Lâu nay người ta quen nghĩ, Phật giáo chỉ chú trọng và đề cập đến vấn đề
tâm linh và giải thoát, ít người nghĩ tới Phật giáo còn ôm chứa nhiều lĩnh vực
cũng như các ngành thuộc đời sống kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt là vai
trò của thiền đối với một số bộ môn nghệ thuật.
Điều mà ta dễ nhận thấy đó là vai trò của thiền trong thơ ca, hội họa và âm
nhạc. Nhạc sĩ Văn Cao tác giả (quốc ca) của chúng ta có nhiều tác phẩm âm nhạc
xuất sắc với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng qua các ca khúc: Thiên thai, Mùa xuân đầu
tiên, hay Suối
mơ, nếu ai đã từng nghe với cảm thụ âm nhạc bình thường thôi cũng thấy ở đó
có chất thiền.
Còn đề cập về thân phận con người, với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (nhạc sĩ nổi
danh đã ấn định dòng nhạc của mình với Phật giáo) qua nhiều tác phẩm như: Tạ ơn, Ru em, Hãy yêu
nhau đi, Cỏ xót xa đưa, Tình xa… đặc biệt là các bài: Cát bụi, Một cõi đi về.
Đây là những bài hát người nghe dẫu chỉ một lần, nhưng cũng làm thức tỉnh
được một điều gì đó về thân phận con người trong giai điệu âm nhạc giàu cảm
thức tự nội mang tính đặc trưng âm nhạc Phật giáo.
Người ta nói rằng, nghệ thuật là một điều bí ẩn. Vậy điều huyền bí nào đã
hấp dẫn hàng triệu triệu trái tim con người đối với nghệ thuật đây? Vẻ đẹp của
nghệ thuật làm thức tỉnh những rung động thầm kín nhất trong lòng ta, để đáp
lại chúng ta cũng cảm xúc và rung động. Tình cảm đối đáp với tình cảm, chúng
tacó thể nghe được cái “không” nổi lên và thấy được cái “không” hiện hữu.
Ta thấy Thiền học cũng như Lão học không những chỉ ra được lợi ích của cái
Có, mà còn nhấn mạnh đến lợi ích của cái không. Ví như lợi ích của cái bình
đựng nước là ở khoảng không đựng nước của nó chứ không phải ở hình dáng cái
bình hoặc chất liệu làm ra nó.
Thiền học tôn sùng sự tương đối. Sự thật chỉ có thể đạt được khi thấu hiểu
những sự tương phản tương thành, như Âm và Dương. Để hiểu sâu giáo huấn siêu
việt của thiền, thì những lời nói chỉ làm bận rộn cho ý nghĩ mà chủ yếu là sự
giao cảm trực tiếp (qua tâm không) với bản tính của các vật. Lòng yêu chuộng
trừu tượng và tự nhiên, khiến thiền cảm ứng và dung nạp hay có thể nói là thiền
ưa thích những phác họa đen trắng hơn những bức tranh rực rỡ chải chuốt nhiều
chi tiết.
Để hiểu sâu giáo huấn siêu việt của thiền, thì những lời nói chỉ làm bận
rộn cho ý nghĩ mà chủ yếu là sự giao cảm trực tiếp (qua tâm không) với bản tính
của các vật.
Sự say mê và cơn cảm ứng sáng tạo đã làm cho người nghệ sĩ lột xác hóa thân
vào tác phẩm - nâng trạng thái tâm thức của họ lên đến mức độ giống như một
“thiền nhân” đã chứng nghiệm tâm linh trong những cơn thiền định sâu sắc. Bỗng
nhiên người nghệ sĩ đã rơi vào một trạng thái thiền định ở một mức độ nào đó,
bởi vì người nghệ sĩ đã đồng nhất mình với tác phẩm sáng tạo.
Nghệ thuật chỉ có giá trị chừng nào nó làm rung động trái tim con người. Do
vậy, có cách nào để hiểu được người nghệ sĩ muốn chuyển tải thông điệp gì cho
chúng ta đây? Những yếu tố cần biết đó là: sự khiêm cung, sự tĩnh lặng và phải
thở nhẹ (giảm thiểu cấu nhiễm). Chỉ có như thế chúng ta mới có cơ hội để giao
cảm với tác phẩm và cũng chính là cảm nhận thông điệp của người nghệ sĩ.
Tuy vậy, sự thật bí ẩn, sự hấp dẫn thực sự của một kiệt tác đã được Thiền
sư Osho giải minh: đó chính là khoảng im lặng trong âm nhạc, và theo ông “các
nốt nhạc không có chức năng nào khác hơn để nhấn mạnh vào cái im lặng! Nghệ
thuật tối cao trong âm nhạc là đưa cái im lặng thành tiếp nhận được”.
Thiền nhân mà chơi nhạc thì sẽ càng ngày càng tạo ra ít nốt nhạc hơn, bời
người nghệ sĩ ấy sẽ biết rằng chúng chỉ là phần nhỏ nếu so sánh với cái im
lặng.
Chúng ta đã biết về những bức họa Trung Quốc và Nhật Bản, nét vẽ chỉ chiếm
có phần tí xíu trong toàn bộ bề mặt của tấm giấy lụa quý, phần còn lại bức
tranh là trống rỗng. Không một nơi nào trên thế giới mà các danh họa lại vẽ
trong một trạng thái thiền định như thế. Nếu bạn hỏi người họa sĩ tại sao ông
lại “hoang phí” bề mặt tranh lớn như thế thì ông sẽ trả lời rằng: “bức tranh
dùng để bày tỏ cái rỗng không, cái còn lớn hơn bảy lần” (tức nhiều lần).
Thiền nhân mà chơi nhạc thì sẽ càng ngày càng tạo ra ít nốt nhạc hơn, bời
người nghệ sĩ ấy sẽ biết rằng chúng chỉ là phần nhỏ nếu so sánh với cái im
lặng. Vậy có nhà thơ đã nói:
“Lặng im để lòng nghe
Biết đâu thành to lớn
Ta có lý của ta
Biển có lời của biển
Nhỏ nhoi như đời cát
Còn có hạt riêng mình
Phải đâu chỉ biển biếc
Mới làm thành xa xanh”.
Ngay cả những ai chưa từng quay về với con người thật (tức Thiên quốc hay
Phât tánh) của mình cũng đều có thể chứng nghiệm một điều gì tương tự như sự
tĩnh lặng. Ngay cả các nhạc sĩ vĩ đại nhất cũng phải sự dụng âm thanh (tức đưa
ra những khoảng lặng ở giữa) tùy theo trường đoạn.
Trên thé giới ngày càng có nhiều nhạc sĩ - thiền nhân sáng tác nhạc trên
con đường thiền. Ở đây, trong sự tìm kiếm những âm thanh không lời, nhạc điệu
ca ngợi từ những làn gió tươi mát uyên áo của những bậc thầy tâm linh đã làm
nguồn cảm hứng cho những thử nghiệm diệu kỳ của thời đại pha trộn hòa hợp Đông
Tây Nam Bắc. Nhạc thiền đã mở ra trường phái âm nhạc của thời đại mới. Chúng đã
kết hợp được với những nghệ sĩ cổ điển và những nhạc sĩ từ các nền âm nhạc có
truyền thóng khác nhau và cùng với dòng âm nhạc dân gian với sự sáng tạo tuyệt
vời có tính tổng hợp sâu sắc; nó đã có vị trí trên thị trường âm nhạc, cũng như
nó đã đi vào trái timm những người tu thiền, những người đang tìm kiếm một
tiếng nói mới. Đó là sự lành mạnh của tâm hồn, mở rộng đời sống nội tâm hướng
đến những điều cao thượng.
Theo các Thiền sư và thiền gia cho hay, thiền có đến 9 loại đó là: Thiền
quán tưởng, thiền minh sát, thiền xuất hồn, thiền đếm hơi thở còn gọi (sổ tức),
thiền tứ niệm xứ…
Dù là thiền nhân hay không phải thiền nhân, người nghệ sĩ ở bộ môn nào muốn
tác phẩm của mình đạt được đỉnh cao tư duy nghệ thuật, thì cũng phải chạm đến
một khoảng “lặng im”, một khoảng không mà theo giáo lý đạo Phật gọi đây là
khoảng không chân thật, tức chân như, chứ không phải là không “ngoan” hay không
“ngơ”.
Theo các Thiền sư và thiền gia cho hay, thiền có đến 9 loại đó là: Thiền
quán tưởng, thiền minh sát, thiền xuất hồn, thiền đếm hơi thở còn gọi (sổ tức),
thiền tứ niệm xứ… trong các pháp môn thiền có thiền dụng công (tức thành tựu
trong tam giới) và thiền giải thoát, tức thoát khỏi sức hút tam giới, thiền này
còn có tên khác (Thanh tịnh thiền, hay Như Lai thiền). Nhìn chung tất cả các
pháp môn thiền nếu chúng ta hiểu và thực hành đúng chánh pháp) thì đều đem lại
lợi ích và ngược lại.
Ở đây xin được nói thêm, dưới góc nhìn của đạo Phật: thiền có thiền Phật
giáo và thiền (ngoại đạo). Tất cả những tác phẩm nghệ thuật đạt được đỉnh cao
của nhân loại đều có yếu tố của Tánh không Diệu hữu; tánh không này Phật giáo
gọi là linh giác! Và điều này chỉ đến với những nghệ sĩ chân chính, dấn thân.
Nếu tác phẩm nào thiếu đi sự (chân không diệu hữu này) thì đều không đạt tới
(chân thiện mỹ) đích thực; và như vậy, có nghĩa là tác phẩm chưa đạt được giá
trị nhân văn để đời theo cách gọi thế gian trí, bởi nó chưa có được sự thanh
cao - diệu hữu cao thượng mà con người đòi hỏi và hướng tới.
Vậy, tại sao gọi là Thiền nhập thế? Khái niệm này rất rộng (do giới hạn của
bài viết). Ở đây xin được nói sơ lược, theo giáo sư Minh Chi thì đây là dòng
thiền “biện tâm” hay còn gọi “kiến tánh thành Phật).
Nhờ thiền quán mà tâm hồn không còn cấu nhiễm, phiền não nên người sáng tác
nghệ thuật có được những tác phẩm vượt thoát khỏi sự tầm thường, tẻ nhạt, ô
trược, bởi họ “câu thông” được với các cảnh giới cao và trong sạch hơn. Đó là
lối thiền mà Phật giáo quen gọi là thiền Nguyên thủy và thiền Đại thừa (thiền
Đại thừa là thiền Phật giáo ở thời kỳ phát triển). Thiền Nguyên thủy (thiền
ngồi dụng công) xa lạ với đời sống bình dân. Trái ngược với thiền Nguyên thủy,
là dòng thiền Nhập thế hay còn gọi (Thanh tịnh thiền) mà chúng ta thường nhắc
tới đó là dòng Thiền Trúc lâm Yên Tử, do Sơ tổ Trần Nhân Tông sáng lập.
Đây là dòng thiền nhập thế riêng có ở Việt Nam (theo cách gọi của các học
giả và nhà nghiên cứu đạo Phật). Vậy, tại sao gọi là Thiền nhập thế? Khái niệm
này rất rộng (do giới hạn của bài viết). Ở đây xin được nói sơ lược, theo giáo
sư Minh Chi thì đây là dòng thiền “biện tâm” hay còn gọi “kiến tánh thành
Phật). Nói đến dòng thiền Trúc lâm Yên Tử, thì người Việt Nam ta ai ai cũng
biết đó là Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị sư Tổ đầu tiên của nước ta nối
dòng thiền tông Thích Ca Văn, và là (Tổ đời thứ 34 của dòng thiền này, tiếp
theo là Tổ Pháp Loa và Huyền Quang). Phái thiền Trúc lâm Yên Tử do chính Phật
hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, qua dòng thiền này ta thấy nó biểu hiện cho sức
sống diệu kỳ của đạo Phật trong mọi hoàn cảnh đời sống và xã hội thời bấy giờ.
Vai trò của Thiền đã tác động tích cực đến các bộ môn hội họa, âm nhac và
thơ ca là rất rõ trong các tác phẩm nghệ thuật dù đó là ở thời kỳ cổ điển hay
hiện đại hôm nay.
Đó là “Đạo Phật có mặt đối với đức vua Trần Nhân Tông trong mọi hoàn cảnh:
khi thì đang ở ngôi vua, khi thì trong giờ phút chiến tranh dầu sôi lử bỏng;
đạo Phật có mặt trong lúc an nhàn như ngắm buổi chiều quê như trong bài thơ
(Thiên Trường văn vọng), đạo Phật có mặt trong tất cả các mối tương quan vua
tôi, cha con, chồng vợ, anh em… Với quan điểm của Trần Nhân Tông thì “sống mà
không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của đấng trượng phu”.
Theo các học giả nghiên cứu dòng Thiền nhập thế này cho rằng, Trần Nhân
Tông đã chịu ảnh hưởng tư tưởng thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ với câu nói nổi
tiếng “Phản quan tự kỷ” tức là xoay ngược lại tâm mình để tìm tánh chân thật,
chứ không tìm ở bên ngoài mà thấy được tánh Phật. Đây là tư tưởng nhập thế
(trộn lẫn với thế tục) hòa cùng ánh sáng chứ không trái hẳn với người đời, như
lối thiền “dụng công”. Thiền nhập thế với tư tưởng “Dưỡng chân tính” ở ngay nơi
cuộc đời, không xa lánh đời. Tu thiền trong mọi hoàn cảnh, không chỉ có lối tu
ngồi “dụng công” dẹp vọng tưởng, để tìm kiếm sự xa lạ ở đẩu đâu, mà là “kiến
tánh thành Phật”.
Chính nhờ dòng thiền nhập thế này mà chúng ta thấy ở thời kỳ Đại Việt (thế
kỷ 13) cha ông ta đã chiến thắng oanh liệt 3 cuộc chống Nguyên Mông (hung hãn
nhất lịch sử thời bấy giờ) mà các nhà sử học thế giới đến nay vẫn chưa kiến
giải thỏa đáng được cuộc chiến tranh có một không hai này, bởi lý do (tương
quan so sánh lực lượng của nó).
Nếu dòng thiền Nguyên thủy phần nào giúp cho các nghệ sĩ “câu thông” được
với các cảnh giới siêu cao để sáng tạo được những tác phẩm mang đậm chất thiền
quán tưởng có tính hư vô, thì dòng thiền nhập thế Đại thừa lại có sức mạnh dung
thông vô ngại giữa đời và đạo trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Đọc những tác
phẩm của Phật hoàng Trần Nhân Tông, kể cả nội dung viết về triết học hay giáo
lý đạo Phật cũng như các thi phẩm trong: “Trần Nhân Tông thi tập”, “Đại hương
hải án thi tập”. Tuy các trước tác này hiện chỉ còn tìm thấy 31 bài thơ, nhưng
theo đánh giá của các nhà nghiên cứu văn học cho thấy: mảng thơ Thiền của Sơ Tổ
Trúc lâm chính là một đặc phẩm, không phải chỉ riêng của Trần Nhân Tông, mà là
của thi ca Việt Nam thời kỳ Trung đại nói chung.
Trong số nhiều bài thơ mang chất thiền đặc sắc của Phật hoàng Nhân Tông,
chúng ta phải kể đến các bài: Xuân cảnh, Nguyệt, Lên núi Bảo Đài, Thiên Trường
văn vọng…
Trong số nhiều bài thơ mang chất thiền đặc sắc của Phật hoàng Nhân Tông,
chúng ta phải kể đến các bài: Xuân cảnh, Nguyệt, Lên núi Bảo Đài, Thiên Trường
văn vọng… Nhân đây, chúng ta cùng đọc và suy ngẫm bài: Lên núi Bảo Đài của Sơ
Tổ Trúc lâm ta sẽ thấy rõ điều nói trên.
Lên núi Bảo Đài
Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua, xuân chửa nồng
Gần xa, mây núi ngất
Nắng rợp, ngõ hoa lồng
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng
Tựa hiên nâng sáo ngọc
Đầy ngực ánh trăng vàng.
(Ngô Tất Tố - dịch thơ).
Đọc bài thơ này, ta cảm nhận cảnh núi Bảo Đài qua cái nhìn của Sơ Tổ Trúc
lâm: tuy cảnh có phần u tịch, nhưng ta vẫn thấy ở đó có nét đẹp nên thơ sinh
động. Nếu căn cứ trên cú pháp của câu thơ (Minh nguyệt mãn hung thâm - trăng
sáng rọi đầy cả ngực, bụng) ta sẽ thấy trong bối cảnh này, trăng mới chính là
chủ thể: tức trăng bao phủ lấy người, tắm gội cho người bằng ánh sáng trong
trẻo của nó. Thiền vị của bài thơ toát ra từ sự giao cảm, giao hòa tự nhiên
giữa người với cảnh. Trong một số trường hợp thơ Thiền của Phật hoàng Trần Nhân
Tông ta thấy rõ sự bày tỏ trạng thái tinh thần đó là tâm tư, tâm sự, hoặc nhận
thức của người đã giác ngộ chân lý (tức cái vô thường và chân thường) theo giáo
lý nhà Phật.
Qua một vài dẫn dụ và suy nghiệm nêu trên, ta thấy vai trò của Thiền đã tác
động tích cực đến các bộ môn hội họa, âm nhạc và thơ ca là rất rõ trong các tác
phẩm nghệ thuật dù đó là ở thời kỳ cổ điển hay hiện đại hôm nay.
Nguyễn Đức Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét