NHẠC SĨ PHẠM DUY ĐÃ
“NGHÌN TRÙNG XA CÁCH”
Thanh Niên – Thế là nhạc sĩ Phạm Duy đã đi vào cõi vĩnh hằng vào chiều nay 27.1, để lại
một khoảng trống trong đại gia đình âm nhạc Việt Nam và một “nỗi buồn sông
nước” vang ra từ những lời ca ông đã viết: “Chiều rơi trên đường vắng - có
ta rơi giữa chiều - hồn ta theo vạt nắng - theo làn gió đìu hiu”…
>> Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
>> Nghe những bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy
>> Ca sĩ Ánh Tuyết: “Nghe tin ông qua đời, người tôi như tan chảy…”
>> Nghe những bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy
>> Ca sĩ Ánh Tuyết: “Nghe tin ông qua đời, người tôi như tan chảy…”
Ca từ ấy cách đây chưa lâu đã được Phạm Duy nhắc đến khi chúng tôi đến
thăm ông vào dịp kỷ niệm sinh nhật của nhạc sĩ đầu tháng 10.2012 vừa
rồi.
Buổi sáng hôm đó trời Sài Gòn mưa
sớm và mưa to đột ngột. Từ trong nhà, Nhạc sĩ Phạm Duy bước ra gần cửa, đứng trên
hàng hiên có lát những viên gạch đỏ hồng, trông ông vẫn còn “phong độ” trong bộ
đồ màu đen và mái đầu bạc trắng. Vào nhà, ông ngồi trên chiếc ghế nệm khá rộng
màu đỏ. Trước mặt chúng tôi là tượng điêu khắc chân dung ông, trên tường treo
bức tranh của họa sĩ Hồ Thành Đức vẽ tặng ông đã lâu. Cạnh đó có treo bảng danh
hiệu “Bàn tay vàng của danh nhân” ông vừa nhận được hồi tháng 8.2012.
Lúc
ấy, chúng tôi không nghĩ rằng ông sẽ ra đi trước Tết Quý Tỵ thế này, vì tuy
đang mang “bệnh tuổi già với nhiều biến chứng” như ông nói, nhưng trông sắc diện
và giọng nói của ông vẫn chưa đến nỗi báo trước ngày “Nghìn trùng xa cách” như
chiều nay.
Hôm
đó, ông nói về lịch sử âm nhạc lãng mạn của Việt Nam, vui vẻ khẳng định “mình
có thể nói bất tận ngày này sang ngày khác” về đề tài trên. Song lần đó vào
sinh nhật của ông, câu chuyện lại nóng lên quanh “ngày sinh của tình ca” trong
cái “thuở ban đầu” của tân nhạc Việt Nam. Vì ông bảo giai đoạn đó đã xuất sinh
những “hạt mầm” để về sau trưởng thành nên những cây đại thụ của âm nhạc Việt
Nam. Nhưng đâu là cái mốc để đánh dấu?
Ông đưa ra câu trả lời rất nhanh như
đã có sẵn trong đầu: “Cái mốc lớn đánh dấu sự xuất hiện của âm nhạc Việt
Nam mà tới nay thế hệ trẻ yêu âm nhạc ở trong cũng như ở ngoài nước ít khi nhắc
đến. Đó là cái mốc tôi khẳng định không thể quên là vào đầu năm 1938, khi nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tuyên lần đầu tiên đăng đàn lên tiếng vận động cho âm nhạc cải
cách tại Hà Nội và Hải Phòng vào tháng 3 năm ấy. Trong các buổi vận động nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tuyên đã giới thiệu ba bài hát của mình là: Bông cúc
vàng, Anh hùng ca và Một kiếp hoa…”.
Phạm Duy nói trong ba bài ấy thì
bài Bông cúc vàng sử dụng thang âm ngũ cung Việt Nam nghe buồn
mênh mang. Ông nhận xét bài Một kiếp hoa mang âm giai thất
cung với ca từ thổn thức theo ngọn gió đông mà ông thuộc lời và nhắc: “Quét tan
tành những cánh hoa vô tội - ta tưởng đâu như những mảnh tình xưa (…) Hoa
tan tác lòng ta tan tác - một kiếp hoa, kiếp người đâu khác!”.
Khi ông nói, ngoài trời vẫn mưa lớn
lắm. Ông chợt nhìn vào pho tượng của đức Quan Thế Âm Bồ tát đặt trước mặt ông,
ngay chỗ tiếp khách. Chúng tôi không hiểu do tình cờ hay do nhắc đến “kiếp
người” mà ông nhìn vào pho tượng Bồ tát Quan Âm cứu khổ cứu nạn như thế. Chúng
tôi cũng lặng im một lát nhìn ông, rồi nghe ông phân tích tiếp rằng hai bài ca
cải cách đầu tiên của tân nhạc nước ta “đều là hai bài ca buồn các ông ạ, nó
như một quyến rũ đối với thế hệ sáng tác những tình ca tiếp đó. Cũng trong thời
điểm có các bài nhạc “mở đầu” cho âm nhạc cải cách (musique renovée) nêu trên,
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã phổ nhạc những bài thơ của Thế Lữ như Hồn
xuân, Chờ đợi bình minh”, Phạm Duy hồi tưởng.
Ông cũng nhắc đến đỉnh điểm của tình
ca “trào lên ngọn” với một loạt nhạc phẩm lãng mạn tiên phong như Bẽ
bàng của Lê Yên và Văn Chung với Biệt ly, Trở lại cùng anh của
Dzoãn Mẫn và tình ca của các nhạc sĩ như Văn Cao, Lê Thương, Hoàng Quý, Đặng
Thế Phong, Hoàng Giác, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, La
Hối, Nguyễn Mỹ Ca…
Ông
nói dù đi Mỹ hay đi Tây, dù còn đang trẻ phơi phới hay tóc bạc trắng như mây,
thì ông không bao giờ quên “thuở ban đầu” ấy.
Trong câu chuyện ông nhắc đến xu
hướng nhạc yêu nước trong giai đoạn đầu của tân nhạc Việt Nam lúc phong trào
nhạc cải cách đã ra đời và phát triển từ những năm đầu thập niên 1940 về sau
như các bài của Thẩm Oánh: Trưng nữ vương, Bình Định vương, Hưng Đạo
vương - và của Lưu Hữu Phước với: Bạch Đằng giang, Ải Chi
Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Nam tiến…
Trong những năm tham gia kháng chiến
chống Pháp, ông nói ông vui mừng được gặp nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát ở Bắc Cạn.
Phạm Duy cho biết ông rất thích bài Gọi nghé của Nguyễn
Xuân Khoát sáng tác năm 1947, tác phẩm này đã đọng lại trong ông rất
nhiều, để sau này ông viết một số bài có âm hưởng dân ca, chẳng hạn như Nương
chiều với các câu: “Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ - cho ngày mùa
bài hát nên thơ, ơi chiều - chiều ơi, mái nhà sàn thở khói âm u – cô nàng
về để suối tương tư, ới chiều…”.
Những
bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy
|
Nói
tới đó, ông đứng dậy dẫn chúng tôi qua phòng nhỏ bên cạnh chỗ đang ngồi, chỉ
cho chúng tôi xem một số sách về âm nhạc mà ông đã lưu tâm, sắp xếp
cẩn thận trong các lồng kính. Nhìn lên tường, chúng tôi thấy có bức chân dung
của nhạc sĩ Phạm Duy chụp bởi nhiếp ảnh gia Mừng, trên nền bức ảnh có viết câu:
“Mời người lên xe về miền quá khứ”.
Đó là một câu trong bài Nghìn
trùng xa cách mà ông bộc bạch (nói “mình” thay vì “tôi” thân mật):
“Mình viết bài này là để tặng cho một người tình trước khi cô ấy lên xe hoa, cô
trẻ hơn mình đến hơn 10 tuổi, lúc mình 28 tuổi cô ấy mới 16 tuổi. Mình viết tới
khoảng 50 tình ca cho cuộc tình đó, trong đó có bài Cỏ hồngvới mấy
câu đại ý rước em lên đồi cỏ xanh ngập lối, lấy khung cảnh từ Đà Lạt những ngày
rất mộng kia”.
Rồi ông lại quay về chỗ tiếp khách.
Chỗ ấy nhìn thẳng ra cửa có treo một khung nhạc rất lớn ở phía trên, mà đứng
dưới đất nhìn lên, chúng tôi thấy rõ là bản Tình ca với mấy
câu chép khá to giữa các dòng nhạc kẽ: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra
đời - người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à ơi tiếng ru muôn đời”.
Đọc
và thầm hát bài nhạc đó, chúng tôi muốn hỏi nhạc sĩ Phạm Duy đôi điều mà một số
nhà văn, nhà báo trước đây ví ông như “người tình già” đã “trở về mái nhà xưa”.
Ông
về Việt Nam đã 7 năm nay và vẫn sống trong căn nhà mà chúng tôi đến thăm nằm
trên đường Lê Đại Hành, Q.11, TP.HCM, trong con hẻm lớn cách đường lộ đông đúc
xe cộ khoảng vài chục mét nên khá yên tĩnh. Ở đó, ông thân mật nói với chúng
tôi “một chút riêng” về lý do tại sao ông trở về Việt Nam. Ông nói điều đó với
giọng trầm buồn, mà tốt hơn hết có lẽ chúng tôi cần để nguyên văn câu giải
thích qua hồi ký của ông.
Ông
viết rằng ở Mỹ, ông trầm mình trong cơn buồn bã và nhớ nhung: “Đó là chưa kể
việc tôi thấy tôi đã mất dần cái quần chúng nghe nhạc đáng quý của thời xưa
rồi. Nhạc đứng đắn mang tính chất quốc gia, dân tộc không còn được nhiều người
thích nghe nữa. Lớp người Việt qua Mỹ đầu tiên nay đã già cả rồi, đã yên phận
cả rồi, đã quen với đời sống thầm lặng ở Mỹ rồi. Mang con sang Mỹ chúng trở
thành bác sĩ, luật sư cả rồi, nhưng chúng mời cha mẹ vào ở “nursing house” cả
rồi.
Thế
hệ thứ hai (second generation) này - đặc biệt là ở Hoa Kỳ – tức là lớp
tuổi 20 còn coi nhạc Việt là một sản phẩm văn hóa rất xa lạ. Chúng chỉ nghe
nhạc Mỹ, âm nhạc Việt Nam bây giờ, than ôi, muốn được nhiều người mua và nhiều
người nghe phải phù hợp với khối óc và con tim của lớp người Việt sang Mỹ sau
cùng. Và nói chung, vì không hay hơn hoặc hay ngang với nhạc thời trước 1975,
âm nhạc bây giờ đã xuống cấp. Cũng dễ hiểu thôi, trong môi trường “nhạc thương
mại”, trình độ thưởng thức cùng với bài bản và ca sĩ, cả ba yếu tố này phải trở
thành tầm thường hay dung tục”.
Ông
nói buổi đầu về lại Việt Nam, ông rất bất ngờ với cảnh đón nhận các CD và một
số chương trình ra mắt nhạc phẩm của ông phát hành tại Việt Nam từ TP.HCM, Đà
Nẵng, Huế cho đến Hà Nội, với sự chuẩn bị nhiệt tình của Công ty văn hóa Phương
Nam: “Tôi cảm động vì được trở về trong lòng của người yêu âm nhạc tại Việt
Nam, điều ấy tôi không tìm thấy trong những tháng năm xa xứ.
Điều nữa, trong những ngày về lại
Việt Nam, tôi nhớ đến vợ tôi là cô Thái Hằng mà trước đó nếu tôi về sớm hơn thì
đã đưa thêm Hằng về nữa và có lẽ Hằng sẽ rất xúc động đến không ngờ vì khán giả
Việt Nam vẫn còn yêu quý chồng mình. Đối với tôi, Thái Hằng là một á thánh của
hạnh phúc gia đình, đã mất ở nước ngoài vào tuổi 73 vì bệnh ung thư. Nhưng phần
nào tôi rất ấm áp khi có mặt ở Việt Nam để tự giới thiệu về các nhạc phẩm trong
CD của mình, không lẻ loi, cô độc mà bên cạnh có bốn con trai của tôi là Duy Quang hát các bài trong CD, Duy Cường
thì hòa âm chơi keyboard, bên cạnh có tiếng đàn của Duy Hùng và tiếng trống của
Duy Minh hòa vào nữa”.
Trong số những bài ông giới thiệu
nhân ngày trở về có một số phổ thơ của Huy Cận (Ngậm ngùi), thơ
Xuân Diệu (Mộ khúc), thơ Hữu Loan (Áo anh sứt chỉ đường tà), thơ
Huyền Chi (Thuyền viễn xứ). Nhân đó ông nhắc, bài thơ tiêu biểu
nhất trong giai đoạn đầu tiên được ông phổ thành ca khúc từ năm 1945 là
bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư: “Tôi xem đó như bài hát phổ
thơ thành công đầu tay do mình viết trong cuộc đời làm âm nhạc của mình”.
Ông lại nhắc đến một bài khác cũng
của Lưu Trọng Lư đã được ông phổ nhạc đến nay vẫn còn làm rung động người yêu
nhạc: đó là bài Vần thơ sầu rụng với những câu có thể ứng với
nỗi buồn khi ông đã đi xa vào chiều nay: “Giờ đây trên sông hoa rụng tơi
bời - còn đâu bước chân người - mơ trên đường chiều rơi”.
“Chiều” đã “rơi”, nhưng tiếng vang
của Tình ca, của Hẹn hò, của Viễn du,
của Trường ca Mẹ Việt Nam vẫn còn đó bên lời vĩnh biệt nhạc sĩ
Phạm Duy - cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam.
TP.HCM,
viết nhanh chiều vĩnh biệt 27.1.2013!
Trước khi qua đời, nhạc sĩ Phạm Duy đã dành cho Thanh
Niên những giây phút trải lòng trong loạt bài 7 kỳ “Phạm
Duy và bạn thơ“. Mời độc giả xem thêm:
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét