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đặt trước cái
bàn độc nhất trong căn nhà hẹp. Đó chỉ là một cái bàn gỗ thường, trên có trải một
tấm khăn bằng vải cao su. Y ngồi ghế bên kia. Lưng Y quay vào tường và tôi ngồi
quay lưng ra lối đi.
Y long trọng hắng giọng:
- Ở đây tôi coi với nhiều giá.
- Có những giá nào?
- Hai trăm đồng, bốn trăm đồng, sáu trăm đồng …
- Ông coi cho tôi giá giữa … Bốn trăm đồng …
Tôi móc ví lấy tiền đặt quẻ và hỏi Y:
- Có thật là ông không hỏi tuổi mà biết được tên tuổi, vợ chồng
ra sao không?
Y cứng cỏi đáp:
- Thật chứ. Thân chủ của tôi có nhiều bác sĩ, kỹ sư, những
ông làm lớn … Tôi mà không làm được đúng những lời tôi đăng báo đâu các ông ấy
có để cho tôi yên … ông cứ coi tôi khắc thấy rõ …
Việc làm trước tiên của Y là lượm bốn trăm bạc của tôi, để
vào lòng cái đĩa con, đặt lên bàn thờ cạnh bàn, một loại bàn thờ nhỏ xíu, bàn
thờ (bỏ túi), bàn thờ (poọc-ta-típ) có thể mang đi, xách tay trở lại dễ dàng. Y
cắm ba nén hương lên bát hương trong bàn thờ đó và lẩm nhẩm khấn vài câu.
Y bắt đầu cuộc coi bói. Và tôi lại bắt đầu tưởng nhớ đến Ngọc.
Nỗi nhớ thương bừng bừng như lửa, ào ào đến như gió, cuồn cuộn như sóng … Tôi
ngồi đó mà thần trí tôi bay bổng tận đâu đâu … Tôi như chỉ cốt vào đó để ngồi một
lúc, để có một người ngồi trước mặt nói cho tôi nghe những lời tôi không buồn
nghe. Tôi phải trả bốn trăm đồng để được có một lúc như thế.
Gã thầy bói làm những trò gì tôi không nhớ hết. Tôi chỉ thấy
rằng Y làm toàn trò bịp, những thuật tiểu xảo không có dính líu gì tới bói
toán, tới tương lai hay hậu vận của người là thân chủ của Y, đến để nhờ Y cho
biết đôi chút về tương lai mờ mịt chớ không phải là đến để coi Y làm trò ảo thuật.
Và gã thầy bói tự xưng là (độc nhất vô nhị) tại Việt Nam này
làm toàn trò quỉ thuật. Tuy nhiên, Y cũng có vài trò hay hay đáng “đồng tiền,
bát gạo”. Chẳng hạn như trò sau này.
Gã bảo tôi:
- Bây giờ tôi gọi tên tuổi ông mặc dầu ông không nói … Ông cầm
cây viết chì này, ông viết tên tuổi ông cùng tất cả những việc đang làm ông thắc
mắc, những việc ông muốn hỏi tôi đó. Bất kể số là bao nhiêu việc, ông cứ viết hết
lên giấy …
Gã bưng từ cạnh bàn ra đặt ở giữa bàn một cái hộp sắt vuông lớn
bằng hai hộp bánh “bích-qui”. Hộp sắt sơn xanh, đáy hộp không dính xuống mặt
bàn vì có bốn chân cũng bằng sắt nâng hộp lên cao. Nắp hộp có cái khoá nhỏ đàng
hoàng.
Gã mở nắp hộp và nói tiếp:
- Viết hết xong ông tự tay bỏ vào cái hộp sắt này và tự tay
ông khóa nó lại. Tôi không thế nào mở hộp ra mà ông không biết, cái hộp này vẫn
để y nguyên ở đây. Tôi sẽ đọc ra tất cả những gì ông muốn hỏi tôi. Cái hộp này
với tờ giấy của ông chỉ là để làm bằng cớ, nếu lát nữa ông nói tôi nói trật,
chúng ta mở nó ra coi …
Tôi làm theo lời Y. Tôi viết bằng viết chì, chữ lại nhỏ, Y
không nhìn tay tôi lúc tôi viết, sau lưng tôi không có treo cái gương nào hết.
Viết xong, tôi bỏ tờ giấy gấp tư vào hộp, đậy nắp lại.
Gã hỏi tôi:
- Ông sẵn sàng chưa?
Tôi gật đầu. Gã đưa qua cho tôi một đầu giây điện có cái chốt
bằng đồng như cái chốt để cắm vào các máy hát đĩa. Gã bảo tôi cắm chốt đầu dây
đó vào lòng bàn tay trái. Gã nắm đầu dây bên kia và Gã bắt đầu (tập trung tư tưởng)
để (bắt) luồng nhân điện của tôi phát ra từ lòng bàn tay tôi. Rồi Gã cũng viết
ra giấy chứ không nói. Chừng ba phút sau, Gã đưa cho tôi mảnh giấy Gã viết bằng
một thứ chữ không đều nét chứng tỏ Gã vô học.
Tôi đọc thấy Gã viết:
- “Tên ông là Hoàng Tuấn, ông 36 tuổi, cầm tinh Con Dậu. Ông
có bà vợ mất tích. Ông đang đi tìm bà ấy về.”
A … cũng thần sầu đấy chứ? Tôi viết trên tờ giấy do chính tay
tôi bỏ vào hộp sắt trước mặt tôi và Gã nói đúng như thế. Gã viết lại gần đúng
nguyên văn những gì tôi viết. Phải nhận rằng Gã cũng có tài … Gã có tài đọc lén
được tờ giấy của tôi viết bỏ trong hộp mà tôi không biết là Gã đọc bằng cách
nào: lén lấy ra hay vẫn để trong hộp mà đọc được.
Gã vừa biểu diễn một màn quỉ thuật chỉ cần khéo tay trước đôi
mắt chăm chú nhìn bắt của tôi mà tôi vẫn không biết. Chỉ nội một trò đó, Gã
cũng đủ ăn được bốn trăm đồng bạc của tôi.
Gã thu dọn đồ nghề đi sau khi tôi im lặng chịu là Gã đã viết
trúng. Gã lại hắng giọng:
- Ông tuổi Dậu bà vợ ông tuổi Tí … Đúng ra là hai tuổi này
không hợp nhau … Vợ chồng tuổi này lý ra là phải xa nhau từ lâu rồi … Nhưng vì
ông bà thương yêu nhau nên tình yêu thắng được tất cả …
Gã lý luận về Tình Yêu cũng khá đấy chứ … Có lẽ Gã không đến
nỗi thất học lắm như tôi tưởng.
- Tuy nhiên … năm nay … ông gặp phải cái hạn lớn lắm … Ông
đang bị sao La Hầu chiếu mạng. Chắc ông biết qua về Tử Vi? Nam La Hầu, nữ Kế
Đô? Đàn ông gặp sao La Hầu là nặng nhất và đàn bà nặng nhất là gặp sao Kế Đô.
Không ai có thể tránh được số mệnh … Tất cả đều đã được định sẵn … Con người gắng
gượng chống lại cũng chỉ là vô ích mà thôi. Có khi chỉ thêm đau đớn, có khi còn
thiệt thân, nghĩa là nếu cứ cố cưỡng lại số mệnh … con người có thể bị khổ đau
hơn cả cái phần khổ đau mà số mệnh thoạt đầu dành cho mình phải chịu …
Nếu lúc đó Gã nói tiếp một câu như … “Thôi ông, định mệnh đã
an bài … Bà ấy đi không bao giờ còn trở lại với ông nữa đâu … Ông nên nghe tôi
trở về làm lại cuộc đời với người khác … Ông hãy còn trẻ, ông có địa vị, ông có
tiền … ông cần quái gì …” có lẽ tôi đã đấm ngay cho Gã một quả vào giữa mặt,
cho cặp mắt kiếng trắng “học giả hiệu” và thầy bói bịp của Gã rớt xuống, vỡ ra,
nhưng may sao, Gã nói tiếp bằng những lời lẽ khác:
- … người tài giỏi có thể chỉ huy được quỉ thần, đoạt quyền Tạo
hóa như ông Khổng Minh Gia Cát Lượng … mà còn phải thua số mệnh nữa là. Lòng
người muốn thế nhưng không được, vì số trời đã định mất rồi … Nhân định như thử,
như thử … Thiên lý vị nhiên, vị nhiên …
Gã đưa đẩy một câu tiếng Pháp:
- … L’homme propose, Dieu dispose …
Có lẽ nhìn thấy mặt tôi có những nét gì đó đáng sợ, Gã vội
vàng nói ngay:
- Số đã định đến năm nay ông bà bắt buộc phải xa nhau một thời
gian. Dù ông bà không muốn cũng không được … Nếu không xa nhau cách này ông bà
cũng phải xa nhau cách khác … Nhưng cuộc xa nhau của ông bà cũng chỉ có giới hạn
thôi … Ông sẽ tìm gặp bà ấy …
Chắc Gã có nhiều kinh nghiệm với những kẻ như tôi nên đã biết
là tôi sắp nói, sắp hỏi Gã câu gì và Gã ngừng lại đó chờ tôi.
Tôi hỏi:
- Ông có thể nói rõ bao giờ tôi gặp vợ tôi không?
Không trả lời ngay, Gã còn vờ vẫn:
- Ông cho tôi coi bàn tay trái của ông.
Tôi xòe tay. Gã mở ngăn kéo lấy ra một cái kiếng “loupe” chiếu
nhìn đường chỉ trong lòng bàn tay tôi. Chặp sau, Gã mới thâu ống kiếng lại và
chậm rãi:
- Tôi không thể nói quyết thời gian được. Nói như vậy là nói
bậy và ông có thể phiền tôi. Những ông thầy tướng số tự trọng không bao giờ quyết
đoán rõ rệt với những con số … Vì những việc trọng đại xẩy ra trong đời mình đến
sớm hay muộn còn tùy thuộc ở một số những việc nhỏ bao quanh nó. Thế nào nó
cũng tới, nhưng có khi nó tới sớm, có khi nó tới muộn. Vậy thôi. Tôi không thể
nào nắm giữ hết được tất cả những sự việc nhỏ sẽ xẩy ra trong đời ông nên tôi
không thể quyết đoán những việc lớn. Tôi chỉ có thể bảo đảm với ông rằng ông sẽ
gặp lại bà vợ ông. Còn như …
Gã lại ngừng vài giây để cho tôi “thấm” những gì Gã đã nói và
nhất là để tôi nghe những lời Gã sắp nói:
- Còn như nếu ông nóng lòng muốn gặp bà ấy, nghĩa là nếu ông
thực tình trong lòng muốn sớm tiêu trừ cái hạn này, tôi có một cách có thể giúp
ông được … Nhưng …
Gã lại dừng vài giây:
- … Nhưng muốn tôi giúp, ông phải thật tâm tin tưởng mới được.
Cũng có thể đây là một cái duyên may của ông … tôi có được quen với một ông thầy
ngải trên núi. Ông thầy tu luyện trên núi ít khi chịu ra mặt gặp người trần lắm.
May sao ông ấy mới về Sàigòn được vài hôm … Nếu ông muốn, tôi sẽ giúp ông … xin
ông Thầy cho ông cây ngải … Có cái đó việc ông gặp bà ấy sẽ nhanh hơn … không
thì …
A … thì ra anh chàng làm trò quỉ thuật này muốn dụ cho tôi bỏ
thêm tiền ra để anh đánh bạc. Chỉ có thế … Tôi không tin anh nên tôi không mắc
mưu bỏ tiền ra mua ngải của anh ta, nhưng còn các bà nửa quê, nửa tỉnh, những
bà nạ dòng nhan sắc không có lại có chồng mê vợ bé, những bà loại đó có bao
nhiêu tiền mà chẳng xin nộp hết cho Thầy để xin Thầy giúp cho …
CHƯƠNG 3
C
hào bà … Thưa bà tôi muốn gặp cô Phụng … Cô Kim Phụng, nữ ca
sĩ Kim Phụng.
Một bà nạ dòng độ năm mươi tuổi, to béo, sắc da tai tái, nhờn
nhợt như sắc da Tú Bà được tả trong Truyện KIỀU – khi nghe tôi nói đến ba tiếng
“nữ ca sĩ …” làm cho tôi hiểu ngay rằng tôi đã lầm khi nói đến tên Kim Phụng
sau cái chức vụ “nữ ca sĩ” không thành danh của nàng.
Bà nạ dòng này có vẻ ghét ba tiếng nữ ca sĩ không cần dấu diếm.
Bà ta không phủ nhận mà cũng không công nhận rằng đây là nhà
của cô Phụng. Nhưng bộ mặt khó đăm đăm của bà ta cho tôi thấy rõ ràng bà không
ưa người lạ tới đây hỏi về cô Phụng. Tôi không thể biết bà này có phải là bà mẹ
của người mà tôi đang đi tìm hay không.
Bà ta không đáp thẳng vào lời tôi hỏi, bà hỏi lại tôi:
- Ông là ai?
Giọng nói thô lỗ và cho tôi nghĩ rằng người đàn bà này sẵn
sàng và dễ dàng tỏ ra rất tục tằn và phũ phàng về lời nói khi bà ta muốn.
Nhưng tôi không thấy ngán gì hết. Sau cơn khủng hoảng chán đời
hôm qua, tôi trở về khách sạn và ngủ một giấc dài suốt đêm … Con người ta vẫn
thường có những kho chứa năng lực và can đảm mà con người ta không biết là có.
Sau một cơn chán đời khủng khiếp, người ta tự nhiên lại thấy có sức sống, muốn
sống, có can đảm để đương đầu đối phó và ý chí ham muốn chiến thắng mọi gian
lao, thử thách. Nếu kho năng lực và can đảm đó cạn đi, con người chán đời tất
phải tự tử. Như tôi chẳng hạn. Bây giờ đây tôi hiểu tại sao có những kẻ chán đời
tự tử và có những kẻ chán đời không tự tử mặc dầu họ, lúc thường, cũng có những
can đảm ngang nhau và những nỗi khổ sở, đau đớn của họ cũng chỉ lớn, sâu ngang
nhau. Vì tôi còn sống đến sáng ngày hôm nay là nhờ kho dự trữ can đảm của tôi
chưa cạn. Sáng nay, tôi như có một nguồn năng lực mới tinh.
Tôi cảm thấy trẻ lại, hăng hái, sẵn sàng chiến đấu. Tôi không
còn do dự gì nữa. Bất chấp những khó khăn trong cuộc đi tìm Ngọc, tôi nhất quyết
tìm nàng cho bằng được. Tôi không kể gì đến chuyện nàng dấu tôi nhiều chuyện mà
đáng lý ra nàng phải nói cho tôi biết, tôi không cần biết đến lý do tại sao
nàng lại dấu tôi, tôi chỉ biết chắc chắn có một điều là tôi yêu Nàng − tôi chỉ
yêu có một mình Ngọc trên cõi đời này − vắng nàng, không có nàng, tôi không thể
nào sống được …
Sáng nay, tôi biết chắc chắn rằng tôi sẽ đi tìm Ngọc, tìm cho
kỳ thấy dù tôi có vì thế mà phải giết người, tôi cũng vẫn làm.
Nếu cảnh sát tỏ ra bất lực hoặc vì lý do nào đó họ không chịu
tìm Ngọc cho tôi, tôi sẽ đi tìm một mình.
Tôi sẽ chiến đấu một mình. Nếu anh thầy bói sáng, bịp, làm
trò quỉ thuật để móc của tôi bốn trăm đồng bạc hôm qua − kể ra thì anh ta lấy bốn
trăm đồng cũng đáng, tôi vẫn chưa đoán biết, và tôi chắc nhiều người có học đã
tới coi anh ta làm xiệc cũng như tôi đều biết là ảnh bịp bằng cách đọc trộm tờ
giấy viết tên tuổi bỏ vào cái hộp sắt nhưng không biết là anh ta lấy tờ giấy đó
ra lúc nào, lấy ra bằng cách nào − nếu anh thầy bói đó nói đúng là ở đời này có
số mệnh và cuộc đời chúng ta bị chi phối bởi số mệnh, con người không thể nào
cưỡng lại được số mệnh, thì tôi chiến đấu luôn cả với số mệnh.
Định mệnh đã an bài … cái gì cũng được, nhưng định mệnh không
thể an bài rằng số kiếp tôi phải xa cách người tôi yêu dấu nhất đời. Không, làm
gì lại có cái định mệnh kỳ cục như vậy. Nếu Ngọc không yêu tôi, nếu chúng tôi
không yêu nhau, định mệnh an bài cho chúng tôi xa nhau … Được. Nhưng hai chúng
tôi yêu nhau kia mà? Làm gì có cái chuyện hai người đàn ông, đàn bà yêu thương
nhau mà lại bỏ nhau bao giờ?
Sáng nay, đột nhiên một niềm tin tưởng mới đến với tôi.
Niềm tin mạnh mẽ, rào rạt. Tự nhiên tôi cảm thấy là tôi sẽ
tìm ra được vợ tôi, Ngọc đang lâm nguy, nàng phải xa tôi vì một sự ép buộc nào
đó nhưng rồi tôi sẽ tìm lại được nàng. Cuộc xa cách và đi tìm này chỉ là một cuộc
thử thách cho tình yêu của chúng tôi, coi chúng tôi yêu nhau đến là chừng nào.
Trưa hôm qua tôi nhớ trong lúc say rượu và tránh mưa trong hiên Nhà Bưu Điện,
ngồi nhìn sang công viên trước Vương Cung Thánh Đường và thấy tượng Đức Mẹ trắng
muốt và tỏ lộ hào quang như nước mưa không rơi được vào mình Bà, tôi có lẩm nhẩm
đọc bài Kinh Kính Mừng mà tôi đã học với dụng ý để làm cho vợ tôi vui lòng, cho
nàng biết là vì nàng, tôi chú ý tới tôn giáo của nàng dù rằng tôi không tin. Phải
chăng dù tôi không cầu xin nhưng Đức Bà đã biết, đã nghe thấy nỗi đau đớn và hy
vọng của tôi nên Đức Bà đã giúp tôi có được nỗi yêu, tin và nguồn can đảm mới
hôm nay? Phải, biết đâu đấy? Đức Bà Hằng Cứu Giúp mọi người kia mà. Ai khổ là Đức
Bà cứu giúp, cứ gì phải đến xin van? Đức Bà là người mẹ hiền của nhân loại. Mẹ
hiền thấy con đói khát, lạnh, là cho con được no ấm, mẹ hiền đâu có cần phải chờ
con lên tiếng khóc hay van xin đâu?
Có lẽ thế … Chắc chắn thế.
Sáng nay, khi ngủ dậy, trái với sự ức đoán của tôi nếu đêm
qua tôi còn đủ tâm trí để mà ức đoán về tình trạng tinh thần của tôi ngày hôm
sau, tôi trở dậy và thấy đói, cảm thấy muốn ăn nhiều. Tôi gọi mang cà phê lên
phòng.
Cùng với khay cà phê, chú bồi phòng mang đến cho tôi một
phong thư đề tên tôi: Ô. Hoàng Tuấn, Khách sạn Continental.
Bì thư có hàng chữ: Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Bộ Nội Vụ. Và
thư do Thượng sĩ Bái viết.
Thượng sĩ Bái cho tôi biết rằng thừa lệnh của Thượng cấp của
ông là Thiếu Tá Đặng Như Trịnh, Chánh Sở Truy tầm, ông đã tìm được địa chỉ của
cô Trần Thị Kim Phụng. Nhưng đây chỉ là một địa chỉ cũ. Vào năm 1954, cô Trần
Thị Kim Phụng ngụ tại số nhà 805 đường Tây Sơn.
Với những nét chữ viết nhỏ và uyển chuyển như chữ đàn bà, Thượng
sĩ Bái tỏ ý lấy làm tiếc ông đã không tìm được cho tôi địa chỉ hiện tại của cô
Kim Phụng, nhưng ông hy vọng rằng cái địa chỉ cũ đó cũng có thể giúp ích cho
tôi được.
Ăn sáng xong, một bữa ăn sáng ngon lành, tôi xuống đường gọi
tắc xi bảo đưa tôi tới đường Tây Sơn.
Một căn nhà thường, không lớn lắm cũng không nhỏ hoặc tồi tàn
hay sang trọng gì lắm. Có thể cô Kim Phụng không còn ở đây nữa nhưng người đàn
bà này rất có thể là một người thân của cô ta.
Đây có thể nói là lần đầu tiên trong cuộc đi tìm vợ của tôi ở
Sàigòn, tôi thấy và gặp một sự việc trôi chẩy, ăn khớp. Đây là lần đầu tiên tôi
được người ta trả lời chớ không chỉ gặp toàn những người không biết gì như những
lần trước.
Tôi thản nhiên đáp câu hỏi của bà nạ dòng:
- Tôi muốn gặp cô Kim Phụng có việc riêng. Tôi là chồng một
cô bạn thân của cô Phụng …
Chính tôi khi nghe tôi nói câu đó tôi cũng phải ngạc nhiên về
sự thản nhiên của tôi, tôi thản nhiên nói tới một người mà trước đó 24 tiếng đồng
hồ, tôi không biết là có liên hệ với vợ tôi, đến một người mà mới hôm trước,
khi nghe nói tới, tôi đã tưởng tượng là một người mà tôi sẽ không bao giờ gặp mặt,
không bao giờ thèm hỏi đến, thèm đi tìm.
Vẫn vẻ mặt khó khăn, vẫn giọng nói đầy ác cảm gần như là hỗn
xược ấy, người đàn bà mập bự lại hỏi buông xõng:
- Chồng ai?
Tôi do dự.
Không biết tôi nên nói tên Như Ngọc hay nên dấu? Nói và dấu đằng
nào lợi, đằng nào hại?
Biết đâu cô Kim Phụng, người mà tôi đi tìm đây, lại chẳng có
liên can đến trường hợp mất tích của vợ tôi …? Có thể lắm chứ? Không nghi ngờ
quá đáng, không nhìn đâu cũng thấy có kẻ thù, tôi cũng nên đề phòng.
Tôi biết rằng dù muốn dù không, tôi cũng phải nói, phải tiết
lộ ít nhiều. Nếu không, người đàn bà này sẽ không cho tôi biết gì hết.
Bà ta còn đa nghi và đề phòng hơn tôi nhiều.
Rất có thể là cô ca sĩ hụt Kim Phụng có làm ăn những chuyện
gì phạm pháp nên bà này không muốn nói hở những gì mà bà ta nghĩ là có hại cho
người lạ hay biết. Có thể là bà ta nghĩ rằng tôi là người của cảnh sát đi dò hỏi.
Tôi cười như đây là một chuyện rất thường để nói:
- Vợ tôi trước kia là bạn rất thân của cô Kim Phụng. Vợ chồng
tôi lên Nam Vang làm ăn từ lâu mới về đây. Tôi xin lỗi … có phải bà là …
Nét mặt bà ta có vẻ dịu đi, bà gật đầu trước khi tôi kịp nói
hết:
- Tôi là mẹ nó …
Tôi cố vồn vã:
- Dạ … xin chào bà …
- Thế thì chắc ông là chồng của cô … Ngọc phải không? Tôi có
nghe con bé nhà tôi thỉnh thoảng nói đến cô Ngọc lấy chồng ở trên Nam Vang … Có
lần con bé nhà tôi nó nói nó muốn lên trên đó làm ăn nên tôi mới biết …
Tôi ngạc nhiên. Bà mẹ của cô Phụng nói thẳng ngay đến tên vợ
tôi trong lúc tôi muốn dấu. Như vậy có nghĩa là cô Kim Phụng hiện nay có thể
làm một hai công việc gì đó bất hợp pháp, nhưng cô ta không có dính líu gì đến
vụ vợ tôi mất tích hết.
Linh tính của tôi báo cho tôi biết là tôi có thể nhờ cậy nhiều
ở Kim Phụng trong việc đi tìm Ngọc.
Tôi vội nhận ngay:
- Thưa phải. Vợ tôi là … cô Ngọc, bạn thân cũ của cô Phụng.
Thưa bà vợ tôi cũng có nói đến cô Phụng luôn … Cô Phụng có ở nhà không ạ? Tôi cần
gặp cổ …
Tôi lại thấy bà mẹ của Phụng tỏ vẻ ngần ngại, do dự, đề phòng
như là có một cái gì đe dọa đến Kim Phụng nếu nơi cư ngụ của cô ta bị tiết lộ với
người lạ.
Bà mẹ Phụng suy nghĩ và tỏ ra bối rối đến vài giây đồng hồ mới
nói:
- Em nó không có ở đây. Ở đây chỉ có mình tôi thôi …
- Bây giờ cô ấy ở đâu, bà cho tôi địa chỉ để tôi đi tìm cổ …?
- Tôi cũng không biết là nó ở đâu nữa. Em nó ở lang bang lắm
… Chỉ thỉnh thoảng nó về thăm tôi thôi …
- Nếu bà không biết, chắc là các cô bạn của cổ phải biết chớ?
Bà làm ơn cho tôi biết nhà vài cô bạn của cổ để tôi đến hỏi thăm …
- Ông cần gặp nó có chuyện gì gấp lắm không ông?
- Dạ cũng khá gấp … Nhưng tôi cần gặp mặt cổ mới được …
Tuy vóc dáng to béo, nặng nề nhưng bà mẹ của cô Kim Phụng
cũng không phải là người đần độn. Bà ta quyết định khá nhanh:
- Như vầy thì tiện cho ông nè … Ông cho tôi biết số nhà ông
đi, tôi sẽ nhắn nó tới gặp ông …
- Tôi hiện ở khách sạn, e cô ấy tới đó tìm tôi không tiện …
- Không sao đâu …
Như biết là mình nói lỡ, bà ta sửa ngay:
- Không sao. Nó sẽ hẹn gặp ông ở nơi khác. Can gì nó cứ phải
tới khách sạn tìm ông mới được. Ông cứ ghi số phòng và cả số điện thoại khách sạn
nữa …
Bà này có vẻ văn minh và sáng trí hơn là tôi tưởng.
Tôi biết là bà ta muốn dấu chỗ ở cô con và tôi chỉ còn một
cách hay nhất là làm theo lời bà ta bảo: để địa chỉ lại.
Tôi rút ví lấy tấm danh thiếp ghi tên khách sạn và số điện
thoại cùng với hàng chữ vắn tắt: “Xin cô cho tôi gặp gấp. Có chuyện có can hệ tới
tính mạng của Ngọc. Tôi chờ cô. Chồng của Ngọc”.
Trao tấm thiếp cho bà mẹ của cô Kim Phụng và khi ngồi trên tắc
xi đi trở về rồi, tôi mới nghĩ xa hơn và tôi lại cảm thấy lo sợ.
Làm sao tôi có thể biết chắc được rằng cô Kim Phụng, người
dính líu đến vụ chiếc xe hơi lấy trộm mà tôi chưa hề biết mặt, biết người đó –
tôi vẫn tin rằng cô Kim Phụng, ca sĩ hụt, mới là người quen thân với tên vô lại
có cái tên Tây lai căng là Paul Văn, tôi có cái thành kiến coi cô ta là một người
thiếu nữ không được đàng hoàng ngay từ khi nghe Thiếu tá Trịnh nói đến vụ chiếc
xe – làm sao tôi có thể biết chắc được rằng người đó không dính líu gì đến vụ vợ
tôi mất tích?
Trong vụ này, khi Ngọc có thể bị bắt cóc – Huy ơi, tôi tin chắc
rằng Ngọc bị bắt cóc rồi − tất cả mọi người quen thân sơ với nàng ở Sàigòn đều
có thể liên can, tôi phải nghi ngờ và đề phòng tất cả mọi người quen biết thân
sơ với Ngọc. Nếu quả cái nhà cô Kim Phụng đáng nghi đó có liên can hay có chân
trong tổ chức bắt cóc vợ tôi mà tôi lại cho cô ta biết là tôi đến tìm cô ta thì
tôi đã dại dột vô cùng. Cô ả sẽ thông báo ngay cho đồng lõa của cô ả biết.
Nhưng sau phút lo sợ đó, tôi lại bình tĩnh và suy nghĩ khác.
Cứ cho là Ngọc bị bắt cóc đi, và cứ cho là cô Kim Phụng đó có
chân trong bọn bắt cóc Ngọc đi – ta đặt giả thuyết tạm như vậy – chúng bắt cóc
với mục đích gì? Chắc chắn không phải là vì mục đích chính trị rồi.
Chỉ còn bắt cóc để tống tiền.
Và nếu quả thực Ngọc bị bắt cóc để tống tiền thì tôi là người
trước hay sau, sớm hoặc muộn, cũng sẽ được bọn bắt cóc tiếp xúc để tôi nộp tiền
chuộc cho chúng. Và nếu quả thực cô Kim Phụng có chân trong tổ chức bắt cóc đó,
càng hay, vì nhờ có cô ta, tôi sẽ được tiếp xúc sớm hơn, tôi sẽ chóng được gặp
lại Ngọc hơn.
Tôi thực sự không ngờ, tôi lại được tiếp xúc với Kim Phụng
mau đến vậy.
Tôi trở về khách sạn và thấy trời nóng, tôi vào nằm trong bồn
tắm cho mát. Khí hậu Nam Vang tuy vậy mà cũng có khác với khí hậu Sàigòn. Nam
Vang mát hơn và tôi đã quen với khí hậu đó. Cái nóng và cái oi bức của Sàigòn
mùa mưa làm cho tôi khó chịu.
Tôi đang nằm dài trong bồn tắm thì chuông điện thoại reo.
Tôi chỉ nghĩ có hai người gọi dây nói đến cho tôi.
Một người là Huy, người thứ hai là Thiếu tá Trịnh.
Tôi ngạc nhiên khi nghe giọng nói lạ của một thiếu phụ.
- Phải phòng ông Hoàng Tuấn không?
- Phải tôi đây. Ai đó …?
- Tôi … Tôi … Vân Hà đây …
- Cô Vân Hà …? Xin lỗi … tôi không được quen …
Người thiếu phụ như vội vã, như sợ hãi, nàng ngắt lời tôi:
- Sáng nay ông đến nhà má tôi tìm tôi mà …?
- Cô Kim Phụng …?
- Tôi đây … Tôi là Kim Phụng đây … Tôi đổi tên là Vân Hà …
Giọng nói của cô Kim Phụng ngày trước nay đã đổi lại là Vân
Hà có những âm thanh thô và hạ tiện dù là nghe qua điện thoại. Nghe giọng nói ấy
và nhớ lại vẻ người cùng giọng nói của bà mẹ cô ta, tôi không cần phải đoán nhiều
và không cần sử dụng đến thành kiến, cũng biết ngay con người của cô ta.
Nói khác đi, chỉ cần nghe giọng nói của cô Vân Hà, tôi đã biết
ngay cô ta thuộc loại đàn bà hạ tiện, vô học. Tôi chợt thấy hiển hiện ra trước
mắt tất cả cái đẹp, cái cao sang, thanh lịch, học thức của Ngọc và tôi lấy làm
lạ tại sao một người đẹp, sang, có học như Ngọc lại có thể giao du – dù đó là
thời trước – thân mật với một cô bạn hạ tiện đến như cái nhà cô ca sĩ hụt đổi
tên này.
Vân Hà hấp tấp:
- Ông cần gặp tôi có việc gì vậy?
Tôi ấp úng và tôi cũng vội vàng không kém gì cô ta. Tôi như sợ
rằng cô ta vì một lý do nào đó cắt đứt cuộc nói chuyện bằng điện thoại này và
tôi lại phải khổ công đi tìm cô ta lần nữa:
- Tôi mừng quá … Tôi … tôi cần gặp cô lắm … May ra cô có thể
giúp được tôi … Cô Kim Phụng này … À … Xin lỗi … Cô Vân Hà … Tôi cần gặp cô,
nhưng tôi cần gặp mặt cô … Cô cho tôi được gặp cô ở đâu đi … Tùy cô hẹn … Tôi đến
ngay … Tôi có việc cần gặp cô gấp … gấp lắm …
Vân Hà hỏi tôi một câu ngắn và gọn:
- Ngọc có cùng về Sàigòn với ông không?
Không hiểu vì một lý do nào, vì linh tính hay vì cái gì khác
– Huy ơi, tôi không thể giải thích được tại sao mặc dầu mới trước đó ít phút,
tôi nghi rằng người đàn bà xa lạ này có dính líu đến vụ Ngọc mất tích – khi
nghe cô ta hỏi như vậy, tôi tin ngay rằng cô ta không giả vờ, không đóng kịch.
Tôi tin rằng Vân Hà không hay biết gì hết về chuyện Ngọc mất
tích ở Sàigòn.
Tôi tin ngay như vậy. Tôi thật là một kẻ đa nghi – tôi chỉ mới
trở thành đa nghi từ ngày Ngọc mất tích, nghĩa là từ ngày tôi đau đớn – nhưng đồng
thời, tôi cũng thấy rõ tôi không thể là một người dò xét, có tài dò xét, đoán
biết lòng người, vì chỉ cần nghe Vân Hà hỏi có vậy thôi, tôi đã tin ngay rằng
cô ta không biết gì hết về chuyện Ngọc mất tích.
Nên tôi trả lời ngay, với một sự ngây ngô khờ dại:
- Ngọc mất tích rồi … Chính vì Ngọc mất tích nên tôi mới cần
gặp cô.
- Mất tích? Cái gì …? Tôi không hiểu …
- Tôi sẽ gặp cô và nói hết để cô hiểu. Tôi có thể gặp cô ở
đâu? Ở nhà cô được không, cô Vân Hà?
- Ở nhà tôi hả …?
Vân Hà ngừng lại. Mặc dầu đang nói với nhau qua máy điện thoại
và chưa hề gặp mặt cô Vân Hà lần nào, trong giây phút im lặng đó, tôi cũng biết
chắc là cô ta đang làm một điệu bĩu môi không có duyên mấy.
Cô ả nói tiếp:
- Ông đến nhà tôi không tiện đâu. Không nên … Chồng tôi nó …
Nó đi làm cả ngày, nó không muốn thấy có đàn ông đến nhà thăm tôi …
Lời nói của Vân Hà về người đàn ông mà cô ả gọi là chồng
không làm cho tôi ngạc nhiên, người có giọng nói như vậy chắc chắn phải nói về
chồng mình như vậy. Và tôi chắc người đàn ông nào lấy cô ả làm vợ cũng không phải
là người đàng hoàng gì cho lắm.
Tôi chỉ ngạc nhiên tại sao một thiếu phụ đẹp, sang, học thức
như Ngọc mà lại có thể có một thời kết bạn với một người như cô Vân Hà.
Tôi cảm thấy tôi sẽ bất lịch sự nhiều hơn cô Vân Hà, nếu tôi
cứ nhất định đòi tới nhà cô ta.
- Vậy thì cô thấy tôi có thể gặp cô ở đâu? Tôi cần gặp cô lắm.
Cô bảo tôi đi tới đâu là tôi tới đó
Lại im lặng vài giây. Chắc cô Vân Hà lại làm điệu với cái ống
nói.
- Ông có thể chờ tôi lúc năm giờ chiều nay ở nhà hàng Casino.
- Nhà Hàng Casino …? Nhà hàng ấy cũng ở gần đây, cô quá bộ tới
Continental có hơn không? Nhà hàng của Continental còn lịch sự hơn nhiều. Tôi lại
chưa được gặp cô lần nào, tới đó làm sao tôi tìm ra được cô?
- Tới Continental ấy à? … Ồ … không được đâu. Tôi có nhiều
người quen ở đấy lắm …
Nói tới đây, Vân Hà dừng lại để cười. Tiếng cười rinh rích
nghe rõ qua máy. Cô nàng làm như mình là một người đàn bà lịch sự có nhiều người
quen ở khách sạn lớn này và không dám tới đó gặp người lạ sợ mang tiếng.
- … Ông lại có phòng ở ngay đó nữa … Người ta có thể ngờ … nọ
kia …
Cô ả nói thẳng ra những điều mà người đàn bà lịch sự, có học
không bao giờ nói. Càng nói chuyện lâu với cô này, tôi càng thấy rõ nỗi nghi ngờ
của tôi hiện thành sự thật: Cô Vân Hà, bạn cũ của vợ tôi không phải là một người
đàng hoàng.
Tôi đành nói:
- Để tôi tới Nhà Hàng Casino chờ cô vậy. Nhưng tôi cần gặp cô
gấp lắm … Cô có thể đến sớm hơn được không?
- … Không thể sớm hơn được … − Cô ả lại cười rinh rích − … đến
bốn giờ tôi mới ngủ dậy … Còn cho tôi tắm rửa, sửa soạn tí chút cho coi được chứ
…
- … Nhưng làm cách nào tôi nhận ra được cô?
- Tôi sẽ nhận ra anh …
Cô ả chuyển tôi từ “ông” xuống “anh” thật nhanh và tự nhiên.
Tuy chưa gặp nhau lần nào nhưng qua giọng nói của cô, tôi có
cảm tưởng như tôi đã quen cô ta tự lâu lắm rồi, hoặc cô ta biết nhiều về tôi lắm
vậy.
- … Anh chỉ cần cầm ở tay tờ báo … Tờ Phụ Nữ … số mới nhất …
là tôi nhận ra anh … Yên chí …
Nàng kết thúc cuộc nói chuyện bằng một câu tiếng Pháp: “À
tout à l’heure, mon cher … Au revoir …” Với một giọng đầm khủng khiếp quá đến nỗi
phải một phút sau tôi mới hiểu là nàng nói gì. Và tôi thở ra một hơi dài khi hiểu:
“À thì ra cô ả nói tiếng Pháp với mình …”
Tôi hoang mang từ đó đến chiều. Tôi sẽ đến nhà hàng Casino, một
nhà hàng nổi tiếng là có nhiều khách lính Tây trước đây. Không biết bây giờ nhà
hàng đó có thay đổi nhiều không, nếu có cũng như trước thì bây giờ, thay vì những
người lính Pháp, ở đó sẽ có những người lính Mỹ và những cô gái Việt tới đó vẫn
là loại gái làm tiền cũ.
Chưa gặp mặt Vân Hà, tôi đã biết rõ cô ta là hạng người nào rồi.
Rồi tôi đi đến ngay một kết luận là giữa Ngọc và người có cái
tên là Kim Phụng, nữ ca sĩ hụt, và bây giờ vẫn là nữ ca sĩ hụt mà đổi tên là
Vân Hà đó không hề có liên lạc bằng hữu gì hết. Hai người như thế không thể nào
có thể là bạn nhau. Ngọc không thể nào chơi thân với một cô gái hạ tiện như Vân
Hà. Nếu hôm đó Ngọc có ngồi chung xe với Vân Hà là vì một sự ngẫu nhiên nào đó
mà thôi.
Tôi nghĩ rằng cái nhà cô Vân Hà đó cũng chẳng biết gì hết về
Ngọc. Tôi có đi gặp cô ta với cuốn báo Phụ Nữ lẩm cẩm cầm trong tay, như một
anh con trai mới lớn mặt đầy mụn trứng cá đi gặp người con gái đầu tiên trong đời
qua mục Tìm Bạn trên báo cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Nhưng tôi đã hẹn với cô ta rồi. Tôi cứ đến, có không tìm được
gì mới về Ngọc, tôi cũng chẳng mất mát gì. Thượng sĩ Bái đã mất công tìm địa chỉ
cô này cho tôi. Tôi gặp cô ta thì Thượng sĩ Bái sẽ khỏi phải gặp.
Và tôi muốn gặp Vân Hà vì tôi quá thèm nói chuyện về Ngọc.
Ít nhất, Vân Hà cũng đã có cùng sống với người tôi yêu thương
trên chiếc xe mất trộm gặp tai nạn ấy.
Lúc nói chuyện với Vân Hà xong, tôi chưa bận quần áo. Tôi
đang nằm trong bồn tắm thì chuông điện thoại reo và Vân Hà gọi tới. Giờ đây,
buông ống nói xuống, tôi quay lại và nhìn thấy tôi không quần áo che thân, đứng
trong chiếc gương tủ áo.
Từ ngày Ngọc đi, từ ngày Ngọc mất tích, tôi không soi kiếng,
trừ những buổi sáng tôi nhìn vào kiếng để cạo mặt. Đột nhiên tôi thấy tôi trần
truồng …
Và tôi rùng mình kinh sợ …
Chỉ mới có mười ngày qua kể từ ngày tôi xa Ngọc, vậy mà tôi
biến đổi quá chừng. Người tôi gầy ốm đến khủng khiếp. Từ mười ngày, mười đêm
nay, tôi vẫn ăn, vẫn ngủ đều, nhưng tôi gầy như người tuyệt thực.
Các bạn tôi vẫn cho tôi là người có thân hình đẹp, mặc dầu từ
mười năm nay tôi không còn chăm tập thể dục nữa, chỉ thỉnh thoảng tôi mới đi
bơi, đánh te-nít v.v… Nếu các bạn tôi trông thấy thân hình “bộ xương cứu Chúa”
của tôi lúc này, chắc họ phải ngạc nhiên và không còn cho tôi là người có thân
hình “lực sĩ” nữa.
Tôi gầy đến nỗi bao nhiêu xuơng sườn, xương ngực của tôi lộ hết
cả ra. Tôi có thể đếm từng đốt xương một. Xương háng tôi lồi ra … Và lần đầu
tiên trong đời tôi tự hỏi Ngọc còn có thể nào yêu nổi tôi khi nàng thấy thân thể
tôi tàn tệ đến như vầy chăng?
Khi tôi đã tự hỏi một câu ngớ ngẩn và đần độn đến như vậy,
tôi biết rằng tâm trí tôi đã khủng hoảng quá lắm rồi.
° ° °
Nhà Hàng Casino không phải chỉ là nơi có toàn lính ngoại quốc
tới giải trí và những người đàn bà tới đó không phải chỉ toàn là gái chơi bời.
Ở đây có đủ mọi hạng người lui tới, nhưng đa số đều làm những
nghề bất chính, những nghề cần sợ hãi và lẩn tránh những người làm nghề cảnh
sát thẳng thắn như Thiếu tá Trịnh.
Đây cũng là một nhà hàng vào loại lớn ở Sàigòn, có đủ cả
phòng ăn, Bar Rượu, Dancing và trên lầu là khách sạn. Tôi vốn có ác cảm với nhà
hàng này nên tôi tới đó với tất cả những thành kiến xấu về nó.
Tôi thấy nhà hàng vẫn không thay đổi gì nhiều. Có khác chăng
là phòng ăn cũng như Dancing bây giờ được gắn máy lạnh và bảng hiệu cùng những
tờ thực đơn xưa viết bằng tiếng Pháp nay đổi thành tiếng Anh.
Đa số khách tới đây ăn chơi vẫn là người ngoại quốc.
Ngoại quốc ở đây gồm những binh sĩ Mỹ và những anh Ba Tầu.
Cô Vân Hà hẹn gặp tôi ở đó. Và nơi hẹn cho tới lúc tôi đặt
chân vào đó vẫn còn làm cho tôi ngạc nhiên. Một cô bạn của Ngọc lui tới nơi đây
làm gì?
Tôi tới đó thật sớm. Mới bốn giờ chiều đã có tôi ở đó.
Cũng như ngày hôm qua, một cơn mưa lớn giáng xuống thành phố.
Tôi ngồi ngay ở Bar để uống rượu. Bar Rượu nhìn ngay ra cửa
vào Nhà Hàng. Tôi ngồi chú ý nhìn ra cửa, thấy người đàn bà nào có thể là Vân
Hà bước vào là tôi ra hỏi ngay. Nhiều chiếc tắc xi dừng lại trước cửa. Có nhiều
người đàn bà vào Nhà Hàng, nhưng người nào cũng đi với đàn ông.
Tôi ngồi đó suốt cả giờ mà vẫn không thấy một người đàn bà
nào để có thể nghĩ là Vân Hà.
Tôi uống Martini. Dường như chỉ có Martini là hợp với tôi,
nghĩa là tôi chỉ có thể uống Martini mà không bị nôn mửa. Tôi ngồi buồn nhớ đến
hình ảnh người đàn bà nằm phục dưới chân Đức Mẹ Maria trước Vương Cung Thánh Đường
trưa qua … Tới hôm nay, vấn đề … − không, phải gọi là “thảm kịch” như các nhà
văn mới trong nhóm Sáng Tạo thường gọi chuyện đời mới đúng − thảm kịch của bà
đó đã diễn tiến ra sao? Lòng TIN và sự cầu xin đã giúp được những gì cho bà ấy
…? Lại còn cái nhà anh thầy bói làm trò quỷ thuật nữa. Giờ này, trời lại mưa,
không có ai lặn lội tới nhờ Thầy coi bói, chắc Thầy lại chui vào đám bạc cò con
trong nhà Thầy để giải trí lành mạnh rồi.
Việc nhớ tới anh Thầy Bói và việc tôi đi coi bói hôm qua cho
tôi có một nhận định về những anh thầy bói và nghề coi bói. Theo tôi, đó là một
nghề dễ − tương đối dễ kiếm tiền thôi, tự nhiên, vì làm nghề Thầy bói mà không
khéo nói thì cũng chẳng làm sao kiếm được ra nhiều tiền − tôi cho làm Thầy bói
dễ kiếm tiền vì khách đến coi bói chỉ gồm có hai hạng người: một là loại người
nhàn rỗi, không có việc gì làm, lại có thừa tiền, như những cô chơi bời hạng
sang chẳng hạn, hai là loại người đang có tâm sự u uẩn, sợ hãi, đang bị đe dọa
vì những tai nạn gì khủng khiếp … Chỉ có hai hạng người ấy mới chịu mất tiền
cho thầy bói, và cả hai hạng người đó đều không khó tánh. Hạng trên chỉ cần coi
để giết thì giờ, miễn là được ca tụng, được đề cao, được nghe nói về sau mình sẽ
giầu, sang … là hài lòng rồi. Còn hạng sau cũng vậy. Hạng người sau chỉ mong được
nghe nói là cái tai họa kinh khiếp mà mình đang sợ hãi sẽ không đến với mình. Vậy
thôi.
Tôi suy nghĩ dông dài như vậy về nghề bói toán và tâm trạng của
những người mất tiền cho thầy bói và uống rượu. Khi không cần uống vội, tôi
cũng uống được khá nhiều. Đến ly Martini thứ ba, tôi chợt thấy một thiếu phụ bận
đầm − chiếc áo hoa mầu sặc sỡ, tay cầm cái sắc da nâu − từ trong phòng ăn bên
trong đi ra. Tôi nhìn nàng rồi quay đi vì tôi không chú ý đến những người ngồi
trong phòng ăn. Nàng nữ ca sĩ hụt Vân Hà, người hẹn gặp tôi ở đây, chắc chắn là
phải tới muộn hơn tôi.
Tôi chỉ chú ý nhìn ra cửa.
Giọng nói khàn khàn của thiếu phụ bận đầm vang lên sau lưng
tôi, nàng hỏi người bồi sau Bar rượu:
- Từ hồi năm giờ đến giờ … chú có thấy ông nào vô đây tay cầm
quyển Phụ Nữ không, chú?
Khi nàng chưa nói hết câu hỏi đó, tôi đã nhận ra tiếng nói của
Vân Hà, tiếng nói tầm thường và có vẻ hạ tiện mà tôi đã nghe được qua máy điện
thoại. Tôi đang chờ nàng và nàng đã vô nhà hàng từ bao giờ …
– 8 –
Tôi vội vàng quay laị:
- Thưa … cô là cô Vân Hà?
Nàng gật đầu, miệng mỉm cười. Tôi gượng cười:
- Tôi xin lỗi, tôi quên khuấy đi mất việc cô bảo tôi mua tờ
báo cầm tay … Tôi ngồi chờ cô ở đây từ bốn giờ … Chắc hồi nẫy cô vào cô đã thấy
tôi ngồi đây … Thật là tôi quên mất chuyện tờ báo …
Anh bồi trố mắt nhìn chúng tôi. Anh không hiểu là chúng tôi
nói gì với nhau. Song, cứ nhìn vẻ mặt anh, tôi biết là anh ta nghĩ rằng chúng
tôi không phải là một bộ đôi lương thiện.
Vân Hà biết chắc người nàng chờ là tôi rồi, song, như một thiếu
phụ lương thiện nhất đời chưa từng bao giờ hẹn hò với đàn ông lạ ở nơi công cộng,
nàng nhìn tôi từ đầu đến chân và nàng hỏi:
- Có phải ông là ông … Hoàng Tuấn không?
Với một giọng nói khàn khàn, khao khao “vịt đực” như vậy, tôi
không hiểu vì lý do nào nàng dám ôm mộng làm nữ ca sĩ?
Nếu nàng ở Mỹ Quốc và nàng là người da đen, nếu nàng lại biết
thổi kèn Trompette và thổi hay như Louis Armstrong thì may ra nàng có thể trở
thành nữ ca sĩ da đen nổi tiếng với những bài “blues” như Louis Armstrong.
- Dạ … tôi.
Tôi tự giới thiệu một câu rất thừa:
- Tôi vừa từ Nam Vang về được hai ngày …
Chính Vân Hà lại là người tỉnh trí hơn hết trong tình trạng bối
rối này, nàng nhìn vào phòng ăn bên trong:
- Trong này không biết có chỗ nào ngồi nói chuyện được không
…?
Nàng làm như nàng mới tới đây lần này là lần đầu. Nhưng không
sao, mặc cho nàng làm điệu, mặc cho nàng vờ vẫn, nàng chỉ cần nói với tôi vài
chuyện về Ngọc là tôi hài lòng rồi.
- Thưa … chắc phải có chứ. Mời cô vô … Cô tới đây đã lâu lắm
chưa? Tôi thật bất lịch sự quá …
- Tôi đã tính đi về mấy lần … Chờ anh lâu quá đi …
- Tôi tới đây từ bốn giờ … Tôi tính tới đây mới mua tờ báo …
Tôi nhớ trước cửa đây cũng có hàng báo. Vậy mà tới nơi tôi quên khuấy đi mất …
Thật bậy …
Vân Hà cười rinh rích. Đúng là giọng cười vô duyên trong máy
điện thoại mà tôi đã nghe hồi nẫy. Nàng đi trước tôi, những bước đi nhẩy nhẩy
như bước đi của những cô gái mới biết nhẩy đầm đứng đâu cũng nhún nhẩy hoặc của
một cô gái nhẩy nhà nghề đã sống cả chục năm với nghề và từ mười năm nay, đêm
nào cũng nhẩy.
- Tôi biết. Lúc tôi tới, tôi đã thấy anh ngồi ở đấy rồi. Tôi
đã ngờ … anh ngay, nhưng chỉ vì không thấy anh cầm tờ Phụ Nữ trong tay nên tôi
không dám hỏi … Tôi … không ngờ anh … đẹp trai quá … Ngọc lấy anh thật xứng đôi
…
Tôi càng thêm bối rối. Tôi không quen giao thiệp với loại đàn
bà khen đàn ông đẹp trai một cách sỗ sàng, trắng trợn như vậy. Nếu Vân Hà là một
phụ nữ Tây phương thì không nói làm gì …
Tôi bối rối vì nàng lại là bạn cũ của vợ tôi.
Nàng đưa tôi tới ngồi trên chiếc bàn nàng đã chiếm từ nẫy. Trên
bàn có một ly Coca Cola uống dở. Nàng ngồi đó đúng như một cô gái chơi ngồi chờ
khách mà người ta vẫn thấy ngồi hàng giờ với một ly nước ngọt trước mặt trong
những nhà hàng.
Người thiếu phụ quá “rẻ tiền” này lại có thể là bạn của vợ
tôi sao? Cho tới lúc này, khi đã gặp mặt nàng, tôi vẫn còn hồ nghi.
Không … Chắc chắn là không thể như vậy được. Phải có một cái
gì bí ẩn trong sự liên lạc giữa Ngọc và người thiếu phụ này. Tôi sắp được biết
sự bí mật ấy.
- Chồng tôi mà ổng biết … tôi hẹn gặp anh ở đây như vậy chắc ổng
giết tôi mất … Ngọc nó có nói gì với anh về chuyện chồng con tôi không? Tôi
không được sung sướng như Ngọc … Tôi vất vả về đường chồng con lắm anh ạ … Chồng
tôi … ổng ghen kinh khủng … Mà tôi thì tôi cũng như Ngọc … tôi có nhiều bạn,
giao thiệp rộng … Mình sống theo … Tây … bạn trai cũng như bạn gái thôi … Đâu
phải cứ là bạn là phải có tình ý với nhau … Anh đồng ý với tôi chứ?? Nhưng ông
chồng tôi ổng không nghĩ thế … Mais … je lui pardonne … parcequ’il m’aime trop
…
Câu tiếng Pháp của nàng làm cho người tôi sởn gai ốc. Tôi
nhìn quanh chỉ sợ có người nghe lỏm được câu nói đó. Tôi nghĩ đến chuyện cứ cái
đà này mà tiến tới, chỉ một lát nữa, Vân Hà sẽ nói toàn tiếng Pháp với tôi và
nàng sẽ cho tôi biết là nàng là nữ sinh trường Đầm, như trường Marie Curie chẳng
hạn.
Tôi không muốn để nàng nói nhiều về cái tánh ghen của chồng
nàng. Nếu đúng như nàng nói, ông chồng nàng mà xuất hiện đúng lúc này thì lôi
thôi to. Tôi cũng không muốn để nàng có dịp nói nhiều tiếng Pháp.
- Tôi cần gặp cô để hỏi cô về một chuyện …
Đôi mắt to quầng đen và kẻ viết chì thật đậm trên lông mày của
Vân Hà mở lớn nhìn tôi:
- Hồi nẫy … lúc nói “tê-lê-phôn” … anh nói gì tôi không nghe
được rõ lắm … Anh nói Ngọc làm sao …? Anh nói cái gì …? Ngọc mất tích là … làm
sao?
Thú thực là nói về chuyện vợ mình bỏ đi mất tích với một người
bạn gái của vợ mình, hay là nói với bất cứ ai lạ hay quen thân, cũng là một
chuyện khó nói. Tôi ấp úng mãi, nhưng trước sau gì tôi cũng phải nói, dù có muốn
hay không. Vì vậy, tôi kể luôn cho Vân Hà biết hết về chuyện Ngọc.
Nàng chú ý nghe tôi. Tuy nói nhiều, nhưng khi nghe, nàng cũng
biết ngồi im và biết nghe, mặc dầu nàng vẫn không thể không “biểu diễn” những
cái nhún vai, và bĩu môi, những cử chỉ như Đầm, học được của Đầm ở những người
đàn bà Việt Nam vô duyên.
Tôi vừa nói vừa nhìn kỹ Vân Hà.
Công bằng vô tư mà nói, Vân Hà không phải là người đàn bà xấu.
Ngay cả với số tuổi này, nàng cũng không đến nỗi nào khó
trông nếu nàng biết cách trang điểm, nghĩa là nàng đừng trét phấn trên mặt như
trét vôi lên vách. Có lẽ vì nàng đã đánh phấn quá nhiều, quá lâu năm rồi nên
làn da của nàng đã bị chất vôi trong phấn làm cho chết. Nếu bây giờ nàng không
đánh phấn dầy như vậy, làn da mặt nàng sẽ tái xanh như da người chết. Hậu quả của
việc dùng phấn quá bừa bãi ấy là chất phấn làm cho da mặt nàng trở thành sần
sùi, ram ráp và lúc nào nàng cũng đánh thật nhiều phấn để làm cho lỗ chân lông
trên mặt nàng được lấp đầy đi. Nàng cũng là một người đàn bà khá nếu nàng lấy
được một người chồng đàng hoàng, tử tế, yêu thương nàng và chịu khó chỉ bảo cho
nàng cách sống, cách trang phục và trang điểm.
Nhìn bộ mặt trám bự phấn của Vân Hà, tôi càng thấy nàng và Ngọc
khác nhau. Ngọc rất ít khi đánh phấn. Nàng dùng phấn rất ít, làn da mặt Ngọc vẫn
còn y nguyên vẻ tươi mát của những thiếu nữ dậy thì, trong khi làn da mặt của
Vân Hà đã già cỗi như da mặt của một bà già.
Trước đây, khi còn là một thiếu nữ trên dưới hai mươi tuổi, tức
là trong thời giao du với Ngọc, nếu quả hai người có một thời là bạn với nhau –
Vân Hà, lúc đó còn có tên là Kim Phụng, là một cô không đẹp mà cũng không xấu.
Có lẽ chính vì kém nhan sắc nên Vân Hà đã không trở thành nữ ca sĩ. Tôi không
biết rõ lắm về tình trạng ca nhạc ở Sàigòn, nhưng đọc các phóng sự về giới nữ
ca sĩ đăng trên báo, tôi thấy nói rằng ở Sàigòn, với phong trào những Phòng Trà
Ca Nhạc, những cô gái có nhan sắc rất dễ trở thành nữ ca sĩ mặc dầu không có giọng
hát.
Khi tôi kể xong chuyện khổ tâm của tôi, Vân Hà trở lại − chỉ
trong vài phút mà thôi − người thiếu nữ không đẹp nhưng hãy còn vui và hiền
ngày xưa. Nàng nhìn tôi với đôi mắt chan chứa tình cảm. Lúc đó tôi thấy là tôi
có cảm tình với nàng và tôi quên đi tất cả những gì nàng làm gọi là “bê bối,
không đẹp” trong hiện tại.
- Tôi thật lấy làm buồn cho anh …
Giọng nói của nàng làm cho tôi cảm động. Đây là lần đầu tiên
tôi nói chuyện về Ngọc với một người đàn bà.
Vân Hà hỏi tiếp:
- Tôi có thể giúp gì cho anh được? … Nếu anh muốn …
Trong giây phút, tôi kinh sợ. Tôi tưởng lầm lời của Vân Hà là
một lời mời mọc … Nếu tôi muốn nàng sẽ có thể an ủi tôi … Nhưng may sao nàng tiếp
ngay:
- … Anh cứ nói, tôi sẵn sàng giúp anh … Nhưng thật là hiện giờ
tôi không biết Ngọc ở đâu. Bằng cớ là Ngọc về đây mà tôi đâu có biết … Lúc tôi
nghe má tôi nói chồng cô Ngọc đến nhà tìm tôi, tôi không nhớ là cô Ngọc nào …
Má tôi lại không gặp tôi, bà cho thằng em tôi đi tìm tôi … Làm tôi suy nghĩ mãi
không biết là chồng cô Ngọc nào … Tôi có tới ba bốn cô bạn tên là Ngọc …
Trong lúc đó, tôi vừa muốn được nghe Vân Hà nói rằng nàng là
bạn thân của Ngọc và nàng có thể chỉ vài chỗ cho tôi đi tìm Ngọc ở Saigon, tôi
lại vừa muốn được nghe nàng nói rằng nàng không quen biết gì vợ tôi hết và tất
cả chuyện này chỉ là vì hiểu lầm mà ra … Như nàng yên trí rằng tôi là chồng một
cô bạn tên là Ngọc của nàng nhưng khi hỏi kỹ ra thì chỉ là trùng tên.
Nếu lúc đó Vân Hà nói với tôi rằng nàng chẳng quen biết gì với
cô Ngọc, vợ tôi hết, người mà nàng quen là một cô cũng tên là Ngọc, nhưng khác
… Chắc tôi mừng hơn là nghe nàng nói là nàng quen thân.
Tôi gần như buồn đến não lòng và thất vọng khi nghe Vân Hà
nói:
- Trước kia, Ngọc với tôi … Hai chị em thân lắm … Song, từ
ngày Ngọc lấy anh và ở luôn Nam Vang tôi với nó xa nhau … Tôi viết thư cho nó
luôn hồi nó mới lấy anh, nhưng sau thấy nó lười trả lời, tôi cũng lơ luôn … Chị
em chơi với nhau thân đến mấy … khi có chồng con là cũng xa nhau. Đàn ông các
anh có vợ con rồi vẫn còn có thể đi lại thân thiết với nhau, đàn bà chúng tôi
thì không thế được. Đàn bà phải sống theo chồng … Lấy chồng rồi, đàn bà có những
người bạn mới, phần nhiều là bạn với vợ những người bạn của chồng mình. Đàn ông
ít khi chịu kết bạn với chồng những người bạn của vợ mình …
Và nàng tự nói đến cái chuyện làm cho tôi kinh sợ nhất. Chính
vì sợ nên tuy muốn mà tôi chưa dám hỏi nàng:
- Ngọc và tôi … chúng tôi xa nhau sau một tai nạn … Tai nạn
xe hơi … Chắc anh cũng biết qua về cái tai nạn ấy rồi chứ? Ngọc có nói cho anh
biết chứ? Thời ấy … nói đúng ra thì chúng tôi cũng có … bê bối …
Nàng chép miệng khi nhắc lại thời quá vãng mà chính nàng cũng
tự nhận là không mấy đẹp ấy:
- Có bê bối chứ không phải là không. Nhưng tuổi trẻ, ai mà chẳng
vậy …? Phải không anh? Có tuổi, mình khôn dần ra chứ … Không biết bây giờ Ngọc
nó nghĩ ra sao về … lối sống của chúng tôi ngày đó chứ riêng tôi … tôi thấy rằng
chúng tôi thật dại … Sau khi xẩy ra tai nạn ấy để bị lôi thôi với cảnh sát …
Chúng tôi bị giữ trong bót Catinat mất đến hai ngày đấy … Nhục thế chứ lại … Ngọc
nó giận tôi rồi chúng tôi vẫn còn gặp nhau nhưng không còn thân với nhau nữa …
Ngọc nó giận ngang tôi … Nó làm như vì tôi mà nó đi chơi đêm ấy … trên cái xe
ăn trộm ấy … tôi cũng giận vì thái độ của nó … Tôi thì tôi cho là nó làm cao.
Khi đi chơi vui thì không sao, có chuyện gì chẳng may xẩy ra thì đổ lỗi cho
nhau … Tôi không có cái tính ấy và thật tôi không ưa ai có cái tính ấy … Tôi
cho những người như vậy là không được can đảm … Mình đã có gan làm thì mình phải
có gan chịu … Phải không anh? C’est de la lâcheté … C’est lâche … lâche … Mais
pardon … je dis des choses pas beau au sujet de ta femme … Ce n’est pas bien de
ma part … Mais c’est la vérité … Et la vérité est toujours dure à lavaler …
Có lẽ ông chồng ghen hiện thời của nữ ca sĩ hụt Vân Hà – nếu
quả thật là hiện nàng đang có chồng và chồng nàng ghen kinh khủng – là một ông
người Pháp. Vì tôi thấy nàng có cái tật nói chuyện cứ xen tiếng Pháp vào, như
người quen miệng vì phải nói đến tiếng Pháp thường thường mỗi ngày.
Lúc đó ba ly Martini lại làm cho tôi say, nhưng cái say hôm
nay là cái say ngà ngà, say dễ chịu. Cái say đó giúp cho tôi có đủ can đảm nghe
chuyện của Vân Hà, mặc cho nàng tha hồ nói, tôi cứ kiên nhẫn ngồi nghe. Nhiều
lúc, tôi còn lây cái tật nói xen tiếng Pháp của nàng, tôi cũng nói với nàng bằng
tiếng Pháp, bất chấp những người ngồi chung quanh.
- Ngọc nó cũng biết dư là đi chơi với những người như họ là
có ngày lôi thôi với cảnh sát … Nó đi là tại nó thích chứ đâu có phải là tại
tôi dụ dỗ, rủ rê gì nó. Nếu nó không thú, làm sao tôi lôi nổi nó lên cái xe đó
… Đến lúc chuyện không hay xẩy ra, nó lại trách tại sao tôi không cho nó biết …
Anh thấy như vậy nó có vô lý không?
Nhưng thôi … tôi cũng chẳng giận gì nó hết … Lúc vui thì cái
gì cũng đẹp, đến lúc có chuyện không hay xẩy ra thì thiếu gì cách để mà trách
nhau. Có gì khổ tâm mà bạn bè không trách nhau, an ủi nhau cho nhau đỡ buồn … để
mà sống với đời mới là khó … chứ trách lỗi nhau thì thường quá … Anh nghĩ có
đúng không? Vì cái vụ xe hơi ấy mà tôi với Ngọc mới xa nhau …
Nữ ca sĩ hụt Kim Phụng, nay không hiểu làm nghề gì nhưng đã đổi
tên là Vân Hà, nói như một cái máy nói.
Nàng đã đổi nước uống, nàng không uống Coca Cola nữa mà đổi
sang uống Martini như tôi.
Tửu lượng của nàng có vẻ khá, nhưng nàng là người có tật uống
rượu là nói nhiều. Nhưng tôi không chê trách gì nàng ở điểm đó cả, trái lại tôi
cần nàng nói nhiều. Nàng sẽ nói tất cả những điều gì nàng biết về Như Ngọc cho
tôi rõ mà tôi không cần phải dục nàng, tôi cũng không cần phải gợi chuyện, tôi
chỉ cần gọi rượu cho nàng uống, và ngồi im nghe.
Tôi chỉ ngắt lời nàng để ngỏ lời mời nàng ăn cơm luôn tại
đây.
Nàng nhận lời.
- Mời cô lựa món ăn …
- Ồ … tôi ăn gì cũng được. Tôi ăn ít lắm … Bây giờ cũng hãy
còn sớm nhưng tôi ăn với anh cho vui … Vừa ăn chúng ta vừa nói chuyện. Vui hơn
… Tôi thích nhắc lại dĩ vãng lắm. Anh có thích hồi tưởng lại những chuyện cũ
không anh Tuấn?
Tuy nói vậy nhưng nàng cũng gọi thức ăn nhiều gấp đôi tôi.
Nàng ăn nhiều, uống nhiều và nói cũng nhiều …
° ° °
Nếu tôi ghi lại tất cả những lời Vân Hà nói với tôi trong buổi
tối đó, tôi cần phải hai quyển vở dầy như quyển này.
Chúng tôi ngồi với nhau trong nhà hàng từ 6 giờ tối cho tới
10 giờ khuya. Sau nhiều câu nói không ăn khớp với nhau, Vân hà nói cho tôi biết
rằng hiện ông chồng ghen số dách của nàng không có mặt tại Saigon − Ổng đi
“áp-phe” vắng mặt ít nhất là nửa tháng và nàng có thể đi khuya được. Do đó tôi
kết luận rằng hiện nàng không có chồng, chuyện ông chồng ghen chỉ là một chuyện
nàng bầy ra cho có chuyện nói, những người đàn bà chơi bời thuộc loại sang ở
Saigon, hoặc là ở bất cứ đâu, thường tự nhận là mình có chồng, như việc có chồng
là một bảo đảm cho cuộc sống đàng hoàng của họ.
Việc bà mẹ Vân Hà cố dấu không chịu cho tôi biết địa chỉ nhà
riêng của nàng có những lý do nào khác chứ không phải vì ông chồng ghen của
nàng. Đến lúc này, tuy đã nói nhiều chuyện với tôi, Vân Hà vẫn chưa cho tôi biết
gì về chỗ ở của nàng.
Tôi kể lại vắn tắt để HUY biết về những lời Vân Hà nói với
tôi.
Muốn hiểu tại sao hai người khác biệt như Như Ngọc và Vân Hà
lại có thể làm bạn với nhau, chúng ta phải trở lại với bầu không khí và cuộc sống
xáo trộn ở Saigon vào những năm trước khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp kết liễu.
Và chúng ta cần nhớ rằng năm đó Ngọc còn trẻ lắm. Ngọc mới bước
chân vào đời, những bước đi đầu tiên vào đời của một người thiếu nữ thường có ảnh
hưởng đến suốt cuộc đời của nàng. Năm đó với số tuổi quá trẻ, Ngọc chưa biết chọn
bạn. Nàng lại ham vui, như tất cả những người thiếu nữ đồng tuổi với nàng.
Họ gặp nhau – Như Ngọc và Vân Hà – trong một tối vui, một cuộc
nhẩy đầm tại gia mà người ta gọi là “Bal de famille”, tại nhà một nhân vật mà
Vân Hà long trọng giới thiệu là “một nhân vật chính trị có uy tín với chính phủ
và cầm đầu một đảng cách mạng”. Nàng nhất định dấu tên người đó, nàng còn tiết
lộ rằng người đó hiện là một dân biểu trong Quốc Hội “rất được ông bà Cố Vấn
tin tưởng”.
Nàng không muốn làm liên lụy đến nhân vật ấy, và thật ra cuộc
dạ vũ được tổ chức trong nhà ông đó nhưng người tổ chức không phải là ông ta mà
lại là cậu con của ông.
Cậu con đó là một tay chơi, một công tử thuộc loại “con ông
cháu cha” được miễn không phải đi quân dịch để ở Saigon chơi bời.
Về quãng thời gian đó, Vân Hà nói nhiều về đời tư của nàng
hơn là về đời tư của Như Ngọc.
Vân Hà – theo lời tự thuật của nàng – là con một ông công chức,
nhà nàng thanh bạch nhưng gia giáo. Nàng có nhan sắc nên được nhiều người chú ý
đến ngay từ năm nàng mới 15 tuổi, số tuổi mà những người thiếu nữ khác chưa biết
gì. Nàng có ý muốn, nghĩa là nàng ôm mộng làm ca sĩ từ thuở ấy. “Thần tượng của
nàng là cô đào cải lương Phùng Há và các cô Bích Thuận, Bích Hợp”. Nàng không
thán phục cô đào Kim Chung lắm nhưng nàng thèm ước được trở nên giầu sang, nổi
tiếng, có chồng bảnh trai như cô Kim Chung. Ý muốn này của nàng được nhiều người
khuyến khích. Đa số những người khuyến khích và tin chắc là nàng sẽ thành công
này đều là những ông già đã có vợ con, đã có những đứa con gái bằng tuổi nàng.
Những anh già này lại là những người chơi bời được hưởng thụ
nhiều hơn ai hết. Vì họ có đủ những điều kiện cần thiết để chơi bời: tiền, kinh
nghiệm …
Nàng tham dự nhiều cuộc vui tại gia: nơi làm cho các thiếu nữ
“con nhà lành” bị hư hỏng nhiều nhất. Những cô gái nhà lành không mất trinh
trong những căn phòng “Ô Ten” dơ dáy và chỉ để dùng vào việc đàn ông, đàn bà ăn
nằm với nhau, các nàng mất trinh trong những căn phòng vi la lịch sự, sạch sẽ
nhưng cũng chỉ chuyên dùng vào việc để đàn ông, đàn bà ăn nằm với nhau không
khác gì những căn phòng “Ô Ten” dơ dáy.
Có một điều buồn và đau đớn mà tôi phải nhìn nhận là Như Ngọc,
trong tuổi con gái dậy thì phơi phới của nàng cũng lui tới những tối vui tổ chức
tại gia đó.
Đàn ông trong những tối vui đó toàn là con nhà giầu, con ông,
cháu cha không phải đi quân dịch và những anh già có thừa tiền. Người ta ăn
chơi thỏa thích, ăn chơi mà không ai phải lo lắng đến ngày mai.
Ai đưa Như Ngọc tới tối vui ấy? Vân Hà không biết, nàng chỉ
nhớ là nàng gặp Như Ngọc lần đầu trong tối vui ấy. Vậy thôi. Họ gặp nhau và kết
bạn từ tối đó. Có lẽ vì cả hai nàng cùng là “tay mơ” mới nhập cuộc. Bà Ngà có lần
nói cho tôi biết rằng vào những năm trước 1954 − trước ngày Hiệp Định Genève chia
cắt nước ta − Ngọc học trường Nhà Trắng.
Tôi vẫn tin lời Bà Ngà. Cho tới đêm nay nghe lời Vân Hà nói,
tôi biết một trong hai người, hoặc là Vân Hà, hoặc là Bà Ngà, đã nói sai với
tôi về cuộc đời của Như Ngọc trong những năm ấy.
Ai nói đúng, ai nói sai … Chưa biết. Tôi không thể biết rõ.
Tôi cố gắng trấn tĩnh để hỏi Vân Hà vài câu, tôi không muốn để
cho nàng biết rằng tôi ghen, ghen với dĩ vãng của vợ tôi:
- Cô không biết Ngọc tới đó với ai nhưng chắc cô có để ý thấy
tối đó nàng vui với ai nhất chứ? Chẳng hạn như nàng nhẩy với ai nhiều nhất??
Người đó chắc là bạn trai của Ngọc??
Vân Hà gật đầu:
- Cái đó thì tôi biết và tôi còn nhớ rõ … Tối đó Ngọc có nhẩy
nhiều với anh chàng có cái tên Tây lai căng là … Paul Văn … Phải Paul Văn …
đúng rồi, hắn là cái thằng sau này làm cho chúng tôi bị liên lụy về vụ cái xe
hơi mất trộm đó. Chính nó … bây giờ tôi hiểu hết rồi … Như vậy là Ngọc nó là bạn
của Paul Văn trước tôi, chính nó giới thiệu tôi với Paul Văn để rồi tôi kẹt vào
vụ xe hơi chớ đâu phải tôi giới thiệu nó …? Vậy mà anh coi nó xử sự có hơn lòng
không?? Về sau, khi vụ xe hơi đã xẩy ra tùm lum, tòa loa rồi, nó làm như chính
tôi đã giới thiệu nó với thằng cha Paul đó để cho nó bị mang tiếng …
Tôi cố ngồi thản nhiên làm như tôi mới nghe thấy cái tên Paul
Văn đáng ghét đáng tởm đó lần đầu.
- Paul Văn?? − Tôi hỏi − … cái tên buồn cười nhỉ??
Vân Hà hỏi lại tôi:
- Bộ Ngọc nó không nói gì với anh về thằng cha đó sao??
Tôi lắc đầu:
- Không. Nhưng cũng có thể Ngọc có nói đến cái tên đó mà tôi
không để ý … Chuyện xưa … tôi để ý hỏi kỹ làm chi. Nhưng Ngọc có nói cho tôi biết
về tai nạn xe … Chắc lúc biết là đi xe ăn cắp … các cô rầu lắm nhỉ??
- Rầu thúi ruột anh ơi … Rầu rĩ mà không biết nói năng ra làm
sao. Tại chúng tôi cũng xui xẻo nữa. Nếu hôm ấy mà xe không có gây tai nạn thì
còn khuya cảnh sát mới biết là xe mất cắp … Hồi ấy là hồi mới di cư, xe cộ lăng
nhăng lắm … Có nhiều xe mang từ ngoài Hà Nội vô, mất hết giấy tờ … Mạnh ai nấy
dùng … Xe đó nó mang sổ giả chạy phây phây … Vì có tai nạn nên cảnh sát tới làm
“ăng-kết” mới lòi ra là xe mất trộm …
- Theo như nhận xét của cô thì anh Paul Văn đó mua phải xe ăn
cắp hay là …?
- Tôi cũng không thể biết rõ anh ơi … Theo như lời hắn khai
thì hắn mua xe của một người quen. Mua nhưng chưa làm giấy sang tên. Đến khi cảnh
sát đi truy tầm tên bán xe cho hắn thì không thấy. Hắn lãnh đủ … Hồi đó, tôi rầu
rĩ nên chẳng để ý tìm hiểu gì hắn nữa …
- Paul Văn hắn là người ra sao cô??
- Lịch sự. Ăn diện đàng hoàng lắm. Phong lưu, biết tiêu tiền,
biết cách xử thế với đàn bà. Hồi đó, tôi nghi là hắn buôn lậu. Có thể hắn biết
là xe ăn cắp nhưng vẫn mua, vì rẻ, chứ không phải là chính hắn làm nghề “thổi xế”
đâu …
Nàng dùng danh từ lóng “thổi xế” với một vẻ tự nhiên như đó
là một danh từ thông dụng nhất.
Nàng bắt đầu uống nhiều hơn tôi.
Bây giờ tôi không cần hỏi nàng cũng nói. Dường như là nàng
đoán biết tôi muốn nghe nàng nói nhiều về Paul Văn:
- Hắn là bạn của Rô Be … Rô Be Tiếp đó mà? Chắc anh biết Rô
Be chứ? Rô Be là người tổ chức cuộc dạ vũ tại gia bữa đầu tiên tôi gặp Ngọc với
Paul Văn đó. Tên y là Rô Be. Chẳng lai Tây chút nào nhưng ông già y có quốc tịch
Pháp. Nhưng để tôi kể qua về Paul Văn anh nghe … Paul năm đó đã nhiều tuổi rồi.
Hắn chừng 40. Số tuổi đó đã kể là già vì bọn chúng tôi đứa nào cũng chưa quá 25
tuổi. Hắn cao cao, tóc đã bắt đầu hói … Hắn biết cách làm cho đàn bà mê hắn … Hồi
đó Ngọc mê hắn lắm …
Nàng vội chữa:
- Xin lỗi anh …
Câu “xin lỗi” của nàng chỉ làm cho tôi thêm đau đớn.
- Tôi muốn nói là … hồi đó Paul Văn mê Ngọc lắm … Còn Ngọc nó
chỉ giả vờ cho vui vậy thôi. Ngọc đang trẻ đẹp, đang là Hoa Khôi trong mọi dạ
vũ, đời nào nó lại “côn-lê” với một anh già gần gấp đôi tuổi nó … Anh hiểu tôi
muốn nói gì chứ?
Tôi hiểu … Huy ơi, tôi hiểu quá, hiểu đến nỗi gần như là
không còn hiểu gì hết nữa. Như tôi đã nói, sáng nay tôi trở dậy với một niềm
tin mới, đầy hăng hái và can đảm. Tôi đã tưởng tôi có đủ sức để đương đầu với mọi
thử thách, mọi sự bất như ý … nhưng lúc đó, khi nghe Vân Hà nói câu đó về Ngọc
và Paul Văn: Ngọc và Paul Văn “côn-lê” với nhau – tôi dùng đúng danh từ của
nàng – tôi cảm thấy bao nhiêu can đảm của tôi tan đi như bọt xà bông và mặt đất
dưới chân tôi như sụp xuống.
Dù sự thực có ra sao đi chăng nữa, dù Vân Hà có nói tăng lên
hay giảm đi tôi cũng thấy rõ một điều quan trọng là: không những Ngọc, và cả Bà
Ngà là mẹ nàng nữa, đã dấu tôi, đã không nói cho tôi biết một giai đoạn quan trọng
trong cuộc đời của Ngọc mà Ngọc lại còn có liên lạc “tình ái” với một gã đàn
ông điếm đàng ăn chơi gần gấp đôi tuổi nàng.
Ngọc đã sống cuộc đời của một cô gái mới bước chân vào con đường
chơi bời – dù là chơi bời thượng lưu, chơi bời hạng sang, nhưng cũng vẫn là
chơi bời – trong khi nàng và mẹ nàng làm cho tôi tưởng là đó là khoảng thời
gian nàng đang ăn học trong Trường Nhà Trắng, một trường Nữ Học do các Bà Phước
Thiên Chúa Giáo trông dậy nổi tiếng nhất vì kỷ luật nghiêm minh.
Tôi khó có thể chấp nhận được sự thực đó. Đúng như câu tiếng
Pháp mà Vân Hà vừa nói: “C’était dure à avaler …” Khó nuốt quá. Song, trong
tình trạng hiện giờ của tôi, tôi không thể làm cách nào hơn được là gắng mà “nuốt”.
Đúng là “nuốt hận”.
Tôi im lặng ngồi nghe Vân Hà kể nốt.
Cuộc vui nào rồi cũng phải tàn … Những đêm vui trong vi la của
cậu Rô Be, hoặc cậu Bốp, tùy theo lời kể của Vân Hà, nữ ca sĩ kiêm minh tinh điện
ảnh hụt, không thể kéo dài mãi được.
Trong vụ đụng xe rồi lòi ra chiếc xe mất trộm có mặt cả cậu
Công Tử Bốp. Ông già của cậu phải tới bót lãnh cậu con ra và các báo có loan
tin nhưng dấu tên Công Tử Bốp. Tuy vậy những ông nghị sĩ có ác cảm với ông già
của Công Tử Bốp trong Hội Đồng Đô Thành – ác cảm vì quyền lợi cạnh tranh chứ
không phải vì dân, vì nước – cũng mang vụ Công Tử Bốp trốn lính, chơi bời, giao
du, dung túng, chứa chấp bọn phạm pháp ra để nói bóng gió chỉ trích. Ông già của
Công Tử Bốp nổi giận nên cấm cậu con chơi bời một thời gian.
Phong trào “bal de famille” do Công Tử Bốp tổ chức chấm dứt với
sự thịnh nộ của Ông thân của Công Tử. Những tối vui hết, những người lui tới
nơi đó mỗi người đi một ngả.
Tôi ngồi lặng nghe Vân Hà diễn tả cá nhân anh chàng Paul Văn,
người mà có một thời, Ngọc, vợ tôi, đã “giao du thân mật”:
- Lúc nào hắn cũng diện sang. Có thể nói hắn là người diện nhất
Sàigòn. Hắn phải có cả trăm cái cravate chứ không ít. Lúc nào cũng bận complet,
giầy da cá sấu, đồng hồ Oméga vàng, nút tay áo vàng … Có người nói rằng hắn làm
về tình báo gì đó cho Huê Kỳ, song tôi không tin. Tuy nhiên hắn sẵn tiền lắm.
Dường như hắn không bao giờ thiếu tiền … Lúc đó là sau 1954, Hiệp định Genève
ký rồi, đất nước đã chia đôi, chiến tranh ngừng, đường Sàigòn – Đàlạt, Sàigòn –
Cấp đi chơi tự do. Lúc đó có xe hơi là nhất. Trước đó, Paul Văn nó cũng có xe
hơi rồi, nhưng hắn đổi xe luôn luôn, lúc thì đi xe Cadillac, lúc thì đi
Traction nên chẳng ai chú ý gì đến chuyện xe cộ của hắn. Cũng chẳng ai ngờ rằng
hắn lại có thể đi xe ăn cắp … Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết rõ hắn sống
với nghề gì và hắn có biết chiếc xe đó là xe mất trộm không? Tôi chỉ biết rằng
nếu hôm đó không có tai nạn xẩy ra làm cho tôi ngất đi … Tôi tỉnh lại trong bệnh
viện … Ngọc nó cũng bị xây xát nhưng ít hơn tôi nhiều …
Nhưng bực nhất là chúng tôi bị lôi thôi, rắc rối với cảnh sát
… Paul Văn bị gẫy chân, hắn từ bệnh viện ra Tòa và vào tù luôn … Chúng tôi, may
sao, chỉ phải khai báo ở Cảnh sát cuộc, không đứa nào phải ra Tòa … đó là nhờ
thế lực của ông già Bốp … Vì ông già Bốp chạy để cho Bốp khỏi phải ra Tòa nên
chúng tôi cũng thoát luôn. Chỉ có một mình Paul Văn ra Tòa và lãnh đủ.
Từ ngày hắn vào tù, tôi không còn gặp lại hắn nữa … Rồi sau
đó, tôi nghe tin Ngọc nó kết hôn với anh … Số Ngọc thật may mắn … May nhất cho
nó là nó không tiến sâu hơn nữa với thằng cha bất lương Paul Văn … Tôi chắc chắn
dù cho thằng cha đó có làm gì đi nữa, lối kiếm tiền của nó cũng không được
lương thiện …
Sau vụ đó là chúng tôi chia tay nhau. Tôi thấy nghề hát hỏng,
đóng phim của tôi không đi đến đâu nên tôi đành phải đi bán hàng cho một tiệm
buôn để kiếm sống …
À, tôi quên chưa nói để anh biết hồi đó, ngoài nhà Bốp, bọn
chúng tôi vẫn hay tới một quán ăn có pít khiêu vũ tên là SƠN CA.
Tai họa đến dồn một lúc … Vì sau vụ rắc rối về xe hơi với
Paul Văn, quán Sơn Ca lại bị lính kiểm tục đến vây bắt, lục soát. Đó là thời mà
Tổng Thống Diệm bắt đầu chiến dịch bài trừ tứ đổ tường, nên bọn chơi bời bị bố
gắt lắm. Trụ sở Sơn Ca của chúng tôi cũng tan luôn. Người ta tìm thấy ở đó một
tổ buôn á phiện lậu, cần sa, bạch phiến. Đủ thứ …
Nói tới đây, Vân Hà chớp chớp mắt mấy cái như người ngượng
ngùng vì phải nói đến một chuyện không đẹp:
- Và … trên lầu quán Sơn Ca còn là một nơi chơi bời loại sang
nữa … Có nhiều bà có chồng làm lớn đàng hoàng, tới đó nhẩy dù … Nhiều người
dính líu và mang tiếng trong vụ Sơn Ca hơn là trong vụ xe cộ với Paul Văn … Thật
là chúng tôi hồi đó khờ hết nước nói … Ngọc và tôi vẫn tới đó chơi mà không biết
đó là một ổ buôn á phiện và chơi bời … Quán Sơn Ca bị đóng cửa một thời gian và
tên chủ bị đưa ra Tòa và cũng bị tù ít lâu …
Kể tới đây, Vân Hà ngừng lại.
Im lặng một lúc khá lâu. Tôi không dám lên tiếng hỏi gì thêm.
Nàng kể như vậy là đã quá nhiều.
Trong hai tiếng đồng hồ vừa qua, nhờ một người đàn bà xa lạ,
tôi đã biết nhiều về dĩ vãng của vợ tôi nhiều hơn suốt năm năm tôi chung sống với
chính nàng.
Quá đủ rồi, hình ảnh người nữ sinh trong trắng, ngây thơ, con
nhà lành mà tôi tưởng là hình ảnh của Như Ngọc những ngày trước khi nàng trở
thành vợ tôi đã tan biến …
Thay vào đó là hình ảnh một cô gái chơi bời giao du với đàn
ông quá sớm. Tuy không gần nhiều những cô gái ăn chơi như Vân Hà, Như Ngọc ngày
đó tôi cũng hiểu là có những chuyện gì đã xẩy ra trong đời họ.
Họ không hẳn là “mãi dâm”, họ cho đàn ông ân ái không phải là
để được đàn ông trả tiền nhưng là để lấy những bộ quần áo đẹp, những chiếc đồng
hồ đắt tiền, những ngày rong chơi thỏa thích. Họ là một loại “gái mãi dâm”
riêng, loại “gái mãi dâm con nhà lành”.
Những gì Vân Hà nói với tôi đó làm cho tôi đau. Đau. Rất đau.
Nhưng nó có cái lợi là làm cho tôi thấy tôi có một dấu vết để theo tìm vợ tôi.
Trên vùng cỏ hoang rậm rạp của Quá Khứ và Sự Thật, có hiện lên những con đường
mòn mờ mờ …
Nhiều nhân vật lờ mờ hiện ra – toàn là những nhân vật có
thành tích bất hảo, những người mà tôi không bao giờ có thể ngờ được là vợ tôi
có thể quen biết giao du – Paul Văn, Công Tử Bốp, Hộp Đêm Sơn Ca v.v…
Nếu cần phải đối phó, tôi muốn đối phó với những nhân vật có
thành tích bất hảo ấy hơn là quay cuồng, loạn vòng một mình trong vùng mờ tối …
Vân Hà lại nói. Dường như nàng quên bẵng đi là có tôi đang ngồi
trước mặt nàng và nàng đang nói chuyện với tôi:
- Hôm vừa rồi … gặp Ê Min trong Văn Cảnh … Ê Min nó có nói là
Paul Văn mới ở bên Pháp về … Ê Min nó còn nói là Paul muốn đi tìm mình để hỏi
thăm về Ngọc … Ê Min nó nói rằng Paul nó giận Ngọc lắm. Nó cho là Ngọc đã bỏ
rơi nó để đi lấy chồng … Song, nghe nó nói mà mình không tin …
Nàng bắt đầu nói một mình:
- Không lẽ Paul nó lại yêu Như Ngọc thiệt sao? “Côn lê” rồi
xa nhau ăn thua gì, là thường. Mình không tin rằng nó có thể yêu Ngọc đến vậy.
Vô lý … Không lẽ vụ Ngọc về Sàigòn rồi mất tích luôn là do Paul Văn chủ mưu
chăng? Tên đó dám làm đủ mọi chuyện. Nó có thể tổ chức bắt cóc Ngọc để trả thù
lắm … Nhưng làm vậy, nó phải là yêu Ngọc lắm kia. Đằng này mình không tin một
gã chơi bời tứ chiếng như nó lại yêu đến như vậy. Lại còn chuyện này nữa … Rắc
rối. Ê Min nó còn nói là Paul Văn kết tội Ngọc đã tố cáo với cảnh sát về những
hoạt động ám muội của Nhà Hàng Sơn Ca … Ngọc làm cho bọn Sơn Ca bị bắt. Chuyện
này cũng vô lý nữa. Không lẽ Ngọc nó lại biết rõ về bọn Sơn Ca hơn mình? Paul
Văn dẫn nó lên lầu chơi mà mình không biết chăng? Mình không tin. Như Ngọc dù
sao đi nữa cũng là người đàng hoàng. Ngọc nó thông minh lắm. Nó dư biết là tố
cáo bọn Sơn Ca với cảnh sát, nó không có lợi chi hết. Chỉ có hại. Nghe Ê Min
nói thì Paul Văn và bọn Sơn Ca muốn trả thù Như Ngọc. Nhưng chúng không làm gì
được vì Như Ngọc ở tận trên Nam Vang.
Nhưng nếu chúng đánh lừa được Ngọc về đây thì Ngọc có thể bị
nguy với chúng …
– 9 –
Huy ơi, chắc là Huy cho tôi lầm lẫn nhiều khi tôi một mình đi
tìm cô Vân Hà và hỏi thăm lẩm cẩm về đời tư của Ngọc như tôi đã làm. Nếu tôi gặp
Huy trước khi gặp Vân Hà và nói cho Huy biết là tôi sắp đi gặp Vân Hà, chắc chắn
là Huy đã ngăn tôi, Huy sẽ làm cho tôi tin rằng những lời nói của một người đàn
bà như Vân Hà không đáng để cho chúng ta tin và không đáng cho chúng ta nghe.
Và nếu Huy nói như thế, chắc chắn là tôi đã tin Huy, đã nghe Huy và không đi gặp
Vân Hà.
Chắc chắn là bây giờ đọc lại những lời tôi viết theo lời kể của
Vân Hà về đời tư và dĩ vãng của Ngọc, Huy không tin đâu. Tôi biết là HUY không
tin. Huy vẫn nghĩ đẹp về Ngọc, tôi cũng vậy. Nhưng chính là Vân Hà đã nói về Ngọc
như vậy và lời kể đó phù hợp với những gì mà cảnh sát có hồ sơ về vụ chiếc xe mất
trộm có Ngọc ngồi trong. Tôi chỉ ghi lại đây đúng những lời Vân Hà đã nói.
Việc đầu tiên của tôi đêm hôm đó, sau khi tôi rời Vân Hà ra về,
là trở về khách sạn, gọi điện thoại tới nhà HUY. Tôi cần gặp Huy, cần nói chuyện
với Huy, cần nghe Huy với vài câu chí lý, đầy sáng suốt và vô tư, đánh đổ tất cả
những gì Vân Hà đã nói về Ngọc, làm cho tôi thấy ngay là Vân Hà đã nói sai về
Ngọc.
Nhưng người nhà Huy trả lời tôi là Huy đi ăn cơm khách chưa về.
Dường như là Huy đi chủ tọa một cuộc nói chuyện nào đó do Hội có Huy làm hội
viên, ROTARY CLUB hoặc là LIONS CLUB gì đó, tổ chức.
Đêm đó tôi lại không được gặp Huy. Tôi bắt buộc phải nằm một
mình thao thức suốt đêm “gậm nhấm” lại tất cả những lời Vân Hà đã nói, những
chuyện Vân Hà đã kể.
Tôi bị bắt buộc phải nhớ lại, dù rằng tôi không muốn.
Tôi không thể nào – dù rằng tôi yêu Ngọc đến đâu chăng nữa –
coi rằng tất cả những gì Vân Hà nói về nàng đều là bịa đặt.
Có thể có một vài chi tiết Vân Hà nói sai, nói quá. Có thể là
Vân Hà nhận xét lầm một vài chuyện … Đúng … Nhưng từ đó nói rằng tất cả những
gì Vân Hà kể đều là bịa đặt thì không thể được …
Vân Hà bịa đặt, dựng đứng chuyện xấu về Ngọc để đánh lừa tôi
ư? Y thị có lợi gì đâu? Đàn bà có thể nói xấu nhau vì ghen ghét, vì thấy bạn tốt
số hơn mình. Chuyện đó có. Nhưng riêng về những chuyện do Vân Hà kể lại, tôi
tin rằng y không bịa đặt hoàn toàn.
Tôi tin một phần nhưng tôi vẫn không vì biết rõ được sự thật
về đời tư cũ của Ngọc mà bớt yêu nàng.
Nhưng tôi phải làm những gì và tôi có thể làm được những gì
bây giờ?
Từ trước tới nay, vẫn tin tôi, phải nói tôi vẫn coi rằng Ngọc
là một người hoàn toàn thuộc về tôi. Ngọc là một vật sở hữu của tôi, và tôi đã
biết rõ tất cả về nàng.
Giờ đây, sự mất tích đột ngột của nàng, những sự việc kỳ dị
bao quanh nàng, làm cho tôi phải có một cảm nghĩ khác về nàng.
Tôi không vì vậy mà giảm yêu thương nàng. Song, tôi phải nghĩ
khác về nàng, NGỌC không còn là người thiếu nữ, là người thiếu phụ mà tôi tưởng
nữa … Thật là vô lý nhưng đó là sự thật. Tôi vẫn tưởng nàng là một người hoàn
toàn trong trắng, ngoan … hiền, con nhà gia giáo, không hề ăn chơi sa đọa,
không biết người đàn ông nào khác trước tôi …
Trước khi gặp tôi, nàng đã gặp nhiều người đàn ông khác, đã
biết thế nào là sợ hãi, nghi ngờ, đề phòng, đã làm quen với cám dỗ … và rất có
thể, đã biết Tình Yêu.
Những chuyện đó, tuy nhiên, vẫn còn mơ hồ. Chỉ có một điều
tôi biết chắc rằng tôi vẫn còn yêu Ngọc. Tình yêu có thể thay đổi, nhưng vẫn
còn yêu. Bây giờ tôi yêu nàng theo một cách khác. Tôi bỗng thấy người mà tôi tưởng
là rất can đảm và có cuộc đời tư hoàn toàn trong trắng ấy thật sự là một người
đàn bà rất yếu, rất dễ bị người ta tấn công.
Vì cuộc đời cũ của nàng có những giai đoạn bê bối như vậy nên
giờ đây rất có thể là nàng đã bị rơi vào vòng kiềm tỏa của một bọn người vô
lương tâm … Có thể nào tôi lại bỏ rơi nàng trong lúc nàng đang gặp nạn như vầy
…?
Không. Ngàn lần không. Hơn bao giờ hết tôi phải yêu nàng nhiều
hơn, phải làm hết sức tôi để bảo vệ nàng … Và lạ lùng thay, đến lúc này tôi thấy
rõ rằng mối tình tôi yêu Ngọc không giảm đi chút nào vì những điều tôi nghe được
về cuộc đời cũ của nàng mà còn trái lại nữa, tình yêu đó như lớn hơn, như trưởng
thành hơn, mạnh hơn nhiều. Như bây giờ tôi mới thật là yêu nàng … Còn trước
kia, tình yêu của tôi chỉ là một sự thán phục, chỉ là ích kỷ …
Nếu tôi cứu được nàng, nếu tôi có thể giúp nàng ra thoát được
vụ khốn quẫn này nhất định tôi sẽ không nói một lời nào để trách cứ nàng, tôi
cũng sẽ không nói gì hết về chuyện tôi đã biết một vài đoạn trong cuộc đời tư
cũ của nàng, nhưng tôi sẽ lấy hết thiện chí, sẽ làm tất cả mọi cách tôi có thể
làm được để thông cảm nàng, để hiểu nàng, để làm cho nàng quên đi những vết
tích của cái dĩ vãng không mấy đẹp ấy.
Chính vì quyết định như vậy tôi mới không nói gì cho Huy biết,
cũng như tôi sẽ không nói cho bất cứ ai biết hết, kể cả Ngọc, về những chuyện
Vân Hà nói với tôi. Tôi hiểu nếu Ngọc không nói cho tôi biết gì về những chuyện
đó chính là vì nàng thấy những chuyện đó không hay, không nên nói, những chuyện
đó làm cho nàng mất vui. Nàng không muốn làm cho tôi, chồng nàng buồn phiền, vậy
thôi … Thật dễ hiểu … Cuộc điều tra của Cò Trịnh và Quản Bái sẽ đưa ra ánh sáng
một phần nào cuộc đời cũ ấy của nàng, nhưng mặc họ, đó là việc của Cảnh sát. Chắc
là Ngọc sẽ buồn nhiều khi nàng thấy tôi biết về đời cũ của nàng. Nàng sẽ còn buồn
nhiều nữa, và có thể là đau đớn, nếu nàng thấy rằng tôi tiết lộ những chuyện ấy
cho Huy biết.
Tuy nhiên, tất cả những chuyện Vân Hà cho tôi biết đó không
phải là điều vô ích. Tôi có thể cho Cò Trịnh biết những chuyện đó để ông ta làm
những dấu vết đi tìm người mất tích chứ …?? Nên lắm. Sao không??
Tôi suy nghĩ những chuyện này, tôi cân nhắc, suy đoán một
mình trong lúc tôi ngồi trong phòng ăn vắng tanh của Khách sạn Continental. Trước
mặt tôi có một ly la-ve 33. Tôi hoàn toàn thản nhiên với đám đông người đi lại
trên hè đường trước mặt. Họ có những vấn đề riêng tư của họ và tôi có những vấn
đề riêng của tôi.
Kể cũng hay, cũng lạ … Mới 24 tiếng đồng hồ trước, tôi chán đời
đến nỗi muốn tự tử … Thế rồi tôi được biết một lô chuyện không đẹp về đời tư của
vợ tôi, của người tôi yêu mến nhất đời, và hôm nay, tôi vẫn ngồi tỉnh táo uống
rượu, hút thuốc lá, tỉnh trí tính chuyện nên nói những gì cho một ông Cò cảnh
sát biết về đời tư của vợ mình, nên dấu đi những chuyện gì …
Lúc ấy, máy Vô Tuyến Truyền Hình, một trò mới lạ với dân
chúng Saigon, đặt sau Bar Rượu của Nhà Hàng có tôi ngồi, đang trực tiếp truyền
hình một trận đá banh Quốc Tế trên sân Cộng Hòa … Vì phòng ăn lúc đó còn vắng
nên mấy chú bồi tha hồ chú ý theo dõi trận đá banh. Tôi chẳng buồn nhìn tới máy
TiVi.
Chợt … tôi bị một xúc động mạnh … Tôi như một khán giả banh
tròn hâm mộ cầu thủ banh tròn nhất đời, trận đá nào cũng có mặt, đang ngồi phây
phây trên khán đài coi đá banh bỗng bị một trái banh từ dưới “sút” lên bắn
trúng ngay giữa mặt …
Trong một giây đồng hồ, tôi trông thấy Ngọc …
Nàng hiện ra ngay trước mặt tôi. Gần quá, tôi chỉ cần đi tới
một bước là chạm được vào mình nàng. Và Ngọc đang nhìn tôi …
Nàng đang nhìn tôi và mỉm cười, mái tóc nhung huyền xõa trên
vai …
Màn ảnh TiVi vừa ngừng truyền hình về trận đá banh. Và màn ảnh
đó đang chiếu hình Ngọc, vợ tôi …
Tiếng xướng ngôn viên nói những lời này kèm theo tấm hình
đang chiếu:
- … Hình người thiếu phụ mà quí vị đang nhìn thấy trên màn ảnh
Đài chúng tôi đây là hình của bà … Hoàng Tuấn … nhũ danh Đỗ Thị Như Ngọc … Bà
Hoàng Tuấn đã mất tích vào ngày thứ sáu … khi xuống phi cơ tại phi trường Tân
Sơn Nhất … Bà Hoàng Tuấn cùng chồng cư ngụ tại Nam Vang và mới về Saigon vào
ngày nói trên … Xin quí vị hãy chú ý nhìn kỹ hình bà Hoàng Tuấn … Tất cả những
vị nào đã gặp, hoặc trông thấy Bà Hoàng Tuấn ở đâu từ ngày thứ sáu … đó tới nay
làm ơn tiếp xúc ngay với Sở Truy Tầm … Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia hoặc với Ty Cảnh
Sát gần nhất … Xin chú ý … chúng tôi nhắc lại …
Tôi phải cố tự chủ để khỏi kêu lên thành tiếng …
Nhưng có gì lạ đâu nhỉ …?? Việc truyền hình người mất tích lên
màn ảnh TiVi chỉ là một việc rất thường … Thiếu tá Trịnh đã nói trước cho tôi
biết về việc này rồi mà …
Bức hình Ngọc đang được truyền trên màn ảnh TiVi kia chính là
bức hình do tôi đưa cho Thiếu tá Trịnh.
Nhưng bức hình đó khi được chiếu lên màn ảnh TiVi, trở thành
xa lạ với tôi, người thiếu phụ đó không chỉ còn là vợ tôi mà thôi, nàng đã là một
thiếu phụ mất tích … Nàng đã trở thành một nhân vật chung của tất cả mọi người
coi TiVi giây phút này …
Tôi chưa hết xúc động thì phút truyền hình người mất tích đã
chấm dứt, màn ảnh TiVi lại tiếp tục truyền hình về trận đá banh … Và tôi thấy rằng
chẳng có ai chú ý đến lời yêu cầu của Cảnh sát hết … Mọi người đều mải bàn tán
về kết quả của trận cầu … Người ta lợi dụng phút ngừng truyền hình để đi tiểu,
đi uống nước, đi mua thuốc lá … Và người ta trở lại khi TiVi lại phát hình đá
banh.
Tôi dám nói chắc rằng ngoài tôi ra, tất cả mọi người trong
phòng ăn này chẳng có ai chú ý nhìn mặt người thiếu phụ mất tích vừa được chiếu.
Không biết ở khắp các nơi có ai chú ý đến bà Hoàng Tuấn, nhũ
danh Đỗ Thị Như Ngọc hay không?? Việc làm này của Thiếu tá Trịnh không biết có
đem lại một kết quả nào không??
Tôi nhớ lại những lời cô Vân Hà nói với tôi về một vài sự kiện
đã xẩy ra trong đời tư của vợ tôi, nhưng đó là những chuyện đã xẩy ra từ quá
lâu rồi … Chưa chắc chúng đã giúp ích gì được cho cảnh sát.
Tuy nhiên, nếu tôi cho cảnh sát biết tên những người đó, như
chủ quán Sơn Ca, như tên Ê Min nào đó là bạn của Paul văn. Tên Ê Min này, theo
lời Vân Hà nói, hiện đang ở Sàigòn. Cảnh sát có thể tìm những người này và bắt
họ phải khai ra những gì liên can đến tên Paul Văn nếu quả thật Paul Văn đã tổ
chức bắt cóc vợ tôi để trả thù …
Bỗng nhiên tôi lại có một quyết định mới: Tôi sẽ khoan không
nói gì cho Thiếu tá Trịnh biết về cuộc gặp gỡ giữa tôi và Vân Hà.
Tôi sẽ tự tôi và đích thân tới quán Sơn Ca để làm một cuộc điều
tra.
Ngày mai tôi sẽ tìm tới đó. Tôi cũng có thể bắt những người
biết về vợ tôi ở đó nói về vợ tôi. Có thể tôi sẽ gặp nguy hiểm ở đó, nhưng tôi
bất chấp hiểm nguy.
Tôi chỉ cần một điều: nguy hiểm càng nhiều càng tốt, miễn là
sau cùng tôi tìm được vợ tôi. Nếu gặp nguy hiểm, tôi càng có nhiều hy vọng tìm
ra Như Ngọc. Vì nguy hiểm và đe dọa cho tôi biết rõ, và biết chắc là tôi đã đi
đúng đường
CHƯƠNG 4
T
ôi tới quán Sơn Ca vào một buổi chiều ngày thứ ba.
Trưa hôm đó chúng ta ăn cơm trưa với nhau HUY nhớ chứ?? Trong
bữa ăn, với vẻ vui tươi tự nhiên, thường lệ của HUY – lúc nào HUY cũng vui, cái
vui thật là hồn nhiên, thành thật – HUY kể cho tôi nghe cuộc đi chơi cuối tuần
vừa qua của HUY. Tôi nghe HUY kể chuyện và tôi như người mơ mộng, tôi được HUY
đưa vào thế giới của tưởng tượng, tôi thấy như tôi cùng sống với HUY trong những
ngày đẹp ấy. Suốt một tiếng đồng hồ liền, HUY đã làm cho tôi quên cái hiện tại
đầy đen tối và u buồn của tôi. Đó là món quà quí giá nhất mà HUY đã đem lại cho
tôi trong những ngày thê thảm nhất mà tôi đã sống.
Về phần tôi, như tôi đã tự hứa và quyết định từ trước, tôi
không nói gì với HUY hết về cuộc gặp gỡ của tôi và cô Vân Hà.
Tôi không nói gì cho HUY biết hết về những chuyện tôi đã nghe
được về đời tư cũ của Như Ngọc, người mà cả tôi và HUY cùng coi như một người
đàn bà đẹp và trong trắng cả về vật chất lẫn tinh thần.
Chúng ta chia tay nhau vào lúc hai giờ. Tôi còn quá thừa thì
giờ để tới quán Sơn Ca.
Qua những lời nói chuyện của Vân Hà, tôi lờ mờ biết quán Sơn
Ca ở Khánh Hội. Nhưng tôi không hỏi rõ quán đó nằm ở đường nào. Bây giờ tôi cứ
đi sang Khánh Hội, hy vọng qua đó hỏi thăm và người ta sẽ chỉ cho tôi.
Tôi qua Khánh Hội từ lúc năm giờ chiều. Cho tới tối mịt, nhìn
đồng hồ tay đã 6 giờ 30 tối, tôi vẫn chưa tìm thấy Quán Sơn Ca ở khu nào của
Khánh Hội.
Sau cùng tôi lại phải nhờ đến tài xế tắc xi.
Ở Thủ đô nào cũng vậy, tài xế tắc xi là những người dẫn đường
thành thạo nhất, Sàigòn cũng không thoát khỏi cái thông lệ đó.
Quán Sơn Ca trình bầy khá đẹp bên ngoài. Có một con chim bằng
sắt, hoặc tôn treo trên hiên nhà trước. Vân Hà nói đúng, nhìn bề ngoài, người
ta không thấy có vẻ gì khả nghi trong cái quán ăn có nhẩy đầm này. Vào giờ tôi
đến, tuy vẫn còn sớm nhưng trước cửa quán đã có mấy cái xe xích lô đạp đậu chờ
khách. Một chú bồi bé con đứng chờ mở cửa cho khách và coi xe.
Tôi vào nhà và đúng như tôi nghĩ, nhà hàng chưa có người
khách nào hết.
Tôi là người khách đầu tiên của Nhà Hàng Sơn Ca đêm nay. Một
ông khách tới không phải là để ăn chơi mà là để tìm tông tích một người.
Ánh sáng trong Bar mờ mờ và có mầu xanh nhiều hơn mầu vàng.
Chủ nhân có vẻ muốn trang hoàng theo Tây Phương, tôi thấy có mấy cái vỏ chai rượu
được cắt ngang làm thành những chụp đèn. Những chai Vat, Courvoisier … Do những
vỏ chai rượu đó ánh sáng trong Bar có mầu xanh.
Các anh bồi bàn chắc còn đang sửa soạn. Tôi chỉ thấy sau Bar
rượu có một cô bán rượu đang ngồi sửa móng tay. Tôi tới ngồi trước Bar trên một
cái ghế đẩu và gọi Martini. Cô gái ngước mắt nhìn tôi. Cô ta không đến nỗi nào
xấu lắm tuy không thể nói là đẹp. Tôi nghĩ cô ta phải là con cháu của chủ nhân.
Nàng có cái vẻ lương thiện mà những cô gái bán Bar nhà nghề không thể có. Không
người đàn bà nào mới sinh ra đời đã là gái bán Bar, người ta chỉ vì bán Bar quá
lâu nên bị đời sống xô bồ, hỗn tạp, đàng điếm trong Bar làm cho thay đổi. Cô
gái này chưa như vậy nhưng nhìn cặp mắt của nàng, tôi biết là nàng sắp thay đổi,
ngày nàng trở thành gái bán Bar thực thụ sẽ không còn xa mấy nữa.
Nàng rót rượu cho tôi rồi không nói một lời, lấy một tờ tuần
báo phụ nữ có nhiều truyện bằng hình do đào kép cải lương đóng để ở dưới Bar
lên đọc.
Trước sau gì tôi cũng gợi chuyện hỏi dò chi bằng tôi hỏi luôn
cô gái này. Tôi nghĩ rằng hỏi chuyện đàn bà bao giờ cũng dễ hơn là hỏi dò chuyện
đàn ông. Đàn ông ít khi nói đến chuyện người khác.
Tôi hắng giọng:
- Nhà hàng này có cái tên hay quá. Sơn Ca. Nhà hàng này mở đã
lâu chưa cô?
Nàng nhìn tôi nghi ngờ:
- Bộ ông không biết hay sao? Không biết tiếng nhà hàng này tại
sao ông lại tới đây?
Nơi đây có lẽ chỉ có toàn là khách quen. Phố lại vắng, người
nào tới đây là cố tình tới chứ không thể nói là tình cờ đi qua tạt vào được.
Tôi đã mở đầu một cách vụng dại. Song, tôi không vì vậy mà chịu thua ngay không
hỏi nữa:
- Tôi mời cô dùng một ly với tôi, cô nhận lời chứ??
Tôi cố lấy vẻ tình tứ để nói câu đó. Tôi cần cho cô gái hiểu
lầm rằng tôi nói chuyện với nàng là để tán tỉnh nàng.
Nét mặt quạu cọ của nàng dịu đi, nàng liếc nhìn về phía cánh
cửa bên tay trái nàng. Đó là cánh cửa đi lên lầu:
- Ông chủ không bằng lòng cho chúng tôi uống rượu với khách
hàng nhưng tối nay ông đi vắng, tôi có thể … làm trái lời ổng được …
May mắn quá sự mong ước. Nàng cũng rót một ly Martini. Dơ ly
rượu lên ngang mắt, nàng mỉm cười:
- À votre santé …
Có lẽ nhà hàng này có nhiều khách ngoại quốc: những thủy thủ ở
các tầu biển ghé bến Sàigòn lên chơi, nên cô gái bán Bar này quen miệng nói tiếng
Pháp. Lại một cô Vân Hà thứ hai, tôi cũng nói ngay:
- À votre santé …
Tôi nhìn nàng kỹ hơn, mái tóc nàng cắt ngắn theo kiểu Audrey
Hepburn, một Audrey đẹp tuyệt vời trong phim Vacance Romaine. Quả thực nàng còn
trẻ quá. Chắc chắn là những năm trước đây, khi bọn Paul Văn, Ê Min, Vân Hà,
Công Tử Bốp còn lui tới chơi bời ở đây, nàng chưa có mặt. Có lẽ nàng chẳng giúp
gì tôi được mấy.
Tôi hỏi:
- Cô tới làm ở đây đã lâu chưa?
- Ông hỏi làm chi vậy?
Tuy nàng vẫn còn từ chối không trả lời nhưng giọng nói và vẻ
mặt của nàng đã nhẹ nhàng hơn nhiều lắm.
Với một người như cô gái bán Bar này, tôi quyết định nói thật:
- Tôi muốn biết một vài chuyện xẩy ra ở đây, tôi muốn hỏi
thăm vài người vẫn thường lui tới đây thì đúng hơn. Cô có thể cho tôi hỏi thăm
…
Tôi lại vụng về một lần nữa rồi.
Bộ mặt vừa mới tươi lên và bắt đầu cởi mở của cô gái lại tràn
đầy nghi ngờ và như khép chặt lại:
- Cảnh sát hả??
Đôi môi mỏng của nàng mím chặt lại. Cô gái này chắc chắn là
có nhiều ác cảm với những người đồng nghiệp của Thiếu tá Trịnh và Thượng sĩ
Bái.
Phản ứng của tôi đến thật nhanh, có lẽ nàng tin rằng nàng đã
nghi lầm:
- Nếu ông không phải là cảnh sát thì ông hỏi dò làm gì dữ vậy??
Nàng vẫn cố tình giữ không tiết lộ điều gì với tôi hết. Tôi
nghĩ rằng chắc cái nhà hàng ăn có cái tên đẹp này vẫn còn nhiều vụ làm ăn phạm
pháp nên người con gái này mới tỏ ra đa nghi và sợ cảnh sát đến thế.
Nàng nói nhỏ như sợ có ai nghe tiếng mặc dầu trong nhà lúc đó
vẫn chỉ có tôi và nàng:
- Tôi cho ông biết tôi cóc sợ cảnh sát đâu. Tôi chẳng làm gì
bậy hết … Nhưng tôi không muốn nói là vì đó không phải là việc của tôi. Ông chủ
tôi lại không ưa người làm nói chuyện vớ vẩn về nhà hàng với người lạ. Nếu ông
không phải là cảnh sát thì ông đừng nên hỏi. Ông chủ mà thấy ông hỏi lẩm cẩm
như vậy ông ấy sẽ tống ông ra khỏi đây ngay …
- Dữ vậy … Bộ nhà hàng này không cần khách sao? Tôi muốn hỏi
thăm mấy người bạn tôi vẫn đến đây chơi mà?? Làm gì mà bí mật quá vậy?? Để tôi
chờ ông chủ của cô về tôi hỏi coi ổng có làm gì tôi không.
Mặt cô gái lại càng nặng ra:
- Cái đó tùy ông. Còn tôi, tôi đã báo trước cho ông biết rồi
đấy.
Tôi cười:
- Lúc này ông chủ của cô đang đi vắng, tôi nói chuyện với cô
vậy. Bộ gặp người có cảm tình với mình, mình muốn nói chuyện cũng cấm nữa sao??
Chúng ta hãy còn sống ở phần đất tự do mà?? Đây đâu có phải là đất Cộng sản mà
người gặp nhau không được nói chuyện với nhau.
Đàn bà thật lạ. Có nhiều câu nói cốt ý để lấy lòng thì lại bị
chê, ghét. Khi người ta nói khơi khơi thì đàn bà lại bằng lòng. Câu nói ngang
phè của tôi lại có mãnh lực làm cho cô gái tươi lại:
- Nói gì thì nói, đâu có ngán ai …
- Để tôi tự giới thiệu … tôi là … Vinh … còn cô?
Tôi chờ đợi nàng nói một cái tên Đầm. Đúng như tôi nghĩ, nàng
đáp:
- Lucie …
- Mấy giờ Lucie ở đây về?
- Mười hai giờ đêm. Có khi hơn …
- Nhà gần đây không?
- Chợ Quán …
Những lời trao đổi của chúng tôi đúng hệt như cuộc đối thoại
của một ông khách uống rượu không biết làm gì hơn là nói chuyện lẩm cẩm với cô
gái bán Bar.
- Ở với ai?
- Ở với Má.
- Lucie có chồng chưa?
Nàng lắc đầu.
- Chắc có bồ chứ? Người yêu thì phải có chứ?
Nàng gật gật đầu.
- Hắn làm gì?
- Đi lính.
Như sợ tôi nghĩ đến người tình của nàng là một anh binh nhì,
nàng nói tiếp ngay:
- Đang học khóa sĩ quan Đà Lạt. Ảnh là Thượng sĩ rồi được đặc
biệt theo học trường Đà Lạt …
- Ảnh có biết cô đi bán như vầy không?
- Biết chứ.
- Ảnh bằng lòng không??
- Đời nào. Cho đi bán như vầy ảnh cũng đau lòng lắm chứ,
nhưng vì bắt buộc. Lucie còn có má và đứa em phải nuôi. Qua năm thằng em của
Lucie thi tú tài. Đậu hay trật nó cũng thôi học, ra đi làm … Lúc đó ảnh sẽ là
sĩ quan rồi, đủ tiền nuôi vợ … Lucie sẽ không đi làm nữa. Ở nhà nấu ăn, nuôi
con …
Tôi vốn ghét nói chuyện lăng nhăng với đàn bà, vậy mà vì bắt
buộc, tôi phải nói chuyện với Lucie. Và tôi ngạc nhiên khi thấy mình nói dễ
dàng, trơn tru về những chuyện mà từ trước tới giờ tôi chúa ghét. Tôi nói dễ
dàng như một người rất quen nói chuyện lẩm cẩm, vớ vẩn với gái bán Bar, hàng nước.
- Đúng rồi. Như vậy mới là người thật lòng thương Lucie. Nếu
cứ cho Lucie đi bán như vậy tức là không thật lòng thương Lucie đâu. Chẳng có
người đàn ông nào biết tự trọng lại bằng lòng cho vợ mình đi bán Bar.
- Lucie biết chứ.
Đôi mắt nàng thoáng hiện vẻ mơ màng. Người đàn bà nào, dù có
kém nhan sắc tới đâu đi chăng nữa, khi nghĩ đến tình yêu, đến người yêu, cặp mắt
cũng mơ màng. Có lẽ những người đàn bà kém nhan sắc lại là những người mơ màng
nhiều hơn ai hết. Lucie không phải là người đẹp, nhưng nàng cũng không xấu. Tôi
thấy nàng có thể trở thành người vợ hiền nếu nàng có dịp sớm bước chân ra khỏi
cái hộp đêm này, sớm ngưng làm cái nghề này, nếu nàng lấy được một người chồng
lương thiện, thương yêu nàng. Thương ít thôi, không cần nhiều lắm.
Hạnh phúc của cả một đời người không cần nhiều điều kiện: người
con gái cần có một người chồng lương thiện, thương yêu mình. Không cần thương
yêu nhiều lắm chỉ cần có thương là đủ. Nhưng cần chồng lương thiện, người đàn
bà không thể khá được nếu chẳng may lấy phải anh chồng bất lương, lưu manh.
Tôi nghĩ ra được cái điều rất thường ấy khi nói chuyện với cô
gái bán Bar không xấu, không đẹp có cái tên rất đầm là Lucie. Lucie không cần
có chồng làm lớn, tôi thấy nàng chỉ cần có chồng lương thiện là đời nàng đủ hạnh
phúc rồi.
- Lucie có họ hàng, bà con gì với Ông Chủ đây không?
Nàng lắc đầu:
- Không. Ổng là người quen của bà cô Lucie. Bà cô Lucie giới
thiệu Lucie.
- Hồi này Sàigòn đông khách Mỹ lắm mà? Ở đây có nhiều khách Mỹ
không?
- Ít thôi. Ông chủ của Lucie dường như không ưa người Mỹ …
- Ổng khoái Tây, phải không?
Tôi đoán liều vậy mà trúng. Ở Saigon này còn có nhiều người
thương mến những ông Tây thuộc địa bụng phệ ngày xưa. Họ cho là người Pháp xài
bảnh hơn, có tình hơn. Những người này không bỏ qua một dịp nào để kể xấu người
Mỹ, những người mà họ cho là đã hất cẳng người Pháp ở đất nước này.
Lucie gật đầu:
- Đúng đấy. Ổng là dân Tây mà … Ông có gặp Ông Chủ đây lần
nào chưa??
- Chưa.
Nàng hạ giọng:
- Ổng khó tánh lắm. Lucie ngán ổng lắm.
Tôi đưa dần câu chuyện trở lại những vấn đề mà tôi muốn hỏi
dò Lucie:
- Lucie làm ở đây có hay gặp người bạn của tôi, Ông Paul Văn
đó, tới đây thường không??
Lucie lại thay đổi hẳn sắc diện, đang cầm ly rượu trong tay
nàng đặt ngay ly xuống bàn. Nàng nhìn tôi kỹ hơn:
- Ông này nữa??
Tôi cũng ngạc nhiên:
- Tôi làm sao?? Cô muốn nói là trước tôi đã có người đến hỏi
thăm ông Paul Văn ư??
Nàng lại hạ giọng thấp hơn:
- Cách đây mới có năm ngày có một người đến hỏi thăm ông Paul
Văn … Ông chủ không bằng lòng nghe ai nói đến cái tên Paul Văn ở đây. Dường như
ông Paul Văn với ông chủ đây có thù hằn gì nhau lớn lắm. Tôi khuyên ông đừng
nói đến tên ông đó ở đây. Tôi nghĩ là ông chủ đây có thể … giết được ông Paul
Văn nếu hai người gặp nhau. Tôi không biết hai người thù nhau vì chuyện gì
nhưng chắc chắn là thù lớn …
- Như vậy có nghĩa là Lucie chưa bao giờ thấy ông Paul Văn tới
đây??
- Chưa bao giờ …
Tôi chợt rùng mình khi nghe nàng nói:
- Người bữa nọ tới đây hỏi thăm ông Paul là một bà …
Lucie cũng chợt rùng mình, nàng nói ngay:
- … Ông cho hai trăm đồng …
Tôi quay lại. Gã đàn ông đứng sau lưng tôi to lớn như một võ sĩ
Quyền Anh hạng nặng. Chắc Y phải cân nặng tới 100 ký lô. Trông Y đã dữ tợn, con
chó mà Y dắt theo trông cũng dữ tợn không kém. Vật nào chủ ấy. Người như Y phải
dắt theo con chó như vậy mới xứng. Đó là một con bẹc-dê to như con bê, có bờm
xù lên như bờm sư tử. Mồm con vật cũng vuông như quai hàm chủ nó.
Người và vật đứng sững giữa phòng. Cả hai cùng nhìn tôi bằng
hai đôi mắt đầy những ác cảm.
Tôi ngước mắt lên để nhìn kỹ hơn. Mặt gã đàn ông vuông, đôi mắt
Y trố dưới đôi lông mày rậm như chổi xể.
Trong giây phút đó thiếu chút nữa thì tôi làm một chuyện liều
lĩnh và dại dột vô ích. Vì thấy cô gái quá sợ hãi lão chủ của nàng, vì thấy
nàng nói rằng lão chủ nàng rất bực khi ai nhắc đến cái tên Paul Văn trước mặt
Y, tôi muốn chọc tức Y chơi, tôi đã định đứng lên, hỏi thẳng Y về Paul Văn, tự
nhận Paul Văn là bạn thân của tôi và Paul Văn hẹn tôi tới đây chơi và gặp hắn ở
đây, coi lão chủ dở trò gì, có phản ứng ra sao … Khi người ta nóng giận, người
ta thường không còn giữ gìn được ý tứ và người ta sẽ có nhiều sơ hở.
Tôi hy vọng lão chủ nhân Sơn Ca sẽ để lộ cho tôi biết nhiều
chuyện khi lão nóng giận.
Nhất là tôi muốn biết rõ người đàn bà mà Lucie vừa tiết lộ là
tới đây tìm Paul Văn là người nào, hình dáng ra làm sao. Tôi muốn biết rõ người
đàn bà đó có phải là vợ tôi hay không.
Nhưng số mệnh đã quyết định những sự việc phải xẩy ra một
cách khác …
Đúng lúc ấy thì một bọn khách trẻ, chừng năm sáu cặp nam nữ
thanh niên ăn bận theo lối đầu tóc bù xù Beatles, mặc quần chật ống, đi giầy
cao cổ thắt những cái thắt lưng to bản, rầm rộ dắt nhau vào quán. Họ làm cho bầu
không khí đang nhàm chán, u buồn trong quán nhộn nhịp hẳn lên. Lão chủ Sơn Ca
trừng mắt nhìn Lucie như để cảnh cáo rồi dắt chó đi vào nhà trong. Lucie bận rộn
tiếp khách. Tôi ngồi lại, nán đợi nàng rảnh tay để hỏi tiếp nhưng nàng cố tình
tránh tôi, nàng không dám đến gần chỗ tôi ngồi.
Tôi không để ý tới cái máy hát của quán này khi tôi mới bước
chân vào hồi nẫy, nhưng bây giờ thì tôi phải chú ý đến nó. Vì bọn khách trẻ vừa
vào quán là xáp ngay tới đút “jeton” vào máy. Họ lựa cho hát những bài ca ồn ào
nhất. Người ca toàn là Elvis Presley, Johnny Hallyday và Beatles.
Lời ca, tiếng nhạc đã gào thét như xé màng tai, đám thính giả
quanh tôi còn làm cho tiếng náo động tăng thêm bằng cách hát theo và vỗ nhịp
tay.
Quán náo động như một nhà thương điên đang giờ các bệnh nhân
nổi cơn la hét. Tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Tôi đành ra về, định tâm sẽ
trở lại ngày mai. Hoặc tôi sẽ đón Lucie ở ngoài đường, khi nàng đi làm về, để hỏi
thăm nàng về người đàn bà mà nàng thấy tới đó hỏi thăm Paul Văn cách đây mới có
năm ngày.
Tôi còn định nói chuyện về quán Sơn Ca với Thiếu tá Trịnh.
Nhưng tôi không làm cả hai việc đó.
Nghĩa là tôi không nói gì về quán Sơn Ca với Thiếu tá Trịnh
và tôi cũng không trở lại đó nữa.
– 11 –
Tôi không trở lại quán Sơn Ca là vì những sự việc xẩy ra sau
đó đã làm cho tôi không cần phải chú ý tới nó nữa. Tôi có những dấu vết khác rõ
rệt hơn để theo đuổi, tìm kiếm.
Sáng hôm sau, tôi vẫn còn đang ngủ, một cú điện thoại của Thiếu
tá Trịnh đánh thức tôi dậy:
- Ông Hoàng Tuấn … Thiếu tá Trịnh, Sở Truy Tầm đây, ông …
Thiếu tá Trịnh nói với tôi bằng cái giọng nói bình thản thường
lệ của ông:
- Tôi có vài tin mới báo để cho ông biết đây … Hôm qua chúng
tôi có nhờ Đài Truyền Hình chiếu hình bà vợ ông …
- Tôi biết …
- Việc làm đó không phải là không có kết quả. Chúng tôi đã nhận
được nhiều nguồn tin cho biết là có nhiều người nói là họ đã gặp, đã trông thấy
bà Như Ngọc tuần lễ trước. Chúng tôi đã kiểm soát ngay những nguồn tin ấy và thấy
có một số tin không thể tin được. Những người cho tin đa số là những người nhàn
rỗi không biết làm gì lại bị cái bệnh muốn cho nhiều người biết đến mình, muốn
mình trở thành quan trọng. Một số khác do những người có quá nhiều thiện chí muốn
giúp đỡ người khác đưa ra. Chúng tôi đã quen với những người như vậy và chúng
tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong việc gạn lọc những nguồn tin. Tuy nhiên trong
số, chúng tôi tìm được hai nguồn tin khả dĩ tin được … Chúng tôi đã có được hai
nhân chứng không ai có thể chối cãi.
Trái tim tôi như ngừng đập. Hai nhân chứng không thể chối
cãi. Thiếu tá Trịnh không phải là người hay nói giỡn chơi. Ông ta đã nói có, chắc
chắn là có.
Thiếu tá Trịnh lại nói:
- Hai người chứng của chúng ta đều làm nghề tài xế. Một người
lái xe buýt của Công Ty Hàng Không từ phi trường về Sàigòn, một người lái xe tắc
xi chạy trong thành phố. Đúng ra thì người tài xế của Công Ty Hàng Không không
tự ý tới trình diện, tức là không coi TiVi, chúng tôi phái nhân viên mang hình
bà Ngọc tới phi trường hỏi dò và ông Tài xế đó coi hình, nhận ra. Ngoài ra nhân
viên của tôi đã hỏi tất cả những người làm việc tại phi cảng hôm Bà vợ ông tới
đó. Không ai cho biết được chi tiết gì hay ngoài ông tài xế này … Chúng tôi có
mời ông ta tới Sở để khai thêm vào hồi 10 giờ sáng nay. Ông có muốn dự thính
không? Nếu ông muốn nghe, ông có thể tới văn phòng tôi vào lúc 10 giờ sáng nay.
Lẽ tự nhiên là tôi muốn rồi.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy sáng lên một ánh lửa trong vùng
trời đen tối mà tôi đã mò mẫm đi từ nhiều ngày nay.
- Ông tài xế chứng nhân thứ hai − Thiếu tá Trịnh nói tiếp − tự
ý tới trình diện chúng tôi. Ông ta trông thấy hình Bà Ngọc trên TiVi và nhớ ra
bà đó là một bà khách đã đi xe của ông. Tôi mời ông này tới văn phòng tôi vào
lúc 10 giờ 30 sáng nay. Hỏi chuyện xong ông Tài của Công Ty Hàng Không, chúng
ta hỏi chuyện đến ông tắc xi là vừa. Tôi chờ ông 10 giờ sáng nay ở văn phòng
tôi, ông Tuấn? Chào ông.
Tôi vội vàng đi tắm cho tỉnh và cạo mặt, mặc y phục trong một
trạng thái tinh thần bấn loạn không thể nào tả nổi. Nếu tôi có một chút sáng suốt
để nhận định sự việc, tôi sẽ thấy ngay rằng lời khai của hai người tài xế đã
trông thấy Ngọc 15 ngày trước đây không thể nào giúp cảnh sát có thể tìm được
nàng ngay trong một sớm, một chiều, nhưng tôi đang ở trong tình trạng tinh thần
khủng hoảng, mất hết cả khả năng phán đoán và suy luận. Đúng là tôi đang bị khủng
hoảng thần kinh.
Tôi tới văn phòng của Thiếu tá Trịnh nửa tiếng đồng hồ trước
giờ hẹn.
Thiếu tá Trịnh còn bận nhiều việc khác. Tôi được mời ngồi chờ
trên một chiếc ghế gỗ ngoài hành lang ngay trước cửa phòng của Thiếu tá Trịnh.
Tôi ngồi đó với người tùy phái giữ việc nhận thư từ và giấy báo khách của ông
Thiếu tá, nghĩa là tôi có một dịp ngồi chờ và nóng ruột.
Tôi ngồi đó chừng 15 phút, một thanh niên hơi thấp, mặt tròn,
tóc sắp hói, bận thường phục, ra gặp tôi:
- Ông Hoàng Tuấn?? – Anh hỏi tôi và chìa tay bắt khi tôi đứng
dậy gật đầu … Tôi là Bái, Thượng sĩ Bái, người được Thiếu tá giao cho việc đi
điều tra vụ bà vợ ông mất tích …
Mới nhìn qua, Thượng sĩ Bái là một thanh niên có cảm tình.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp Thượng sĩ Bái.
Tôi và anh bắt tay nhau. Bái mỉm cười:
- Tôi và ông chắc có dịp gần nhau nhiều trong những ngày tới
…
Tôi nói tôi hy vọng tôi và anh ta sẽ có dịp gần nhau ngoài
công việc chuyên môn của anh vì với những nhân chứng vừa tìm được, chắc anh và
Thiếu tá Trịnh sẽ tìm ra vợ tôi không lâu.
Thượng sĩ Bái nghiêm mặt nói với tôi:
- Ông chẳng nên lạc quan quá, ông cũng chẳng nên tin tưởng
quá nhiều ở lời khai của những chứng nhân. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi cho rằng
cuộc điều tra này sẽ khó khăn và mất nhiều ngày lắm.
Đang có nhiều thiện cảm với Thượng sĩ Bái, chợt tôi tràn đầy
ác cảm với anh ta. Cũng chỉ một lời nói. Tôi có thể tống ngay một quả đấm vào
giữa bản mặt vô duyên của anh ta vì câu anh ta vừa nói.
May sao đúng lúc ấy tiếng chuông điện reo vang. Thượng sĩ Bái
đi vào phòng Thiếu tá Trịnh rồi quay ra ngay:
- Thiếu tá mời ông vào.
Thiếu tá Trịnh ngồi sau bàn giấy, vẻ mặt vẫn bình thản như lần
đầu tôi gặp ông. Chúng tôi trao đổi vài câu hỏi thăm xã giao. Đúng giờ, người
tài xế của Công Ty Hàng Không tới nơi.
Ông tài xế đó đã có tuổi, tóc bạc gần hết. Thiếu tá Trịnh giới
thiệu với tôi:
- Đây là ông Long, tài xế của Công Ty Hàng Không chạy đường
Tân Sơn Nhất – Saigon. Tôi đã được ông Long đây nói cho biết về việc ông gặp bà
Như Ngọc. Hôm nay tôi mời ông Long tới để có thể hỏi thêm ông ấy về một vài chi
tiết và nhân thể, để xin ông Long thuật lại nội vụ trước mặt ông …
Ông nói với ông Long:
- Ông đây là ông Hoàng Tuấn, chồng của bà Như Ngọc.
Tôi hồi hộp ngồi chờ. Người đàn ông đã trông thấy Ngọc lần cuối,
rất có thể là người đã được nói chuyện vài câu với nàng, sắp cho tôi biết những
gì về người đàn bà tôi yêu dấu nhất đời?? Bộ dạng bề ngoài của ông Long quá tầm
thường. Cái bộ dạng đó cho tôi nghĩ rằng ông ta sẽ chẳng cho tôi biết được gì
quan hệ.
Chúng tôi ngồi đâu vào đó. Tôi và ông tài Long ngồi đối diện
nhau trước bàn giấy Thiếu tá Trịnh, Thượng sĩ Bái ngồi cạnh Thượng cấp.
Thiếu tá Trịnh mở chuyện:
- Như vậy là theo ông nói, ông Long, ngày thứ sáu 16 tháng
này, ông phụ trách lái xe chở hành khách của Công ty lên Phi trường và đón hành
khách tới??
Ông tài Long đáp:
- Thưa vâng. Những tài xế lái xe buýt của Công ty tôi chia
làm 3 ê kíp. Mỗi ê kíp làm việc liền 8 tiếng và được nghỉ 16 tiếng mới phải làm
lại. Hôm đó tôi nhớ rõ ca của tôi làm là từ 12 giờ đêm cho tới 8 giờ sáng. Đó
là ca vất vả nhất vì như vậy là người làm ca đó phải thức suốt đêm.
Thưa quí ông … Thật ra thì tôi, cũng như tất cả các bạn đồng
nghiệp của tôi không mấy khi chú ý đến riêng một hành khách nào. Vì chúng tôi
chuyên chở quá nhiều người, ngày nào cũng vậy. Các ông các bà hành khách ai
cũng giống ai. Làm sao mà nhớ nổi. Duy có Bà Hoàng Tuấn … Bà mà các ông đang
tìm thì tôi nhớ rõ vì một việc quá đặc biệt xẩy ra có liên quan đến bả.
Trước hết là bả đi ra khỏi phi cảng trước nhất trong số hành
khách đi chuyến phi cơ từ Nam Vang về đêm hôm đó. Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng.
Bà ấy lên xe tôi và chọn ngồi ở một chỗ khuất đằng cuối xe.
Sau bà ấy, hành khách bắt đầu theo nhau lên xe và tôi không
chú ý tới bả nữa. Cho đến lúc xe tôi sắp chạy, tôi bỗng thấy có một ông rõ ràng
không phải là khách xuống phi cơ tới định lên xe tôi. Tôi hỏi ông có phải là
hành khách không, ông ta trả lời không và nói ông muốn tìm một bà mới ở Nam
Vang về. Ông ta nhờ tôi kêu tên bà ta dùm. Lúc đó tôi không nhớ ông đó nói tên
bà ấy là Bà Tuấn hay Bà Ngọc. Tôi chỉ nhớ là tôi chưa kịp gọi thì bà khách đã
thấy ông nọ và bước xuống xe. Ông đó có nói khi trông thấy bà ấy: “Đây rồi, khỏi
phiền ông.”
Hai người đứng bên cạnh xe tôi và nói chuyện với nhau. Tôi
nhìn thấy bà Ngọc nếu đúng bà ấy là bà Ngọc. Tôi xin lỗi, bà Hoàng Tuấn …, có vẻ
hoảng hốt và xanh mặt đi. Không phải là tới bây giờ tôi mới tưởng là tôi thấy
như vậy đâu. Thưa quí ông, quả thật lúc đó bà Tuấn có vẻ hãi sợ lắm.
Thiếu tá Trịnh ngắt lời:
- Ông có nghe thoáng thấy hai người nói gì với nhau không?
Ông tài thành thật đáp:
- Thưa không. Hai người đứng bên ngoài xe và trong xe tôi lại
ồn ào tiếng người nói cho nên tôi không nghe được gì … Nhưng dường như bà Tuấn
có vẻ không bằng lòng vì một chuyện gì đó, tôi trông thấy bà lắc đầu mấy lần …
Thiếu tá Trịnh bình thản:
- Ông kể tiếp đi. Sau đó còn có xẩy ra những gì nữa??
Sau cùng bà Tuấn đến gần tôi nói rằng bả không đi xe tôi về
Saigon nữa và nhờ tôi lấy dùm bà mấy món hành lý xách tay mà bà để nơi ghế ngồi
của bà trong xe. Tôi làm theo lời bà. Có lẽ chính vì vậy mà tôi nhớ bà hơn tất
cả những bà đi xe khác.
Đến lượt tôi hỏi:
- Ông có nhớ ông mang xuống những món gì không?
Ông tài gật đầu:
- Thưa nhớ. Bà ấy xách theo một cái túi vải mầu xanh, đề chữ
Japan Airlines, một cái hộp vuông có tay xách, loại hộp đựng đồ trang điểm của
các bà, các cô. Và một cái áo lạnh …
- Áo lạnh mầu gì, ông còn nhớ không??
Ông ta đáp ngay:
- Nếu tôi nhớ không lầm thì áo mầu xám …
Tôi gật đầu đáp lại con mắt dò hỏi của Thiếu tá Trịnh. Ông
tài xế vừa tả đúng những món đồ mà vợ tôi xách theo khi nàng lên phi cơ ở Nam
Vang.
Chiếc áo lạnh mầu xám đó do chính tôi mua tặng nàng năm
ngoái.
Ông tài lại kể tiếp:
- Tôi mang mấy món đó đưa xuống xe cho bả. Bà cám ơn và quay
đi ngay. Tôi thấy bà đi mau về phía xe tắc xi đậu bên kia sân. Còn người đàn
ông nói chuyện với bà đi lối khác. Lúc đó trời tối nên tôi không trông rõ là
ông đi vào xe hơi nhà đậu ở Parking hay là đi đâu. Có điều tôi chắc chắn là hai
người không đi cùng về một phía. Tôi nghe rõ tiếng chân người đó đi lộp cộp …
Dường như ông ta có một cái chân bằng cây …
Tôi ngồi lặng người đi. Tôi cố lấy hết tâm trí để hiểu những
chuyện tôi vừa được nghe kể … Tôi không thể tin đó là chuyện có thật. Mặc dầu
tôi biết chắc rằng ông tài xế nầy không bầy chuyện nói dối. Có thể nào vừa xuống
phi trường vợ tôi đã gặp ngay tên bất lương Paul Văn đó không?? Vân Hà đã nói
cho tôi nghe rằng sau tai nạn xe hơi, Paul Văn bị cưa chân và từ đó Y phải đi
chân gỗ. Gã đàn ông có chân gỗ tìm, đón vợ tôi ở phi trường đêm đó chẳng là
Paul Văn thì còn là ai nữa??
Gần như không còn nói rõ được nữa, tôi hỏi ông tài:
- Ông có nhìn rõ người đàn ông đó không? Hắn người ra làm
sao??
Ông tài gãi đầu:
- Thưa ông, cái đó tôi khó nói … Vì lúc đó đang đêm, nơi tôi
đậu xe không được sáng lắm. Chỉ có đèn bên trong xe chứ không có đèn bên ngoài.
Có điều tôi còn nhớ là ông đó đội nón nỉ, mặc áo mưa dựng đứng cổ áo lên. Bây
giờ nghĩ lại tôi mới thấy là có lẽ ông đó muốn dấu không cho ai trông thấy mặt.
Nhưng chân thọt thì thấy rõ. Lúc đứng người ông ta cũng nghiêng nghiêng …
Tôi khó mà nói lên được thành tiếng. Hình ảnh Paul Văn, người
mà tôi chưa từng gặp bao giờ, người đáng kể là Hung Thần đã phá vỡ hạnh phúc của
vợ chồng tôi hiện ra quá rõ trước mặt tôi.
Đúng là HẮN rồi.
Thiếu tá Trịnh và Thượng sĩ Bái có thể không biết gã thọt
chân, hoặc Gã có một chân gỗ ấy là ai và gã đó có liên quan gì đến vợ tôi,
nhưng tôi, tôi biết rõ.
Tôi nghe Thiếu tá Trịnh cất tiếng:
- Ông đó có cầm can không ông Tài??
- Thưa tôi không biết chắc có hay không.
- Sau đó ông không thấy gì lạ nữa?
- Thưa không. Tôi lái xe về Trạm Hàng Không ở Sàigòn như mọi
lần. Tôi cũng quên chuyện đó đi cho đến hôm quí ông cho người mang hình bà Tuấn
lên phi trường hỏi, tôi nghe các bạn tôi nói chuyện mới chợt nhớ lại bà đó, tôi
tìm thầy cảnh sát hỏi coi bức hình thầy ấy mang theo và nhận ra bà Tuấn.
Thiếu tá Trịnh kết thúc:
- Chắc ông đã nói tất cả những gì ông biết về vụ này … Chúng
tôi xin cám ơn ông và xin không dám giữ ông lâu hơn nữa …
Tôi đứng dậy bắt tay ông tài Long và líu ríu nói mấy lời cám
ơn ông ta.
Khi ông tài ra khỏi phòng rồi, tôi ngồi chết lặng trên ghế.
Trong lúc tôi còn suy nghĩ nên hay không nên kể cho Thiếu tá Trịnh biết rằng gã
đàn ông chân gỗ gặp vợ tôi tại phi trường đó chính là Paul Văn, kẻ có án ăn trộm
xe hơi năm xưa, ông đã nói với tôi:
- Ông Tuấn … ông sắp gặp chứng nhân thứ hai. Tôi cho rằng ông
tài xế tắc xi này còn có chuyện kể quan trọng cho ông hơn ông tài xế của Công
Ty Hàng Không nhiều.
Người đàn ông mà Thượng sĩ Bái đưa vào văn phòng của Thiếu tá
Chánh Sở Truy Tầm sau đó là một ông tài xế khác hẳn với ông tài Long.
Ông này hãy còn trẻ, chỉ độ 30 tuổi, trông có vẻ điển trai rất
được lòng các chị hai nhà sang. Anh tên là Bích, người cao lớn, khỏe mạnh, nói
nhiều, hay cười để lộ hàm răng có mấy chiếc răng vàng. Anh bận chiếc áo sơ mi ca
rô để hở một nút áo trên cùng không cài. Mặc áo sơ mi để hở nút dường như là một
cái mốt của thanh niên lao động Miền Nam. Anh Tài Bích còn mang một sợi chuyền
vàng có đeo Tượng Phật. Cái tượng lộ ra đúng chỗ áo ngực để hở của anh.
Anh Tài Bích nói không cần ai phải hỏi. Đúng ra là anh chạy
xe Lô chứ không phải là tắc xi. Anh nhấn mạnh ở điểm khác biệt đó như để cho
chúng tôi hiểu rằng giới tài xế xe Lô cao hơn giới tài xế tắc xi một bực. Xe Lô
của anh được quyền đến đón khách trong phi trường về thành phố. Vào nửa đêm 15
rạng 16, anh có khách mướn xe lên phi trường − người mướn là một cặp vợ chồng Mỹ,
khá bảnh, lời thuật chuyện của tài Bích có chen lấn rất nhiều chi tiết không ăn
nhập gì đến nguyên do cuộc ra mắt của anh ở Cảnh sát cuộc này − nhân tiện anh ở
lại đón khách về.
Và vào đêm đó anh có chở vào Sàigòn một bà khách bận y phục
và diện mạo giống hệt thiếu phụ mà cảnh sát muốn tìm. Bà này bận bộ áo màu xám,
trông rất sang, tay xách theo một túi hàng không, một hộp vuông và một cáo áo lạnh
lên xe anh ở phi trường với một vẻ vội vã thấy rõ. Bà ta như sợ bị theo dõi hay
sợ một cái gì đó. Thoạt đầu, Tài Bích nghi là bà ta buôn lậu và muốn về Sàigòn
mau mau.
Tài Bích quả quyết thiếu phụ đó lên xe một mình, không có ai
cùng đến gần xe anh với bà đó. Và trên đường về Sàigòn, vì đuờng đêm vắng xe,
Tài Bích chắc chắn là không có chiếc xe hơi nào khác theo dõi xe của anh. Anh
ngầm nói để cho cảnh sát hiểu rằng anh đã từng quen với những mánh lới di chuyển
của bọn buôn lậu nên anh có thể biết chắc là xe anh chạy có bị xe nào theo dõi
hay là không. Anh kể có lần trên xe anh chở một cặp nhân tình bị bà vợ ghen đuổi
theo. Bà vợ ghen đi xe Huê Kỳ nhưng không đuổi kịp xe anh mặc dầu xe anh chỉ là
một chiếc Citroen cũ.
Tài Bích cho biết là đêm đó anh không thấy bóng dáng một người
đàn ông nào đi chân gỗ ở gần xe anh cả.
Tài Bích kể tiếp bà khách lên xe không cần trả giá. Bà bảo
anh cứ cho về Sàigòn đã, bà sẽ cho biết địa chỉ sau. Xe bình an về tới chợ
Saigon mà không bị cảnh sát xét hỏi gì mặc dầu vào giờ đó những xe từ phi trường
về thường rất hay được các thầy cảnh sát chiếu cố.
Bà khách có vẻ do dự mãi trước khi nói tên một khách sạn mà
Tài Bích chưa từng nghe nói đến bao giờ dù rằng nghề của anh có liên can nhiều
đến các khách sạn và anh biết hầu hết các khách sạn lớn cũng như nhỏ, sang cũng
như bất hảo ở Thủ Đô. Đó là Khách sạn Mỹ Ngọc Cung, phố Bạch Đằng, Chợ Lớn.
Tài Bích đưa bà khách tới khách sạn đó và anh lấy làm lạ
không hiểu tại sao một bà ăn bận sang, có vẻ quí phái như bà khách đêm ấy của
anh lại có thể đến mở phòng trong một khách sạn tồi tàn, bệ rạc đến như khách sạn
có cái tên rất Tầu Mỹ Ngọc Cung đó. Cả cái khu phố ấy cũng tồi tàn tương xứng với
khách sạn. Tài Bích chắc chắn mặc dầu anh chưa đặt chân vào cái nhà ngủ Mỹ Ngọc
Cung ấy bao giờ anh cũng đoán được là đó là một nhà ngủ mà “giường có rệp và cửa
phòng có năm bẩy cái khoan thủng để nhìn trộm” … Nhưng việc của Tài Bích là việc
chuyên chở hành khách đến nơi đến chốn chớ không phải là việc góp ý kiến với
khách về vấn đề phòng ngủ. Vì vậy sau khi được bà khách trả tiền, anh phóng xe
về nhà vợ bé ngủ luôn đến trưa hôm sau mới dậy.
Tài Bích nhấn mạnh ở điểm anh lấy làm lạ một bà khách sang trọng,
lịch sự đàng hoàng như bà khách của anh đêm đó lại có thể đến mở phòng ngủ
trong một khách sạn tồi tàn thấy rõ như khách sạn Mỹ Ngọc Cung. Theo lời anh,
anh thấy là suốt trên đường đi từ phi trường về nơi đó bà khách có vẻ hốt hoảng,
sốt ruột, ngồi không yên, luôn luôn ngoái cổ nhìn lại sau xe như để coi có xe
nào chạy theo hay không. Cho đến lúc nghe tin cảnh sát truy tầm tông tích của
bà đó, anh vẫn tin chắc rằng bà đó là một tay buôn lậu lớn và bà ta chỉ vào
khách sạn đó để đánh lạc hướng nhà chức trách. Theo anh, bà khách của anh phải
vô ở khách sạn Majestic hoặc Caravelle mới xứng đáng.
Tài Bích công nhận đó là một bà khách thật sang trọng. Anh vốn
có khá nhiều kinh nghiệm về đàn bà – đây là thuật lại lời anh tự khoe – anh chỉ
nhìn mặt và nghe tiếng nói cũng có thể biết người đàn bà đó thuộc loại đàn bà
nào, tử tế, lương thiện, hay là chơi bời. Dù một cô chơi bời mà ăn bận sang anh
cũng biết ngay là gái chơi bời. Anh công nhận rằng bà khách của anh là một người
đàn bà thật sang.
Anh giúp bà mang mấy món hành lý vào khách sạn Mỹ Ngọc Cung.
Giờ đó đã quá khuya nhưng khách sạn này vẫn còn mở rộng cửa tiếp khách. Chủ
nhân khách sạn là một gã Tầu Lai trông thật thô bỉ và lưu manh. Người Việt Nam
có thiện chí tới đâu cũng không thể sống chung vui vẻ với những gã Ba Tầu bẩn
thỉu, dơ dáy và lưu manh như gã chủ nhân Mỹ Ngọc Cung đó.
Mặc dầu Tài Bích không nói ra nhưng tất cả mọi người nghe
chuyện anh đều thấy rõ ràng anh là người rất thích nhẩy xổ vào đời tư của những
bà khách đi xe anh.
Trong trường hợp bà khách đêm hôm đó, rõ ràng là anh chỉ biết
có thế.
Thiếu tá Trịnh ghi địa chỉ khách sạn Mỹ Ngọc Cung để đến đó
tìm cho dễ, rồi ông ngỏ lời cám ơn Tài Bích.
- Ông Tuấn thấy sao ạ?? − Thiếu tá Trịnh quay lại hỏi tôi khi
Tài Bích đã ra khỏi phòng − Mặc dầu chúng ta đã có hai người này làm chứng, có
lẽ chúng ta cũng không tiến được xa hơn ngày đầu là mấy. Nhưng chúng ta cũng có
vài điều để có thể nói là biết chắc. Chắc ông cũng không tin là Bà Như Ngọc lại
có thể ngụ lâu ở một khách sạn tồi tàn đến nỗi người như Tài Bích mà cũng phải
chê chứ??
Tôi buồn rầu:
- Có thể nào vợ tôi bắt buộc phải tới đó chăng?
- Tôi không nghi ngờ gì về chuyện ấy. Đúng là bà ấy bị bắt buộc
phải tới đó. Và kẻ bắt buộc bà ấy chính là gã cụt chân đi chân gỗ đã gặp bà ấy ở
sân bay. Gã đó tới đón bả … Chúng ta phải tìm cho ra gã cụt chân đó … Nhưng
ngay lúc này, việc chúng ta cần làm ngay là tới Khách sạn Mỹ Ngọc Cung. Thượng
sĩ Bái sẽ tới đó ngay bây giờ. Thượng sĩ đi được chứ??
- Xin tuân lệnh Thiếu tá.
- Không nên cái gì cũng chờ lệnh tôi. Tôi đã trao cho Thượng
sĩ phụ trách điều tra vụ này. Ông chỉ nên làm những gì ông thấy là phải, làm
theo ý riêng của ông miễn là ông cho tôi biết sau những kết quả. Ông thấy nên
làm việc gì thì ông cứ làm việc đó.
Tôi hỏi Bái:
- Tôi có thể đi theo ông được không?
Bái vui vẻ và sốt sắng đáp:
- Được chứ, nếu ông muốn. Tôi vừa nói với ông là chúng ta sẽ
có dịp gần nhau nhiều mà. Tôi tin rằng sự có mặt của ông sẽ có thể giúp được
tôi quyết định mau chóng nhiều việc.
Sự vui vẻ và lạc quan thái quá của ông Thượng sĩ cảnh sát này
làm cho tôi khó chịu. Ông ta vui vẻ như đi coi mặt một người con gái sắp cưới
làm vợ chứ không phải là đi tìm một người đàn bà có chồng đột ngột và vô cớ mất
tích.
Thiếu tá Trịnh lại nói:
- Tôi tin là hai ông sẽ có thể tìm được vài dấu vết hay hay ở
khách sạn đó nhưng các ông đừng hy vọng rằng đến nơi sẽ thấy Bà Như Ngọc ngồi
an lành ở đó …
Thượng sĩ Bái nói đùa một câu thật là vô duyên:
- Biết đâu khi thấy ông Tuấn vào phòng, Bà ấy lại chẳng nói
nhỏ một câu là … em chờ anh mãi, sao bây giờ anh mới tới …??
Tôi khẽ nói:
- Tôi không đến nỗi lạc quan đến như vậy đâu …
Tất cả những gì gọi là mừng rỡ, sốt sắng, tin tưởng của tôi hồi
sáng nay, khi tôi được tin Thiếu tá Trịnh cho biết có hai người nói là gặp vợ
tôi ở Sàigòn đột ngột tan biến đi. Nó như một ngọn lửa bốc lên nhưng lại tắt
ngúm.
Những giờ phút sắp tới trong đời tôi vẫn không có một hứa hẹn
thay đổi. Đời tôi, với những ngày sống sắp tới, tối om như một cái hang sâu,
như một con đường hầm. Tôi bắt buộc phải đi qua con đường hầm ấy mà không có
chút ánh sáng soi đường. Tôi vẫn phải mò mẫm đi như tôi đã mò mẫm kể từ giây
phút vợ tôi đi xa tôi, kể từ phút nàng tự nhiên biến mất.
Tuy nhiên tôi cũng được biết một chuyện mà tôi tin đó là thật,
hoặc có thể sự thật giống như thế. Đó là chuyện vợ tôi, người vợ thân mến của
tôi, là nạn nhân của một bọn lưu manh do tên Paul Văn cầm đầu. Bọn lưu manh đó
giăng một cái bẫy cho Ngọc về Sàigòn. Chúng gửi một điện tín giả báo tin Bà
Ngà, mẹ nàng, đau nặng và nàng mắc mưu chúng …
Nàng chỉ tới Mỹ Ngọc Cung, khách sạn Mỹ Ngọc Cung, tạm dừng
chân chờ chúng. Chẳng cần phải là thám tử như Thiếu tá Trịnh, tôi cũng hiểu là
nàng không ở trong cái khách sạn đó lâu. Bọn Paul Văn đã tới mang nàng đi nơi
khác, chúng tôi sẽ tới đó quá chậm …
Kể từ ngày Ngọc đặt chân xuống Sàigòn, nàng đã trải qua bao
nhiêu khổ não, bao nhiêu lo sợ và đau thương …?? Tôi là chồng nàng, lẽ ra tôi
phải bảo vệ nàng, tôi phải chia với nàng những lo sợ và khổ não ấy. Nhưng tôi
biết nàng ở đâu để mà tìm tới với nàng …??
Nàng còn sống hay là đã chết?? Ý nghĩ “chết” làm cho tôi lạnh
người.
Khi tiễn tôi ra cửa phòng, Thiếu tá Trịnh đặt nhẹ tay lên vai
tôi. Có lẽ ông biết tôi đang nghĩ gì, ông nói nhỏ:
- Ông đừng buồn quá, đừng lo quá … Còn có chúng tôi giúp ông
… Ông nên nhớ rằng không có một cá nhân, hay cả một tổ chức làm bậy nào ở cõi đời
này có thể thắng được Cảnh sát hết. Trước sau gì chúng tôi cũng thắng được
chúng …
Ông ta nói đúng. Cảnh sát là cả một tổ chức lớn của xã hội
chuyên diệt trừ bọn lưu manh, làm bậy. Nhưng đôi khi cảnh sát không thể cứu được
những nạn nhân vô tội bị bọn lưu manh chiếu cố. Bọn sát nhân sẽ phải đền tội.
Đúng. Nhưng chúng chỉ đền tội sau khi đã giết người … Cảnh sát thì làm được gì
cho những người đã bị giết??
Tôi không nói với Thiếu tá Trịnh ý nghĩ đó của tôi cũng như
tôi cũng không nói gì với ông về chuyện gã đàn ông đi chân gỗ mà tôi biết.
– 12 –
Đường Bạch Đằng ở Chợ Lớn là một con đường nhỏ, một trong số
những con đường nhỏ nằm chung quanh đường Đồng Khánh và Tổng Đốc Phương.
Tới đầu con đường nhỏ đó, tôi hiểu ý Tài Bích nói: không một
người đàn bà nào, nhất là đàn bà Việt Nam, lại có chuyện để mà lui tới khu phố
này. Toàn là những căn nhà cũ kỹ, xập xệ dáng chừng được xây dựng lên từ thời
người Pháp mới đặt nền cai trị trên đất nước này. Và đặc biệt là khu phố ngắn hẹp
này có rất nhiều nhà ngủ, loại khách sạn mà người ta thường gọi ở Bắc Việt là
“nhà xăm”, những nhà cho mướn phòng chỉ để cho đàn ông, đàn bà không có nơi kín
đáo dùng làm chỗ ân ái chớp nhoáng với nhau.
Tôi không thể hiểu được Ngọc tới đây làm gì??
Tôi biết chắc chắn rằng Ngọc, vợ tôi, với cái tính sạch sẽ và
con người của nàng, không thể nào ngủ được trong một nhà ngủ tồi tàn, dơ dáy, đầy
vẻ bất lương như nhà ngủ có cái tên rất Tầu là Mỹ Ngọc Cung.
Ở đầu con đường Bạch Đằng nhỏ xíu này − thật là một trò khôi
hài khi người ta lấy cái tên Bạch Đằng, một chiến thắng lớn của tổ tiên chúng
ta chống ngoại xâm để đặt tên cho cái con đường Ba Tầu bẩn thỉu này − Ở đầu đường,
tôi thấy có một khách sạn có cái tên đặc biệt là Khoái Lạc Cung.
Khoái Lạc Cung viết bằng tiếng Việt không sai một chữ.
Thượng sĩ Bái chở tôi đi trên một chiếc xe Jeep của Cảnh sát.
Nhưng ngay trước cửa khách sạn Mỹ Ngọc Cung lúc đó có nhiều chiếc xe đậu nên xe
của Bái phải đậu tít tận đầu phố. Chúng tôi đi bộ tới khách sạn.
Nhà ngủ Mỹ Ngọc Cung trông qua không có một vẻ gì là cung điện.
Nó là một căn nhà có lầu, những khung cửa sổ mục nát nhìn xuống đường. Tên nhà
ngủ được viết bằng sơn đỏ trên bức tường nham nhở. Càng nhìn rõ vẻ tồi tàn của
nó, tôi lại càng không hiểu Ngọc tới đây làm gì?? Nàng bắt buộc phải tới đây vì
bọn bắt cóc nàng muốn ư?? Chúng nắm được những gì bí mật trong đời tư của vợ
tôi đến nỗi nàng phải sợ chúng như vậy?? Tại sao chúng không bắt nàng phải tới
chờ chúng trong một căn nhà nào khác??
Hoặc giả nếu Ngọc tự ý tới đây để trốn tránh bọn bắt cóc
nàng, tại sao nàng lại chọn nhà ngủ tồi tàn này?? Sàigòn có thiếu gì khách sạn
có đủ an ninh để có thể bảo vệ được nàng, như khách sạn Majestic, Caravelle hay
Continental chẳng hạn??
Nói thực với HUY là khi theo Thượng sĩ Bái bước chân vào hành
lang của nhà ngủ Mỹ Ngọc Cung, tôi không có qua một hy vọng nhỏ nhoi nào về
chuyện tôi có thể tìm thấy Ngọc ở đây. Tôi nghi luôn cả lời thuật chuyện của
anh tài xế xe lô lắm chuyện. Tôi tin rằng không bao giờ Ngọc lại tới nhà ngủ
này.
Hành lang chật và sặc sụa mùi hôi hám. Rất có thể dưới chân cầu
thang gỗ kia có vài ba con chuột chết sình. Không có một người nào ở đó đón
khách. Thượng sĩ Bái tới gõ mạnh lên cánh cửa phòng ngay trên hành lang.
Tôi đứng chết trân trên lối đi, không nói được một tiếng. Tôi
chỉ muốn ói mửa ra đó.
Gõ chán không thấy người trả lời, Bái mở đại cánh cửa. Chúng
tôi nhìn vào một căn phòng tối, đồ đạc bầy biện lủng củng, quần áo mặc dở treo
đầy trên tường, trên thành ghế, trên giường. Mùi hôi hám từ trong phòng này bốc
ra làm cho chúng tôi nghẹt thở:
- Ủa …? Lạ chưa kìa?? Người trong nhà này trốn đâu cả rồi …??
Bái vừa cười, vừa nói. Cái cười như trẻ con của anh làm cho
tôi càng thêm ghét anh.
- Hỏi chi vậy?? Muốn cái gì??
Một giọng nói lè nhè vang lên sau lưng chúng tôi.
Chúng tôi quay lại. Gã đàn ông đó trạc độ năm mươi tuổi, mặt
bóng loáng những dầu, làn da mặt hắn bóng đúng như được thoa mỡ lợn. Tôi không
hiểu hắn bị bệnh gì trong gan ruột mà làn da mặt hắn lại có thể bóng nhẫy lên
như vậy. Có điều tôi biết chắc mặc dầu tôi không biết gì nhiều về các chất ma
túy và những người nghiện ma túy, chỉ nhìn qua làn da mặt bóng nhẫy của gã đàn
ông trong khách sạn Mỹ Ngọc Cung, tôi cũng biết rằng hắn là một người nghiện
hút thuốc phiện.
Hắn đứng ngay trên cửa ra vào, nét mặt tươi như mặt người
trong nhà mới có người chết.
- Chúng tôi muốn gặp ông Chủ …
Thượng sĩ Bái nói bằng một giọng tương đối lịch sự đối với
ngôn ngữ của cảnh sát. Thấy người hỏi lịch sự, tên đàn ông lại càng tỏ ra hỗn
xược:
- Hỏi cái gì?? Ông chủ đây …
Thì ra gã mặt bóng loáng đó là Ông Chủ Khách sạn Mỹ Ngọc
Cung.
Giọng hắn lơ lớ như giọng người lai Tầu, lai Miên hoặc lai
Chà.
Thượng sĩ Bái vẫn lịch sự:
- Ở khách sạn này có một bà đến mướn phòng tên là Bà Hoàng Tuấn,
hoặc Bà Như Ngọc … Chúng tôi muốn nói chuyện với bà ấy …
Chủ nhân Mỹ Ngọc Cung nói như sủa vào tai người nghe:
- Không có bà nào ở đây hết. Khách sạn này không tiếp khách.
Nghỉ chơi …
- Bà ấy đến ngụ ở đây đã mấy hôm rồi, có lẽ bà ấy đã đi nơi
khác …
- Không biết. Không có bà nào hết … Mời ra. Đây là phòng
riêng.
Thượng sĩ Bái vẫn bình tĩnh:
−Ông nhớ lại coi … Bà Hoàng Tuấn, tới đây vào đêm 15 tháng
này …
- Không có mà. Đã bảo không có …
- Có mà …
Như không nghe rõ lời nói của Thượng sĩ Bái, gã chủ nhân Mỹ
Ngọc Cung chỉ tay ra cửa:
- Đi ra …
Hắn đuổi chúng tôi thẳng thừng.
Thượng sĩ Bái mở vạt áo veste cho hắn trông thấy bao da đựng
súng, anh nói vẫn hòa nhã nhưng đã có chút âm thanh đe dọa:
- Cảnh sát. Đến điều tra …
Thái độ của tên chủ khách sạn bần tiện thay đổi hoàn toàn khi
hắn biết hắn đang nói chuyện với cảnh sát, theo kinh nghiệm, hắn thừa hiểu cảnh
sát bận thường phục là những người quan trọng và đáng sợ hơn cảnh sát mặc sắc
phục nhiều. Đang hung hăng, hỗn xược, hắn mềm nhũn như con chi chi, hắn xoa tay
vào nhau và cười cầu tài ngay được:
- Xin thầy tha lỗi … Tôi không được biết … Xin mời thầy ngồi
…
Bộ mặt bóng nhẫy của hắn lộ vẻ kinh sợ rõ rệt.
Tôi thấy chán và tởm thái độ của hắn. Tôi nghiệm thấy người
ta, những người dân thường, vẫn có một thái độ sợ hãi, khúm núm trước những người
cảnh sát. Sự sợ hãi thái quá đó là nguyên nhân xẩy ra nạn tham nhũng, làm cho
những cảnh sát viên trở thành kiêu mạn, tưởng mình có thể làm được tất cả mọi
việc.
Vì kém thông hiểu về pháp luật nên gần như tất cả mọi người
thường dân của xã hội ta đều có mặc cảm phạm tội, mỗi lần gặp nhân viên công lực
là sợ sệt, muốn van xin hay hối lộ cho xong việc.
Tôi tin chắc rằng tên chủ nhân khách sạn này phải có làm việc
phạm pháp cho nên hắn mới sợ hãi cảnh sát đến thế. Hắn vội vã kéo ghế mời chúng
tôi ngồi.
Thượng sĩ Bái như đã quen với thái độ hỗn hào rồi khúm núm đó
nên anh vẫn bình thản:
- Dường như ông không coi Vô Tuyến Truyền Hình hôm qua?? Cảnh
sát có chiếu hình Bà Hoàng Tuấn trên Vô Tuyến Truyền Hình và yêu cầu ai gặp hoặc
thấy bà này ở đâu, cho cảnh sát biết …? Chúng tôi biết chắc là trong đêm 15 vừa
qua, bà Hoàng Tuấn có tới đây vào lúc quá nửa đêm … Chúng tôi chưa biết bà ấy
ghi tên mướn phòng ở đây làm gì … Vì vậy chúng tôi mới tới đây hỏi … Có gì đâu
mà ông vội chối quá vậy?
Tên chủ khách sạn cong lưng xuống:
- Thưa … tại tôi quên mất …
- Trên báo cũng có in hình của bà ấy cùng lời kêu gọi của cảnh
sát? Ông cũng không đọc báo sao??
- Thưa thầy không, tôi không đọc báo nên không biết gì …
- Ông nói thiệt chứ??
Bái lượm một tờ nhật báo vứt dưới chân bàn lên. Đó là một tờ
báo mới và chỉ cần mở rộng tờ báo ra, bức hình của Ngọc nằm ngay ở đó, nét và
rõ.
Tôi bị một xúc động khi thấy bức hình của Ngọc. Mặt nàng như
thay đổi đi vì hình đăng báo không thể nào giống hệt như người thật.
Lần này, bằng chứng là hắn nói láo quá rõ, tên chủ khách sạn
run cả chân tay.
- Tôi có đọc báo nhưng không để ý … Tôi nhìn không ra người
mà các ông tìm lại là bà đó …
Bái ngắt lời hắn:
- Bây giờ ông đã biết rõ rồi?? Sao??
- Thưa thầy … Đúng vào đêm 15. Quả có một bà khách. Hao hao
giống bà này … Tới nhà tôi mướn phòng trọ. Hiện nhà tôi định sửa lại nên không
cho mướn song vì đã quá nửa đêm, tôi không thể để bà ấy đi kiếm phòng nơi khác
nên phải mở phòng cho bà ấy. Ở đây phòng thiếu nhiều tiện nghi … Tôi có nói vậy
để bả biết, bả nói bả không cần … Bả mướn phòng 7 ngày và trả tiền ngay …
Thượng sĩ Bái:
- Bà ấy ghi sổ tên là gì?
- Dạ … Nguyễn Thị Vân …
- Cho coi sổ ghi khách trọ …
Hắn mở một ngăn tủ, lôi ra một cuốn sổ bìa da đen cũ rích và
rách nham nhở.
Hắn run rẩy mở trang cuối cho chúng tôi coi. Dưới con số ngày
tháng, tôi nhìn thấy dòng chữ nguệch ngoạc ghi tên Nguyễn Thị Vân, Phòng số 1,
7 ngày, trả tiền rồi.
Bái nghiêm mặt:
- Ông không coi căn cước của bà ấy, phải không …? Ông để mặc
bà ấy muốn khai tên ra sao thì khai??
Tên chủ lại càng run:
- Dạ … dạ … xin thầy thông cảm … Nhà trọ chúng tôi thường phải
tiếp những bà đến mướn phòng mà dấu tên … Chúng tôi biết như vậy là phạm luật cảnh
sát nhưng nếu đòi ghi đúng căn cước thì các bả không chịu …
Bái lại hỏi:
- Chữ này ai viết??
Tên chủ càng run rẩy:
- Thưa tôi …
- Không có chữ ký của bà ấy sao?
- Thưa không …
- Là chủ nhân khách sạn, ông phải biết luật chứ. Nói không biết
sao được …? Chuyện đó chúng ta sẽ bàn tới sau, rồi sao?
- Sao … gì ạ?
- Bà khách đó làm những gì ở đây?
- … Tôi không biết …
- Không biết là thế nào?
- Thưa … bả chỉ ở lại nhà tôi có một đêm … Qua hôm sau bả đi
ra phố rồi đi luôn, không thấy bả trở lại nữa. Dạ, đúng ra là bả ở lại phòng
cho đến tối hôm sau, tức là tối ngày 16 … Suốt ngày bả ở trong phòng … Nhà tôi
không có nấu ăn cho khách, nhưng vì có lời yêu cầu của bả nên tôi nhờ người ra
tiệm lấy thức ăn về phòng cho bả. Suốt ngày hôm sau bả không đi ra khỏi phòng …
- Bả có gọi điện thoại lần nào không??
- Thưa không, nhà tôi không có điện thoại.
- Rồi sao? Bả ra đi một mình hay có người đến đón? Ông phải
nói thật …
- Dạ … Tôi nói thật … Tôi có lợi gì đâu mà nói dối … bả cũng
không yêu cầu tôi đừng nói gì nếu có ai đến hỏi … Vào lúc 7 giờ tối ngày 17,
tôi thấy có chiếc xe hơi tới đây, một ông vào hỏi tên bả … Nguyễn Thị Vân … Tôi
chỉ cho ổng lên lầu … Ổng lên chừng 15 phút sau, ổng xuống cùng với bả … Hai
người ra xe đi … Bả chẳng nói gì với tôi hết. Tôi tưởng bả đi đâu đó rồi trở lại
nhưng không thấy … Bả đi là đi luôn …
- Người đàn ông tới đón bà Tuấn trông ra sao?
- Thưa tôi không nhìn nên không biết.
Bái quay lại nói với tôi bằng cái giọng thản nhiên mà người
ta thường dùng để nói đến những chuyện trời mưa, trời nắng:
- Tôi nghĩ có lẽ ta phải đưa ông chủ về sở để các chuyên viên
thẩm vấn hỏi cung ông. Chúng ta hơi tử tế, ông không chịu nói thật. Chắc ổng
khoái được các ông chuyên viên hỏi cung thẩm vấn …
Tên chủ kinh hoàng như khi y nghe tin người ta cho y lên máy
chém. Bộ mặt đã bóng như bôi mỡ của y giờ đây lã chã những mồ hôi. Y chắp hai
bàn tay lại như muốn lậy sống Thượng sĩ Bái:
- Xin ông đừng … Tôi xin thề trước bàn thờ Đức Thánh Quan là
tôi nói thật, tôi không dấu diếm điều gì. Tôi mà nói dối hai lòng … thì tôi bước
chân ra đường, xe 10 bánh cán tôi chết tươi …
Dáng chừng Y biết tôi dễ mềm lòng hơn Thượng sĩ Bái, Y đoán
tôi không phải là một cảnh sát viên và tôi có thể nói dùm với Bái tha cho Y được,
Y quay sang van lơn tôi:
- Nhờ ông nói dùm với ông đây. Tôi làm ăn lương thiện … Xin đừng
bắt, tội nghiệp tôi …
Bái lạnh lùng nhắc lại:
- Cái người đàn ông đó ra sao?
Lần này, tên chủ khách sạn trả lời ngay:
- Ông ấy người trung trung, mặc áo mưa, đội nón che kín mặt …
Ổng lại còn mang kính đen nữa … Ổng thọt chân … Tôi chỉ biết có vậy thôi …
- Có vậy sao không nói. Tôi chắc ông có lý do gì đây để dấu
không nói gì cho chúng tôi biết về người đàn ông đó. Trước, ông nói là nhà ông
không có bà nào giống Bà Tuấn đến trọ, rồi ông lại nói là ông không biết gì hết
về người đến đón bả đi … Ông còn dấu chúng tôi những gì nữa? Đó là quyền của
ông, nhưng tôi nói cho ông biết, ông không dấu nổi chúng tôi đâu. Nghề của tôi
là nghề tìm bắt những kẻ dối trá. Ai gian, ai ngay, ai nói thật, ai nói dối,
tôi biết. Tôi biết nhưng tôi cứ để mặc cho ông nói dối. Đừng tưởng là ông qua mặt
được tôi đâu. Cuối cùng, tôi có bắt ông hay không lúc đó ông mới biết là tôi có
tinh hay là tôi khù khờ … Rồi … Bây giờ chúng ta nói tiếp … Người đàn ông mà
ông nói là thọt chân ấy đến đón bà Tuấn đi bằng chiếc xe gì?
- Dạ … xe hơi màu đen. Xe Traction đã cũ …
- Có nhớ số không?
- Thưa không. Tôi không nhìn số. Xe đậu xế cửa nhà tôi nên
tôi chỉ trông thấy hai người ngồi trong xe và chạy qua …
Vài giây sau, y lại nói:
- Thưa hai ông … Tôi làm ăn lương thiện, tôi không có thói
quen nhòm ngó vào việc riêng của những người tới đây mướn phòng. Việc ai nấy
lo. Tôi không ngờ bà đó lại có dính líu đến cảnh sát … Nếu biết, tôi đã không bằng
lòng cho bả mở phòng … Coi bà ấy ăn bận sang trọng, đàng hoàng quá mà … Lúc bà ấy
đi rồi đi luôn, tôi đã nghi nghi … Nhưng xin lỗi hai ông, tôi nghĩ rằng bà ấy
có thể là một bà sang trọng mà có tình nhân hoặc chưa có chồng, chồng chết …
nên không muốn cho ai biết hành tung của mình … Nếu biết bà ấy là một người phạm
pháp, tôi đã hỏi căn cước của bả …
Không cần phải hỏi Thượng sĩ Bái, tôi cũng biết là anh cũng
nghĩ như tôi: tên chủ khách sạn này nói dối.
Loại chủ nhà ngủ như Y là chúa xoi móc, chúa hay nhòm ngó trộm
việc làm của người khác. Nhưng tại sao Y lại có ý nói dối, cố ý che đậy sự có mặt
của vợ tôi ở đây …? Đó là điều mà tôi hy vọng là Bái sẽ tìm ra, dù có phải tìm
ra bằng cách dọa nạt. Từ trước tôi vẫn ghét việc cảnh sát hay đe dọa dân chúng
để được việc của họ. Song, với tên chủ nhà ngủ ngoan cố và giả dối, nói dối
thánh thần này, tôi thấy rằng cảnh sát không dọa dẫm không xong. Nếu Y không sợ,
không bao giờ Y chịu nói thật. Tôi biết là tôi đã trở thành ích kỷ. Nhưng với
tên chủ nhà trọ mặt bóng loáng những dầu này, tôi sẽ không thấy Bái đáng trách
nếu anh đánh Y năm bẩy cái bạt tai ngay trước mặt tôi.
Có lẽ Bái cũng biết tôi nghĩ như vậy, nhưng vẻ mặt và giọng
nói của anh vẫn không thay đổi:
- Khi đi bà ấy bận đồ như thế nào??
- Thưa … bà ấy bận bộ đồ xám nhạt, vẫn bộ đồ khi bả tới …
- Lúc đi bả có mang nhiều đồ đi không??
- Bả mang đi hết, chẳng để lại gì cả. Lúc tới bả cũng mang tới
rất ít đồ. Tôi không để ý vì bả trả tiền trước cả tuần mà bả ở mới có một ngày.
Chắc các ông cũng biết luật khách sạn chúng tôi chỉ giữ hành lý của khách khi
nào khách chưa trả tiền phòng mà đã mang hết hành lý đi mà thôi.
Bái hỏi tôi:
- Chắc bà ấy có mang theo nhiều va ly chứ?
Tôi đáp:
- Nhiều, nhưng chắc còn để ở Hàng Không. Người tài xế xe Lô
có nói là lúc lên xe tới đây, nàng chỉ mang có một cái sắc vải và một hộp đựng
đồ trang điểm.
- Chúng ta cần đến Hàng Không hỏi về vụ này …
Bái quay lại nói với tên chủ nhà ngủ mặt bóng loáng:
- Ông cho chúng tôi coi căn phòng ông đã cho Bà Tuấn hoặc là
cô Vân mướn.
- Xin mời các ông theo tôi …
Tuy nói thế nhưng chúng tôi thấy rõ là Y không có vẻ sốt sắng
lắm trong việc đưa chúng tôi đi coi phòng.
Chúng tôi đi theo Y lên lầu. Những bậc thang cáu đầy những đất
dính với đờm rãi và hàng trăm thứ khác bốc lên một thứ mùi hôi hám không thể tả.
Tôi càng thêm đau khổ và tủi hận khi nghĩ rằng Ngọc, người vợ mà tôi yêu thương
nhất đời, đã phải đặt những gót giầy của nàng trên những bậc thang dơ dáy, bẩn
thỉu này. Cổ họng tôi nghẹn lại khi nghĩ tới nàng. Tôi vẫn không thể nào tưởng
tượng được hình ảnh của Ngọc đi trên những bậc thang này, sống trong bốn bức tường
tồi tàn, sặc mùi sa đọa và trụy lạc này.
Bọn Paul Văn đã nắm được sự bí mật gì của đời nàng đến nỗi
nàng phải nghe lời chúng đến như thế này?
Tại sao nàng lại dấu sự đe dọa ấy không cho tôi biết? Nàng sợ
rằng nếu tôi biết, tôi sẽ không yêu nàng nữa ư? Ngọc đã lầm, thật lầm. Người
đàn bà dù là người đàn bà thông minh, đôi khi vẫn có những cái lầm tai hại như
thế. Và những cái lầm đó thường tai hại đến nhiều cuộc đời, nhất là làm hại lớn
đến cuộc đời của những người yêu họ.
Đúng như tên chủ nói, khách sạn dường như không có một người
khách trọ nào. Không hiểu vì không có ai thèm đến mướn phòng hay là Y không cho
mướn thật như Y nói với chúng tôi. Chỉ biết là tôi lên hết cầu thang tới một
hành lang cũng dơ dáy như cầu thang, tôi thấy mấy cánh cửa phòng đều đóng kín
mít.
Tên chủ mặt nhờn tới một cánh cửa, Y lựa chìa khóa mở cửa
phòng và đẩy rộng cho chúng tôi vào.
Căn phòng, tuy vậy, không đến nỗi nào tồi tàn lắm. Nghĩa là
không đến nỗi quá bẩn thỉu như tôi tưởng, mầu sơn trên tường có loang lổ, trên
trần có vài vết dột nước mưa loang lổ và chiếc giường là giường sắt, song nệm
giường khá trắng và chắc là không có rệp, cửa phòng không thấy có lỗ thủng nào
quá rõ cả.
Tôi có thể chấp nhận được việc vợ tôi có thể sống được một
ngày trong căn phòng khách sạn như thế này.
Tên chủ nói bằng một giọng kiêu hãnh:
- Đây là phòng hạng nhất của tôi, chỉ dành cho khách sang …
- Ông đã kiểm soát phòng này sau khi bà ấy đi rồi chứ?
- Thưa đã, nhưng cũng chẳng có gì để kiểm soát … Bà ấy không
có hành lý nhiều. Có gì bà ấy đã mang đi hết.
- Chắc không … Có gì của bà ấy để lại không? Chúng tôi cần
tìm lại những món đồ của bà ấy để lại dù là đồ nhỏ nhặt nhất. Cố nhớ lại coi …?
Tên chủ gân cổ:
- Thưa không có gì để lại … Đó các ông coi.
Bái lẳng lặng không nói gì. Anh tới mở những ngăn tủ rỗng
không, lật cả nệm giường lên, nhòm xuống gầm giường thấp tè, nhòm cả trong nhà
tắm nhỏ xíu. Tôi đi theo Bái nhưng tôi nhìn anh tìm tòi với một vẻ thản nhiên gần
như là dửng dưng. Từ lâu rồi tôi đã từ bỏ cái hy vọng có thể tìm thấy một vật
gì của Ngọc, một vật mà nàng mang đi theo nàng đêm nàng xa tôi. Nàng như một
người đột nhiên biến mất vào không gian. Như chưa từng bao giờ cuộc đời này có
nàng.
Không có qua một bằng chứng gì chứng tỏ rằng Ngọc đã sống gần
24 tiếng đồng hồ trong căn phòng này. Thật ra, tôi không muốn tìm thấy một vật
gì của Ngọc ở đây hết, vì nơi này dơ dáy, bẩn thỉu quá. Tôi không muốn biết chắc
là Ngọc đã nằm ngủ trên chiếc giường có cả ngàn cặp nam nữ đã nằm không phải là
để ngủ mà là để thỏa mãn nhục dục này. Chẳng thà tôi không tìm thấy gì của nàng
ở đây còn hơn.
Tôi muốn tất cả dấu vết của Ngọc biến đi hết trong căn phòng
này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét