Ta trôi miết theo sông hồ lưu hải
Sớm chiều vân du cánh nhạn bay
Quên xuân đến, hoa vàng tươi nở
Hay hạ về vương vương mấy đường tơ...
Sớm chiều vân du cánh nhạn bay
Quên xuân đến, hoa vàng tươi nở
Hay hạ về vương vương mấy đường tơ...
Quê nhà ta xa lắc lơ
Mây trắng cuộn bơ vơ thành nỗi nhớ
Quê mẹ đã ấp ôm suốt tuổi thơ
Dòng suy tưởng cứ tuôn trào bỡ ngỡ
Cho ta thêm những nỗi nhớ vô bờ...
Nhớ về cảnh đồng quê cũng khiến ta dễ trở thành thi sĩ. Niềm
yêu đã chảy đầy trong trái tim. Từ yêu đến nhớ, nhớ những hình ảnh chân quê mộc
mạc quê hương. Có lẽ ở mỗi đứa con của miệt sông nước gần cuối tổ quốc này, cái
chất “đồng quê” ấy đã chuyển hóa thành suy tưởng chứa đầy hồn quê, tình quê và
đã trở thành một nỗi hoài niệm đáng yêu, day dứt, hờn dỗi mà lại rất chất phác
chân tình. Với những ai không sợ bị gán cho nhãn mác “nhà quê chính hiệu” sẽ cảm
nhận trong chất “nhà quê” ẩn chứa một cảm thức về nỗi nhớ cố hương, vì những
tháng năm phải sống biền biệt trong cảnh ly hương. Nỗi nhớ ấy, dường như là sự
an bài của định mệnh, nó không chỉ hiển lộ trong bữa cơm đầy hương vị sông nước
- đồng bằng mà còn là một thực thể trong tâm thức của ta qua những cuộc thiên di
như những cuộc hành hương hay trong tháng ngày lưu lạc “giang hồ”:
Và trong những tháng ngày “lưu lạc” ấy, ta tìm ánh sáng giữa
bầu trời đầy sao vẫn đung đưa ta như mẹ hiền ru giấc đầu nôi thơ mộng. Nỗi niềm
luôn khắc khoải một cảm thức về nỗi nhớ cố hương lại xui ta viết, viết tràn trề
như dòng sông quê mẹ. Nỗi nhớ ấy có phải là tâm thức hiện sinh hiện hữu trong
ta, là tiên đề tạo nên dự phóng cho ta hoà quyện rất sâu xa trong huyết tộc với
quê hương. Ta không thể không thấy nao nao một nỗi nhớ cố hương khởi lên từ khắc
khoải mênh mông của suy tưởng triết học, của niềm thiêng liêng rực rỡ của thần
học dội vào lòng ta như những con sóng vỗ bờ. Nỗi nhớ ấy như được chưng cất từ
tâm khảm, tan chảy vào những suy tưởng thường ngày như một thứ mật đắng nhớ mong
và xa cách...
Cảm thức về nỗi nhớ cố hương là căn tính ở mỗi người trong kiếp
nhân sinh đã được nâng lên thành một qui luật mang tính phổ quát. Đó là cái
tình hoài hương trong những ngày xuân phải sống “lênh đênh” xa cách, khi mà nhu
cầu đoàn tụ, sum họp bên ngôi nhà ấm êm ở quê hương mỗi khi Tết đến, đang là
khao khát thiêng liêng đối với con người hơn bao giờ hết!?
Hình như trong cõi nhân gian này, tất cả những lữ khách đích
thực đều mang trong mình cảm thức của kẻ tha hương!? Và chính điều này đã kết
tinh trong suy tưởng nỗi nhớ cố hương như dấu ấn của nỗi đau xa cách.
luôn mang trong cõi lòng một mối “sầu vạn cổ” của kẻ ly hương. Song, cảm
thức về nỗi nhớ cố hương không chỉ đơn thuần là sự cách xa, là nỗi buồn
và niềm thương nhớ đến quặn lòng đối với cố hương mà đó còn là nỗi cô đơn của
thân phận vốn là một yếu tính của kiếp người. Và khi nỗi cô đơn đẩy đến tận
cùng thì cảm thức về nỗi nhớ cố hương kết lại thành nỗi đau nhân thế.
Phải chăng, trong những suy tưởng triết học thấm đẫm nỗi buồn
nhân thế cũng là một giá trị kết tinh từ thân phận của thi nhân trong những mùa
xuân tha hương, trong những ngày tháng “giang hồ”, sống như kẻ không nhà, sống
trong đói cơm, thiếu áo và chỉ còn có đam mê suy tưởng để dựa vào đó mà tồn
sinh, mà hiện hữu. Phải chăng một thứ định mệnh ràng buộc ta với những chuyến
đi? Đó là những chuyến đi vừa thơ mộng vừa cay đắng, những chuyến đi thành công
xen đan thất bại. Đi vào trong triết học để suy tưởng là chuyến đi cô quạnh, nếu
có một kẻ đồng hành nào thì cũng chỉ là kẻ đồng hành tình cờ, gặp nhau trong nỗi
cô đơn kiếp hiện sinh để chia sẻ một chút gió bụi buồn của tháng ngày, rồi lại
chia lìa nhau suốt đời. Trong khi đi tìm kiếm lý tưởng sống cho mình, chọn cách
đi để tồn tại làm người có tôn nghiêm, ta cũng biết đến nhớ thương, đầy chua
chát, đầy tan nát. Hành trình ấy là chuyến đi tượng trưng đầy đủ nhất cho định
mệnh.
Nhiều khi, trong chính nỗi buồn, niềm cô đơn của những ngày
tháng giang hồ đó đã đốt cháy trong tâm thức ta một khao khát trở về, một khát
vọng hoài hương, một cái “ngoảnh lại” trong cuộc phiêu lưu của việc chạy đua với
định mệnh. Chính “Nỗi cô đơn, tình hoài hương, tâm trạng lưu đày cùng một lúc
phả vào trong suy tưởng ấy ngọn lửa khao khát của một ngày về mà có khi ta đã
trở thành “kẻ xa lạ” trên chính quê hương mình. Viết cho nỗi nhớ cố hương mang
dằn vặt tính hiện sinh của thân phận, của thế giới nội cảm kết tinh và lan tỏa.
Đó không phải là những “tinh tú rực rỡ” vô hồn mà là những “vì sao trơ trọi” của
nỗi cô độc phận người trong kiếp tha hương. Vì vậy, nó gần gũi với tâm cảm của
con người như một sẻ chia, bởi trong kiếp sống lênh đênh phận người.
Có thể nói, số phận đã vận vào suy tưởng như một định mệnh, để
rồi ta mãi mãi là một kẻ suốt đời rong ruổi trên dặm đường thiên lý mà ngày trở
về chỉ là một ước vọng mù khơi. Người ta nói, khát vọng gắn bó con người với
quê hương luôn là một hằng số văn hóa, là cội nguồn của sự sống. Và, kiếp tha
hương chỉ khiến nỗi nhớ cố hương đầy thêm trong tâm cảm. Đây cũng là chìa khóa
giải mã cảm thức về nỗi nhớ cố hương, một giá trị nhân văn còn neo đậu mãi ở bến
bờ tâm thức của người tiếp nhận và là căn tố tạo nên sự bất tử của đời...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét