Bà Con Chòm Xóm
Một buổi chiều cuối năm, nằm tưởng nhớ lan man về làng quê,
tôi mấy lần tự bắt gặp mình nghĩ tới chị Bốn Chìa Vôi. Hình ảnh chị xua đi lại
trở về. “Ơ hay!” tôi ngạc nhiên về mình. “Vẫn chị Bốn! Thì chị Bốn. Xem chị có
gì nào!”
Trong nhân cách chị có nhiều đặc điểm, nhưng đối với người
làng điều thường được nêu lên như một tiêu biểu là chị không sợ thằn lằn rắn nước.
Con người, đa số, vẫn đố kỵ loài bò sát; chị Bốn không đố kỵ. Chị biết khai
thác đặc điểm của mình, khiến mọi người chú ý. Một nhóm bạn bè đang ngồi tán
dóc, chị chạy tới mời ăn me. Đàn bà con gái nào lại không thích me? Mỗi người
giành lấy một quả xong, chị Bốn rút từ trong bọc ra một gói nhỏ. Trời, sao mà
chu đáo thế: lại có cả muối ớt nữa kìa. Vài bàn tay nóng nảy giật nhanh gói giấy,
mở ra: con thằn lằn luống cuống nhảy hoảng vào lòng một chị nào đó. Cả bọn la
như cắt cổ.
Chị Bốn Chìa Vôi có thể bắt nhốt vào túi áo một con rắn nước,
lấy kim băng cài lại cẩn thận. Để rồi chỉ mở túi khi đã ngồi sát kề vài người bạn.
Rắn vọt ra, kẻ nhanh nhất cũng không tránh kịp.
Người ta sợ những con vật hiền lành vô hại, sợ một cách vô
lý. Chị Bốn không vô lý, thế là chị bị coi như nham nhở, lì lợm. Giá là “hôm
nay”, chị được cho là rất chì. Chì thì không có gì tệ. Nhưng ở địa phương, hồi
đó, người ta đánh giá thấp thái độ ấy. Có người bảo: Con đó ma vật không chết,
thiên lôi đánh không chết v.v... Toàn thị là những nhận xét có tính cách thóa mạ.
Trong chỗ địa phương, giàu có chẳng được mấy kẻ, hầu hết là dân nghèo với nhau.
Từ lối xưng hô cho đến cách nhận xét nhau nghe có vẻ sỗ sàng mà thân mật. Xóm
giềng với chị Bốn Chìa Vôi là anh Ba Càng Cua, chú Năm Cán Vá, anh hai Mỏ Gảy,
cậu Ấm Sứt v.v... ai nấy đều thông cảm sự giễu cợt của bà con chòm xóm, không
oán trách gì. Trường hợp đáng để ý là một người tên Hai Cư. Anh ta cũng lớn lên
trong cảnh nhà nghèo khổ, không có tham vọng. Bỗng có người tuổi tác tốt bụng
mách cho biết nội tổ của anh ta từng có quan tước, nếu chịu mất hai đồng bạc
cho làng, anh có thể làm đơn xin tập ấm để được miễn sai. Anh nghe theo, anh được
chỉ vẽ, giúp đỡ, cuối cùng được thành một ấm tôn. Anh mở tiệc khao làng và họ
hàng thân thuộc. Ngay trong tiệc vui ấy anh đã nghe loáng thoáng cái tiếng “ấm
sứt”. Anh lặng người đi một lát. Rồi anh bâng khuâng, trầm ngâm, như một người
bắt đầu chịu trở nên chín chắn, từ bỏ những ngông nghênh rồ dại nhất thời để trở
về với những cái thiết thực. Rốt cuộc, anh nhếch miệng cười nhẫn nại, chấp nhận.
Tiếng “ấm sứt” phổ biến nhanh chóng. Dân làng mừng rỡ, không ganh tị tí nào đối
với chút quyền lợi anh được hưởng, nhưng còn sự danh giá thì họ đã bảo toạc
ngay cho anh biết là không có đâu.
Chị Bốn ngày nhỏ tên là Bình. Nhưng càng lớn chị càng toe
toét, nói bậy nói bạ, bừa bãi lung tung; cho nên bị coi không xứng là miệng
Bình, dù là bình vôi. Do đó, bèn đặt tên là Chìa Vôi.
Kể ra đặt như thế cũng bừa bãi, chẳng có ý nghĩa gì. Tôi thuật
lại bấy nhiêu điều là để chứng tỏ ở đây người ta sống gần gũi, cởi mở. Cho đến
cái tên của nhau ai nấy cũng tha hồ bôi bác lên đấy tùy thích, cái tên riêng của
cá nhân không còn thuộc về cá nhân mà là kết quả những ý kiến tập thể. Sự can
thiệp ngang nhiên, không e dè nể nang gì cả. Thoạt đầu, có người bất bình chút
ít, rồi đâu lại vào đó.
Chị Bốn nham nhở đến nỗi mang tên là Bốn Chìa Vôi, lại còn bị
rủa là thiên lôi đập ba búa không chết. Không sợ loài bò sát, đó chỉ là tính
tiêu biểu, thật ra chị còn lắm điều ngổ ngáo khác. Chẳng hạn nói tục. Các nhà
nghiên cứu chuyện tiếu lâm đồng ý rằng đề tài trào lộng chính của dân quê ngày
xưa là cái tục. Có những vị còn đi xa hơn, cho rằng như thế không phải vì dân
lao động nghèo khổ ham thích cái tục hơn hạng nho sĩ trí thức; họ nói tục chính
vì óc tranh đấu bài phong tức là vì một lý tưởng cao đẹp. Hạng giàu có nho sĩ sống
trong lễ giáo giả dối, tránh chuyện tục tĩu; kẻ vô sản đầy tinh thần cách mạng
bèn xổ tục ra, có ý tỏ sự chống đối, khinh khi, khiêu khích, có ý muốn quăng những
cái tục ấy vào mặt bọn giàu sang trí thức.
Tôi không có dịp trông thấy chị Bốn Chìa Vôi quăng cái tục
vào từng lớp thống trị. Chỉ thấy chị thường nói trong lúc chuyện trò, làm lụng.
Giữa đồng nước lênh láng tiết tháng mười, chị vừa cấy mạ vừa kể chuyện. Xung
quanh chị, đàn bà con gái thỉnh thoảng nhao nhao, kêu oai oái, kêu lóe chóe,
kêu ầm lên, như không chịu nổi. Thế nhưng họ chịu được tất. Hơn nữa, ai nấy đều
hau háu đối với chuyện của chị Bốn Chìa Vôi. Họ tranh nhau nghe, họ kêu, rồi họ
cười ngắc nghẻo, họ oằn người, gập người lại mà cười.
Nhìn cảnh tượng những người lao động nói cười ầm ĩ như thế giữa
công việc, giữa trời nước bao la, dễ có cảm tưởng họ sung sướng vui vẻ, họ đang
dự vào một sinh hoạt lành mạnh, làm sảng khoái tinh thần. Thú thực, chưa có lần
nào trước cảnh ấy tôi có ý nghĩ chị Bốn Chìa Vôi đang đầu độc trí óc bạn bè. Có
lẽ những câu chuyện tiếu lâm đã thành hình trong dân gian theo kiểu ấy. Có điều
các khảo cứu không hay chú ý tới nỗi khổ tâm, hy sinh, của người sáng tác. Tôi
được biết có lần chị Bốn Chìa Vôi bị chồng đánh một trận tơi bời, vì trong lúc
cao hứng, hăng say, chị đã mang cả chuyện riêng trong buồng the ra làm trò cười.
Xưa, tôi cũng lây cái thành kiến của người làng mà coi nhẹ chị
Bốn, mặc dù đối với tôi chị Bốn Chìa Vôi bao giờ cũng tốt. Ngày nay, tưởng nhớ
đến chị trong niềm hối hận chân thành, tôi chỉ muốn đem tất cả sự hiểu biết lõm
bõm của mình mà tìm ra một ý nghĩa cách mạng trong thái độ của chị. Bèn nghĩ rằng
cái tục là cái cấm kỵ (tabou) trong cuộc sống xã hội loài người với nhau, bò
sát là một cấm kỵ khác; thiên hạ tránh né những cấm kỵ ấy, chị Bốn ngang nhiên
bất chấp, ấy không phải là chống đối, phản kháng, là hành vi “nổi loạn” sao? Những
kẻ văn nhược nho nhã chúa sợ rắn, sợ thạch sùng, sợ các tiếng tục tĩu, những kẻ
ấy đớn hèn đã đành. Còn trong hạng lao động khả kính, đầu làng cuối xóm thiếu
chi người, tại sao ý thức nổi loạn lại cứ nhất định nhóm lên từ đầu óc một người
nghèo rớt mùng tơi, nhà dột cột xiêu, từ một chị đàn bà lôi thôi lếch thếch, vú
bõ lòng thòng? Đó chẳng phải là điểm vinh dự riêng cho chị Bốn sao?
Cái tốt đặc biệt của chị Bốn tôi không quên được là chị thường
cho chim. Chị là người đàn bà độc nhất trong vùng có thể bắt được chim. Bởi vì
chim chóc không phải như con cua, con ốc, con chí, con rận. Phải lanh lẹ, phải
giỏi leo trèo mới bắt được chim. Đàn bà không sở trường về cái ấy.
Lần đầu tiên chị Bốn cho chim, chị cho tôi một lượt hai con
se sẻ. Tôi quýnh lên. Tôi nằn nì hỏi chị làm thế nào bắt được. Chị cười tít mắt,
bảo đang đi giữa đường, tự dưng thấy hai con sẻ đuổi nhau bay tới, sà xuống đất,
vùi nhau cắn lộn, chị đưa tay ra chộp như chơi. Tôi ngẩn ngơ ganh tiếc: Một cơ
hội như thế tại sao lại không xảy đến cho tôi? Nắm chim trong tay đã đành là
thích thú, nhưng so với cái lúc chộp được một lúc hai con chim đang cắn lộn thì
thú ấy chẳng thấm vào đâu. Vậy mà cái dịp may dị thường chẳng thuộc về tôi đang
lồng lên ao ước, lại thuộc về chị Bốn là kẻ dửng dưng không biết gì khoái
thích!
Lần khác, chị cho tôi bốn con sáo ngà vừa bể bộng xểnh. Tôi lại
tra vặn làm sao bắt được. Chị cuời rũ rượi kể rằng đang làm cỏ chợt thấy con
sáo mẹ tha mồi về một bộng cây mù u bên bờ ruộng và sáo con trong bộng thò đầu
ra, chị chạy đến bắt trọn, thế thôi. Tôi dẫy nẩy lên, bắt chị phải cam đoan lần
sau thì chị không được vội vàng như thế nữa: cứ để yên và chạy về mách tôi.
Nhưng lần sau và những lần sau nữa cũng không phải là cơ hội
để tôi tự tay tóm được con chim tự do. Mỗi lần chị Bốn được chim vào một trường
hợp khác nhau. Hoặc một con sáo ham ăn giun xán tới những luống cày vỡ, bị người
ta dùng roi cày quất chết tức, chị Bốn xin con sáo chết, đem bỏ ở chỗ đất ướt một
lát, nó sống lại. Hoặc một con cò bị kẹt giữa lùm tre dày sau một đêm mưa gió.
Hoặc một con cò khác bị mắc vào bẩy giò mà chị Bốn tình cờ bắt gặp trước khi
người đánh bẩy trông thấy.
Tôi kết luận rằng chị Bốn Chìa Vôi quả không có tài nghệ gì.
Chị chỉ có sự may mắn. Giá tôi mà gặp con cò mắc kẹt trong bụi tre thì tôi cũng
lôi ra được như chị, lại giá có người dùng roi quất lăn kềnh một con sáo bên
chân thì nhất định tôi cũng nhặt lên được. Tôi quả quyết như thế. Và từ ganh,
tôi ức với chị Bốn Chìa Vôi. Tại sao lần nào cũng vẫn lại chị có mặt ở những chỗ
ấy mà không phải là tôi?
Tôi còn nhỏ, chưa biết phục thiện. Thực ra, không phải không
có lý do mà chị Bốn Chìa Vôi gặp chim. Xem hình dáng chị thì biết. Áo của chị kết
năm hột nút thì đã rụng mất ba; hở cả bụng cả ngực. Đầu chị rối bời, tóc thì
hoe vàng, đuôi tóc xơ xác. Suốt ngày từ sáng tinh sương cho đến tối mịt, lúc
nào chị cũng tất tả ngược xuôi, dầm mưa giãi nắng. Chị kiếm củi, mò cua, bắt ốc,
lúc ở bờ ao mép suối, lúc ở ven rừng ven đồi... Tình hình trong vùng có gì đáng
chú ý chị chú ý tới trước tiên, có gì đáng trông thấy chị trông thấy trước
tiên. Năm Cán Vá hò hẹn với bà thím dâu ở suối chăng? Đám mì của ông Tư bị kẻ
chăn bò đào trộm củ đem lên gò nướng chăng? Tre năm nay trỗ bông nhiều? Chuột đồng
gặp gió tây vừa chết lác đác ở các cửa hang? Cây trâm sau đình làng trái sắp
chín tới? Không có gì chị Bốn Chìa Vôi không biết. Như thế, không những chị thường
gặp chim chóc, chị còn bắt gặp gà rừng đang ấp và hốt trọn cả ổ trứng, chị gặp
rắn đực rắn cái quấn nhau để về xóm thuật lại cho mọi người nghe, chị gặp dơi
ngủ trong đọt chuối, gặp chồn cắn nhau v.v...
Ngày xưa, tôi không rõ lý do khiến chị Bốn gặp chim, nhưng
tôi yên trí là biết rõ lý do khiến chị cho chim. Vì sao chị chọn tôi, mà không
chọn đứa trẻ nào khác? Thật minh bạch: vì tôi dễ thương nhất chứ còn gì nữa.
Sau này, dần dần tôi tưởng hiểu được chị Bốn Chìa Vôi hơn. Sự
việc không giản dị đến thế.
Chị Bốn vẫn xưng với mọi người là bà con họ hàng với chúng
tôi. Trong khi ấy gia đình chúng tôi không phi bác cũng không xác nhận. Sự thực
chị Bốn cùng mang họ Đặng. Nhưng ngôi thứ của chị trong thân tộc như thế nào
không rõ, gặp chị chúng tôi cứ tùy tuổi tác mà xưng hô: kẻ gọi chị, gọi cô, người
kêu mày, kêu con v.v... Ngày giỗ, ngày Tết, chị đến nhà chúng tôi, lăng xăng
giúp đỡ.
Bình nhật, mỗi lần chị tới nhà là gặp việc gì làm việc ấy
luôn tay. Trông thấy bà tôi ngồi buồn, chị đề nghị xổ tóc bắt chí. Trong khi
tìm chí, chị vui miệng hẹn hôm sau sẽ đem đến cho nắm bồ kết. Đưa tới một nắm bồ
kết, một mớ rau đắng, chị mang về chén mắm, trái cà, trái dưa muối v.v...
Đối với các cô tôi, chị cũng không đáng ghét. Mỗi lúc nhìn
trước ngó sau quanh quất không thấy bóng bà tôi, chị Bốn liền kể một chuyện tục.
Các cô tôi phản đối, đấm thùm thụp lên lưng chị. Nhưng khi bà nghe tiếng, hiện
đến hỏi, thì ai nấy đều toa rập chối đây đẩy, vừa bảo là không có gì vừa cười
rúc rích với nhau.
Hễ cứ lâu ngày không thấy chị Bốn Chìa Vôi đến, tôi lên tiếng
hỏi. Bà tôi kêu: “Cái thằng! Không thấy nhắc đến sách vở bao giờ. Lại đi nhắc
con ấy.” Các cô tôi cười. Tuy nhiên, tôi thấy rõ không có sự phản kháng nào rõ
rệt.
Một năm trời làm đói. Tháng mười mất mùa, tháng ba lại mất
mùa nữa. Cả làng thiếu ăn, trẻ con ốm tong teo. Bấy giờ, ngày nào chị Bốn cũng
lảng vảng đến nhà tôi một lần. Về sau, cùng đường xoay trở, chị đến ở hẳn với
chúng tôi. Rồi chị đem theo thằng con nhỏ nhất. Sau rốt, mang luôn đến con chị
kề của đứa bé. Chị bảo với mọi người: có bà có con nhất định phải nhờ bà nhờ
con một phen. Ngầm ý nói dù có bị đuổi cũng không chịu đi.
Mùa tháng mười năm sau, bắt đầu gặt hái được là chị đem con về,
tất tả kiếm ăn, không kéo dài cảnh nhờ vả thêm một ngày.
Ngày nay các cô tôi thường nhắc lại vụ đói năm ấy để oán
trách chị Bốn Chìa Vôi. Phải, có nhiều người trong chúng tôi oán trách chị.
Số là từ khi làng mất an ninh, dân làng kéo ra quận ra tỉnh
lánh nạn một số lớn. Gia đình tôi về tỉnh lỵ; chị Bốn thì không thể tưởng tượng
có thể sinh sống ở chỗ thành phố, nên chị ở lại làng. Trong khi ra đi lén lút vội
vàng, chúng tôi không đem theo cả gia sản mà cũng không thể bán được cho ai. Những
thứ gì còn lại, chị Bốn hứa sẽ trông nom giúp. Thế rồi, ít lâu có người bỏ làng
ra tỉnh kể rằng hai con bò của chúng tôi bị “Giải phóng” tịch thu chia cho đồng
bào, mà một con thuộc về phần chị Bốn. Sau đó, lại có người khác kể rằng ruộng
đất của chúng tôi “Giải phóng” cũng chia cho đồng bào canh tác, riêng phần chị
Bốn hưởng được hai đám. Dĩ nhiên chị Bốn là đồng bào, nhưng tại sao cái gì của
chúng tôi chị cũng thụ hưởng được nhiều hơn mọi người. Có điều ám muội gì trong
đó? Lần khác, có tin chị Bốn bán dừa của chúng tôi. Lại lần khác nữa, chị đem cỗ
thọ đường bằng ván mít của bà tôi hiến cho bộ đội “Giải phóng”. Bà tôi kêu trời.
Các cô tôi mỗi người góp một chi tiết, nhắc lại những sự giúp đỡ của chúng tôi
đối với chị Bốn trước kia, và trách mắng thậm tệ “quân ăn cháo đái bát”.
Chúng tôi với chị Bốn thành ra người của hai thế giới. Không
ai biện bạch với ai được lời nào. Không có đối thoại. Sự thực, chị Bốn Chìa Vôi
đã nghĩ ngợi ra sao, đã hành động với dụng ý gì, chúng tôi không rõ. Chỉ nghe lời
người khác thuật lại, nay một việc mai một việc, chắc chắn là vừa thuật vừa
thêm mắm thêm muối cho đậm đà câu chuyện, thế rồi chúng tôi kết tội chị Bốn bội
bạc, vong ân, chúng tôi lồng lên phẫn uất.
Trong tâm trạng ấy, chúng tôi kiểm điểm lại tính nết của chị,
và toàn thấy những nét trí trá, tinh quái. Cái người con gái biết mua chuộc kẻ
này bằng con chim, kẻ kia bằng câu chuyện tục kể lén v.v..., người ấy thực đã
quỉ quyệt, thao túng chúng tôi không chừa một ai. Càng nghĩ các cô tôi càng tức
giận, vì đã thua cái tinh khôn của một kẻ tuổi tác chỉ đáng đàn em, lại không
có học hành gì.
Cứ thế cho đến hôm tôi trông thấy người ta khiêng chị Bốn
Chìa Vôi vào bệnh viện, người rách bươm tơi tả.
Sau khi chúng tôi bỏ làng đi độ ba tháng thì làng cũng không
thuộc về chính phủ nữa. Thôn trưởng bị bắt lên núi. Rồi quận cũng tìm ra người
khác để đặt làm thôn trưởng, nhưng từ khi nhậm chức, chú Tư Huệ Héo — tức em ruột
anh Ba Càng Cua — liền bỏ nhà xuống quận lưu vong. Ở làng, phe “Giải phóng” lập
ban tự quản.
Như thế, cả hai phía cùng nhau cai trị dân làng. Một phía thuộc
về chú Tư Huệ Héo, một phía thuộc về chú Ba Thiên, tức cháu gọi Hai Mỏ Gảy bằng
cậu.
Ba Thiên tịch thu ruộng và bò của chú Tư. Một ngày tháng bảy,
vào canh tư, trời còn tối, một trung đội nghĩa quân từ dưới quận kéo lên vây
xóm. Bố trí chưa xong thì một phát súng nổ quá sớm làm cho bọn cộng sản nhào ra
chạy. Có hai tên trúng đạn, một bị gãy chân, một bể ngực chết. Tuy vậy cả hai đều
thuộc hạng không quan trọng, còn Ba Thiên đã kịp trốn thoát.
Mờ sáng, nghĩa quân vào làng, người ta thấy Tư Huệ Héo đi
theo, tập trung dân chúng, điểm mặt từng người, phổ biến chính sách. Xong rồi,
chú Tư tới nhà Ba Thiên lùa tất cả bò mình lẫn bò Ba Thiên về quận. Đến lượt
chú Ba bị tịch thu trở lại: Lùa bò, gánh lúa, còn nhà thì đốt bỏ.
Sau vụ ấy, Ba Thiên bắn tin xuống quận cho Tư Huệ Héo hay là
có ngày “Giải phóng” sẽ tới tận quận hỏi tội y. Còn Tư Huệ Héo thì lén lút phàn
nàn với một vài người thân tín rằng hôm đó có một anh nghĩa quân non gan, ngại
đụng độ lớn, nên giả vờ lỡ tay làm nổ phát súng để đuổi địch chạy thoát, nếu
không Ba Thiên đã bị bắt rồi. “Nhưng giữa nó với tôi còn có ngày gặp nhau mà.
Nó đừng nóng nảy vô lối: rồi trước sau tôi cũng chẻ ba thẻ tre đem manh chiếu
rách rước nó xuống quận một lần cho bà con coi chơi”.
Tin nhắn đi nhắn lại qua trung gian những người đàn bà đi chợ
quận. Cũng qua thứ trung gian ấy, chú Tư đòi bẻ cổ hết những ai cày ruộng của
chú do bên kia cấp phát. Ba Thiên họp đồng bào, đánh tan hoang mang, bảo đảm rằng
chính sách sẽ được thi hành tới cùng.
Chị Bốn Chìa Vôi có được chia ruộng của chú Tư. Mặc dù có sự
bảo đảm, nhân một hôm đi chợ, chị vẫn lẻn gặp chú Tư để điều đình xin coi như
chị cày thuê với một giá tương đối rẻ. Sự việc tiến hành trong vòng bí mật. Tiền
thuê ruộng sẽ giao tới tay chú Tư làm ba lần. Tư Huệ Héo lấy làm hài lòng;
trong lúc cao hứng còn khoe rằng hôm đưa nghĩa quân lên vây xóm chú đã nắm vững
tình hình, biết rõ con đường hầm rút lui của từng tên trong bọn Ba Thiên. “Chậm
năm phút nữa thì nó chạy đằng trời”. Chú Tư nhếch miệng cười. Chú có đặc điểm
là dẫu cười, cái cười cũng khổ sở, méo xệu. Vì vậy mà tên Huệ được đổi ra Huệ
Héo.
Hai hôm sau, con Sáu Ty bỗng dưng chận chị Bốn Chìa Vôi lại,
hỏi ấm ớ:
— Mợ đi thương lượng với nó rồi hả?
Chị Bốn khựng người lại:
— Mầy nói cái gì vậy Sáu? Tao không hiểu.
Sáu Ty cười khẽ:
— Mợ khó hiểu thì có.
Rồi giọng nó đay nghiến:
— Của nhân dân chia cho, mợ không cày thì trả lại, người khác
cày. Tại sao mợ lại đi phục hồi chủ quyền cho nó?
Chị Bốn vẫn chống chế, mà van lơn:
— Sáu! Mày nghi ngờ gì mợ đấy? Có gì mày cứ nói toạc ra, rồi
khuyên bảo cậu mợ. Mày hiểu chính sách, chớ cậu mợ đâu có hiểu, Sáu!
— Mợ đã tìm thằng Tư Huệ Héo điều đình riêng.
Chị Bốn giãy nảy lên lên thề thốt:
— Ai nói với mày vậy? Nó vu cáo mợ, mày không cãi cho mợ mày
được một câu sao Sáu. Tao thề có Trời có Phật...
Con Sáu Ty ngoay ngoảy bỏ đi:
— Nay mai rồi mợ sẽ cãi lấy.
Chị Bốn tuyệt vọng, gọi vói theo:
— Sáu. Ngày mốt giỗ bác Hai, mày nhớ đó chớ, đừng để cậu mợ mời
lần nữa nhé.
Sáu Ty là cháu của chị Bốn Chìa Vôi. Mẹ nó chết sớm. Ngày nó
còn bé, chị Bốn thỉnh thoảng tới nhà, lôi nó ra tắm rửa, kỳ cọ, giặt giũ quần
áo cho nó. Bây giờ Sáu Ty làm cán bộ, trở lại khắt khe với chị. Ở cái tuổi của
chị, lớn lên trong hoàn cảnh của chị, chị không tự cắt nghĩa nổi sự hằn học của
con Sáu Ty. Chị không tranh giành quyền lợi của cải của nó, tại sao nó có thể
ghét chị đến thế? Lý do chính trị là cái gì, chị không hiểu.
Những lần bị Sáu Ty chèn ép, làm khó làm dễ thái quá, chị đi
phân trần với người này người kia: Mới ngày nào chị vừa kỳ ghét trong nách
trong háng của nó vừa la mắng nó, cốc lên đầu nó, chị coi nó như con như cái. Một
đứa con nít như thế! Chị than trời trách đất.
Chị gặp Sáu Ty hôm trước, thì hôm sau ban tự quản thôn gọi chị
tới cho biết là phần ruộng tịch thu của Tư Huệ Héo chia cho chị bị rút lại cấp
cho ông Tam Khoang.
Sự đen đủi này tiếp theo sự đen đủi khác. Thằng con trai của
chị mới mười bảy tuổi tự dưng nhảy đại vô “lực lượng”. Ở địa phương chị, người
ta vẫn gọi tắt như thế cái lực lượng võ trang của mặt trận Giải phóng. “Vô lực
lượng thì có súng để mang. Vô lực lượng, ta đòi làm thịt đứa này, đòi hạ đứa nọ,
nửa đêm bất thần về làng, thiên hạ cuống cả lên; không vô lực lượng thì cũng phải
đi lính quốc gia, mà lính quốc gia ở ngoài sáng, lực lượng ở trong tối dễ bắn
ra v.v...” Không biết ai đã dụ dỗ, rủ rê nó mà thằng nhỏ bỏ nhà theo lực lượng.
Chị Bốn Chìa Vôi hết nghi người này lại ngờ kẻ khác; chị oán chị trách.
Ba Càng Cua có hai đứa con trai, một đứa vô nghĩa quân, đóng
tại quận, một đứa học trung học, đi Quang Trung, gắn lon trung sĩ. Ba Càng Cua
vẫn ở lại làng. Nhưng sau khi thằng con chị Bốn Chìa Vôi vô lực lượng ít lâu, bỗng
một hôm, vào mùa gieo, trời chưa sáng, đường còn lờ mờ ánh trăng, Ba Càng Cua
đánh bò gồng gánh ra đồng. Người ta yên chí là đi gieo. Cứ thế, qua khỏi các chỗ
canh gác, gia đình Ba Càng Cua đi thẳng xuống quận lánh cư. Đến trưa, ập vào
xét nhà Ba Càng Cua thấy thứ gì thứ nấy đã dọn sạch. Thì ra trong cái gánh mà
người ta tưởng là gánh lúa giống để gieo ấy anh ta trói nhốt năm con gà, với mắm
muối, thuốc, lư đồng v.v...
Xuống quận được dăm ba hôm, Ba Càng Cua bắt đầu phát biểu cảm
tưởng lai rai. “Con Sáu Ty ngày nào nó cũng lọt vào nhà người ta vài bận. Nhà
có bao lúa nào nó dòm lủng bao, có niêu cơm nó dòm lủng niêu. Con đó còn sống
ngày nào, xóm làng còn điêu đứng ngày ấy. Con Bốn Chìa Vôi, con mẹ trời đánh
sinh ra thằng con trai nghịch hết nói được. Nó mà nhảy núi chuyến này, nguy hiểm
lắm. Tôi cho thằng đó nguy hiểm nhất.” Bấy giờ người ta mới nhớ ra trước kia giữa
nó với thằng con trai của Ba Càng Cua có nhiều chuyện hiềm khích rắc rối.
Chẳng bao lâu sau đó, cậu nghĩa quân này bị phục kích, trúng
đạn hỏng mất con mắt bên trái, gò má lủng lốm đốm.
Mấy lần chị Bốn Chìa Vôi đi chợ quận bị mụ vợ Ba Càng Cua đón
đường, may mà đón hụt. Anh Ba Càng Cua lồng lên như gà mắc đẻ. Anh quả quyết đến
lúc phải tảo thanh gấp cái làng ấy, nếu không cả quận này không yên. Anh chủ
trương mở hành quân cấp tốc về làng. Ý kiến ấy, anh tìm Tư Huệ Héo để trình
bày, rồi gặp người nào — nhất là lính — anh cũng nói. Anh hy vọng ý kiến tới
tai ông quận. Nhưng anh nói mãi, ý kiến chẳng đi tới đâu. Bỗng một hôm, một chiếc
máy bay lướt nhanh qua làng, có kẻ nào đó dùng súng trường “bia” một phát. Chiếc
oanh tạc cơ quành lại, bắn, bỏ bom loạn xạ. Mười ngôi nhà cháy, hai người chết.
Trong hai kẻ xấu số, một là chồng chị Bốn Chìa Vôi, bị cắt đúng nửa thân người.
Đêm ấy chôn cất xong xuôi, mờ sáng hôm sau, cả làng đón một cuộc hành quân. Lần
này Ba Thiên cũng lại suýt bị tóm, nhưng vẫn chưa bị tóm. Đạn đuổi sau lưng y.
Cán bộ thôn hao hết thêm ba mạng. Ban tự quản gần tan rã. Thế nhưng Sáu Ty thì
thoát, và Ba Thiên cũng chỉ suýt bị bắt.
Rồi Hai Mỏ Gảy lánh cư. Rồi Năm Cán Vá cũng bỏ làng ra đi.
Nhưng chị Bốn Chìa Vôi thì ở lại, để thỉnh thoảng còn hy vọng gặp thằng con
trong lực lượng. Chị cần dỗ dành để nó rời bỏ lực lượng, ít ra nó đừng có “bia”
vu vơ vào một chiếc phi cơ bay lẻ, vào một anh địa phương quân lơ thơ về thăm vợ
v.v..., đừng có gây rắc rối làm cho cả làng bị tai họa lây. Chị Bốn Chìa Vôi ở
lại làng, chịu khổ chịu sở mà ở lại. Nhưng mãi không gặp được đứa con. Chị ở lại
chỉ để có dịp chôn xác con Sáu Ty.
Sau đó, một đại đội quân quốc gia về đóng tại làng. Ba Thiên
bỏ nhà nhảy núi. Cậu em vợ của chú Ba cũng nhảy theo. Trước khi đi, nó năn nỉ rủ
đứa con gái đầu lòng của chị Bốn Chìa Vôi. Đứa con gái khóc tỉ tê. Chị Bốn biết
được, chị quát mắng; cậu kia van nài, xin cho nó cưới. Cứ cho nó cưới, rồi thì
vợ nó ở lại làng cũng được. Chị Bốn không cho.
Anh em Ba Thiên đi rồi, bốn tháng sau đứa con gái chị Bốn phải
lòng một anh hạ sĩ quốc gia. Chờ mãn tang anh Bốn, chị cho cưới. Đám tiệc gần
tàn, lúc ấy vào khoảng tám giờ rưỡi tối. Có người đứng ngoài rào nói vọng vào
nhà: “Khách khứa hai họ còn cả trong ấy chứ? Xin có quà mừng nhá.” Tiếp theo, một
trái lựu đạn rơi xuống, nổ ngay trên thềm nhà, bốc văng mái trước, phá nát hết
cửa lớn cửa nhỏ. Đứa con gái thoát nạn, không bị thương tích gì. Nhưng anh hạ
sĩ chết ngay tại chỗ, còn chị Bốn Chìa Vôi thì đứt đi nửa ống chân, khắp người
lỗ chỗ đều có mảnh lựu đạn ghim.
Mở mắt, bắt gặp tôi tình cờ lảng vảng trong bệnh viện tỉnh lỵ,
chị Bốn Chìa Vôi mừng rỡ, kêu lên: “May ơi là may! lại gặp bà con. Ông Trời có
con mắt, không nỡ hại người hiền lương lòng ngay dạ thẳng.”
Chị nức nở. Chị cảm động. Chị đội ơn Trời Phật đã xui khiến
người ta đưa chị đi bệnh viện kịp thời, xui khiến chị gặp lại tôi. “Thế nầy là
tui không bơ vơ, tui có chỗ nương tựa rồi. Tui sống rồi. Nó hại tui, nhưng Trời
Phật thương tui, bà con thương tui v.v...”
Tôi thuật lại câu chuyện, cả nhà không biết nói sao. Chỉ có
chút thắc mắc là chị Bốn nỡ đem cỗ thọ đường của bà tôi bán đi. Chỗ thắc mắc ấy,
tới khi các vết thương gần lành, hàng ngày ra vào gặp nhau trò chuyện, rồi chị
Bốn cũng dò hiểu tâm lý chúng tôi. Và chị chắp hai tay trước ngực van vái: “Xin
Trời Phật chứng giám, tui có lòng nào, xin cho bom đạn phân thây tui ra.” Xong
chị buông tay xuống trợn tròn mắt, kể đầu đuôi tự sự: Đêm nọ, vào quá một giờ
sáng, cán bộ gọi cửa, đồng bào thức giấc trông thấy “giải phóng” kéo về thật
đông. Nhà nào có thọ đường của ông già bà cả đều bị trưng thu trưng dụng. Quyết
định xong, thi hành liền. Bao nhiêu cỗ thọ đường trong làng bị họ khênh ra hết.
Khênh ra ngoài bóng tối, lao xao một lát, rồi biến đi đâu mất. Như thế tức là vừa
có đụng độ gần đâu đây, bên lực lượng bị thiệt hại nặng về nhân mạng. Sáng ra
ban tự quản cấp cho mỗi thọ đường có chủ thứ tốt năm trăm, thứ xấu ba trăm. Chị
Bốn ChìaVôi nêu lên vấn đề cỗ thọ đường của bà tôi. Sáu Ty hỏi: “Ai là chủ
đây?” Chị đáp: “Có tui. Tui nhận thay.” Sáu Ty: “Ủa, lại mợ.” Thế rồi nó bác bỏ,
nhất định nó bác bỏ, không cho chị nhận xu nào. Chị Bốn lại chắp hai tay trước
ngực: “Có Trời Phật chứng giám, con đòi chúng nó năm trăm đồng có phải để con
tiêu đâu. Định tâm giữ đó rồi nộp lại bà. Bà đã gởi gắm thứ nọ thứ kia cho con,
con không giữ nổi để chúng nó lấy cả đi mà không bồi thường đồng nào, con còn mặt
mũi nào gặp lại bà.” Chị đau đớn, gần khóc. Ruộng của chúng tôi, bò của chúng
tôi, chị đòi cày, ấy cũng là để giữ lấy nộp lại bà. Không thì mặt mũi nào.
Nhưng con sáu Ty, khiếp, nó nghiệt ngã không tưởng tượng được.
Nó xoi mói, vạch kẽ từng ly từng tí. Mỗi lần chị đi nộp lúa đảm phụ, nó chê lúa
lép, đem ra giê lại; lúc đưa vào cân, thiếu mấy trăm gam nó cũng đuổi về không
nhận. “Con hết lời với nó: ‘Sáu, mày nghĩ lại, hồi nào mợ hốt cứt hốt đái cho
mày, mợ rửa háng rửa khu cho mày. Mày nhận cho mợ đi, thiếu bao nhiêu rồi mợ sẽ
đem thêm tới nộp đủ.’ Nhưng mặt nó cứ như sắt nguội. Thưa bà, lòng dạ nó không
như lòng dạ mình đâu. Mình thì dễ xiêu, chứ nó...” Nó, con Sáu Ty, nó là thứ
người kỳ lạ lắm kia. Chị Bốn Chìa Vôi chồm tới, níu vai cô tôi, kéo lại thì thầm
một lát. Cô tôi xô chị ra: “Mụ nói cái quỉ gì đấy? Có thật không?” — “Trời Phật
chứng giám, nó không còn ở đời nữa, tui đặt điều thêm thắt cho nó làm gì. Vừa với
thằng Ba Thiên vừa với thằng Bướm. Ít nhất hai thằng...” Chị níu vai cô tôi,
thì thầm vào tai. Một lát, cô tôi xô chị ra, đỏ mặt: “Mụ nói yêu nói quỉ”. Chị
Bốn nhiệt liệt: “Có Trời Phật... Con mà nói dối! Rõ ràng khi con trông thấy thì
đũng quần nó hãy còn ướt nhẹp...” Chị vội vàng đưa hai bàn tay bụm miệng lại.
Nhưng chậm quá, mọi người vừa kêu la phản đối vừa sặc lên cười. Thấy thế, chị tự
cho phép bỏ bàn tay che miệng ra, và tiếp tục kể. Hôm con Sáu Ty bị phục kích bắn
ngã, đồng bào ai nấy đều bảo nhau như thế là phải, không tránh khỏi: nó mang nợ
với đồng bào nhiều quá, nó phải trả. Nghĩa quân dưới quận nhắn về làng bảo:
“Thân nhân con Sáu Ty, ai chôn cất thì hãy cột chân mà lôi, đừng nâng đầu.” Vừa
lôi xác nó nhúc nhích một cái là quả lựu đạn cài sẵn dưới đầu phát nổ ngay.
“Con nghe tin. Con vội vàng tay xách một ấm nước đầy tay mang theo chiếc chõng
tre. Con chạy thẳng ra gò định khiêng nó lên chõng, rửa ráy sạch sẽ, mặc lại đồ
đạc tử tế cho nó trước khi đặt nó vào áo quan. Thưa con đã kỳ cọ khắp người nó
trước kia, bao giờ con cũng coi nó như còn nhỏ. Con thương nó. Nhưng trời ơi,
lúc tới nơi lật manh chiếu ra trông thấy cái xác không đầu, con không còn hồn
vía nào nữa. Con quăng cái ấm đổ nước tung tóe, nhảy ngược lại, con khiếp quá,
không dám hé mắt nhìn nữa. Thưa có Trời Phật chứng giám... con thương nó lắm
kia. Mình ăn ở lòng ngay dạ thẳng v.v...”
Vừa bắt đầu chống nạn đi lại được, chị Bốn Chìa Vôi đã hoạt động.
Chị nấu giúp ấm nước cho người này, mua giùm lon sữa, trái chuối cho người khác
v.v... Chị được các bệnh nhân khác cho tiền tiêu. Chúng tôi có cảm tưởng một
mai lành bệnh hẳn, chị có thể xin một chân giúp việc nhẹ trong bệnh viện có lẽ
cũng không khó. Như thế chị sống ở thành phố, xa lánh chỗ nguy hiểm. Bây giờ chị
tàn tật rồi, không làm được việc nặng, về quê làm gì sinh sống nổi?
Trong lúc ấy, một vài người ở làng trốn ra bảo với chúng tôi:
“Nghe nói đứa con trai của mụ Bốn ném lựu đạn vào nhà giết chị đấy. Chị nó lấy
lính quốc gia là lấy kẻ định giết nó. Nó phá đám cưới. Còn con Sáu Ty? Thì
chính là mụ Bốn dẫn đường chỉ lối cho nghĩa quân phục kích chứ còn ai vào đấy?”
Chị Bốn không phải không nghe phong thanh những lời như thế.
Chị khinh thị: “Quân ấy chỉ được cái đểu giả. Thời buổi này nhà nào ở thôn quê
không thế: con bên này cha bên kia, anh bên này em bên kia. Hễ cứ em bị bắn chết
là tụi nó đồn anh hại, cha bị mìn là con hại. Nó chia rẽ. Nhưng nó qua mặt con
này sao được? Rõ ràng tiếng nói ngoài rào tối hôm đó là tiếng thằng Bướm, con
này lạ gì”. Chị cười gằn khó hiểu.
Thế rồi ít lâu, không gặp chị Bốn nữa. Hỏi lại thì ra chị đã
rời tỉnh lỵ. Chị đã về làng.
Ở thành phố, nhà chúng tôi cũng được trang điểm một cách rất
nhàm như hầu hết những nhà khác: Mặt tiền không còn được mấy tí đất, vài chậu
hoa nép sát hè, dưới bóng một cây bông giấy đỏ. Thường, trong mười nhà trồng
hoa phía trước, ở đô thị, đã có chín nhà trồng bông giấy. Giống cây mạnh lạ
lùng, không cần chăm nom gì mà nhiều lá nhiều hoa. Càng khô nắng lại càng nhiều
hoa.
Một buổi sáng, nhân theo dõi một nụ lan huệ tôi để ý đến một
vệt trắng trên lá lan. Xem đi xem lại, tôi bỗng phập phồng phấn khởi: phân
chim.
Tôi không còn bé nhỏ nữa, ồ không, tuổi nhỏ của tôi đã cách
biệt xa tít, đã bị cuộc chiến tranh, nói đúng hơn là hai cuộc chiến tranh, che
khuất từ lâu. Thật bất ngờ, tôi không tưởng tượng rằng hi vọng bắt được một con
chim có thể gây nơi lòng mình một xúc động vui mừng như thế. Y như ngày nào còn
bé thơ. Thế mới biết mối cảm tình giữa người và chim thực sâu xa vô hạn.
Ở thành phố, từ lâu chúng tôi không được gần gũi chim chóc.
Tưởng đã quên chúng, nhưng kỳ thực đâu đó trong lòng vẫn tiềm tàng một khao
khát nhớ nhung. Bỗng nhiên gặp một giọt phân chim, niềm vui bừng dậy. Thế ra
đêm đêm vẫn có chim ngủ sát ngoài hiên nhà? Ở đâu? Trên một nhánh bông giấy nào
đó chăng?
Buổi tối, tôi rình chờ, không thấy con chim nào về ngủ cả.
Vài ba hôm sau, trên lá lan, lại có một hạt phân chim trăng trắng nữa. Tối đến,
rón rén ra xem vẫn không thấy chim đâu. Thì ra mãi đến lớn, sống quá nửa đời
người tôi vẫn không tìm được cơ hội tự mình bắt con chim tự do. Tôi chỉ có thể
thưởng thức cái thú vuốt ve, ngắm nghía những con chim do chị Bốn Chìa Vôi cho.
Tôi nghĩ đến chị Bốn.
Chị trở về làng làm gì? Chị đã mất một người chồng, một đứa
con rể ở làng. Chị đã mất đi nửa ống chân và quá nửa ngôi nhà ở làng. Một đứa
con gái dở dang và một đứa con trai thất lạc... Như vậy không đủ ê chề rồi sao?
Chị còn trở về làng làm gì với thân hình thủng nhiều vết và với cặp nạng? Dĩ
nhiên không phải vì mấy đám ruộng và mấy con bò của chúng tôi. Tôi lấy làm hổ
thẹn và hối hận. Sao trước kia chúng tôi có thể bất bình với chị vì những thứ
đó được nhỉ? Nó nhỏ mọn biết bao! Chúng tôi đã sợ hãi, đã bỏ chạy. Cái nơi mà
chúng tôi lánh xa, chị Bốn nhất định lần về. Lần này, tôi tin thái độ của chị
không do lòng tham lam. Để có thể thản nhiên trở về chỗ tử địa, chỗ sấm sét ấy,
con người phải được hướng dẫn bởi một thứ tình cảm mãnh liệt. Không biết là thứ
tình cảm gì, tốt hay xấu, nhưng nó phải thực mãnh liệt. Chỉ nghĩ đến mức độ
mãnh liệt ấy đã cảm thấy mọi so đo tính toán đều nhỏ mọn, không xứng.
Chị Bốn Chìa Vôi về làng được ba tháng, có người nói chị bây
giờ như con hổ thọt. Chị dữ tợn vô song. Thằng Bướm — em vợ của Ba Thiên — bị
phục kích hai lần, đều do chị mách. Ba Thiên cho vợ về quận qui chánh. Thím Ba
nhờ Hai Mỏ Gảy vận động với Tư Huệ Héo, tìm cách đưa chồng trở về. Nhưng chị Bốn
Chìa Vôi thì cứ lồng lên: Nó mang nợ với đồng bào nhiều quá lắm. Nó phải trả. Hồi
chánh thế nào được.
Chị Bốn đứng về phe nhất định đòi nợ. Họ rình rập, nghe
ngóng, thề không để cho Ba Thiên lọt tới cơ quan hữu trách. Họ phải đón Ba
Thiên giữa đường.
Lấy oán báo oán, oán oán chập chồng. Biết bao giờ gỡ xong.
Nhưng họ say rồi, họ bị thu hút vào cơn lốc.
Một buổi sáng vô vị ở chỗ đô thị, nhìn giọt phân chim nhỏ
trên lá tôi bồi hồi nghĩ đến chị Bốn Chìa Vôi. Cuộc đời của chị, ngày nay, bỗng
nhuốm vẻ bi đát, khốc liệt, làm cho sự yêu ghét trách giận của những kẻ ở chỗ
yên ổn như tôi đều không xứng đáng. Chị Bốn Chìa Vôi, người đàn bà thô tục, tuệch
toạc ấy.
Cuối năm, chúng tôi càng chú ý nhiều hơn đến mấy chậu hoa trước
hè. Do sự chăm sóc ấy, tôi có dịp làm gãy một nhánh lan.
Thứ lan huệ, hoa nó màu tím, cánh mỏng, trông rất mong manh.
Nhất là hoa nở ở đầu chót một cọng tròn bằng que tăm mà dài ngót nửa thước tây,
vì vậy càng có vẻ mong manh. Mỗi cơn gió thoảng làm chùm hoa gật gù gật gù,
cánh hoa mấp máy rung rinh.
Tiếc nhánh hoa, tôi đem cắm nó vào một ly nước. Sáng hôm sau,
vẫn còn tươi, tuy không nở thêm chiếc hoa nào. Đầu cành có hai hoa nở, một nụ lớn,
hai nụ bé; và tình trạng vẫn nguyên như thế sau hăm bốn giờ.
Sáng ngày sau nữa, trông lên bàn, thấy nó vẫn còn đó, mong
manh mà nguyên vẹn. Tôi ngạc nhiên. Nụ lớn bằng đầu ngón tay út, vẫn cứ no đầy,
tuy không hé ra nổi. Suốt ngày hôm ấy, thỉnh thoảng tôi thăm chừng. Nó có vẻ cầm
cự được đến chiều. Chiều, quả nhiên vẫn tươi.
Hôm sau, thức giấc, tôi ngước mắt tìm nó liền. Vẫn tươi. Sau
bảy mươi hai giờ, chỉ được tiếp tế nước qua một nhánh nhỏ như que tăm, cả hoa cả
nụ vẫn không hề hấn gì. Cánh hoa mỏng như tờ giấy, sức chịu đựng của nó bền bỉ
lạ. Tôi càng tò mò.
Hôm sau nữa, cuống hoa bắt đầu nhăn rồi. Tuy vậy tất cả chưa
sụm hẳn. Nó còn đương đầu nổi ít ra trọn ngày hôm ấy. Chín mươi sáu giờ? Mấy
đóa hoa mong manh như thế, lìa khỏi thân cây, vẫn tiếp tục tươi tắn trong khoảng
thời gian đủ cho quân đội Do Thái phát khởi và kết thúc một cuộc chiến tranh.
Chiến tranh có thể có những hình thức bạo liệt mà chớp nhoáng
như vậy. Nghĩ đến cuộc chiến tranh ấy rồi nghĩ đến thứ chiến tranh trên đất nước
mình! Nó phát khởi từ ngày chị Bốn Chìa Vôi chưa chồng cho tới ngày nay, đứa
con trai của chị đến tuổi gia nhập “lực lượng”, vác súng “bia” lên trời đoành
đoành. Nó phát khởi từ ngày chị Bốn Chìa Vôi rửa ráy kỳ cọ khắp người con Sáu
Ty, cho đến ngày nay Sáu Ty trở thành cán bộ chấp hành chính sách một cách khắt
khe, ngã gục, để không còn đầu cho chị Bốn rửa lần cuối.
Người ta vẫn trách nền văn hóa chúng ta thiếu những công
trình đồ sộ: không có Vạn Lý Trường Thành, không có Đế Thiên Đế Thích, thậm chí
cũng không có những kiến trúc bằng cỡ tháp Chàm. Hôm nay thì chúng ta có thể
vênh mặt lên vặn hỏi: Thế cuộc chiến tranh phần tư thế kỷ của chúng tôi? Vĩ đại
chớ?
Và chắc chắn không còn ai dám cãi. Đánh nhau vào hậu bán thế
kỷ thứ hai mươi không phải là trò chơi. Hãy tính số bom rơi trên đất nước Việt
rồi chia cho từng đầu người xem; hãy tính số phát đạn cỡ lớn cỡ nhỏ bắn ra
trong một trận đánh tại Việt Nam xem; chúng ta có ngay những con số danh dự, khả
dĩ so sánh với bất cứ thành tích của bất cứ cuộc chiến tranh quốc tế nào, từ
Thái Bình dương qua Đại Tây dương.
Trong những trường hợp hùng biện long trọng, trên các diễn từ,
tuyên ngôn v.v... ít khi các chính khách quên nhắc đến hơn hai mươi năm khói lửa,
phần tư thế kỷ quằn quại v.v...; trong thơ phú văn chương, văn nhân nghệ sĩ
cũng không ngớt nói đến phần tư thế kỷ quằn quại, hơn hai mươi năm khói lửa.
Con số càng lớn, khả năng xúc động càng cao. “Phần tư thế kỷ... dân tộc đau
thương...”, lắng kỹ mà nghe: trong câu văn, trong giọng nói của những kẻ đề cập
đến cuộc chiến tranh vĩ đại in tuồng có ngầm phảng phất chút gì như sự kiêu
hãnh! Không sao?
Đối với những người như chị Bốn Chìa Vôi, một phần tư thế kỷ
trước, chỉ thấy ở chị mấy nét tinh ranh, tính chai lỳ, lối ăn nói tục tĩu. Đã hẳn
không phải đó là những nết quí đáng mơ ước. Nhưng những gì nhận thấy ở chị một
phần tư thế kỷ sau thực đáng ngại. Có phải đích là chị đã lập tâm hại con Sáu
Ty? Tôi không dám tin hẳn lời đồn của nhiều người. Tuy vậy những khi chị Bốn
Chìa Vôi thuật lại cái chết của Sáu Ty và kết thúc: “Con thương nó, con thương
nó lắm kia”, trông nét mặt và nghe giọng nói của chị có cái gì rờn rợn. Chị có
giết người hay không giết người, có “đòi nợ” hay không “đòi nợ”, những gì xảy
ra ở chốn hỗn độn ấy đều vô bằng, khó minh xác; nhưng trong tâm hồn chị rành
rành đã có một yếu tố mới. Nó làm cho lời ăn tiếng nói chị khác đi, hành vi
phong thái của chị khác đi, khác trước một cách đáng sợ.
Mà chị biết làm sao được? Chị sống giữa hoàn cảnh như thế,
trong hỏa ngục, trong giết chóc, xâu xé hàng ngày, chị phải tả xông hữu đột để
tranh sống. Làm sao ngăn cản ảnh hưởng một hoàn cảnh ác liệt như thế khỏi thấm
nhiễm vào tâm hồn chị? Ngày một ngày hai, chị biến cải. Cuộc chiến kéo dài lâu
quá: Trong nguy biến chị phản ứng tàn nhẫn, rồi quen với những phản ứng ấy.
Mai sau, khói lửa với quằn quại chấm dứt, nhưng cái nét tàn
nhẫn nọ rồi có sẽ lưu lại như một di tích trong tâm hồn chị và những người như
chị, lưu lại như một thêm thắt vào cái vốn các đặc tính truyền thống của dân tộc
chăng?
Chém giết, dù kịch liệt đến thế nào, trong một trăm, hai trăm
giờ rồi ngừng, thì chuyện có thể trôi qua. Nhưng chém giết lọc lừa suốt phần tư
thế kỷ, như thế liệu có thành một tập quán sinh hoạt gây tệ hại tâm lý lâu dài?
Tôi theo dõi con chim quí báu ở đô thị nép ngủ trước hiên nhà
tôi. Buổi chiều, không hề trông thấy nó về. Tối, nửa đêm, tôi thình lình rón
rén hé cửa bước ra, soi tìm. Vẫn không thấy. Một đêm mưa lạnh, tôi nghĩ nó phải
tìm xuống đậu những cành thấp. Họa may dễ trông thấy hơn chăng. Tôi hé cửa, rón
rén. Lại chẳng thấy gì.
Ngẫu nhiên, một buổi sáng, trên bàn viết tôi bắt gặp một vết
phân trắng y hệt trên lá lan. Thế này thì là một chú thạch sùng rồi!
Trời, lẫn lộn chim chóc với bò sát. Sự ngộ nhận không thể tha
thứ được. Cuối năm, tôi ghi nhận thêm một sự sai lầm nham nhở, bẽ bàng.
1967
Võ Phiến
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét