Phụ nữ tự sát - lỗi tại tiểu thuyết?Một góc nhìn
về phụ nữ với văn chươngxã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
Tự sát là một trong những "vấn nạn" của
phụ nữ ở Việt Nam những năm cuối thập niên 1920. Đáng chú ý là
xã hội lại quy tội nguyên nhân của vấn nạn này cho tiểu thuyết. Trong bản in năm 1932 của bản dịch quốc ngữ truyện Tuyết
hồng lệ sử có một bài tựa của nhà in Nam Ký, cho thấy công
luận xã hội đã nối kết tiểu thuyết "ngôn tình" với
"phong trào tự tử" trong quan hệ nhân quả như thế nào:
"Gần đây trong nước ta nhân có phong trào tự tử của các cô 'gái
mới', vài nhà 'văn sĩ' bèn thừa dịp làm án mấy bộ tiểu thuyết ngôn
tình, quy tội cho các nhà viết tiểu thuyết ấy, cho rằng các cô gái
chán đời phần nhiều là bởi nhiễm phải cái độc trong những tiểu
thuyết kia. Tuyết hồng lệ sử cũng bị liệt vào hạng
sách bị kết án nói trên."[1] Đọc xong đoạn trích ngắn này,
người đọc hẳn sẽ băn khoăn: Cái gọi là "phong trào tự tử"
ấy trên thực tế đã diễn ra chủ yếu ở đâu và như thế nào? Những cô "gái mới" ấy là ai? Nội dung cụ Tuyết
hồng lệ sử ra sao mà nó bị kết tội đầu độc những cô gái tân
thời khiến họ phải quyên sinh? Ba thập niên đầu thế kỷ XX là
một giai đoạn chuyển tiếp trong lịch sử văn học Việt Nam từ cận đại
sang hiện đại. Giai đoạn này đã chứng kiến không chỉ sự phát
triển của tiểu thuyết Việt Nam qua giao thoa - tiếp xúc với văn chương
thế giới (đặc biệt là Pháp và Trung Quốc), mà còn thấy được sự
hình thành của một cộng đồng độc giả nữ đối với tiểu thuyết.
Sự tăng trưởng trong việc đọc tiểu thuyết của phụ nữ cũng lại gợi
lên thêm nhiều câu hỏi nữa: Những bạn đọc nữ ấy là ai và học vấn
của họ như thế nào? Họ đọc những loại tiểu thuyết gì? Việc đọc
của họ có được theo dõi và hướng dẫn hay không? Ai chủ động việc ấy
và có ý kiến như thế nào? Trả lời tất cả những câu hỏi trên
đây là góp phần phục hiện một góc nhìn về phụ nữ với văn chương và
xã hội đầu thế kỷ XX. Hồi ứng của bạn đọc nữ thời ấy đối
với tiểu thuyết Việt Nam và nước ngoài (trực tiếp với nguyên tác và
thông qua bản dịch tiếng Việt) có thể được tìm hiểu qua nhiều kênh
thông tin khác nhau. Trong điều kiện khiếm khuyết những điều tra
thống kê cụ thể, bài viết sử dụng báo chí đương thời để kiểm
nghiệm mối liên hệ giữa ảnh hưởng của tiểu thuyết ái tình (đặc
biệt qua trường hợp Tuyết hồng lệ sử của Từ Chẩm Á) và
việc phụ nữ tự sát.
Từ Chẩm Á 徐枕亞 (1889-1937) và văn
phái Uyên hồ 鴛蝴
Từ Chẩm Á người Thường Thục 常熟 (tỉnh
Giang Tô), tên gốc là Giác 覺, viết với nhiều bút danh, như Từ
Từ 徐徐, My Tử 眉子, Khấp Châu Sinh 泣珠生, Đông
Hải Tam Lang 東海三郎, Đông Hải Giao Nhân 東海鮫人, hay
Thanh Lăng Nhất Điệp 青陵一蝶. Năm 1914, sau khi tốt nghiệp
trường Sư phạm Ngu Nam 虞南 ở Thường Thục, Từ Chẩm Á dạy
tiểu học ngay tại quê nhà. Từ năm 1909-1911, ông dạy trường tiểu
học Hồng Tây 鴻西 ở Vô Tích 無錫 dưới chân
núi Hồng 鴻山, tá túc gần nhà thư pháp gia nổi danh Thái Ấm
Đình 蔡蔭庭, nhân đấy nhận làm gia sư cho gia đình này. Nhà
họ Thái có người con dâu goá tên Trần Bội Phân 陳佩芬, vốn
giòng thư hương. Nàng Bội Phân có cậu con trai 8 tuổi là Mộng Tăng
夢增, theo học với thầy Từ. Chẩm Á và Bội Phân
trước vì yêu tài, mến đức mà sau tình cảm càng trở nên nồng thắm,
thường ngầm trao đổi thư tín, thi từ qua lại qua trung gian cậu bé
Mộng Tăng. Vì lễ giáo đương thời, vì danh tiết của nàng và
cũng vì tương lai của Mộng Tăng, Chẩm Á và Bội Phân đã không thể theo
gương chàng Tư Mã Tương Như và nàng Trác Văn Quân khi xưa mà cùng nhau
bỏ trốn. Trong hoàn cảnh nan giải ấy, để báo đáp tình yêu của
chàng, Bội Phân nghĩ đến cách "tháp cành, ghép hoa" để Chẩm
Á kết hôn với em chồng mình là Thái Nhị Châu 蔡蕊珠. Dẫu thế, sau khi thành thân với Nhị Châu và lên Thượng Hải làm báo,
Chẩm Á vẫn không quên được Bội Phân mà còn treo cả một bức ảnh lớn
của nàng trong phòng làm việc ở thư cục. Mối tình này được Từ
viết lại thành tiểu thuyết Ngọc lê hồn 玉梨魂, đăng
nhiều kỳ trên phụ san của Dân quyền báo 民權報. Theo hồi ức của Trịnh Dật Mai 鄭逸梅, cùng đăng chung với Ngọc lê
hồn là tiểu thuyết Nghiệt oan kính 孽冤鏡 của Ngô
Song Nhiệt 吳雙熱 (1884-1934), chiếm lĩnh phần lớn
phụ san: cả hai bộ tiểu thuyết này đều kết hợp biền văn với tản văn,
tựa như cùng nhau tung hứng trên hý đài, nhân đấy mà được xưng tụng
là uyên ương hồ điệp phái 鴛鴦蝴蝶派.[2]
Tiểu thuyết Ngọc lê hồn cùng với hậu thân
của nó, Tuyết hồng lệ sử 雪鴻淚史, là hiện tượng đặc biệt trong
lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại. Tuy chưa có thống kê đầy đủ,
kể từ khi xuất bản thành sách năm 1912 cho đến nay, hai bộ tiểu
thuyết này đã được tái bản đến vài chục lần, nâng tổng số bản in
của nó trong khu vực Hoa ngữ ước tính tổng cộng lên đến hơn triệu
bản, một số lượng tiêu thụ khổng lồ chưa từng có trong lịch sử văn
học cận - hiện đại Trung Quốc. Ngay sau khi ra đời, bộ tiểu
thuyết này đã được "Thượng Hải dân hưng xã" biên diễn thành
kịch nói, và được "Minh tinh ảnh phiến công ty" cải biên
thành tác phẩm điện ảnh năm 1924.[3] Ngọc lê hồn kể chuyện
chàng thanh niên trí thức tài hoa Hà Mộng Hà 何夢霞 do gia
cảnh khó khăn nhận lời mời của bạn về dạy ở trường tiểu học Thạch
Hồ 石湖. Cũng nhân dịp này, Mộng Hà đồng ý dạy giúp
cho cậu bé Bằng Lang 鹏郎, cháu nội của một người họ
hàng xa. Bằng Lang sớm mồ côi cha, ở với ông nội và người mẹ
goá trẻ 27 tuổi là Lê Nương 梨娘. Tình thầy-trò khăng khít
giữa Mộng Hà và Bằng Lang khiến Lê Nương vô cùng cảm kích. Một
hôm, Lê Nương đang ngoạn cảnh trong vườn thì bắt gặp "Lê hoa hương
trũng梨花香冢" (Mồ thơm hoa lê) do Mộng Hà vì thương hoa rụng
mà đem chôn, đắp nên phần mộ. Lê Nương trông mộ hoa mà thương phận
mình, nhân đấy lại càng cảm thông Mộng Hà. Thông qua trung gian
bé Bằng Lang, Mộng Hà và Lê Nương trao đổi thư từ, rồi phát sinh yêu
thương. Không muốn vượt phạm lễ giáo "quả phụ thủ
tiết", Lê Nương bộc bạch ưu tư của nàng với Mộng Hà, ngỏ ý không
muốn mối tình của hai người ảnh hưởng đến tương lai của chàng. Để trả lời nàng, Mộng Hà thề sẽ không kết hôn với ai cho đến trọn
đời. Cả hai con người quyết liệt trong tình trường này đều ngã
bệnh trước những quyết định của người mình yêu. Thế nhưng sau
đó Mộng Hà nhượng bộ, chiều theo ý Lê Nương mà kết hôn với Quân
Thiến筠倩, em chồng của Lê Nương, một cô học sinh trường nữ học
đã "được kết giao cùng các hiền nữ sĩ bốn phương, tầm mắt được
mở rộng, học thuật nhân đó mà tấn tới."[4] Mộng Hà miễn cưỡng kết hôn
với Quân Thiến nhưng vẫn thầm yêu Lê Nương. Tuy chấp nhận lời
khuyên nhủ của chị dâu mà kết hôn với Mộng Hà, Quân Thiến hoàn toàn
không biết gì về mối tình thầm vụng giữa hai người. Để giải
phóng Mộng Hà khỏi những mối dây ràng buộc với mình, Lê Nương gửi
trả lại chàng tập "Hồng lâu ảnh sự thi 紅樓影事詩"
chàng viết và trao nàng khi trước, cùng với một mớ tóc mây gói trong
tấm khăn đầy ngấn nước mắt của nàng, làm dấu cho sự đoạn tình. Mộng Hà cắn đầu ngón tay lấy máu viết thư phản đối quyết định
của Lê Nương. Nhận được bức huyết thư, Lê Nương quyết định phải
chết để Mộng Hà quên hẳn nàng và dành tình cảm cho Quân Thiến. Nhân khi Mộng Hà về thăm nhà, Lê Nương nằm liệt giường, và mặc cho
Quân Thiến hết lòng chăm sóc, nàng từ chối thang thuốc mà chết. Nhân đọc được bức di thư của Lê Nương mà Quân Thiến biết được mối
tình của hai người. Quân Thiến bị chấn động mạnh, ngã bệnh,
rồi cũng chọn cái chết như chị dâu. Theo như ước nguyện
của Lê Nương, Mộng Hà sang Nhật lưu học để về phục vụ đất
nước. Khi khởi nghĩa Vũ Xương 武昌 nổ ra[5], Mộng Hà ném bút, tòng quân, xông
pha chiến địa, rồi tử trận với tập "Tuyết hồng lệ thảo 雪鴻淚草"
bao gồm thi từ xướng họa giữa chàng và Lê Nương luôn mang trong mình. Chi tiết tập thi từ ấy sau được Từ Chẩm Á phát triển lên thành tiểu
thuyết viết theo thể nhật ký mang tên Tuyết hồng lệ sử, đi sâu
hơn vào những góc kín trong tâm tư Mộng Hà - Lê Nương, và cũng
như Ngọc lê hồn, đã lấy đi vô vàn nước mắt của bạn đọc.
Những phát hiện và công bố của Thời Manh 時萌 liên
quan đến thi từ, thư tín trao đổi giữa đôi tình nhân Từ Chẩm Á và Trần
Bội Phân yết lộ rõ hơn khía cạnh "tự truyện" của Ngọc
lê hồn, tái xác định nguyên mẫu các nhân vật của nó, cũng như
mức độ tình cảm thâm sâu của Chẩm Á và Bội Phân.[6] Trong bài tựa Tuyết hồng
lệ sử, Từ từng viết: "Khi tôi viết bộ sách này... thực sự trong
tâm trí không hề có hai chữ 'tiểu thuyết', vậy nên hết lòng mong bạn
đọc chớ lấy nhãn quan tiểu thuyết mà nhìn nhận lầm sách của
tôi." Toàn bộ 93 trang tư liệu tìm được từ nhà họ Từ cho
thấy những sự kiện thực trong mối tình Chẩm Á - Bội Phân đã đi
vào Ngọc lê hồn như thế nào. Ví như chuyện nhân vật nam
Mộng Hà cắn ngón tay lấy máu viết huyết thư gửi góa phụ Lê nương có
nguyên hình trong đời thực như nàng Bội Phân đã ghi lại: "Trưa hôm
qua nhận được huyết thư mà tim gan em đau nhói. Lúc này nhìn chữ
mà lòng em đau đớn không thôi, chỉ muốn sớm chết đi cho
xong..." Những tư liệu này cũng cho thấy mức độ tình cảm
thân cận, nồng thắm của Chẩm Á và Bội Phân trong đời thực đã đi xa
hơn rất nhiều so với Mộng Hà và Lê nương, một quan hệ được miêu tả
trong truyện là "phát hồ tình nhi chỉ hồ lễ nghĩa 發乎情而止乎禮義"
(nảy sinh từ tình cảm, nhưng dừng lại trong vòng lễ nghĩa). Để đến
được với nhau, cửa sau phòng riêng của Chẩm Á và Bội Phân đêm đêm thường
để ngỏ. Những cuộc hẹn hò như thế được ghi lại khá nhiều trong
thi từ trao đổi giữa hai người. Khác với Mộng Hà và Lê nương
trong truyện chỉ hai lần lén lút hò hẹn, nhưng ngoài việc tuôn nước
mắt, họ cũng chẳng dám chạm đến tay nhau, Chẩm Á và Bội Phân trên
thực tế đã ngầm gặp nhiều lần trong đêm, và tình thân của họ hẳn
đã đi xa hơn rất nhiều so với hai nhân vật tiểu thuyết rất nhiều,
như được ghi lại trong mấy vần thơ dưới đây,
|
Nguyên văn |
Phiên âm |
Dịch nghĩa |
|
深夜相逢陽氣和 |
Thâm dạ tương phùng dương khí hòa |
Đêm khuya gặp gỡ giữa khí dương hòa hợp, |
|
誰知巫峽夢中多 |
Thùy tri Vu Giáp mộng trung đa |
|
|
若能同剪西窗燭 |
Nhược năng đồng tiễn tây song chúc |
|
|
再托陽臺撲飛蛾 |
Tái thác Dương đài bộc phi nga |
|
Nguyên văn |
Phiên âm |
Dịch nghĩa |
|
相敬相愛兩情真 |
Tương kính, tương ái lưỡng tình chân |
Kính trọng, yêu thương nhau: đôi chân tình |
|
攜手頻頭笑語親 |
Huề thủ, tần đầu, tiếu ngữ thân |
Cầm tay, kề đầu, nói cười thân mật. |
|
一雙暗渡誰知覺 |
Nhất song ám độ thùy tri giác |
Một đôi lén lút ai hay biết, |
|
傷心不是蓮枝人 |
Thương tâm bất thị liên chi nhân. |
Khởi sự từ sau vận động Ngũ Tứ, tác phẩm của Từ Chẩm Á bị liệt vào loại văn chương uyên ương hồ điệp với hàm ý tiêu cực,[11] bị xem là mắc chứng "vô bệnh thân ngâm 無病呻吟" (không bệnh mà rên), và bị xếp vào hạng du hí tiêu khiển, đơn thuần "mua vui, giải trí," sướt mướt nhãn lệ, tị thế 眼淚鼻涕 đầm đìa nước mắt, nước mũi. [12] Trên thực tế, Ngọc lê hồn của Từ Chẩm Á vượt ngoài cái khung bi tình mà những bộ tiểu thuyết sau này học theo, bởi nó đã đề xuất được vấn đề xã hội cần phải quan tâm giải quyết như Chu Tác Nhân 周作人 (1885-1967) từng thừa nhận:
Quả thực, bi kịch luyến ái giữa góa phụ trẻ và người tài tử đa tình đã phản ánh sự khốc hại của luân lý gia đình của xã hội phong kiến đối với phụ nữ, đặc biệt là quả phụ. Bị trói buộc trong lễ giáo nghiêm nhặt đến mức phi nhân tình ấy, những góa phụ trẻ như Bạch Lê Ảnh không chỉ đau lòng tự dằn vặt, mà còn đưa cả người thân của mình (như Quân Thiến) vào vòng khổ lụy, để rồi cuối cùng chỉ biết tìm sự cứu chuộc trong cái chết.[14] Tuy nhiên, do khối bi tình tay ba giữa Mộng Hà, Lê Ảnh và Quân Thiến quá thảm đạm đôi khi đã khiến cho vấn đề xã hội mà Chu Tác Nhân chỉ ra bị mờ đi trong nước mắt. Nối theo Từ Chẩm Á, những nhà văn về sau đi sâu khai thác bi tình đẫm lệ khiến khía cạnh phê phán nội tại của nguyên ủy ngày càng mờ nhạt. Hậu quả là văn phái uyên hồ bị lên án là đại biểu cho thế lực phong kiến với ý thức thẩm mỹ đơn thuần là tiêu khiển, du hý. Trong một thời gian dài, giới nghiên cứu phê bình miệt thị, xem đó là văn học "nghịch lưu" thông tục cần phải phê phán, phủ định, thậm chí vứt bỏ như phế phẩm. Tất nhiên, cũng có những nhà phê bình công tâm (như Lỗ Tấn, Mao Thuẫn) nghiêm túc nhận định một cách khách quan phương diện "thú vị" của dòng văn học này trong bối cảnh thời đại của nó. [15] Phải đến những năm 1980, cùng với những biến đổi chính trị - văn hóa - xã hội ở Trung Quốc, học giới mới khởi sự có một tác phẩm nghiên cứu văn phái này một cách toàn diện và hệ thống. Sau nhiều năm khảo cứu, Phạm Bá Quần 范伯群 nhận định rằng uyên ương hồ điệp là một lưu phái tiểu thuyết thông tục thừa tập truyền thống tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc xuất hiện trong quá trình hưng kiến những đô thị lớn trong khoảng cuối Thanh - đầu Dân quốc. Thông qua việc nghiên cứu văn phái này từ nhiều góc nhìn, tầng bậc khác nhau, có thể thấy được những biến đổi xã hội - văn hóa đa dạng của xã hội Trung Quốc giữa thời quá độ, với những những quá trình tương tạp giao và đối kháng của dân tục trong khi kinh trải Âu phong Mỹ vũ (gió Âu, mưa Mỹ), cũng như sự bột hưng của một nền văn học mới. Phạm Bá Quần tự nhận để có được những phát kiến, kiến giải mới đối với lưu phái này thật không dễ, bởi lẽ tựa như người phụ nữ bó chân, nay tháo cởi vải bó để bước đi với đôi chân trần tự nhiên của mình, người nghiên cứu sao tránh khỏi những bước chao đảo, nghiêng lệch không vững trên con đường mới trước mắt.[16] Ngoài bộ Uyên ương hồ điệp phái nghiên cứu tư liệu 鸳鸯蝴蝶派研究资料của Ngụy Thiệu Xương 魏紹昌 (1922-1998) do Thượng Hải văn nghệ xuất bản xã in lần đầu năm 1962, các tập Uyên ương hồ điệp phái văn học tư liệu 鴛鴦蝴蝶派文學資料 và Ngã khán uyên ương hồ điệp phái 我看鴛鴦蝴蝶派 đã góp thêm nhiều tư liệu quan trọng làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo sau.[17]
Tiểu thuyết của Từ Chẩm Á được du nhập và dịch ra quốc ngữ ở Việt Nam khá sớm, trong thời kỳ văn quốc ngữ còn đang chập chững trau giồi, và chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của Hán văn. Thoạt đầu, tiểu thuyết của ông có lẽ chỉ được lưu hành trong phạm vi hẹp của trí thức Nho học Việt Nam, những người trực tiếp hân thưởng tiểu thuyết của Từ qua nguyên tác chữ Hán. Phải đợi đến năm 1919 mới có bản dịch quốc ngữ đầu tiên cho một bộ tiểu thuyết đề tên Từ Chẩm Á. Trong bài tựa cho bộ tiểu thuyết Đa tình hận 多情恨 (?) đề năm 1918, Phan Mạnh Danh[29] viết: "Đa tình hận là một bộ tiểu-thuyết của Từ-Chẩm-Á. Truyện có Lê-Tố-Trinh, một cô gái-mới nước Tầu, yêu một người bạn-giai là Mẫn-Minh-Đạo; vì Minh-Đạo không lấy nàng nên nàng giận mà tự-tử."[30] Người dịch cũng luận ra khả năng cảnh tỉnh mê tình của Đa tình hận:
Do hiện thời vẫn chưa tìm được nguyên tác Hán văn của Đa tình hận, nên thực khó khẳng định tác giả của sách có thực là Từ Chẩm Á hay không.[32] Hiển nhiên, đây là một bộ tiểu thuyết ngôn tình, tập trung miêu tả những trái ngang, buồn vui, sầu hận trong tình trường, với một kết cục bi thương. Xét về phương diện đạo đức và ảnh hưởng xã hội, loại tiểu thuyết này uyên hồ đứng chênh vênh trên phân giới giữa tích cực và tiêu cực. Những người cổ vũ cho tiểu thuyết ngôn tình đều cố gắng trình bày mặt sáng của nó. Họ lấy mối bi tình trong tiểu thuyết làm tấm gương răn đe, nhằm đánh thức những mảnh hồn đang mê đắm ngụp lặn trong biển tình như Phan Mạnh Danh đề xuất. Thế nhưng cũng có không ít người đọc học theo tiểu thuyết, trốn đời mà mê mải sống chết với những nhân vật trong truyện. Đó chính là góc tối, là khía cạnh "tiêu cực" thường bị phê phán của loại tiểu thuyết này. Hai cách nhìn gần như đối lập ấy (một ủng hộ, một lên án) đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc và sẽ tiếp tục đồng hiện trong những năm 1920 và 1930 ở Việt Nam, mỗi khi công chúng đối mặt và phân tích ảnh hưởng của những bộ tiểu thuyết ngôn tình.
Để tìm hiểu việc du nhập và ảnh hưởng của văn phái uyên hồ (qua đại biểu của nó là Từ Chẩm Á) ở Việt Nam trước hết cần xác lập được một danh sách các bộ tiểu thuyết, truyện ngắn xuất bản dưới tên tác gia này, được dịch sang tiếng Việt, đặc biệt là trong khoảng từ 1923-1931. Danh sách này không những cho thấy Từ Chẩm Á đã được giới thiệu như thế nào ở Việt Nam, mà còn chỉ ra những khía cạnh khác của đời sống văn học trong nước trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX. Trong bản danh sách hiện có, ngoài hai tựa sách Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử được phiên âm Hán-Việt mà không dịch, ở các trường hợp còn lại tựa đề đều được dịch sang tiếng Việt. Việc phiên dịch này một mặt giúp người đọc hiểu rõ hơn tựa sách, nhưng ở mặt khác nó cũng tạo ra không ít khó khăn trong việc truy nguyên, nhất là khi người dịch không cung cấp tựa gốc kèm theo. Quả là không quá khó để xác định tựa gốc của Chồng tôi, Vợ tôi, hay "Gương tự do" vốn là Dư chi phu, Dư chi thê, "Tự do giám", nhưng không phải tất cả đều dễ dàng như thế. Khi chưa có điều kiện tiếp cận với toàn bộ các bản dịch được nêu, người đọc không thể xác quyết nguyên tác của tất cả các bản dịch tiếng Việt. Giấc mộng nàng Lê là một ví dụ: phải chăng đó cũng chính là Ngọc lê hồn (còn gọi là Lê Quân lệ sử 梨筠淚史[33]), hay là một tác phẩm nào khác? Nếu Giấc mộng nàng Lê và Ngọc lê hồn chỉ là một, bộ tiểu thuyết này đã được dịch bởi 2 dịch giả khác nhau (Trúc Khê và Nhượng Tống), in tổng cộng 4 lần chỉ trong vòng 3 năm (1928-1930). Tương tự, Dư chi phu có hai bản dịch khác nhau của Nguyễn Đôn Phục và Nguyễn Đỗ Mục công bố trong cùng một năm (1927). Trong khi chờ đợi khảo sát tường tận, bản danh sách đành phải chất nghi đối với vấn đề nguyên tác của một số bản dịch.
Từ ngày có chữ Quốc ngữ, thật là một vật báu cho ta (...) Các cụ Nho ở Nam Kỳ còn sót lại hồi ấy, tự cho mình là không thích hợp với phong trào thái tây, mà kể ra cũng trái mùa thật. Hoặc vì sinh kế, hoặc vì buồn không có việc, đem các tiểu thuyết Tàu dịch ra Quốc ngữ; các nhà xuất bản lợi dụng đem in ra để trục lợi. Rồi từ đó ở Nam Kỳ lan ra đến Bắc, các nhà hàng sách mua truyện về cho thuê (...) Hồi đó Quốc ngữ gọi là phổ thông nên các thanh niên mê thích tiểu thuyết Tàu lắm, các thanh niên hồi đó mê thích truyện Tàu không khác gì các thanh niên hiện thời mê thích Cinéma (...) Đến hồi bãi bỏ khoa cử ở Bắc Kỳ thì trào lưu truyện Nam Kỳ cũng theo đó mà kém dần đi. Các văn sĩ Hán học ở Bắc lúc bấy giờ vô sự cũng lại xoay ra dịch truyện Tàu, phần thì bán cho các nhà nhật trình in vào phụ trương. Từ khi xuất hiện các truyện dịch ở Bắc thì phong trào cho thuê truyện Nam kỳ kém hẳn vì giọng văn Bắc thích hợp với người Bắc hơn. [46]
Thông tin từ đoạn trích này đã lược phác nên mấy nét chính về tình hình phiên dịch tiểu thuyết Trung Quốc qua hai giai đoạn khác nhau ở hai miền Nam-Bắc đầu thế kỷ XX. Cụ thể hơn, giai đoạn đầu diễn ra ở Nam kỳ trong hai thập niên đầu của thế kỷ với những dịch giả Nam kỳ như Trần Phong Sắc, Nguyễn Liên Phong, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Khương, Nguyễn Ân Linh, Hồ Văn Trung, Trần Văn Me, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Công Kiêu. Giai đoạn sau khởi sự từ năm 1919 với sự tham gia của các "văn sĩ Hán học" Bắc kỳ: bên cạnh những bộ tiểu thuyết chương hồi cổ điển như Tam quốc, Thủy hử, Tây du, họ còn dịch tiểu thuyết võ hiệp và tiểu thuyết ngôn tình thời thượng ở Trung Quốc bấy giờ. Tuy nhiên, động cơ và mục đích dịch tiểu thuyết Từ Chẩm Á của các dịch giả thời ấy có lẽ có phần phức tạp hơn nhận định tổng quát của Thúc Ngọc Trần Văn Giáp. Đơn cử trường hợp Phan Mạnh Danh. Đào Sỹ Nhã cho rằng ông dịch Đa tình hận vì nó "nói về cái họa tự do trong nữ giới nước Tàu."[47] Lại xét ngay trường hợp Từ Chẩm Á để hiểu thêm về thái độ của xã hội đối với "tự do" của phụ nữ. Vừa khi đăng xong bản dịch Tuyết hồng lệ sử vào tháng 6 năm 1924, đến tháng 9 cùng năm, tạp chí Nam phong lại công bố tiếp một truyện ngắn khác của Từ Chẩm Á nhan đề "Gương tự do" (Tự do giám 自由鑑).[48] Truyện kể những bước đường đời của nàng Phương Tuệ Lan 方慧蘭 con nhà khá giả nhưng sớm mồ côi cha, sống với người mẹ học thức và em gái là Tuệ Quỳnh 慧瓊. Nhân mẹ được mời làm hiệu trưởng trường nữ học Chính Nghị 正誼, cả hai chị em đều nhập học ở đấy. Tuệ Lan tuy thông minh, nhưng "tuổi hậu còn non, tơ tình dễ vướng, mắt xanh dễ đã phân biệt được kẻ dở, người hay,"[49] vì thế mà mê muội tin lời kẻ gian giảo Chương Vũ Thiến 章雨倩; mặt khác, cũng như mẹ, Lan "tiêm nhiễm cái cách văn minh mới, vẫn cho bốn chữ 'hôn nhân tự do' là cái sinh mệnh thứ hai của người con gái, không có ngăn cấm gì cả,"[50] nên lầm lạc trao thân cho Vũ Thiến, để rồi tủi hận mà chết khi nhận ra chân tướng của kẻ lừa tình. Chẩm Á kết thúc câu chuyện với lời bình phẩm và kêu gọi: "Hỡi! Đồng bào nữ giới ta ơi! Nên coi cái gương nàng Tuệ Lan đó, chớ ham cái hư danh phóng túng tự do, mà mắc phải cái họa danh nhơ chết uổng."[51] Có thể diễn giải việc đăng tải "Gương tự do" tiếp theo sau Tuyết hồng lệ sử trên Nam phong theo nhiều cách khác nhau. Đó có thể là do sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc đối với Từ Chẩm Á mà Nam phong cung cấp thêm một văn phẩm nữa của ông để thỏa lòng độc giả. Đó cũng có thể là nỗ lực của tạp chí để góp phần "định hướng" công chúng, bên cạnh những "phản hồi" đạo lý từ phía bạn đọc sau khi Tuyết hồng lệ sử kết thúc (xem phần "Dịch Từ Chẩm Á - Trường hợp Tuyết hồng lệ sử" dưới đây). Dẫu sao các dịch giả, hoặc là các văn sĩ Hán học có chính kiến, xuất thân danh gia, hay là những thanh niên giàu lý tưởng, thụ hưởng cả tinh thần Hán-Pháp dịch Từ Chẩm Á sang tiếng Việt không hẳn chỉ vì động cơ thương mại, hay vì vô công, túng quẫn. Xung đột cũ - mới của các trào lưu tư tưởng, đạo đức Đông - Tây có mặt trong tiểu thuyết của ông cũng rất gần với những vấn đề của xã hội Việt Nam đương thời. Nói cách khác, những người dịch Chẩm Á có thể đã cảm thông với những vấn đề xã hội được đề cập trong tác phẩm của ông đồng thời với cảm thụ văn chương tài hoa của họ Từ, vì thế họ đã ra sức chuyển tải những điều tâm đắc, tạo ra hiệu ứng xã hội và khoái cảm thẩm mỹ đối với người đọc. Tám năm sau khi bản dịch quốc ngữ Tuyết hồng lệ sử ra mắt bạn đọc trên tạp chí Nam phong, năm 1932, trong bài "Lược-khảo về sự tiến-hóa của quốc-văn trong lối viết tiểu-thuyết," Trúc Hà có nhận định về bản dịch và bản thân bộ tiểu thuyết ấy như sau:
Danh sách tiểu thuyết, truyện ngắn dịch đề tên Từ
Chẩm Á
Đức Khổng-tử san kinh Thi mà không san bỏ thơ Trịnh
Vệ, sửa kinh Xuân-thu mà không tước bỏ sự soán thí, nghĩa là sự hay
thì khuyên cho người ta, sự dở thì răn cho người ta, thứ nhất là một
điều quan-hệ về việc đạo-nghĩa, thứ hai là quan-hệ về việc
văn-chương, thế là một sự bất-hủ truyền lại. Bất cứ truyện
hay, truyện dở, người phải, người trá, đã trải qua tay một người
giá-trị phẩm-đề vào thì cũng đủ là một cái văn có giá-trị và
cái truyện có giá trị. Truyện Tuyết-hồng lệ-sử là
một truyện rất mới, cách nay mới độ 15 năm, là một sự nên xem.
Nhân-vật truyện ấy lại là một người học-giới mới buổi này, lại
càng nên xem lắm. Tuy rằng đối với bản-phận người trong truyện
chưa chắc đã hợp với đạo-lý, nhưng mà văn hay, tình vui, người rất
gần, truyện rất mới, thấy câu văn hay thì ta khen, thấy điều trái
đạo-nghĩa thời ta răn, nên cũng là cái tiểu-thuyết có giá-trị.
Chỉ cho đến khi bản dịch được công bố trọn vẹn, Đoàn
Mai Nhạc mới soạn "Bài tựa truyện Tuyết-hồng lệ-sử,"
ra mặt là dịch giả của bản lược dịch này. Qua bài tựa, có
thể thấy sự cảm thông được người dịch ưu ái dành cho Mộng Hà; niềm
thương xót đối với Lê Nương, Quân Thiến, tuy có nhưng vẫn dựa trên cơ
sở nam quyền:
Rượu ngon gần gái, bệnh Tín-lăng là bệnh anh-hùng[56]; hoa rụng tiếc xuân, sầu Đỗ Mục là
sầu phong-nhã.[57] Đời bạc-mệnh hại lây người
tri-kỷ, Mộng-Hà sao khéo vô duyên? Truyện ai-tình thưởng chén
rượu đa-sầu, Mai-Nhạc thật là sinh-sự. (...) Vậy nên: có chôn
thì trước hết hãy chôn ngay người luân-lạc, hơi đâu chôn cánh hoa tàn;
có thương thì trước hết hãy thương lấy kẻ râu mày, rồi sẽ thương
người son phấn. (...) Tuy rằng: Gặp người tri-kỷ, đố ai
ngoảnh mặt làm thinh; trong cuộc chung-tình, khôn thể cầm lòng cho
đậu. Nhưng mà tài-tử hỡi! văn hay, chữ tốt còn vô-số chốn
phong-lưu; giai -nhân kìa! thề quế, cung trăng, xin hãy rửa lòng
phiền-não. Xem khắp truyện này một lượt, vì tài-tình thương
bác Mộng-Hà; thắp hương ra viếng hái hoa, xin sám hối cùng người
bạc-mệnh.[58]
Tiếp theo Đoàn Mai Nhạc, ý kiến của Minh-phượng
Nguyễn Như-Cương trong bài "Bàn về truyện Tuyết-Hồng lệ-sử"
là một trong những hồi đáp sớm nhất của người đọc đối với bộ tiểu
thuyết này. Xót xa với tấn thảm kịch tay ba Lê Nương - Mộng Hà -
Quân Thiến, Nguyễn Như Cương đứng trên lập trường đạo đức mà lên án lối
sống của họ, những con người lẽ ra không nên vực sống dậy trên những
trang sách văn chương:
Ta thật ghê thay cho chữ si-tình và người si-phụ. Xưa nay không gì khó hơn sự chết, lại không gì khó hơn chết mà mình
tự chết, thế mà yêu-kiều mặt phấn, buổi xuân xanh liễu-yếu đào thơ
nỡ đem mòn-mọi má hồng, chút phận bạc hoa tàn nguyệt khuyết; cha
già chẳng đoái, con trẻ không thương, thì há chả phải si-tình và
si-phụ ru?
Hà há không biết Ảnh là vị-vong-nhân hay sao, mà còn
dạy con toan gạ mẹ; khóc hoa chôn hoa, luận văn đàm kiếm, khêu tình
những sự chi chi, khiến người sắt đá cũng si vì tình? (...)
[P]hương-chi nhà sương vừa buổi xuân xanh, cầm lòng sao dễ, sử-nữ đương
tuần hoa nở, bấm chí tự-do... Vậy bảo Hà giết hai người cũng phải,
bảo hai người giết Hà cũng phải, mà bảo Hà tự giết Hà cũng phải
nữa.
Đọc sách mà cay mắt, nghe nói lại thương-tâm; nhưng
thương-tâm vốn thật thương-tâm, so vào bút pháp mười phân lỗi mười
(...) Ấy câu chuyện có thế mà Từ-quân không xét lý, chỉ tự-tình,
làm ra bộ Tuyết-Hồng (...) khiến người đọc đến nát ruột tan
gan (...) tưởng-tượng đến người trong truyện như một bức truyền-thần
trước mắt. Than ôi! Lê-Ảnh chết rồi, Quân-Thiến chết rồi,
Mộng-Hà cũng chết rồi, Trẩm-Á còn làm sống lại nữa mà chi?[59]
Hai tiểu thuyết tiêu biểu của Từ Chẩm Á được dịch
sang tiếng Việt theo trình tự nghịch đảo: Tuyết hồng lệ sử ra
mắt bạn đọc Ngọc lê hồn. Nguyên nhân chính có lẽ là do
việc du nhập ít nhiều mang tính ngẫu nhiên các tác phẩm của tiểu
thuyết gia này vào Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Sau khi Tuyết
hồng lệ sử đã đăng xong trên Nam phong, Mai Khê viết bài
"Bổ truyện Tuyết-hồng lệ-sử", cho biết nhân đọc các
bài tựa trong quyển Tuyết hồng lệ sử mới biết là bộ tiểu
thuyết nhật ký này được viết tiếp theo sau Ngọc lê hồn, và nhờ
tham khảo thêm Ngọc lê hồn mà hiểu được số phận chung cuộc
của Mộng Hà,
Xem hết các bài tựa mới biết khi trước Từ-Trẩm-Á
đã làm một quyển Ngọc-Lê-Hồn, sau soạn quyển nhật-ký này,
đặt tên là Tuyết-hồng Lệ-sử, thì quyển Ngọc-lê-hồn như
một các khu-xác, mà quyển Tuyết-hồng ví như một cái
linh-hồn. Bỉ-nhân duyệt qua quyển Tuyết-hồng lệ-sử, nhưng
tiếc rằng chỉ đến khi Mộng-Hà đi du-học là hết, vậy phải tham-sát
đến cả quyển Ngọc-lê-hồn thì mới biết truyện sau như thế
này, vậy nên phụ-dịch cho đủ. Đoạn văn này là của Từ Trẩm Á
chép vì cớ sao mà có quyển nhật-ký ấy.[60]
Phần dịch bổ sung thêm từ chương 29 của Ngọc lê
hồn được xếp thành một trong hai bài tựa của Từ Chẩm Á cho bản
dịch tiếng Việt của Tuyết hồng lệ sử. Giải pháp văn bản
này khác hẳn với phương án ban đầu, dự định dịch thêm một phần
trong Ngọc lê hồn để cấu thành chương XV cho Tuyết hồng
lệ sử kết thúc ở chương XIV trên Nam phong: "Đến đây là
hết nhật-ký của Mộng-Hà (Còn chương thứ 15 dịch bổ thêm ở
quyển Ngọc-lê-hồn về việc khi Mộng-Hà chết, và dịch các
bài tựa và lời phê-bình của Từ Trẩm Á, và phụ những lời bình
phẩm của người sao-dịch)."[61] Chương 29 của Ngọc lê hồn nhắc
chuyện một người họ Hoàng, trong khởi nghĩa Vũ Xương, tình cờ chứng
kiến một người dáng vẻ như du học sinh sức yếu "trói gà không
chặt", khi ấy dù đã bị trúng nhiều phát đạn, máu nhuộm đầy
mình, vẫn giương súng bắn hạ ba quân địch, rồi mới ngã xuống hấp
hối. Sau khi quân địch rút lui, Hoàng vội chạy đến gần thăm
hỏi. Người ấy bảo: "Ông nói giọng phương Nam, hẳn là người
Giang Tô có phải? Tôi cũng là người miền Nam, cùng là người đồng
hương với ông. Nay tôi đã bị trọng thương, không có hy vọng sống
sót. Bên mình tôi còn lại một vật này; sau khi tôi chết, xin ông
hãy giữ cho." Hoàng lục túi người ấy, thấy một tập sách
nhỏ, bèn cất lấy. Người tử sĩ ấy là Mộng Hà, và tập sách
nọ chính là "Tuyết hồng lệ thảo".[62] Bài "Tựa 1" đã
chuyển thuật câu chuyện cái chết của Mộng Hà qua lời người họ Hoàng
như sau,
Tôi nhân khi đó du lịch có qua một cánh đồng vắng,
thấy một người con trai độ 30 tuổi, nằm sóng sượt vẫy tay gọi tôi
đến gần, tôi vội vàng chạy lại hỏi rằng: 'Nghe tiếng thày hình như
người Ngô, có phải không? Có muốn dặn câu gì xin cứ nói.' Nhìn gần thì thấy đạn bắn suốt đùi, máu chảy lai láng, thổn thển
bảo tôi rằng: 'Tôi bây giờ trên trời dưới bể núi Bắc sông Nam, vì
quyết chí về việc nước để đền lòng người tri kỷ không dám tiếc gì
đời, may được gặp ông đây, xin ông móc túi áo tôi lấy quyển nhật ký
này, để truyền bá cho người thứ hai được biết, thì tôi cảm tạ
lắm.' Nói xong thì tắt nghỉ.[63]
Chuyển thuật trên đây lộ rõ nhiều yếu tố tự sự không
có trong nguyên tác, giả như tuổi đời của người con trai, ý nguyện
"quyết chí về việc nước để đền lòng người tri kỷ," hay yêu
cầu truyền bá "quyển nhật ký" cho "người thứ hai được
biết." Chuyển thuật này đã đặt cái chết của Mộng Hà, vốn
là một câu chuyện hư-cấu (fiction) vào văn cảnh phi-hư-cấu (non-fiction)
của một bài tựa (ký tên Từ Chẩm Á), dùng chất liệu của tiểu
thuyết hư-cấu để tạo nên văn bản phi-hư-cấu. Bài "Tựa
1" không dừng ở đó mà tiếp tục khiến người đọc phân vân, đứng
bấp bênh trên lằn ranh giữa thực và ảo của mối tình và cuộc đời
của 3 nhân vật Mộng Hà 夢霞, Lê Ảnh 梨影, và Quân
Thiến 筠倩 bằng cách đọc ra hàm nghĩa trong tên gọi của họ,
Mộng Hà có phải người thật hay là giấc chiêm bao, Lê
Ảnh có phải người thật hay là cái bóng hoa, Quân Thiến có phải là
tên thật hay là tên mượn, thì chưa dám biết, nhưng sau khi quyển Lệ
sử ra đời, xin duyệt giả đừng nhận lầm là chuyện tình thì
phải.[64]
Lời nhắn "đừng nhận lầm là chuyện tình"
trong bài "Tựa 1" chính là lược giải lời Từ Chẩm Á trong
bài "Tự tự 自序" (Bài tựa tự viết) của ông.
Trong bài tựa cho Tuyết hồng lệ sử, Chẩm Á viết,
Cái "tình" mà tôi nói đến thực là chuyện
mà các nhà tiểu thuyết gia cao hứng, nhiệt liệt thời nay bỏ qua,
không buồn đả động đến. Đây có thể chứng minh lòng tôi cô độc,
mà sách tôi viết vậy nên không muốn bị gọi là tiểu thuyết. Tôi
viết sách này là có ý riêng, bụng dạ hoàn toàn chưa từng nghĩ đến
hai chữ "tiểu thuyết," mong ước sâu xa xin người đọc chớ lấy
nhãn quang tiểu thuyết mà hiểu lầm sách của tôi.[65]
Việc "có ý riêng" (ý biệt hữu tại 意別有在) của
Chẩm Á ở đây là gì? Nhân viết bài tựa cho Tuyết hồng lệ
sử của em mình, Từ Thiên Khiếu 徐天嘯 (1886-1941) cho rằng tiểu thuyết
ngôn tình là tả chân tình chủng 情種 (nòi tình), "Nói chung tình
chủng 情種có chân tướng của tình chủng; tình
chủng có đặc tính của tình chủng. Chân tướng này, đặc
tính này chỉ riêng tình chủng mới có thể biết, duy có tình
chủng mới có thể tự biết."[66] Theo đó, chỉ có người thuộc
nòi tình, tự thân trải nghiệm mới có thể nắm được chân tướng, đặc
tính của giống đa tình, mới có thể viết được ngôn tình tiểu thuyết
theo đúng nghĩa của nó. Trong bài tựa tự viết, Chẩm Á dự đoán
sau khi Tuyết hồng lệ sử ra đời, những người yêu mến ông sẽ
bảo rằng đây là bức ảnh tả chân của Chẩm Á (Thử Chẩm Á chi tả chân
ảnh phiến 此枕亞寫真影片). Niềm riêng của Chẩm Á ở
đây hẳn là tự truyện ái tình của ông đã được mã hóa thành Ngọc
lê hồn và Tuyết hồng lệ sử. Thế nhưng, do hoàn
cảnh khách quan, bài "Tựa 1" hư cấu không biết được điều ấy.
Vả lại, khi khuyến cáo Lệ sử không phải là "chuyện
tình," bài "Tựa 1" rõ ràng đã muốn dẫn dắt bạn đọc
theo một hướng khác. Năm 1932, nhân tái bản Tuyết hồng lệ
sử, Nam Ký thư quán có lời mở đầu "Cùng độc giả", dùng
bài "Tựa 1" nhằm phản bác những ý kiến phê phán tập sách
này,
Bảo rằng đọc Tuyết hồng lệ sử có ích lợi
gì, chúng tôi chưa dám bảo; nhưng nói đọc Tuyết hồng lệ sử có
hại thì chúng tôi quyết không nói được: cứ xem ở bài tựa của tác
giả, thấy Tuyết hồng lệ sử nguyên là một tập văn nhật ký
của một vị thanh niên "Vì quyết chí về việc nước để đền lòng
tri kỷ."[67]
Ý tưởng "quyết chí về việc nước để đền lòng
tri kỷ" có xuất xứ lá thư của Tần Thạch Si 秦石痴 ghi
lại lời bạn mình là Mộng Hà sau khi Lê Nương quá vãng: "Tôi nén đau,
ôm hận mà đến đây [du học ở Đông Kinh], là vì theo lời của người ấy
thuở trước, tạm hoãn cái chết trong chốc lát mong có được cơ hội để
báo ơn đất nước, tức hẳn cũng là để báo đền người tri kỷ dưới
suối vàng."[68] Hình ảnh đôi tình nhân
Mộng Hà - Lê Nương cân bằng được tình riêng cá nhân với tình chung đất
nước chính là tiêu điểm mà bài "Tựa" hư cấu cố gắng hướng
độc giả đến, nhằm chống đỡ lại những phê bình xã hội đối với Lệ
sử. Cũng đáng chú ý là ý nghĩa chính trị của việc Mộng Hà
tham gia khởi nghĩa Vũ Xương nhằm lật đổ Thanh triều, kiến lập thời
đại Dân Quốc đã bị "trung tính hóa" thành chuyện chàng gia
nhập vào "trận chinh cách ở tỉnh Mỗ," cùng với "những
bọn thanh-niên tráng-sĩ nước Trung-Hoa đem thân đền ơn nước ở chốn sa tràng"
ở bài "Tựa 1"[69], hay thậm chí chỉ vì "giặc
giã nổi lên," mà Mộng Hà tòng quân, theo chân "chí-sĩ
danh-nhân đều bỏ nghề văn-chương mà [x]ô nhau đi đánh giặc" như
trong bản dịch của Trúc Khê.[70] Hiển nhiên, vấn đề nữ quyền
nhức nhối mưu cầu hạnh phúc cho người phụ nữ trong Lệ sử cuối
cùng đã bị bỏ rơi hoàn toàn ở đây.
Tuyết hồng lệ sử có ảnh hưởng nhất định đối
với văn học hiện đại Việt Nam. Một số tiểu thuyết Việt Nam
hoặc mô phỏng cách đặt tựa, hay dựa theo văn phong, văn thể của Lệ
sử như Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm (1924), Minh Châu
lệ sử của Tam Lang (1930).[71] Do Tố Tâm được
hoàn tất năm 1922, Hoàng Ngọc Phách có thể đã không chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ bản dịch Tuyết hồng lệ sử của Đoàn Tư Thuật
trên Nam phong khi viết Tố Tâm, nhưng trước đó rất có thể
ông đã đọc và chịu ảnh hưởng của Từ Chẩm Á trực tiếp qua nguyên tác
Trung văn.[72] Qua ngòi bút dịch thuật tài
hoa của các dịch giả, tiểu thuyết Từ Chẩm Á đã chinh phục tình cảm
của người đọc Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ.
Phụ nữ với báo chí, văn chương, và thị trường tiểu
thuyết
Việc thành lập trường nữ học đầu tiên ở Hà Nội năm
1908 sau đó lan rộng đến Huế và Saigon đã góp phần cho sự hình thành
một giai đoạn mới trong sự phát triển đời sống trí thức của phụ nữ
Việt Nam. Tuy số lượng nữ sinh còn rất khiêm tốn so với nam sinh
(xem Thống kê 1 và 2 dưới đây),[73] phụ nữ đã có điều kiện chính
thức bước vào học hiệu, thụ hưởng giáo dục, trở thành bộ phận của
phong trào nữ quyền đòi hỏi bình đẳng nam-nữ đang lan tỏa rộng khắp
trên thế giới thời hiện đại. Bước phát triển này đã tạo điều
kiện để phụ nữ lần đầu tiên được tham gia vào các ngành nghề xã
hội như giáo dục, y tế, và đặc biệt là trong một lĩnh vực hết sức
mới mẻ thời bấy giờ - báo chí với tư cách là người đọc, người
viết.
|
Giai đoạn 1918-1921 |
Số lượng học sinh |
||
|
Nam sinh |
Nữ sinh |
Tổng số |
|
|
Annam (Trung kỳ) |
31,240 |
760 |
32,000 |
|
Cochinchine (Nam kỳ) |
62,730 |
9,220 |
71,950 |
|
Tonkin (Bắc kỳ) |
47,200 |
2,700 |
49,900 |
|
Thống kê 1: Giáo dục Pháp - bản xứ, giai đoạn
1918-1921 |
|||
|
Giai đoạn 1930-1931 (Tính đến tháng 1/1931) |
Số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở |
||
|
Nam sinh |
Nữ sinh |
Tổng số |
|
|
Annam (Trung kỳ) |
9,404 |
750 |
10,154 |
|
Cochinchine (Nam kỳ) |
72,032 |
20,012 |
92,044 |
|
Tonkin (Bắc kỳ) |
44,667 |
2,587 |
47,254 |
|
Thống kê 2: Giáo dục Pháp - bản xứ cấp phổ thông cơ
sở, 1930-1931 |
|||
Sự ra đời của tuần báo Nữ giới chung năm 1918 không chỉ là sự kiện văn hóa quan yếu đầu thế kỷ 20, mà còn là một cột mốc trọng đại trong lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam hiện đại. Báo ra đời nhân chủ trương thay đổi chính sách văn hóa của Toàn quyền Albert Sarraut (1872-1962), đặc biệt trên phương diện báo chí. Nhận thức rõ về thế lực của phương tiện truyền thông đại chúng dựa trên công nghệ in ấn hiện đại này, Sarraut tăng cường sử dụng báo chí vào mục đích tuyên truyền nhằm chống lại ảnh hưởng của Đức đang ngấm ngầm lan toả trong xã hội Việt Nam qua những ấn phẩm nhập từ Trung quốc, chống lại những tư trào của các nhà cải cách Trung quốc như Khang Hữu Vi康有為(1858-1927) và Lương Khải Siêu梁啟超 (1873-1929), đồng thời tách rời trí thức bản địa khỏi ảnh hưởng Trung hoa và gầy dựng tâm lý sùng Pháp qua việc truyền bá văn minh Tây Âu.[75] Không chỉ nhắm vào đối tượng trí thức, Sarraut còn chú mục đến phụ nữ như một lực lượng xã hội giàu tiềm lực nhưng còn ít được quan tâm. "Mấy lời kính tỏ" đăng trang trọng trên trang nhất của báo nói rõ: "Nay nhơn quan Toàn-quyền Sarraut đang sốt sắng về sự nữ-học, cho phép bổn-báo chủ-nhơn là ông Blaquière lập ra tờ nữ-báo này, đặng giúp ích trong cuộc phổ-thông một đôi chút."
Với phương châm và tôn chỉ như trên, Sương Nguyệt Anh chủ
trương thay vì lãng phí thời giờ với sáng tác văn chương, phụ nữ nên
đặt tâm trí vào thực nghiệp để góp phần xây dựng quốc gia phú
cường, nhằm theo kịp các nước đang phát triển ào ạt trong thời đại mới
của khoa học và công nghệ. Thực nghiệp không chỉ là con đường
đưa phụ nữ Việt Nam lên ngang hàng với phụ nữ thế giới, mà còn dẫn
họ đến bình quyền nam-nữ:
Nghĩa câu thơ vận phú, là thú giải phiền, cũng như
cái vườn kiển [kiểng/cảnh], ngắm chơi vui mắt, chớ thiết-dụng, chắc
không bằng đám rau. Tuy vậy, nhưng con người ta ở trong chốn bụi
hồng, lúc trăng trong, có năm ba tri-kỷ, thú thanh-cao còn chi bằng cái
thú văn-chương. Song nghĩ lại nước nhà đang buổi phôi-thai, trăm
điều còn kém thua người cả trăm, mà mảng vui rượu sớm cờ trưa, câu
thần nối thơ, tay tiên rót chén, dẫu tài trai cũng chưa khỏi tiếng
thi-cuồng (điên thơ); sách họ Tào[76] há dễ nấu ra cơm, bút chàng
Giang[77] khó bề may đặng áo. Huống chi đờn bà, đôi vai gánh nặng nỗi nhà, mà muốn chen lên trên chốn
văn-đàn (chỗ văn-chương) làm chị ông Lý-Thái-Bạch; ngâm trăng ngợi
tuyết, cợt gió cười mây, thì sao cho tròn cái nghĩa vụ làm con, làm
vợ, làm mẹ?
(...) Ngày nay ngọn sóng Âu-trào, tràn qua
Nam-hải, các khoa-học minh mông trời biển, công-nghệ thế ấy, học
thuật thế kia, trông người mà gẩm đến ta, tình buồn cảnh buồn, mà
không buồn, lại buồn đến cánh bông tàn, buồn vừng trăng khuyết, thiệt
lý-tưởng cao mà lý-tưởng lạ vậy!
Kìa ta mở cặp mắt ngó ra hườn- [hoàn] hải, người Âu,
Mỹ, làm thầy giáo cũng đờn bà, thầy thuốc cũng đờn bà, mà thầy
kiện cũng đờn bà, trong tay sẵn có một nghề, không phải nương nhờ
vào người nam-tử. Ấy học người ta như thế, há phải như ta không
bệnh mà rên?
Chị em ôi! Cái chết đánh chết cái hay, dẫu văn
như ả Tạ nàng Ban,[78] cũng chẳng qua một cái trò
chơi của ông tạo-vật. Nếu muốn có cái địa vị ngang ngang với
người nam-tử, thì việc tề-gia nội-trợ, phải thuộc làm lòng, tình
trong thế ngoài, ráng nên ghé mắt, tuy chưa được như người Âu, Mỹ, song
cũng đừng phụ tiếng Lạc-Hồng (Lạc-Hồng là tổ nước ta). Vậy
chẳng những phước riêng trong gia-đình, vả lại cũng ích chung cả
xã-hội nữa, ấy mới gọi mượn phước-trạch đua chí với văn chương, chi
phải bắt chước cái giọng hàn-toan (chua cai [cay]) như nhà học-cứu?
(thầy đồ).[79]
Để thi hành thực nghiệp, phụ nữ cần nâng cao tri
thức, học vấn của mình thông qua việc đọc. Sương Nguyệt Anh cho
rằng do thế giới ngày nay đã mở rộng đón chào cả nam lẫn nữ vào
một "phong hội" mới, phụ nữ cần phải trang bị cho mình kiến
thức như nam giới. Họ cũng cần phải tránh xa tiểu thuyết mà
đầu tư thời gian cho việc đọc những bộ sách quốc ngữ có ích cho
giáo dục gia đình và thực nghiệp xã hội:
Phàm người biết nghĩ, chẳng nói thì ai cũng biết
rằng, sách dạy đờn-bà con gái đời xưa, trừ ngoài một khoa luân-lý,
quyết nhiên không còn gì hiệp với thời-thế bây giờ. Vì
thế-giới xưa là thế-giới riêng của đờn ông, mà thế giới nay là
thế-giới chung cả đờn bà; phong-hội đã mỗi ngày một mở mang thì
học-thuật cũng mỗi ngày một thêm rộng, nếu cứ khu khu một cái chủ
nghĩa làm con làm vợ, thì kiến thức ắt hẹp hòi, sao có cái địa-vị
tương đương với người nam-tử được? (...) Là đời cạnh-tranh
nầy, bất câu là gái hay trai, ai ai cũng phải có một cái kiến-thức
thông thường đặng cho hoàn-toàn nhơn cách.
Trong ba xứ, như Bắc-kỳ, Trung-kỳ, đờn bà mà biết
chữ quốc-ngữ, tuy chưa được bao nhiêu, chớ Nam-kỳ ta đây, mười phần
cũng có đến bảy tám, mà không thấy một cuốn sách nào thuộc về
giáo dục đờn bà cả. Vậy có trách sao "Phản-đường,"
"Thuyết-nhạc," ai cũng thuộc lòng, "Gia-sự,"
"Thủ-công" hỏi thì dốt đặc.[80]
Trong khi sách quốc ngữ còn chưa nhiều, phụ nữ nên
tranh thủ đọc báo quốc ngữ vì "báo là một lò luyện-tâm
đào-trí cho người, ta có xem thời mới có khôn". Ngoài việc
cung cấp tri thức căn bản, báo chí khi ấy còn đóng vai trò hướng dẫn
phụ nữ sinh hoạt hợp thời, cập nhật với thời sự - thời
thế:
Ta hãy còn yếu đuối, báo là cái đại dược-phòng, ta
muốn mạnh khỏe phải cần đến mới được. (...) Ta coi tờ báo
có điều hay thời ta bắt chước, điều dở thời ta lánh xa. Người
xưa có câu: "khai quyển hữu-ích" nghĩa là không xem sách thời
nó ngu dốt người đi, chớ nếu mở đến quyển sách xem lấy ít nhiều
thời cũng là có ích rồi. Thế thì tờ báo là một quyển sách
theo phong-trào mà khích lệ lòng người khảo cứu giúp xã-hội,
thời-thế thế nào thời đem bàn-bạc mà liệu cách duy trì cho
vững-trải [chãi] nòi giống mình; nếu mà xem được tờ báo hay,
tạp-chí khá mà xem, thì ích-lợi còn hơn là quyển sách chẳng hiệp
thời.[81]
Trên thực tế, khi ấy đã có một số nhỏ phụ nữ học
trường Pháp, học lên cao đẳng sư phạm, và thậm chí còn du học ở
Pháp. Tuy chỉ là thiểu số, những người phụ nữ học vấn này sẽ
góp phần thay đổi quan niệm về việc đọc của phụ nữ, cũng như ảnh
hưởng của tư tưởng trong sách báo ngoại nhập đối với họ nói riêng,
và với phụ nữ trong nước nói chung. Tác giả khuyết danh của
một bài báo trên Phong hóa đã miêu tả một bức tranh có phần
ảm đạm của thị trường tiểu thuyết ở Hà Nội vào đầu thập niên
1930. Theo bài viết này, trong khoảng 10 năm trước đó, dạo qua
các nhà sách, người ta có thể thấy nhan nhản những tiểu thuyết trứ
tác hay dịch thuật như Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc
Phách, Mồ cô Phượng (1928) của Tùng Lâm Lê Cương Phụng,
hay Một tụi chán đời (1927) của Nguyễn Văn Lịch; bên cạnh
tiểu thuyết của tác giả trong nước còn có Truyện ba người ngự
lâm pháo thủ (1926), cùng một số tiểu thuyết dịch của Từ Chẩm
Á như Vợ tôi (1927), Chồng tôi (1927), và Tuyết
hồng lệ sử (1928). Tuy nhiên vào thời điểm của bài báo,
khách mua sách "không thấy bày một quyển quốc văn nào. Họa
chăng là những sách giáo khoa (...) thì còn thấy có in mà
thôi". Bài báo giải thích hiện tượng này bằng hai nguyên
nhân. Một là do "nhiều nhà trước thuật, dịch thuật ra đời
quá". Các "văn sĩ non" ồ ạt tràn ngập thị thường
sách đã khiến chất lượng các tác phẩm văn chương sút giảm trầm
trọng và làm người đọc mất hứng thú. Hai là do "Pháp học
lan rất rộng, rất mau chóng." Một lớp độc giả có khả năng
đọc trực tiếp tác phẩm qua nguyên tác Pháp văn đã hình thành, và
với họ, "những tiểu thuyết, truyện ngắn của mình đem so với
tiểu thuyết của Pháp văn thì có khác gì đem bài của học trò mà so
sánh với các ông giáo." Hệ quả là các hiệu sách, các nhà
buôn phải chiều theo yêu cầu của thị trường, "đua nhau buôn đủ các
sách chữ Pháp" và tất nhiên phải treo bảng "bán giá bên
Pháp."[82] Một số phụ nữ trí thức tất
nhiên có mặt trong số bạn đọc tiểu thuyết Pháp văn ấy và tác phẩm
văn chương Pháp tất yếu đã ảnh hưởng đến tư tưởng của họ. Dư
luận xã hội sẽ luận giải ảnh hưởng này theo những hướng khác nhau.
Ảnh hưởng tiểu thuyết Pháp: Vụ án "Bạn và
Vợ"
Năm 1927, báo chí 3 miền khiến độc giả chấn động bởi
tin ngoại tình giữa một người phụ nữ và hai người đàn ông, cả ba
đều là trí thức bậc cao đẳng. Cặp vợ chồng trong vụ án này
là cô Hoàng Thị Khiêm và ông Trần Văn Khang, cùng tốt nghiệp Cao đẳng
sư phạm Hà Nội. Cô Khiêm ngoại tình với ông Vũ Tam Thám, bạn
của chồng mình. Cũng từng theo học Cao đẳng sư phạm, ông Thám
nguyên là giáo sư trung học, sau chuyển sang làm tham biện ở một công
sở, đã có vợ và 7 mặt con.[83] Cô Khiêm và ông Thám dan díu
với nhau, cùng bỏ trốn nhưng bị ông Khang bắt được.[84] Vụ án ngoại tình này được
đưa ra tòa vào tháng 4/1932, và nhanh chóng thu hút sự chú ý của dư
luận.
Trong thời gian xử án, báo chí liên tiếp công bố thư
từ và nhật ký của họ, và nhân đó công chúng có dịp biết thêm về
những góc kín của ba nhân vật từng được đào tạo trong hệ thống giáo
dục cao học Pháp ở Bắc kỳ thời ấy. Theo nhật ký của cô Khiêm,
hôn nhân của cô với ông Khang hoàn toàn không có tình yêu. Vốn có
bằng cao đẳng tiểu học, cô Khiêm trước đó dạy học ở Hà Tĩnh. Mẹ mất sớm, cha tục huyền, cô Khiêm xin trở lại học ở trường Cao
đẳng sư phạm học, và gặp ông Khang ở đấy.[85] Ở tuổi 22, có lúc cô đã từng
nghĩ đến chuyện quyên sinh. Cô Khiêm đa cảm ấy viết những dòng
sau đây trong nhật ký,
Sáng ngày tôi đi học, nhưng là đi cho có vị chứ tôi
buồn lắm có làm được gì đâu. Đi đến tôi trông thấy Khang tôi lại
buồn. (...) Từ nay tôi không muốn trông thấy Khang nữa, tôi không
muốn cho Khang hỏi han gì đến tôi nữa cả. Tôi điên lắm rồi, đừng
làm tôi nói ra nhiều câu chua chát điên cuồng mà khổ thân! Khổ,
tôi thương Khang quá, tự nhiên phải chịu cái vạ! (...) Chiều hôm nay tôi
lại vơ vẩn trên con đường Tây hồ, Trúc Bạch. (...) Tôi ngồi mắt
nhìn phong cảnh mà trí vẫn nghĩ đi đâu, nghĩ có lúc nó đau quá hình
như muốn kêu muốn khóc cho hả, nhưng nào khóc nào kêu có được... lúc
bấy giờ chỉ muốn nhảy tòm ngay xuống hồ... như thế là hết đau đớn
hết buồn hết tức (...) Tôi xét ra thì nay tôi lại buồn hơn
trước, vì tôi là người đa cảm, nay cái buồn cái chán đời từ xưa chưa
nhẹ đi tý nào (thêm vào thì có phần) mà lại thêm cái buồn là gây
nên mối buồn về sau này cho Khang![86]
Cô quý ông Khang vì ông là người "nghĩa hiệp,
thực thà," nhưng ông không phải là người giúp cô hoàn thành mộng
tưởng "một mái nhà tranh và một quả tim" (Mon rêve: Une
chaumière et un coeur). Kết hôn với ông Khang, cô giao hẹn: "Tôi
chỉ lấy cậu trong năm năm mà thôi, sau đấy hai ta sẽ phải cùng nhau
chia rẽ."[87] Trong khi những cung phụng vật
chất của ông Khang không thỏa mãn được nhu cầu tình cảm của cô, ông
Thám xuất hiện và xen vào giữa quan hệ vợ chồng của họ. Bỏ
trốn cùng nhân tình, cô Khiêm để lại một bức thư viết bằng tiếng
Pháp xin ông Khang tha tội ngoại tình trước khi tìm sự giải thoát
trong cái chết, nhưng trước tòa, cô lại tự biện hộ bằng tiếng Pháp
"kể nhiều chuyện có ý đổ lỗi cho chồng nên mình mới bán rẻ
chữ trinh."[88] Trong thời gian xử án, ở tầng
dưới tòa án "người đông như kiến cỏ, hàng ngót năm sáu nghìn
người, thở không kịp, xô đẩy nhau để muốn được vào xem mặt những vai
chủ động trong tấn kịch bạn, vợ này."[89]
Ngay khi vụ việc được đưa ra ánh sáng năm 1927, Nguyễn Hữu Kim soạn ngay vở kịch Bạn và vợ, công diễn
lần đầu ở Hà Nội ngay trong năm ấy, và tiếp tục đưa lên sân khấu vào
những năm 1929 and 1933 ở Hà Nội và Saigon.[90] Suốt trong thời gian phiên tòa,
vở kịch trở thành đầu đề để công luận nhìn lại quá trình học hành
của cô Khiêm để đoán định nguyên nhân phạm tội.[91] Tự do luyến ái bị lên án, và
suy nghĩ không chín chắn khi xem văn chương Tây (đặc biệt là tiểu
thuyết) bị xem là nguyên nhân suy đồi đạo đức của nữ sinh viên trong
hệ thống giáo dục cao đẳng Pháp. Một nhà báo ký tên Thương Biên
lên án,
Trên con đường học mới, nó có những cái trở ngại
lớn cho các chị em đang theo đuổi, là những tiểu thuyết Tây. Một
điều nên nghĩ vậy. (...) Đọc tiểu thuyết Tây tức là xem những
cuốn chuyện tuỳ theo sở thích của mình, của những nhà văn sĩ hay thi
sĩ Pháp. Vậy, cứ theo ngu ý, thì, đối với chị em ở cái trình
độ như trên, cái sự đọc tiểu thuyết Tây, không nên coi là sự hay cho
chị em cần phải có. Sự hay cho hạng chị em ấy ngày nay, là hãy
bằng lòng với những môn học chữ Tây bị bó buộc phải học. (...) Mà nói đến ngọn bút của những nhà tiểu thuyết Tây tả đến
tình cảm con người ta, thì tôi phải phục là cái tài nó khéo tô vẽ,
trạm trổ cho đến cực điểm (...) Nhưng cái tình cảm tả trong những
thiên tiểu thuyết Tây như thế - hay có thể nói được trong các thiên
tiểu thuyết Tây - nó có hợp với bản chất của chị em Nam Việt ở cái
trình độ học thức trên đâu! Đã không hợp với bản chất chị em,
mà lại chủ trương, lấn áp, chi phối được cái mảnh hồn chị em, thì
điều đó, chỉ có hại to, mà không có lợi nhỏ vậy. Bị lôi kéo
một cách khốn nạn như vậy, chị em rồi linh đinh hoài trong cái bể
tiểu thuyết sóng gió lụt trời, mà trở nên những người mất hẳn tâm
hồn riêng, những người "thọ cảm" (...) Một lũ điên bởi
cái tâm hồn đã nát bét, nát bét bởi những sự kích thích vô vị của
ngọn bút đại tài nhà tiểu thuyết, hay một áng thi nhân![92]
Điểm qua chương trình giảng dạy văn chương Pháp với
những nhà thơ, nhà văn bắt buộc phải đọc, như Lamartine, Alfred de
Musset, Chateaubriand, và Victor Hugo - "những ngọn bút có thể cảm
người ta một cách rất mãnh liệt", tác giả yêu cầu các nữ sinh
viên phải biết dùng "cái thước đo của nhà sư phạm liệu chiều mà
hạn chế cái cảm giác cho nó khỏi vượt bừa qua cái vòng 'sư
phạm'." Vụ án "Bạn và vợ" là một ví dụ cho thấy
phương thức tư duy kết tội văn chương - tiểu thuyết tình cảm lãng mạn
(Pháp) như là nguồn gốc dẫn suy đồi đạo đức và băng hoại xã hội ở
những bạn đọc nữ thiếu suy xét, và không có đủ bản lĩnh tri
thức. Cũng trong vụ án này, đã thấy quyết định tự sát tồn
tại như một giải pháp để thoát ra khỏi hoàn cảnh bế tắc về tinh
thần và tình cảm ở những phụ nữ "tân thời."
Phụ nữ tự sát - Từ "Phong trào" đến
"bệnh dịch"
Cho đến năm 1932, việc phụ nữ tự sát đã trở thành
một vấn đề nghiêm trọng khiến nhiều bậc thức giả phải quan tâm. Phan Bội Châu viết bài “Nguyên nhân tự sát vì sao?” để công bố
trong mục “Bức thư ở Huế” trên Phụ nữ thời đàm nhưng rất
tiếc do kiểm duyệt, nay chỉ còn thấy được tựa bài đăng trên số báo
ra ngày 18/6/1932. Vào năm 1927, những vụ tự sát diễn ra nhiều
như một "phong trào", và đáng chú ý là phần đông họ đều
được cứu sống. Tuy không có con số thống kê đầy đủ về tất cả các
trường hợp, một điều tra sơ bộ tập hợp 43 trường hợp phụ nữ tự sát
đăng tải trên báo chí trong khoảng từ 1927 đến 1934 ở Hà Nội, Huế,
và Saigon.[93] Kết quả này góp phần khẳng
định tính xác thực của nhận xét sau đây viết vào tháng 7/1927,
Gần đây, nói về chị em chúng mình hình như cái phong
trào tự sát đã nổi lên đùng đùng không mấy hôm là không nhận được
tin tức, nào chị này đầm đầu xuống hồ Hoàn Kiếm, nào chị kia [gi]eo
mình xuống hồ Tây, lại còn những cô tự tử bằng cách khác như uống
thuốc phiện dấm thanh cũng không phải là ít. Trong số những
người muốn tự tử phần nhiều là các tiểu thư, ăn vận rất lượt là
hoa mỹ, hình như con nhà tử tế cả, mà thường thường xuân xanh chỉ độ
trong vòng mười tám đôi mươi có lẻ là cùng! Có một điều lạ là
tuy các cô muốn mượn [gi]òng nước hoặc chén dấm thanh mà rũ sạch nợ
trần cho hả cơn hờn [gi]ận, cho khỏi phải đeo đẳng cái tấm thân cơ
khổ ở cái đời tẻ ngắt buồn tênh, nhưng tuy người muốn thác [tr]ời
nào có cho; thực các cô muốn chết mà chết cũng không thoát được
vậy.[94]
Năm năm sau (1932), tạp chí Nam phong đăng song
song nguyên văn tiếng Pháp với bản dịch tiếng Việt tiểu luận về tự
tử của tiểu thuyết gia Edmond Jaloux (1878-1949). Lời giới
thiệu in ở đầu hai bản song ngữ Pháp - Việt phân tích vắn tắt nguyên
nhân căn bệnh tự tử ở Việt Nam,
Trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, thường thấy nói có
cái dịch tự tử. Gái non trẫm mình xuống sông xuống hồ, trai
trẻ uống thuốc độc bằng nha phiến với dấm thanh, những việc đó hằng
thấy in trong mục thời sự các báo. Một cái xã hội có nền nếp
thì người ta không khi nào nghĩ đến quyên sinh. Sở dĩ có kẻ
chán đời đến không muốn sống nữa, là vì cái hoàn cảnh bực tức,
khiến cho người ta đã không biết sống làm vui, thời sao có biết thiệt
thòi làm thương. Cái dịch tự tử trong xã hội ta, âu cũng là
cái triệu chứng xã hội đương qua một hồi khủng hoảng về tinh thần
vậy.[95]
Diễn giải phân tích trên đây, Phạm Thị Ngoạn đi ngược
về 9 năm trước đó, tìm trong bài viết "Thanh niên có nên buồn
không?"[96] của Phạm Quỳnh để hiểu xem
cuộc khủng hoảng tinh thần ấy là gì. Bà kết luận đó có thể
là sự xung đột giữa một bên là trào lưu cá nhân và hoài bão tự do
với một bên là gia đình truyền thống như một chướng ngại cho sự phát
triển cá nhân, gây ra tâm lý "văn hóa mất rễ", mất phương
hướng trong hoàn cảnh "Âu hóa" gần như "đoạn tuyệt với
Đông phương."[97] Trong bài xã luận mang tên
"Chúng tôi hiểu cái lẽ cô Tuyết-Hồng tự vận," đăng trên Phụ
nữ tân văn tháng 5/1931 tác giả khái quát hóa nguyên nhân chung
của việc phụ nữ tự tử thông qua một trường hợp cụ thể. Một
tuần sau khi cưới, cô dâu trẻ 17 tuổi Đinh Thị Tuyết Hồng ở Hà Nội
giao mình xuống hồ Trúc Bạch tự trầm vì bị kết tội thất tiết
trước hôn nhân. Tác giả bài xã luận tự tin khẳng định,
Mấy năm nay ở ngoài Bắc thường thấy con gái tự vận
luôn, mà đám nào lại không phải là tự tình duyên trắc trở hay là gia
đình nài ép mà ra. Trước cô Hồng, sau cô Hồng cũng vậy hết.
(...) Các bực làm cha mẹ, làm chủ gia đình, đừng ép duyên, đừng
thách cưới, đừng bắt buộc đè nén con cái thái quá, đừng lôi thôi
sanh sự về việc hôn nhơn, thì tự nhiên là không có cô nà phải tự vận
cả. Chứng cớ là trong Nam, cái chế độ hôn nhơn đã bớt những
thói tục xưa đi nhiều; người con gái không bị ép buộc quá, bởi vậy
có ai nghe một người chị em chúng tôi đây tự vận về chuyện hôn nhơn
bao giờ?[98]
Trên thực tế, ở miền Nam cũng có không ít vấn đề
trong hôn nhân - gia đình, và một trong số đó chính là chuyện lấy lẽ,
vợ lớn - vợ bé.[99] Chế độ đa thê cũng là nguyên
nhân của nhiều thống khổ, ví như những vụ tự sát của cô Nguyễn
Thanh Vân nhảy lầu khách sạn tự tử ở Saigon ngày 31/12/1931, hay cô
Thị-Cái trẫm mình ở cầu Bình Lợi chỉ một tuần sau đó, vào ngày
6/1/1932.[100] Cũng như hồ Hoàn Kiếm ở Hà
Nội, đến năm 1934, cầu Bình Lợi đã có tiếng là mồ chôn những người
con gái bạc mệnh ở Saigon.[101] Bệnh dịch tự sát
đã lan vào đến cả trong Nam. Đặc biệt trong giai đoạn khủng
hoảng, suy thoái kinh tế, thất nghiệp trầm trọng đầu thập niên 1930,
một số phụ nữ cũng đã cùng chồng tự sát.[102]
Dưới bút danh BOY, tác giả một bài báo có tựa là
"Thuốc phiện dấm thanh..." đăng trên Phụ nữ thời
đàm tháng 12/1932 đã lên tiếng phản bác cả phía bắt tội tính
ảo mộng của một số chị em phụ nữ như là căn nguyên của việc tự
sát, lẫn phía lập luận cho rằng những án tự sát nọ là điềm chứng
của "phong hóa suy đồi" trong nữ giới. Đầu tiên,
tác giả cho rằng những vụ tự sát được tường thuật trên báo chí
đương thời "không có gì là kỳ quặc", vì ngoại trừ những con
người bất thường, làm sao một người con gái bị gả bán lại có thể
chịu đựng được cay đắng trong cuộc hôn nhân thiếu vắng tình thương yêu
và sự bênh vực của chồng hay cha mẹ chồng. Ở trường hợp này,
cha mẹ đẻ cũng chẳng giúp gì cho vì nghĩ rằng con mình đã thuộc về
nhà chồng, nên đành phó mặc. Thế nên khi một người phụ nữ quyên
sinh, người ấy đáng được xã hội thương xót hơn là bị kết tội hay lên
án. Mặt khác, cũng không nên xem chuyện phụ nữ tự sát như là
điềm ứng cho phong hóa suy đồi. Phong hóa không phải là bất
biến, mà tiến triển theo thời, phụ thuộc vào những tiếp xúc lịch
sử, xã hội, văn hóa, và nằm ngoài nguyện vọng hay mong muốn chủ quan
thủ cựu của cá nhân hay một tập thể người nào đó. Do vậy,
không nên xem những gì đi ngược lại một số giá trị đạo đức Nho giáo
quen thuộc là bại hoại. Hơn nữa, chính do sự phát triển và
phát hành rộng rãi của báo chí mà công chúng được thông tin nhanh
chóng về các vụ việc phụ nữ tự sát xảy ra tại những thành phố
lớn như Saigon và Hà Nội: "Trước khi có báo trương ra đời (...)
cái bệnh tự sát không phải là không có ở nước nhà. Khi ấy giả
thử có (...) hai trăm cái án tự sát ra nữa, chúng ta cũng không biết,
không hay." Tin tự sát đăng tải trên báo là nhằm thỏa mãn
trí tò mò của bạn đọc, và báo chí đã thổi phồng những sự việc
đau buồn này. Qua lăng kính báo chí và lối đưa tin phóng đại, "một
tin con con thế này cũng vang lừng như tiếng [s]ét, nên khi có một đám
tự sát, nhân dân vẫn tưởng có tới dăm bẩy đám!"[103] Bài viết trên là một tiếng
nói điềm tĩnh nhận định hiện tình phụ nữ tự sát giữa những dư
luận trái chiều đối nghịch. Đây cũng là một trong những trường
hợp hiếm hoi chỉ ra được vai trò của báo chí trong việc định hướng,
dẫn dắt công chúng trước một hiện tượng xã hội phức tạp như phụ nữ
tự sát.
Đáng chú ý hơn là có nhiều trường hợp phụ nữ tự
tử ở nơi công cộng, như hồ Gươm, hồ Trúc Bạch ở Hà Nội, cầu Bạch
Hổ trên sông Hương ở Huế, hay cầu Bình Lợi trong Saigon. Nằm ngay
giữa trung tâm Hà Nội, hồ Gươm là địa điểm công cộng có khả năng
trắc nghiệm, đánh động tâm lý, tình cảm, và quan điểm công chúng
hiệu quả nhất. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà chị em hai cô
Chu Thị Tiêu (19 tuổi) và Chu Thị Căn (18 tuổi) quê tận làng Phù Lưu
cất công đáp xe lửa từ Bắc Ninh ra Hà Nội trẫm mình cùng chết ở hồ
Hoàn Kiếm vào độ thu năm 1931.[104] Quả nhiên, tự tử ở nơi
công cộng dễ dàng đánh động sự quan tâm chú ý của công chúng, và khơi dậy những quan điểm khác nhau đối với hiện tượng này. Thế nên, cũng không lạ gì khi thấy các cô "ăn vận rất lượt là
hoa mỹ" đi tìm cái chết và được cứu sống khỏi giòng nước oan
nghiệt ở những địa điểm công cộng ấy. Tự tử ở nơi công cộng
đã trở thành đề tài cho tranh biếm họa thời bấy giờ.
|
|
|
|
- Ông cứ để mặc tôi đâm đầu xuống... - Cô này mới ương giở quá! - Lạy ông...ông cứ để tôi nhảy xuống cho ướt rồi ông
hãy cứu. |
Cô con gái nhảy xuống hồ tự tử bảo người phu xe
mới vớt mình lên: - Nhân tiện bác mò giùm hộ tôi chiếc giầy. |
|
(Phong hóa tuần báo, 25/11/1932) |
|
Cùng với "phong trào", "bệnh dịch" phụ nữ tự sát là sự ra đời của một loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói phản ánh, phân tích, phê phán hiện tượng này. Năm 1928, nhà văn trẻ Nguyễn Lan Khai, khi ấy mới vừa 22 tuổi, ra mắt tập tiểu thuyết đầu tay Nước Hồ Gươm, một tập "Bi tình tiểu thuyết" kể "truyện người thiếu phụ trẫm mình."[105] Đọc Nước Hồ Gươm,người đọc không khỏi liên tưởng đến cảnh bạo hành trong gia đình tường thuật ở truyện ngắn "Nước đời lắm nỗi" của Phạm Duy Tốn (1883-1927).[106] Tương tự như Lương Duy Đạo trong truyện của Phạm Duy Tốn, cô Bích Hà trong Nước Hồ Gươm cũng tình cờ phải chứng kiến cảnh bạo hành của cha đối với mẹ. Bạo lực bất thường của người cha hàng ngày chuẩn mực theo khuôn phép đạo đức Nho giáo đã dẫn đến cái chết oan ức của mẹ cô. Sau khi vợ chết, ông cũng hối hận rồi mất. Cảnh bạo hành gia đình ấy cũng đã sớm giết chết những mộng tưởng đẹp về cuộc sống trong tâm hồn cô thiếu nữ. Lại cũng giống như Tuệ Lan trong "Gương tự do" của Từ Chẩm Á, Bích Hà ngây thơ nhận lầm chân tướng của "thầy sinh viên cao đẳng" Trịnh Thường, "người trắng trẻo đẹp trai, mà tâm tính thì rất giảo quyệt" mà lấy Trịnh làm chồng. Bích Hà đã trả giá đắt cho cuộc hôn nhân ngộ nhận này: cô phải gánh chịu một loại bạo hành khác - bạo hành ngôn từ của chồng và gia đình chồng xúc phạm nặng nề đến tình cảm và lòng tự trọng của cô. Không tìm được sự thông cảm của bất kỳ một ai trong gia đình, từ chồng đến bố-mẹ chồng, Bích Hà tìm đến "giải thoát cuối cùng," tự trẫm mình ở hồ Hoàn Kiếm trong một "đêm mùa thu sương móc đầy trời, bóng trăng nhạt nhẽo." Quyển "ai tình tiểu thuyết" Quanh hồ Hoàn Kiếm của Tâm Việt (1929), tập Giọt lệ sông Hương (hay Minh Châu lệ sử) của Tam Lang Vũ Đình Chí (1930) đều phảng phất phong vị tiểu thuyết Từ Chẩm Á, thuật chuyện thanh niên nam-nữ do trắc trở trong tình yêu mà tự sát, hay u sầu đến chết.[107] Một loạt truyện ngắn, truyện vui như "Giấc mộng hồ Gươm", "Một buổi xem xử án tự vẫn tại cung vua Diêm", "Lệ Hồng quyên sinh," "Trên sông Thương", "Chưa chết được", "Cái chết hiếu danh",[108] lần lượt ra đời hoặc đồng cảm, hoặc cười nhạo, phản ánh và tạo ra ấn tượng nạn tự sát đang tiếp tục lan rộng trong phụ nữ trong khoảng 3, 4 năm đầu thập niên 1930.
|
|
|
Bìa sách Nước hồ Gươm
|
|
Các vở kịch hiện thời có liên lạc tới sự quyên sinh của phụ nữ chăng? Cái nạn phụ nữ quyên sinh có làm ý tưởng chủ yếu cho các vở kịch hiện thời chăng? Cái đó không rõ. Chỉ biết trong vòng mươi năm nay, đàn bà Annam tự tử cũng nhiều, mà các vở kịch dùng tới sự tự tử của đàn bà Annam viết ra cũng lắm.[111]
Kịch "Vì đâu cô... tự sát", Ban kịch hội Ái
hữu
|
Bắt đầu từ năm 1932, mỗi khi đả phá ảnh hưởng tiêu cực của tiểu thuyết, người ta thường liệt ra vài tựa sách để minh họa. Tiểu thuyết của Từ Chẩm Á và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách thường được nhắc đến thành một đôi, bị phê phán như một loại bệnh chứng của chủ nghĩa vị kỷ, thoát ly thực tế,
Lối lãng mạn thần bí trong văn thơ bị cái thiệt tế khó khăn đánh đổ; hai kẻ yêu nhau cần phải phấn đấu để sanh tồn, thì còn làm sao than thỉ nỉ non như bao nhiêu vai chủ động trong truyện! Ái tình như trong tiểu thuyết của Từ Trẩm Á, hay trong các chuyện như Tố Tâm vẫn có thật mà chỉ có trong vài cặp nam nữ trung lưu, mắc những bịnh thần kinh, mà không tự biết là mắc, hay là không có công việc làm mà thôi. (...) [C]húng tôi khuyên chị em coi cái lối ái tình lăng nhăng trong tuồng chớp bóng và tiểu thuyết là một thứ thuộc về bịnh chứng. Người ta có quyền mưu sinh tồn, nhưng mà không được hại đến sự sanh tồn của đại đa số loài người, nếu chỉ biết đắm đuối trong dục tình để thỏa thích riêng cho mình thì là ăn hại xã hội, mà tự mình nô lệ cái khoái lạc thô bỉ. Té ra thoát khỏi ách [N]ho giáo mà lại sa vào vòng nô lệ của cái ích kỷ chủ nghĩa hay sao?[114]
Cũng trong khoảng thời gian hai năm đầu thập niên 1930, trên Phụ nữ thời đàm xuất hiện một loạt bài lên án ảnh hưởng xấu của tiểu thuyết, và kết tội việc đọc tiểu thuyết là nguyên nhân dẫn đến chuyện phụ nữ tự sát. Trong bài "Một cách chữa bệnh tiểu-thuyết" tác giả Thường Nga nhắc lại luận điệu phổ biến cho rằng tiểu thuyết là độc hại, là nguyên nhân dẫn đến những vụ án xã hội thương tâm, đồng thời đề xuất liệu pháp cho căn bệnh trầm kha mê tiểu thuyết của phụ nữ,
Tiểu thuyết có hại! Cái đó hiển nhiên. (...) Các ngài buộc tội tiểu thuyết: nào những án hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, thủ phạm là tiểu thuyết, nào những án thuốc phiện dấm thanh, thủ phạm cũng là tiểu thuyết... nào những câu chuyện thương luân bại lý ở những hang cùng ngõ hẻm, thủ phạm cũng là tiểu thuyết. (...) Nếu ta đọc tiểu thuyết mà biết đặt mình lên trên tiểu thuyết mà phê bình tiểu thuyết, tôi dám chắc sẽ tránh được cái dở của tiểu thuyết và thâu thái được cái hay của tiểu thuyết.[115]
Như đã thấy ở hai cách nhìn đối lập đối với tiểu thuyết của Từ Chẩm Á ở Trung Hoa, hay trong việc phê phán cái hại của phụ nữ Việt Nam đọc tiểu thuyết Pháp, "phương thuốc" trị liệu trên đây tiếp tục nhấn mạnh vai trò quan trọng của chủ thể đọc. Xã hội đã phải công nhận quyền đọc sách, báo (bao gồm tiểu thuyết) của phụ nữ, nhưng yêu cầu họ cần tỉnh táo trong khi thưởng ngoạn, cần đọc một cách phê phán và có ý thức. Những bộ tiểu thuyết như Ngọc lê hồn, Tuyết hồng lệ sử, hay Tố Tâm tựa như đồng tiền hai mặt, tùy theo tay người xoay lật mà mặt phải, mặt trái trình hiện ra ánh sáng. Không phải ai đọc những tiểu thuyết ấy cũng đều chán đời, tự tử. Nói cách khác, Lệ sử hay Tố Tâm không phải là nguyên nhân trực tiếp khiến phụ nữ tự sát. Khi chủ thể đọc mê muội với ái tình trong truyện, mơ mòng nhập thân vào nhân vật tiểu thuyết để sống giữa đời thực, bi kịch là tất yếu, không tránh được. Đã không đủ tỉnh táo để tách bạch xấu - tốt khi đọc truyện, một chủ thể đọc như thế lại càng dễ dàng lầm lạc giữa hiện thực phức tạp của cuộc sống:
Các tiểu thư nhàn rỗi (...) cũng mắc nghiện tiểu-thuyết (...). Các tiểu-thư xem đến đó rồi cũng oán giời [trời], trách đất bầy chi những cuộc bể dâu, (...) cũng than than, khóc khóc mà chia buồn, sẻ sầu với vai trong truyện. (...) Các "tiểu-độc-giả" còn để trí suy nghĩ mà hi-vọng một ngày kia cùng ý-trung-nhân đóng vai tuồng mà phô-diễn trên sân khâu xã-hội, để cùng nhau say tỉnh tỉnh say như vai trong truyện. Xem quyển Tố Tâm mà tránh đừng có đem thân vào cõi tình trường (...) thì còn gì bằng. Nhưng không, các cô, các cậu lại muốn làm Đạm-Thủy, Tố-Tâm 'tái-sinh' (...) nhưng khốn nỗi có được cái chính đính quang minh như Đạm-Thủy, Tố-Tâm đâu, lại giở thói dâm bôn (...) đến khi con ong đã tỏ đường đi lối về rồi, thì anh chán chị, chị chán anh. (...) [C]ó khi vì nhân-tình bạc bẽo mà cậu đem tấm thân bẩy thước liều với sợi giây oan nghiệt, mợ đem cái thân liễu bồ phó thác cho giòng nước biếc (...) Ôi! cái bi-kịch ấy hàng ngày vẫn thường xẩy ra ở đất "nghìn năm văn vật" không phải là hiếm vậy. Duyên cớ đó bởi đâu? Chẳng qua bởi xem tiểu-thuyết mà có ảnh-hưởng một phần to dư.[116]
Lời kết
Từ Chẩm Á cùng hai bộ tiểu thuyết tiêu biểu của ông, Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử, là một bước chuyển đáng chú ý trong văn học Trung Quốc hiện đại. Do ảnh hưởng của những hoàn cảnh chính trị, lịch sử nhất định, trong một thời gian dài các vấn đề xã hội và những đóng góp nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông đã không được giới phê bình công tâm luận định. Do những khía cạnh “nhạy cảm” của câu chuyện tình trong tiểu thuyết của Từ, trí thức Nho học (và một phần tân học) ở Việt Nam đã dịch tác phẩm của ông với ít nhiều thận trọng trong buổi đầu. Các dịch giả Việt Nam đã cố gắng làm nổi bật khía cạnh yêu nước trong tiểu thuyết của Từ, giới thiệu Từ như một nhà phê bình xã hội. Tuy nhiên, sau khi đã nhận được sự chấp nhận của bạn đọc, tiểu thuyết Chẩm Á được dịch thêm khá nhiều, thậm chí nhiều tác phẩm của các tác giả khác trong văn phái uyên hồ được dịch sang tiếng Việt dưới tên của ông. Tiểu thuyết Chẩm Á đã ghi ảnh hưởng trên văn học Việt Nam hiện đại: không ít nhà văn Việt Nam đã kể chuyện, gợi vấn đề, mô phỏng văn phong theo lối Chẩm Á. Giữa lúc văn quốc ngữ còn non trẻ, những người dịch Chẩm Á đã đưa văn tiếng Việt lên một trình độ tinh luyện hơn. Việc dịch tiểu thuyết của ông góp phần hình thành dòng văn học giải trí, tiêu khiển trong nước, theo xu thế phát triển chung của văn học hiện đại thế giới, với sự hình thành của đô thị và tầng lớp tiểu thị dân (bao gồm một bộ phận phụ nữ ít nhiều có học). Một cộng đồng bạn đọc nữ đã hình thành trong khoảng 3 thập niên đầu của thế kỷ 20: họ đọc và viết cả quốc ngữ lẫn Pháp văn. Cùng với sự phát triển của báo chí và công nghệ in, người đọc – người viết nữ đã tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, và có diễn đàn riêng, khởi sự chính thức với báo Nữ giới chung. Vấn đề phụ nữ nên và không nên đọc gì đến khi ấy đã không còn là đặc quyền của nam giới: phụ nữ đã có tiếng nói riêng cho việc đọc của mình. Cùng với sự phát triển của báo chí là sự ra đời của kịch nói, cấp thời phản ánh những vấn đề “nóng” của xã hội, ví như chuyện phụ nữ tự tử. Việc phụ nữ tự sát ở Việt Nam xảy ra do nhiều nguyên nhân xã hội phức tạp.[117] Trong những năm 1929-1930, các báo Việt Nam không chỉ đưa tin phụ nữ tự sát ở trong nước, mà còn cả ở các nước Đông Á lân cận, như Trung Quốc và Nhật Bản.[118] Báo chí, tiểu thuyết, kịch nói đã liên tục phản ánh hiện tượng này, và tất yếu có phần trách nhiệm trước việc phụ nữ tự sát lan rộng thành “phong trào” hay “bệnh dịch”. Việc quy lỗi “bệnh dịch” này cho tiểu thuyết (Tuyết hồng lệ sử hay Tố Tâm) là một cách nhìn phiến diện, tập trung phản ứng đối với những lệch lạc của một bộ phận chủ thể đọc nữ, mà không thấy hết những tác động xã hội lên chủ thể ấy.
Chú thích:
[1] Từ Chẩm Á. Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, Hà Nội: Nam Ký thư quán, 1932.
[2] Trịnh Dật Mai鄭逸梅, "Ngã sở tri đạo đích Từ Chẩm Á 我所知道的徐枕亞" (Từ Chẩm Á như tôi biết), Đại thành 大成, số 154 (1/9/1986); dẫn từ Phạm Bá Quần 范伯群 (Chủ biên), Trung quốc cận hiện đại thông tục văn học sử 中國近現代通俗文學史, Nam Kinh: Giang Tô giáo dục xuất bản xã, 1999, t. 270.
[5] Khởi nghĩa Vũ Xương: Do bất mãn nhà Thanh quốc hữu hóa đường sắt để gán nợ cho các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ, , những nhà tư sản, tiểu tư sản, binh sĩ giác ngộ và đông đảo quần chúng từ các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Tứ Xuyên tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc Đồng minh hội nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, thành lập Trung Hoa dân quốc. Rạng sáng ngày 11/10/1911, quân khởi nghĩa chiếm được Vũ Xương. Thắng lợi này đã cổ vũ các tỉnh khác tuyên bố ly khai với nhà Thanh. Chính phủ lâm thời Trung Hoa dân quốc được thành lập, và Tôn Trung Sơn được bầu làm tổng thống (1/1/1912).
[6] Thời Manh, "Ngọc lê hồn chân tướng đại bạch 玉梨魂真相大白" (Công bố chân tướng Ngọc lê hồn), Tô Châu tạp chí, số 1/1997; dẫn từ Phạm Bá Quần, sđd., t. 271.
[15] Xem
Tống Thanh Tuyền 宋聲泉. "Trùng cổ Tân
thanh niên đồng nhân đối 'uyên ương hồ điệp phái' đích phê phán 重估《新青年》同人對‘鴛鴦蝴蝶派’的批判," Trung
Quốc hiện đại văn học nghiên cứu tùng san 中國現代文學研就究叢刊,
4/2009, trg. 33-43; Vương Cát Bằng 王吉鵬 và Vương Mẫn 王敏, "Lỗ
Tấn dữ uyên ương hồ điệp phái văn học 魯迅與鴛鴦蝴蝶派文學," Tô Châu giáo dục học
viện học báo 蘇州教育學院學報, số 25:2 (6/2008), trg.
24-28; Trương Nghệ Phân 張藝芬. "Thí luận văn học
nghiên cứu hội đối 'uyên ương hồ điệp phái ' đích công kích 試論文學研究會對‘鴛鴦蝴蝶派’的攻擊," Tề
Tề Cáp Nhĩ sư phạm cao đẳng chuyên khoa học hiệu học báo 齊齊哈爾師範高等專科學校學報, số 98 (4/2007), trg. 44-46; Vương Mộc Thanh 王木青.
"Luận Mao Thuẫn đối uyên ương hồ điệp phái đích phê bình cập kỳ
sách lược 論茅盾對鴛鴦蝴蝶派的批評及其策略," Văn nghệ lý luận dữ
phê bình 文藝理論與批評, 3/2007, trg. 100-102; Chu Nghiên朱妍.
"Cận thập niên uyên ương hồ điệp phái nghiên cứu thuật bình 近十年鴛鴦蝴蝶派研究述評," Khâm
Châu sư phạm cao đẳng chuyên khoa học hiệu học báo 欽州師範高等專科學校學報,"
số 21:4 (8/2006), trg. 28-31, 42; Liêu Siêu Tuệ 廖超慧, "Đối
uyên ương hồ điệp phái phê bình đích tư khảo 對鴛鴦蝴蝶派批評的思考," Giang
Hán đại học học báo 江漢大學學報, số 16:2 (4/1999), trg. 51-56.
[16] Phạm
Bá Quần范伯群. Dân quốc thông tục tiểu thuyết uyên
ương hồ điệp phái 民囯通俗小説鴛鴦蝴蝶派, Bắc Kinh: Quốc văn thiên địa
tạp chí xã 國文天地雜誌社, 1989, trg. 3-4.
[17] Xem
Nhuế Hòa Sư 芮和師 và Phạm Bá Quần 范伯群. Uyên ương hồ điệp
phái văn học tư liệu鴛鴦蝴蝶派文學資料, Phúc Châu: Phúc Kiến nhân dân xuất
bản xã 福建人民出版社, 1984; Ngụy Thiệu Xương魏紹昌. Ngã
khán uyên ương hồ điệp phái 我看鴛鴦蝴蝶派, Trung Hoa thư cục Hương Cảng hữu
hạn công ty 中华书局香港有限公司, 1990.
[18] Một
điều tra sơ bộ qua mạng CNKI Tri thức võng lạc phục vụ bình đài 知識網絡服務平臺
cho thấy trong khoảng từ 1994 đến 2009 chỉ riêng ở Trung Quốc đại lục
có hơn 700 tiểu luận tập trung khảo sát uyên ương hồ điệp phái công
bố trên tạp chí của các trường đại học và cao đẳng.
[19] Lý
Khâm Đồng 李欽彤. "Bị di vong đích tiên phong - Trùng cổ
uyên ương hồ điệp phái 被遺忘的先鋒——重估鴛鴦蝴蝶派," Tây An điện tử khoa
kỹ đại học học báo 西安電子科技大學學報 (bản khoa học xã hội), số 17:5
(9/2007), trg. 111-115.
[20] Triệu
Hiếu Tuyên 趙孝萱. Uyên ương hồ điệp phái tân luận 鴛鴦蝴蝶派新論, Phật
Quang nhân văn xã hội học viện 佛光人文社會學院 (Đài Loan), 2002.
[21] Hai
bộ trường thiên tiểu thuyết biền văn trước đó là Du tiên
quật 游仙窟 của Trương Vụ 張鶩 đời Đường và Yên sơn ngoại
sử của Trần Cầu 陳球 đời Thanh. Xem Vương Quốc
Vĩ 王國偉, "Đối biền văn tiểu thuyết kỳ tác Ngọc lê
hồn đích văn hóa giải độc 對駢文小説奇作《玉梨魂》的文化解讀," Bồ Tùng Linh nghiên
cứu 蒲松龄研究,
1/2004, trg. 142-148.
[22] Xem
Lý Thanh Quả 李青果. "Tình cảm, cách
mạng, quốc gia - Từ Chẩm Á Ngọc lê hồn, Tuyết hồng lệ sử cập
kỳ chu biên 情感,革命,國家——徐枕亞《玉梨魂》,《雪鴻淚史》及其周邊," Thanh Hoa đại học học
báo 清華大學學報, số 23:6 (6/2008), trg. 79-87; Mã
Kha 馬珂. "Ngọc lê hồn chủ nhân công nhân vật
hình tượng phân tích 《玉梨魂》主人公人物形象分析," Cung canh 躬耕, 3/2009,
trg. 61-62.
[23] La
Kim 羅金. "Uyên ương hồ điệp phái: Lánh nhất chủng
hiện đại tính 鴛鴦蝴蝶派:另一種現代性," Việt hải phong 粵海風, 5/2002, trg. 28-31.
[24] Tham
khảo Vi Khánh Lệ 韋慶麗 và Trịnh Kiến Quân 鄭建軍.
"Tùng Ngọc lê hồn quản khuy 20 thế kỷ sơ tiểu thuyết
đích sáng tác thực tiễn 從《玉梨魂》管窺20世紀初小説的創作實踐," Thương tang 滄桑, 5/2005,
trg. 111-112; Trình Trí Trung 程致中. "Lạc phách danh sĩ đích
ai tình chi ca 落魄名士的哀情之歌," Giang hải học
khan 江海學刊, 1/1994, trg. 186-189; Trần Thế Cường
陳世強. "Uyên hồ phái thủy cơ Từ Chẩm Á đích
suyễn thác hôn luyến dữ ai tình văn học sinh nhai 鴛蝴派始基徐枕亞的舛錯婚戀與哀情文學生涯," Nam kinh lý công đại học học báo 南京理工大學學報, số
18:1 (2/2005), trg.87-96; Cát Tuyết Mai 葛雪梅. "Tùng huy hoàng đáo một
lạc - Ngọc lê hồn tự sự mô thức biện tích 從輝煌到沒落—《玉梨魂》敍事模式辨析," Diêm
Thành công học viện học báo 鹽城工學院學報 (bản khoa học xã hội), 3/2007,
trg. 43-46; Lưu Nạp 劉納. "Dân sơ văn học đích
nhất cá kỳ ảnh: Biền văn đích hưng thịnh 民初文學的一個奇影:駢文的興盛," Trịnh Châu đại học
học báo 鄭州大學學報 (bản triết học - khoa học xã hội),
5/1996, trg. 18-25; Lưu Thiện Tiệp 劉善婕. "Sạ noãn hoàn hàn:
Tùng Ngọc lê hồn tích Dân sơ đại chúng văn hóa tâm lý 乍暖還寒:從《玉梨魂》析民初大衆文化心理," Ngữ văn học san 語文學刊,
1/2007, trg. 95-97; Chu Giang Dũng 朱江勇, Bùi Thị Thúy Minh 裴氏翠明,
"Đàm Ngọc lê hồn đích bi kịch ý thức 談《玉梨魂》的悲劇意識," Tuy
hóa sư chuyên học báo 綏化師專學報, số 24:1 (3/2004), trg. 78-79.
[25] Xem
Thạch Thu Tiên 石秋仙. "Thụ hiện đại ngôn
tình tiểu thuyết ảnh hưởng đích tảo kỳ ái tình phiến 受現代言情小説影響的早期愛情片," Sơn Đông thương nghiệp chức nghiệp kỹ thuật học viện
học báo 山東商業職業技術學院學報, số 6:2 (4/2006), trg. 75-78; Lý
Trung Hoa 李中華. "Luận uyên ương hồ điệp phái đối
Trung Quốc điện ảnh sự nghiệp đích cống hiến 論鴛鴦蝴蝶派對中國電影事業的貢獻," Điện ảnh bình giới 電影評介, số 18 (2006), trg. 54; Vương
Hoành Xương 王宏昌. "Truyền bá thị dã hạ đích uyên ương
hồ điệp phái điện ảnh sáng tác 传播视野下的鸳鸯蝴蝶派电影创作, Điện ảnh bình giới, số 14 (2006), trg. 65-66.
[26] E.
Perry Link, Jr. Mandarin Ducks and Butterflies - Popular Fiction in
Early Twentieth-Century Chinese Cities (Uyên ương hồ điệp - Tiểu
thuyết bình dân trong những đô thị Trung Quốc đầu thế kỷ XX), Berkeley:
University of California Press, 1981, trg. 8-10.
[27] Về Nghiên
hữu xã, xem Joshua Mostow (biên tập). The Columbia Companion to
Modern East Asian Literature (Sách tham khảo của Đại học Columbia về
văn học Đông Á hiện đại), New York: Columbia University Press, 2003, trg.
66-68; Donald Keene. Dawn to the West: Japanese Literature of the
Modern Area (Hé rạng phương tây: Văn học Nhật Bản thời hiện đại),
New York: Columbia University Press, 1998, trg. 119-149.
[28] Vương
Hướng Viễn. "Trung Quốc đích uyên ương hồ điệp phái dữ Nhật
Bản Nghiên hữu xã 中國的鴛鴦蝴蝶派與日本的硯友社," Bắc kinh sư phạm đại
học học báo (bản khoa học xã hội), số 131 (5/1995), trg. 74-80.
[29] Phan
Mạnh Danh (1866-1942) vốn tên chữ là Trung, sau đổi thành Mạnh Danh,
hiệu Thế Vọng, quê làng Phù Ủng, phủ Ân Thi, huyện Hưng Yên. Ông
là con trưởng của Thị độc Phan Trác Hoạt, cháu Hoàng giáp Phan Trứ
(từng là tuần phủ Khánh Hòa). Nổi tiếng thông minh từ thuở
nhỏ, ông thi hương và được vào ngay kỳ đệ tam năm 17 tuổi. Năm
1908, ông được cử làm giáo học trường đệ nhất cấp tỉnh Hưng
Yên. Ông là người tài hoa, xuất chúng trong lĩnh vực
thi-họa. Tác phẩm tiêu biểu: Phù giang thi tập, Phù giang văn
tập, Bút hoa thi thảo, Cổ thi trích dịch, Tuồng Hoa tiên, Việt Nam
danh nhân diễn ca, Điển cố. Ông cũng là dịch giả tiểu
thuyết Đa tình hận và Tình sử. Theo Đào Sỹ Nhã,
"Phan Mạnh Danh tiểu sử" trong Phan Mạnh Danh. Bút
hoa - Thơ tập cổ, Saigon: Phạm Văn Sơn, 1962, trg. 7-18.
[30] Phan
Mạnh Danh. Thi văn tập trích lục, Nam Định: Nguyễn Trung
Khác, 1942, trg. 110. Trong phần quảng cáo Đa tình hận ở
bìa sau của sách có nhấn mạnh "Mới dịch lại khác hẳn bản dịch
cũ và sắp tái bản." Mặt trong bìa sau sách Tình sử
của Long-Tử-Do (Phan Mạnh Danh phiên dịch, Saigon: Phạm Văn Sơn,
1961) có in danh sách "Tác phẩm của Phan Mạnh Danh, 1866-1942,"
trong đó Đa tình hận được giới thiệu là "Dịch nguyên
tác của Từ Trẩm Á (1919)." Hiện chưa tìm được bản dịch
này; sách Thi văn tập trích lục có in lại một trang dịch
tiếng Việt của Đa tình hận (trg. 149).
[31] Thi
văn tập trích lục, sđd., trg. 113.
[32] Tiền
Nhất Yên 錢一燕 có soạn bộ Đa tình hận - Trường thiên xã
hội tả thực tiểu thuyết 多情恨: 長篇社會寫實小說 (Thượng Hải Đại minh thư cục上海大明書局 tái bản năm 1947). Tuy
nhiên, những nhân vật trong tiểu thuyết này không giống như tả thuật
của Phan Mạnh Danh.
[33] Xem
Từ Chẩm Á. Lê Quân lệ sử, Phụng Thiên 奉天: Nghệ
quang thư điếm 藝光書店, 1938.
[34] Đó
là Lương Phượng Lâu梁鳳樓 (Thượng Hải: Hải tả thư cục 海左書局,
1925), Dụ Huyết Luân喻血輪 (Thượng Hải: Văn minh thư cục 文明書局,
1924), và Hồ Sấu Trúc胡瘦竹 (Thượng Hải: Tiểu thuyết ảnh
hí xã 小說影戲社, 1925).
[35] Xem
Ngô Khởi Duyên. Phù dung nương, Từ Chẩm Á bình hiệu, Thanh
Hoa thư cục 淸華書局, 1919.
[36] Năm
1918, Dụ Huyết Luân đồng thời xuất bản 3 bộ tiểu thuyết: Vân Lan
lệ sử, Huệ Phương bí mật nhật ký 蕙芳秘密日記, và Lâm
Đại Ngọc nhật ký 林黛玉日記. Tiếp nối theo Vân Lan
lệ sử, vợ ông là Dụ Ngọc Đạc 喻玉鐸
viết Vân Lan nhật ký 芸蘭日記 có phụ thêm những lời bình
"mi phê 眉批" của ông trên đầu các trang sách (xem Dụ
Ngọc Đạc喻玉鐸. Vân Lan nhật ký 芸蘭日記 in
trong Trung Quốc cận đại tiểu thuyết sử liệu vựng biên 中國近代小説史料彙編,
tập 10, Đài Bắc: Quảng văn thư cục 廣文書局, 1980). Theo chân Từ Chẩm
Á, Dụ Huyết Luân phát triển thể văn tiểu thuyết nhật ký, và hai tập Vân
Lan lệ sử, Vân Lan nhật ký của vợ chồng ông không khỏi khiến
người đọc liên tưởng đến Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ
sử. Về Dụ Huyết Luân và văn nghiệp của ông, tham khảo Mi Tiệp眉睫.
"Dụ Huyết Luân hòa tha đích Lâm Đại Ngọc nhật ký 喻血輪和他的林黛玉日記" trong Lãng sơn bút ký
- Hiện đương đại văn đàn lược ảnh 朗山筆記 - 現當代文壇掠影, Tú uy tư tấn 秀威資訊, 2009,
t. 21-28 (có thể tham khảo trực tuyến tại http://www.housebook.com.cn/200612/17.htm).
[37] Hà
thành ngọ báo, 6/7/1927.
[38] Nguyễn
Đỗ Mục: tự là Trọng Hữu, người làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn
Tây (nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây). Ông là con Hoàng giáp Nguyễn
Đình Dương (từng nhậm chức Án sát Hưng Yên, Bố chánh Quảng Bình, Biện lí bộ Lại).
Sau năm 1908, ông cộng tác biên tập và trợ bút cho các báo Đông Dương tạp
chí, Trung Bắc tân văn về các vấn đề giáo dục, dịch một số tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc trong thời kỳ xây dựng nền móng của văn học quốc
ngữ. Ông là thân phụ họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, một trong những danh họa
hàng đầu của hội họa Việt Nam hiện đại. Xem http://www.vietgle.vn/
[39] Tùng
Vân Nguyễn Đôn Phục. "Lời cảm-cựu về mấy ngày chơi
Bắc-Ninh," Nam phong, số 100 (10-11/1925), trg. 354.
[40] Nguyễn
Đôn Phục: người làng Uy-Nô-Thượng, tổng Cầu. Do thân phụ làm tri
phủ Điện Bàn (Quảng Nam), nên ông được mẹ trông nom và dạy chữ Nôm từ
bé. Ông là một trong những cây bút chủ chốt của Nam
Phong. Xem Phạm Thị Ngoạn. Tìm hiểu Tạp-chí
Nam-phong 1917-1934, nguyên tác Pháp văn, Phạm Trọng Nhân dịch, Yerres: Ý
Việt, 1993, trg. 78; Vũ Ngọc Phan. Nhà văn hiện đại (4
tập), Saigon: Thăng Long, 1959-1960, tập 1, trg. 79-89.
[41] Đoàn
Tư Thuật: hiệu Mai Nhạc, người làng Tả Thanh-Oai (Hà Đông). Theo
Trúc Khê và Tiên Đàm, ông là người "tính tình phóng dật, tài tử
phong lưu, hay rượu hay thơ, đã từ có hồi kết bạn thi tửu với nhà thơ
Nguyễn Khắc Hiếu." Ngoài bản dịch Tuyết hồng lệ sử,
ông còn lược dịch Tỳ bà ký 琵琶記 của Cao Minh 高明. Xem Trúc Khê và Tiên Đàm. Chu Mạnh Trinh, Hà Nội: Cộng Lực,
1942, trg. 53-56.
[42] Nguyễn
Tử Siêu: Bút danh Nguyễn An Nhân, Liên Tâm lão nhân, Hoa Cương; nguyên quán xã
Hương Ngải, huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội. Thân sinh ông đỗ cử
nhân, và anh ông trúng tú tài Hán học. Ngoài những tác phẩm
lịch sử - tiểu thuyết của ông như Tiếng sấm đêm đông, Hai bà đánh giặc,
Vua bà Triệu, Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng, Việt Thanh chiến sử, Trần Nguyên chiến
kỷ, ông còn soạn và dịch sách Đông y dưới bút danh Nguyễn An
Nhân. Xem Nguyễn Tử Siêu. Tử Siêu y thoại, Hà Nội: Hội Y
học dân tộc Hà Nội, 1990.
[43] Ngô
Văn Triện: bút danh Trúc Khê, Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô
Sơn, Hạo Nhiên Đình; người thôn Thị Cấm, tổng Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ
Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là xã Xuân Phương, quận Từ Liêm, Hà Nội). Ông
học chữ Hán với một ông đồ trong thôn từ năm lên 6. Năm 11 tuổi, ông
chuyển sang học chữ quốc ngữ ở trường Pháp - Việt, và tự học tiếng Pháp. Ông
viết báo, tham gia “Nam Đồng thư xã”, và bị bắt sau khi khởi nghĩa Yên Bái
thất bại. Sau khi ra tù, ông mở Trúc Khê thư cục, cộng tác với các nhà
xuất bản, viết bài cho các báo Khuyến học, Văn học tạp chí, Phổ thông
bán nguyệt san, Thực nghiệp dân báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Ích Hữu,
Tao Đàn, Tri Tân, Đông Tây... Ông là tác gia tiểu thuyết, biên khảo, và
dịch giả của nhiều công trình đặc sắc.
[44] Nhượng
Tống: tên thật là Hoàng Phạm Trân, còn gọi là Hoàng Nhượng Tống; nhà
văn, nhà báo, và dịch giả. Ông người làng Đô Hoàng, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định. Thân sinh là ông Hoàng Hồ, đỗ Tú tài dưới triều Nguyễn, nặng tinh
thần chống Pháp và có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của Nhượng
Tống sau này. Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, Nhượng Tống được học chữ
Hán ngay từ nhỏ, sau tự học thêm quốc ngữ và tiếng Pháp. Dù học lực uyên bác,
ông không đỗ đạt một văn bằng nào cả. Ông cộng tác với các báo Khai
hóa, Thực nghiệp dân báo, Hồn cách mạng, Hà Nội tân văn. Cuối
năm 1925, ông tham gia thành lập ra Nam Đồng thư xã chuyên xuất bản "tân
thư" cổ vũ tinh thần yêu nước, cách mạng. Năm 1929, ông bị
bắt và bị đày ra Côn Đảo, đến năm 1936 mới được thả. Tham
khảo: http://vi.wikipedia.org/
[45] Nguyễn
Khắc Hanh: Ông cộng tác với nhiều báo thời bấy giờ, như Nông công
thương, Đông tây, Hà thành ngọ báo và là dịch giả Hán văn (thơ chữ Hán
Nguyễn Du, Kim Vân Kiều truyện) và Pháp văn. Tham khảo:
http://tintuc.xalo.vn/
http://www.cand.com.vn/
http://vnthuquan.net/
[46] Trần
Văn Giáp. "Lược khảo tiểu thuyết Tàu," Thanh nghị,
số 11 (4/1942), trg. 14.
[47] Đào
Sỹ Nhã, "Phan Mạnh Danh tiểu sử," sđd., trg. 13.
[48] Từ
Chẩm Á. "Tự do giám" trong Chẩm Á lãng mặc 枕亞浪墨, Thượng
Hải: Tiểu thuyết tùng báo xã 小説叢報社, 1915, trg. 5-12.
[49] Từ
Chẩm Á. "Gương tự do", Đông Châu dịch, Nam phong, số
87 (9/1924), trg. 255.
[50] Như
trên, trg. 256.
[51] Như
trên, trg. 260.
[52] Trúc
Hà. "Lược-khảo về sự tiến-hóa của quốc-văn trong lối
viết tiểu-thuyết," Nam phong, số 175 (8/1932), trg. 122.
[53] Bản
danh sách này thiết lập qua tham khảo Biliothèque Nationale -
Département des Entrées, Département des Imprimés. Catalogue du Fonds
Indochinois de la Bibiothèque Nationale, Vol. 1: Livres Vietnamiens
imprimés en quốc ngữ, 1922-1954, do Christianne Rageau biên soạn, Paris:
Bibliothèque Nationale, 1979; Yan Bao. "The Influence of Chinese
Fiction on Vietnamese Literature," trong Claudine Salmon (chủ biên). Literary
Migrations: Traditional Chinese Fiction in Asia (17th-20th Centuries), Beijing:
International Culture Publishing Corporation, 1987, trg. 286-316 (có thể tham
khảo thêm bản Trung văn của sách, Trung Quốc truyền thống tiểu
thuyết tại Á Châu 中國傳統小説在亞洲, nhóm Nhan Bảo 顏保 dịch, Bắc
Kinh: Quốc tế văn hóa xuất bản công ty, 1989, trg. 208-236; và bản dịch
Việt ngữ của Trần Hải Yến, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc
ở châu Á (từ thế kỷ XVII - thế kỷ XX), Hà Nội: Khoa học xã hội,
2004, trg. 221-268); và thư mục trực tuyến của Thư viện quốc gia Hà
Nội, http://118.70.243.232/opac/.
[54] Báo Trung
Bắc tân văn bình luận: "Chuyện cũng khá hay."
(14-15/10/1929)
[55] Nam
phong, số 77 (11/1923), trg. 421.
[56] Tín
Lăng quân 信陵君 tức Ngụy Vô Kỵ 魏无忌 (?-243 TCN), công tử nước Ngụy thời
Chiến Quốc. Ông là một nhà chính trị và quân sự lỗi lạc, nhưng
cuối đời do bị gièm pha mà bị phế truất, sa vào tửu sắc mà chết.
[57] Đỗ
Mục 杜牧 (803-853): thi nhân đời Đường, tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn
Xuyên cư sĩ 樊川居士. Ông được gọi là Tiểu Đỗ để
phân biệt với Đỗ Phủ. Trong bài "Kim cốc viên 金谷園"
(Vườn Kim cốc), ông viết:
|
Nguyên văn |
Phiên âm |
Bản dịch thơ của Trần Trọng San |
|
繁華事散逐香塵 |
Phồn hoa sự tán trục hương trần |
Phồn hoa tan tác bụi trần |
|
流水無情草自春 |
Lưu thủy vô tình thảo tự xuân |
Vô tình nước chảy cỏ xuân tươi màu |
|
日暮東風怨啼鳥 |
Nhật mộ đông phong oán đề điểu |
Gió đông ai oán chim sầu |
|
落花猶似墮樓人 |
Lạc hoa do tự trụy lâu nhân |
Hoa rơi giống kẻ rơi lầu ngày xưa |
|
Nguyên văn |
Phiên âm |
Bản dịch thơ của Trúc Khê |
|
自是尋春去較遲 |
Tự thị tầm xuân khứ hiệu trì |
Lỡ bước tìm xuân ngán nỗi mình |
|
不須惆悵怨芳時 |
Bất tu trù trướng oán phương thì |
Dễ mà chuộc lại những ngày xanh |
|
狂風落盡深紅色 |
Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc |
Cuồng phong bứt hết hồng tươi thắm |
|
綠葉成蔭子滿枝 |
Lục diệp thành âm tử mãn chi. |
Lá đã um cây, quả trĩu cành. |
[59] Minh-phượng Nguyễn Như-Cương. "Bàn về truyện Tuyết-Hồng lệ sử," Nam phong, số 99 (9/1925), trg. 283.
[60] Nam phong, số 86 (8/1924), trg. 170.
[61] Nam phong số 84 (6/1924), trg. 526.
[62] Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình, sđd., trg. 608. Trúc Khê lược dịch câu chuyện ấy như sau: "Có người bạn tôi là Hoàng Mỗ kể chuyện với tôi rằng: Khi giặc đã lui rồi, anh ấy đi qua chỗ chiến trường thấy một người [r]a dáng học trò bị tên bắn nằm lăn ra đấy, trông thấy anh ta nhận biết là người đồng hạt, bèn đưa gửi anh ta một gói gì không biết để đem về đưa cho nhà, rồi nằm trơ mà chết. Rồi sau có người khiêm liệm mai táng ở đấy. Anh ta lại lấy được một quyển sách ở túi áo chàng đem về." (Từ Trẩm Á. Ngọc lê hồn, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, Hà Nội: Tân Dân thư quán, 1930, trg. 205).
[63] Mai Khê. "Bổ truyện Tuyết hồng lệ sử," Nam phong, số 86 (8/1924), trg. 170.
[64] Như trên, trg. 171.
[65] Từ Chẩm Á. Tuyết hồng lệ sử, Hô Hòa Hạo Đặc thị 呼和浩特市: Nội Mông Cổ Nhân dân xuất bản xã 内蒙古人民出版社, 2000.
[67] Từ Trẩm Á. Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, Hà Nội: Nam Ký thư quán, 1932.
[68] Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình, sđd., trg. 606.
[69] Từ Trẩm Á. Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, sđd.
[70] Từ Trẩm Á. Ngọc lê hồn, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, sđd., trg. 205.
[71] Trọng Khiêm. Kim Anh lệ sử, Hanoi: Đông-kinh ấn-quán, 1924; Tam Lang. Giọt lệ sông Hương - Minh Châu lệ sử, Hanoi: Tân-dân thư-quán, 1930.
[72] John C. Schafer và Thế Uyên. "The Novel Emerges in Cochinchina," Journal of Asian Studies, số 52:4 (11/1993), trg. 869.
[73] Theo Annuaire statistique de L'Indochine (Niên giám thống kê Đông Dương), tập 1, 1913-1922, Hanoi: Imprimerie d'Extreme-Orient, 1927, trg. 52; và Annuaire statistique de L'Indochine (Niên giám thống kê Đông Dương), tập 3, 1930-1931, Hanoi: Imprimerie d'Extreme-Orient, 1932, trg. 63.
[74] Tựa báo có thể đã dựa theo tên tác phẩm Nữ giới chung 女界鍾 (1903) của Kim Thiên Cách 金天翮 (1873-1947).
[76] Không chỉ là nhà quân sự và chính trị trứ danh, Tào Tháo 曹操 (155-220) còn là thi nhân nổi tiếng. Tào Phi 曹丕 (187-226), con trai trưởng của Tào Tháo và cũng là hoàng đế nước Ngụy thời Tam Quốc, có nhiều thành tựu văn học trong lĩnh vực thi, phú và phê bình. Em ông, Tào Thực 曹植 (192-232), từng được xưng tụng là "thi thánh 詩聖" trước Đỗ Phủ.
[80] S. Nguyệt-Anh, "Bàn về sách dạy đờn-bà con gái", Nữ giới chung, số 9 (5/4/1918).
[81] Nguyễn Thị Hồng, "Phải cần gì bây giờ?", Nữ giới chung, số 20 (28/6/1918).
[82] "Cũng bàn về quốc văn", Phong hóa tuần báo, 4/11/1932.
[83] T.A. "Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm", Phụ nữ thời đàm, 22/4/1932.
[84] Vân Đình Tứ. "Tin bợm mất bò - Một ông giáo sư dỗ vợ một người bạn rồi kéo nhau đi," Phụ nữ thời đàm, 2/3/1932.
[85] T.A. "Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm", Phụ nữ thời đàm, 20/4/1932.
[86] "Quanh cái án bạn và vợ: Mấy trang nhật ký của nữ sĩ Mỹ-Khuê Hoàng-Thị-Khiêm", Phụ nữ thời đàm, 23/4/1932.
[87] T.A. "Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm", Phụ nữ thời đàm, 22/4/1932.
[88] "Cái án bạn và vợ: Vũ-Tam-Thám Hoàng-Thị-Khiêm," Phụ nữ thời đàm, 4-5/4/1932.
[89] Như trên
[90] Xem Hà thành ngọ báo, 31/5/1927 và 12/9/1929; cũng xem Phụ nữ tân văn, 24/8/1933, trg. 6-8.
[91] Xem các tranh biếm họa trên Phụ nữ thời đàm ngày 29/4 và 5/5/1932.
[92] Thương Biên. "Một việc mà chị em học sinh phải thận trọng: Tiểu thuyết Tây", Phụ nữ thời đàm, 11/5/1932.
[93] Các báo được sử dụng để thu thập tư liệu là Hà thành ngọ báo: 8 trường hợp (1927-1929), Trung Bắc tân văn: 4 (1929-1930), Phụ nữ thời đàm: 17 (1931-1932), Phụ nữ tân văn: 14 (1931-1932).
[94] "Hỡi các bạn chán đời", Hà thành ngọ báo, 13/7/1927.
[95] "Cái bệnh tự-tử" do Hồng Nhân dịch từ Edmond Jaloux, "Sur le suicide - Observations sur la psychologie du suicide" (Le Disque vert, 4th Series, số. 1, 1/1925), Nam phong, số 177 (10/1932), trg. 340.
[96] Phạm Quỳnh. "Thanh niên có nên buồn không?" Nam phong, số 68 (2/1923), trg. 92-98.
[97] Phạm Thị Ngoạn. Tìm hiểu Tạp chí Nam phong, sđd., trg. 308-309.
[98] "Chúng tôi hiểu cái lẽ cô Tuyết-Hồng tự vận," Phụ nữ tân văn, 21/5/1931.
[99] Chế độ đa thê này chỉ chính thức chấm dứt nhờ luật gia đình ban hành riêng lẻ nhưng hầu như đồng bộ ở hai miền Nam - Bắc vào năm 1959.
[100] "Trong một tuần lễ hai cái án phụ nữ tự sát - Người phạm có lẽ đều là đàn ông", Phụ nữ tân văn, 21/1/1932.
[101] "Cái chết khiếp nhược", Phụ nữ tân văn, 19/4/1934.
[102] "Vợ chồng tự tử vì thất nghiệp", Phụ nữ tân văn, 28/6/1934.
[103] "Thuốc phiện dấm thanh..." Phụ nữ thời đàm, 4 và 7/12/1932.
[104] "Yêu cảnh Kiếm hồ", Phụ nữ thời đàm, 13/8/1931.
[105] Nguyễn Lan Khai. Nước hồ Gươm, Hà Nội: Nhật Nam thư quán,1928.
[106] Phạm Duy Tốn. "Nước đời lắm nỗi", Nam phong, số 23 (5/1919), trg. 401-404.
[107] Tâm Việt. Quanh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội: Nguyễn Du thư xã, 1929; Tam Lang Vũ Đình Chí. Giọt lệ sông Hương (Minh Châu lệ sử), Hà Nội: Tân Dân thư quán, 1930.
[108] Th. Sơn. "Giấc mộng hồ Gươm", Phụ nữ thời đàm, 24-25 và 26/8/1931; Mai Lâm. " Một buổi xem xử án tự vẫn tại cung vua Diêm", Phụ nữ thời đàm, 6-10/6/1932; T. L. "Lệ Hồng quyên sinh", Phong hóa, 22/9/1932; Lê Thành Tỉnh. "Trên sông Thương", Phong hóa, 19/5/1933; Tế Xuyên. "Chưa chết được", Phụ nữ thời đàm, 15/10/1933; Lưu Trọng Lư. "Cái chết hiếu danh", Phụ nữ thời đàm, 28/1/1934.
[109] Quảng cáo kịch "Ai chết trước nhất tại hồ Hoàn Gươm?", Phụ nữ thời đàm, 1/2/1931.
[110] Hội Ái hữu hỏa xa Vân Nam. "Vì đâu cô tự sát", Rạng đông, 21/10/1933.
[111] Phong Hóa. "Các vở kịch và cái nạn phụ nữ quyên sinh", Phong hóa, số 6 (21/7/1932).
[112] "Sớm chán đời thế? Cô Lưu Thị-Đàm học trường Nam-sinh mới có 13 tuổi đầu vừa rồi trốn nhà đi tu", Hà thành ngọ báo, 27/7/1929.
[113] Tuyết Mai. "Cô Sâm mê chuyện", Hà thành ngọ báo, 23/3/1929.
[114] "Ái-tình trong tiểu-thuyết và trong thiệt-tế", Phụ nữ tân văn, 2/11/1933.
[115] Thường Nga. "Một cách chữa bệnh tiểu-thuyết", Phụ nữ thời đàm, 4/7/1931.
[116] Vũ-hữu-San, "Cái hại đọc tiểu-thuyết," Báo Đông Pháp, 8/1/1929.
[117] “Phụ nữ đồng tình hội” đăng ở Phụ nữ tân văn, 8/5/1930: “Từ năm ngoái đến giờ, trong nước ta xảy ra không biết bao nhiêu là chuyện đàn bà tự sát. Người nầy thì vì cảnh ngộ gia đình, kẻ nọ thì bởi tình duyên trắc trở, lại có nhiều người vì nghèo khổ, vì bịnh hoạn, cũng tính đến cái kế quyên sanh là kế cuối cùng. Thảm thương thứ nhứt là người đàn bà ở tỉnh Nam Định mới đây, gặp cảnh chồng chết con đông, bước cùng thân túng; trong lưng còn một đồng mấy bạc, để lại cả cho lũ con, rồi ra sông Vị Hoàng đâm đầu xuống đó... Chúng tôi tưởng trong lúc vật giá lên cao, củi châu gạo quế nầy, chắc hẳn không thiếu chi người muốn theo bước bà kia.”
[118] Chẳng hạn, “Cũng bởi chán đời - Bốn cô nữ học sanh cùng tự vận trong một lúc,” Phụ nữ tân văn, 25/7/1929 thuật chuyện 4 cô nữ sinh ở tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) rủ nhau cùng tự tử chỉ vì chán đời, cảm thấy bị khinh rẻ, “sanh ra gặp phải cá hoàn cảnh bất lương, thường bị kích thích, mà chúng tôi non dạ trẻ người, không đủ sức để chống chỏi lại.”; Hoàng Hồ, “Cô thiếu nữ chết vì tình,” Hà thành ngọ báo, 27/4/1929 kể việc cô học sinh họ Hồng tự tử ở Thanh Đảo. Bài “Phụ nữ đồng tình hội” (bđd) ghi nhận: “Không biết tại sao một năm đó, người Nhựt Bổn đua nhau tự vận nhiều quá. Thứ nhứt là đàn bà. Có hơi một chút gì bất như ý, ví dụ như giận chồng, như mất việc, như hỏng thi, bấy nhiêu đó cũng đủ khiến cho họ nhảy xuống giếng sâu, hay là đâm đầu vào xe lửa rồi. Họ tự vận sao mà mỗi ngày nội trong nước Nhựt có cả chục cả trăm đám, đến đỗi ở đất Thần hộ, có cái giếng kia, đàn bà nhảy xuống đó tự vận mà lấp đầy”.







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét