Về cuốn hồi ký "Gánh gánh
gồng gồng" của Xuân
Phượng
Tôi sinh ra sau chiến tranh. Bố tôi là một thương binh,
một người lính cụ Hồ, từng hành quân qua dãy Trường Sơn, chiến đấu
ở nhiều mặt trận phía Nam, để lại một phần xương máu nơi chiến
trường và “suýt thành liệt sĩ” mấy lần, theo cách nói của bố.
Từ nhỏ xíu, những câu chuyện tôi thường được nghe bố
kể nhất là chuyện chiến đấu. Rất chi tiết và sinh động.
Tuy vậy, chiến tranh, đối với lớp hậu sinh như tôi,
vẫn chỉ là một khái niệm nằm im trong sách vở. Lớp lên chút nữa,
không hiểu sao tôi rất ham tìm đọc những cuốn sách viết về chiến
tranh, nhất là chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam; từ
sách văn học đến sách lịch sử. Tốt nghiệp Đại học năm 1998, tôi làm
luận văn về tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, một tập thơ ra đời trong
chiến tranh, với các bài thơ chủ yếu về đề tài chiến tranh. Luận văn
thạc sỹ năm 2008 của tôi nghiên cứu về Nhật ký chiến trường của
những người lính Việt Nam trong cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc
để bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm,
Hoàng Thượng Lân… Rồi khi làm luận án Tiến sỹ, tôi cũng chọn mảng
văn học ra đời trong chiến tranh: văn học các vùng đô thị miền Nam giai
đoạn 1954 – 1975. Tâm trạng con người trong chiến tranh, thân phận con
người và những dằn vặt, đau đớn khi đối diện với sự hủy diệt bạo
tàn; sức mạnh tinh thần lớn lao nào khiến con người có thể vượt qua
tất thảy mọi gian nguy để chiến thắng… Tất cả những điều đó sẽ
hiện lên chân thực nhất trong tiếng nói của người trong cuộc, để thế
hệ hậu chiến như chúng tôi có được cái nhìn công bằng và sâu sắc về
lịch sử.
“Gánh gánh gồng gồng”, cuốn hồi ký của đạo diễn
Xuân Phượng là “tiếng nói của người trong cuộc”; một cuốn sách làm
tôi thực sự cảm thấy đau tim khi đọc, đến nỗi có những trang phải
ngừng lại giữa chừng, không dám đọc tiếp.
Nhưng đó là nỗi đau rất đỗi ngọt ngào.
Hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng…” của đạo diễn Xuân Phượng.
Cuốn sách là chuỗi ký ức của tác giả từ lúc ấu
thơ cho đến hiện tại, trải mấy chục năm, từ những năm 1930, khi Xuân
Phượng còn là một cô bé hơn chục tuổi sống yên ấm trong vòng tay cha
mẹ cho đến hôm nay, khi bà đã trả qua đủ mọi cung bậc cuộc đời, từ
những cay đắng, cơ cực gian nguy nhất, đến những ngọt ngào, những
thành công vang dội cả trong sự nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Thông
thường, khi đến với thể loại rất riêng tư là hồi ký hay nhật ký,
người đọc thường có nhu cầu tìm hiểu về đời sống, tâm trạng của
một cá nhân cụ thể; và người viết cũng muốn tâm sự, thổ lộ những
điều riêng tư, thậm chí cả những góc khuất chưa ai nhìn thấy trong
cuộc sống của mình, như một nhu cầu tự thân thôi thúc: nhu cầu được
bộc bạch và chia sẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, hồi ký hay
nhật ký mới chỉ thỏa mãn được tâm lý hiếu kỳ ở một số ít độc
giả. Giá trị của hồi ký, nhật ký nằm ở việc qua số phận, tâm
trạng, cuộc sống của một cá nhân cụ thể phản chiếu cuộc sống, tâm
trạng, số phận cả cả một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc, để
qua đó toát lên những triết lý, những bài học nhân sinh sâu sắc. Và
“Gánh gánh gồng gồng” đã làm được điều đó một cách tự nhiên, dung
dị, chân thực.
Cho đến tận giờ, chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế
kỷ nhưng nhắc đến Việt Nam, rất nhiều bạn bè quốc tế vẫn ngỡ
ngàng, khâm phục trước kỳ tích chiến thắng của Việt Nam trong cuộc
chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại bảo vệ tổ quốc. Ngỡ ngàng,
khâm phục vì không hiểu tại sao một dân tộc nhỏ bé (theo cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng), còn rất nghèo nàn và lạc hậu lúc bấy giờ lại có
thể chiến thắng vẻ vang trước hai đối thủ mạnh bậc nhất toàn cầu.
Tôi nghĩ, câu trả lời có đầy đủ trong cuốn hồi ký của Xuân Phượng.
Nguyên do việc công bố cuốn sách này, như bà bộc bạch ngay từ đầu
sách: “Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi
đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến
tranh, tôi quyết định viết lại ĐỜI TÔI”.
Đạo diễn Xuân Phượng.
Tôi đã tiếp cận hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” đúng
như mong muốn của tác giả: một người chưa hề biết đến chiến tranh,
tìm hiểu về cuộc chiến, về đất nước, về những người “đã làm ra
đất nước” từ trong lửa đạn, trong muôn vàn cơ cực, đắng cay và xương
máu. Chiến tranh dẫu nổ ra ở bất cứ đâu, vì bất cứ lý do gì, cũng
đều mang đến bi kịch cho tất cả mọi bên liên quan, mọi người liên quan.
Bản chất của chiến tranh là bi kịch, khi con người không thể sống với
nhau một cách ôn hòa. Bi kịch của Xuân Phượng và gia đình bà được
tái hiện trong hồi ký bằng những lời kể thủ thỉ, nhẹ nhàng nhưng
chứa đựng nỗi đau xé ruột. Đó là bi kịch của một gia đình bị xé
nát bởi chiến tranh. Có sự tan đàn xẻ nghé do loạn lạc, mỗi người
một nơi, không biết những thân yêu, ruột thịt của mình sống chết thế
nào; nhưng đỉnh cao của bi kịch chưa phải là chuyện tan đàn xẻ nghé,
mà là chuyện lòng người ly tán. Cô bé Xuân Phượng sinh ra trong một
gia đình quyền quý, có tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ và đầy đủ với người
cha là “Thanh tra Học chính kiêm Hiệu trưởng trường tiểu học duy nhất
bấy giờ ở Đà Lạt”, ông nội là “quan triều đình Huế”. Thế nhưng
những êm đềm đó không kéo dài. Cuộc sống cơ cực, lầm than của những
người làm thuê cho gia đình cô bé Xuân Phượng trái ngược với cuộc
sống nhung lụa cô đang hưởng; thái độ của cô bạn người Pháp thân thiết
trong ngôi trường Pháp khi đang giờ chào cờ, cô bạn chạy ra đạp lên
bóng lá cờ An nam và nói những câu miệt thị đã khiến trong trí óc
non nớt của Xuân Phượng vỡ ra những cảm nhận đầu tiên về cuộc
sống: “tôi lờ mờ nhận thấy rằng cuộc sống của mình, của gia
đình mình không êm đềm, nhẹ nhàng và vô tư như mình tưởng” (tr22).
Những êm đềm, nhẹ nhàng, vô tư ấy chấm dứt khi Xuân
Phượng quyết định xếp bút nghiên để theo Cách mạng, dưới sự dẫn dắt
của người dượng, bắt đầu bằng việc mang truyền đơn trong cặp sách,
qua mặt “những tên lính Nhật đang bồng súng, hằm hằm xét người qua
lại”. Cô nữ sinh trường Khải Định ấy chỉ có một nguyện vọng lớn lao
nằm trong bảy chữ “giành độc lập cho đất nước”, sẵn sàng rời bỏ gia
đình – một gia đình có gốc gác đại triều, bố đang thân Pháp.
Bi kịch sâu của chiến tranh là đấy! Là chuyện lòng
người ly tán. Để rồi cả nửa thế kỷ sau, khi Xuân Phượng gặp lại mẹ
mình, người mẹ vẫn đau đáu một câu hỏi tái tê: “Con ơi, sao con
theo họ làm chi, để gia đình ly tán, phải rời quê cha, đất tổ con ơi” (tr11).
“Theo họ”, nghĩa là theo Cộng sản, theo Cách mạng. Nếu cứ yên phận
dưới cuộc sống của một tiểu thư, chắc chắn cuộc đời Xuân Phượng đi
theo hướng khác, không có những thác ghềnh, cay đắng, không vào sinh ra
tử long đong.
Một gia đình nhưng có những con người ở hai chiến
tuyến khác nhau. Chọn một con đường đầy chông gai, xương máu để sống
theo lý tưởng, cô tiểu thư Xuân Phượng đã phải đánh đổi quá nhiều,
phải bước hẳn khỏi mái ấm gia đình, dẫu cho người mẹ của cô đã tìm
đến tận nơi con gái mình đang hoạt động cách mạng để khóc, để khuyên
con quay trở về. Nhưng “dù rất thương mẹ, thương em, tôi đã chọn
con đường tự nguyện đi vào hoạt động chống xâm lược Pháp” (tr
33). Đó mới là bi kịch lớn nhất mà chiến tranh trùm lên thân phận con
người, chứ không phải chuyện đổ máu, hy sinh.
Theo dòng hồi ký, từng giai đoạn cuộc đời của tác
giả hiện lên ám ảnh. Giai đoạn nào cũng có những chi tiết tạo nên dư
chấn mạnh mẽ trong lòng độc giả. Đó là chuyện tình yêu trong chiến
tranh, dù rất ngất ngây với tình cảm đầu đời, nhưng khi người yêu đắn
đo “gia đình con một, thầy mẹ anh không muốn cho anh thoát ly gia đình”
thì Xuân Phượng đã nuốt nước mắt “tiếp tục đi theo Đoàn Tuyên
Truyền Kháng Chiến, tiếp tục chọn con đường thoát ly gia đình”. Một
lần nữa, lòng người ly tán!
Đó là lần sinh con đầu lòng của Xuân Phượng giữa
rừng núi hoang vu, cô độc, thiếu thốn, hiểm nguy: “một mình tôi
nằm lại trên con đò rách nát với hai vợ chồng người chèo đò đã lớn
tuổi (…) Năm ấy hai mươi tuổi đầu, đẻ con so, xung quanh không có ai. Tôi
muốn chết. (…) Tiếng khóc oe oe vang lên giữa sông. Đứa con đầu lòng
của tôi. Bác lái đò bẻ một mảnh nứa trên mui đò cắt rốn cho con tôi” (tr71).
Đó là chuyện Xuân Phượng mò mẫm đỡ đẻ cho một sản
phụ trong lòng địa đạo Vĩnh Linh, một “mê cung trong lòng đất” với
“bóng tối mịt mùng vây quanh” và tiếng khóc đau đớn, tuyệt vọng của
người phụ nữ sinh con lần đầu trong hoàn cảnh không thể ngặt nghèo
hơn, giữa mưa bom bão đạn: “đỡ đẻ không đèn, không phương tiện cấp
cứu, không nhìn rõ mặt sản phụ”. Nhưng rồi vượt lên tất cả
những éo le, khốc liệt ấy “bật vang lên tiếng khóc oe oe của đứa
trẻ sơ sinh, hòa với tiếng khóc nức nở của người cha” (tr 158).
Sự sống bật mầm kiên cường ngay ở nơi tưởng như chỉ có đổ máu và
cái chết đang rình rập từng giây. Sức mạnh Việt Nam, ý chí Việt Nam
là thế!
Đó còn là hình ảnh một em bé Vĩnh Linh chín tuổi,
hồn nhiên ngồi trên đầu xe tải với đồ chơi là một khẩu súng
thật: “dáng người đậm, chắc, da nâu đen, không để ý gì đến chúng
tôi, em đang tháo lắp thành thạo một khẩu súng AK” (tr164). Chính
cậu bé bé xíu có ”hai chiếc răng khểnh làm lộ một nụ cười dễ
thương” ấy đã “giúp bộ đội đặc công phá được một sân bay trực
thăng” với cái cách cũng hồn nhiên, thơ trẻ vô cùng: “Các
chú bộ đội muốn phá sân bay trực thăng, cháu liền cùng với hai bạn
khác đi vào khu vực sân bay giả đò chơi đánh khăng. Thân của cây khăng
dài đúng một mét. Bọn cháu đánh ra xa rồi đo, đo từ đầu đến cuối
sân bay, cả chiều dọc lẫn chiều ngang rồi về báo với các chú bộ
đội. Bọn Mỹ không nghi ngờ chi hết. Sau đó các chú bộ đội tính toán
và bắn pháo cối vào chính xác, phá nát cân bay. Cháu được tặng
Dũng sĩ diệt Mỹ” (tr 164, 165)…
Cuộc đời Xuân Phượng với nhiều ngả rẽ bất ngờ, từ
khi làm thành viên của Đoàn Tuyên Truyền Mặt trận khu C, sang Quân Y Vụ
Liên Khu 4, làm chế tạo thuốc nổ, làm báo Công Tác Thóc Gạo, làm
Trưởng phòng khám Nhi khu Ba Đình, tháp tùng đoàn làm phim nước ngoài
vào mặt trận, trở thành đạo diễn phim…vv. Ở bất cứ “khúc quanh”
nào, ngành nghề nào, bà cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
mình, kể cả những lúc do bất đắc dĩ mà “mang lấy nghiệp vào thân”
chứ không còn sự chọn lựa nào khác. Điều này vừa cho thấy sự ‘đa
tài, đa ứng biến” trong con người bà, vừa thể hiện được gương mặt
của cả dân tộc trong những năm tháng khói lửa chiến tranh: luôn luôn
nỗ lực, luôn luôn ứng biến, chịu đựng được tất cả mọi hiểm nguy gian
khó, kiên cường và mạnh mẽ tồn tại để vươn lên và chiến thắng. Đó
là “qua một giọt nước nhìn thấy cả đại dương mênh mông”.
Giá trị của “Gánh gánh gồng gồng”, như tôi đã nói,
là vượt lên trên những tự sự, ghi chép về cuộc đời của một cá nhân
cụ thể để soi chiếu một cách chân thực, sinh động và sáng rõ gương
mặt của cả dân tộc, cả Tổ quốc trong những thời kỳ lịch sử đáng
nhớ nhất. Bởi thế, song hành với sự ngưỡng mộ, cảm phục tài năng,
nhân cách, ý chí nỗ lực của nghệ sỹ Xuân Phượng là niềm tự hào,
hân hoan, là những khâm phục đến kinh ngạc đối với thế hệ cha anh –
những người viết tên Tổ Quốc lên bản đồ thế giới bằng mồ hôi, xương
máu của chính mình.
Là đạo diễn phim tài năng, nên hồi ký “Gánh gánh
gồng gồng” của Xuân Phượng cũng được kết cấu như những thước phim
đầy ám ảnh, có chồng mờ, có đan cài ký ức – hiện tại, có điểm,
có diện. Ngôn ngữ văn chương của bà cũng như ngôn ngữ điện ảnh, kiệm
lời, kiệm chi tiết mà đầy sức nặng, có những hiệu ứng “tạo sốc” –
những cú sốc thẩm mĩ đáng nhớ. Cả cuốn hồi ký cũng chính là một
cuốn phim tư liệu với ngồn ngộn chi tiết có thể người đọc chưa gặp
trong bất cứ cuốn sách nào. Những tư liệu vô cùng quý giá, đặc biệt
là về chuyện ngành làm phim Việt Nam ra đời, trưởng thành trong chiến
tranh như thế nào, tình cảm của những nhà làm phim, những nghệ sỹ
thế giới đối với Việt Nam trong những tháng năm lửa đạn; sự đùm bọc
đầy cảm động và những ân tình sâu nặng của các văn nghệ sỹ thời bao
cấp khốn khó đủ đường…
Đọc xong cuốn hồi ký này, tôi rất tin, tất cả bạn
đọc, cũng như tôi, đều cảm thấy trân trọng hơn những tháng ngày mình
đang sống, trân trọng hơn những gì mình đang có trong tay, yêu Tổ quốc
hơn, yêu những con người thân yêu quanh mình hơn, và vì thế sẽ nỗ lực
để sống tốt hơn, đẹp hơn. Và điều quan trọng nữa là có thêm động
lực để biết cách vượt qua tất cả mọi trở ngại trong cuộc sống!
Như thế đã đáng để bạn tìm đến “Gánh gánh gồng
gồng” chưa?
Hải Dương, 27/5/2021
14/1/2020
Nguyễn Thị Việt Nga
Nguồn: Văn Nghệ
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét