Tại ngục vịnh Kiều
VIẾT CHO NGƯỜI YÊU
Em yêu dấu,
Những bài Tại Ngục Vịnh Kiều ở trong loạt bài anh viết cho em
gọi chung là “Viết cho người yêu”. Em yêu anh càng tốt mà em yêu ai cũng được,
miễn là em có yêu. Em yêu là anh viết cho em, anh cũng viết cho tất cả những
người yêu trên cõi đời này.
Ngày xưa, Lạc Tân Vương, thi sĩ đời Đường ở Trung Hoa, không
biết vì lý do chính trị, chính em hay văn nghệ, văn gừng chi đó mà bị tù. Một
hôm ngồi buồn trong ngục, thi sĩ thấy một con ve sầu đến bên song tù, thi sĩ
bèn làm bài thơ Tại ngục vịnh thiền: ở trong ngục vịnh con ve sầu. Bài thơ ngắn
thôi:
Tại ngục vịnh thiền
Tây lục thiền thanh xướng,
Nam quan khách tứ thâm.
Bất kham huyền mấn ảnh
Lai đối bạch đầu ngâm.
Lộ trọng phi nan tiến,
Phong đa hưởng dị trầm.
Vô nhân tín cao khiết,
Thùy vị biểu dư tâm?
Ngày thu nổi lên tiếng ve kêu
Tình ý người tù thêm sâu sắc.
Vì không chịu được nên bóng dáng của đôi cánh mỏng,
Nên đến lên tiếng ngâm nga trước người bạc đầu.
Sương nặng, cánh khó bay lên.
Gió mạnh, tiếng dễ chìm mất.
Không có ai tin ở sự cao khiết,
Ai sẽ vì ta giải tỏ nỗi lòng?
Em có thấy như anh rằng bài thơ Tại ngục vịnh thiền trên đây
của Lạc Tân Vương chẳng có gì là thâm thúy hay đặc sắc lắm không? Trước hết bài
thơ gọi là bài Thơ Tù đầu tiên trong văn học Trung Hoa này không nói lên được cảnh
thê thảm, u ám, đen tối, tuyệt vọng, kinh sợ, mơ ước của người bị tù. Bài thơ gọi
là “vịnh thiền” nhưng con ve sầu được vịnh cũng không thấy được diễn tả nhiều
trong thơ. Toàn bài chỉ có một điển tích. Đó là điển Nam Quan: mũ Nam, mũ của
người phương nam. Đời Xuân Thu, Chung Nghi, người nước Sở, bị bắt tù ở nước Tấn.
Ờ tù, Chung Nghi vẫn đội mũ của người Sở. Chung Nghi giỏi đàn. Khi Tấn hầu bảo
Chung Nghi đánh đàn, chàng chỉ đánh toàn những bản đàn của nước Sở phương nam.
Người đời sau nhân đó gọi những người tù bằng cái tên gợi hình là những người
khách đội mũ phương nam.
Trong bài thơ My Trung mạn hứng, bài thơ duy nhất mà thi sĩ
Nguyễn Du làm trong thời gian ông ở tù, cũng có hai câu nhắc đến người tù Chung
Nghi và người bệnh Trang Tích:
Chung Tử viện cầm tháo Nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm…
Chung Tử, tức Chung Nghi, ở nước người nhưng vẫn đội mũ của
dân tộc mình, vẫn dạo những bản đàn của dân tộc mình, em đã biết rồi. Trang
Tích là người nước Việt, cũng sống ở đời Xuân Thu, sang làm quan ở nước Sở. Vua
Sở muốn biết Trang Tích có còn nhớ nước Việt không hay là đã quên. Mật vụ của
vua Sở báo cáo rằng tuy làm quan với Sở nhưng Trang Tích vẫn còn nhớ nước Việt,
bằng cớ là họ theo dõi và thấy khi Trang Tích bị bệnh, nằm rên trên giường,
nhưng y vẫn không rên rỉ những câu: “O Sole mio… I need your love… Smoke gets
in your eyes…” mà rên rỉ: “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà…” hoặc
“Vú em chum chúm chũm cau…”. Bằng chứng này cho thấy các quan chức mật vụ kết
luận rằng Trang Tích tuy ở nước Sở nhưng hồn vẫn nhớ nước Việt. Kể từ đó văn học
Trung quốc dùng những tiếng “Nam quan, Việt ngâm” để gọi những người tù và những
người không quên tổ quốc.
Để trở lại với Tại ngục vịnh Kiều, anh chỉ nhắc lại bài thơ Tại
ngục vịnh thiền để nói với em rằng bài thơ đó chỉ ngắn ngủi có mấy câu như vậy
thôi, ý nghĩa cũng không xúc tích, cảm động gì cho lắm. Vậy mà Tại ngục vịnh
thiền đã sống ở cõi đời này tới hơn một ngàn năm. So với đời người ngắn ngủi
gói tròn trong năm bảy chục năm, một ngàn năm đã là lâu lắm. Và không biết bài
thơ Tại ngục vịnh thiền sẽ còn sống ở đời bao nhiêu lâu nữa.
Văn học sử cho biết Lạc Tân Vương sinh năm 640, ông mất năm
nào không biết. Vì sau khi tham gia khởi nghĩa chống lại Võ Tắc Thiên, viết bài
hịch nổi tiếng đả kích Võ Thị, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bỏ trốn biệt tăm.
Lạc Tân Vương không bị Võ Tắc Thiên bắt cầm tù. Bài Tại ngục vịnh thiền là thi
phẩm ông làm trong một lần bị tù nào trước đó mà văn học sử không ghi rõ. Cứ
cho là ông làm bài Tại ngục vịnh thiền vào khoảng năm 670 hay 680 đi thì cho tới
nay bài thơ đã sống hơn một ngàn năm rồi chứ không phải chỉ là một ngàn năm. Và
vào năm 1988, trong một phòng tù ở miền Nam nước Việt Nam, có một anh tù nằm
nuôi rệp và nghiền ngẫm những vần thơ Kiều. Không có việc gì làm hay hơn, anh
tù này làm những bài thơ vịnh Kiều. Nhớ đến bài Tại ngục vịnh thiền của một người
tên là Lạc Tân Vương làm từ hơn một ngàn năm trước, anh gọi những bài thơ vịnh
Kiều của anh là Tại ngục vịnh Kiều…
Cạn dòng là thắm, dứt đường chim xanh…
Và do đó hôm nay anh mới có những bài Tại ngục vịnh Kiều này
viết gửi em – và gửi tất cả những người yêu ở cõi đời này. Vịnh Kiều, trước hết
và tất nhiên, là vịnh em Vương Thúy Kiều. Bài thứ nhất này của anh nói với em về
thái độ của Thúy Kiều đối với tình yêu và cái gọi là “thâm nghiêm” của nhà
riêng Thúy Kiều.
Có thể nói rằng gần như tất cả những người đọc Kiều đều yêu
Thúy Kiều, đều ca tụng Thúy Kiều. Người ta có thể chửi tất cả những nhân vật
trong Kiều, trừ một mình Thúy Kiều. Cũng tất nhiên là Thúy Kiều, với tư cách là
một người sống thực ở đời, không thể nào toàn bích được, và anh cũng không quân
tử Tàu đến cái độ đòi hỏi Thúy Kiều phải thánh thiện, phải dửng dưng trước tình
yêu. Nhưng anh cũng thấy có sự khôi hài ở chuyện Nguyễn Du diễn tả Thúy Kiều với
những câu như:
Một đường tuyết chở, sương che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai…
Rõ ràng là Thúy Kiều chẳng thèm để ý gì đến những chuyện bướm
ong, tức là chuyện tình ái. Thế nhưng sự thực có phải nàng dửng dưng như thế
không? Những việc nàng làm cho chúng ta thấy nàng là một em “lẳng lơ hạng nặng”.
Phải gọi là lẳng lơ vì hai tiếng đa tình quá nhẹ đối với những việc Kiều làm.
Việc Kiều vừa mới gặp Kim Trọng lần đầu ở nghĩa địa, chưa biết ất giáp gì về
chàng thư sinh playboy này, nàng đã tình trong như đã, chỉ có mặt ngoài là còn
e… cho ta thấy nàng là một em rất hào hứng với những chuyện ái tình, những chuyện
được gọi bằng cái tên miệt thị là “chuyện bướm ong”. Không những chỉ hào hứng
mà thôi, có thể nói Kiều còn rất đói ái tình nữa. Song, ta hãy bỏ qua cái vụ
“tình trong như đã….” ngay từ buổi gặp trai đầu tiên ấy, cái việc nàng chui rào
sang nhà Kim Trọng, không những chỉ chui một lần vào buổi chiều mà còn chui rào
cả vào lúc nửa đêm là một việc mà không cần phải chi ly gọi là “lễ giáo phong
kiến” không cho phép, bất cứ thứ lễ giáo nào cũng không cho phép người con gái
làm như thế. Chỉ trừ những xã hội không có lễ giáo chi hết trọi mới coi việc đó
là được mà thôi.
Lần thứ hai Kim Trọng rình rập chờ Kiều ở khu vườn sau, việc
trai gái đứng tỏ tình với nhau qua hàng rào sau nhà là một việc nếu không thể cấm
đoán được thì cũng là một việc không thể ca tụng. Nếu quả thật Kiều là người có
thái độ “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng thôi,
khi nghe tiếng người con trai lạ cất lên từ nhà bên kia, nàng đã lẳng lặng bỏ về,
làm sao chàng Kim hào hoa phong thấp có thể thả lời ong bướm với nàng được?
Nhưng Kiều đã không “mặc ai”, nàng đã đứng lại, nàng đã bắt chuyện, và nàng tiếp
nhận những lời ong bướm liền một khi. Cuộc tình của nàng với Kim Trọng đốt cháy
mọi giai đoạn, nó tiến nhanh đến cái độ chóng mặt…
Vì vậy, em yêu ơi, Công tử Hà Đông khi tại ngục đọc Kiều bèn
có thơ Tại ngục vịnh Kiều về chuyện này như sau:
Kiều và ong bướm
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai…
Rằng hay thì thật là hay
Tin em thì sẽ có ngày xót xa
Bướm ong khi của người ta
Thì em phớt tỉnh như là hổng ưa.
Đến khi nó đợi, nó chờ
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.
Là em chẳng ngượng chẳng ngùng,
Dưới đào em đấu lung tung một lèo.
Lẳng lơ trướng rủ, màn treo,
Tường đông ong bướm xì xèo là em.
Chưa hết. Anh thật không biết Nguyễn Du có tính chuyện khôi
hài hay có ý mỉa mai hay không khi thi sĩ tả cảnh nhà ông Vương Viên Ngoại, tức
là ông thân của nàng Vương Thúy Kiều, với những câu xanh rờn như sau:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh…
Chàng Kim khi lảng vảng tản bộ trước cửa nhà Thúy Kiều chỉ thấy:
Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Nào là “kín cổng, cao tường”, nào là những “mấy lần cửa đóng,
then cài”. Thâm nghiêm và kín đến như vậy thì đúng là thâm nghiêm và kín mít rồi,
không còn nhà nào có thể thâm nghiêm và kín hơn được nữa! Thế nhưng… hỡi ơi…
Khu đằng sau của tòa nhà thâm nghiêm hạng nhất ấy lại là một khu vườn nát. Và
khu vườn nát ấy lại chỉ chia cách tòa nhà thâm nghiêm ấy với nhà bên cạnh bằng
một dẫy tường đất cũng nát không kém. Thi sĩ tả đó là bức “tường gấm”:
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa…
Không những cái bức tường gấm ấy sự thật chỉ là một bức tường
đất nát, nó còn thấp lè tè nữa, thấp đến cái độ Thúy Kiều đi chơi ở trong vườn
để cây thoa cài đầu vướng vào cành cây treo tòng teng và để cho cậu Kim Trọng từ
vườn nhà bên cạnh có thể
Giơ tay với lấy về nhà…
Không những cái bức tường gấm ấy sự thật chỉ là một bức tường
đất nát và thấp lè tè mà thôi, nó còn bị hổng một chỗ khá lớn phải lấy mấy cành
cây rào lại một cách hết sức bôi bác. Chỗ rào ấy sơ sài bê bối đến cái nước
thiên hạ chỉ cần xé nhẹ một cái là rách toang và người ta có thể thơ thới chui
qua để sang với nhau được:
Lần theo núi giả đi vòng
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Sắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.
Đời sau, vào khoảng giữa thế kỷ 20, tức là vào khoảng 150 năm
sau ngày Thúy Kiều ra đời dưới ngọn bút tài hoa của Nguyễn Du, có những tên Việt
Nam tán rằng bốn câu trên đây là câu tả cảnh chàng Kim “thám hiểm Ngọc Long
Cung” Thúy Kiều. Cứ kể ra thì những tên ma giáo văn nghệ này gán cho những động
tác trong bốn câu Kiều trên đây cái ý nghĩa đó cũng chẳng phải là nhảm nhí chi
cho lắm. Và dù cho có tán nhảm đi nữa thì cũng chẳng có lỗi gì nhiều. Bởi vì họ
tán nhảm là do họ quá yêu những câu thơ Kiều.
Dù có tán nhăng tán cuội, có xuyên tạc hay là không thì việc
Thúy Kiều chui hàng rào sang nhà Kim Trọng cũng là chuyện có thật. Việc người
con gái chưa chồng hay đã có chồng cũng vậy, nửa đêm chui rào, leo tường, sang
nhà đàn ông lạ, là một việc mà từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, đời nào cũng không
thể ca tụng được. Người ta chỉ vì yêu thơ Kiều, yêu mến tài hoa của Nguyễn Du,
mà làm lơ đi cái trò bê bối đó của nàng Kiều.
Em yêu dấu… Anh thấy buồn cười, và thương hại nữa, khi mới
đây anh đọc vài lời phê bình Thúy Kiều của một vài người viết cùng thời với
anh, thấy có người ca tụng việc chui rào của Thúy Kiều bằng những lời đại khái
như: “… Với hành động tự ý sang nhà Kim Trọng tự tình, Thúy Kiều dẫm chân lên lễ
giáo phong kiến… Đêm trăng ấy, khi Thúy Kiều băng lối vườn khuya một mình, những
gót chân son của nàng đã đặt lên mặt những nhà đạo đức phong kiến…” Khi đọc những
lời như thế, anh chỉ mỉm cười và anh tự hỏi: “Những người viết kiểu này ca tụng
việc con gái và vợ người khác nửa đêm chui rào, leo tường sang nhà đàn ông lạ để
tự tình, nhưng nếu như con gái anh ta, vợ anh ta nửa đêm làm cái việc ấy liệu
anh ta có ngồi yên chỗ mà rung đùi ca tụng cái gọi là tự do luyến ái và giải
phóng phụ nữ hay là anh ta sẽ nhảy nhổm lên, miệng sùi bọt mép, chân tay run lẩy
bẩy? Khỉ ơi là khỉ! Vừa phải thôi!”
Về mục nhà ông Viên Ngoại họ Vương được tả là “thâm nghiêm
kín cổng cao tường”, Công tử Hà Đông bèn có thơ rằng:
Con oanh nó mỉa, nó mai
Thâm nghiêm kín cổng, cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oang học nói trên cành mỉa mai…
Mỉa mai nó mỉa mai ai?
Thâm nghiêm có cái mặt ngoài mà thôi.
Bề trong thì chán mớ đời
Cô em trong trắng quá chời là trong!
Dưới hoa em kết giải đồng,
Cuối tường em lộn nẻo thông mới rào.
Sắn tay em cho nó mở khóa động đào,
Rẽ mây em cho nó trông tỏ lối vào thiên thai.
Con oanh nói mỉa, nói mai
Mỉa mai nó mỉa: “Nhà này thật thâm…”
Khi Thúy Kiều xăm xăm băng lối vườn khuya một mình thì lúc đó
trăng đã nhặt thưa gương rọi đầu cành, tức là vào khoảng 7, 8 giờ tối, giờ Tây
dương – đêm trăng ấy lên sớm. Đến lúc đôi tình nhân diễn trò thề thốt dưới
trăng thì trăng đã vằng vặc giữa trời, tức là trăng đã lên đến đỉnh trời. Thúy
Kiều ở lại đó thề thốt, ký văn tự, đàn ca, uống rượu, đưa đầy với Kim Trọng mãi
cho đến khi bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, tức là khi ánh trăng đã nhạt trên những
tàu lá chuối trong vườn. Thời gian lúc trăng nhạt, trăng lặng đó phải là 3, 4
giờ sáng, giờ Tây dương. Như vậy là nàng đã qua gần một đêm trắng với Kim Trọng.
Nếu không có tên gia đồng vào gửi tin nhà mới sang thì ta có thể nói mà không sợ
mang lỗi vu oan cho nàng là nàng sẽ pass night với Kim Trọng. Không những chỉ
qua đêm mà thôi, nàng còn có thể ở đó tới trưa hôm sau mới trở về cái gọi là
đài trang hết sức thâm nghiêm kín cổng cao tường của nàng.
Việc Thúy Kiều chui rào qua nhà Kim Trọng vào cái năm Gia
Tĩnh triều Minh cách nay cả năm sáu trăm năm ấy là một việc mà anh nghĩ rằng những
thiếu nữ lương thiện đời nào cũng không nên làm. Nhưng việc Thúy Kiều lẻn sang
nhà Kim Trọng vào buổi chiều và vào lúc nửa đêm cũng chưa ly kỳ bằng sau khi được
tin “… thúc phụ từ đường. Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Liêu Dương cách trở
sơn khê, Xuân đường kíp gọi Sinh về hộ tang…”, Kim Trọng đã cũng chui rào, hoặc
leo tường, phăng phăng vào tận phòng ngủ của Thúy Kiều để chia tay. Tự do cứ
như là nhà Thúy Kiều không còn một người nào khác ngoài Thúy Kiều. Luông tuồng
đến như vậy nhưng mỉa mai thay, tòa nhà Viên Ngoại họ Vương vẫn được mô tả là:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
Và
Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Viết ở thành Hồ năm 1991.
ÁO VÀNG HOA
“Khi nào bạn thấy nếu bạn không làm thơ bạn chết bạn hãy làm
thơ. Còn nếu bạn thấy không làm thơ bạn cũng chẳng sao cả, thì bạn đừng làm
thơ…”
Đấy là lời của thi sĩ Rilke viết cho một thi sĩ trẻ. Tôi đọc
được lời trên của Rilke từ những năm 60, thời gian tôi không làm thơ và không
bào giờ tưởng tượng có ngày tôi sẽ làm thơ. Nhưng ngay lúc đó tôi đã thấy Rilke
khuyên thật chí lý. Lời khuyên ấy cho tôi biết tại sao trên cái cõi đời này lại
có nhiều bài thơ dở đến như thế và cũng tại sao trên cái cõi đời này lại có nhiều
người làm thơ dở ẹt đến như thế mà vưỡn cứ làm thơ. Một trong những nguyên nhân
chính làm cho Trường phái Thơ Con Cóc phồn thịnh khắp cõi đời này chính là vì
nhiều nhà thơ không làm thơ mà vẫn sống nhăn nhưng đã làm thơ vung xích chó.
Tôi là một trong những nhà thơ Con Cóc ấy. Tuy đã biết lời
khuyên của Rilke từ lâu và tuy công nhận lời khuyên ấy đúng, nhưng rất nhiều lần
trong đời tôi, nếu tôi không làm thơ tôi không chết song tôi vưỡn cứ làm thơ.
Tôi làm thơ trong những ngày u ám ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi xin tự biện hộ
là nếu những lần ấy không làm thơ tôi có chết hay không, song điều rõ ràng là
trong những lần làm thơ đó trái tim tôi có niềm xúc động bắt tôi phải làm thơ.
Ba tháng sau ngày 30 tháng Tư oan nghiệt, vợ chồng tôi về sống
trong một căn nhà cư xá nhỏ kiểu Gia cư Liêm Giá Cuộc làm bán rẻ và bán trả góp
cho người nghèo. Đây là căn nhà của mẹ tôi. Nhà vẫn bỏ không từ nhiều năm. Vợ
chồng tôi tối kỵ sống trong những căn nhà liền mái nhà người nọ nghe rõ tiếng
người nói trong nhà kia. Chúng tôi vẫn đi ở mướn chứ không chịu về ở căn nhà cư
xá nhỏ hẹp, tối tăm thiếu quá nhiều tiện nghi đó. Nhưng sau cuộc đổi đời, chúng
tôi phải về sống trong căn nhà có sẵn đó thôi. Chúng tôi “không còn con đường
nào khác”. Một buổi sáng trong căn nhà tối đó – nơi giờ đây chúng tôi thấy luyến
thương vì đó là nơi vợ chồng tôi đã sống, đã yêu thương nhau trong mười chín
năm trời – vợ tôi mở tủ áo lấy ra chiếc áo dài chúng tôi vẫn gọi là Áo Vàng
Hoa. Đứng trước gương nàng ướm chiếc áo lên người. Nàng nhìn nàng trong gương rồi
nhìn tôi.
- Áo đẹp quá…
Alice nói. Tôi xúc động bảo nàng:
- Ngày nào em chết anh sẽ mặc cho em cái áo này…
Alice lại hỏi:
- Lỡ có ngày chúng mình phải bán cái áo này lấy tiền nuôi các
con thì sao?
Tôi không trả lời câu hỏi ấy của Alice. Tim tôi nặng như cục
đá. Buổi chiều đạp xe đi lang thang trong những phố vắng của Sài gòn, tim tôi vẫn
trĩu nặng sầu buồn. Tôi làm thơ:
Sáng cuối năm trong căn nhà tối
Em mở tủ nhìn đời ngày cuối
Mắt em buồn bừng sáng màu hoa
Em nhớ lại ngày may áo mới.
Hai năm rồi mặc áo bà bà
Đời tẻ nhạt hơn làn tóc rối.
Áo ướm thân em khóc, em cười
Em có biết em vừa trẻ lại?
Đây áo hoa vàng anh chọn, em may
Như giọt nước trong dòng tình ái
Trong ưu phiền mắt lặng nhìn nhau
Ta thầm hẹn: “Áo này giữ mãi”
Em yêu dấu… ngày em trở lại
Đất ngàn năm như cỏ, như hoa
Anh sẽ mặc cho em lần cuối
Áo hoa này rồi tiễn, rồi đưa.
Em lại hỏi: Có ngày ta phải
Chia áo này cho các con ta?
Em yêu dấu, em ơi… đừng ngại
Mặc cho đời tháng lại, ngày qua
Trong xương thịt ta còn giữ mãi
Những cái gì riêng của đôi ta.
Khi em nằm xuống, khi tàn lửa
Trong hào quang của những tiên nga
Khi xe hạc vàng nhung đến cửa
Đón em về xa cõi trời xa
Anh sẽ mở hồn anh lấy áo
Mặc cho em chiếc áo vàng hoa.
Trong u ám một ngày mây phủ
Nặng những sầu thương, những xót xa
Em đóng cửa hồn, che áo mới
Và ra đường trong chiếc bà ba.
Nhưng cũng chẳng phải tôi chỉ mần thơ những lúc tôi buồn phiền.
Có những lúc tôi mỉm cười tôi cũng làm thơ. Đi qua cửa chợ Ông Tạ, tôi thấy một
nhà có đám tang đang giờ động quan, tức là giờ khiêng quan tài lên xe bông đi
nhị tì. Đám tang có ban nhạc kèn đồng bu-dzích. Kèn tây tò te tí toét om sòm.
Trên quan tài đặt tấm ảnh một bà già Bắc kỳ ri cư năm 1954: đầu vấn khăn, răng
đen, mặt răn reo trạc 80 tuổi. Tôi nghĩ bà già này cả đời chẳng biết cái đàn
pi-a-nô nó khác với cái đàn vi-ô-lông nó ra làm sao. Không những không biết hai
cái đàn ấy nó khác nhau, giống nhau ra làm sao, bà già còn chẳng bao giờ nghe
nói đến hai thứ đàn tây ấy. Vậy mà bi giờ bà chết, người ta mướn ban kèn tây đến
thổi loạn cào cào châu chấu cho bà nghe những bản La Cumparsita, La Paloma,
Love Story…
Đây là khi nếu không mần thơ nhất định là không những không
chết mà tôi còn không bị xây xẩm mặt mày chi cả. Vậy mà tôi vưỡn cứ mần thơ:
Cả đời chẳng biết tiếng tò-le
Chết rồi tai điếc lấy gì nghe
Con cháu mừng rơn, con cháu khóc
Tò te kèn thổi khúc Lô-ve.
Khi bạn thấy cõi đời này xuất hiện những tờ báo xuân, báo Tết,
thời gian đang là mùa cưới, mùa lên xe bông của những nàng thiếu nữ thành Hồ.
Trước cảnh các nàng lên xe bông với áo dài cô dâu, khăn voan,
xuyến vàng, pháo hồng v.v… tuy không làm thơ tôi vẫn sống nhăn và các nàng vẫn
cứ thơ thới hân hoan, “phấn khởi, hồ hởi” lên xe bông về nhà chồng, tôi đã mần
thơ:
Sáu năm vất vả ở Thành Đồng
Cứ tưởng là em ế chổng mông
Ai ngờ đám cưới em ra rít
Em vưỡn xe bông, vưỡn pháo hồng.
Sáu năm cả nước xếp vào hàng
Cứ tưởng bà con đói cả làng
Ai ngờ đám cưới em ra rít
Em vưỡn khăn voan, vưỡn xuyến vàng.
Những đêm nằm trong phòng 20 khu FG lầu bát giác Chí Hòa, tuy
rõ ràng là không mần thơ tôi vưỡn không chết nhưng tôi vưỡn cứ mần thơ. Nằm
trong mùn tôi mần những bài thơ vịnh Kiều. Tôi mần thơ nhẩm và tôi học nhẩm đến
thuộc lòng những bài thơ tôi đã làm. Có những bài Tại ngục vịnh Kiều thật buồn
và cũng có những bài… dzui dzui. Chẳng hạn như bài Vịnh Thúy Vân.
Thúy Vân, nhân vật bị thiệt thòi nhất trong Kiều. Người đàn
bà đau khổ nhất đời là người đàn bà sống không có tình yêu, sống không được người
đàn ông nào yêu. Thúy Vân là người đàn bà đáng thương, xấu số như thế. Tôi thấy
điều bất công nhất là tất cả mọi người chỉ ca tụng, chỉ thương xót, chỉ đề cao
Thúy Kiều. Chẳng ai để ý gì đến Thúy Vân. Tôi chưa thấy một người nào trước tôi
nói hay viết một lời đề cao Thúy Vân. Không những không được đề cao, xót
thương, an ủi; Thúy Vân còn bị người đời miệt thị.
Tôi thấy nhân vật Thúy Vân tức cười ở đoạn trong bữa tiệc
đoàn tụ gia đình hết sức rởm, nàng đã mượn chén, tức là giả vờ say rượu, đứng lến
phát biểu vài câu cay cú. Đàn bà uống rượu đã khó coi rồi, đàn bà đã uống rượu
ngà ngà say mà còn đứng lên đi một đường tạp thuyết năm bảy câu châm chít đời
cho hả giận thì quả thật là một hình ảnh tức cười.
Trinh em đáng giá ngàn vàng
Công tử hào hoa phong thấp Kim Trọng hoàn toàn không yêu
thương gì Thúy Vân. Công tử vồ hụt cô chị, công tử vồ luôn cô em. Công tử thuộc
bang phái võ lâm tên là “Hoa thơm đánh cả cụm”, nôm na là lấy luôn ba bốn chị
em ruột làm vợ cho tiện việc sổ sách. Từ những năm 76, 77, khi đọc lại truyện
Kiều tôi đã tưởng tượng ra chuyện Thúy Vân có người yêu nhưng vì người chị ruột
yêu cầu nàng phải hy sinh tình yêu của nàng để làm trọn tình yêu của chị. Tôi
đã có dự định viết một truyện Thúy Vân là vai chính với chủ đề như tôi vừa nói:
Thúy Vân có người yêu nhưng phải hy sinh tình yêu để làm vợ Kim Trọng, nàng làm
vợ Kim Trọng nhưng nàng biết rõ hơn ai hết Kim Trọng yêu Thúy Kiều chứ không
yêu nàng. Kim Trọng tuy lấy nàng làm vợ nhưng vẫn cứ yêu, cứ nhớ Thúy Kiều.
Ngay cả khi Kim Trọng ân ái với nàng,, nàng biết chàng đang tưởng nàng là Thúy
Kiều.
Tôi tưởng tượng Thúy Vân có thể dùng mấy lời thơ T.T. Kh:
Từ ấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi băng giá đến bao giờ?
Chồng tôi, tôi biết, còn thương nhớ
Chị ấy cho nên vưỡn hững hờ.
Vì vậy tôi tức cười và tôi thương Thúy Vân khi tôi thấy nàng
đứng lên trong bữa tiệc đoàn tụ gia đình để nói mấy lời nghe không giống ai mà
cũng không ai giống:
Tàng tàng chén cúc dở say
Đứng lên Vân mới giải bày một hai
Nghĩ đời vợ gá, cũng cay
Cho nên em mới dở say em tàng tàng
Tàng tàng em nói ngang ngang
Linh tinh máu chảy, lang tang ruột mềm
Lăng nhăng phận cải, duyên kim
Lằng nhằng tình chị, dây em buộc vào…
Yêu sao cái tật hoa đào
Em nào cũng lẳng, em nào cũng ghen,
Một chĩnh, đôi gáo bon chen
Chồng em, chị em….
Còn khổ ghe phen em tàng tàng.
Tôi can tội mần thơ những lúc trái tim tôi trĩu nặng. Viết đến
đây tôi bỗng khám phá ra là tôi cũng can tội mần thơ cả những lúc trái tim tôi
nhẹ. Nói cách khác là khi tôi buồn và khi tôi vui. Bằng chứng là khi thấy em
Thúy Vân giả say đứng lên tuyên bố linh tinh, tôi tức cười và tôi mần thơ. Tôi
cũng can tội mần thơ khi tôi thấy em Thúy Kiều cứ giơ cái “trinh” của em ra một
cách giả tạo, gò ép đến cái độ mất hết tự nhiên. Em là người con gái nửa đêm
leo tường, chui lỗ qua nhà đàn ông con trai, nhưng tác giả cứ cho em “bảo vệ
trinh tiết” phây phây bất kể thiên hạ.
Khi đã hai lần mò sang nhà Kim Trọng, lần thứ nhất buổi chiều,
lần thứ hai nửa đêm, và khi Kim Trọng lả lơi, Thúy Kiều nghiêm trang như vợ ông
Khổng Tử mà nói:
Thưa rằng đừng lấy làm chơi
Giẽ ra cho hết một lời đã nao
Vẻ chi một tấm yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bực bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu…
Tôi tức cười… anh ách khi nghe Kiều nói những câu “tiết hạnh
khả phong” như thế. Nếu nàng nói những câu như thế mí tôi, chắc tôi đã cười phá
lên rồi hỏi nàng: “Nếu em trinh tiết đầy mình như dzậy, em mò sang đây mí anh
làm ký gì? Em khoe em có học chắc em cũng biết câu ‘nam đáo nữ phòng nam tắc đạo.
Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm’ chứ? Tôi tức cười và tôi mần thơ:
Làm trai anh đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, ngâm nôm Thúy Kiều.
Yêu Kiều anh thật là yêu,
Thúy Kiều mà diễn tuồng Tiều, anh chê.
Cái trinh em cứ lộn về,
Ghe phen Kim Trọng bị kê đầy mồm.
Sự đời đã ẵm thì ôm,
Í a í é… chiều hôm anh phiền.
Này em bài học không quên:
Một khi nước đã đánh phèn
Vặt lông, nấu cháo làm liền một khi.
Để dành nào có hay gì,
Quá dành ra sọt nó thì chiêm bao
Sờ quanh nào thấy đâu nào…
Kiều khuyên Kim Trọng “để dành” đã là việc quá đỗi khó tin và
giả tạo, Kim Trọng chịu “để dành” còn là chuyện ruồi bâu kiến đậu nữa.
Chưa hết tức cười vì cái “trinh” to tổ bố của Thúy Kiều, cái
“trinh” được văn học sử ca tụng và đánh giá là “ngàn vàng”, tôi mần thêm bài
thơ này:
Trinh em đáng giá ngàn vàng
Ngàn vàng về lộn tay chàng đêm nay.
Trinh em còn những ngần này
Vưỡn to bề rộng, vưỡn dầy bề sâu.
Có mòn trinh tí nào đâu
Càng xài càng tốt, càng lâu càng bền.
Trinh em có đủ nhân duyên:
Phu nhân, Kiều Thúy, Trạc Tuyền, Hoa Nô.
Mười năm lưu lạc giang hồ
Nửa giờ chiêu tập cơ đồ còn nguyên.
Trinh em thật đáng đồng tiền.
Thúy Kiều được đời ca tụng vì cái “trinh” của nàng. Nói cách
khác khi ta ca tụng, ta thờ phượng, ta quí báu, ta nâng niu Thúy Kiều cũng là
khi ta ca tụng, thờ phượng, quí báu, nâng niu – hôn hít nữa – cái “trinh” của
nàng. Kiều khá vì cái “trinh” và cái “trinh” đó của Kiều được Đạm Tiên gọi bằng
thuật ngữ đạo giáo là “âm công”. Đạm Tiên nói trước rằng Thúy Kiều đã hết kiếp
đoạn trường, sẽ được sung sướng vì cái gọi là “âm công” của Kiều khá nặng. Đó
là câu:
Một niềm vì nước, vì dân
Âm công cất một đồng cân đã già
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đón mà trả nhau.
Cái “âm công” long trọng và được đánh giá bằng pound Mẽo,
ký-lô Phú lang sa này làm tôi buồn cười. Tôi cười và tôi mần thơ:
Một niềm vì nước vì dân
Âm công cất một đồng cân đã già
Âm công em nặng ký ba
Thêm đồng cân nữa nó già ký tư.
Ngẫm hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều âm đức có chừa ai đâu?
Âm công em nở, em sâu,
Âm công em đẹp, em sầu làm chi.
Đoạn trường rồi cũng qua đi
Mười lăm năm ấy hại gì ai đâu!
Túc khiên em rửa sạch lầu
Âm công ai có qua cầu mới hay.
Chuyện Thúy Kiều đòi “đi tu” – theo tôi – đáng được coi là
chi tiết giả tạo nhất trong Truyện Kiều. Trong những đêm nằm buồn ở Chí Hòa,
tôi mần những câu thơ cay cay để vịnh Thúy Kiều đi tu:
Sao em trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy em đúc một tòa thiên nhiên
Đào hoa trong bấy nhiêu niên
Mà em ăn nói nghe phiền lắm thay,
Mới ba mươi tuổi trao tay
Tu gì được cái tuổi này mà tu?
Em đòi em khép phòng thu
Đêm thu gió lạnh nó cù… em mở ngay.
Hay gì chuyện đó mà hay
Em tu không khéo có ngày em hoảng chưa.
Tu mà uống rượu đánh cờ
Tu xem hoa nở, tu chờ trăng lên.
Em tu cho phỉ mười nguyền,
Cho tình em đượm cho duyên em nồng.
Tu mà làm lễ tơ hồng
Tu mà hoa chúc, động phòng sánh đôi.
Tu mà dìu dặt chén mồi.
Bâng khuâng kinh cũ, ngậm ngùi kệ xưa.
Em ơi, em tu từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm em tu đã, bi giờ em lại tu!
ầu ơ… ví dầu…
Cá lóc thì nấu canh chua
Em đi ở chùa, ai đẻ con anh?
Em tu em độ chúng sanh
Em ăn thịt mỡ, dưa hành ở đâu?
Em tu mà tóc đầy đầu
Nam mô bồ tát Thị Mầu… em tu!
THÚC KỲ TÂM, CÔNG TỬ VÔ TÍCH
T
húc Kỳ Tâm, Công tử Vô Tích, được giới thiệu về cuộc đời “ái
tình và sự nghiệp” bằng bốn câu:
Khách du bỗng có một người
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương
Vốn người huyện Tích, châu Thường
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.
Sai. Thúc Kỳ Tâm là con nhà tap hóa – người Bắc kỳ những năm
40 gọi là những nhà bán hàng hóa tạp nhạp mấy sợi giải rút, cây kim, ống chỉ, cục
pin đèn, lưỡi câu, dây câu, lọ mực… này là hàng xén, tạp hóa; người Nam kỳ cũng
những năm 40 gọi theo Ba Tàu là tiệm chạp phô – Thúc Kỳ Tâm không thể là con
nhà thư hương được. Anh bố của Kỳ Tâm là nhà buôn gia truyền. Không thể gọi những
người “nòi thư hương” là những anh có đi học lõm bõm năm ba chữ. “Nòi thư
hương” phải là “thư hương” từ đời ông, đời cha…
Nguyễn Du dùng hai chữ “thư hương” hơi nhiều trong Kiều. Trước
Thúc Kỳ Tâm, ta thấy Sở Khanh cũng:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh
Nhưng đây là Kiều tưởng lầm Sở Khanh là con nhà thư hương –
nhà có học – qua diện mạo và trang phục của tay chơi phóng đãng họ Sở. Kiều tưởng
lầm thì có thể chấp nhận được, nhưng Thúc Kỳ Tâm được Nguyễn Du giới thiệu rõ
ràng là “con nhà thư hương” thì cần phải xét lại.
Anh con nhà buôn Thúc Kỳ Tâm đẹp trai, hào hoa phong nhã
không kém gì Công tử Bắc Kinh Kim Trọng. Anh còn hơn Kim Trọng hai điểm:
- Có vợ.
- Biết mần thơ.
Và như như những nhà thơ lớn sẵn sàng mần thơ một cách dễ
dàng ở mọi nơi, mọi lúc, Thúc Kỳ Tâm đã mần thơ khi Kiều tắm. Công tử Kim Trọng
chơi đàn ghi-ta, vẽ vời cây thông cây tùng, nhưng không mần thơ được. Bằng chứng
cậu phải nhờ Kiều mần giùm mấy câu thơ đề lên bức họa:
Trên yên bút giá, thi đồng
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên
Phong sương được vẻ thiên nhiên
Mặn khen nét vẽ càng nhìn càng tươi
Sinh rằng: “Phác họa vừa rồi
Phẩm đề, xin một vài lời cho hoa”
Tay tiên gió táp mưa sa
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Tôi nghĩ: Thơ phải để cho những thi sĩ chân chính mần, bọn
con nhà buôn chẵn buôn lẻ dính vào thơ làm bẩn thơ, làm thơ mất giá. Năm mươi
năm xưa, thi sĩ Nguyễn Bính đã phải ngán ngẩm:
Trọc phú ti toe bàn thế sự
Đĩ già tấp tểnh nói văn chương
Đã coi đồng bạc to hơn núi
Lại học đòi theo thói Mạnh Thường…
Một đêm tại ngục vịnh Kiều, tôi tưởng tượng ra cảnh chiều mùa
hạ, trời nóng, ở lầu Ngưng Bích, Kiều tắm:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lang rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Sinh càng tỏ nết càng khen
Ngụ tình tay thảo một thiên Luật Đường
Thúc Kỳ Tâm có thể làm nhiều việc thích hợp với việc Kiều tắm,
nhưng y lại mần thơ. Thơ của những anh con nhà tạp hóa loại Thúc Kỳ Tâm là thứ
thơ dỏm, cóc nhái, ểnh ương, thằn lằn, cắc ké, kỳ nhông. Thúy Kiều chắc phải
ngán ngẩm đến buồn nôn vì thơ phú của người tình con nhà tạp hóa. Nàng ngấy người
tình nên nàng – một cây mần thơ – mới giả vờ nhớ nhà để tránh làm thơ thù tạc.
Tôi thay nàng làm bài thơ vịnh Thúc Sinh mần thơ:
“Lòng còn gửi áng mây Hàng
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay”
Người hay ngợm? Lạ lùng thay!
Thang lan em tắm nửa ngày hạ thiêu
Thấy em tắm, chẳng thèm yêu
Giở trò con khỉ con tườu… mần thơ!
Thơ gì? Thơ thẩn, thơ ngơ
Thơ con cá lóc lập lờ cửa hang.
I tờ em biết tài chàng
Lời lời rau muống, hàng hàng mắm tôm.
Thơ chàng… hán cũng như nôm
Quẳng ra con vện, con xồm đều chê
Tứ thơ thì trật môn lề
Mà niêm với luật lộn mề tanh banh
Chán chường em nói loanh quanh:
- Nhớ nhà, em phải lộn vành hôm nay!
Môn đăng, hộ đối
Thúc Kỳ Tâm là con nhà buôn – xã hội phong kiến đời Gia Tĩnh
triều Minh coi khinh bọn con nhà buôn nhất. Trong bốn thành ohần xã hội, bọn
buôn bán được xếp hạng bét: Sĩ, Nông, Công, Thương. Nhưng vợ Thúc Kỳ Tâm con
nhà tạp hóa lại là:
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư…
Nhà mẹ Hoạn Thư có treo tấm bảng “Thiên Quan Chủng Tể” trước
đôi mắt ngỡ ngàng của Thúy Kiều bị bắt cóc đưa đến:
Ngước trông tòa rộng, dãy dài
“Thiên Quan Chủng Tể” có bài treo trên.
“Thiên Quan Chủng Tể” là mỹ danh để gọi các ông Tể tướng. Như
vậy ông thân sinh ra Hoạn Thư “ở ăn thì nết cũng hay, nói lời ràng buộc thì tay
cũng già” từng làm tể tướng. Ngày xưa – ở vào cái thời Gia Tĩnh triều Minh thế
kỷ thứ mười bốn, mười lăm ấy – người đương thời phân biệt và tôn trọng giai cấp
rất chặt chẽ. Thời bi giờ người ta thường thấy những ông thạc sĩ con nhà tỉ phú
du học ở Ăng-lê, Phú-lang-sa về yêu và nhất định kết hôn với những em thợ may,
thợ uốn tóc chợ Bàn Cờ, Cầu Muối; những ái nữ con nhà tỉ phú nằng nặc đòi làm vợ
những chú tài xế chuên nghiệp – những chuyện tình không chia giai cấp này được
thể hiện nhiều nhất, trung thực nhất, trong những tiểu thuyết do những dzăng sỡi
nhà nghề viết ra – nhưng đó là chuyện thời bi giờ. Còn chuyện ngày xưa, chuyện
tình năm sáu trăm năm trước, người ta còn trọng cái gọi là “môn đăng, hộ đối” lắm
lắm.
Con nhà công, hầu, khanh, tướng kết hôn với con nhà công, hầu,
khanh, tướng. Chuện đó chắc như bắp rang, chắc hơn cua gạch. Con gái tể tướng
không thể về làm dâu nhà buôn tạp hóa đứng hạng bét trong bốn nấc thang xã hội.
Nhưng em Hoạn Thư, con gái quan Tể tướng, đã trở thành con dâu của me sừ Thúc
ông phó thường dân chủ tiệm chạp phô. Tại sao? Gần hai trăm năm nay chúng ta đọc
Kiều, yêu Kiều, tưởng tượng ra Kiều, đấu hót, tán nhảm, viết vung vít về Kiều,
nhưng ít có ai thắc mắc đến chuyện tại sao lại có cuộc hôn phối hết sức hổng
môn đăng, hộ đối một ly ông cụ nào như cuộc hôn nhân Hoạn Thư, ái nữ Tể tướng,
với Thúc Kỳ Tâm, công tử chạp phô?
Công tử Hà Đông, anh em cùng vợ với con trai Bà Cả, bèn vận dụng
công phu duy vật biện chứng Ăn Đong để phân tích cuộc hôn nhân Tể tướng – Chạp
phô của Hoạn tiểu thư và Thúc công tử. Đại khái như sau:
Gia đình Hoạn Thư đã suy sụp – sự kiện này hơi khó chấp nhận
vì mới đời ông bố làm Tể tướng, ông này có ngủm củ tỉ đi nữa thì bà vợ, cô con
đâu đã hết sản nghiệp nhanh đến như thế – gia đình nhà buôn họ Thúc tuy không
có danh vọng nhưng có tiền. Giai cấp gian thương đang lên chân, đang dần dần có
thế lực trong xã hội. Hoạn Thư kết hôn với Thúc Kỳ Tâm vì tiền của nhà họ Thúc,
Thúc Kỳ Tâm lấy Hoạn Thư làm vợ vì danh tiếng của nhà họ Hoạn.
Cũng được thôi, cũng đúng thôi. Ở đời ai cần cái gì thì đi
tìm cái ấy. Họ Hoạn cần tiền, họ Thúc cần được kính nể. Đôi bên trao đổi sòng
phẳng, hợp tình, hợp lý.
Năm xưa, những năm môi tôi còn thắm, tóc tôi còn xanh, mắt
tôi còn sáng, tim tôi còn nóng… tôi cũng như mọi người, tôi chẳng ưa gì cái gọi
là “môn đăng, hộ đối”. Không những chỉ không ưa, tôi còn chống đối kịch liệt những
cuộc hôn nhân định đoạt theo tiêu chuẩn “môn đăng, hộ đối” ác ôn côn đồ. Không
những chỉ chống đối mà thôi, tôi còn hoan nghênh, tán thành những cuộc tình con
gái Đại tá – Binh nhì Chá xế, Kỹ sư – Thợ may, Thạc sĩ Kinh tế – Nữ thư ký đả
cơ khí tự, v.v… Nhưng khi
Năm nay mái tóc không còn xanh nữa
Tôi đã đau thương đã nợ nần…
Khi tôi bằng ông Khổng Tử năm ông thốt ra câu để đời “tứ thập
nhi nhĩ thuận”, hình như tôi lại có ý nghĩ khác về cái gọi là “môn đăng, hộ đối”.
Kính thưa quí vị nữ độc giả ái mộ thân mến thơm hơn múi mít.
Xin quí vị bình tâm xét lại. Ta chẳng nên hung hăng con bọ xít chê bai, chống đối
tất cả những kinh nghiệm sống của những người đã sống, đã yêu, đã hai năm mươi,
xuôi sáu tấm trên cái cõi đời này trước chúng ta. Hôn nhân dựa trên tiêu chuẩn
“môn đăng, hộ đối” coi bộ tốt, coi bộ đúng lắm đí chứ? Có gì là sai trái khi những
người cùng một hoàn cảnh gia đình, cùng một giai cấp, cùng một nghề nghiệp… kết
thân, kết hôn mí nhau? Quân tử tàu, những người khôn dàng trời, tối đất, có lời
khuyên minh triết xanh rờn về việc cưới vợ, gả chống cho con như vầy:
- Cưới vợ con trai mình thì nên chọn con gái nhà nào kém nhà
mình để con vợ nó về nó sợ nhà mình.
- Gả chồng cho con gái thì nên chọn nhà nào hơn nhà mình để
con gái mình nó không khinh thường nhà chồng nó.
Chí lý quá xóa, phải không ạ? Chí lý đến nỗi ở trên cái cõi đời
này không còn gì có thể chí lý hơn được nữa. Thúc Kỳ Tâm, con nhà tạp hóa, nếu
lấy vợ cũng con nhà tạp hóa thì đâu có chuyện sợ vợ đến khốn khổ khốn nạn, thảm
kịch chết đi sống lại vì mất vợ bé đâu có xảy ra. Làm sao những nỗi đoạn trường
ghê gớm có thể đến với cuộc đời Thúc Kỳ Tâm tạp hóa nếu vợ Kỳ Tâm là con gái một
ông chủ chạp phô nào đó ở chợ Bàn Cờ, một nhà vẫn phải lấy hàng hóa gối đầu của
nhà buôn họ Thúc tổng đại lý chợ Kim Biên? Chị vợ Thúc Kỳ Tâm con nhà chạp phô
nhỏ này sẽ sợ chồng một phép. Không những chỉ sợ mà thôi, chị còn mừng khi thấy
chồng có vợ bé để chị yên thân ở nhà nuôi con, ăn heo quay, xá xíu béo mầm,
quanh năm ngồi xem phim tình cảm Quỳnh Dao Tài Oăn ướt lướt thướt, năm bữa nửa
tháng nhờ anh chồng hào hoa phong tình về thăm hỏi năm bảy phút nhấp nháy cò
con….
Cuộc hôn nhân tốt đẹp, êm đềm ấy là cuộc hôn nhân đặt căn bản
trên tiêu chuẩn “môn đăng, hộ đối”. Nhưng thay vì con nhà buôn hạng bét phải lấy
vợ cũng con nhà buôn hạng bét, Thúc Kỳ Tâm – đúng ra phải kể là anh bố nhà buôn
háo danh ngu đần của Thúc Kỳ Tâm – đã với cao hơn đầu, đã thực hiện một cuộc
hôn nhân “môn bất đăng, hộ bất đối”. Và chính vì thế mà Thúc Kỳ Tâm sợ Hoạn Thư
hơn sợ bố, hơn cả sợ pháp luật triều đình. Tất cả những đau đớn đứt ruột của
Thúc Ký Tâm, những bất hạnh không đáng phải chịu của Thúy Kiều: bị bắt cóc, bị
biệt giam, bị bắt làm tôi đòi, bắt quí tận mặt, bắt mời tận tay, bắt khảy đờn,
bắt ngồi canh đèn ở cửa phòng vệ sinh, rồi đi tu chùa tụng kinh, rồi lại trở
vào chốn yên hoa làm vợ khắp người ta có tiền… Tất cả những cái vừa kể đó đều
không có nếu anh bố Thúc Kỳ Tâm khôn ngoan áp dụng quy luật hôn nhân “môn đăng,
hộ đối”.
Tôi càng nghĩ càng thấy tâm sự minh triết của qui luật “môn
đăng, hộ đối”. Chị con gái nhà buôn tuy có tiền đem về nhà chồng, tậu nhà, mua
xế cho chồng nhưng vẫn tủi thân khi nghe chồng, hay người nhà chồng, nói những
lời khinh thường những kẻ sống ở đời mà không phải là bác sĩ, kỹ sư, đốc phủ sứ,
hoặc khi nghe chồng mạt sát bọn nhà buôn ngu si, dốt nát chỉ biết kiếm tiền.
Như con gái một cải lương chi bảo, hay một tân nhạc danh ca về
làm dâu một nhà mù tịt về những cái gọi là dzăng nghệ dzăng gừng… có thể tủi
thân khi nghe người nhà chồng nói đến bốn tiếng “xướng ca vô loài”. Lại tỉ như
con gái một anh viết báo, viết tiểu thuyết – như tôi chẳng hạn – kết hôn với một
anh chồng hoàn toàn không biết đến tờ báo, quyển truyện là cái gì, có thể nực
gà, nóng mắt khi nghe thằng chồng vô tình nói: “Mấy thằng nhà báo nói láo ăn tiền…”
Nhưng nếu thằng rể quí của tôi cũng có bố hành cái nghề nói
láo ăn tiền như bố vợ nó thì câu nói trên chỉ là câu nói đùa hết sức có duyên
giữa đôi vợ chồng trẻ. Thảm kịch hôn nhân không môn đăng, hộ đối giữa hai họ Hoạn
– Thúc làm tôi sáng mắt, sáng lòng. Tôi thấy rõ tính hợp lý của việc môn đăng,
hộ đối trong hôn nhân.
Tôi tưởng tượng nếu con gái tôi có diễm phúc được làm vợ con
trai của những ông Minh Vồ, Duyên Anh, Hoàng Anh Tuấn chẳng hạn, nó sẽ hết sức
dịu dàng, thoải mái mà hỏi chồng nó:
- Ê… thằng khốn nạn kia! Mày chửi bố mày hay chửi bố tao đấy?
Hoặc:
- Chèng đéc ơi… Từ nãy tới giò em cứ tưởng là anh chửi bố em,
hóa ra là anh chửi tía anh, anh chửi nghe đã quá!
Cuộc tình Hoạn – Thúc rắc rối tơ, sai qui luật cho tôi đi đến
mấy kết luận kiểu luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu:
- Con nhà báo mần vợ chồng với con nhà báo.
- Con nhà lính mần vợ chồng với con nhà lính.
- Con nhà buôn mần vợ chồng với con nhà buôn.
- Mình là con nhà thường dân thì đừng có dính dáng gì đến những
em con nhà quan lại; để cho các em chổng mông…
- Vợ chồng cùng giai cấp là hạnh phúc nếu không chắc như bắp
thì cũng không đến nỗi đau khổ để văn thơ phải ghi chép tốn giấy, tốn mực. Vợ
chồng đừng có lai căng, vợ chồng đầu gối, tay ấp mí nhau mà đòi hòa hợp, hòa giải
giai cấp đấu tranh là hổng có được. Xung đột dữ dội lắm. Nhiều khi đi đến tạt dầu
hôi, bôi át-xít nhau đấy. Ông cha đã dạy hổng chịu nghe, thảm kịch xảy ra kêu
trời, kêu đất…
- Những cuộc tình đẹp, thơ mộng tuyệt vời kiểu không chia
giai cấp, con gái tỉ phú lấy tài xế xe nhà, bác sĩ mua bằng giả yêu em thợ uốn
tóc thẩm mỹ viện Ngã Ba Chú Ía… chỉ là những chuyện có thật trong tiểu thuyết,
trên màn ảnh vi-đê-ô, đừng có tin, đừng tưởng bở…
Bố ký cóp, con bốc trời
Công tử chạp phô Thúc Kỳ Tâm thích mần thơ đã là chuyện lố bịch
làm sỉ nhục thơ văn, nhưng ngu ngốc nhất là việc đương sự “tưởng Thúy Kiều là
con của Tú Bà”!
Tưởng thế nào được? Thúc Kỳ Tâm tưởng cái gì về Thúy Kiều
cũng có thể tha thứ được, nhưng “tưởng Thúy Kiều là con Tú Bà” thì hổng thể nào
chịu nổi. Con nít lên mười, cụ già chín mươi cũng chẳng có ai tưởng một cách
ngu si, đáng ghét như thế. Khi thấy Thúy Kiều tắm trong bồn nước pha Chanel No.
5, Thúc Kỳ Tâm làm cái việc ruồi bâu kiến đậu là ngồi rung đùi mần thơ. Rồi đến
lúc Thúy Kiều vờ vẫn bầy đặt chuyện nhớ nhà để tránh khỏi phải mần thơ thù tạc
xôi thịt đáp lễ:
Hay hèn nghĩ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang
Lòng còn gửi ánh mây Hàng
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
Thúc Kỳ Tâm làm cái việc ruồi bâu kiến đậu thứ hai khi nói:
-Ủa! Kỳ dzậy! Anh tưởng em là con má Tú?
Rằng: “Sao nói lạ lùng thay
Cành kia chẳng phải cội này mà ra?”
Lúc ấy chắc chắn Thúy Kiều phải hận đến căm gan tím ruột.
Không có gì làm nàng tủi nhục bằng việc nàng bị coi là con gái của mụ chủ nhà
thổ thô bỉ, bệnh hoạn, nước da xanh xao, nhờn nhợt, cao lớn, đẫy đà… Nhưng tên
tưởng lầm, tên sỉ nhục nàng lại là tên có tiền chi bao nàng sống. Nàng không thể
dí… vào mặt nó được, nên nàng chỉ buồn ray buồn rứt:
Nàng càng ủ dột thu ba
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh…
Những đêm ở phòng giam tập thể 10 Ô-ten Chí Hòa thành Hồ, tôi
nằm nuôi rệp xuất khẩu trong màn – chỉ giương cái màn mỏng dính lên thôi nhưng
lạ kỳ biết chừng nào, tôi đã có một cõi riêng tư để thả hồn mơ mộng, để mần thơ
vịnh Kiều – tôi thương Kiều bị bọn ngu si hạ nhục, tôi mần thơ chửi Thúc Kỳ
Tâm, chửi đến nơi đến chốn, chửi thẳng thừng, chửi từ đời con đến đời cha, để
trả hận cho Kiều:
Chửi bố cha con
Nhà chạp phô Thúc Kỳ Tâm
Rằng: “sao nói lạ lùng thay
Cành kia chẳng phải cội này mà ra?”
Chém cha con mắt mù lòa
Có đui mới tưởng em là con hoang.
Ngu thì ngu cũng phải chăng
Ngu sao qua nỗi bất bằng là ngu!
Chán cho anh bố lù đù
Suốt đời nhặt nhạnh từng xu, từng đồng.
Thằng con vừa ngọng vừa ngông
Trăm nghìn nó đổ như không trận cười
Bố ký cóp, con bốc trời
Cha đời nửa ngợm nửa người nhà ngu.
Như lu mụ Tú mập ù
Vành mông, vòng bụng lù lù một toa
Nàng thì trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa nước non
Lấy gì mẹ mẹ, con con?
Mèo mù đòi dọ ngọn nguồn, lạch sông.
Tiếc em, em đỏ như vông
Vô duyên vớ phải thằng chồng cu đen.
Người yêu em nhất
Nói đến em là người đời nói đến trinh, đến trắng…
Ngay cả đến anh Công tử Hà Đông hào hoa phong nhã chẳng bằng
ai cũng ca tụng cái gọi là “chữ trinh” của em:
Trắng suốt thời gian một chữ trinh
Hai trăm năm lẻ biết bao tình
Nào dâu, nào biển, đời hay mộng
Trang giấy này em vẫn hiển linh.
Em trinh cùng mình, trinh từ đầu đến chân nhưng số em lại là
số có thân chủ đàn ông đứng xếp hàng trước giường em hơi đông:
Mã Giám Sinh
Sở Khanh
Thúc Kỳ Tâm
bạc Hạnh
Từ Hải
Hồ Tôn Hiến
Thổ Quan
Kim Trọng…
Kim Trọng, Công tử Bắc Kinh, đáng lẽ là năm-bơ-oăn, nhưng chỉ
vì can tội “để dành, để sọt” nên trở thành đèn đỏ. Với Thúy Kiều thì Kim Trọng
“đen hơn mõm chó mực”. Số của cậu là số “đi trước, về sau”, giống như “Sài gòn
đẹp lắm, Sài gòn ơi…” Sài gòn: Thành đồng tổ quốc, đánh nhau trước nhưng “được”
hưởng hạnh phúc Việt cộng muộn nhất nước.
Nhưng thôi, ta bỏ qua những chuyện lẻ tẻ đó, Thúy Kiều, anh hỏi
riêng em: Người đàn ông nào yêu thương em nhất?
Một trong ba tên Thúc Kỳ Tâm, Từ Hải, Kim Trọng ư? Anh thấy cả
ba tên ấy đều yêu em vì “muốn” em, vì muốn được hưởng thụ nhan sắc, thân xác của
em. Nếu chúng không “muốn” em, anh chắc chúng chẳng dửng dưng con cá vàng thì
cũng chẳng tha thiết gì đến em. Anh muốn em hãy phân biệt “yêu” và “muốn”. Hai
cái đó giống nhau lắm đấy. Nhưng nếu ta tỉnh trí đôi chút, ta vưỡn thấy chúng
khác nhau.
Theo anh, người đàn ông yêu em nhất đời em, yêu em thực tình,
yêu em thật trắng, thật sạch, yêu em không phải vì “muốn” em, là Tri phủ Lâm
Tri.
Khi anh đã nói đến Tri phủ Lâm Tri rồi, anh chắc em sẽ đồng ý
với anh. Phải không em? Thúc Kỳ Tâm, Kim Trọng yêu em, khóc với em, khóc vì em,
tiếc em… sống dở chết dở, chết đi sống lại, nhắc ngoải, rên la thảm thiết chỉ
là vì em đẹp, vì muốn được nằm chung một giường mí em. Kể cả Từ Hải. Cả ba yêu
em chính là tự yêu thân xác chúng. Nhưng riêng Tri phủ Lâm Tri thì yêu em mà
không đòi em phải đền đáp, chải cho cái gì cả. Đúng không em? Vì những lý do
cao đẹp đó, anh long trọng tuyên bố:
Người đàn ông yêu Vương Thúy Kiều nhất cõi đời này là: Tri phủ
Lâm Tri.
Tri phủ Lâm Tri
Trông lên mặt sắt, đen xì
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời
Lập nghiêm nên phải thế thôi
Con người ấy thật là người hào hoa.
Hoa tiên quan mới xem qua
Nòi tình nên thấy tình là quan thương.
Khen rằng: “Giá lợp Thịnh Đường
Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân”.
Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
Có ai bằng được Phủ Quân nhà mình?
Đa tình nên mới yêu tình,
Hào hoa sáng rực một thành Lâm Tri.
Tuy rằng mặt sắt đen xì
Nhưng tim với óc quan thì đỏ au.
Truyện Kiều tính suốt xưa sau
Hào hoa đệ nhất đứng đầu: Phủ Quân.
Khi em một bước thanh vân, em lên chức phu nhân, em ân đền
oán trả, em lập tòa án xử tội những tên làm rách, làm bẩn cuộc đời ái tình và sự
nghiệp của em, em trừng trị bọn Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc Hạnh, Bạc
Bà, Hoạn Thư, mẹ Hoạn Thư. Em tuyên án tử hình cả hai tên gia nô tay sai Khuyển
Ưng, Khuyển Phệ. Em chi “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” máu và nước mắt nhân dân
do chồng em bóp nặn, bóc lột. Em đền ơn hậu hĩ cho mụ Mã Kiều, mụ Quản gia, vải
Giác Duyên…
Nhưng em quân mất Phủ Quân, người có ơn với em nhiều nhất.
Anh là người thích trọn tình, trọn nghĩa, chung tình, chung thủy, ân oán rạch
ròi, nên anh bất mãn khi thấy em quên Tri phủ Lâm Tri. Vì vậy những đêm u tối
mà hết sức bình yên, anh nằm với ông bạn tù thi sĩ Trần Văn Hương ở nhà tù lớn
Chí Hòa, anh tại ngục vịnh Kiều và anh:
Trách Kiều quên đền ơn
Lập tòa em xử vẩn vương
Trách em ân, oán đôi đường chưa minh.
Lâm Tri tri phủ đa tình
Gả chồng công lớn sao mình lại quên?
Ngàn vàng em tạ Giác Duyên
Bố già vất vả em chẳng đền một xu.
Kiếp này em lại vụng đường tu…
Kiều ơi, kiếp này rõ ràng em lại vụng đường tu. Tu là để được
giải thoát. Nhưng ta phải trả hết nợ ta mới ra khỏi cõi ta bà này được. Đó là
qui luật. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng qui luật “trả hết nợ mới thơ thới,
hân hoan” ấy đời đời không thay đổi. Kiếp này em còn nợ anh Tri phủ, em phải mần
một kiếp sau nữa để trả nợ ảnh thôi.
CÔNG TỬ BẮC KINH HOA THƠM ĐÁNH CẢ CỤM
K
im Trọng, Công tử Bắc Kinh, là nhân vật vô duyên nhất trong
truyện Kiều.
Lẽ ra Công tử là người thứ nhất, nhưng vì Công tử vô duyên,
Công tử lần chần nên trở thành người cuối sổ. Đau thế chứ ly! Nhưng trong những
đêm nằm thao thức ở phòng 10 tập thể khu ED lầu Bát giác Chí Hòa – năm 1988,
thành Hồ – suy nghĩ về Kiều và những cái gọi là rắc rối của cuộc đời, tôi không
chút xót thương anh công tử bột Kim Trọng. Không những chỉ không xót thương,
tôi còn ghét cay ghét đắng, ghét đến đào đất đổ đi bọn con nhà giàu được hưởng
thụ đủ thứ nhờ tiền bạc, quyền thế của bố mẹ như Kim Trọng.
Bọn con nhà giàu nó đã có tiền, nó lại đẹp trai, học giỏi, đỗ
đạt cao… Vậy thì nó hưởng hết rồi còn gì! Làm quan, lấy vợ đẹp, đẻ con khôn… được
người đời tôn trọng, quị lụy… Bao nhiêu khoái lạc ở cõi đời này chúng nó hưởng
hết, những thằng con nghèo như tôi còn cái mốc xì sư cụ gì?
Bởi dzậy cho nên bất cứ lúc nào tôi mạt sát, mạ lỵ, bôi xấu,
vu cáo, chửi cạnh chửi khóe, móc máy được bọn con nhà giàu – trong Kiều, dưới
chỗ để ngồi tròn nây của Thúy Kiều điển hình là hai anh Kim Trọng, Thúc Kỳ Tâm
– là tôi làm tới, mần thẳng cánh. Tôi mạt sát, hạ giá bọn con nhà giàu để trả
thù cho những anh con nhà công chức còm như tôi.
Kim sinh viên học gì không ai thấy, chẳng ai biết. Ta chỉ thấy
cậu lái xe Jaguar đến nghĩa địa ve gái. Cậu có điều kiện mướn riêng một vi-la
bên cạnh nhà người đẹp. Ta chẳng thấy cậu học hành chi cả, chỉ thấy cậu ngồi khảy
đờn ghi-ta. Và cậu có sẵn một thứ mà không một người học trò nào trên cõi đời
này – từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, từ ngày loài người có học trò đến ngày loài
người không còn ai là học trò nữa – thường có. Những thứ đặc biệt Kim Trọng trữ
sẵn đó là những món quà tặng để ve gái.
Không những chỉ ngày đêm tơ tưởng được ôm, được hôn Thúy Kiều,
cậu bị ám ảnh đến mất ăn mất ngủ. Trường hợp Kim Trọng ra vào ngơ ngẩn vì muốn
Thúy Kiều được diễn ta:
Chàng Kim từ lại thư song
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê
Mây Tần khóa kín song the
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt tơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn cỏ, tơ chùng phiếm loan.
Nguyễn Du phóng bút hơi quá tay khi tả cảnh đang giữa mùa hè
“cái nóng nung người nóng nóng ghê” – Kim Trọng gặp Thúy Kiều ngay Thanh Minh
trong tiết tháng ba – mà cái gọi là phòng văn của Kim công tử lại “lạnh giá như
đồng“…
Nhưng thôi, ta trở lại với trường hợp Kim Trọng đáng lẽ ra là
hành khách thứ nhất lên phi cơ lại trở thành hành khách thứ bét! Không những chỉ
mướn vi-la, ngày ngày ngồi rình vườn sau nhà Vương viên ngoại, Kim công tử hào
hoa phong nhã còn trữ sẵn những thứ không anh học trò nào trữ sẵn, là khăn voan
hay khăn tay, khăn mặt, khăn bông, khăn lông, khăn choàng gì đó; và xuyến vàng.
Khi vừa liên lạc được với người đẹp, Công tử lập tức hẹn nàng “Chờ anh tí” để
phú lỉnh vào nhà:
Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Nhân đây ta để ý thấy Nguyễn Du dùng hai tiếng “thêm lấy”
ngang phè và không đúng ngôn ngữ Việt Nam chút nào. Chúng ta nói “lấy thêm” chứ
không ai nói “thêm lấy” trừ những anh Mít lai Tẩy, lai Mẽo, lai Tầu. Nguyễn Du
có thể dùng: Vội về lấy thêm của nhà… cũng vưỡn được, chỉ có âm điệu không hay
bằng. Chú học trò Việt Nam nào làm bài luận quốc văn: “Em về thêm lấy của mẹ
năm bảy chục tiền nữa để mang đi bao gái…” chắc chắn bị số điểm thật khốn nạn.
Nhưng Thi Sĩ Lớn dùng hai tiếng “thêm lấy” ngang phè thì những đồng bào của
ông, những người thán phục thi tài của ông, đời trước, đời này, đời sau đều câm
miệng hến! Thi Sĩ Lớn dùng được, thường dân hổng có dùng được. Thi Sĩ Lớn mà!
Nhưng mà con người ở cái cõi đời này đều có số cả. Số đây là
Số Mệnh viết hoa. Nếu không có Số thì những bao nhiêu con gái, đàn bà đẹp,
thơm, đa tình, chung thủy trên cái cõi đời này đều làm vợ lớn, vợ bé, nhân tình
những tên đàn ông con nhà giàu, con nhà quan, đỗ đạt cao, ăn trên ngồi trốc
trong xã hội hết cả hay sao? Nếu không có Số thì những anh con nhà nghèo, xấu
trai, học dốt như Công tử Hà Đông, Gã Thâm, Con trai bà cả Đọi, v.v… chỉ có cái
diễm phúc làm bạn với những em thối tai, hôi nách, tính tình quái dị, hung hãn
như khủng long hay sao?
Không. Ta không nên bi quan như thế. Nhất định là con người
ta có Số và không những chỉ có Số mà thôi, con người ta còn ăn thua nhau ở cái
Số nữa. Nhất định là có Số và có Trời. “Không có Trời ai ở được với ai?” Ông
cha ta đã xác quyết cõi đời này có Số, có Trời từ lâu lắm rồi. Ta khỏi cần thắc
mắc gì về chuyện này.
Tôi nói đời có Số là bởi vì Kim Trọng có tất cả những điều kiện
tối ưu, tức là tốt nhất, để đóng vai người đàn ông thứ nhất trong đời em Vương
Thúy Kiều đa tình nửa đêm leo tường, chui lỗ chó sang nhà đàn ông con trai, lại
hụt ăn, lại không được hưởng, lại trở thành Người Hành Khách Đi Chuyến Tàu Vét.
Tại sao thế? Câu trả lời thật giản dị: Tại vì cái Số của Kim
Trọng nó đen hơn mõm chó mực. Kim Trọng không có cái Số được hưởng cái gọi văn
huê là “cái yêu đào” của Vương Thúy Kiều. Nhưng một phần cũng vì Kim Trọng ngu
si nặng phần trình diễn.
Kiến cơ nhi tác… Thấy có cơ hội mần được là mần ngay; không
những chỉ mần ngay mà thôi, còn phải nhanh tay, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh mồm,
nhanh miệng mần liền tù tì tút suỵt, mần đến nơi đến chốn.
Kim công tử vô duyên, ngu ngơ không chịu mần ngay – Bài học
luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu Kim công tử đem lại cho những người đọc Kiều
gồm hai chữ cô đặc kiểu bí kiếp “Mần Ngay” – Không những đã không chịu mần
ngay, Công tử còn bày đặt những trò trình diễn rình rang không ăn nhậu tí ti
ông cụ nào đến tình yêu như là lập bàn thờ thế thốt – thề mí ai? Thế mí ông
Cai, bà Xã Đò – thắp nhang đèn, viết tờ cam kết, kết giải dây lưng, uống tí rượu
và… ruồi bâu kiến đậu không giống ai, lố bịch, ngớ ngẩn nhất là cắt tóc trao
cho nhau:
Tiên thề cùng thảo một trương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn dặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Những gì xảy đến với Kim Trọng Số đen hơn mãm chó mực cho ta
thấy – rõ ràng, dứt khoát – là tất cả những việc vớ vẩn Kim Trọng làm trong đêm
hôm vàng ngọc ấy đều vô ích. Không những chỉ vô ích mà thôi, chúng còn gây tác
hại nặng như đá đeo. Vì những nguyên nhân duy tâm kiêm duy vật kiêm duy đủ thứ
biện chứng pháp đó, Công tử Hà Đông làm bài thơ vịnh Kiều tại ngục như vầy:
Kiến cơ nhi bất tác:
Vỡ mặt là cái chắc…
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Sắn tay mở khóa động đào
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai…
Biết rằng gió tối mưa mai
Sao nhau để lỡ nhau hoài đếm xuân?
Tình nhân lại gặp tình nhân
Ái ân sao chỉ có ngần ấy thôi?
Xá gì trăng sáng giữa trời
Xá gì hai miệng một lời song song
Cần gì căn dặn tấc lòng
Cần gì tạc một chữ đồng đến xương.
Ngẩn ngơ toàn chuyện ẩm ương
Vô duyên cầm địch cầm đường vẩn vơ
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Sao người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu?
Sao không trên gối nghiêng đầu
Cho trào chín khúc, cho cau đôi mày?
Trời cho chẳng chịu vồ ngay
Nhẩn nha thì sẽ có ngày xót xa.
Tố Như ơi, tuyệt tài hoa
Một lời thôi cũng tiếng là tiên tri
Chiêm bao nào có hay gì
Cuộc tình đến quá nửa thì chiêm bao.
TÒA EM ANH CHÁN MỚ ĐỜI
L
a Quán Trung báo cho ta biết trước Quan Vân Trường sẽ không
giết được Tào A Man ở Hoa Dung đường nhỏ khi tả cảnh Tào Tháo bại binh lếch thếch
tơi tả lết đến, Quan Vân Trường trịnh trọng:
- Kính chào Thừa tướng… Ngài vẫn được mạnh giỏi?
Đáng lẽ ra Vân Trường phải – không có chào thừa tướng thừa
tung gì cả – hét lên một tiếng lớn, vung long đao chém luôn. Nhưng thay vì làm
thế, Vân Trường lại cung kính: “Kính chào Thừa tướng…” và đã một điều “Thưa
ngài, kính ngài…” thì làm sao còn trở mặt, phủi tay với ngài được?
Thúy Kiều cũng dzậy. Đúng ra Tố Như cũng báo cho ta biết Thúy
Kiều sẽ không giết được Hoạn Thư.
Khi Kiều ngồi lên ghế chánh án vừa thấy mặt nữ can phạm Hoạn
Thư bị cai tù áp giải đến, Kiều đã vội vã đứng lên:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?”
Thay vì chửi mắng, ra lệnh hành quyết ngay “con khốn nạn, mày
thế nọ… mày thế kia… cho mày chết…”, Chánh án dỏm Vương Thúy Kiều lại kính cẩn
“Chào cô… Thưa cô…” Chắc nàng còn xưng “em” với Hoạn Thư, cô chủ của nàng. Tội
nghiệp! Nàng muốn trả thù Hoạn Thư mà nàng vưỡn còn sợ nó, vưỡn còn coi nó là
cô chủ, là mợ… thì làm sao nàng có thể trở mặt giết được?
Đây là lý do tại sao những người Tàu cộng phải tổ chức “học tập
đấu tố bọn địa chủ ác ôn”. Tàu cộng biết nông dân từ bao đời truyền kiếp làm
nông nô vẫn sợ hãi bọn chủ đất nên Tàu cộng dạy nông nô vừa thấy mặt chủ đất là
phải gọi ngay bàng “thằng”, nhổ ngay vào mặt, chửi rủa tận tình. Có thế mới thực
hiện được những cuộc đấu tố địa chủ. Nếu cứ để nông nô nói với chủ đất những
câu như: “Thưa ông, năm xưa ông bóc lột bọn tôi hơi quá đáng… Nay bọn chúng tôi
hành hạ ông để trả thù…” e rằng không đúng chỉ tiêu. Đàn em Việt cộng bắt chước
đàn anh trong đấu tố, cũng cải cách ruộng đất. Những chị hai, ba mươi tuổi cong
cớn, hung hãn gọi những ông già là “thằng, mày…”
Trở lại với Thúy Kiều lập tòa án nhưng không giết nổi “chính
danh thủ phạm Hoạn Thư”, ta thấy rõ ràng vì Thúy Kiều đã không trở mặt được
ngay từ đầu. Cái gọi là tòa án của Kiều không ra làm sao cả! Thúy Kiều còn mặc
cảm tự ti “gia nô – gái chơi”. Dù nàng có là nữ thủ tướng, là vợ tổng thống đi
chăng nữa, trước mặt cô chủ, mợ chủ ngày xưa, nàng vẫn cứ thấy nàng kém nước.
Công tử Hà Đông bèn có bài vịnh:
Thúy Kiều chánh án
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?”
Mới nghe chào, đã biết ngay
Chính danh thủ phạm tòa này sẽ tha.
Ai đời lôi nó ra tòa
Mà em lại gọi nó là… tiểu thu!
Vỏ lệnh bà, cốt hoa nô
Lại thêm mặc cảm giang hồ, gái chơi
Em còn sợ nó thì thôi
Tòa chi để một trận cười người ta!
Tòa gì gươm tuốt nắp ra
Tuốt ra rồi lại gươm tra nắp vào.
Chém cha cái tật hoa đào
Bắt Tào rồi lại tha Tào như chơi.
Tòa em anh chán mớ đời!…
Đã tha bổng chính phạm Hoạn Thư nhưng chánh án Vương Thúy Kiều
lại xử tội hai tên tay sai của Hoạn Thư là Khuyển Ưng, Khuyển Phệ.
Hai Khuyển không thù oán gì với Thúy Kiều. Chúng chỉ là gia
nô làm theo lệnh chủ. Tất nhiên là trên pháp luật, chúng cũng có tội và cũng bị
trừng trị, nhưng khi chính phạm đã được tòa tha bổng – không cần biết vì lý do
gì – những tên tòng phạm cũng mặc nhiên không còn bị truy tố nữa.
Vương Thúy Kiều có thể trừng trị Khuyển Ưng, Khuyển Phệ nhưng
ni cô Trạc Tuyền thì không nên.
Khuyển Ưng, Khuyển Phệ can tội theo lệnh chủ đi bắt cóc một
người đàn bà tên là Vương Thúy Kiều. Khi lập tòa, một phần nào người đàn bà
Vương Thúy Kiều đã là ni cô Trạc Tuyền. Ni cô đã tu hành đến hơn ba niên trong
chùa nhà người ta. Ni cô đã làm tốn biết bao nhiêu nhang đèn, giấy mực, cơm gạo,
đậu hũ ky, tương chao… Ít nhất chánh án-ni cô cũng phải biết thế nào là ân oán.
Ni cô oán người làm ni cô đau đớn, ni cô trả thù người đó khi ni cô có thể. Bọn
Khuyển Ưng, Khuyển Phệ cũng oán hận ni cô vì ni cô đã trừng phạt chúng thảm thiết.
Chúng cũng biết thù ni cô chứ. Kiếp này chúng không bắt ni cô trả nợ được,
chúng sẽ rình ni cô ở đời sau!
Sau ba mùa lá rụng tụng kinh gõ mõ, Vương Thúy Kiều vẫn mê muội,
vẫn tham sân si như chưa từng bao giờ tu hành. Nhưng ni cô Trạc Tuyền thì chắc
cũng có đôi lúc thoáng thấy những tiền kiếp – và nhất là thấy những kiếp sắp đến
– của nàng.
Trong mười lăm năm, Thúy Kiều có tám cuộc tình qua những tên
đàn ông sắp hàng theo thứ tự người đến trước hưởng trước, người đến sau hưởng
sau:
- Mã Giám Sinh
- Sở Khanh
- Thúc Kỳ Tâm
- Bạc Hạnh
- Từ Hải
- Hồ Tôn Hiến
- Thổ Quan
- Kim Trọng.
Trong số tám anh đàn ông ấy chỉ có bốn anh – phíp-ty phíp-ty
– may mắn sống sót. Bốn anh chết với những cái chết ghê rợn, không được bình
thường. Ta có thể gọi những tên ấy là những nạn nhân của em Vương Thúy Kiều có
cái số tàn sát “thượng diệt hạ tuyệt” những anh đàn ông nằm chung chăn gối với
nàng. Ông cha ta gọi loại đàn bà này là “oan gia”.
Đàn bà oan gia đẹp, đa tình, quyến rũ, mê hoặc… Phải có những
đặc tính ấy mới là đàn bà oan gia chân chính. Đàn ông cõi đời này không lửng lơ
con cá vàng với những người đàn bà hiền lành, vô thưởng vô phạt; nhưng lại cứ
như những con thiêu thân thi nhau, tranh nhau, hại nhau, giết nhau để được ưu
tiên lao đầu vào những lò lửa tình của những người đàn bà oan gia như Vương
Thúy Kiều.
Than ôi! Ta đọc Kiều, ta bị Tố Như mê hoặc, ta bị Tố Như cho
vào xiếc… Ta yêu Thúy Kiều, ta mộng Thúy Kiều… Nhưng chỉ cần ta hạ cơn áp huyết
xuống vài số thôi, ta sẽ thấy “đàn bà như Thúy Kiều là một tai họa khủng khiếp
cho đàn ông”. Ái tình mí những em con nhà lành tuy chẳng có gì sôi nổi, gay cấn,
thơ mộng – như bữa bữa ăn cơm ở nhà, vừa bổ vừa lành vừa đỡ tốn – nhưng an
ninh, chữ thọ vững hơn. Bằng chứng rõ ràng không thể chối cãi được là tất cả những
anh đàn ông dính dáng đến cái chỗ để ngồi của em Vương Thúy Kiều đều có những
cuộc đời nếu không đen hơn thì cũng đen gần bằng mõm chó. Bốn anh tưởng bở Mã
Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Từ Hải… bỏ mạng ở pháp trường, chết đứng… Anh Hồ
Tôn Hiến dâm quan chưa chắc đã giữ nổi cái chức đại thần cho đến hết đời. Anh
Thổ quan vô duyên vừa mới được quan trên ban cho vợ thừa đã tá hỏa tam tinh vì
cô dâu nhảy lầu – xin lỗi, nhảy sông – đi một đường về Thủy Cunh làm vợ Hà Bá.
Còn cậu Kim Trọng thì khỏi nói. Đường công danh của cậu cứ dắt cậu qua Phòng Nhất,
Phòng Nhì cũng đủ làm cậu mỏi gối chồn chân, mới bốn mươi đã rề rề đeo kính…
Ai thích Thúy Kiều xin cứ việc… liều mạng, thí mạng cùi. Nhân
tâm tùy mạng mỡ. Tui thì tui cứ giữ phận phó thường dân bền chữ thọ mí em Thúy
Vân. Một chuyện lạ lùng, ngu si là chúng sinh bá tính cứ xúm lại ca tụng, hôn
hít em Thúy Kiều, cứ dửng dưng coi thường, đôi khi còn coi khinh nữa, em Thúy
Vân. Khỉ lắm! Người đáng ca tụng là Thúy Vân chứ hổng phải Thúy Kiều…
Này nhé Thúy Vân người tròn trặn, có da có thịt, hồng hào, mặt
tròn, béo, lông mi lông mày mượt, nhiều, mắt sáng mà hiền, hổng có thu ba thu
biếc gì hết. Đàn ông, con trai khôn ngoan đừng có mê mắt thu ba. Thu ba chỉ làm
cho người ta chết chìm, chết đuối mà thôi. Thúy Vân ngực nở, lưng ong, mông to.
Đàn bà như thế là đàn bà khỏe mạnh, khéo chiều chồng, khéo nuôi con, tính nết
vui vẻ, dễ dàng, ăn no, ngủ kỹ, thai nghén dễ, đẻ sòn sòn, không đòi hỏi này nọ,
không lăn đùng ngã ngửa, mắt trợn trắng, miệng sùi bọt mép mỗi khi gặp chuyện
không được bằng lòng. Thúy Vân là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đảm đang,
trung hậu muôn đời, là người vợ giúp đỡ chồng con – vượng phu, ích tử – là chỗ
dựa vững chãi cho người chồng. Dân tộc Việt Nam ta còn giữ nguyên được những đặc
tính Giao Chỉ ngàn xưa mặc dù bao nhiêu đời ta bị Tây, Tàu, Nhật, Đại Hàn, Phi,
Mẽo ra sức đồng hóa chính là nhờ công của những người đàn bà Việt Nam như Thúy
Vân.
Nếu Thúy Vân sống ở Sài gòn những ngày đen tối sau ba mươi
tháng Tư, chồng nàng đi cải tạo mút mùa, nàng cũng buồn, cũng thương chồng, xót
con nhưng nàng hôm trước hôm sau ra ngồi ngay đầu ngõ bán chuối chiên, vịt lộn,
khoai lang, khoai mì, trái cóc, bánh cuốn, cơm tấm, v.v… cái gì cũng được, miễn
là lương thiện và có tí tiền mua gạo cho con.
Cũng trong hoàn cảnh ấy, Thúy Kiều lăn đùng ngã ngửa dẫy đành
đạch, nằm thẳng cẳng thở hắt ra, rầu rĩ ủ ê, nằng nặng đòi chồng kiếm cây cho
nàng đi chui, nếu không nàng uống thuốc rầy nàng hành cho trí mạng. Hai nàng
tuy là hai chị em ruột nhưng khác nhau như dzậy đó.
Bởi vậy tôi thấy thật là bất công khi ta cứ đề cao Thúy Kiều
mà mạt sát Thúy Vân. Bất công như thế là không khá được. Mà quả thực là ta
không khá đứt đuôi con thằn lằn rồi. Mất hết cả nước. Bỏ của chạy lấy người. Mấy
triệu mạng sống đời lưu vong. Bọn kẹt lại nem nép sống dưới nách những tên công
an Việt Cộng lớn nhỏ…
Trở lại với ni cô Trạc Tuyền…
Ni cô đã giết oan hai gã Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Khi lên ghế
lệnh bà nhờ anh chồng tướng cướp, ni cô ơn đền oán trả rất mực đàn bà tầm thường.
Và ni cô đã ân oán không phân minh, vay trả không sòng phẳng. Bà vãi Giác Duyên
chỉ tình cờ mà giúp đỡ nàng. Sau đó đã bừa bãi đẩy nàng vào nhà họ Bạc. Bà này
đáng lẽ ra là phải trừng trị, đè ra đánh cho ba trăm hèo quắn đít về cái tội bê
bối đã giao du mật thiết với chủ nhà thổ, lại còn ngu muội, tắc trách, không có
chút tinh thần trách nhiệm nào khi đẩy đàn bà con gái đi tị nạn vào nhà thổ. Từ
sau khi đẩy Thúy Kiều sang nhà họ Bạc, Giác Duyên không hề thắc mắc chi đến an
ninh tối thiểu của Thúy Kiều. Mụ đẩy Kiều đi nhưng mụ giữ lại bộ chuông vàng,
khánh bạc của nhà họ Hoạn.
Đền ơn hậu hĩ cho người không đáng được đền ơn, chánh án Thúy
Kiều – ni cô Trạc Tuyền đã tu hành đến ba niên bằng tiền bạc, nhang đèn của nhà
họ Hoạn, lại còn giết oan hai tên Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Ni cô Trạc Tuyền gây
nghiệp oán. Kiếp này ni cô không trả được nợ máu, kiếp sau ni cô sẽ phải chi
thôi.
Bèn có thơ rằng:
Trạc Tuyền…
Mười lăm năm, tám cuộc tình
Sáu tên chết bởi cô mình oan gia
Tòa gì chính phạm thì tha,
Hai thằng tòng phạm thì bà cưa đôi.
Oan còn kết, oán chưa thôi
Trạc Tuyền… em có bồi hồi không em?
ÁI ÂN TA CÓ BẤY NHIÊU NGẦN
N
hững năm 1940 tôi mới trên dưới mười tuổi, Bản Kiều thứ nhất
tôi được đọc trong đời là bản Kiều của chị tôi – bản Kiều bìa đỏ, bán ở những
tiệm hàng xén ngoài chợ. Kỷ niệm xưa nhất của tôi về Kiều là tôi thắc mắc về
nhân vật Sở Khanh.
Tôi thường nghe loáng thoáng người lớn nói chuyện với nhau:
- Thằng ấy là thằng sở khanh…
Hoặc nói đến ai đó bằng giọng khinh bạc:
- Đồ sở khanh…
Tuy chưa biết nhân vật Sở Khanh làm những hành động gì để bị
người đời khinh bỉ đến như thế, tôi cũng biết Sở KHanh là người xấu, đáng
khinh. Vì vậy tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao trong Kiều lại có tên tự nhận
nó là Sở Khanh? Tôi tự bảo: “Nếu nó xưng tên nó là Sở Khanh thì người ta biết
nó là thằng đểu giả rồi. Nó còn lừa ai được nữa?”
Năm 1947 tôi đi kháng chiến ở vùng Bắc Ninh – Bắc Giang. Vùng
này có cái tên gọi khá hay là Bắc Bắc. Nói là đi kháng chiến cho oai, thực ra
tôi đi làm liên lạc viên, quanh năm đi chân đất mang thư đi giao cho cơ quan
tôi – ban VB: Ban tình báo đặc biệt Gia Lâm. Có lần tôi sống với một anh trong
cơ quan rất thích đọc Kiều. Anh có quyển Kiều mang theo trong ba-lô. Thấy tôi
mượn đọc một chiều, anh hỏi tôi:
- Chú thích nhân vật nào trong Kiều nhất?
Tôi trả lời ngay boong:
- Em thích Thúc Sinh.
Anh ngạc nhiên:
- Thúc Sinh là thằng con nhà buôn, ăn chơi, hèn nhát. Nó có
cái gì mà chú thích nó?
Tôi không trả lời được.
Năm mươi năm sau…
Năm nay mái tóc không xanh nữa
Tôi đã đau thương đã nợ nần…
Năm nay tôi biết tại sao năm mươi năm xưa tôi thích Thúc
Sinh. Nhưng tôi không phân tích, không giải thích tại sao. Tôi dành việc đó để
các bạn làm, nếu các bạn muốn.
Em có nhớ chăng, em có tiếc…
Tôi thấy cuộc tình Thúc Kỳ Tâm – Vương Thúy Kiều là cuộc tình
đẹp nhất trong ba cuộc tình của Thúy Kiều. Tương đối thôi, nhưng là tương đối đẹp
nhất.
Cuộc tình Thúy Kiều – Kim Trọng bị sứt mẻ, tiếc hận, cay cú,
sai lầm nhiều hơn là ái ân. Hai nữa cuộc tình thứ nhất này của Thúy Kiều là cuộc
tình ngây thơ, lãng mạng của tuổi dậy thì. Đây là thứ tình mà những năm 1960,
1970 ở Sề goòng chúng ta gọi là “tình nữ sinh, tình học trò”. Thứ tình này thường
nhiều mộng mơ, thư tình mực tím, hoa cúc sân trường, cao tay lắm là hẹn hò nhau
ngọn đèn cư xá, ly chanh đường, nắm tay, hôn má nhau trong bóng tối rạp xi-nê đồng
hạng đồng lõa…
Cuộc tình Thúy Kiều – Từ Hải là tình oan nghiệt, tình oan
khiên, tình hận, tình giết nhau, tình làm nhau chết đứng.
Công tử Hà Đông đặc biệt không ưa thứ tình yêu khốc hại này.
Chỉ còn và vưỡn còn tình Vương Thúy Kiều – Thúc Kỳ Tâm. Vưỡn
biết đoạn cuối cuộc tình chẳng ra cái thống chế gì cả. Em yêu ơi… anh đã không
đi mí em đến những nơi cuối bãi, đầu ghềnh, sơn cùng, thủy tận như em muốn…
Nhưng mà em cũng thấy anh có yêu em chứ? Anh cũng yêu em…
Công tử Hà Đông xúc động vì tình yêu của Công tử Vô Tích.
Chàng bèn tưởng tượng chàng là Công tử Vô Tích và chàng mần thơ thay bạn, nói với
người yêu ngà ngọc – những nàng Kiều Thơm Hơn Múi Mít trên cõi đời này.
Ái ân ta có bấy nhiêu ngần…
Mày ai trrăng ấy mới in ngần
Phấn thừa, hương cũ xót trăm phần
Nhìn trăng nhớ nét mày em đẹp
Thơ Kiều tuyệt diệu những câu thần…
Lầu xanh lãng tử mê hồ điệp
Phật các ni cô đắm ái ân.
Trên lầu Ngưng Bích trao hồng thiếp
Dưới gác Quan Âm khóa ái ân.
Từng gian díu lắm, từng quen nết
Đàn khi gió gác, rượu trăng sân.
Bốc rời tiền ấy tiêu không mệt
Đêm đông, ngày hạ cũng là xuân.
Chàm xanh một nhúng tay xanh hết
Búa rìu ta có tiếc gì thân.
Phong lôi dù nổi, tình không tuyệt
Ba cây chập lại một cành xuân.
Mộc già một bức tay tiên viết
Sắc tài vàng ấy đáng nghìn cân.
Lá ngô vàng thuở chen cành biếc
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi chiếc
Nửa soi gối lẻ, nửa quan san.
Ba sao sáng nửa vầng trăng khuyết
Phật đài khấn chửa cạn lời vân
Hoa tình bỗng nổi gai oan nghiệt
Biết đâu là quả, biết đâu nhân!
Những tưởng xa nhau là tạm biệt
Ai ngờ vĩnh quyết lúc đưa chân.
Tìm em chín suối sai đồng thiếp
Gặp tiên hồ dễ được hai lần.
Tầm xuân đến thác tơ chưa hết
Nhớ thương trọn kiếp chẳng nguôi dần.
Anh về Vô Tích hồn tê liệt
Sống mòn ở đấy kiếp tù nhân.
Em ơi…
Phấn thừa, hương cũ đau khôn xiết
Mày em trắng ấy vẫn in ngần.
Những tưởng chôn nhau là vĩnh quyết
Ai ngờ địa ngục thấy tình nhân.
Đèn lòa, mắt quáng, ai trên tiệc?
Tóc rối, da chì, kẻ dưới sân?
Ngán nó lòng gang mà miệng thép
Thương em ngọc diệp chịu phong trần.
Tiệc rượu gia hình đau nó kẹp
Cung cầm tuyệt vọng tội em đàn.
Này yêu, này mến, duyên hay nghiệp?
Nào nhớ, nào thương, khóc với than!
Tâm hương thiêu mãi oan không hết
Quan Âm nào cứu được tình nhân.
Đoạn trường càng khóc càng oan nghiệt
Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân.
Vàng phai, đá nát đành ly biệt
Núi mòn, sông cạn vẫn tình quân.
Em trốn đi em, trời đất khép
Dâu biển tình ta cũng hợp tan.
Liệu mà xa chạy, cao bay tuyệt
Ái ân ta có bấy nhiêu ngần…
Những tưởng xa nhau là vĩnh quyết
Ai ngờ gươm giáo thấy dung nhan.
Oan gia quen gặp nhau đường hẹp
Ai biết ai quì ở dưới sân?
Mười năm sương gió em càng đẹp
Nửa kiếp chua ngoa nó chẳng đần.
Sâm Thương chẳng vẹn, ta cùng tiếc
Tại ai há dám phụ tình quân.
Thương chồng, tha vợ cho tròn kiếp
Thêm trăm cuốn gấm, bạc nghìn cân.
Ít nhiều cũng một phen oanh liệt
Oan thì trả oán, ái đền ân…
Nửa vui, nửa tiếc, mừng chen khiếp
Lửa ái ân xưa vẫn chửa tàn.
Hồn anh trọn kiếp mê hồ điệp
Thịt xương rung mãi ngón em đàn.
Em có nhớ chăng, em có tiếc
Những mùa yêu cũ đã tiêu tan?
Ôi những chiều vàng, đêm ngọc biết
Còn nhớ ngày em tắm dưới màn.
Em ơi…
Phấn thừa, hương cũ đau khôn xiết
Mày em trắng mới vẫn in ngần!
Em yêu anh nhất, thơ còn viết
Sợ vợ hay không, mặc chúng bàn.
Quên em? Nào có bao giờ?
Em ơi…
Em có nghe những tiếng gọi xé trời?
Không những anh chỉ gọi em vì anh nhớ thương em, anh tiếc em…
anh còn gọi em thay cho tất cả những Thúc Kỳ Tâm trên cõi đời này…
Cuộc tình Thúc Kỳ Tâm – Vương Thúy Kiều có nhiều hợp tan nhất…
Những ba lần hợp, ba lần tan.
Lần thứ nhất gặp nhau ở lầu Ngưng Bích, tan khi Thúc Kỳ Tâm về
Vô Tích thăm Hoạn Thư.
Lần thứ hai gặp nhau trong bữa tiệc gia hình – nhìn nhau mà đứt
ruột, yêu mà lệ rớt, thương mà máu rây. Những oái oăm tàn ác, dã man, vô nhân đạo
của cái gọi là Cuộc Đời: Những người yêu thương nhau không được sống chung mí
nhau, những người thù ghét nhau cứ phải sống chung mí nhau – Lần thứ hai tan
hàng ở Quan Âm Các.
Lần hợp thứ ba trong pháp đình tòa án quân sự cách mạng.
Chánh án Phu nhân xét xử bất chấp mọi thứ pháp luật trên cõi đời này. Đây cũng
là lần tan thứ ba và lần này là lần hợp tan cuối cùng.
Lần tan thứ nhất Thúc Kỳ Tâm yên chí sẽ trở lại mí em như hổng
có chuyện gì xảy ra cả. Thúc Kỳ Tâm tin chuyện này chắc hơn bắp rang, chắc hơn
cua gạch. Nhưng cái gì càng tin chắc lắm thì càng dễ lép…
Thúc Ông ngu đần thấy cái xác cháy đen trong đống tro tàn,
yên chí ngay đó là con dâu yêu quí, hí hửng đem về tẩm liệm, làm ma, đem chôn,
khóc than ra rít. Khi về đến tổ ấm thấy “linh sàng, bài vị thấy nàng ở trên”,
Công tử Vô Tích lăn đùng ngã ngửa cũng phải thôi. Thằng đàn ông nào ở vào cảnh
ngộ này lại không lăn đùng, ngã ngửa. Công tử bèn khấn vái nàng và lần chia tay
kẻ ở trần thế, người xuống suối vàng này là lần Công tử cũng chắc hơn bắp rang
là sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy mặt nàng…
Khi nàng đã chết cháy, khi nàng đã được người ta đào sâu,
chôn chặt thì… còn mong gặp lại nàng ở kiếp này là điên. Thúc Kỳ Tâm yên chí kiếp
sau sẽ gặp lại Thúy Kiều, nhưng chỉ khoảng một niên sau – khi nỗi đau mất Thúy
Kiều đã phai nhạt, Công tử Vô Tích trở về với vợ lớn con quan. Làm sao cậu có
thể ngờ cô vợ ác ôn của cậu đã bắt Thúy Kiều về làm người ở?
Đây là lần tan hợp Kỳ Tâm – Thúy Kiều thứ hai. Chia tay nhau ở
Quan Âm Các, một lần nữa Thúc Kỳ Tâm chẳng mơ màng gì đến chuyện gặp lại Thúy
Kiều lần thứ ba.
Nhưng hai lần chưa hết. Định mệnh còn an bài cho cặp tình
nhân đau khổ này tan hợp lần nữa. Lần thứ ba, nàng trở thành lệnh bà. Chàng rúm
ró, xanh xám quì mọp cạnh cô vợ ghen tuông nay trở thành chính danh thủ phạm dưới
sân tòa án Quân sự Mặt trận…
Cho họ hợp tan lần thứ ba để làm chi vậy? Chẳng để làm gì sốt.
Định mệnh thường hết sức ác ôn côn đồ với những người yêu nhua. Định mệnh thường
tỏ ra hết sức dễ dãi trong việc dàn xếp cho những người thù ghét nhau sống
chung mí nhau nhưng định mệnh lại hết sức khắt khe, ác độc trong việc ngăn cản
không cho những người yêu nhau được sống chung vợ chồng. Đã không cho sống với
nhau thì chớ, định mệnh còn ác độc dàng trời khi lâu lâu lại dàn xếp cho người
ta gặp nhau, nhìn thấy mặt nhau, đôi khi còn cho người ta ngửi cả thấy mùi da,
mùi tóc của nhau.
Trong ngục Chí Hòa thành Hồ Xã hội Chủ Nghĩa, những đêm tù
tôi tưởng tượng, tôi hóa thân làm Thúc Kỳ Tâm. Trước tòa khi nàng hỏi:
- Em… em người tình cũ của anh ở Lâm Tri đây, anh còn nhớ em
không?
Khi nàng nói:
- Vì tình xưa, nghĩa cũ của đôi ta… chẳng gì đôi ta cũng đã
yêu thương nhau một thời… chúng ta không sống được mí nhau đến ngày tóc nhuộm,
răng giả không phải là lỗi tại em…
Tôi sẽ run, sẽ quị đầu gối – Công tử Hà Đông là bạn đồng môn
học cùng thầy, cùng trường, cùng ngồi một bàn với Công tử Vô Tích – tôi sợ thấy
mồ nhưng tôi vưỡn thấy nàng sao quá đẹp, quá quyền rũ. Những người đàn bà đa
tình, lẳng lơ cũng chẳng có mòn thường trẻ lâu, đẹp lâu, tình lâu, quyền rũ lâu
hơn những người đàn bà sơn son để thờ. Không dám hở môi ra đâu nhưng trong tim
tôi, tôi thầm hỏi, thầm nói với nàng:
- Làm sao anh có thể quên em được? Không những anh không
quên, anh còn nhớ ra rít. Anh chết đi, sống lại không biết bao nhiêu lần từ
ngày anh mất em. Anh mới là người có quyền hỏi em có nhớ những ngày ái ân của
đôi ta ngày xưa không chứ? Tại sao em lại hỏi anh…
Đây là bài thơ tôi mần để trả lời nàng trước tòa án:
Thúc Kỳ Tâm
trả lời Thúy Kiều trước tòa
Nàng rằng: “Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”
Tiếc hoa anh ngậm ngùi xuân
Thân này dễ được mấy lần gặp tiên?
Từ ta tàn cuộc tình duyên
Tơ tình anh đứt ruột, lửa phìan anh cháy gan.
Mày em trăng vẫn in ngần
Phấn thừa, hương cũ bội phần xót xa.
Nhớ em trong ngọc, trắng ngà
Có bao giờ tưởng em là cố nhân.
Cố nhân nhẹ bước thanh vân
Nguyệt cầm có vẳng cung đàn Lâm Tri?
Nhớ từ Ngưng Bích nhớ đi
Từ Quan Âm Các nhớ về, em ơi.
Nhớ em kiếp kiếp, đời đời
Tấc son vật đổi, sao dời vẫn son.
Dẫu rằng sông cạn, đá mòn
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.
Quên em? Nào có bao giờ
Sao em lại hỏi hững hờ: “Nhớ không?”.
EM TẮT LỬA LÒNG
V
iệc làm vô lý nhất của Vương Thúy Kiều – ta cứ giả vờ coi như
Vương Thúy Kiều là người phụ nữ có thật, sống thật ở đời này – là việc nàng cứ
năm lần bảy lượt nằng nặc đòi đi tu.
Người đàn bà nào cũng có thể đi tu được, nhưng riêng Thúy Kiều
thì không. Không được vì nàng nói và làm không giống nhau. Không những nàng chỉ
nói và làm không giống nhau mà thôi, những gì nàng nói, những gì nàng làm còn đối
chọi nhau kịch liệt nữa.
Trong thời gian bánh xe lãng tử đưa Kiều lưu lạc giang hồ,
nàng nghĩ, nàng mơ màng đến chuyện tu hành, cắt đứt những dây tình làm cho nàng
đau khổ thì cũng coi là tạm được đi. Nhưng khi đã trở về đời, đã sống chung một
nhà, một phòng ngủ với Kim Trọng Tàu Vét, đã cho Kim Trọng làm lễ tơ hồng, đã
vô đến giường động phòng, nàng vưỡn còn bày đặt: “Thôi đừng… Để em tu…” thì thật
rởm và lố bịch.
Tại ngục Chí Hòa năm 1988 thành Hồ tôi mần liên tiếp năm sáu
bài thơ vịnh phản đối việc Kiều tuyên bố tu hành. Kính mời bạn đọc và xét những
lý do tôi đưa ra để quyết đoàn em Vương Thúy Kiều không thể tu hành được và nêu
rõ chuyện em đòi khóa cửa phòng ngủ để tu là chuyện khôi hài:
Cái chuyện tu hành
khó lắm… em ơi
Đã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sòng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót qua thì đi thôi…
Nghe em anh những bồi hồi
Chân tu dễ được mấy người như em.
Em tu em chẳng ăn nem
Lấy ai ăn chả cho anh đỡ thèm, em ơi!
Em tu sao má em tươi,
Em tu sao miệng em cười quá xinh?
Sự đời leo lét lửa tình
Nhưng than còn đỏ cô mình chớ lo
Có lo thì em lo quả phúc em to
Bến Mê quan cấm, con đò em mắc neo.
Muốn đưa em sang sông nhưng anh lại vụng tay chèo
Để thuyền em cạ gió, lộn lèo anh hổ ngươi
Cai chuyện tu hành nó khó lắm, em ơi
Giẽ cho anh nói một lời đã nao
Cái số em là số hoa đào
Em gỡ ra nó lại buộc vào như chơi.
Đào hoa em mới ba mươi
Am mây nào chứa những người đào hoa.
Em ngẫm cái mình em trong ngọc, trắng ngà
Cỏ cây nào chịu em mà em tu!
Em đòi em khép phòng thu
Đàn cò ai kéo, đàn cù ai quay?
Nợ tình ai trả, ai vay?
Ái ân ai có ngần này chưa thôi?
Em tu, ai ngược, ai xuôi?
Với ai ai lại nối lời nước non?
Em tu ai phấn, ai son?
Ai lìa ngó ý lòng còn vương tơ?
Em tu ai rượu, ai cờ?
Ai xem hoa nở, ai chờ trăng lên?
Em tu ai lạc Đào Nguyên?
Đầu non, cửa động Ngọc Tuyền ai chơi?
Em tu ai khóc, ai cười?
Thang lan ai tẩm, ai người thơm ngây?
Tóc thề ai chấm ngang vai?
Âm công ai nặng thêm vài đồng cân?
Trăm nghìn ai gửi tình quân?
Tơ duyên ai ngắn những gần một gang?
Trinh em đáng giá ngàn vàng
Của chung ai chịu cho nàng đem tu!
Hẹp gì em chẳng hé phòng thu?
Mắc gì cứ phải như tu mới là?
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc
Em đi ở chùa, anh tiếc lắm thay!
Ngàn vàng chẳng chịu trao tay
Tu làm chi cực lòng này lắm thân?
Mày em trăng vẫn in ngần
Phấn thừa, hương cũ bội phần xót xa.
Em tu ai cởi cà sa?
Trạc Tuyền ai đổi tên ra Thúy Kiều?
Có yêu em nói rằng yêu
Chẳng yêu em nói một điều rằng không!
Em cho làm lễ tơ hồng
Em cho hoa chúc, động phòng sánh đôi
Em cho dìu dặt chén mồi
Em cho duyên mới bén mùi tình xưa
Sắp cho em lại ỡm ờ”
-Giẽ ra cho thiếp, bi giờ thiếp tu!
Nắng hanh em biết vào thu
Gió may em biết sương mù sa mưa
Hồng nhan em biết từ xưa
Cái điều tình ái có chừa đi đâu?
Chữ tình ai tạc cho sâu?
Chữ tu ai lẻ nét sầu đến xương?
Em tu em khép âm dương
Em quên ai nhịp đoạn trường gió bay?
Nhưng em đã quyết lòng tu thì anh tính thế này
Cho em tu đủ cả ngày lẫn đêm
Cho em tu trong ấm, ngoài êm
Em tu đạo hạnh em thêm mượt mà
Thứ nhất là em tu nhà
Thứ nhì em tu chợ, thứ ba em tu chùa
Dưa nào em muối chẳng chua?
Tu nhà cùng với tu chùa đồng môn
Phật tại tâm, bất tại Côn Lôn
Tu đâu em sạch tâm hồn thì thôi.
Em muốn tu thì em trả hết nợ đời
Nợ duyên, nợ kiếp, nợ người, nợ ta.
Nợ phong tình, nợ tài hoa
Nợ đi, nợ ở, nợ ra, nợ vào.
Em muốn tu thì em trả hết nợ hoa đào
Tu mà quịt nợ, Phật nào chứng cho!
Ầu ơ… ví dầu quả phúc em to
Bến Mê vua cấm, con đò em đứt neo.
Thuyền Từ em trên biển giác còn lắm cồn leo
Tu sao em khỏi lộn lèo thì tu…!
Thương thay giọt nước cành dương
Thúy Kiều đi tu, xuống tóc, qui y Tam Bảo, tụng kinh, gõ mõ,
chép kinh đàng hoàng chứ không phải là tu kiểu phường tuồng, cải lương, tu hú…
Nàng tu hành ở Quan Âm Các trong vườn nhà Thúc Kỳ Tâm ở Vô
Tích:
Sẵn Quan Âm Các Vườn ta
Có cây trăm thức, có hoa bốn mùa
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa, tụng kinh.
Đó là lời Hoạn Thư, vợ Thúc Kỳ Tâm, tuyên bố về việc em Hoa
Nô mặt ủ mày chau đệ đơn xin được đi tu. Muốn tu thì cho tu. Hoạn Thư quả thật
là người đàn bà ở ăn thì nết cũng hay, nói lời ràng buộc thì tay cũng già, y thị
quyết định liền tù tì tút suỵt. Và thế là Thúy Kiều cây tiền lầu Ngưng Bích,
vương tôn công tử chết mệt chết mê, người xuất sắc trong tất cả bốn món ăn chơi
cầm, kỳ, thi, họa kiêm thạc sĩ đại học bảy chữ, tám nghề trong một ngày đẹp trời:
Tàng tàng trời mới bình minh
Hương hoa, ngũ cúng sắm sanh lẽ thường
Đưa nàng đến trước Phật đường
Tam qui ngũ giới cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
Trạc Tuyền. Tuyền là suối. Còn Trạc nghĩa là gì đây?
Tự điển Thiều Chửu: Trạc, bộ Thủy có hai nghĩa: 1. rửa, giặt;
2. sáng sủa, mập mạp. Núi trọc không cây cũng gọi là “trạc“.
Trạc Tuyền của chúng ta chắc chắn phải là Suối Giặt, Suối Rửa
Lông Mày. Nhất định Trạc Tuyền không có dính dáng xa gần đến cái gọi là núi trọc
không có cây cỏ. Ni cô Trạc Tuyền tu hành ở Quan Âm Các mắt sáng, môi hồng, miệng
đa tình – chỉ có mái tóc nhung mềm thơm ngát hương tiên là ni cô tạm thời không
có. Nhưng theo thông lệ của tự nhiên và thiên nhiên thì cái gì đang mượt mà mà
cắt xén nó đi thì khi nó mọc lại nó xanh um hung hãn lắm. Mái tóc của ni cô Trạc
Tuyền cũng vậy. Năm ấy ni cô mới ngoài hai mươi cái xuân xanh.
Ni cô ra khỏi Vườn Thúy năm ni cô mười tám tuổi. Hai ba niên
chi đó ni cô ăn cơm trọ ở cư xá đại học Tú Bà – hiệu trưởng Mã Giám Sinh, giám
thị thầy Sở Khanh – ni cô gặp Thúc Kỳ Tâm. Ni cô sống ân ái mặn nồng, thả dàn,
đến nơi đến chốn với Thúc Kỳ Tâm trong khoảng hơn một niên. Thúc Kỳ Tâm đến
ngày phải về Vô Tích nộp thuế công dân với Hoạn Thư vợ lớn. Thế rồi ni cô bị bọn
Khuyển Ưng Khuyển Phệ bắt cóc đem về Vô Tích. Ni cô bị Hoạn Thư hành bắt làm nô
tì. Sau cùng Hoạn Thư cũng thả cho ni cô ra chùa tu. Đến chùa ta thấy:
Nâu sòng từ trở màu thiền
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
Thông số có vẻ mơ hồ: “Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu” là
bao nhiêu thời gian? Đã mấy mùa thu trăng soi trên mái chùa hương phấn ấy? Chắc
dzậy. Cứ cho là dzậy đi thì ta đi đến thực tế là kỹ nữ Thúy Kiều, nay là ni cô
Trạc Tuyền, đã ăn chay, tụng kinh, gõ mõ, thắp đèn, đốt nhang, chép kinh ở Quan
Âm Các chùa ta đến ít nhất là ba năm trời…
Ba năm trời nàng ở chùa mà thiếu chủ Thúc Kỳ Tâm hào hoa
phong nhã đa tình không sao lần mò vượt tường chùa vào thăm ni cô được một lần!
Tôi thường cay cú kết tội những anh cai tù cộng sản ác ôn nhưng thực ra nếu so
với Hoạn Thư, mấy ảnh dường như cũng có thể được giảm khinh đôi phần.
Nhưng ở đây tôi không muốn nói đến tính tàn ác dã man của những
người đàn bà ghen tuông trên cái cõi đời này. Tôi không muốn bênh vực Hoạn Thư.
Tôi lại càng không muốn chạy tội cho chế độ lao tù cộng sản. Tôi chỉ muốn nhắc
bạn đọc thân mến nhớ đến chi tiết: Ni cô Trạc Tuyền đã tu hành ở Quan Âm Các
chùa ta một khoảng thời gian ít nhất là ba niên.
Đây là những gì chúng ta được biết về thời gian ba niên lá bối,
phướn mây của ni cô Trạc Tuyền:
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu lại còn mong
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp, sầu vùi
Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
Khéo thay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Thiện tai! Thiện tai!
Lành thay! Lành thay!
Nam Mô Ngã Phật Đại Từ Đại Bi Đại Giác!
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát!
Đạo pháp nhiệm mầu đã đến với ni cô Trạc Tuyền. Nàng đã tự cắt
đứt được những cái gọi là “tình là dây oan” làm cho nàng đau khổ. Nàng chẳng
còn tha thiết gì với cái gọi là tình yêu nhân thế, nàng đã chôn đêm lạnh, rồi
những đêm lạnh rời đi nhường chỗ cho những đêm nóng… trên sàn xi măng phòng mười
ô-ten Chí Hòa thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm hiu hiu tưởng nhớ hình ảnh những
nàng Kiều Thu ngàn năm tròn tuổi nguyệt trên cõi đời này. Ôi! Những nàng Kiều
Thu lò lửa lòng của nàng nào cũng phừng phừng lửa đỏ. Nước Cành Dương có nhiều
như nước biển Đông cộng luôn cả nước vùi, đã lãnh quên những sầu thảm của nàng…
Giọt nước từ cành dương liễu của Quan Thế Âm Bồ Tát đã tưới tắt
ngúm lò lửa lòng của Thúy Kiều Trạc Tuyền. Tưới tắt dứt khoát, trọn vẹn, tắt đến
không còn gì có thể tắt hơn được nữa. Khéo thay! Hay thay! Tuyệt vời thay! Giọt
nước Cành Dương của Phật Bà chữa bệnh ái tình hữu hiệu kinh người…
Người đọc Kiều đa số ngây thơ, đến đây thường tin chắc là như
thế Thúy Kiều đã thoát kiếp đoạn trường. Nàng đã thành ni cô và tu hành tốt. Ni
cô đã lạnh lẽo dửng dưng lửng lơ con cá vàng với cuộc tình. Lửa lòng ni cô đã tắt
từ lâu, nay trong lòng ni cô chỉ còn năm bảy đống tro tàn lạnh ngắt…
Nhưng… Cũng lạ kỳ thay… Cái lò lửa lòng đã bị nước Cành Dương
tưới tắt ngấm từ bao giờ ấy nó lại bùng lên một cách khủng khiếp ngay khi ni cô
vừa nhìn thấy Thúc Kỳ Tâm mắt trước mắt sau lấm lét lẻn vào chùa. Lửa lòng ni
cô nó không tái bốc ở đâu xa xôi, nó phừng lên ở ngay trước bàn thờ Phật, ở
ngay cái nơi ni cô đã đào sâu chôn chặt, đã tưới mấy chục thùng phuy nước cho
nó tắt ngấm.
Than ôi! Cái gọi là Lửa Lòng thật đáng sợ vô cùng! Sự tích ni
cô Trạc Tuyền lửa lòng đã tắt lại phừng lên càng chứng minh cho ta thấy tính
nguy hiểm ghê gớm của nó. Rõ ràng nó đã tắt ngúm rồi. Cả nước thấy nó tắt queo
rồi. Vậy mà nó lại bùng lên, dữ dội, oai hùng, hiên ngang, bất chấp tất cả.
Không những nó không bị nước Cành Dương tưới tắt. – nước Cành Dương Cam Lồ hiệu
nghiệm là thế mà còn không tưới tắt được nó, trên cái cõi đời này từ ngàn xưa đến
ngàn sau sẽ chẳng bao giờ có một thứ nước nào có thể làm tắt được nó – dường
như nó còn đốt cháy queo cả cành dương liễu.
Những đêm nóng đến thay những đêm lạnh, rồi những đêm lạnh rời
đi nhường chỗ cho những đêm nóng… trên sàn xi măng phòng mười ô-ten Chí Hòa
thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm hiu hiu tưởng nhớ hình ảnh những nàng Kiều Thu
ngàn năm tròn tuổi nguyệt trên cõi đời này. Ôi! Những nàng Kiều Thu lò lửa lòng
của nàng nào cũng phừng phừng lửa đỏ. Nước Cành Dương có nhiều như nước biển
Đông cộng luôn cả nước biển Tây các nàng cũng săng-phú…
Bèn có bài thơ vịnh lửa lòng của ni cô Trạc Tuyền:
Lửa lòng em đốt cháy queo
Pháp danh em đổi Trạc Tuyền
Áo xanh em trở màu thiền cà sa.
Em từ lánh gót vườn hoa
Em gần rừng tía, em xa bụi hồng.
Nhân duyên em chẳng còn mong
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp, sầu vùi
Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương
Khèo thay giọt nước Cành Dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần gian
Mái nhà họ Thúc vừa sang
Giọt châu tầm tã đượm tràng cà sa:
“Rõ ràng thực lứa đôi ta
“Làm ra con ở, chủ nhà… được sao?
“Em liều mấy giọt máu đào
“Để cho chúng nó trông vào, biết tay
“Sợ gì cao chạy, xa bay
“Ái ân ta có ngần này thôi ư?”
Cùng nhau kể lể sau xưa
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Phật tiền thảm khuấy, sầu khơi
Tiêu pho thủ tự, tàn nồi tâm hương.
Thương thay giọt nước cành dương,
Lửa lòng em đốt mọi đường cháy queo.
Tố Như trong Truyện Kiều dùng rất nhiều đảo ngữ.
Tôi thấy thi sĩ làm thơ có nhiều câu rất Tây – cho đến năm
nay – những năm 1995, những người viết văn, làm thơ sau ông đến hai trăm năm,
chưa thấy ai dùng cách đảo ngữ lạ như thi sĩ, đừng nói gì đến chuyện dùng ngôn
ngữ lạ kỳ hơn thi sĩ.
Đảo ngữ – đem những tiếng ở sau đặt lên trước – thường là sai
văn phạm thông thường. Như:
Lửa lòng tưới tắt mọi đường tràn duyên…
“Lửa lòng” là chủ từ của câu này. Nhưng “lửa lòng” chỉ đốt
cháy, “lửa lòng” làm sao tưới tắt được? Ta phải đem ý câu trên liền xuống với
câu này:
Khéo thay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi trần duyên.
Khéo thay giọt nước cành dương đã tưới tắt lửa lòng ở mọi đường
trần duyên của ni cô Trạc Tuyền.
Một đảo ngữ khác.
Tam Hợp đạo cô tiết lộ cuộc đời ái tình và sự nghiệp của Thúy
Kiều với Giác Duyên:
Thửa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.
Không phải cái “túc khiên” của nàng rửa mà là Thúy Kiều đã rửa
cái “túc khiên” của nàng sạch lắm rồi.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Câu đảo ngữ này có thể làm cho ta tưởng lầm: Ông trời lắm
chuyện, ổng quen cái thói đánh ghen như đàn bà… Nhưng mà hổng phải dzậy. Ta phải
đảo lại thứ tự những tiếng trong câu này như vầy: Ông trời ổng quen thói đánh ghen
những người đàn bà đẹp.
Khi ông bà Vương Viên Ngoại cùng hai gia đình Khim Trọng –
Thúy Vân, Vương Quan – Chung thị Mẹt – hai cậu chuyên ăn chơi bây giờ đã đỗ cử
nhân, đuọc trào đình trang trọng trách tri phủ, tổng đốc – đến gặp Thúy Kiều ở
căn nhà nghỉ mát bên sông Tiền Đường:
Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao
Giọt châu thánh thót quyện bào
Mừng mừng tủi tủi biết bao nhiêu tình.
Huyên già dưới gối gieo mình
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi
- Từ con lưu lạc quê người
Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm…
“Huyên già” là danh từ huê mỹ, điển tích để gọi bố già Vương
Ông. Cứ như câu trên thì “Vương Ông quì dưới gối ai đó”. Lại đảo ngữ rắc rối
tơ. Trong khi không phải “huyên già gieo mình dưới gối…” mà là Thúy Kiều gieo
mình dưới gối bố già.
Truyện Kiều có nhiều bản. Theo cái gọi là Bản Kinh thì câu
trên là:
Gieo mình dưới gối huyên đình
Câu của Bản Kinh đúng hơn, đỡ rắc rối không cần thiết. Mà
cũng hay ra rít. Cần gì cứ phải đảo ngữ. Dùng câu như câu trong Bản Kinh vừa kể
còn tránh được hai vần “mình, mình” trùng nhau:
Gieo mình dưới gối huyên đình
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi.
…
Đoạn “tái hồi Kim Trọng” là đoạn vá víu cho cái gọi là “hậu”
nên nó đầy những mâu thuẫn, vô duyên.
Xin kể một chi tiết “danh bất chính mà ngôn bất thuận”. Đó là
khi vãi Giác Duyên được giới thiệu những người lập đàn tràng bên sông Tiền Đường
tế vong hồn Vương Thúy Kiều:
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu…
“Này chồng” đây là chồng nào? Kim Trọng Công Tử Bắc Kinh Mất
Con Chị Dí Con Em Con Chị Nó Đi Con Dì Nó Thế Hoa Thơm Đánh Cả Cụm chưa bao giờ
là “chồng” của Thúy Kiều. Không thể giới thiệu Kim Trọng là chồng Thúy Kiều được,
giới thiệu như vậy là bậy bạ, cà chớn nhập nhàng. Kim Trọng là chồng của Thúy
Vân. Phải giới thiệu Kim Trọng là “em rể” mới đúng hệ thống. Ta thấy có giới
thiệu “em dâu” tức là có giới thiệu vợ Vương Quan. Vậy thì tại sao lại phe lờ
không giới thiệu chồng của Thúy Vân, tại sao không nói gì đến con rể mà lại
trang trọng giới thiệu con dâu? Tự nhiên phang một anh “này chồng” ngang phè
không giống ai…
Hai câu:
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu
đúng ra phải là:
Này em, này mẹ, này cha
Này là em rể, này là em dâu.
Năm 1950 tôi từ bên kia dòng sông Đuống trở về Hà Nội, lại
ngày ngày cắp sách đến mái trường Văn Lang. Lúc này trường Văn Lang đặt cái gọi
là cơ sở trong hai căn nhà tư đường Phạm Phú Thứ – giữa đường Thành và Hàng Da
– tôi được học thầy Nghiêm Toản về Việt văn.
Một buổi giảng Kiều, thầy nói: “Trong Kiều có một câu dở nhất.
Đó là câu Bộ hành một lũ theo liền một khi… Câu tả cảnh gia đình Vương Viên Ngoại
bầu đoàn thê tử, dâu, rể, cháu chắt theo vãi Giác Duyên đi gặp Thúy Kiều”.
Đúng như thầy nhận xét, tôi thấy câu “Bộ hành một lũ…” dở thật.
Có thể nói đây là câu dở nhất trong Truyện Kiều.
TUYỆT TÀI HOA…
T
uyệt tài hoa, Tố Như ơi
Thơ tình lại điểm những lời tiên tri…
Ta thường dịch danh từ prophet là “tiên tri”. Theo sự ngu si
của tôi, tôi cho việc dùng tiếng “tiên tri” theo nghĩa phophet không đúng lắm.
Tôi thấy “tiên ngôn” đúng hơn.
Trong Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, có nhiều ông Prophet phom
phom nói trước cho người đời biết những chuyện sắp xảy đến. Theo những vị dịch
Kinh Thánh đầu tiên những năm 1910 – 1920 ở thành phố cảng Tourane tức Đà Nẵng
– trong số những vị này có ông Phan Khôi – phophet được dịch là “nhà tiên tri”.
Thực ra những ông này không “tiên tri” bất cứ chuyện gì hết. Các ông chỉ nói ra
những gì Thiên Chúa mượn miệng các ông để nói với người đời. Vậy thì các ông là
những người “nói trước” hơn là những người “biết trước”.
Các ông Prophet nói trước những chuyện mấy ông hoàn toàn
không biết. Còn Tố Như Nguyễn Du, khi viết Kiều, đã nói cho chúng ta biết trước
một số việc sẽ xảy đến. Tố Như hoàn toàn biết trước tất cả những chuyện ông nói
trước trong Kiều.
Thi sĩ chỉ dùng một vài hình ảnh mơ hồ, thoáng qua, vài tiếng
tả cảnh, tả tình mới nghe qua dường như chẳng có gì quan trọng để báo trước cho
chúng ta biết tương lai, hậu vận của những việc vừa xảy ra. Chẳng hạn như khi
Thúy Kiều – Kim Trọng vừa mới trao đổi được với nhau vài câu qua tường đất thì
đã vội vàng “chấm dứt chương trình của ban Tùng Lâm” vì có người lao xao đến.
Đây là bốn tiếng thi sĩ nói trước với ta về cuộc tình ấy: … lá rụng, hoa rơi…
Than ôi, vừa mới tình tự mà lá đã rụng, hoa đã rơi… Không những
hoa lá chỉ rơi rụng mà thôi, hoa lá còn rơi rụng hết sức vội vàng, hấp tấp nữa.
Cuộc tình lá rụng, hoa rơi ấy làm sao mà khá được. Vì vậy nên có thơ rằng:
Tiên ngôn
Một lời vừa gắn tất giao
Mái sau dường đã lao xao tiếng người
Vội vàng lá rụng, hoa rơi…
Tuyệt tài hoa, Tố Như ơi
Thơ tình lại điểm những lời tiên tri.
Cứ theo hoa lá mà suy
Cuộc tình thôi có ra gì mai sau!
Tố Như còn tiên ngôn cho chúng ta biết cuộc chia tay giữa
Thúc Kỳ Tâm và Vương Thúy Kiều – khi Thúc Kỳ Tâm lên xe về Vô Tích với Hoạn Thư
– là một cuộc chia tay một đi không trở lại. Dù hai đương sự có thề thốt, hẹn
hò đoàn tụ ái ân ra rít đến chừng nào đi nữa, cuộc tình của họ cũng đến đó là
đi một đường tàu suốt. Kính mời những người yêu nhau trên cõi đời này đọc bài
thơ vịnh dưới đây sẽ thấy Tố Như tiên ngôn:
Lôi thôi
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.
Tuyệt tài hoa, Tố Như ơi
Thơ tình lại điểm những lời tiên tri.
Lôi thôi nào có ra chi,
Dương Quan tây xuất còn gì cố nhân!
Một đi là hết ái ân
Lôi thôi cho lắm cũng ngần ấy thôi
Lôi thôi kẻ ngược người xuôi
Lôi thôi lại muốn nối lời nước non.
Lôi thôi sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác vẫn còn lôi thôi!
Tuyệt tài hoa. Tố Như ơi
Tiên tri ngay cả trong lời yêu đương
Sông Tần mở lối đoạn trường
Đã lôi thôi lại mấy đường Dương Quan…
Em yêu ơi, Tố Như nói trước với chúng ta khi ở tại phi trường
Dương Quan em lên phi cơ bay sang phía tây em không còn là người tình của anh nữa.
Thi sĩ đã dùng điển Tây xuất Dương Quan vô cố nhân để nói cho chúng ta biết trước.
Đúng quá phải không em? Cuộc chia ly hẹn ngày tái ngộ mà toàn những tiếng đứt
đoạn như là “lôi thôi, chia phôi, thở than, hợp tan, nghẹn lời, Dương Quan, ngược
xuôi…” thì làm sao mà khá được!
Tuyệt tài hoa. Tố Như ơi
Tố Như tiên ngôn thần sầu quỉ khốc. Khi Thúc Kỳ Tâm lên đường
về Vô Tích “báo cáo tổng kết” với Hoạn Thư, ta thấy những lời tiên ngôn này khi
chàng chia tay tạm biệt với Thúy Kiều:
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan…
Tại sao đã “liễu” lại còn “Dương Quan”? “Dương Quan gợi ta nhớ
đến:
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân…
Đấy là ẩn ý của Tố Như muốn ta biết: Thúc Kỳ Tâm một đi là mất
Thúy Kiều. “Tây xuất Dương quan vô cố nhân” mà lỵ!
Còn “liễu” gợi ta nhớ đến “liễu Chương Đài”.
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẽ cho người chuyền tay…
Anh Hàn Hũ đời Đường có chị vợ lẽ tên là Liễu thị – Truyện
Thúy Kiều do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo ghi rõ là “vợ lẽ” – Hàn Hũ đi làm
quan xa để Liễu thị ở Chương Đài trong thành Trường An. Hàn Hũ không viết thư
cho vợ cả, toàn viết cho vợ bé Liễu thị, gọi nàng là Chương Đài Liễu.
Truyện tình Chương Đài Liễu được ghi trong bộ Tình Sử. Thơ
Hàn Hũ gửi cho Liễu Thị có câu hỏi loại “tiên ngôn”:
Chương Đài Liễu…
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ?
Giả ưng phan chiết tha nhân thủ?
Liễu Chương Đài
Ngày xưa xanh xanh nay còn đó không?
Hay là tay người khác đã bẻ mất rồi?
Anh đàn ông xa nhà mà viết thư về hỏi vợ bé một câu xanh rờn:
“Em thơm hơn múi mít chín… Em còn không hay cho thằng khác… dzồi?” thì mất em
là cái chắc!
Quả nhiên về sau loạn ly, giặc đến, Liễu thị bị tướng giặc
đưa đi di tản ra nước ngoài mất tích.
Tố Như đưa “liễu” vào đoạn tả Kỳ Tâm chia tay Thúy Kiều có ý
cho ta biết trước: Kỳ Tâm đi là múi mít Thúy Kiều về tay người khác.
Với những bằng chứng vừa kể, ta có thể kết luận Tố Như tiên
ngôn thật tuyệt với, tuyệt tài hoa.
Bài học luân lý còm ta rút được ở “Liễu Chương Đài” là: Đừng
có đi, đừng có dzìa đâu hết. Đừng xa nhau, xa nhau là dễ mất nhau lắm lắm.
Muốn không mất phải luôn luôn nhớ lời dặn của ông cha:
- Vật bất ly thân.
- Cẩn tắc vô áy náy.
Tiên ngôn
Khi Thúy Kiều lập tòa án mặt trận xử tội các can phạm đã làm
hại đời nàng. Tố Như báo trước cho ta biết nàng sẽ không trừng phạt trả thù được
Hoạn Thư qua hành động:
Thoắt trông nàng đã chào thưa
-Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Nói theo ngôn ngữ những năm 1940, 1950, 1960 ở các thành phố
Hà Nội, Sài Gòn, khi vừa thấy Hoạn Thư bị cai tù giải đến, chánh án Vương Thúy
Kiều đã vội vàng đứng lên chào hỏi:
-Thưa cô… Cô mà cũng phải đến đây ư? Thầy có được mạnh không ạ?
hay:
- Thưa mợ… Hồi này cậu mợ mạnh không?
Tố Như luôn luôn diễn tả Từ Hải trình diễn thật rình rang.
Sai mười anh tướng đi đón vợ, chưa là vua mà đã dùng thể nữ, xe thì phượng liễn,
loan nghi, tức là cờ phướn linh đình. Vợ tới nơi thì “kéo cờ lũy, phát súng
thành…” Bố Cu Từ lập tòa cho vợ đền ơn, trả oán cũng dàn dựng linh tinh:
Quân trung gươm lớn, giáo dài
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh, uy nghi
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân…
Làm ký gì mà dàn cả cà-nông ra đầy sân tòa án rườm dzậy, cha
nội? Chưa hết, sau khi bà chánh án đền ân cho người cũ Thúc Kỳ Tâm, bà vãi bụi
đời Giác Duyên; ta lại thấy tòa án trình diễn một màn đe dọa cực kỳ nữa khi bà
chánh án cho gọi đến chánh phạm Hoạn Thư:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư
Gươm tuốt nắp ra để chém ngay nữ can phạm. Nhưng… tẽn tò, bà
chánh án vội vàng nhấc chỗ để ngồi lên khỏi ghế để “chào thưa”:
- Thưa mợ…
Trong nhiều đoạn Tố Như tiên ngôn cho ta biết những sự việc sắp
xảy ra. Thi sĩ nói trước cho ta biết quân đội Từ Hải sẽ bại trận thê thảm qua
hai câu:
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri.
Tức là mất hút một đạo quân. Đạo quân thứ ba đi đâu mất? Hỏi
tức là trả lời.
TỪ HẢI CHẾT ĐỨNG
K
hi Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều khóc:
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này…”
Thúy Kiều cho Từ Hài là người có hai đức tính “trí” và
“dũng”. Ta không biết Tố Như có cho Từ Hải hai đức tính ấy hay không.. Chỉ biết
từ ngày Thúy Kiều gọi Từ Hải là “người đàn ông trí, dũng có thừa”, những người
đọc Kiều dường như chẳng mấy ai thắc mắc gì đến cái gọi là “trí, dũng” của Từ Hải.
Tôi thấy Từ Hải chỉ có dũng mà không có trí. Cho họ Từ có
dũng cũng đã là gượng ép. Từ Hải, với tư cách tướng quân, từng xưng vương, dù
chỉ là tiểu vương, đã không dũng ở việc chưa đánh đã đầu hàng dù biết hàng thần
lơ láo, sẽ bị khinh thị. Quan Vân Trường vì hoàn cảnh bắt buộc phải đầu hàng,
nhưng sau đó đã anh dũng lấy lại được danh hiệu dũng tướng; Từ Hải ngược lại, đầu
hàng và chết đứng luôn.
Không phải là mạt tướng cũng chẳng được là triều thần, Công tử
Hà Đông đã từng đầu hàng Việt Cộng. Những đêm dài lắm, sâu lắm thao thức trong
lầu Bát giác Chí Hòa thành Hồ, Công tử Hà Đông làm bài thơ vịnh Từ Hải:
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này”.
Dũng thôi, có trí nào vay?
Năm năm trời biển, một ngày chết oan.
Bờ sông, bãi cát bàn hoàn
Có nghe mồ lạnh cung đàn phu nhân?
Ấy ai tàn cuộc phong trần?
Ấy ai vân cẩu, xoay vần những ai?
Quân trung gươm lớn, giáo dài
Đội torng thị tập, cơ ngoài song phi
Sẵn sàng, tề chỉnh, uy nghi
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân
Phù vân… Chỉ là phù vân
Bá vương, hào kiệt, hàng thần… chiêm bao!
Mắt xanh, mặt ngọc, má đào
Râu hùm, hàm én đi vào hư vô
Ấy ai gây dựng cơ đồ
Ấy ai bể Sở, sông Ngô tung hoành.
Ấy ai nấm đất bên gành
Rầu rầu ngọn cỏ nửa xanh, nửa vàng!
Ca-nông nổ rung chuyển mặt đất, hê-li-cốp bay rợp trời quân
khu, các binh chủng trang bị võ khí tối tân nhất, đang đánh đâu thắng đấy như
chẻ trúc, đập ngói; quân ta sẵn sàng, tề chỉnh, uy nghi… Vậy mà tự nhiên ký giấy
đi đầu hàng! Trí dũng ở chỗ nào? Vương tướng gì mà kỳ cục kỳ cào đến cái nước ấy?
Tướng mà trí dũng cù lần như vậy thì chết đứng là cái chắc. Không những chỉ chết
đứng mà thôi, còn chết không nhắm được mắt.
Bố cu Từ bị Tố Như diễn tỏa cho trở thành lố bịch qua việc ảnh
dàn dựng cuộc đón tiếp vợ hết sức linh đình để rồi đầu hàng trống lơi, cờ rũ,
súng tịt hết sức bôi bác. Chỉ đón vợ thôi mà tướng quân cho kéo quốc kỳ, cho nổ
đại bác ầm ầm:
Kéo cờ lũy, phát súng thành
Từ công lên ngựa thân nghinh cửa ngoài.
Đúng là oai như hạch. Chỉ để đón nàng về dinh thôi mà Tướng
quân cho mở cả một chiến dịch dữ dội mùa hè đỏ lửa hết sức đao to búa lớn:
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương
Ngất trời sát khí mơ màng
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Tướng quân huy động đủ cả năm bunh chủng Hải, Lục, Không, Thiết
giáp, Công binh luôn cả Gia binh. Linh đình tốn hao huyết lệ của nhân dân như vậy
chưa đủ, Tướng quân còn sai cả chư tướng đi đón vợ. Không những chỉ sai một tướng,
người còn sai đến mười tướng:
Hai bên mười vị tướng quân
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Tôi từng thắc mắc về chuyện tại sao quân đội Từ Hải đang chiến
thắng lại thảm hại nhanh chóng đến như thế. Chi tiết mười anh tướng lãnh quân vụ
đi đón phu nhân trước sân phải quì gối, đặt gươm, cởi giáp, khấu đầu đến như thế
làm cho tôi biết tại sao quân Từ thua, tại sao Từ Hải chết đứng, tại sao Thúy
Kiều phải nhắm mắt nhảy xuống sông Tiền Đường…
Một lần nữa thiên tài Tố Như lại tiên ngôn cho chúng ta thấy:
Cái quân đội có những tướng hèn ngu đến như thế tất nhiên là thứ quân đội không
ra gì, trước sau gì cái quân đội ấy cũng đầu hàng. Anh tướng đón vợ rình rang
như Từ Hải tất nhiên là anh tướng đánh trận không khá, thứ tướng quân ấy chết đứng
là đúng thôi…
Than ôi! Đời xửa đời xưa có những người lòn trôn rồi trở
thành đại tướng. Lại có những người nếm phân rồi phục quốc…
Nhưng đó là chuyện đời xửa đời xưa…
Đời nay ta chỉ thấy những người làm tướng rồi lòn trôn. Và những
người nếm phân rồi ngậm miệng…
Kể ra Từ Hải cũng còn một điểm khá hơn nhiều người. Đó là điểm
Từ Hải chết đứng.
THÚY KIỀU TRẢ THÙ
Q
uá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao…
Đó là hình ảnh của Mã Giám Sinh. Hình ảnh ấy em đã biết, dù
em chỉ đọc Kiều ở những đoạn tả tình, tả cảnh mà em thích. Vì vậy, anh không cần
diễn tả thêm nữa về hình ảnh của Mã Giám Sinh cùng giới thiệu với em về y. Ở
đây anh chỉ viết cho em những gì về Kiều mà anh nghĩ rằng trước anh chưa có ai
viết và em chưa từng bao giờ đọc.
Em đã thấy Thúy Kiều, khi trở thành lệnh bà ở Hàng Châu, trả
thù Hoạn Thư: Thúy Kiều tuy tha chết cho Hoạn Thư nhưng cũng đánh cho thị một
trận nhừ tử dở sống dở chết. Tú Bà thì bị trói tròn như khúc gỗ, tẩm dầu vong
kín mít từ đầu đến chân, dựng ngược đầu xuống đất, làm cây đuốc sống, đốt cho đến
chết. Và đây là cảnh Mã Giám Sinh, tức Mã Quy, tức Mã Bất Tiến, bị lệnh bà trừng
phạt:
“Mã Giám sinh bị kẹp chân tay vào mấy cây gỗ, căng thẳng ra.
Quân sĩ dùng dao nhọn khoét da, moi những đầu gân của họ Mã ra. Rồi họ cho móc
câu vào móc gân làm cho thân thể họ Mã lúc đầu co rúm lại, cho đến lúc những sợi
gân bị đứt thì xác họ Mã rã rời ra từng mảnh. Phu nhân sai quan mang xác Mã
Giám sinh vứt xuống biển cho cá ăn.”
Bây giờ em coi đoạn phim video Thúy Kiều trả thù bọn Sở
Khanh, Bạc Hà, Bạc Hạnh:
“Cũng giống như Tú Bà, Sở Khanh bị trói tròn như khúc gỗ. Sở
Khanh cũng bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai kín mít nhưng không bị đốt như Tú Bà
mà bị để nằm đó cho chết dần. Dầu thông và keo vỏ gai làm cho thân xác Sở Khanh
một lúc sau trở thành một cây máu thịt đỏ lòm, bầy nhầy. Sở Khanh còn thoi thóp
nhưng chưa chết hẳn. Quân sĩ lấy nước vôi tưới lên, da thịt đẫm máu của Sở
Khanh nổi lên những bong bóng nổ lốp bốp. Một lúc sau nữa thì toàn hân Sở Khanh
chỉ còn là một đống máu mủ khủng khiép.
“Bạc Bà bị chặt đầu, đem thủ cấp treo ngoài viên môn. Bạc Hạnh
bị trói lại như khúc cây rồi bị cưa từ chân dần lên đến ngực. Thân xác Bạc Hạnh
bị cưa rời ra thành cả trăm mảnh. Sau đó phu nhân truyền đem thịt Bạc Hạnh trộn
vào cỏ cho ngựa ăn”.
Những đoạn văn trên trích trong tiểu thuyết chữ Hán Kim Vân
Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong truyện thơ Kiều, Nguyễn Du bỏ đi những chi
tiết ghê rợn này.
Em yêu ơi… Đành rằng những tên gây nên tội thì phải đền tội.
Và anh cũng chủ trương rằng cần phải trị tội những tên làm bậy để cho những tên
khác thấy thế mà kinh hãi, mà bới đi sự làm bậy, nhất là để cho những tên nắm
được quyền hành một thời lấy đó làm gương. Nhưng anh chỉ chủ trương trên lý
thuyết là phải trị tội chúng như vậy thôi, đến lúc thấy chúng bị hành tội thì
anh lại không thể nhẫn tâm. Thố tử hồ bi… Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ.
Loài vật còn biết thương yêu nhau, thương xót nhau… Có nhiều lúc anh thấy xấu hổ
vì loài người có nhiều tên – không phải là tất cả – không bằng được loài vật.
Đó là những lúc anh thấy những kẻ reo hò, nhảy múa, ca hát trên xiềng xích và
trên cái chết của người khác.
Em yêu của anh ơi… Nếu em là Thúy Kiều và nếu anh có thể
khuyên can được em, khi em phán quyết trả thù bọn làm hại em bằng những hình phạt
ghê rợn đến như thế, anh đã khuyên em đừng, em không nên… Đã đành là bọn Hoạn
Thư, Tú Bà, Mã Giám sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh có tội với em, chúng đã
làm em đau khổ, chúng đã hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác em và bây giờ khi em
đã lên bà, em có quyền giết chúng, em cũng chẳng nên. Anh không khuyên em bỏ
qua hay tha bổng chúng, em chỉ nên căng nọc chúng ra, đánh cho mỗi tên một trận
què lê lết rồi cho chúng sống nốt những ngày tàn, cho chúng thấm đòn. Như tên
Mã Giám sinh chẳng hạn. Nếu em để cho y sống, y còn mần ăn gì được nữa. Năm y đến
mua em với giá 400 cây vàng ở Bắc Kinh, em mười tám tuổi còn y quá niên trạc
ngoại tứ tuần tức là y đã ngoài bốn mươi tuổi rồi. Bây giờ là mười năm sau, khi
em trở thành phu nhân, em hai mươi bảy, hai mười tám cái xuân xanh mướt thì y
đã năm mươi mấy tuổi. Vốn là một gã phong tình đã quen… tuy ngoài năm mươi tuổi
nhưng quen nghề phong tình, rất có thể là tên Mã Quy, Mã Bất Tiến đó vẫn còn có
thể mần được những trò phong tình, em chỉ nên trừng trị y vào đúng cái chỗ y đã
dùng nó để phạm tội với em. Bắt nó để lên phiến đá, cho quân lấy cái chày giã
cua, hay lấy cái dùi trống cũng được, dần cho nó vài chục cái. Không cần nhiều,
chỉ cần độ ba chục cái thôi là nó buốt lên tới óc, xương sống nó rã rời, bao
nhiêu khớp xương, đầu gân của nó lỏng lẻo hết. Nó còn sống ngày nào là dư ngày ấy
thôi. Nó sẽ lử khử lừ khừ rũ riệt cho đến ngày nó chết. Hai tên Sở Khanh, Bạc Hạnh
cũng bị trị tội y như Mã Giám sinh. Em có thể gia giảm cho hai tên này đôi chút
vì chúng là những tên xếp hàng sau họ Mã. Trong cái hàng dài những tên nham nhở
can tội xâm phạm và dày vò cái “ngàn vàng” của em, Hồ Tôn Hiến là tên sau chót.
Nói đến cái “ngàn vàng” của em, anh muốn nhắc để em nhớ rằng
vào cái thời em đang tròn tuổi nguyệt, trần ai chưa lấm được thơ ngây, tức là
vào cái thời gọi là “Gia Tĩnh triều Minh, bốn phương phẳng lặng hai kinh vững
vàng” – năm 1555 sau Thiên Chúa – cái gọi là “ngàn vàng” của em nó có giá ghê lắm.
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Mã Giám sinh nó mua cái “ngàn vàng” của em với giá bốn trăm lạng.
Nhưng tới đây thì có sự không minh bạch; đó là bốn trăm lạng vàng hay bốn trăm
lạng bạc? Nếu bốn trăm lạng vàng thì đó là giá cao còn nếu là bốn trăm lạng bạc
thì giá trị cũng chẳng còn có mấy đâu. Cứ theo như bản tiều thuyết Kim Vân Kiều
của Thanh Tâm Tài Nhân mà anh đang tra cứu đây thì đó là “bốn trăm lạng bạc”
nhưng trong những bản Thơ Kiều của Nguyễn Du, tức là của ta, thì gần như tất cả
các bản đều in là “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm“, tức là “hơn bốn trăm lạng
vàng”. Thôi thì chúng ta cứ coi đó là vàng đi. Cho nó hách, Có phải đóng thuết
giờ nào đâu mà sợ.
Em yêu ơi… Nếu cái đó mà trị giá tới bốn trăm cây vàng thì quả
thực cao quá là cao. Nhất là so với thời giá bi giờ. Hiện nay cái đó chỉ là 100
đô, tức là chỉ có “vàng ngoài hai chỉ” thôi. Có đắt lắm, có thơm lắm, nó cũng
chỉ đến 500 đô, tức là “vàng ngoài một cây” là cùng.
Về trường hợp “xâm phạm Ngọc Long Cung” của em thì anh thấy Mã
Giám sinh có thể được hưởng sự giảm khinh. Bởi vì gã bị bắt buộc phải làm việc ấy.
Gã nói gã mua em về làm vợ bé thì khi làm xong mọi thủ tục mua bán, cưới xin,
khi đưa em bình yên về đến ôten thì gã phải làm thôi. Không có lý phải chờ tới
khi đưa em về tới Lâm Tri gã mới làm. Nếu gã không làm ngay việc đó ở Bắc Kinh,
em sẽ có lý do vững chắc như cua gạch để nghi rằng gã mua em về để dùng em vào
việc gì khác chứ không phải là dùng em với tư cách vợ bé của gã. Đây là bằng chứng:
Vả đây đường xá xá xôi
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
Đó là lời trong Thơ Kiều. Còn đây là ý nghĩ của Mã Giám sinh
trong truyện: Hiện nay mình chưa ra khỏi kinh thành. Đã đón nàng về đây rồi nếu
mình chẳng thành vợ chồng với nàng, sợ nàng về kể lại với cha mẹ nàng thì lôi
thôi to. Chi bằng ta hãy… Rồi khi về đến hành viện, sẽ dùng cách trang điểm lại
thì nói vẫn còn y nguyên, tiền mở hộp vẫn mấy trăm lạng vàng, có mất đi đâu đồng
nào. Vậy thì tại sao ta lại chẳng đi nước trước. Nếu mụ Tú có biết thì ta cũng
chỉ mất công quì gối một buổi là xong…
Em yêu ơi, anh thấy gần như tất cả – không, không phải gần
như tất cả mà là “tất cả” – những tên đàn ông quanh quẩn bên cái chỗ để ngồi của
Thúy Kiều đều là những tên nếu không ngu si, hèn nhát thì cũng tham lam, đểu giả,
tàn nhẫn. Kim Trọng thì “hoa thơm đánh cả cụm, yêu con chị dị luôn con em” –
yêu cái kiểu như Kim Trọng thì tên đàn ông hạng bét nào ở cõi đời này chẳng yêu
được – miệng thì rêu rao nhất định phải đi tìm Thúy Kiều cho bằng được mới
thôi, dù là phải “dấn mình trong áng can qua, vào sinh ra tử” nhưng vẫn cứ ở
nhà ôm đít Thúy Vân hưởng lạc thú cơm nhà, quà vợ… Thúc Kỳ Tâm sợ vợ đến cái độ
làm cho những anh sợ vợ nhất nhì cõi đời này cũng phải lắc đầu. Hồ Tôn Hiến dâm
đãng và tàn nhẫn, ti tiện nữa: Lão nhờ Thúy Kiều một phần mà được thành công,
nhưng khi thành công rồi lão có thèm thuồng “cho anh một tí…” cũng được đi,
song thay vì thỏa mãn mọi mặt rồi lão chỉ có việc cấp cho nàng cái vé xe đò,
cho xe jeep đưa nàng ra bến xe để nàng về Bắc Kinh đoàn tụ gia đình, lão cũng
không làm. Thay vì làm cái việc dễ làm đến như thế, lão lại muối mặt già giao
nàng cho một anh Thổ quan vô danh để anh này muốn làm gì nàng thì làm. Đến cả Từ
Hải là kẻ được tô son, vẽ phấn nhất cũng chỉ là một anh dũng phu không hơn
không kém. Những câu như “Hơn đời trí dũng, nghiêng trời uy linh” và “Khóc rằng:
Trí dũng có thừa…” đều là những câu ca tụng Từ Hải quá đáng và không đúng. Cái
cảnh Từ Hải sai những “mười vị tướng quân…” đi đón Thúy Kiều – không thấy nói
rõ là chuẩn tướng, thiếu tướng, trung tướng hay đại tướng… Chỉ biết một điều chắc
như bắp là những anh tướng chịu đi đón phu nhân kính cẩn như vầy thì khi đánh
nhau phải vô cùng anh dũng – Mười vị tướng quân mang giáp binh, tức là xe tăng,
thiết vận xa, rồi cung nga, thể nữ lóc nhóc một đống, rồi phượng liễn, loan
nghi, tức là cờ quạt, y phục, thêu hình chim phượng, chim loan. Khi phu nhân đi
thì dựng cờ, nổi trống, đội kèn đồng bu-dzích quân nhạc đi trước, xe Mercedes nạm
vàng chở phu nhân đi sau: “Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau“. Gác-đờ-co bảo
vệ yếu nhân chạy đầy đường. Khi vợ đến thì “Kéo cờ lũy, phát súng thành. Từ
công cưỡi ngựa thân chinh cửa ngoài…” tức là kéo quốc kỳ lên, nổ 21 phát đại
bác để… đón vợ. Chỉ cần xem cái cảnh Từ Hải đón vợ lố bịch, rởm đời như thế thì
bất cứ ai có óc phán đoán nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng cũng có thể biết rằng
lúc đánh nhau, Từ Hải sẽ loạng quạng đến như thế nào và việc Từ Hải chết đứng
là việc dễ hiểu thôi.
Nhưng hèn hạ đến như Mã Giám sinh thì là hèn hạ nhất đời.
Trong số ba tên ma cô khai thác thể xác thơm hơn múi mít của Thúy Kiều để kiếm
ăn thì Mã Giám sinh là tên hàn hạ nhất. Khi đến Bắc Kinh mua Kiều, Mã Giám sinh
ngoại tứ tuần. Tú Bà lúc đó chắc phải ngoại ngũ tuần. Tức là Tú Bà hơn Mã Giám
sinh khoảng mười tuổi. Và mụ đối xử với tên chồng em như đối xử với con mụ vậy.
Gã phạm tội là mụ bắt gã quì gối. Y như là bà mẹ xử phạt thằng con hư phá. Và
gã hoan hỉ chịu sự trừng phạt ấy, vì gã đã tính trước:
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quì là xong
Tất nhiên là tay chuyên viên tổ chức hành lạc như Tú Bà sẽ biết
ngay những việc Mã Giám sinh làm với người thiếu nữ gã có nhiệm vụ mang tiền đi
mua về. Và khi mụ biết, cơn tam bành của mụ sẽ ầm ầm nổi lên. Mã Giám sinh biết
rõ chuyện ấy hơn ai hết nhưng gã vẫn cứ làm. Với kinh nghiệm sống, gã ước lượng
trước hình phạt mà gã phải chịu: chỉ liều công mất một buổi quì gối. Nhưng cứ
xét theo tội trạng của họ Mã thì đúng ra gã chỉ phải chịu có một buổi quì là
xong hay là phải nhiều hơn? Bởi vì:
Kể từ đêm ở trú phường
Đến Lâm Tri một tháng trường mới thôi.
Lý do: đường xá xa xôi,
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công ba chục buổi quì mới xong.
Mã Giám sinh vốn là một gã phong tình, gã đã động được Kiều một
lần là gã sẽ động mãi. Đường gã đưa nàng đi từ Bắc Kinh về Lâm Tri mất đúng một
tháng. Ngày đi, đêm vào ô-ten, vững đến như ông Liễu Hạ Huệ cũng phải động, nói
gì đến gã phong tình chuyên nghiệp như Mã Giám sinh! Đằng nào thì gã cũng phạm
tội rồi, một lần hay ba bốn, năm bảy chục lần thì cũng dzậy thôi.
Công tử Hà Đông bèn tại ngục vịnh Mã Giám sinh:
Hỏi tên? Rằng: Mã Giám sinh
Hỏi quê? Quê ở huyện Lâm Thanh.
Mua đồ xài thử, anh vừa bụng,
Bán thịt ăn gân, mụ bực mình.
Em có lấy vua, mần thủ tướng,
Cũng nhớ thằng xưa nó phá trinh.
Mười lăm năm ấy bao anh sướng,
Đều xếp hàng sau Mã Giám sinh.
Bây giờ đến lượt tên hèn hạ thứ hai trong Kiều là Sở Khanh.
Anh bực bội khi thấy Nguyễn Du lạm phát danh từ “thư hương”. Sau khi tả anh con
nhà buôn “Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương“, Nguyễn Du lại cho một con người
thông minh như Thúy Kiều khi vừa nhìn thấy Sở Khanh đã “nghĩ rằng cũng mạch thư
hương“. Hình dạng của họ Sở cũng được diễn tả đại khái như hình dạng họ Mã:
“Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng” đồng nghĩa với “Mày râu nhẵn nhụi, áo
quần bảnh bao“.
Em yêu ơi, như anh đã viết: bọn đàn ông nói chung bị bôi gio
trát trấu trong truyện Kiều, những nhà thi sĩ chân chính cũng bị bôi bác vì
trong Truyện Kiều có hai anh làm thơ: Thúc Kỳ Tâm con nhà buôn và Sở Khanh ma
cô. Kể ra về mặt mần thơ Cóc thì Sở Khanh còn hơn công tử bột Kim Trọng những
năm bảy thành, vì Kim Trọng không mần thơ được, phải nhờ Kiều đề thơ vào bức
tranh gọi là “tranh tùng” song chắc là nó thuộc loại tranh sơn thủy hữu tình mà
em vẫn thấy bày bán ở vỉa hè Nguyễn Huệ thời em còn chiều thứ bẩy, sáng chủ nhật
trời trong dạo gót sen trên đại lộ này. Khi Kiều từ chối không chịu đi khách,
Tú Bà đưa nàng ra ở vi-la Ngưng Bích để chuẩn bị đưa nàng vào xiếc, đập tan ý
chí đề kháng của nàng, Kiều lên lầu nhìn ra và nàng chỉ nhìn thấy quanh nàng
toàn những cảnh buồn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…
Lúc ấy Kiều thấy “Chung quanh những nước non người. Đau lòng
lưu lạc nên vài bốn câu“. Chắc rằng nàng có ngâm mấy bài thơ ấy lên nên Sở
Khanh nằm vùng ở vi-la bên cạnh mới nghe tiếng và do đó gã mới mần thơ họa lại
để tán tỉnh nàng. Bởi khi Kiều “Ngậm ngùi rủ bức rèm châu” (thì) “cách tường
(nàng) nghe có tiếng đâu họa vần“. Và đây là bài thơ của Sở Khanh ma cạo. Cũng
đường luật như ai chứ bộ:
Lâu ngoại thùy gia thanh mấn ca
Tràng ngâm thanh cách bích đào hoa.
Sầu sâm bút đế đê ngưng yếu,
Oán hướng phong tiền khiếu khổ ta.
Viễn tiếp phương hương sân điệp phấn,
Vi thông u ý hỷ song sa.
Khanh tu liên ngã đa tài nghệ,
Ngã khước liên khanh vị phá qua.
Dịch nghĩa:
Nàng xuân nữ đẹp có mái tóc xanh ở lầu kia là người nhà ai?
Nghe tiếng nàng ngâm thơ ở bên bức tường hoa đào.
Nỗi sầu buồn ngưng đọng ở cây viết,
Niềm oán hận kêu than ở ngọn gió.
Hương thơm từ xa bay tới làm say con bướm,
Mừng khi thấy rằng qua tấm màn cửa ta hiểu nỗi lòng thầm kín
của nhau.
Em nên yêu ta vì ta có nhiều tài nghệ,
Ta yêu em vì em đẹp như trái dưa non.
Tài hoa đến như Bạch Cư Dị mà cũng chỉ dám tự giới thiệu một
cách hết sức khiêm tốn: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân. Tương phùng hà tất
tằng tương thức: Ta và em cùng là người luân lạc ở chân trời này. Đôi ta gặp
nhau, thương nhau cần gì phải quen biết nhau từ trước. Em đàn hay quá. Anh rất
chịu em đàn. Em hãy vì anh đàn thêm vài khúc nữa. Anh sẽ vì em làm bài Tỳ Bà
Hành. Để cho đời sau bọn chúng nó khi đọc bài Hành ghi lại cuộc gặp gỡ của đôi
ta ở bến Tầm Dương này, chúng nó sẽ một là mần thơ, hai là sẽ ngượng mà nghỉ mần
thơ luôn“. Tài hoa như Chu Mạnh Trinh khi tuyên ngôn tình yêu với Thúy Kiều
cũng chỉ nhận mình là người đa tình – đa tình thì ai cũng có thể tự nhận được,
chỉ cần chờ đợi sứ cố xảy ra để biết kẻ tự nhận đó có đa tình thật hay lại như
cậu Đỗ Mục tự bào chữa cho tội bạc tình của cậu bằng câu: “Đa tình khước tự tổng
vô tình: Đa tình nhiều lúc giống vô tình“…
Khác với Bạch Cư Dị và Chu Mạnh Trinh, ma cô Sở Khanh ngang
nhiên tự nhận gã là kẻ có nhiều tài nghệ và dụ dỗ Kiều: “Em nên yêu anh vì anh
có nhiều tài”… Cứ kể ra thì Sở Khanh cũng có nhiều tài thật, dù đó chỉ là những
tài vặt, song tài vặt cũng là tài. Có nhiều tên đàn ông chỉ cần có một cái tài
vặt thôi là đủ thành công với đời, Sở Khanh có tới ba bốn cái tài vặt. Trước hết
là tài sử dụng kế đà đao, hai là tài quất ngựa truy phong – câu này về sau trở
thành một thành ngữ diễn tả việc thỏa mãn rồi là chàng cho nàng rơi cái rụp –
tài trở mặt và tài làm thơ. Thơ mà ví người đẹp với “trái dưa non mơn mởn” thì
ngon lành nhất rồi. Ba tiếng “vị phá qua” trong thơ của thi sĩ Sở Khanh theo
như sự hiểu biết về tiếng Hán ăn đong của anh thì đó là quả dưa non hoặc quả
dưa chưa chín, chưa bị nứt. Ví von đến như vậy thì cũng chỉ có những thi sĩ
chân chính nhất cõi đời này mới có thể ví được. Công tử Hà Đông bèn có thơ vịnh:
Sở Khanh
Chải chuốt hình dong, mịn áo khăn,
Ăn chơi xuống dốc hóa chơi ăn.
Đà đao nghe mụ, hai tay lật,
Tích Việt lừa em, miệng một lằn.
Ba mươi sáu chước, chuồn là nhất,
Chín mười năm ấy, nợ còn căm.
Truy phong sẵn ngựa sao không quất?
Một nhát bà cho, hết đội khăn.
Em yêu dấu,
Nhân chuyện Sở Khanh, anh vừa nhắc đến Chu Mạnh Trinh, một
người làm thơ vịnh Kiều trước anh tới gần đúng 100 năm. Nhân đây anh kể em nghe
sơ qua về lịch sử những vụ làm thơ vịnh Kiều ở nước ta kể từ ngày Nguyễn Du viết
xong Truyện Kiều.
Theo số tài liệu ít ỏi mà anh có được trong Hoàng Hạc Lâu Ông
Tạ của anh thì Nguyễn Du mất tại Huế ngày 16 tháng 9 năm 1820. Cũng vào năm
1820, Truyện Kiều của Nguyễn Du được in thành sách. Trong bản Truyện Kiều in
năm 1820 có bài tựa của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân. Kể từ đó những bài
bình Kiều, luận Kiều và thơ Vịnh Kiều liên tiếp ra đời. Nhưng đó là công trình
của những cá nhân riêng lẻ. Đại hội bình luận vịnh Kiều có tính cách quốc gia đầu
tiên là do vua Minh Mạng tổ chức năm 1830. Nhà vua cùng các quan văn cùng làm
thơ vịnh Kiều và những thi phẩm này sau đó được in thành một tập gọi là Thanh
Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề vịnh tập biên. Năm 1871, vua Tự Đức tổ chức cuộc
làm thơ vịnh Kiều lần thứ hai. Năm 1905, Tổng đốc Hưng Yên tổ chức cuộc thi thơ
vịnh Kiều. Em yêu ơi, anh không nhớ tên ông Tổng đốc này là Từ Đạm hay Lê Hoan.
Nếu giờ anh ngừng viết để tìm chi tiết này thì chưa biết đến bao giờ anh mới viết
xong được cho em bài này. Vậy thì em cứ xính xái cho qua, em chỉ cần biết rằng
đó là cuộc thi thơ do Tổng đốc Hưng Yên tổ chức năm 1905 và Chu Mạnh Trịnh là
người chiếm giải nhất cuộc thi này. Đây là bài thơ Chu Mạnh Trinh vịnh:
Sở Khanh
Những tưởng chim lồng chắp cánh bay,
Họa khi vận rủi có hồi may.
Làng nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.
Hai chữ tin hồng trao gác nguyệt,
Một roi vó ký tếch đường mây.
Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió,
Cái nợ yên hoa khéo đọa đày.
Anh thấy hai câu “Làng nho người cũng coi ra vẻ; Bợm xỏ ai ngờ
mắc phải tay” là hai câu diễn tả Sở Khanh tuyệt cú mèo. Nghe nói rằng trong ban
giám khảo cuộc thi thơ Vịnh Kiều Hưng Yên 1905 có Nguyễn Khuyến. Và Nguyễn Khuyến
với Chu Mạnh Trinh không ưa nhau. Hai ông này cùng đỗ tiến sĩ, cùng làm quan
to, cùng yêu văn nghệ và cùng mần thơ. Hai ông chỉ không làm quan cùng thời với
nhau. Khi Chu Mạnh Trinh đang hiển đạt thì Nguyễn Khuyến đã già, đã về hưu.
Giám khảo Nguyễn Khuyến có phê vào bài Vịnh Sở Khanh của Chu Mạnh Trinh hai
câu:
Rằng hay thì thật là hay
Nho đối với xỏ lão này không ưa.
Nguyễn Khuyến không ưa việc Chu Mạnh Trinh dùng hai tiếng “bợm
xỏ” đối với “làng nho”. Hai vị tiền bối này tài hoa ngang nhau, mỗi người một vẻ,
chẳng ông nào kém ông nào. Song cứ như chuyện này thì anh thấy Nguyễn Khuyến có
vẻ quá đáng. Ông ta tự cho cái giới gọi là “làng nho” của ông là thập phần cao
quí, đối với “bợm xỏ” là làm mất giá trị của “làng nho”, dù đó chỉ là lời ví
von để làm nổi bật hình ảnh một gã đàn ông có hình dung nho nhã nhưng tâm địa lại
hết sức lưu manh, đểu cáng. Song Nho cũng có nhiều thứ Nho. Có Đại Nho, Hiển
Nho, Đạt Nho và cũng có Tiểu Nho, Ẩn Nho, Hàn Nho. Có Ngu Nho, Hủ Nho và cả
Khuyển Nho nữa. Có nho chùm, nho rời, ngọt, nho chua, nho xanh, nho tây, nho
ta… Cứ khăng khăng cho rằng đã là nho thì chỉ có nho thơm chứ không có nho thối
là thái độ thỉn cận và xuẩn ngốc. Nếu muốn người đời cho giới của mình là cao
quí thì hãy sống cao quí. Đỏ mặt tía tai, sùi bọt mép khi có người khác nói chạm
đến giới mình rồi thù hằn, tìm cách hãm hại người ta… là việc làm của bọn ngu
muội. Bọn ngu muội ấy sẽ là tai họa cho xã hội khi chúng nắm được quyền hành.
Em hãy nghe một thi sĩ khác làm thơ vịnh Sở Khanh trước năm
nay – 1992, năm anh viết gửi em những dòng này – tới 60 năm. Thi sĩ ấy là Tản
Đà:
Xỏ lá ai bằng cậu Sở Khanh,
Kiếm ăn lại ở đám lầu xanh.
Mảnh tiên “Trích Việt” vừa khô mực,
Vó ngựa “Truy Phong” đã phụ tình.
Thôi với thanh lâu người một hội,
Chẳng qua hồng phấn nợ ba sinh.
Ba mươi lạng bạc đời Gia Tĩnh,
Để mãi ngàn thu tiếng Sở Khanh.
Tản Đà còn xuất bản quyển Vương Thúy Kiều do ông chú giải.
Đây là đoạn thi sĩ nói riêng với Vương Thúy Kiều trong bài tựa:
Ôi em Kiều ơi,
Mười lăm năm trời!
Quan trải, tướng giặc trải, ba que xỏ lá trải, bán buôn Mường
Mán trải,
Bể trần chìm nổi, kiếp hồng nhan nặng nợ thế ru mà,
Cũng không nên trách lẫn trời xa, oán lẫn trăng già
Phải biết chữ tài chữ sắc là cái độc trong mình và là đồ chơi
cho người ta….
Em thấy đấy: chẳng phải anh là người đầu tiên gọi Thúy Kiều
là em. Nếu anh có nét gì khác những vị tiền bối vịnh Kiều trước anh thì đó chỉ
là: tất cả mọi người đều “tại gia vịnh Kiều” còn anh thì “tại ngục…”
TRĂM NĂM THỀ ĐẾN BAO GIỜ…
T
ruyện Kiều là tác phẩm có nhiều cuộc thề thốt nhất. Không phải
tất cả nhưng gần như tuyệt đại đa số nhân vật trong Kiều cứ mở miệng ra là y
như rằng thế, nguyền, cam kết, hứa hẹn.
Nhưng Truyện Kiều cũng là truyện tình trong đó những người thề
ít giữ được lời thề nhất. Có thể nói tất cả những nhân vật thề ước trong Kiều đều,
nếu không phản bội, cũng không giữ được lời thề.
Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Kỳ Tâm, ba nhân vật chính, thề thốt
thật nhiều. Mỗi lần họ thề là họ lấy thời gian “trăm năm”:
Rằng: “Trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi.
Tiên thề cùng thảo một trương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng, một lời song song.
Tóc tơ căn dặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
Đấy là những lời cô cậu Thúy Kiều - Kim Trọng thề thốt mí
nhau. Toàn đao to búa lớn: Trăm năm cưa, năm bảy năm hổng thèm đâu…
Cậu Thúc Kỳ Tâm sợ vợ vô đọich võ lâm cũng cứ mở miệng ra là
nói đến “trăm năm”. Thề nguyền đến như Công tử Vô Tích Chạp Phô kiêm thi sĩ Kim
Chỉ, Giải Rút đúng là thề vung xích chó:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông.
Nhưng khi cậu thấp cơ, thua trí đàn bà; vợ lớn của cậu bắt
cóc vợ bé của cậu đem về nhà hành hạ, cậu chỉ biết khóc hận, cười đau nhưng cậu
vưỡn cứ hung hăng con bọ xít:
Quản chi lên thác, xuống ghềnh
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Nhưng mà:
Tông đường chút lửa cam lòng
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Cậu rất muốn bỏ hết để đi với em đến những nơi cuối bãi đầu
ghềnh, sơn cùng thủy tận. Nhưng cậu chỉ muốn cái mồm thôi, cậu hổng đi. Lý do cậu
đưa ra để hổng đi mí em là một lý do yếu xìu:
- Tại vì anh chưa có con để nối dõi nên anh hổng thể nào đi
mí em được!
Lạ nhẩy! Anh hổng đi mí em vì anh chưa có con trai nối dõi?
Dzậy thì đi mí em anh hổng có con được hay sao? Tại sao anh cứ nhất định phải
có con mí Hoạn Thư mới được? Con Hoạn Thư đẻ ra mới là con anh, còn con em đẻ
ra hổng phải con anh sao? Hoạn Thư nó về làm vợ anh đã lâu rồi, ít nhất anh
cũng đã vất vả với nó năm mùa lá rụng. Mà nó vẫn chưa có con tức là còn lâu nó
mới có con. Còn em đây phới phới hơn nó nhiều. Bộ em không đẻ được con cho anh
nối dõi tông đường hay sao? Đừng có nói dzậy! Muốn em hổng đẻ thì hơi khó chứ
muốn em đẻ thì dễ ợt!
Thi sĩ tạp hóa Thúc Kỳ Tâm ngoài cái tật sợ vợ, còn thuộc loại
những anh chồng mà ông cha ta gọi là có hành động “bỏ vợ còn mó… tay theo”. Cậu
bảo ni cô bỏ chùa trốn đi cho mau, cho xa:
Liệu mà xa chạy, cao bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Nhưng cậu vưỡn cứ hy vọng một ngày đẹp trời, cậu và nàng sẽ lại
được đoàn tụ gia đình trong vòng trầy trật:
Bây giờ kẻ ngược, người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non.
Cậu còn nói lời cuối “Anh yêu em mãi mãi”:
Dẫu rằng sông cạn, đá mòn
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ
Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng tình anh yêu em vưỡn
còn mãi mãi. Đến lúc anh ngáp ngáp, anh vưỡn còn yêu em.
Anh yêu em nhưng bỏ vợ để đi mí em thì anh hổng đi. Thúc Kỳ
Tâm chưa được là “nhà buôn”, cậu chỉ là “con nhà buôn”. Cậu ăn chơi vung vít nhờ
tiền của anh bố ký cóp. Suốt đời cậu chẳng kiếm ra được một đồng xu teng. Cậu
chuyên khuân tiền nhà đi ăn chơi. Cậu là thứ phá gia chi tử chân chính. May cho
ông già Thúc Ông ba phải chưa đến số sập tiệm, ông chỉ mới vắng mặt ở cửa tiệm
Lâm Tri có nửa năm, ông mà láng cháng vắng mặt thêm nửa năm nữa là bao nhiêu vốn
liếng sẽ tiêu tán thoòng…
Thúy Kiều thề sẽ đợi chờ Kim Trọng suốt đời. Nhưng chỉ mới ba
tháng sau ngày Kim công tử về Liêu Dương áp tải quan tài, nàng đã:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Ôi Kim lang… Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Thúy Kiều không giữ được lời thề vì nàng là nạn nhân của tai
họa xảy đến với gia đình nàng, nàng là phụ nữ, nàng bị động. Bọn đàn ông thề và
phụ thề trong Kiều mới là bọn đáng ghét. Thúc Kỳ Tâm ba hoa:
Đường xa chớ ngại Ngô, Lào
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Nhưng khi vợ lớn cậu ra tay, hạ độc chiêu, cậu chỉ biết than
dài:
Thấp cơ thua trí đàn bà
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
Kim Trọng ngoài việc là chưởng môn Hoa Thơm Đánh Cả Cụm, còn
là một chuyên viên “mồm miệng đỡ chân tay”. Khi từ Liêu Dương trở lại vườn
Thúy, thấy Thúy Kiều đã lên xe bông về nhà chồng, cậu lăn đùng ngã ngửa, cậu giẫy
đành đạch như đỉa phải vôi. Cứ nghe cậu trình diễn nhiều màn thảm thiết làm người
ta tưởng cậu chết đến nơi:
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai.
Đau đòi đạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.
Cậu hung hăng thề - lại thề - loạn cào cào:
Bao nhiêu của, mấy ngày đàng
Còn tôi, tôi quyết gặp nàng mới thôi.
Thế rồi cậu về sửa sang chốn vườn hoa - vườn Lãm Thúy, nơi cậu
mượn điều du học hỏi thuê - cậu rước ông bà viên ngoại đến ở cùng nhà. Cũng kỳ.
Cậu lấy tư cách chi mà chiêu đãi, phục vụ ông bà Vương Viên Ngoại quá cỡ thợ mộc
đến thế? Ông bà Vương sau chuyến đi tù về hết nhẵn tiền bạc, nên sẵn sàng chịu
ơn một anh chàng chẳng có họ hàng, dây mơ rễ muống chi hết là chuyện thường
tình. Chỉ có điều hơi phiền là ông bà về ở chung mí anh thì em Thúy Vân nó cũng
theo về ở chung, ra vô đụng chạm. Anh ruột cũng hổng phải nốt. Khó ăn, khó nói.
Chi bằng con chị nó đi, con dì nó thế. Mà công tử thì đúng là sắp chết đến nơi,
sắp chết đến nỗi trên cái cõi đời này hổng còn ai có thể sắp chết hơn được nữa:
Sinh càng thảm thiết, khát khao
Như nung gan sắt, như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo don
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao…
Công tử khóc ghê quá, Công tử khóc đến ra máu ở mắt. Người đời
thường chỉ ho ra máu, ít thấy ai khóc ra máu như Công tử.
Phải cứu mạng Kim công tử khẩn cấp. Khóc ra máu như thế, lúc
tỉnh lúc mê như thế, Công tử ra nghĩa địa đến nơi rồi. Công tử ngoẻo củ tỉ là
cái chắc! Điều kỳ diệu xảy ra - chuyện thuộc loại khó tin nhưng có thật - ông
bà Vương Viên Ngoại không phải là lang thuốc nhưng lại bốc thuốc điều trị cứu mạng
Công tử rất mát tay. Ông già Vương trông lù khù thế mà hốt thuốc cao tay hơn cả
Hoa Đà, Biển Thước.
Vương lang băm chỉ bốc có một thang thuốc thôi, nhưng là
thang tiên dược, thần dược. Công lực của thang thuốc thần hiệu không biết đến
thế nào là cùng. Kim bệnh nhân đang mê sảng, khóc ra máu, mắt trợn trắng, miệng
ngáp ngáp, mấy ngón tay đã bắt chuồn chuồn, nằm thẳng cẳng ngay đơ cán cuốc…
Nhưng chỉ cần thang tiên-thánh-thần-nhân-dược này đưa đến là kẻ sắp vào quan
tài nhỏm ngay dậy đi hớt tóc, cạo râu, tắm, lên bộ com-lê ca-la-hoách, leo xe
bông đến nhà thờ cho cha làm phép cưới, cặp tay ôm eo ếch cô dâu cùng uống ly
rượu hôn phối ở nhà hàng rồi về ô-ten động phòng hoa chúc như máy…
Vương Viên Ngoại đã bốc thang thuốc thần sầu quỉ khốc nhân
kinh ấy cứu mạng Kim công tử. Đừng có mê tín thuốc tây, thuốc ta mới là số
dzách! Không phải tìm kiếm đâu xa, cái gọi là thuốc cải tử hoàn sinh ấy thường
có sẵn ngay trong nhà hay ở gần nhà. Anh nào có phúc là anh ấy gặp thuốc. Kim
công tử số chưa đến ngày hui nhị tì nên đã may mắn được gặp thang thuốc đó.
Đang sắp chết cậu tươi lại, tỉnh ra, đầu óc sáng như gương tàu, cậu hết còn mê
sảng, cậu dùng thuốc dài dài mỗi ngày và cậu học đâu nhớ đấy, học một biết mười.
Sau khi có thuốc được mấy niên, cậu đi thi bèn đỗ tiến sĩ.
Bi giờ Kim công tử không còn sắp chết nữa. Đôi khi công tử
cũng thoáng nhớ thương Thúy Kiều:
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng.
Công tử được cái hơn người là:
Khi ăn ở, lúc ra vào
Càng vui duyên mới, càng dào tình xưa.
Điều này có nghĩa là cậu càng dzui mí Thúy Vân chừng nào thì
cậu lại càng nhớ thương Thúy Kiều chừng ấy. Chung tình đến như cậu mới thiệt là
chung tình.
Công tử thề nhất quyết phải được gặp lại Thúy Kiều dù phải tốn
bao nhiêu tiền của, mất mấy ngày đàng. Nhưng ta thấy công cuộc tìm kiếm người mất
tích trong khi thi hành công vụ của cậu có vẻ hơi lửng lơ con cá vàng theo kiểu
làm cho có:
Đinh ninh mài lệ, chép thư
Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe
Biết bao công mượn của thuê…
Công thì cậu mượn người khác làm. Tiền cậu bỏ ra thuê người
khác thế, cậu ở nhà cậu phục thuốc mỗi ngày. Dường như Tố Như, người từng ca tụng
Kim công tử với những lời hết xẩy: “Thông minh tài mạo tót vời. Vào trong phong
nhã, ra ngoài hào hoa” và “Văn chương nét đất, thông minh tính trời” đến những
đoạn về sau cũng có ý phê phán thái độ tìm kiếm bôi bác và “hoa thơm đánh cả cụm”
của đương sự. Ta thấy ẩn ý của Tố Như trong hai câu:
Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe
Biết bao công mượn, của thuê…
Tìm kiếm, tìm gấp, tìm kỹ, tìm ra, tìm dzô, tìm về, tìm đi,
tìm vợ, tìm hiểu, tìm chỗ, tìm vết… v… tìm gì cũng được nhưng “tìm tõi” nghe mới
bôi bác làm sao! Đã “tìm tõi” lại còn “nhắn nhe”… Nhắn tin, nhắn miệng, nhắn nhủ,
nhắn gì cũng được nhưng “nhắn nhe” nghe hổng được chút nào!
Việc dượng Kim Trọng lấy dì Thúy Vân không có gì xấu hay đáng
chê trách hết. Không những không phải là việc xấu, việc đáng chê trách mà còn
là việc làm thông thường của tất cả những ông anh rể quí trên cõi đời này. Những
ông anh rể này không những chỉ thương yêu vợ mình mà còn thương yêu luôn cả hằm
bà lằng những cô em vợ. Nhưng khi đã “vui duyên mới” rồi thì cậu không nên
trình diễn những màn “dào tình xưa” nữa. Nhất là cậu đừng có mở miệng nói những
câu đao to búa lớn:
Bình bồng còn chút xa xôi
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an.
Rắp mong treo ấn, từ quan
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha.
Giấn mình trong áng can qua
Vào sinh, ra tử họa là thấy nhau.
Cậu dọa treo ấn từ quan nhưng cậu hổng có làm thật, còn lâu cậu
mới từ quan, treo ấn. Còn chuyện giấn mình trong áng can qua thì cậu giấn mồm
thôi. Sức mấy cậu chịu liều mạng công tử bột vào sinh ra tử tìm Kiều.
Cậu mặt trơ trán bóng chạy tội bằng mấy câu:
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu
Bóng chim, tăm cá biết đâu mà tìm.
Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời.
Chèng đéc ơi! Nấn ná là năm bữa nửa tháng, một hai niên…. Nấn
ná những đến mười lăm mùa lá rụng thì còn gì là tuổi xuân của con nhà người ta
nữa? Sốt sắng bảo lãnh thì chỉ năm năm là đoàn tụ với nhau rồi. Nấn ná đến mười
lăm niên mới chi vé máy bay cho em sang thì “còn tình đâu nữa, là thù đấy
thôi”…
Thiên hạ nặng lời thề thốt, hễ mở miệng ra là “trăm năm”:
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Rằng
trăm năm cũng từ đây. Trăm năm tính cuộc vuông tròn… Không những xài vung xích
chó chữ “trăm năm”, người ta còn khiêng cả “ngàn năm” vào cuộc tình của người
ta nữa: Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ…
Nhưng chỉ số thời gian của những nhân vật Kiều không phải là
“trăm năm” mà dài lắm chỉ vài năm, ngắn là nửa năm. Thời gian “nửa năm” được
dùng thật nhiều trong Kiều:
Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô, cành bích đã chen lá vàng
Giậu thu vừa nẩy giò sương
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
Kỳ Tâm đến với Thúy Kiều ờ lầu Ngưng Bích những ngày đầu
xuân, đưa nàng ra khỏi vòng khai thác của Tú Bà vào mùa hạ. Bây giờ là mùa thu,
Thúc ông được tin cấp báo anh con bốc trời ăn chơi phá của quá cỡ thợ mộc vừa lấy
cô vợ chơi bời, bèn hỏa tốc phóng xế về Lâm Tri phá đám:
“Nửa năm hơi tiếng vừa quen” là nửa năm đầu tiên trong Kiều.
Thúy Kiều xuống giá cùng với thời gian. Mã Giám sinh mua nàng
với giá bốn trăm lạng. Thúc Kỳ Tâm chuộc nàng với khoảng ba trăm lạng. Đến Từ Hải
thì giá nàng chỉ còn khoảng trên dưới hai trăm. Nhưng thời gian Từ Hải sống
chung với nàng thì vẫn thế, vẫn chỉ là “nửa năm”:
Nửa năm hương lửa đang nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Kỳ Tâm - Kiều nửa năm. Từ Hải - Kiều sáu tháng. Thời gian của
cậu Kim Trọng mới thật ly kỳ. Khi tạm biệt Kiều để về Liêu Dương hộ tang ông
chú lắm chuyện bày đặt đã không có con lại lăn đùng ra chết ở nơi xứ lạ quê người
bắt anh cháu đưa đón, Công tử đau khổ hẹn nàng:
Ngoài nghìn dặn, chốc ba đông
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Ta thấy rõ ràng Công tử nói: “Anh phải xa em đến ba mùa đông.
Em chịu khó giữ nguyên chờ anh trở lại…” Nhưng sau đó ta lại thấy:
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà
Vội sang vườn Thúy dò là…
Như vậy là đáng lý phải xa cây mít vườn Thúy đến ba niên,
Công tử chỉ làm công việc phù tang qua quít - tiếng Tây bồi gọi là “qua loa rơ
măng” - trong có sáu tháng là phú lỉnh trở về vườn Thúy. Kể ra công tử làm như
dzậy cũng đúng thôi. Hộ tang gì mà đến những ba niên? Quá ư lãng phí thời giờ
vô ích. Đến cái năm Gia Tĩnh triều Minh ấy, xã hội Ba Tàu đã tiến bộ văn minh rồi.
Nam nữ không còn bị kềm kẹp trong những phong tục cổ hũ di truyền từ đời những
ông Khổng Khâu, Mạnh Kha mới cưới vợ. Qua tác phẩm Kim Vân Kiều, ta thấy trai
gái đời Gia Tĩnh triều Minh không còn tuân thủ cái luật gọi là “nam nữ thụ thụ
bất thân” nữa. Kim Trọng - Thúy Kiều đã công khai gặp nhau ở nghĩa địa. Thời
gian lúc ấy là buổi chiều tà tà bóng ngả về tây nhưng chiều tà cũng vưỡn là
thanh thiên bạch nhật. Trinh nữ Thúy Kiều còn văn minh hiện đại hơn rất nhiều
em trinh nữ Mít thời nay - những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi trần ai
khoai củ - với việc nửa đêm nàng chui hàng rào sang vi-la Kim Trọng tự tình, thế
thốt, ký hợp đồng hai chiều, cắt tóc, uống rượu, mần thơ, gảy đàn, lả lơi, xiêu
xiêu v.v…
Nếu cứ theo đúng luật pháp cư tang do những ông nho chùm đời
xửa đời xưa để lại thì lôi thôi, rắc rối đến cái độ người ta chẳng còn mần ăn
chi được. Bố mẹ chết là anh con phải cư tang ba niên. Cư tang như thế nào? Phải
sống như thế nào khi cư tang? Kể sơ thôi cũng thấy rợn tóc gáy, ớn cả da gà lẫn
da vịt:
Phải làm nhà lá che phên cạnh mộ bố mẹ, phải ăn ngáo ở đầy liền
tù tì trong ba niên. Trong ba niên ấy không được ăn thịt, uống rượu, cười cợt;
không được đàn ca hát xướng - tất nhiên cư tang mà xem video, nghe CD là không
được. Không được cả tắm, rửa mặt, gội đầu, đánh răng súc miệng trong ba niên.
Xin nhắc lại: ba niên. Nặng nhất, tàn ác nhất, đau thương nhất là trong ba niên
cư tang dài đằng đẵng hơn ba mươi thế kỷ ấy, anh con cư tang không được gần vợ
lớn, vợ bé lẫn tình nhân. Nếu trong ba niên cư tang mà anh nào vô phúc làm vợ lớn,
vợ bé có chửa là cuộc đời đi vào chu kỳ đen hơn mõm chó mực. Phạm cái tội bất
hiếu tày trời này, can phạm sẽ bị dư luận chê bai. Nếu là thư ờng dân thì bị
quan cai trị địa phương bắt nộp phạt. Nếu là quan lại tại chức mà phạm tội sẽ bị
các ông Ngự sử đàn hặc, tâu lên nhà vua; đang là thái thú, thứ sử, tư mã, có thể
bị giáng xuống chức chấp kích lang mặc áo dấu, đi chân đất, vác kích, súng hỏa
mai, đứng ghếch cửa….
Nhưng… như đã nói, may quá, đó là chuyện đời xưa. Bỉ nhất thời,
thử nhất thời… Đời ấy khác, đời này khác. Bộ hình luật cư tang ác ôn côn đồ ấy
đã bị thủ tiêu nhẵn thín, còn chăng là trong những trang sách sử mốc thếch chẳng
ai thèm đọc; có đọc, có viết lại thì cũng chỉ với mục đích nhắc cho nhau nhớ thời
đại chúng ta con người đã sung sướng lắm rồi. Ít nhất những anh con chí hiếu đã
có thể để tang, thương nhớ bố mẹ trong trái tim, cư tang suốt đời chứ không còn
giới hạn ba niên ngắn ngủi nữa. Thực ra bọn đàn ông hèn nhát đã không có can đảm
tự cởi bỏ những gông cùm, xiềng xích cư tang nếu không có những người đàn bà đứng
sau lưng thúc đẩy họ. Những người phụ nữ đã dũng cảm quyết liệt phản đối cái luật
ép buộc chồng, tình nhân của họ ba niên không được rửa mặt, gội đầu, xem xi-nê…
Sự kiện rõ ràng, không cãi bàn chi được là Kim Trọng đáng lẽ
phải hộ tang xa ngàn dặm đến ba niên - như chính lời cậu nói - chỉ hộ tang có nửa
năm là dzọt lẹ trở về Vườn Thúy.
Thời gian trong Kiều thực tế là mười lăm năm:
Mười lăm năm, tám cuộc tình
Bốn tên chết bởi cô mình oan gia…
Tuy người ta luôn miệng nói đến “trăm năm” nhưng trước sau,
dài ngắn chỉ là mười lăm năm thôi. Trong mười lăm năm ấy có ba cái “nửa năm”:
Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô, cành bích đã chen lá vàng
Nửa năm hương lửa đang nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phư ơng.
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Công tử Hà Đông tại ngục Chí Hòa vịnh Kiều, tính thời gian
thiên hạ nói: “trăm năm” nhưng yêu nhau không dài quá năm năm: Thúy Kiều - Kỳ
Tâm hai niên. Thúy Kiều - Từ Hải năm niên. Thiên hạ nói thì nhiều xong yêu chẳng
bao nhiêu. Cảm khái, Công tử bèn mần thơ:
Mấy thu trăng đến chùa này
Mấy thu em ở, một ngày em đi.
Tình đi, người cũng từ ly
Vàng phai, đá nát còn gì nữa đâu.
Mấy thu trăng đứng trên đầu,
Mấy thu tơ đã phai màu vàng tơ.
Trăm năm thề đến bao giờ
Mấy thu người đã hững hờ chia tay.
THỀ SAO THÌ LẠI CỨ SAO…
N
hững nhân vật phụ trong Kiều cũng thề nguyền vung tán tàn. Cả
ba anh Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh đều sẵn sàng thề nguyền và thề thật nặng.
Đây là lời Mã Giám Sinh thề với ông bà Vương Viên Ngoại: “Nếu Mã Quy đem lòng
phụ bạc lệnh ái thì thân này sẽ bị đao kiếm băm vằm ra muôn mảnh…”
Đây là lời thề của Sở Khanh: “Nếu ta phụ bạc nàng hay để cho
nàng bị khổ nhục thì thân ta sẽ bị muôn ngàn sâu bọ đục khoét tơi bời…”
Và đây là lời thề của Bạc Hạnh: “Nếu tôi phụ bạc Vương Thúy
Kiều tôi sẽ chết dưới một ngàn mũi đao…”
Tố Như chỉ tả sơ sơ cuộc ân đền, oán trả của Vương phu nhân
chánh án tự phong:
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi, thịt nát tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời.
Mơ hồ thôi. Nhưng nếu đọc tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh
Tâm Tài Tử, ta thấy cuộc trả thù cực kỳ rùng rợn. Dưới đây là đoạn trích trong
tác phẩm Truyện Kiều đối chiếu, bản dịch tiếng Việt của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm,
sách do nhà Văn Hóa - phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa Việt Nam Cộng Hòa xuất
bản năm 1971:
Một hôm Thúy Kiều kể những chuyện ân oán đến với nàng ở thành
Lâm tri, Từ Minh Công nói:
- Ta sẽ cho năm vạn tinh binh đến quét sạch cái thành đó để
trả thù cho phu nhân.
Thúy Kiều vội thưa:
- Chỉ có mấy tên Mã Bất Tiến, Tú Bà, Sở Khanh có tội mà thôi.
Xin Đại vương ra lệnh cho tướng sĩ nhất thiết không được làm hại ai khác.
Từ Minh Sơn sai kiện tướng Sử Chiêu lãnh việc tế tác, mang một
tiểu đội biệt kích giả làm thường dân vào thành Lâm Tri do thám. Đội biệt kích
này phục sẵn quanh nhà Tú Bà, chở đại binh đến là ập vào bắt sống bọn tội phạm
đem về xử. Sai Đại tướng Hạ Báo lãnh một đạo quân đến huyện Vô Tích bắt Hoạn
Thư và bà mẹ là Kế Thị, bắt bọn gia nhân Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển và hai tên Bạc Hạnh,
Bạc Bà, vãi Giác Duyên ở Chiêu Ẩm am, bà quản gia nhà họ Hoạn thương xót Hoa Nô
lén cho bông băng, cho thuốc, được lệnh quân mời đến như thượng khách.
Ngày tổng khởi binh tiến đánh Lâm tri, Từ Hải dành cho Thúy
Kiều chủ tọa việc trọng đại là thệ sư. Truyện tả:
“Vương phu nhân đứng trên đàn rót rượu thệ sư, tướng sĩ nhất
tề quì gối. Phu nhân khấn:
- Trời thẳm, đất dày xét cho lòng tôi. Núi cao, sông dài xin
biết dạ này. Tôi là Vương Thúy Kiều, không may cha bị vu oan, phải bán mình chuộc
tội, gặp phải bọn Mã Bất Tiến, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thị, Kế Thị, Bạc Hạnh, Bạc
Bà bày mưu hãm hại. Nay nhờ uy linh Từ công, cất quân báo thù. Trước xin cáo với
trời, đất, thần minh; sau xin xuất phát. Toàn thể ba quân chớ ngại cần lao, hãy
vì ta mà phấn khích…
Hồi trống hiệu nổi lên, đội binh sĩ cầm cờ màu làm hô lớn:
- Giải bọn phạm nhân Vô Tích vào tòa.
Hạ Báo dẫn Hoạn Thư, Kế Thị, Khuyển, Ưng, Bạc Bà, Bạc Hạnh
vào quì dưới sân.
Vương phu nhân chánh án tuyên bố tội trạng:
- Mụ Bạc đẩy người vào cạm bẫy, tên Bạc Hạnh bán người lương
thiện vào nhà bất lương. Chặt đầu mụ Bạc nêu lên ngọn cây, tên Bạc Hạnh sẽ chịu
tội theo đúng lời thề của mi. Mi sẽ bị đao kiếm băm vằm nát thân thể, lấy thịt
đem cho ngựa ăn.
Đao phủ dạ ran, lập tức lôi Bạc Bà ra chặt đầu. Bạc Hạnh bị
bó chiếu tròn như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt. Đao phủ dùng cưa cưa
Bạc Hạnh từ chân lên đầu thành hơn một trăm đoạn. Xong, đem thịt Bạc Hạnh trộn
với cỏ cho ngựa ăn.
Kế đó gọi đến phạm nhân Hoạn Thư.
Hoạn Thư gục đầu trên sân lạy van:
- Xin phu nhân tha mạng cho con đàn bà hèn hạ này…
Vương phu nhân nói:
- Hoạn tiểu thư… Ta cũng phải nhận chị là người nhiều mưu chước
và có gan chịu đựng. Nhưng ở đời người ta đối xử với nhau còn có chút tình. Nay
chị gặp lại ta nhất định không thể sống được.
Hoạn Thư khấu đầu lia lịa:
- Tội của tiện thiếp thật đáng muôn chết. Chỉ xin phu nhân nhớ
lại giùm. Khi phu nhân viết tờ cung trạng tiện thiếp cũng động lòng thương xót,
tiện thiếp đã để phu nhân ra viết kinh, niệm Phật ở Quan Âm Các. Rồi khi phu
nhân bỏ đi, tiện thiếp không cho đuổi theo. Qua những việc làm ấy, chắc phu
nhân cũng thấy trong lòng tiện thiếp vẫn kính yêu phu nhân chỉ vì chuyện chẳng
đặng đừng xui tiện thiếp gây nên tội lỗi.
Vương phu nhân suy nghĩ rồi phán:
- Ta chỉ muốn lột da chị, ăn thịt chị để tiêu mối hận của ta.
Nhưng chị nói cũng đúng. Nay ta tha chết cho chị vì khi ta đi chị đã không đuổi
theo. Nhưng còn tội sống thì chị phải chịu.
Phu nhân lại nói:
- Những tên nào sang Lâm Tri bắt cóc ta? Khai thực đi. Những
tên đó sẽ gành bớt một phần tội lỗi cho chị.
Hoạn Thư cúi đầu thưa:
- Tiện thiếp sai hai gia nhân Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng sang Lâm
Tri. Nhưng chúng chỉ là bọn thi hành mưu kế. Người chủ mưu là tiện thiếp. Chúng
chỉ làm theo lệnh tiện thiếp. Nếu bắt chúng gánh tội thay thì tiện thiếp không
nỡ.
Phu nhân khen:
- Khá lắm. Đến lúc này chị còn dám nhận hết cứu oán vào một
mình chị ư?
Phu nhân truyền đao phủ đem hai tên Ưng, Khuyển ra chém đầu để
cảnh cáo bọn hào nô, làm tiền án răn đe không cho bọn nô bộc hung hãn cậy thế
nhà chủ, theo lệnh chủ, làm hại người khác.
Phu nhân truyền đánh Kế Thị - tức Hoạn bà, mẹ Hoạn Thư, vợ cố
Tể tướng - ba mươi roi. Hoạn bà bị nọc cổ ra bắt nằm sấp. Hoạn Thư ôm chầm lấy
mẹ xin chịu đòn thay. Mụ quản gia, người có ơn nghĩa với phu nhân năm xưa khi
phu nhân là Hoạn nô, cũng quì xuống xin:
- Kính thưa lệnh bà, tội của bà chủ tôi thật không thể tha thứ.
Tôi là tôi tớ của chủ tôi, xin được chết thay cho chủ.
Phu nhân phán:
- Vì bà quản gia, ta tha cho mụ Hoạn. Bà lãnh mụ đi khuất mắt
ta.
Mụ quản gia tạ ơn, rồi vựa Hoạn bà ra ngoài tòa. Hoạn bà tuổi
đã ngoài sáu bó, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, cả đời không bao giờ bị cực
khổ đến thân, nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến Lâm Tri, chịu bao nhiêu khổ
sở, lại thấy cảnh chém đầu, cưa thân người quá đỗi ghê gớm nên tuy được tha vẫn
đứng tim chết ngay. Mụ quản gia đành ngồi canh thi thể bà chủ.
Phu nhân truyền lệnh cho bọn cung nữ trị tội Hoạn Thư bằng
cách lột trần, treo lên, đánh một trăm roi.
Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ
để một cái khố. Tóc Hoạn Thư bị buộc lên cây xà ngang, hai tay, hai chân bị buộc
dây kéo dang ra. Hai cung nữ khỏe mạnh cầm roi ngựa. Một em đứng trước, một em
đứng sau, cứ thế quất roi lên trước mặt, sau lưng Hoạn Thư.
Hoạn Thư như con đỉa bị bỏ trong thùng vôi, như con lươn
trong nồi nước nóng, quằn quại, rên la. Toàn thân trước sau chẳng còn miếng da
nào lành lặn.
Cung nữ báo cáo đã đánh can phạm đủ một trăm roi, phu nhân
truyền lệnh đưa can phạm ra cho chồng nhận lãnh.
Cung nữ cởi tóc Hoạn Thư, lôi ra ngoài giao cho Thúc Kỳ Tâm.
Thúc Kỳ Tâm thấy Hoạn Thư toàn thân rách nát, chỉ còn thoi thóp thở, bèn cảm
khái mà than rằng:
- Em ơi, cái thông minh sắc sảo của em nó làm em rước tai họa
vào thân. Tự em cầm dao cắt thịt em đấy.
…..
Cai tù giải bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh vào tòa.
Phu nhân ngồi trên cao hỏi xuống:
- Tú Bà, mi có biết ta là ai không?
Tú Bà quì mọp:
- Thưa lệnh bà, tôi không được biết.
Phu nhân thét:
- Ngóc đầu lên nhìn xem ta là ai…
Cai tù túm tóc Tú Bà kéo giật ra đằng sau. Tú Bà nhìn lên mới
nhận ra lệnh bà là Vương Thúy Kiều:
- Xin lệnh bà tha cho…
Phu nhân cười lạnh:
- Lúc này mi còn mơ tưởng đến chuyện sống ư? Lời mi thề với
ta năm xưa mi quên rồi sao?
Lệnh bà truyền:
- Lôi con mụ này ra, lấy dầu nhựa tông đun sôi tẩm lên người
nó, dựng ngược đầu nó xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn
trời đúng như lời nó thề ngày trước.
Mã Bất Tiến - tức Mã Giám Sinh, tội nhân đứng đầu bảng can phạm
Lâm Tri - bị kẹp chân tay vào những mảnh gỗ, căng thẳng, bị đao phủ dùng dao rạch
da, moi gân ra cắt cho toàn thân rã rời đúng với lời gã thề.
Trong sân tòa án còn một vạc dầu thông trộn vỏ cây gai nấu
sôi sùng sục, một vạc nước lạnh. Sở Khanh bị lôi đến giữa hai cái vạc này, bị lột
quần áo, trói quì vào cây cột. Một cai tù múc dầu thông sôi tưới lên người Sở
Khanh, một cai tù múc nước lạnh tưới theo.
Tú Bà bị quấn thành cây sáp lớn, Mã Giám Sinh bị căng xác, Sở
Khanh trần truồng bị trói như con heo chờ đợi nước sôi cạo lông.
Vương phu nhân ban lệnh:
- Hành hình…
Lửa được châm vào cây sáp Tú Bà.
Mã Giám Sinh bị khoét thịt, đao phủ dùng lưỡi câu móc gân ra
cắt. Xác Mã Quy bị quăng ra biển cho cá nóc ăn.
Sở Khanh bị tưới dầu nhựa thông sôi rồi tưới nước lạnh, thân
thể biến thành cây thịt bầy nhầy máu mủ. Quân sĩ bóc miếng vỏ gai trên đầu gã
xem gã còn sống hay đã chết, óc gã nhoe nhoét chảy ra ngoài…
Trạc Tuyền em có…
Bọn bất lương ác ôn chúng nó hại đời em, chúng nó làm hại đời
em, chúng nó làm em đau khổ, em trả thù chúng nó khi em lên bà cũng được đi.
Nhưng em trả thù mà em hành hạ chúng khủng khiếp đến như thế cũng là quá đáng đấy.
Vương Thúy Kiều tài sắc, trinh nữ, đa tình, đàn địch, thơ
phú… bị lường gạt, bị gã lưu manh dân đãng hạ cấp phá trinh bị bắt làm gái chơi
không phải là một lần mà những hai lần. Kiều bị bắt cóc, bị đánh đến tóe máu,
phải tự tử đến những hai lần - một lần dao đâm cổ, một lần nhảy sông. Bị bắt
làm con hầu, đày tớ, Vương Thúy Kiều có quyền trả thù nhưng làm cho kẻ thù phải
đau đớn quá chừng thì cũng không nên, huống chi là ni cô Trạc Tuyền.
Ni cô cũng hai lần ở chùa gõ mõ tụng kinh. Một chùa Quan Âm
các, một chùa Chiêu Ẩm am. Không những chỉ ở chùa đốt nhang đèn, gõ mõ, tụng
kinh, ni cô còn chép kinh nữa. Ni cô tu ba niên ở Quan Âm các, ít nhất cũng một
niên ở Chiêu Ẩm am. Bốn mùa lá rụng chứ có ít ỏi gì đâu. Tốn biết bao nhiêu
nhang đèn. Nghe nói ni cô thông tuệ khác thường chắc ni cô phải thấm nhuần ít
nhiều giáo lý từ bi hỉ xả nhiệm màu của đạo pháp. Cũng nghe nói ni cô đã được
giọt nước cành dương tưới tắt hết mọi lửa lòng. Vậy mà sao ni cô lại hành hạ
người ta tàn ác quá đến như thế?
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
Khi chưa dzô cửa thiền, ni cô đã biết chân lý ấy. Người khác
hành hạ, tra tấn ni cô làm ni cô đau đớn, ni cô cũng hành hạ, tra tấn người
khác làm cho họ đau đớn thể xác hơn ni cô gấp bội. Vậy thì oan trái làm sao mà
giải được? Ni cô phải đánh đàn cho nó nghe, chuốc rượu cho nó uống, phục vụ nó
trong giường, rồi ni cô nhảy sông tự trầm là đáng lắm…
Sợ thay cho Thúy Kiều! Nợ máu kiếp này em không trả, em phải
trả kiếp sau. Công tử Hà Đông bùi ngùi nghĩ đến chuyện phải chi lúc lệnh bà
đang hung hăng con bọ xít hành hạ bọn Mã, Tú, Sở, Bạc… Công tử gọi nàng một tiếng:
-Trạc Tuyền!
Biết đâu nàng lại chẳng “hoắc nhiên đại ngộ” mà tha chết cho
bọn tội nhân, nhờ vậy nàng thoát được cái gọi là nợ máu, tiền oan, túc trái. Biết
đâu đấy? Kinh điển ghi chép chuyện có nhiều sư ông tu hành cả đời không biết
mùi thịt đàn bà, da con gái ra nàm thao nhưng vưỡn cứ u mê mờ mịt. Bỗng một hôm
sư ông quét vườn sau chùa, cây chổi quét mảnh sành văng vào gốc trúc, phát ra một
tiếng “keng”. Thế là sư ông “hoắc nhiên đại ngộ” và sau đó nghiễm nhiên trở
thành bồ tát.
Chuyện có thật mới được ghi vào kinh điển để lại cho đời sau
chứ. Phải tin. Không tin là báng bổ. Vậy thì chỉ một tiếng mảnh chai văng dzô gốc
tre và một tiếng “keng” thôi, sư ông kiếp tu hành nặng như đá đeo còn “hoắc
nhiên đại ngộ”, huống chi cả một tiếng kêu thảng thốt:
-Trạc Tuyền!
Tiếc thay, Công tử Hà Đông đã không kêu lên được tiếng ấy cho
nàng tỉnh ngộ. Rất có thể lúc ấy Công tử đang tá hỏa tam tinh, tối tăm mặt mũi,
tay chân lập cập, đầu gối lỏng le lỏng lét, ngồi chồm hổm bên cạnh thân xác nát
bét của em Hoạn Thư…
Điều biết chắc là đã không có ai gọi lớn tiếng “Trạc Tuyền”
bên tai Chánh án Vương Thúy Kiều. Vì không ai gọi nên không có tiếng gọi, vì
không có tiếng gọi thiêng nên Vương Thúy Kiều Trạc Tuyền đã không có cơ duyên
“hoắc nhiên đại ngộ” mà quên hết oán thù, tha bổng tất cả các can phạm. Nếu
nàng làm thế nàng đã không phải nhắm mắt nhảy xuống sông Tiền Đường.
Oán còn kết, oán chưa thôi
Trạc Tuyền, em có bồi hồi không em?
Em giết oan hai gia nô Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển - họ Hoạn ban đặc
ân cho hai gia nô trung thành, đắc lực được mang họ Hoạn - em không thể lấy lý
do “giết chúng để làm cho bọn gia nô những nhà quyền quí khác kinh sợ”. Em
không thể ngang nhiên dùng sinh mạng của người khác vào việc thực hiện những ý
muốn riêng của em. Em đã hành hạ quá tàn ác bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh,
Bạc Hạnh, Bạc Bà… Những nạn nhân của em oán hận em. Em luân hồi trở lại nhân
gian, bọn nạn nhân của em cũng luân hồi trở lại nhân gian như em vậy. Chúng đi
khắp chân trời góc biển tìm em. Bi giờ, Trạc Tuyền… anh chắc em đã hiểu tại sao
kiếp nào em cũng đoạn trường…
Ai ơi chớ có dại mà thề…
Sự kiện những anh Mã, Sở, Bạc… thề thốt vung xích chó rồi
lãnh búa thê thảm, rùng rợn vì những lời thề độc ấy làm cho Công tử Hà Đông
kinh sợ đến tắt ngúm đốm lửa lòng le lói.
Bài học luân lý giáo khoa thư lớp đồng ấu rút ra được từ những
anh Mã, Sở, Bạc lẻo mép, miệng lưỡi dẻo quẹo chuyên môn thề thốt nặng lời là: Đừng
có bao giờ thề. Nhất là đừng có dại mà thề với đàn bà, kể cả đàn bà đẹp vừa vừa
với đàn bà đẹp ghê gớm…
Thề độc mà gặp giờ thiêng thì thân bại danh liệt, cuộc đời ái
tình và sự nghiệp của mình chỉ từ chết ngoắc ngoải đến chết quằn quại chứ không
thể nào khá được.
Nếu bắt buộc phải thề thì ta nên thề những câu vô thưởng vô
phạt như vầy: Anh mà nói dối em thì anh làm con chó cả đời nằm dưới chân giường
em…
Thề như vậy may ra còn được nàng để sống, đôi khi được nàng
vuốt ve, nàng cho ăn bơ ăn sữa, nàng mang đi tắm…
Đừng có dại mà thề: Anh mà nói dối em thì máy bay nó cán anh.
Đừng có thề như thế. Có ngày máy bay nó cán cho dẹp lép như cái bánh tráng!
SÓNG TÌNH EM ĐÃ…
N
gười đời quen bốc thơm, nâng bi Vương Thúy Kiều. Đây là thói
quen a dua của đám đông. Nhưng yêu thương Kiều là một chuyện, đề cao những cái
hay thì cũng phải xét đến những cái dở của Thúy Kiều. Đừng có nhắm mắt hếch mũi
hít lấy hít để: Bất cứ ký gì của em cũng thơm ơi là thơm!
Những anh văn nô Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nồng nhiệt đề cao
Thúy Kiều, nhắm mắt ca tụng Thúy Kiều hăng tiết vịt hơn những anh dzăng sỡi tư
bản rất nhiều. Những năm u ám ở thành Hồ tôi từng đọc những dòng văn Xuân Diệu
viết: “Với hành động nửa đêm sang nhà Kim Trọng tự tình, Thúy Kiều đã hiên
ngang dẫm đạp lên lễ giáo phong kiến…” Đại ý cái câu ca tụng hăng say dì sư cụ ấy
là vậy. Tất nhiên câu tôi vừa kể đây không nhất thiết là nguyên văn trong bài
ca tụng Thúy Kiều của Xuân Diệu. Dường như đương sự còn tưởng tượng: “… Gót sen
thoăn thoắt dạo ngay mé tường… trong đêm trăng ấy là những bước chân đạp lên mặt
bọn đạo đức phong kiến…”
Tôi không thấy bực bội mà chỉ thấy buồn cười. Khỉ nắm! Nâng
thì cũng nâng vừa phải thôi. Nâng quá người được nâng cũng khó chịu đấy. Ca tụng
Thúy Kiều ký gì cũng được nhưng việc em nửa đêm chui lỗ chó sang nhà con trai tự
tình thì hổng có thể nào ca ngợi được. Lễ giáo đời nào cũng vậy thôi. Lễ giáo
thì không thể chia lễ giáo phong kiến, lễ giáo tư sản, lễ giáo vô sản. Lời
khuyên, luật cấm con gái còn trinh cho thằng đàn ông - dù có yêu thằng ấy đến
đâu chăng nữa - làm tình vung xích chó trên thân xác mình chính là để bảo vệ
quyền lợi của người con gái. Bảo vệ quyền lợi chứ sao lại không? Giữ cho người
con gái khỏi khổ sở, khỏi làm hại chính mình… có chi là xấu? “Nó chơi no nó bỏ
tro vào“, đấy là lời vàng ngọc của các bà mẹ Bắc kỳ ngày xưa vẫn ra rả nói ngày
đêm sáng tối vào lỗ tai những cô con gái.
Đúng vậy, thưa quí vị. Năm nay mái tóc không còn xanh nữa,
tôi thấy lời khuyên ấy chí lý. Dù hung hăng con bọ xít đến mấy đi nữa, ta cũng
không thể tán thành được việc Thúy Kiều nửa đêm mò sang nhà Kim Trọng. Đọc những
lời ngớ ngẩn ca tụng việc làm này của Thúy Kiều, tôi vẫn cười tủm tỉm thầm hỏi
những anh nâng bi:
- Anh tán thành việc vợ người ta, con gái người ta nửa đêm
trèo tường, chui lỗ chó sang nhà đàn ông tự tình? Đây là vợ người, con người.
Nhưng nếu vợ anh, con anh nửa đêm cũng trèo tường, chui lỗ chó sang nhà thằng
phong tình bên cạnh, anh nghĩ sao?
Tất nhiên là anh sẽ thượng thổ, hạ tả, anh tối tăm mặt mũi,
anh hộc ra mấy búng máu tươi, anh lăn đùng, ngã ngửa, anh giẫy đành đạch là cái
chắc!
Người con gái khi về nhà chồng - chẳng còn ký gì sất - chỉ
còn mối tình mang theo. Miệng chồng em gắn trên môi, Hình anh mắt ấy sáng ngời
còn ghi… thơ mộng ra rít. Nhưng “người con gái mang theo mối tình về nhà chồng”
ấy là vợ người ta, hổng phải vợ tui. Vợ tui về mí tui mà mang theo hình ảnh thằng
đàn ông khác, khi nàng để tui hun mà nàng tưởng thằng khốn nạn đó hun nàng thì
tui buồn lắm, tui hổng có chịu đâu!
Nam đáo nữ phòng năm tắc đạo
Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm.
Quân tử Tàu đã có nhận xét ấy từ ngàn xưa, ít nhất là hai
ngàn năm nay rồi. Nhưng cho đến bi giờ, thời gian chúng sinh hí hửng và sầu buồn
lê gót vào cái gọi là “đệ tam thiên niên kỷ”, đã có ai chứng minh được nhận xét
đó là sai?
Gã con trai mò vào phòng ngủ người con gái không phải là “dzô
coi chơi cho biết” mà chỉ là với mục đích lấy cắp, lấy trộm. Có thể lấy trộm
nhiều thứ. Cứ gì cứ phải lấy tiền, nữ trang mới là lấy trộm! Còn chị con gái tự
ý dấn thân vào phòng thằng đàn ông thì… y thị mò dzô làm chi trẻ con lên ba nó
cũng dư biết.
Thúy Kiều lẳng lơ quá chời. Vừa gặp Kim Trọng ở nghĩa trang Bắc
Việt, nàng đã mơ tưởng ái tình đến nơi đến chốn. Khi vờ vẫn để cho cành kim
thoa mắc trên cành cây cho Cộng Tử Bột chuyên ve gái nghĩa địa vớ được và đi
tìm, khi Công Tử Bột thò đầu lên ở bên kia tường đất, Thúy Kiều đã đứng lại tiếp
chuyện ngay thay vì hổ thẹn quay về như tuyệt đại đa số những nàng trinh nữ
khác. Vào thời Công Tử Hà Đông còn bé, mới lớn - đích xác là những năm 1940 của
thế kỷ này - kể cả những năm 50, những nàng thiếu nữ Việt Nam chính cống vẫn đỏ
mặt, líu lưỡi không nói năng gì được khi bất ngờ có thanh niên chặn lại thả lời
ong bướm giữa đường. Thiếu nữ Việt Nam ta đàng hoàng như vậy chứ, đâu có…
Không những chỉ ái tình qua tường đất mà thôi, Thúy Kiều còn
hung hãn chui rào sang nhà Kim Trọng. Đã sang buổi chiều, chưa đã; chín giờ tối
khi trăng lên nửa trời nàng lại bổn cũ soạn lại, phăng phăng sang với Kim Trọng
lần thứ hai. Lần này thì nàng mần nhiều trò với Kim Trọng: thề thốt, ký hợp đồng,
cắt tóc, uống rượu, đàn địch…
Công Tử Bột Kim Trọng đêm ấy làm nhiều việc có làm cũng được
mà không làm cũng chẳng sao. Nhưng cậu lại không làm cái việc cần làm nhất mí
Kiều. Như Công Tử Hà Đông lỡ chuyến xe đò bay USIS ngày ba mươi tháng tư 1975,
phải cầm vé chờ standby đến hai mươi năm trời; Công Tử Bắc Kinh không mau tay mần
cái việc cần mần ngay đó đã phải chờ đến mười lăm năm sau mới được lên chuyến
tàu vét.
Vì sự cay đắng ấy, Công Tử Hà Đông rút từ bài học “Kim Trọng
lần khân” công thức luân lý giáo khoa thư lớp Đồng Ấu:
Trời cho thì phải vồ ngay
Để dành, để sọt có ngày xót xa.
Cuộc tự tình Thúy Kiều - Kim Trọng ở trong vườn Lãm Thúy có
nhiều chi tiết mâu thuẫn, không hợp lý. Thúy Kiều dấn thân đến, làm đủ thứ việc
nhưng đến việc chính thì nàng lại ẹo ẹo: “Em chã… em chã…” Ngược đời và lố bịch
nhất là chính nàng lại đi nói những lời lễ nghi quân cách khuyên Kim Trọng
không nên mần tới. Kỳ dzậy! Bất cứ người đàn bà, con gái nào trên cõi đời này
cũng có thể nói ra những lời như lời ông Khổng Tử và của ông Khổng Tử, nhưng
Thúy Kiều trong đêm hôm đó thì không thể. Chính nàng khêu gợi Kim Trọng, nàng tự
ý đưa đến tận mồm Kim Trọng rồi cũng chính nàng lại duỗi ra: “Đừng… Hổng nên
làm tới… Đến đây thôi… Hổng tiếc đâu, nhưng mà… để dành…”
Những đêm tại ngục ở thành Hồ, Công Tử Hà Đông nằm tình tang
mần thơ hỏi Thúy Kiều:
Tấm yêu
Hoa thương càng tỏ thức hồng
Đầu mày, cuối mắt càng nồng tấm yêu…
Tấm yêu là tấm yêu kiều
Tấm yêu em phủ lụa điều, em mang
Tấm yêu em giá ngàn vàng
Sao em lại để bày hàng coi không?
Hoa hương em tỏ thức hồng
Đầu mày, cuối mắt em nồng tấm yêu
Sóng tình em đã xiêu xiêu
Em trong âu yếm có chiều lả lơi
Chính em, em lấy làm chơi
Gài cho em nói những lời ba hoa
Ấy là ngôn ngữ người ta
Thầy Nhan, cụ Khổng phải là em đâu?
Đang xi-nê, giở tuồng Tàu
Ngang ngang tức muốn phát rầu Tố Như!
Lả Lơi
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi…
Lả lơi thì lả cả đôi
Cả đôi cùng lả, cùng lơi mới là
Lả lơi, lơi lả đôi ta
Đôi ta cùng lả mới là lả lơi.
Lả lơi đang lả cả đôi
Bỗng dưng em nói những lời linh tinh:
“Đã cho vào bực bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”
Vẩn vương toàn chuyện đâu đâu
Đem ông Khổng Tử chặn cầu ái ân.
Xét tình lý, thấy phân vân
Nghe sao nằng nặng, tần ngần chẳng ra.
Đang âu yếm, nói ba hoa
Ấy là Kiều Thúy hay là Khổng Khâu?
Nam Mô Bồ Tát Thị Mầu…
Vương Quan làm tri huyện, Kim Trọng tri phủ - những chức vụ
tri huyện, tri phủ này về tay hai cậu này thì, chẳng cần là thầy bói, ta cũng
biết cái gọi là hậu vận của năm Gia Tĩnh triều Minh ấy nó đen hơn mõm con chó mực.
Khi hai cậu đưa vợ con, ông già bà lão đi đến địa phương trị nhậm qua sông Tiền
Đường ghé lại lập đàn giải oan cho Thúy Kiều, tình cờ gặp vãi Giác Duyên bánh
xe lãnh tử đi qua tò mò ghé vào…
Do đó mà Kim Trọng gặp lại Thúy Kiều: chuyện đó biết rồi… khổ
lắm… nói mãi… Khi cho Mercedes đến chùa tạm bên sông đón Thúy Kiều về phủ đường,
Kim Trọng được thành hôn với Thúy Kiều. Cô dâu chú rể cùng nhau làm tất cả những
nghi thức hôn nhân chuẩn bị tốt đẹp cho việc làm tối hậu của vợ chồng: giao
bái, tức là chàng và nàng mặc áo thụng vái lẫn nhau, mời nhau uống rượu, bâng
khuâng, ngậm ngùi, duyên mới, tình xưa, sen ngó, đào tơ, mười lăm năm ấy bi giờ
đêm nay, tình duyên, hợp tan, bi hoan, trăng sao, đèn nến, má đào, môi thắm,
tình nhân lại gặp tình nhân, hoa xưa, ong cũ, tình chung… hằm bà lằng xíu oắt đủ
thứ. Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh linh tinh không món nào thiếu…
Vô lý và phi lý, bất hợp lý, phản lý, loạn lý, bí lý, nhảm lý
nhất là đến lúc đưa nhau vào đến giường rồi, đã ngả đâu lên gối rồi, cô dâu đa
tình, khêu gợi quá chời quá đất lại nói: “Giẽ ra cho thiếp, bi giờ thiếp tu…”
Tôi dám nói quyết, tôi dám cá một đô ăn một triệu đô trên cái
cõi đời này không có cô dâu nào đến cái lúc ấy còn nói một câu như thế. Cũng
trên cái cõi đời này nhất định không có chú rể nào đến cái lúc ấy còn chịu nghe
cô dâu nói như thế là xoay chiều đổi sang chủ nghĩa khác, có lập tràng khác hẳn.
Thế rồi đôi vợ chông chay tịnh, không hề chung chăn chung gối mí nhau - nói gần
nói xa chẳng qua nói thật - đôi vợ chồng có cưới hỏi, động phòng đàng hoàng
nhưng đêm đêm không hề mần tình mí nhau, cứ chung sống một nhà, cứ rượu chè,
đàn địch, cứ ngày xem hoa nở, đêm chờ trăng lên, cứ ra vô đụng chạm nhau mà vẫn
hổng có gì mí nhau sao?
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét