Trong thi ca Việt Nam từ trước tới nay, nhiều thi sĩ đã có ý
thức rất rõ rệt về việc vận dụng nhạc tính có sẵn của các thanh điệu để tạo nên
sức biểu cảm cho những câu thơ, khổ thơ.
Ấn phẩm 100 năm Bích Khê, do Hội Văn học Nghệ thuật
tỉnh Quảng
Ngãi phối hợp cùng Hội Nhà văn Việt Nam
và Viện Văn học tổ chức Hội thảo và xuất
bản
Thế nhưng, để tạo một nhạc tính độc đáo cho toàn bộ văn bản,
nghĩa là ở cấp độ bài thơ thì các tác phẩm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vậy mà
Bích Khê (1916 - 1946), một trong những đại diện ưu tú của phong trào Thơ Mới
(1932 - 1945) đã làm được điều đó tới hai lần qua các tác phẩm: Tỳ Bà và
Hoàng hoa, là những bài thơ được viết hoàn toàn với thanh bằng.
Những tiền đề:
Việc sử dụng liên tiếp những thanh bằng hoặc thanh trắc đi liền
trong một dòng thơ trước đó đã từng xuất hiện và in dấu trong thơ Tản Đà qua
hai câu nổi tiếng ở bài Thăm mả cũ bên đường: Tài cao phận thấp chí
khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Câu thứ nhất gồm 5 thanh trắc đi liền: "phận thấp chí
khí uất" cùng sự có mặt của các phụ âm tắc vô thanh/ p, t/ kết thúc âm tiết,
diễn tả được cảm giác bi phẫn, bế tắc, bức bối, ngột ngạt, uất ức.
Ngay lập tức, câu thơ thứ hai gồm 7 thanh bằng đi liền với
nhau như một sự giải tỏa, giải phóng con người khỏi những kìm hãm trói buộc, để
trở thành một lãng tử ngao du rong chơi quên ngày tháng.
Cũng trong phong trào Thơ Mới, Thế Lữ trong tập Mấy vần
thơ (1935) cũng có một bài thất ngôn khá độc đáo mà ở đó, mỗi câu chỉ sử dụng
duy nhất một thanh điệu cho cả bảy âm tiết trong dòng thơ: Trời buồn làm
gì trời rầu rầu/ Anh yêu em xong anh đi đâu/ Lắng tiếng gió, suối, thấy tiếng
khóc/ Một bụng một dạ một nặng nhọc/ Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi/ Nghĩ mãi gỡ
mãi lỗi vẫn lỗi/ Thương thay cho em căm thay anh/ Tình hoài càng ngày càng tày
đình (Tình hoài).
Sự thay đổi liên tục các âm vực diễn tả dòng cảm xúc ngổn
ngang, rối bời trong lòng người con gái với rất nhiều cung bậc buồn bã, đau khổ,
uất nghẹn, bi phẫn và tuyệt vọng về một tình yêu nay không còn nữa.
Sau Thế Lữ, hoàng tử thơ tình Xuân Diệu, người từng được người
đương thời suy tôn là "nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới" cũng
có những câu thơ đầy huyền ảo trong bài Nhị hồ (trong tập Thơ
thơ in năm 1938) sử dụng liên tiếp các thanh bằng: Sương nương theo
trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng lòng lên chơi vơi".
Hai bài thơ của Bích Khê
Bích Khê khi còn sống chỉ in đúng một tập thơ duy nhất, đó là
tập Tinh huyết, được Trọng Miên in xong ngày 30 tháng 12 năm 1939 tại nhà
in Thụy Ký, 98 phố Hàng Gai, Hà Nội.
Tập thơ với 35 bài gồm 104 trang khổ 21x16 cm, đầu sách có lời
tựa "Bích Khê, thi sĩ thần linh" của Hàn Mặc Tử, cuối sách có lời Bạt
của Trọng Miên. Tập thơ chia làm bốn phần với các đề mục: Nhạc và Lệ, Đẹp và Dâm,
Cuồng và Ánh sáng, Châu.
Hai bài thơ độc đáo Tỳ bà và Hoàng hoa đều
nằm trong phần thứ nhất của thi tập - phần Nhạc và Lệ.
Bài Tỳ bà gồm 28 câu thất ngôn chia làm 7 khổ
nguyên văn như sau: Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm/ Trăng đan qua cành
muôn tơ êm/ Mây nhung pha màu thu trên trời/ Sương lam phơi màu thu muôn nơi/
Vàng sao nằm im trên hoa gầy/ Tương tư người xưa thôi qua đây/ Ôi! Nàng năm xưa
quên lời thề/ Hoa vừa đưa hương gây đê mê/ Cây đàn yêu đương làm bằng thơ/ Dây
đàn yêu đương run trong mơ/ Hồn về trên môi kêu: em ơi/ Thuyền hồn không đi lên
chơi vơi/ Tôi qua tim nàng vay du dương/ Tôi mang lên lầu lên cung Thương/ Tôi
không bao giờ thôi yêu nàng/ Tình tang tôi nghe như tình lang/ Yêu nàng bao
nhiêu trong lòng tôi/ Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi/ Đâu tìm Đào Nguyên cho
xa xôi/ Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi/ Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu/
Sao tôi không màng kêu: em yêu/ Trăng nay không nàng như trăng thiu/ Đêm nay
không nàng như đêm hiu/ Buồn lưu cây đào xin hơi xuân/ Buồn sang cây tùng thăm
đông quân/ Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh
mông.
Trước Bích Khê, quả thực thơ Việt chưa bao giờ có một bài thơ
với lối diễn tả thanh điệu đặc biệt và độc đáo như thế. Thi phẩm, có thể nói đã
gây ấn tượng mạnh mẽ với người đương thời, từ giới sáng tác đến các công chúng
yêu thơ.
Xuất phát từ thi tứ tả tiếng đàn, các thanh bằng tràn ngập và
tuyền điệu trong thi phẩm như cuốn hồn người đọc lâng lâng theo những nhịp
nhàng trầm bổng của âm nhạc và cảm xúc yêu đương. Hai câu thất ngôn khép lại
bài thơ được Hoài Thanh xếp vào những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt
Nam hiện đại.
Và rõ ràng không phải ngẫu nhiên, bài thơ Tỳ bà được rất nhiều
nhạc sĩ phổ nhạc thành ca khúc. Có ít nhất bốn bản phổ của các nhạc sĩ Phạm Duy,
Phú Quang, Nguyễn Tuấn Chương và Trương Thìn, trong đó nổi tiếng nhất là bản của
Phạm Duy phổ năm 1949 và được thu âm từ trước 1975 qua giọng hát Thái
Thanh.
Toàn bộ phần lời của thi phẩm gần như được giữ nguyên vẹn, chỉ
thay đổi một vài từ không đáng kể. Cấu trúc tuyền thanh bằng của lời thơ được
giữ nguyên trong phần ca từ của bài hát. Giai điệu ca khúc thật đẹp, dìu dặt
như một điệu nhảy, xoắn luyến điệp trùng, ngân nga tình tứ từ câu đầu đến câu kết,
được nhạc sĩ ký âm với nhịp 12/8 theo điệu thức mi giáng trưởng.
Sau Thái Thanh, nhiều ca sĩ sau này cũng có bản thu âm và
trình diễn bài Tỳ bà như Quỳnh Dao, Tấn Minh song với tôi, tiếng hát
Thái Thanh vẫn là tiếng hát đắm đuối và mê mị nhất.
Bài bình thanh thứ hai, Hoàng hoa, có dung lượng ngắn hơn, chỉ
gồm 18 câu thất ngôn chia làm ba khổ mỗi khổ 6 câu: Lam nhung ô! màu lưng
chừng trời/ Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi/ Vàng phai nằm im ôm non gầy/ Chim
yên eo mình nương xương cây/ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa/ Đông nam mây đùn
nơi thành xa…/ Oanh già theo quyên quên tin chàng! Đào theo phù dung: thư không
sang!/ Ngàn khơi, ngàn khơi, ta ngàn khơi/ Làm trăng theo chàng qua muôn nơi/
Theo chàng ta làm con chim uyên/ Làm mây theo chàng bên nhung yên/ Chàng ơi! Hồn
say trong mơ màng/ - Hồn ta! Hay là hồn tình lang?/ Non Yên tên bay ngang muôn
đầu…/ Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?/ - Ai xây bờ xanh trên sương người?!/ Ai
xây mồ hoa chôn đời tươi.
So với Tỳ bà, bài Hoàng hoa không nổi tiếng bằng,
âm điệu cũng buồn hơn, đặc biệt là hai câu kết hơi bế tắc và u uất. Tuy nhiên về
mặt diễn tả thanh điệu, Hoàng hoa cùng với Tỳ bà giống như
hai viên ngọc lung linh, nhiệm màu trong các sáng tác của Bích Khê trước Cách mạng,
tạo ra một ấn tượng độc đáo về biểu cảm nhạc tính, có thể coi là mẫu mực cho những
người sáng tác ở thế hệ sau.
Bài Hoàng hoa sau này cũng được Phạm Duy phổ nhạc
cùng 8 bài thơ khác, tạo thành một album mang tên Dị khúc Bích Khê được
phát hành năm 2011.
Theo tư liệu gia đình kể lại cùng các hồi ký của bè bạn, hai
bài Tỳ bà và Hoàng hoa được viết ra đều để dành tặng riêng
cho một người con gái có tên là Ngọc Kiều - một trong những mối tình của Bích
Khê. Do gia đình cô gái cấm đoán, hai người không thể thành vợ thành chồng, mối
tình mãi mãi dang dở nhưng những phút giây hạnh phúc bên nhau mãi là kỷ niệm đẹp
nhất trong cuộc đời.
Vỹ thanh:
Sau Bích Khê, nền thơ Việt Nam hiện đại vẫn còn bắt gặp những
câu thơ với nhiều thanh bằng liên tiếp, vừa tạo ra nét đặc biệt về nhạc tính, vừa
có giá trị hình tượng cao.
Điển hình nhất phải kể tới là những câu thơ bảy chữ trong bài
thơ Tây tiến của Quang Dũng: Mường Lát hoa về trong đêm hơi (...) Ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi (...) Mai Châu mùa
em thơm nếp xôi (...) Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Thế nhưng cũng kể từ sau Quang Dũng, hiếm gặp những câu thơ
bình thanh hoặc lộng lẫy, hoặc buồn bã, hoặc du dương như trước nữa. Những câu
thơ bình thanh làm cho hay đã khó, mong chi có những bài thơ bình thanh toàn bộ
như cách mà Bích Khê đã làm.
Cho mãi đến năm 1995, tôi mới bắt gặp một bài thơ đăng báo của
Dương Quốc Phương Huy viết hoàn toàn với thanh bằng với nhan đề Tương tư: Buồn
gần như ngày chưa quen em/ Hồn tôi lang thang như đi tìm/ Tìm đâu tri âm trong
sương đêm/ Tìm đâu tri âm cho con tim/ Đêm nay ai gieo sầu lưng trời/ Trăng
gieo muôn vàng trên vai tôi/ Than ôi nhưng trăng thì xa vời/ Mà đêm vô cùng đêm
chơi vơi/ Chưa yêu em sao lòng nghe buồn/ Tay nâng dây đàn sao không buông/ Trời
ơi sao tôi còn yêu đời/ Thuyền ơi sao thuyền chưa ra khơi/ Trăng ơi đêm mai còn
gieo vàng/ Tôi ơi mai còn tương tư chăng?
Bài thơ của Dương Quốc Phương Huy gồm 14 câu bình thanh, viết
sau Bích Khê hơn nửa thế kỷ nhưng theo quan điểm của tôi, vẫn chưa vượt ra được
khỏi cái bóng lồng lộng mà Bích Khê để lại, các thi ảnh, cấu trúc trong bài thơ
chưa có nhiều tìm tòi đổi mới, còn sử dụng lại những thứ đã quen thuộc, mòn sáo
như: sương đêm, gieo vàng, nâng dây đàn…
Ước mơ có thêm những tuyệt phẩm bình thanh như Tỳ
bà và Hoàng hoa của Bích Khê có lẽ vẫn còn là điều phải chờ đợi.
Đọc lại hai thi phẩm lừng danh của ông, càng thấy trân trọng
thêm một tài năng thi ca, rực rỡ mà yểu mệnh, thế nhưng với những gì ông đã viết
ra và để lại cho đời, đủ để làm ông sống mãi trong lòng người yêu văn chương Việt: Thân
bệnh: ngô vàng mưa lá rụng/ Bút thần: sông lạnh bóng sao rơi/ Sau nghìn thu nữa
trên trần thế/ Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi (Đề bia trước mộ).
4-4-2019
Đỗ Anh Vũ
Nguồn: ANTGGTCTO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét