Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2023

Người Mỹ trầm lặng 1

Người Mỹ trầm lặng 1

MỞ ĐẦU
Sau bữa cơm chiều, tôi ngồi trong phòng mình, phố Catina, chờ Pyle. Hắn đã hẹn: "Tôi sẽ tới chỗ anh, 10h là chậm nhất". Khi đồng hồ đã điểm nửa đêm, tôi không ngồi yên được nữa và đi ra ngoài phố. Một đám bà già, quần đen, ngồi tại bậc cầu thang, lúc này đang vào tháng 2 và tôi đoán trời nóng quá nên họ chưa đi ngủ. Một người chậm rãi đạp xích lô đi về phía bến sông và tôi nhìn thấy những ngọn đèn thắp sáng nơi những chiếc máy bay Mỹ vừa được bốc dỡ. Trên con đường phố dài, không thấy bóng dáng Pyle đâu cả.
Rất có thể, tôi tự nhủ, hắn bị giữ lại ở toà Lãnh sự Mỹ vì lý do này hay lý do khác, nhưng trong trường hợp này, thế nào hắn cũng dùng điện thoại báo tới tiệm ăn cho tôi biết, anh chàng tuân thủ một cách tỉ mỉ những lề thói xã giao thông thường. Tôi sắp trở vào nhà thì nhìn thấy một thiếu phụ đang chờ tại cửa ra vào nhà bên. Không nom rõ mặt, chỉ thấy chiếc quần lụa trắng và chiếc áo dài hoa, nhưng tôi biết ngay đó là ai. Cô ta đã bao lần chờ tôi đúng ở nơi này và vào giờ này.
- Phượng - tôi gọi (Tên cô là giống như con chim thần phượng hoàng, nhưng ở vào thời kỳ này có nghĩa là thần kỳ và có cái gì sống lại đám tro tàn của mình nữa?).
Tôi biết, ngay trước khi cô kịp trả lời, là cô đứng chờ Pyle.
- Anh ta không có ở đây.
- Tôi rõ. Tôi đã thấy anh đứng một mình ở cửa sổ.
- Cô lên gác chờ thì hơn. Hắn chắc sắp tới thôi.
- Tôi đứng chờ ở đây cũng được.
- Đừng dại. Cảnh binh có thể tới tóm cô đi đấy.
Cô theo tôi lên tận phòng. Tôi nghĩ ra vô số câu nói đùa mỉa mai cay độc để tặng cô, nhưng trình độ Anh và Pháp ngữ kém cỏi của cô chẳng đủ để cô hiểu được tính châm biếm của câu nói và điều kỳ lạ là tôi chẳng chút nào mong muốn làm cho cả cô lẫn tôi phải đau khổ. Lên đến bậc cầu thang, tất cả những mụ già ngồi đó đều quay lại nhìn, và khi chúng tôi đi qua, tiếng nói của họ cất lên rồi lại rơi trầm xuống, như thể đồng ca.
- Họ nói gì vậy?
- Họ tưởng tôi trở lại với anh.
Trong phòng, cây hoa tôi mua từ mấy tuần trước, nhân dịp Tết Âm lịch, nay đã để rụng hết những cánh hoa vàng. Hoa rơi vào giữa hàng chữ của chiếc máy chữ của tôi. Tôi lấy từng cánh ra.
- Anh có vẻ xúc động - Phượng nói.
- Tôi cũng lấy làm lạ. Thường thì anh ta rất đúng giờ.
Tôi tháo ca-vát ra, bỏ giày và nằm dài ra giường. Phượng đốt bếp ga lên và đun nước để pha trà, y như 6 tháng trước đây cô vẫn làm.
- Pyle nói anh sắp rời đây phải không?
- Có lẽ.
- Hắn yêu anh lắm.
- Xin miễn cho cái lòng yêu đó.
Tôi thấy cô đã để kiểu tóc khác, mái tóc đen và cứng của cô nay đã xoã một cách giản dị trên đôi vai. Tôi nhớ một hôm Pyle chê cô búi tóc một cách cầu kỳ, theo kiểu con nhà quan. Tôi nhắm mắt lại và thấy cô vẫn như xưa: Cô là tiếng nước reo, tiếng chén chạm vào nhau, cô làm một giờ nào đó của ban đêm, là hứa hẹn của sự nghỉ ngơi thư thái.
- Anh ta sắp tới thôi - Cô nói y như tôi cần được yên tâm về việc Pyle vắng mặt.
Tôi tự hỏi, không rõ cặp này chuyện trò với nhau về những vấn đề gì. Đối với Pyle, điều gì cũng là quan trọng và y đã bắt tôi nghe những thuyết trình về cái miền Viễn Đông này mà sự hiểu biết của y tính bằng bao nhiêu tháng thì tôi bằng bấy nhiêu năm. Nền dân chủ là một đề tài quen thuộc khác của y, còn về những việc mà Mỹ đã và sẽ làm cho thế giới thì y có những khái niệm chính xác và làm người khác bực mình. Phượng thì ngược lại, dốt nát một cách kỳ lạ, giả thử có ai trong câu chuyện nói đến tên Hitler thì cô bắt người ta dừng lại để hỏi Hitler là ai. Giải thích được cho cô thật là khó vì cô chưa hề gặp một người Đức hay một người Ba Lan nào và chỉ hiểu rất mơ hồ về địa lý châu Âu; nhưng lẽ tất nhiên cô ta hiểu hơn tôi về công chúa Margarete.
Tôi nghe tiếng cô đặt cái khay ở phía cuối giường.
- Anh ta vẫn mê cô chứ, cô Phượng?
Khi ngủ với một phụ nữ Việt Nam, người ta có cảm giác như có một con chim trên giường mình, họ líu lo và liếp chiếp trên chiếc gối. Tôi nhớ lại mình trong thời gian rất lâu đã cho rằng không có tiếng ai thánh thót như tiếng Phượng. Tôi giơ tay ra nắm tay cô. Xương người phụ nữ Việt Nam cũng mảnh dẻ như xương con chim vậy.
- Trả lời đi Phượng.
Cô cười và tôi nghe thấy cô quẹt một que diêm.
- Mê à?
Có lẽ đó là từ mà cô không hiểu nổi.
- Tiêm cho anh một điếu thuốc nhé? - Cô hỏi.
Khi tôi mở mắt ra thì đèn đã thắp và bàn thuốc đã được chuẩn bị. Ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn hắt những tia màu hổ phách sẫm lên da của cô, trong khi cô cúi xuống ngọn lửa, cái trán nhăn lại vì chú ý xoay tròn mũi kim để nướng viên thuốc nhỏ.
- Pyle vẫn không hút à? - Tôi hỏi.
- Không.
- Cô phải luyện cho hắn hút thôi, hắn sẽ đi mất đấy.
Các cô ấy thường mê tín rằng người yêu mà nghiện thì bao giờ cũng trở lại với mình, dù có về Pháp đi nữa. Có thể họ bớt cường dương đi, nhưng các cô thích một người tình chung thuỷ hơn là một người tình lắm sinh lực. Cô nhuyễn cục thuốc nóng bỏng vào cái nõ điếu và tôi hít một cách khoan khoái mùi nha phiến. Không mùi gì sánh được với mùi thuốc phiện. Chiếc đồng hồ báo thức đặt cạnh giường chỉ 12h20, nhưng tôi hết dần lo ngại. Pyle bắt đầu biến dần khỏi thế giới rồi. Ngọn đèn soi vào bộ mặt Phượng đang chuẩn bị cho tôi hút, chắm chú cúi xuống làm việc như khi chăm sóc con cái. Tôi yêu cái tẩu của tôi, nó làm bằng một ống tre thẳng dài gần một mét, hai đầu bịt ngà. Nơi hai phần ba của điếu, cái nõ giống như bông hoa bìm bìm lộn ngược, mặt được lăn thuốc đã trở nên đen bóng. Nhanh như chớp, Phượng ấn viên thuốc vào miệng tẩu rút mũi tiêm ra, lật tẩu lên ngọn đèn, chìa điếu cho tôi hút. Viên thuốc như hạt ngọc kêu xèo xèo một cách nhẹ nhàng, đều đặn khi tôi hít.
Người nghiện thực thụ thì chỉ hút một hơi, nhưng tôi phải để nhiều bận. Tôi thả mình ngửa ra phía sau, gáy tựa vào gối da, trong khi Phượng sửa soạn tiêm điếu thứ hai.
- Cô rõ, tôi nói, vả lại điều đó tỏ như ban ngày, rằng Pyle biết tôi làm vài điều thuốc trước khi đi ngủ, hắn không muốn phiền tôi. Sáng mai hắn sẽ lại.
Chiếc mũi tiêm một lần nữa đâm vào miệng tẩu và tôi hút điếu thứ hai. Đặt điếu xuống, tôi nói:
- Chẳng có gì phải lo ngại. Chẳng có mảy may lý do nào.
Tôi chiêm một hớp chè và luồn tay vào ngực Phượng.
- Khi cô bỏ tôi, tôi nói tiếp, may sao tôi đã quay sang hút xách. Ở phố Doocmay có một tiệm hút khá lắm. Người Âu châu chúng tôi hơi tý là làm to chuyện. Cô không nên sống với người không nghiện ngập gì.
- Nhưng anh ta sắp cưới tôi. Chẳng bao lâu nữa.
- Chắc vậy, nhưng đó lại là vấn đề khác.
- Tôi tiêm điếu nữa?
Tôi tự hỏi không rõ cô có bằng lòng ngủ với tôi đêm nay khi đoán rằng Pyle không tới không. Tôi cũng hiểu, sau khi hút được bốn điếu thì tôi không thiết gì cô nữa. Nhưng lẽ tất nhiên, thật là thú vị khi thấy đùi cô kề đùi tôi trên chiếc giường; bao giờ cô cũng nằm ngửa khi ngủ và buổi sáng khi tỉnh giấc, tôi có thể mở đầu một ngày mới bằng một điếu thuốc, thay vào việc mình chỉ sống với mình.
- Pyle không tới nữa đâu - tôi nói - Ở lại đây, Phượng ạ.
Cô chìa điếu cho tôi và lắc đầu. Nhưng khi tôi say thuốc rồi thì có cô hay không có cô, cũng chẳng cần lắm.
- Tại sao Pyle không tới đây? - Phượng hỏi.
- Sao mà tôi biết được?
- Anh ta đi thăm tướng, thế à?
- Chẳng rõ nữa.
- Anh ta nói với tôi rằng nếu không đi ăn với anh được thì sẽ tới đây.
- Đừng lo lắng khổ thân nữa. Hắn sẽ tới. Tiêm cho tôi một điếu nữa đi.
Khi cô cúi đầu xuống ngọn đèn, bài thơ của Bordole thoáng qua óc tôi: Con của tôi, cô em của tôi… Gì nữa nhỉ.
Yêu cho thoả thích.
Yêu rồi chết,
Tại đất nước giống như em.
Ngoài kia, dọc theo bến sông, những con tàu đang ngủ, nhưng hồn đi lang thang. Tôi nghĩ rằng nếu tôi ngửi làn da Phượng, tôi sẽ thấy có chút hương của thuốc và màu da nàng sẽ giống như màu ngọn lửa nhỏ kia. Tôi đã thấy những bông hoa y như hoa trên áo nàng nở trên bờ các sông đào ở miền Bắc. Cô là một cây cỏ nhỏ của đất nước cô, còn tôi thì lại chẳng muốn trở về đất nước một chút nào.
- Tôi muốn được ở vào địa vị Pyle - Tôi nói to lên sự suy nghĩ đó.
Nhưng nỗi đau khổ của tôi không phải vô bờ bến và có thể chịu đựng được. Nhờ ở thuốc phiện. Có ai gõ cửa.
- Pyle - Phượng nói.
- Không phải. Anh ta không gõ theo kiểu đó.
Người ta lại gõ cửa, như bị sốt ruột. Phượng vội vàng đứng lên chạm vào cây mai khiến hoa lả tả rơi trên chiếc máy chữ của tôi. Cửa mở.
- Ông Fowler, một tiếng giật giọng gọi.
- Tôi là Fowler đây, tôi nói.
Một tên cảnh binh chẳng đáng cho tôi phải ngồi dậy.
Chẳng cần quay đầu lại, tôi cũng thấy chiếc quần soóc của hắn.
Hắn giải thích bằng một thứ tiếng nửa Pháp nửa Việt, gần như không thể hiểu nổi, rằng người ta tới ngay, tới lập tức, thật cấp tốc tới Sở Liêm phóng.
- Pháp hay Việt?
- Pháp.
Trong miệng hắn tiếng "Pháp" thành tiếng "Phạp".
- Để làm gì?
Hắn không rõ lý do. Hắn chỉ nhận được lệnh là tới kiếm tôi.
- Cả mày nữa, hắn nói với Phượng.
- Hãy nói: Mời bà, khi anh nói với một người phụ nữ, tôi nói, tại sao anh biết bà ta ở đây?
Hắn trả lời một cách đơn giản rằng hắn làm theo mệnh lệnh.
- Đến sáng tôi lại.
- Xin tới ngay, cái nhân vật nhỏ bé, dứt khoát và bướng bỉnh, nói.
CHƯƠNG 1
Cãi lại cũng vô ích. Tôi đứng lên, đeo ca-vát và đi giầy. Trong cái xứ này, cảnh sát bao giờ cũng thắng trong cuộc đọ sức, họ có thể tước giấy thông hành của tôi, họ có thể cấm không cho tôi dự các hội nghị báo chí và nếu họ muốn một cách oái oăm, thì có thể từ chối không cấp thị thực cho tôi về nước. Đó là những cách làm không hợp pháp giữa ban ngày ban mặt, nhưng tại một nước đang chiến tranh, sự hợp pháp không cần lắm. Tôi biết có một người nấu bếp biến mất một cách đột nhiên và không sao hiểu nổi; lần theo dấu vết, người đó tìm tới Sở Liêm Phóng, nhưng ở đây người ta bảo đã thả anh bếp sau một trận xét hỏi. Gia đình anh ta không bao giờ gặp lại anh nữa. Có lẽ anh đã đi theo cộng sản; có lẽ anh gia nhập một trong những đội vệ binh nở như hoa quanh Sài Gòn: Hoà Hảo, Cao Đài, quân của tướng Thế. Có thể anh đang bị giam trong một nhà ngục Pháp. Có thể đang phất một cách vui vẻ trong nghề ma cô ở Chợ Lớn, vùng người Hoa ở sát Sài Gòn. Có thể tim anh đã vỡ trong cuộc tra hỏi.
- Không đi bộ đâu - tôi nói - Các anh phải thuê xích lô cho chúng tôi.
Phải giữ tư thế của mình chứ!
Chính vì thế mà tôi từ chối không nhận điếu thuốc lá của viên sĩ quan Pháp tại Sở mật thám. Sau ba điếu thuốc phiện, đầu óc tôi sáng suốt và hoạt động hăng hái: Nó dễ dàng quyết định được về những việc vặt đó, nhưng vẫn không xa lìa vấn đề chính: họ muốn làm gì tôi? Tôi đã gặp Vigo nhiều lần trong cuộc chiêu đãi. Tôi đã chú ý tới anh ta mê vợ đến mức phi lý, một cô gái tóc nhuộm vàng rất giả tạo, chướng mắt và cư xử như không có chồng con gì cả. Đêm hôm đó, hai giờ sáng, mệt mỏi và ỉu xìu, anh ta ngồi trong bầu không khí nóng đến lả người, giữa làn khói thuốc lá. Mũ lưỡi trai màu xanh che mắt và để giết thời gian, anh ta mở một cuốn sách của Pascal để sẵn trên bàn. Khi tôi từ chối không cho tra hỏi Phượng khuất mặt tôi, anh ta liền chịu theo ý tôi, phát ra một tiếng thở dài nói lên sự chán chường của anh ta, chán Sài Gòn, chán thời tiết nóng bức, hay chán cho tất cả cái số phận con người.
- Tôi rất lấy làm tiếc - hắn nói bằng tiếng Anh - nhưng tôi bắt buộc phải mời anh lại.
- Họ có mời tôi đâu - tôi nói. - Họ ra lệnh cho tôi phải tới.
- Ôi nhân viên người bản xứ! Họ chẳng hiểu gì cả!
Mắt hắn vẫn không rời trang sách trong cuốn châm ngôn y như những luận chứng buồn tẻ trong đó vẫn đang thu hút hắn.
- Tôi muốn hỏi anh một vài điều về Pyle.
- Sao anh không hỏi ngay Pyle?
Y quay lại phía Phượng và sẵng giọng hỏi bằng tiếng Pháp.
- Cô đã sống bao nhiêu lâu với ông Pyle?
- Khoảng một tháng gì đó… tôi cũng không rõ nữa.
- Ông ta cho cô bao nhiêu tiền?
- Anh không có quyền hỏi như thế - tôi nói - cô ta có phải là của đem bán đâu?
- Cô ta đã sống với anh phải không? - y hỏi một cách trắng trợn - Trong hai năm?
- Tôi là một nhà báo mà nhiệm vụ là làm một thiên phóng sự về cuộc chiến tranh của các ông. Đừng có bắt tôi phải đồng thời tham gia viết các mục chuyện lăng nhăng nữa.
- Anh hiểu những điều gì về Pyle? Xin trả lời tôi, anh Fowler. Tôi bắt buộc phải đặt ra những câu hỏi này, nhưng đây là điều nghiêm trọng. Rất nghiêm trọng xin hãy tin như vậy.
- Tôi không là một tên mật thám. Tất cả những điều tôi biết về Pyle thì anh biết cả: Ba mươi hai tuổi, tuỳ viên của phái đoàn viện trợ kinh tế, quốc tịch Mỹ.
- Anh hình như là một bạn thân của Pyle, Vigo vừa nói vừa nhìn Phượng ở phía sau lưng tôi.
Một nhân viên bản xứ vào, mang theo ba tách cà phê.
- Hay anh thích uống nước trà hơn? - Vigo hỏi.
- Đúng tôi là một người bạn thân của Pyle, - tôi nói. - Tại sao lại không nhỉ? Một ngày nào đó tôi sẽ về quê, phải không? Tôi không thể mang theo cô nhỏ này. Cô ta sẽ được sung sướng với hắn ta. Đây là một sự thu xếp hợp lý. Hắn tính cả việc lấy cô ta làm vợ. Hắn có gan làm nổi việc đó. Hắn là con người tốt bụng theo kiểu của hắn. Đứng đắn. Không như những tế cục súc phá quấy ở khách sạn Continaltal. Một người Mỹ trầm lặng! - tôi kết luận sự nhận định về Pyle, như tôi buông ra câu: một con thằn lằn xanh, một con voi trắng.
- Phải - Vigo nói - một người Mỹ trầm lặng.
Cặp mắt anh ta như tìm ở trên bàn giấy những từ có thể dùng để diễn đạt chính xác nhất ý nghĩ cũng như tôi đã làm. Anh ta ngồi đó, trong bầu không khí bức bối của căn phòng, chờ một người trong chúng tôi nói tiếp. Một con muỗi xông tới vo ve mở cuộc tấn công. Tôi theo dõi Phượng. Thuốc phiện làm ta lanh lẹ có lẽ chỉ vì nó làm thần kinh được thư thái và dịu đi những cơn cảm xúc. Không có gì, ngay cả cái chết, lại quan trọng như vậy. Tôi có cảm giác rằng Phượng không nhận ra được giọng buồn và dứt khoát của Vigo. Vả lại cô biết tiếng Anh rất ít. Ngồi trên ghế tựa cứng của công sở, cô vẫn chờ đợi Pyle một cách nhẫn nại. Tôi thì hết chờ rồi và tôi thấy rằng Vigo đã nhận ra hai thái độ đó.
- Anh làm quen với Pyle như thế nào? - Vigo hỏi tôi.
Làm sao giảng cho Vigo hiểu là chính Pyle tới làm quen với tôi. Tháng 9 vừa qua, tôi nhìn thấy hắn ta băng qua quảng trường đi về phía khách sạn Continaltal, giơ cho tất cả chúng tôi xem bộ mặt linh rất trẻ trung của một con người mới nhập cuộc. Với bộ giò lênh khênh đung đưa, với mái tóc cắt theo kiểu lính thuỷ, với cặp mắt quen nhìn khoảng không rộng lớn của các khu học xá Mỹ, hắn có vẻ hoàn toàn vô hại. Những chiếc bàn trên sân thượng đều có người ngồi.
- Anh cho phép tôi ngồi đây - hắn đã hỏi tôi với một vẻ lịch sự trang nghiêm - Tên tôi là Pyle. Tôi mới tới đây.
Hắn khom tấm thân dài ngoằng để ngồi xuống chiếc ghế bành và gọi bia uống. Bỗng nhiên, hắn nhìn lên trời, chăm chú nhìn vào ánh sáng chói chang của buổi giữa trưa.
- Lựu đạn nổ hay sao? - Hắn ta hỏi với giọng của một người bị hấp dẫn và đầy hy vọng.
- Chắc là xe máy đó thôi, tôi đáp, lòng bỗng thương hại cho sự cụt hứng của hắn.
Người ta thường mau chóng quên đi thời niên thiếu của mình: xưa kia tôi cũng vậy, quan tâm đến cái điều người ta gọi là tin thời sự, vì thiếu một từ gọi đúng hơn. Nhưng bây giờ tôi hết quan tâm đến lựu đạn nổ rồi; ở trang cuối của báo địa phương đã có thống kê đủ: chiều hôm qua bao nhiêu vụ nổ ở Sài Gòn, bao nhiêu ở Chợ Lớn; những tin đó không bao giờ lọt vào báo chí của người Âu cả. Dọc theo phố, những dáng thanh mảnh duyên dáng qua lại: quần lụa trắng, áo dài may sát người, tà sẻ tới đùi và in những hình vẽ màu hồng hay hoa cà. Tôi nhìn những hình bóng đó, chạnh nghĩ rằng khi tôi phải mãi mãi rời nơi đây thì tôi sẽ lưu luyến biết mấy.
- Đẹp mê hồn đấy chứ? - tôi nói với qua cốc bia, còn Pyle thì lơ đãng nhìn họ đi lên trên phố Catina.
- Ồ, đẹp, - hắn nói với một vẻ không quan tâm (chàng này thuộc loại chín chắn đây). - Ngài bộ trưởng rất lo ngại về những vụ nổ lựu đạn đó. Ngài nói rằng thật là phiền khi có điều gì xảy ra với… với một trong chúng tôi, tôi muốn nói.
- Cho một trong số các anh? À phải, tôi đoán rằng sẽ nhiêu khê đấy. Quốc hội của các anh không ưng những việc như vậy.
Tại sao ta lại hay trêu những kẻ ngây thơ? Có lẽ 10 hôm trước hắn đang đi qua quảng trường, ở Bôtxtơn, tay ôm chồng sách mà hắn sẽ chuẩn bị đọc để hiểu trước về Viễn Đông và các vấn đề của Trung Hoa. Hắn cũng không thèm nghe tôi nói gì: hắn còn đang suy nghĩ về mối quan hệ khó giải quyết giữa nền dân chủ và trách nhiệm của phương Tây: Hắn rất quyết tâm - tôi nhanh chóng hiểu ra ngay điều ấy - làm những điều tốt đẹp không phải cho một cá nhân mà cho cả một nước, một lục địa, một thế giới. Và thế là bây giờ hắn đang ở trên mảnh đất của hắn, giữa một thế giới cần hoàn thiện.
- Hắn nằm trong nhà xác à? - Tôi bèn hỏi Vigo.
- Tại sao anh biết hắn chết rồi?
Câu hỏi đó quả là ngu xuẩn khi người ta là một thám tử, không xứng với một con người đọc Patsxcan, cũng lại không sứng đáng với một con người đã hiến cho vợ một tình yêu kỳ lạ đến thế. Người ta không thể yêu khi không có linh cảm.
- Tôi không là thủ phạm, tôi nói.
Tôi tự nhắc lại rằng điều đó là sự thật. Pyle là con người muốn đi đâu thì đi, có đúng không? Tôi tự xét nét xem mình có chút hiềm thù nào đối với anh chàng thám từ đa nghi này không, nhưng không thấy chút nào. Chỉ có mình Pyle là chịu trách nhiệm thôi. Cái chết phải chăng là cái số phận tốt nhất dành cho mỗi chúng ta? - Bộ óc của con người nghiện như tôi nghĩ như vậy. Nhưng tôi thận trọng nhìn Phượng: vố này đau cho cô ta quá đấy. Cô ta chắc đã yêu Pyle theo kiểu của cô: dù có mến tôi thật, cô đã chẳng bỏ tôi để về với hắn sao? Cô đã bị lôi cuốn bởi tuổi trẻ, bởi hy vọng, bởi sự trang nghiêm, ấy thế mà những điều đó không giữ được lời hứa hẹn bằng tuổi trung niên và sự chán chường. Cô ta ngồi yên nhìn hai người chúng tôi và tôi tin rằng cô cũng vẫn chưa biết gì. Có lẽ tốt hơn là tôi đưa có về trước khi cô đoán ra sự thật. Tôi sẵn sàng trả lời các câu hỏi nếu làm như vậy có thể chấm dứt cuộc vấn đáp này một cách chóng vánh, vừa giữ được sự mơ hồ, để sau rốt nói riêng với cô về cái chết của Pyle, xa cặp mắt của viên cảnh sát, xa những chiếc ghế rắn chắc và chiếc bóng đèn không có chao với những con bướm đem lượn chung quanh.
- Anh cần biết về hoạt động của tôi trong những giờ nào? - Tôi hỏi Vigo.
- Từ 18 tới 20 giờ.
- Tôi uống rượu lúc 6 giờ tại khách sạn Continaltal. Những người bồi chắc nhớ rõ. Tới 6 giờ 45 phút, tôi xuống bến cảng xem bốc dỡ những chiếc máy bay Mỹ. Tôi nom thấy Uynkin của hãng AP bên cửa rạp Magiestic. Rồi tôi vào xem phim, phía cửa bên. Chắc nhân viên ở đó nhớ, vì họ trả lại tôi tiền lẻ. Sau đó tôi thuê xe kéo đi về quán cơm "Cối xay cổ". Tới nơi khoảng 8 giờ 30 phút và ăn một mình. Grango cũng ở đó, anh có thể hỏi hắn xem. Rồi thuê xe trở về nhà lúc 9 giờ 45 phút. Tìm ra người kéo xe cũng không đến nỗi khó. Tôi chờ Pyle tới, lúc 10 giờ, nhưng hắn không tới.
- Anh chờ hắn ta để làm gì?
- Hắn gọi điện thoại cho tôi, nói muốn gặp vì một điều quan trọng.
- Anh hẳn nghĩ gì về câu chuyện đó?
- Không. Đối với Pyle thì cái gì chẳng quan trọng.
- Còn cô ta? Người tình của Pyle. Cô ta ở đâu, anh có biết không?
- Cô ấy chờ hắn ở ngoài phố, lúc giữa đêm. Cô ta rất lo. Không hay biết gì cả. Anh xem, đến bây giờ cô ta vẫn chờ hắn đấy.
- Rõ!
- Anh tưởng thật sự rằng tôi giết hắn vì ghen tuông hay tưởng rằng chính cô ta là thủ phạm… mà giết hắn vì lẽ gì nhỉ? Hắn định lấy cô ta đến nơi.
- Phải.
- Anh tìm thấy hắn ở đâu?
- Dưới sông gần cầu Đa Kao.
Quán ăn "Cối xay cổ" ngay cạnh cầu. Trên cầu là cảnh sát võ trang, quán ăn lại có lưới thép ngăn lựu đạn. Ban đêm qua cầu thì không được an toàn, vì ở bờ bên kia sông sau khi mặt trời lặn nằm trong tay Việt Minh. Thế là tôi đã ăn bữa cơm tối cách thi hài hắn không đầy 50 m.
- Điều đáng phàn nàn là hắn dính vào không biết bao nhiêu việc, tôi nói.
- Xin nói thẳng ra là tôi cũng không luyến tiếc gì hắn. Hắn đã gây ra nhiều điều rắc rối.
- Xin trời che chở cho chúng ta khỏi những người ngây thơ và ngoan đạo
- Người ngoan đạo?
- Ồ phải. Ngoan đạo theo kiểu của hắn. Anh là tín đồ Thiên Chúa giáo theo kiểu La Mã. Cách xử thế của hắn, anh không sao hiểu nổi đâu. Vả lại hắn chỉ là một tên Mẽo khốn kiếp.
- Anh nhận dạng hắn một chút thì có phiền lắm không? Xin lỗi nhé. Thủ tục thôi. Một thủ tục không có gì thú vị lắm.
Tôi cũng không cần mất công hỏi tại sao anh ta không chờ một nhân viên nào của phái đoàn Mỹ, vì tôi biết tỏng ra rồi. Những phương pháp của người Pháp rất cổ xưa đưới mắt những người lạnh lùng như chúng tôi; họ tin ở lương tâm, ở ý thức tội lỗi; phải đặt thủ phạm trước tội ác hắn đã gây ra xem hắn có đổ sụp xuống, có tự thú không? Tôi tự nhủ một lần nữa là tôi vô tội, khi qua một cái cầu thang xây bằng đá xuống tầng hầm nơi máy lạnh kêu vo vo.
Họ lôi xác Pyle ra giống như khi người ta kéo một ngăn nước đá và tôi nhìn. Những vết thương đã đóng băng nom lạnh lùng vô tri giác.
- Anh xem, - tôi nói, - sự có mặt của tôi có làm các vết thương há miệng đâu?
- Anh nói gì?
- Phải chăng đấy là một lý do để tôi phải có mặt ở đây? Thử thách về việc này việc khác? Nhưng anh làm cho hắn băng giá như đá rồi. Ở thời trung cổ làm gì có máy làm lạnh.
- Anh cũng công nhận điều đó à?
- Đúng thế.
Pyle có vẻ lạc lõng hơn bao giờ hết; đáng lẽ hắn phải ở lại nhà thì hơn. Tôi hình dung ra một tập album gia đình, trong đó có ảnh hắn đang rong ngựa trong một trang trại hoa lệ, đang tắm ở bãi Long Island, hay giữa bọn đồng sự trong một phòng làm việc nào đó tít trên tầng thứ hai mươi ba. Hắn là thuộc về những toà nhà chọc trời, về những thang máy lên trực tiếp, về kem lạnh, về rượu Máctini kẹp thịt gà của con tầu hoả đi từ NewYork về Boston.
- Không phải chết bởi vết thương này đâu. - Vigo vừa nói, vừa chỉ vào vết đam nơi ngực. Hắn bị dìm chết trong bùn.
- Các anh làm công việc nhanh thật.
- Bắt buộc phải làm như thế, trong thời tiết này.
Họ đẩy ngăn kéo vào và đóng cửa lại. Cửa viền cao su cho nên không nghe tiếng sập.
- Tóm lại, anh không giúp được gì cho chúng tôi hiểu thêm ư? - Vigo hỏi.
- Chẳng giúp được gì.
Tôi đi bộ cùng Phượng trở về nhà: Chẳng cần giữ tư thế gì nữa. Cái chết đã mang đi tất cả những sự sĩ diện ngay đến cả cái sĩ diện của kẻ bị cắm sừng phải che đậy nỗi đau của mình. Phượng vẫn không ngờ việc gì đã xảy ra và tôi lại không biết báo tin cho cô ta một cách từ từ và dịu dàng. Tôi là một nhà báo: tôi tư duy bằng những đầu đề lớn. “Quan chức Mỹ bị ám sát tại Sài Gòn". Làm việc cho một tờ báo không dạy cho anh những sự gượng nhẹ cần có khi báo một tin buồn. Ngay lúc này tôi vẫn phải nghĩ đến công việc của tờ báo của tôi và tôi hỏi Phượng:
- Tôi vào phòng điện tín một lát có làm phiền cô không?

Tôi để cô ở ngoài phố, gửi bức điện đi và ra tìm cô. Đó chỉ là một việc cần làm theo thủ tục: Tôi không rõ các phóng viên người Pháp đã được báo cho biết chưa, hoặc Vigo đóng kịch chơi (có thể như vậy lắm) và những người làm công việc kiểm duyệt sẽ ngăn bức điện của tôi lại cho tới khi những người Pháp gửi xong điện của họ đi. Tờ báo của tôi sẽ nhận được tin từ Paris trước. Không phải vì Pyle là một nhân vật rất quan trọng. Nhưng không thể điện về những điều cụ thể của sự nghiệp của hắn, về điều trước khi qua đời hắn đã chịu trách nhiệm về cái chết của ít nhất 50 người khác. Viết như vậy thì quan hệ Anh - Mỹ sẽ rắc rối, và ngài bộ trưởng sẽ hoảng hồn. Ngài bộ trưởng rất cưng Pyle vì tấm bằng tốt nghiệp của hắn … ồ, về một đề tài mà các trường Đại học Mỹ thường cấp tốt nghiệp, như "Giao dịch chung", kỹ thuật sân khấu, hay cả Khảo sát về Viễn đông (hắn đã học hàng đống sách).
- Pyle đâu rồi? Phượng hỏi. - Họ muốn gì?
- Về nhà đã, - tôi nói.
- Pyle có tới không?
- Chẳng biết sẽ tới đó hay tới nơi khác.
CHƯƠNG 2
Những mụ già vẫn ngồi lê mách lẻo trên bậc thang, trong bầu không khí lúc này đã đỡ bức. Khi mở cửa vào, tôi nhận ra ngay rằng đã có người vào phòng lục soát; mọi thứ đều được xếp lại một cách quá ngăn nắp hơn là tôi tự sắp xếp.
- Hút một điếu nữa chăng? - Phượng hỏi.
- Ừ.
Tôi tháo ca-vát, bỏ giầy; màn phụ diễn xen giữa vở kịch đã chấm dứt. Đêm lại trở lại gần giống như lúc bắt đầu. Phượng ngồi xổm ở chân giường và thắp đèn lên. Con ta ơi, em gái ta, làn da màu hổ phách. Tiếng mẹ đẻ của nàng rất dịu dàng.
- Phượng này, - tôi nói - Phượng lăn viên thuốc trên nõ tẩu. Pyle chết rồi, Phượng ạ.
Cô giơ mũi tiêm lên, mắt ngước cao nhìn tôi, mày nhíu lại, y như một đứa bé đang chú ý suy nghĩ về một vấn đề gì.
- Anh nói sao?
- Pyle bị ám sát chết rồi.
Cô hạ mũi tiêm, thẳng lưng lên, ngồi xệp xuống, mắt dán vào tôi. Không có sự lu loa, không có nước mắt, chỉ có một ý nghĩ… ý nghĩ kín đáo và sâu thẳm của một con người đang sắp phải đảo lộn cả dòng đời mình.
- Ở lại đây đêm nay thì hơn.
Cô gật đầu và lại lấy mũi tiêm nướng thuốc. Đêm hôm đó tôi thức dậy sau một giấc ngủ ngắn và sâu mà thuốc phiện đem lại: mười phút sánh với cả một đêm ngủ và bàn tay tôi đã tìm thấy lại chỗ đặt quen thuộc trên cặp đùi Phượng. Cô ta ngủ và tôi chỉ thoáng nghe được hơi thở của cô. Sau bao nhiêu tháng, tôi lại không cô độc nữa, mặc dù thế, tôi lại sôi lên cơn tức giận, khi nhớ lại Vigo, cái lưỡi trai, Sở Cẩm và những hành lang vắng vẻ và im lặng của Toà lãnh sự và cảm thấy dưới tay mình làn da quen thuộc, tôi suy nghĩ: “Hay chỉ có tôi là người duy nhất thực sự thương yêu Pyle".
Cái buổi sáng tôi tới quảng trường trước khách sạn Continental, tôi đã chán ngấy các ông bạn đồng nghiệp trong làng báo chí Mỹ, người lớn mà vẫn con nít, kềnh càng và ồn ào, lúc nào cũng tuôn ra những lời châm biếm chua chát đối với người Pháp, dù sao họ cũng là những người phải đánh nhau trong cuộc chiến tranh này. Từng thời kỳ, khi một cuộc giao chiến chấm dứt, khi mọi việc đã được xếp đặt đâu vào đó, những người chết và bị thương đã được mang khỏi chiến trường, họ được mời ra Hà Nội, phải bay non bốn giờ, nghe một bài diễn thuyết của vị tổng tư lệnh và ngủ một đêm tại một trại báo chí, nơi mà họ cho rằng có người phục vụ rượu cừ nhất toàn Đông Dương; người ta cho họ bay trên nơi vừa diễn ra trận đánh, ở độ cao nghìn mét, ngoài tầm bắn của đại liên; họ lại được đưa trở về một cách an toàn, đỗ xuống khách sạn Continental, ồn ào như một đám học sinh sau một buổi đi ăn bữa cơm ngoài trời.
Pyle lặng lẽ, hắn có vẻ khiêm tốn, đôi lúc trong ngày đầu tiên đó, tôi phải cúi xuống mới nghe rõ hắn nói gì. Và hắn nghiêm trang, rất nghiêm trang. Nhiều lần, hắn như tự co lại khi nghe thấy những tiếng ồn ào mà các nhà báo Mỹ gây ra từ tầng gác cao nhất, tầng mà những người dân thường cho rằng không thể đáp lựu đạn tới được. Nhưng hắn không chỉ trích ai.
- Anh đã đọc York Hardin chưa? - Hắn hỏi tôi.
- Chưa. Chưa, tôi tin rằng tôi chưa đọc. Anh ta viết những gì?
Pyle chăm chăm nhìn một cửa hàng bán những đồ uống làm từ sữa bên kia đường phố và nói một cách mơ màng:
- Bên kia như có một dòng suối sô-đa ngon lành.
Tôi tự nghĩ có một chiều nhớ tổ quốc sâu thẳm nào đó đã khiến hắn chọn một điểm để ngắm nghía một cách kỳ lạ như vậy giữa bao nhiêu thứ trong cái quang cảnh nước ngoài lạ lùng này. Nhưng nghĩ lại bản thân khi lần đầu tôi đi dọc phố Catina, tôi chẳng trước hết chú ý tới tủ hàng trưng bày những lọ nước hoa mang nhãn hiệu Guelin là gì và tôi thấy ấm lòng nghĩ rằng từ đây về châu Âu cũng chỉ mất 30 giờ đồng hồ. Hắn ta như luyến tiếc mãi khi thôi không nhìn cửa hàng bán sữa. Hắn nói:
- York đã viết một cuốn sách nhan đề Những bước tiến của Trung Hoa đỏ. Đó là một cuốn sách rất sâu sắc.
- Tôi chưa đọc. Anh quen với tác giả à?
Hắn gật đầu một cách trịnh trọng và lại chìm đắm trong một sự im lặng, lát sau, hắn nói để làm thay đổi cái cảm giác hắn có thể gây cho tôi:
- Tôi cũng không quen tác giả nhiều lắm. Thật ra tôi chỉ gặp anh ta có hai lần.
Điều hắn làm tôi ưng ở hắn là hắn chỉ dám cho mình quen biết anh chàng … anh chàng gì nhỉ? … À York Hardin, là một sự khoác lác. Sau này tôi mới hiểu, hắn ta vô cùng kính nể những người mà hắn gọi là những nhà văn nghiêm chỉnh. Cái từ này loại trừ những người viết tiểu thuyết, những nhà thơ và những nhà viết kịch, trừ khi họ đi vào đề tài mà hắn gọi là đương đại và ngay cả trong trường hợp này, tốt hơn hết là đi thẳng vào sự kiện, vào những tư liệu nguyên thô như người ta thấy trong tác phẩm của York.
- Anh phải biết rằng khi người ta sống lâu năm tại một nước, tôi nói, - thì người ta hết muốn đọc những cuốn sách viết về nước đó.
- Lẽ tất nhiên, tôi quan tâm đến việc những người sống tại chỗ có những điều gì muốn nói, - hắn thận trọng trả lời tôi.
-Sau đó anh thẩm tra lại qua các tác phẩm của York.
- Đúng vậy - Có lẽ hắn ta nhận được ý mỉa mai trong câu hỏi của tôi, vì hắn nói thêm với vẻ lễ độ thường có. Tôi tự coi như được rất ưu đãi nếu anh dành được một chút thời giờ cho tôi biết những điểm chính của tình hình. Anh hiểu đấy: York đã xa nơi đây hơn hai năm rồi.
Thái độ sòng phẳng của hắn đối với Hardin làm tôi vui lòng dù Hardin là ai đi nữa. Hắn không giống như những tên bạn của hắn chỉ biết chê bai và trâng tráo một cách ấu trĩ.
- Chúng ta hãy làm thêm một chai bia thứ hai, tôi nói, tôi sẽ thử cho anh hiểu về tình hình hiện nay.
Tôi bắt đầu nói và hắn nhìn tôi chăm chú như một học trò ngoan. Tôi giải thích về tình hình phía Bắc - xứ Bắc Kỳ - nơi mà hiện nay người Pháp đang cố bám lấy châu thổ sông Hồng, nó gồm cả Hà Nội và cái cảng độc nhất của miền Bắc là Hải Phòng. Đó là nơi có những cánh đồng lúa và khi gió mùa về là lúc diễn ra cuộc chiến đấu hàng năm để giành giật thóc gạo.
- Đấy là tình hình miền Bắc, tôi nói, những ngưòi Pháp tội nghiệp có thể cầm cự được, nếu những người Trung Hoa không tới giúp đỡ cho Việt Minh. Đây là một cuộc chiến tranh giữa nơi rừng núi và ruộng lầy, những nơi người ta lội nước đến tận vai và quân thù bỗng biến mất, chôn vũ khí và khoác bộ áo nông dân vào người… Nhưng họ có thể chết mục giữa những tiện nghi đầy đủ trong sự ẩm ướt của Hà Nội. Họ không thả bom xuống đó, trời cũng không hiểu tại sao. Người ta có thể nói đó là một cuộc chiến tranh kiểu chính quy.
- Còn ở miền Nam này?
- Người Pháp kiểm soát được những đường giao thông chính cho tới bảy giờ chiều; sau đó họ kiểm soát được các chòi canh và một phần của các thành phố. Điều này không có nghĩa rằng ở đây được an toàn, vì nếu thế thì chẳng cần có lưới thép trước các tiệm ăn nữa.
Không biết bao nhiêu lần tôi đã phải giải thích về những điều này. Tôi thấy tôi như một cái đĩa hát mà người ta quay cho bất kỳ kẻ nào mới tới nghe: những nghị viên của Quốc hội, ngài bộ trưởng mới của Anh quốc… Có khi tôi thức giấc ngay giữa đêm, miệng nói lảm nhảm: “Hãy xem trường hợp những người theo đạo Cao Đài hay những ngưòi theo đạo Hoà Hảo, bọn Bình Xuyên hay tất cả những đội vệ binh đánh nhau thuê vì tiền hay vì thù hằn lẫn nhau". Những người nước ngoài coi đó thật ngoạn mục, nhưng có điều gì là đẹp đẽ trong sự ngờ vực hay phản trắc?
- Và bây giờ, - tôi nói tiếp, - là tướng Trịnh Minh Thế. Lão ta đã là tham mưu trưởng của quân đội Cao Đà, nhưng đã đi vào rừng để đánh lại cả hai bên, quân Pháp và quân Cộng sản …
- York đã viết, - Pyle nói, - rằng cái cần phải có ở phương Đông là một lực lượng thứ ba.
Có lẽ lúc đó tôi đã phải nhận thấy trong mắt hắn ánh lên sự cuồng tín, thấy sự phản ứng mau lẹ của hắn trước những công thức đã được thừa nhận, hay trước ma lực của những số thứ tự như Đội quân thứ năm, Lực lượng thứ ba, Ngày thứ bảy. Tôi đã tránh được cho tất cả mọi người cho cả Pyle nữa, biết bao nhiêu sự phiền toái, nếu như tôi hiểu được bộ óc non trẻ và không mệt mỏi của hắn đang hoạt động theo phương hướng nào. Nhưng tôi đã để hắn trước cái hậu cảnh lởm chởm những thây ma đó và tôi đi bách bộ hàng ngày dọc phố Catina. Hắn phải tự tìm hiểu được cái hậu cảnh thật, cái hậu cảnh nó giữ người ta ở lại đây mãnh liệt như một thứ hương thơm: những cánh đồng rực vàng khi mặt trời sắp lặn nom dẹt đi; những chiếc vó mắc vào bộ gọng mảnh khảnh bay lên bay xuống như những con muỗi khổng lồ trên những cánh đồng; những chén nước trà uống với vị thầy tu già trên gác thượng của tu viện, bên chiếc giường, cuốn lịch quảng cáo, những chiếc xô, chiếc chén mẻ, như những vật trôi giạt của cả một cuộc đời mà thời gian đã vứt bỏ lại quanh chiếc ghế tựa của thầy; những chiếc nón lá của các cô con gái sửa đường nơi một quả mìn vừa nổ; màu kim tuyến, màu xanh non và chiếc áo dài sặc sỡ ở miền Nam; màu nâu thẫm, những bộ quần áo thâm, vòng núi do phía bên kia chiếm giữ, tiếng máy bay ù ù ở miền Bắc. Khi mới tới, tôi đếm từng ngày trên cuốn lịch. Tôi tưởng tôi gắn bó với cái gì còn sót lại của một quảng trường thành phố Blombre, với chuyến xe hơi công cộng số 73 chạy qua cổng Oston và với cái quán ăn tại quảng trường Torington khi mùa xuân tới. Lúc này dù hoa huệ hay tulip có thể đang nở trong công viên, tôi cũng chẳng hề quan tâm. Tôi chỉ ham sống những ngày có những tiếng nổ đanh gọn, có thể là tiếng nổ của xe máy hay của lựu đạn, tôi chỉ muốn nhìn theo bóng dáng những người mặc quần lụa thâm duyên dáng đi lại trong bầu không khí nóng ẩm của phương Nam, tôi chỉ ao ước Phượng và tổ ấm của tôi đã xê dịch đi tới mười lăm nghìn ki-lô-mét.
Tôi đi vòng qua dinh Cao uỷ, nơi những tên lính lê dương đội mũ kê-pi trắng và đeo ngù vai sặc sỡ đứng gác, qua đường sát Nhà thờ Lớn và lộn lại dọc theo tường của Sở Liêm phóng Việt Nam, nơi mùi nước tiểu và cả sự bất công toả ra sặc sụa. Và những cái đó cũng trở thành của quê tôi y như những hành lang tối om trên tầng gác cao của nhà tôi xưa, những nơi mà lúc nhỏ người ta cố tránh. Những số mới xuất bản của những tờ tạp chí khiêu dâm như cấm kỵ và ảo ảnh, đã được trưng bày ở các giá hàng, gần với bến cảng; những lính thuỷ nốc rượu bia trên vỉa hè; những cái đích rất ngon cho một quả bom tự tạo. Tôi nghĩ tới Phượng lúc này có lẽ đang mặc cả mua cá tại đường phố thứ ba về phía tay trái, trước khi cô đi ăn nhẹ ở hiệu bán sữa vào hồi mười một giờ, vào thời đó, tôi có thể tìm thấy Phượng bất cứ ở đâu và vào giờ nào và tất nhiên đầu óc tôi không cần bận tâm nghĩ đến Pyle nữa. Tôi cũng chẳng nói về hắn ta với Phượng khi chúng tôi ăn bữa sáng ở phòng tôi, trên gác khách sạn phố Catina. Hôm đó, Phượng mặc chiếc áo dài lụa hoa đẹp nhất của cô, vì hôm đó là ngày kỷ niệm hai năm trước đây chúng tôi gặp nhau ở Chợ Lớn, tại nhà Đại thế giới.
CHƯƠNG 3
Chúng tôi không ai nói đến tên hắn khi ngủ dậy, sau hôm hắn chết Phượng đã dậy trước khi tôi tỉnh ngủ và đã pha trà xong. Người ta ai lại còn ghen với người đã chết và sáng hôm đó tôi thấy như dễ dàng sống lại với Phượng cuộc sống ngày xưa.
- Tối nay cô ở lại đây? - Tôi hỏi Phượng với một vẻ cố làm ra tự nhiên nhất, khi tôi ăn chiếc bánh sừng bò.
- Em phải đi mang hòm của em về.
- Có lẽ cảnh binh đang ở đó. Để tôi đi cùng cô thì hơn.
Trong những lời chúng tôi nói với nhau ngày hôm ấy đó là những câu bóng gió gần nhất về hắn.
Pyle có một căn hộ trong một biệt thự mới gần phố Duranton, một phố kề ngay những đại lộ mà người Pháp luôn chia lại để gán cho những tên tướng của họ, vì thế mà quãng phố De Gaul từ ngã tư thứ ba trở thành phố Le Clerc và phố này trước sau chắc sẽ đột nhiên thành phố De Late. Chắc có một nhân vật quan trọng nào từ Âu châu vừa đáp máy bay sang, vì cứ 20 m lại có một cảnh binh đứng gác, mặt quay ra phía hè đường, trên con lộ dẫn tới dinh Cao uỷ.
Trên con đường đi trải sỏi đi đến nhà Pyle có nhiều xe máy đỗ: một viên cảnh sát người Việt xem tấm thẻ phóng viên của tôi. Hắn cấm không cho Phượng vào trong nhà và tôi đi tìm một sĩ quan người Pháp. Trong phòng tắm của Pyle, Vigo đang rửa tay bằng xà phòng của Pyle và cũng dùng khăn mặt của Pyle để lau tay. Cánh tay áo bằng vải trắng của y có vết dầu ăn; dầu của Pyle, tôi đoán như vậy.
- Có gì mới không? - Tôi hỏi.
- Chúng tôi thấy xe hơi của Pyle vẫn ở trong nhà chứa xe. Bình xăng rỗng. Đêm qua chắc hắn đi bằng xe tay, hay đi nhờ xe người khác. Có lẽ họ đã lấy hết xăng của xe hắn.
- Có lẽ hắn đi bộ, - tôi nói - Anh hiểu người Mỹ tính nết ra sao rồi đấy.
- Xe hơi của anh bị đốt cháy rồi phải không? - Vigo tư lự nói tiếp - Anh không thay xe mới à?
- Không.
- Điều này cũng chẳng quan trọng lắm.
- Đúng thế.
- Anh có ý kiến gì không?
- Lắm ý kiến đấy.
- Nói nghe xem nào.
- À, hắn có thẻ bị Việt Minh giết. Họ đã giết khối người ở Sài Gòn. Xác hắn được tìm thấy ở gần cầu Đa Kao, mảnh đất của Việt Minh kiểm soát sau khi đêm đến, cảnh binh của các anh rút về. Hoặc hắn bị bọn liêm phóng Việt Nam giết, điều này có lần xảy ra. Có lẽ họ không ưng những người mà Pyle hay lui tới. Hắn cũng có thể bị bọn Cao Đài giết vì hắn quen với tướng Thế.
- Hắn quen với tướng Thế thật à?
- Có tin đồn như vậy. Có khi lại chính tướng Thế giết hắn vì hắn quen với bọn Cao Đài. Hay có thể bọn Hoà Hảo giết, vì hắn chấp chới với những bà vợ bé của tướng Thế. Trừ khi đơn giản hơn là người ta thịt hắn đi để lấy tiền.
- Hay vì ghen tuông thôi, - Vigo nói
- Cũng không nên quên cánh liêm phóng Pháp, - tôi tiếp, - Bọn này có lẽ không tán thành các hoạt động của hắn. Anh định tìm ra thủ phạm thật đấy à?
- Không. Tôi chỉ làm một bản báo cáo thôi. Hãy coi đó là một việc xảy ra trong cuộc chiến… mỗi năm có hàng nghìn người bị giết.
- Xin anh hãy loại tên tôi ra, - tôi nói - ra khỏi tất cả những gì liên quan - tôi nhắc thêm.
Điều này như một tuyên ngôn về thái độ của tôi. Phận làm người là thế, người ta đánh nhau, yêu nhau, ám sát lẫn nhau, tôi không muốn dính dáng vào đó. Những đồng nghiệp của tôi tự xưng là phóng viên, tôi ưng cái tên phóng viên, người đi làm phóng sự. Tôi viết ra những điều tôi nhìn thấy, tôi không hành động, có một quan điểm cũng là một cách hành động.
- Anh tới đây làm gì?
- Tôi lấy đồ của Phượng. Người của anh không cho cô ta vào.
- Thì cùng đi xem có thấy gì không?
- Vigo tử tế quá đấy!
Căn hộ của Pyle gồm hai phòng, một ngăn bếp và một phòng tắm. Chúng tôi vào trong buồng ngủ. Tôi đã biết nơi Phượng để hòm của cô, dưới cái giường. Chúng tôi lôi hòm ra: Hòm chỉ đựng sách tranh của cô. Tôi lấy từ tủ đứng ra những bộ đồ lèo tèo mà cô dùng để thay đổi, hai áo dài mới và một chiếc quần. Người ta có cảm tưởng là những thứ đó mới mắc ở đây vài giờ, không nằm trong bối cảnh của nhà này; chúng chỉ như tạt qua, như một con bướm lạc vào phòng. Trong một ngăn tủ, tôi thấy những chiếc quần lót hình tam giác và bộ khăn quàng của cô. Không có gì nhiều lắm để chứa vào hòm, ít hơn cả những đồ mà một người khách mang theo khi được mời đến nghỉ cuối tuần.
Trong phòng khách hẹp có tấm ảnh Phượng chụp chung với Pyle tại Thảo cầm viên, cạnh một con rồng đá lớn. Cô ta cầm dây buộc con chó của Pyle, một con chó giống Tàu lông đen, lưỡi đen. Tôi đút ảnh vào trong hòm.
- Con chó ra sao? - Tôi hỏi.
- Không thấy ở đây. Chắc hắn dắt theo.
- Có khi nó sẽ trở về và anh có thể nghiên cứu chất đất dính vào chân nó.
- Tôi không là Le Coq, cũng không là Megré và đang thời chiến mà.
Tôi đi qua phía kia phòng, xem hai ngăn đựng sách: thư viện của Pyle. Những bước tiến của Trung Hoa đỏ, Thách thức nền dân chủ, Vai trò của phương Tây. Tôi đoán đó là toàn bộ tác phẩm của York Hadin. Có hàng tập biên bản những cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ, một cuốn sách học tiếng Việt, một cuốn lịch sử chiến tranh ở Phi Luật Tân, một cuốn sách của Shakespeare do Nhà xuất bản Thư viện Cận đại ấn hành. Hắn giải trí như thế nào? Tôi tìm thấy tại một ngăn khác những cuốn sách khác nhẹ nhàng hơn là một tác phẩm của Thomas Walfer, loại sách bỏ túi và một hợp tuyển bí hiểm mang tên: Cuộc chiến thắng của sự sống. Ngoài ra, có một số tác phẩm của các nhà thơ Mỹ. Có cả một cuốn sưu tập các ván cờ. Sau một ngày làm việc, đọc những thứ này thì không có gì giải trí lắm, nhưng, tính đến cùng đã có Phượng. Giấu sau cuốn hợp tuyển, có một cuốn sách bìa mỏng mang tên Sinh lý học trong sự kết hôn. Có lẽ hắn đã nghiên cứu về quan hệ nam nữ, cũng như đã nghiên cứu về Phương đông toàn qua sách. Và cái từ chìa khoá ở đây chữ kết hôn. Pyle là người theo quan điểm bao giờ cũng phải có sự cam kết hẳn hoi.
Bàn giấy của hắn không còn vương tí gì.
- Anh đã thu quét sạch giấy tờ, - Tôi nói.

- Ồ, tôi đã phải làm tất cả những việc đó nhân danh đoàn đại diện Mỹ, - Vigo nói, - Anh hiểu đó, những tin đồn lan đi rất nhanh. Căn nhà có thể bị vào lục soát cướp bóc sạch. Tôi đã cho niêm phong tất cả những giấy tờ của hắn.
Vigo nói rất nghiêm túc, không hề có cười cợt chút nào.
- Có những giấy tờ gì có thể gây phiền hà?
- Chúng tôi không thể tự cho phép mình thấy giấy tờ làm phiền hà liên lụy đến ai tại nơi ở của một người đồng minh, - Vigo đáp.
- Anh có cho phép tôi cuỗm đi một cuốn sách để làm kỷ niệm không?
- Tôi sẽ quay mặt đi, làm như không thấy.
Tôi chọn cuốn Vai trò phương Tây của York Hadin và nhét vào hòm cùng với quần áo của Phượng.
- Trên tình bạn thân, - Vigo hỏi, - Anh có điều gì có thể nói riêng với tôi không? Báo cáo của tôi đã làm xong và chấm hết. Pyle bị cộng sản ám sát. Có lẽ việc giết người này bắt đầu cho một chiến dịch chống lại viện trợ cho Mỹ. Nhưng riêng giữa tôi với anh… Này, nói với nhau ở đây thì khát đến bỏng họng mất, ra góc phố làm một cốc Vemus Catse đi, anh nghĩ sao?
- Chưa đến giờ.
- Hắn ta có tiết lộ điều gì với anh trong lần chót hai người gặp nhau không?
- Không.
- Bữa đó là ngày mấy nhỉ?
- Sớm qua, sau vụ nổ lớn…
Anh ta lặng yên, như để những điều tôi nói có thì giờ thấm vào trong óc của… tôi, chứ không phải vào trong óc của anh ta. Anh ta hỏi tôi một cách rất thật thà:
- Chiều qua, khi hắn tới thăm thì anh không có nhà hay sao?
- Chiều qua à? Chắc tôi đi vắng. Tôi nhớ không rõ…
- Một ngày nào đó, chắc anh sẽ cần có một thị thực để xuất cảnh. Anh biết rằng chúng tôi có thể để om cái thị thực đó vô thời hạn?
- Anh tưởng thật rằng tôi muốn trở về nước hay sao?
Vigo nhìn qua cửa sổ ra phía ánh nắng chói chang, trời không có lấy một bóng mây.
- Nhiều người lại muốn được trở về quê hương đấy, - Anh ta nói một cách buồn rầu.
- Tôi ở đây thấy dễ chịu hơn. Về nhà, tôi sẽ gặp phải… khối vấn đề.
- Mẹc! - Vigo thốt ra, - Tuỳ viên thương mại Mỹ đã đến kia (anh ta nhắc lại với một giọng chua chát): Tùy viên thương mại!
- Tôi chuồn thì hơn. Nếu không, hắn sẽ niêm phong cả tôi lại.
- Chúc anh gặp nhiều may mắn, - Vigo nói một cách mệt mỏi. Chắc hắn sẽ có lắm điều để nói chuyện với tôi đây.
Khi tôi ra cửa, viên tùy viên thương mại đứng cạnh chiếc xe Pắcca và cố giảng giải điều gì cho người lái xe. Đấy là một con người giữa hai trạc tuổi, to béo, bộ mông quá ư đồ sộ và bộ mặt như chưa hề biết đến tác dụng của con dao cạo. Hắn gọi tôi:
- Fowler! Anh có thể giảng cho tên lái xe đáng nguyền rủa này…
Tôi giăng họ hắn ta.
- Đây chính là những điều tôi vừa nói cho nó hiểu! - hắn kêu lên như vậy! - Nó cứ làm như không hiểu tiếng Pháp vậy.
- Đó có lẽ do cách phát âm.
- Tôi đã qua ba năm ở Paris. Cách phát âm của tôi đâu đến nỗi tồi quá đối với thằng cha người Việt này!
- Tiếng nói của nền dân chủ, - tôi nói.
- Anh nói cái gì vậy?
- Đó chắc là một tác phẩm của Yord Hadin.
- Tôi không hiểu anh (Hắn nghi ngờ ngó chiếc hòm tôi mang theo). Anh mang cái gì đấy?
- Hai đôi quần lụa trắng, hai áo dài lụa, những chiếc quần lót của phụ nữ, ba đôi thì phải. Toàn những sản phẩm của địa phương. Không có chút gì là của viện trợ Mỹ.
- Anh đã lên gác rồi à?
- Phải.
- Và đã hay tin?
- Phải.
- Đó thật là một điều ghê gớm, - hắn nói, - ghê gớm!
- Tôi đoán chừng rằng ngài bộ trưởng hẳn đã bị xúc động.
- Tôi tin rằng anh đã nói đúng. Hiện nay ngài đang làm việc với Cao uỷ và xin tiếp kiến với tổng thống. (Hắn đặt bàn tay lên cánh tay tôi và kéo tôi ra xa những chiếc xe hơi). Anh quen biết thân với anh chàng Pyle trẻ tuổi đấy chứ? Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng một việc như vậy đã đến với anh ta. Tôi đã từng gặp cụ thân sinh ra anh ta, Giáo sư Haron C. Pyle. Anh đã nghe ai nói về ông ta chưa?
- Chưa hề.
- Ông ta là một nhân vật cỡ toàn cầu về khoa xói mòn dưới biển. Anh đã nom thấy ảnh ông ta trên bìa tờ tạp chí Taimơ tháng trước không?
- Ờ, bây giờ hình như tôi nhớ ra rồi. Ở phía trước là cặp kính gọng vàng và một bờ biển đang sụp đổ làm nền cho ảnh.
- Đúng ảnh ông ta đấy. Tôi đã phải thảo bức điện cho người ta gửi đi. Một nghĩa vụ đau xót. Tôi đã yêu quý người bạn trẻ đó như yêu chính con tôi.
- Điều đó làm anh là một người thân thiết với ông cụ thân sinh?
Hắn quay lại tôi, cặp mắt màu nâu ứa lệ:
- Sao anh lại nói thế nhỉ? Đó không phải là cách nói khi một người trẻ tuổi đáng mến…
- Xin lỗi nhé, - tôi nói, - cái chết không gây ra cảm xúc như nhau đối với tất cả mọi người (có lẽ hắn thực sự mến Pyle). Trong điện anh đã viết những gì?
Hắn tưởng tôi hỏi thật thà và trả lời một cách rất nghiêm chỉnh:
- Rất đau lòng báo tin để cụ biết con trai cụ đã hy sinh như một chiến sĩ đấu tranh vì lợi ích của nền dân chủ. Ngài bộ trưởng đã ký điện.
- Hy sinh như một chiến sĩ, - Tôi nói, - Điều đó có gây nên một sự mơ hồ không? Tôi muốn nói là mơ hồ đối với người trong gia đình Pyle. Phái đoàn viện trợ Mỹ không nên để nhập cục với quân đội. Người ta có phát cho anh ta huân chương Trái tim đỏ thắm không?
Bằng một giọng trầm, như nghẹn ngào về sự nhập nhằng, hắn tiết lộ với tôi:
- Anh ta được giao một nhiệm vụ đặc biệt.
- Rõ, rõ, mọi người đều đã đoán ra được.
- Nhưng chính anh ta không tiết lộ gì chứ?
- Ồ không, - tôi nói. Và câu nói của Vigo lại vẳng bên tai tôi: “Đó là một người Mỹ rất trầm lặng".
- Anh có điều phỏng đoán gì về nguyên nhân của vụ sát hại này không? Hay về hung thủ?
Tôi thấy như giận sôi lên. Tôi đã chán ngấy tất cả bọn này rồi. Họ với trữ riêng về coca cola, với những trạm cứu thương nhỏ lưu động, với những chiếc xe hơi to kềnh và những khẩu đại bác không phải là kiểu cổ.
- Có, - tôi đáp - Người ta đã giết hắn vì hắn ngây thơ quá không sống nổi. Hắn còn trẻ, dốt nát, dại dột và hắn đã dính vào những việc không có liên quan gì đến mình. Hắn không hiểu gì hơn anh về những điều đang diễn ra ở đây, và các anh đã đưa cho hắn tiền nong, sách của York Hadin viết về Phương đông; rồi các anh đã bảo hắn: “Lên đường đi. Hãy tới giác ngộ Phương Đông về nền dân chủ". Hắn nào thấy gì về những điều hắn đã nghe tả tại một phòng diễn thuyết; và những người viết, những người lên diễn thuyết và đã lừa bịp hắn. Đứng trước một thi hài, hắn không phân biệt nổi những thương tích. Sự đe doạ của cộng sản, chiến sĩ của nền dân chủ đấy!
- Tôi tưởng anh là bạn thân của Pyle - Viên tuỳ viên nói với tôi một cách đầy trách móc.
- Tôi thật sự là người bạn thân của hắn. Tôi ao ước được thấy hắn bận rộn với việc đọc những phụ trương báo ngày chủ nhật ở ngay nhà hắn và chăm chỉ đi xem những trận đánh bóng chầy. Tôi ao ước được thấy hắn sống xa sự hiểm nghèo cạnh một cô bé người Mỹ đúng với khuôn mẫu, có đăng ký làm hội viên của một câu lạc bộ đọc sách.
Hắn ho ho như để đỡ tắc họng, rồi rất ngượng ngập, hắn trả lời:
- Lẽ tất nhiên. Tôi đã quên mất câu chuyện đáng tiếc kia. Tôi đã đứng hẳn về phía anh không dè dặt gì, anh Fowler ạ. Hắn quả không biết cách cư xử. Tôi chẳng ngại nói rằng tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn về vấn đề người phụ nữ đó. Anh biết đấy, tôi đã có cái may là quen biết Giáo sư Pyle và phu nhân.
- Vigo đang chờ anh, - Tôi nói và bỏ đi.
Lúc này, hắn vừa nhận ra Phượng; khi quay đầu lại, tôi thấy hắn nhìn theo tôi với vẻ buồn bã và băn khoăn: đúng là ông anh to đầu muôn thủa này đã không hiểu gì hết.
CHƯƠNG 4
Lần đầu tiên Pyle gặp Phượng, cũng lại là ở khách sạn Continental, hai tháng sau khi hắn tới Việt Nam. Lúc chập tối, trong bầu không khí mát mẻ ngắn ngủi tiếp theo sau khi mặt trời lặn và những cây nến đã được thắp lên tại các quầy hàng của các phố ngang dọc. Những con xúc xắc đổ lách cách xuống những bàn có những người Âu chơi và dọc theo phố Catina, những người phụ nữ trẻ quần lụa trắng đạp xe đi về nhà. Phượng uống một cốc nước cam vắt, tôi uống bia, hai chúng tôi lặng im, rất hài lòng được sống chung với nhau. Lúc đó Pyle lại gần, tìm cách nhập bọn và tôi giới thiệu hai người với nhau. Hắn ta có một cách nhìn kỳ lạ, nhìn trân trân những người phụ nữ y như từ nhỏ chưa gặp người đàn bà nào, sau đó hắn đỏ ửng mặt.
- Không rõ, - hắn nói - tôi có được phép mời bà và ông sang bàn của tôi không? Một trong những vị tùy viên… đó chính là tùy viên thương mại. Viên này từ trên sân thượng nghiêng xuống phía chúng tôi bộ mặt tươi rói, và nụ cười hể hả rộng mở như một lời hoan nghênh, chứa chan niềm tin, cái miệng cười của con người giữ được cả bạn bè vì nó biết dùng những loại thuốc khử mùi hảo hạng. Tôi đã nhiều lần nghe nói tên anh chàng Jo này, nhưng chưa hề biết đầy đủ cả tên lẫn họ. Hắn ầm ĩ giở trò kéo thêm ghế, gọi người phục vụ, tuy rằng ở cái khách sạn Continental này những trò đó cũng không làm xuất hiện thêm thức gì ngoài bia, cognac, soda và vemus casi.
- Tôi không ngờ được gặp anh ở đây, anh Fowler, - Jo nói. - Tôi đang chờ cánh chúng tôi sắp từ Hà Nội về. Hình như ở ngoài đó đánh nhau lớn thì phải. Anh không đi với họ à?
- Tôi đã ngấy cái việc bay trong 4 giờ để dự một cuộc họp báo rồi.
Hắn nhìn tôi với vẻ không tán thành.
- Bọn chúng tôi - hắn nói - rất hăng máu. Tôi biết, nếu họ muốn thì có thể kiếm gấp đôi khi đi làm cho đài phát thanh hay các việc kinh doanh khác, mà lại không bị nguy hiểm.
- Có lẽ ở đó người ta bắt họ làm việc.
- Họ như ngựa chiến ngửi thấy mùi thuốc súng - Jo tiếp tục say sưa nói, không hề để ý đến những ý kiến làm hắn không hài lòng. - Xem Bill Grand chẳng hạn, làm sao mà kìm chân lão ta khi có choảng nhau ở một nơi nào đó?
- Anh nói đúng hoàn toàn đấy - tôi đáp - hôm nay, tôi thấy anh chàng đứng giữa vụ choảng nhau ở quán rượu tại tiệm Sporkting.
- Anh hiểu thừa ra rằng tôi không định nói về loại choảng nhau đó.

Hai chiếc xe xích lô từ phía phố Catina xuống, chạy thật nhanh và hãm lại một cách rất ngoạn mục trước khách sạn Continental. Grăngtơ ngồi trong chiếc xe đầu. Chiếc xe thứ hai chở một ụ thịt xám xịt và lặng lẽ, mà Grand ra sức lôi kéo cho rơi xuống vỉa hè. "Đi lên, Mich, đi lên nào" - Grand vừa kéo vừa nói. Rồi hắn cãi lộn với người đạp xích lô về tiền công. “Thì đây, không lấy thì thôi", nói rồi hắn vứt xuống vỉa hè số tiền đáng giá 5 lần tiền công với mục đích buộc người đạp xích lô phải cúi xuống nhặt lên.
Viên tùy viên, trong tình trạng bị kích động, nói:
- Những anh bạn tội nghiệp cũng phải xả hơi một chút.
Grand vứt xác nặng của hắn lên một cái ghế bành. Đột nhiên nhìn thấy Phượng, hắn nói:
- Ê này, ông bạn già Jo, … hay quá nhỉ, cậu kiếm được của này ở đâu đấy? Tớ chẳng bao giờ ngờ cậu lại có mèo đấy. Xin lỗi tớ đi vào nhà tiêu đã. Chăm sóc Mich hộ với!
- Rõ đồ lính tẩy! – tôi nói.
Pyle lại đỏ mặt, trịnh trọng nói:
- Nếu biết trước, tôi đã không dám mời cả hai bạn…
Cái đầu màu xám ngọ nguậy trong chiếc ghế bành, rồi cái đầu rơi bịch xuống bàn y như nó không dính vào đây cả. Từ đống đó một tiếng thở dài phát ra, rồi đến tiếng rít chán chường không có gì đo được, rồi tất cả lại rơi vào sự im lìm.
- Anh có quen anh bạn này không? - tôi hỏi Pyle.
- Không. Chẳng rõ hắn có thuộc vào đoàn phóng viên?
- Tôi thấy Bill gọi anh ta là Mich - Anh chàng tùy viên đáp.
- Hình như có một phóng viên mới của hãng UP.
- Không phải anh này. Tôi quen với hắn. Hay người của phái đoàn kinh tế của anh? Làm sao mà anh biết tất cả người của anh được. Họ đông tới hàng trăm người.
Tôi không tin rằng hắn là người của phái đoàn. Tôi không nhớ đã gặp hắn lần nào.
- Ta hãy tìm xem giấy căn cước của hắn, - Pyle gợi ý.
- Tôi xin can, đừng đánh thức hắn. Một người say đã quá đủ rồi. Vả lại Grand quen với hắn.
Nhưng Grand cũng không biết nổi hắn là ai. Y mặt rầu rĩ từ nhà tiêu đi ra, hằn học hỏi
- Ả này là ai thế?
- Cô Phượng là người tình của ông Fowler - Pyle đáp lại một cách cứng rắn - Chúng tôi muốn biết ai…
- Ông ta kiếm được ả ở đâu thế? Trong thành phố này phải cẩn thận đó nhé. Ơn trời đã ban cho chúng ta thuốc penicilline
- Bill - viên tùy viên nói - Chúng tôi muốn biết Mich là ai.
- Không rõ.
- Nhưng anh mang hắn tới cơ mà?
- Bọn lính dù không xài được Whisky. Hắn chẳng còn biết trời đất là gì nữa.
- Thế hắn là người Pháp à? Tôi tin rằng đã nghe thấy anh gọi tên nó là Mich.
- Thì cũng phải gọi nó bằng một cái tên gì chứ! - Grand đáp (Hắn nghiêng sang phía Phượng) và hỏi: Hê, cô bé này, một cốc nước cam ép nữa nhé. Tối nay có ai chưa?
- Tất cả mọi tối cô ta đều có bạn rồi - tôi nói.
Tùy viên thương mại vội vã can thiệp:
- Bill, anh hãy nói về chiến sự đi.
- Đại thắng ở Tây Bắc Hà Nội. Người Pháp chiếm lại được hai làng. Họ chưa hề thông báo đã mất hai làng đó. Phía Việt Minh thiệt hại nặng. Người Pháp chưa có thì giờ tính những tổn thất của mình, nhưng một vài tuần nữa, chúng ta sẽ thông báo số thiệt hại đó.
- Có tin đồn rằng - tùy viên nói - Việt Minh đã đột nhập vào Phát Diệm, đốt nhà thờ và đuổi giám mục đi.
- Họ không muốn nói đến việc đó ở Hà Nội. Đó không phải là một chiến thắng.
- Một trong các đội cấp cứu của chúng ta chưa bao giờ đi được quá Nam Định - Pyle nói.
- Anh đã đi tới đó lần nào chưa, anh Bill? - Viên tùy viên hỏi?
- Anh coi tôi là người như thế nào? Tôi là một phái viên đi đâu phải có lệnh đi lại, nếu đi quá vi phạm quy định thì lộ tẩy ngay. Tôi đáp máy bay ra Hà Nội. Người ta đem xe ra rước về Trại báo chí. Họ cho bay trên hai thành phố họ vừa chiếm lại được và chỉ cho xem những là cờ tam tài treo trên đó. Bay ở độ cao như vậy thì, trời ơi, cho là cờ gì chẳng được. Sau đó chúng tôi dự một cuộc họp báo, ở đó một viên đại tá cho chúng tôi hiểu đã nhìn thấy những cái gì. Thế rồi chúng tôi thảo những bức điện đưa cho phòng kiểm duyệt. Rồi uống một vài loại rượu. Người phục vụ quầy rượu giỏi nhất Đông Dương. Thế rồi lên máy bay trở về.
Pyle cau mày ngắm cốc bia của mình.
- Anh tự đánh giá mình thấp quá đấy, anh Grand ạ - viên tùy viên nói. - Xem nào, cái bài viết về con đường số 66, anh cho nó cái tên là gì nhỉ? À, đại lộ của địa ngục. Thật chẳng thua gì Puliz 1. Anh hiểu tôi nói đến câu chuyện gì chứ: Con người quỳ trong chiến hào đầu bị chặt đứt và còn một người nữa thì anh nhìn thấy trong giấc mơ…
- Ồ, anh tưởng tôi đã thật sự đi dạo trên con đường chết tiệt đó hay sao? Stephan Kren 2 đã mô tả một cuộc chiến tranh mà chưa hề tới chiến trường. Tại sao tôi không làm được như vậy? Vả lại đây chỉ là một cuộc chiến tranh cướp thuộc địa quèn. Cho tớ uống đi. Rồi đi kiếm gái. Các anh đã có những bộ mông rồi. Tôi cũng đang cần mông đây.
- Anh cho rằng có điều gì thật trong những tin đồn về sự việc xảy ra ở Phát Diệm không? - Tôi hỏi Pyle.
- Tôi cũng không hay biết gì. Việc này có quan trọng không? - Tôi hỏi Pyle.
- Tôi cũng không hay biết gì. Việc này có quan trọng không? Nếu quan trọng thì tôi cũng muốn tới ngó qua xem.
- Quan trọng cho phái đoàn thương mại ư?
- Ồ, anh hiểu đấy, người ta không thể phân chia rạch ròi được. Công việc y tế cũng là một binh chủng, xét cho đến cùng là thế. Những người theo đạo Thiên Chúa ở đây chắc cũng chống cộng dữ lắm, phải không?
- Họ cũng móc ngoặc với cộng sản. Giám mục ở đó mua của cộng sản trâu bò và tre pheo để làm nhà. Tôi chưa dám nói họ đã là lực lượng thứ ba như York Hardin viết đâu, - tôi thêm vào để chọc Pyle.
- Chấm dứt cuộc họp thôi! - Grand la lên - Tôi không muốn tiêu phí cuộc đời ở nơi đây. Dạo một vòng qua nhà năm trăm gái điếm đi!
- Các bạn - cô Phượng và anh - có thể nhận lời ăn bữa tối với tôi không? - Pyle hỏi tôi
Grand ngắt lời, nói:
- Các cậu tới chén ở khách sạn Sale, trong khi tớ làm trò hôn hít ở những nhà lợp tôn ngay bên cạnh. Đi đi, Jo... Ít nhất anh cũng là một người đàn ông.
Tôi cho rằng chính lúc đó, khi tôi tự nghĩ đàn ông phải làm thế nào, lần đầu tiên tôi có thiện cảm với Pyle. Hắn ngồi hơi né ra để tránh Grand và xoay xoay cốc bia bằng những ngón tay, với một vẻ cố ý xa xôi.
- Tôi đoán - hắn nói với Phượng - Cô phải chán ngấy những câu chuyện … có liên quan đến xứ sở của cô, tôi định nói thế.
- Gì cơ ạ?
- Phải làm thế nào với Mich bây giờ? - viên tùy viên hỏi.
- Để mặc hắn ở đây - Grand đáp.
- Sao lại thế được, tên họ của hắn, chúng ta cũng không biết.
- Có thể đưa hắn đi cùng và để bọn gái làng chơi săn sóc cho.
Viên tùy viên phát ra một tiếng cười như trong quảng cáo: Mặt hắn giống hệt một bộ mặt trên màn ảnh vô tuyến truyền hình.
- Các người còn trẻ - hắn nói - muốn đi đâu thì đi. Tớ, tớ quá tuổi để làm các trò như các cậu. Tôi đưa anh chàng này về nhà tôi. Cậu bảo hắn ta là người Pháp à?
- Hắn nói tiếng Pháp.
- Các cậu đưa hắn vào xe tớ hộ.
Sau khi hắn đi rồi, Pyle đi chung một xe xích lô với Grand, còn Phượng và tôi cũng đi theo trên đường đi vào Chợ Lớn, trên một chiếc xe khách. Grand định lên cùng xe với Phượng, nhưng Pyle đã gạt hắn ra. Trong khi những người đạp xe đưa chúng tôi trên con đường ngoại ô dài tới cái thành phố Hoa kiều, một đoàn xe cơ giới Pháp vượt lên; trên một chiếc xe có một khẩu đại bác vươn cổ lên và một sĩ quan bất động và im lặng hệt như một pho tượng gỗ sau những chiếc tàu, dưới vòm trời đen thẫm, khum khum, nhẵn nhụi, dát đầy sao. Chắc lại có xảy ra xung đột với một đạo vệ binh, quân Bình Xuyên đang ngự trên đầu đại thế giới và tất cả các dòng sông bạc ở Chợ Lớn. Nước này đang nằm trong tay các sứ quân, y như một nước châu Âu thời Trung cổ vậy. Thế còn người Mỹ, họ ở đây làm gì? Ông Colome chưa tìm ra lục địa của họ sao?
- Anh chàng Pyle này coi bộ dễ thương - tôi nói với Phượng.
- Anh ta trầm lặng - Phượng nói.
Cái định ngữ này, mà Phượng là người đầu tiên dám cho hắn, sẽ dính với hắn như một biệt danh của một học sinh cho đến khi tôi nghe chính Vigo cũng gọi hắn như thế, khi cái anh chàng Vigo cặp mắt ẩn sau một cái lưỡi trai màu xanh, nói về cái chết của Pyle.
Tôi cho đỗ xe trước quán cơm Sale và nói với Phượng:
- Cô vào kiếm chỗ ngồi ăn. Tôi phải chăm sóc Pyle một chút.
Đây là cử chỉ theo bản năng của tôi: bảo vệ hắn. Chưa hề khi tôi nghĩ bản thân tôi cần phải có một sự bảo vệ lớn như vậy. Sự thơ ngây bao giờ cũng gửi cho sức mạnh hộ mệnh một lời cầu nguyện thầm lặng, trong khi đáng lẽ khôn ngoan hơn chúng ta phải tự vệ chống lại sự ngây thơ. Sự ngây thơ giống như một người câm mắc bệnh phong lại để rơi mất cả chiếc chuông báo hiệu, cứ đi lang thang khắp mọi nơi, tuy không hề có ác ý. Khi tới nhà năm trăm gái điếm, Pyle và Grand đã vào rồi, tôi hỏi ở bót quân cảnh gác ngoài cổng:
- Hai người Mỹ?
Một viên cai lê dương trẻ tuổi đang trực gác. Hắn ngưng việc lau khẩu súng ngắn, lấy ngón tay cái chỉ cho tôi chiếc cửa sau lưng hắn, và nói đùa một câu gì bằng tiếng Đức mà tôi không hiểu.
Trong cái sân lộ thiên rộng thênh thang, người ta đang giải lao. Hàng trăm người đàn bà nằm trên cỏ hay ngồi xổm trên gót chân nói chuyện với nhau. Người ta không buông rèm trước những ngôi nhà bao quanh sân và một cô gái mệt mỏi nằm trên giường, chân nọ chồng lên chân kia. Ở Chợ Lớn đang lộn xộn, binh lính bị cấm trại, gái điếm không có khách, một ngày chủ nhật cho xác thịt nghỉ. Chỉ có một số cô gái la lối, vừa đùa nghịch cho biết trong cái góc này, vẫn còn có sự làm ăn . Tôi lại nhớ tới mẩu giai thoại về một vị khách quý bị lột mất cả quần, mới trốn thoát vào bót cảnh sát. Ở đây, người thường không được bảo hộ khi vào săn trộm trên mảnh đất của nhà binh, thì phải tự bảo về mình và tự tìm cách thoát thân.
Tôi đã học được một kỹ thuật là chia rẽ để chiến thắng. Tôi đã chọn lấy một cô trong số đông đặc các cô bao vây tôi và tôi từ từ dẫn cô ta lại với Pyle và Grand đang vật lộn.
- Tôi già rồi - tôi nói - hết cả gân cốt rồi. (Cô gái cười một cách ngốc nghếch và áp người vào tôi). Anh bạn kia mới lắm tiền và khoẻ lắm.
- Bẩn thế! - Cô gái nói.
Tôi trông thấy Grand mặt đỏ ửng và đắc chí; hắn có thể cho rằng bọn gái bu lại do sự cường tráng của hắn. Một cô khoác tay Pyle và tìm cách kéo anh ta thoát khỏi vòng vây. Tôi đẩy cô gái tôi đã kéo theo vào giữa vòng và gọi:
- Lại đây, Pyle ơi.
Pyle nhìn qua đầu các cô và nói:
- Thật là ghê gớm, ghê gớm.
Mặt hắn nhợt nhạt, có thể do nhiều ngọn đèn khác màu chiếu vào. Tôi chợt nghĩ anh chàng có lẽ còn là trai tân. Tôi lại gọi:
- Lại đây, để mặc cho Grand.
Tôi nom thấy hắn đưa tay vào túi áo. Tôi tin rằng hắn định lôi ra tất cả tiền đỏ, tiền xanh để trong đó. Tôi sẵng giọng kêu lên:
- Đừng có làm trò ngốc. Anh sẽ gây ra một cuộc đánh lộn lớn bây giờ.

Cô gái lại lộn lại với tôi: Tôi lại đẩy cô vào trong vòng các cô đang bao vây Grand.
- Không, không - tôi nói - tôi là một người Anh nghèo, rất nghèo.
Nói rồi tôi nắm tay áo Pyle kéo ra khỏi đám đông; cô gái kia vẫn bám lấy cánh tay kia của hắn như một con cá mắc phải lưỡi câu. Vài ba cô gái định cản đường ra cổng của chúng tôi, nơi anh cai vẫn theo dõi, nhưng các cô này cũng không hăng lắm.
- Tôi phải làm gì với cô này, - Pyle hỏi.
- Cô ta sẽ không làm phiền anh nữa đâu.
Ngay lúc đó, cô bỏ tay Pyle và lại lao vào cuộc tranh nhau quanh Grand.
- Anh ta liệu có nguy không? - Pyle lo lắng hỏi.
- Hắn muốn có mông thì phải mông đấy.
Ở ngoài đường, đêm có vẻ rất yên tĩnh, ngoài việc một đoàn xe thiết giáp nữa vẫn do những người có vẻ quyết tâm kia lái đi.
- Ghê quá… - Pyle nói. - Không bao giờ tôi có thể ngờ thế được… (Và anh ta nói thêm một nỗi vừa buồn vừa sợ). Mà họ đẹp như thế!
CHƯƠNG 5
Anh ta không thèm khát được ở vào chỗ Grand. Anh ta than vãn rằng có những cái tốt đẹp - sắc đẹp và duyên dáng chắc chắn là những cái tốt đẹp - đã bị chà đạp đầy đọa. Pyle trông thấy điều đau khổ khi những điều đau khổ đó chọc vào mắt anh (Đó không phải là một lời mỉa mai: xét cho kỹ, nhiều người trong chúng ta cũng không trông thấy đâu).
- Về quán Sale thôi - tôi nói - Phượng đang chờ.
- Xin lỗi - anh ta nói - tôi quên phắt đi đấy. Đáng lẽ, anh không được xa cô ta.
- Có phải cô ấy gặp nhiều nguy hiểm đâu.
- Tôi tính đi hộ vệ cho Grand… (Anh ta lại bị chìm đắm trong những ý nghĩ của mình, những lúc bước qua cửa tiệm Sale, anh ta vẫn nói thêm như là nạn nhân của một sự khốn quẫn hắc ám). Tôi quên rằng còn có bao nhiêu người…
Phượng đã giữ cho chúng tôi một bàn ăn ngay sát vòng khiêu vũ và dàn nhạc chơi một bài 5 năm trước rất phổ biến ở Paris. Hai cặp người Việt nhỏ người, tinh tươm, đang nhảy với nhau, không ôm sát nhau, với vẻ lịch sự mà chúng tôi không sao bì được (Tôi nhận ra một trong hai cặp: vợ chồng viên kế toán của Đông Dương Ngân hàng). Người ta có cảm giác là họ không bao giờ ăn mặc luộm thuộm, không bao giờ nói một lời lạc điệu, không bao giờ là nạn nhân của một sự đam mê quá đáng. Trong khung cảnh của cuộc chiến tranh kiểu Trung cổ này, họ tượng trưng cho thế kỷ thứ 18 đang đi tới. Người ta chờ đợi ông Phạm Văn Từ ấy sáng tác những bài thơ cổ điển kiểu Augustin, nhưng do một sự bất ngờ tôi lại được biết ông đang nghiên cứu Wordsworth và làm thơ ca tụng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Ông nghỉ hè ở Đà lạt, nơi gần gũi nhất với không khí của những hồ kiểu Anh Cát Lợi. Khi đi qua, ông hơi nghiêng mình. Tôi tự hỏi phía trên cách đây 50 m, Grand đang làm gì để thoát thân.
Bằng một thứ tiếng Pháp phát ghét, Pyle xin lỗi Phượng vì đã phải để cô chờ lâu.
- Thật không sao tha thứ nổi - hắn nói.
- Các anh đã đi đâu? Phượng hỏi.
- Tôi đi theo Grand, hắn về nhà.
- Về nhà? - tôi nhắc lại và cười phá ra.
Và Pyle đã nhìn tôi như tôi là một Grand thứ hai vậy. Bỗng nhiên tôi tự nhìn tôi bằng cặp mắt của hắn. Quá tứ tuần, mắt hơi vân tím màu đỏ, bụng hơi xệ, một người tình vô duyên, hắn không ồn ào như Grand nhưng trơ trẽn hơi, ít ngây thơ hơn. Và trong thoáng lát, tôi như nhìn lại thấy Phượng như khi tôi gặp cô lần đầu, lúc cô đang khiêu vũ tại Đại Thế Giới 1 lượn sát bàn tôi, trong bộ đồ dạ hội màu trắng, 18 tuổi, dưới sự kèm cặp của bà chị, bà này quyết tâm làm cho cô kết hôn được một cách béo bở với một ông chồng người Âu. Một ông khách Mỹ đã mua phiếu rồi tới mời cô nhảy. Hắn, nếu không say một cách nguy hiểm, thì cũng ngà ngà và tôi đoán rằng vì mới bước chân đến đất nước này, hắn tưởng các cô chiêu đãi viên của Đại Thế Giới đều là gái điếm cả. Hắn đã ghì chặt cô bé ngay từ khi nhảy vòng đầu và cô ta vùng vằng bỏ chạy về ngồi cạnh bà chị, ông khách Mỹ cứ như bị pan, ngập giữa những người đang nhảy, không hiểu cái gì đã xảy ra và vì sao xảy ra. Và cô thiếu nữ mà tôi còn chưa biết tên thì điềm nhiên ngồi kia, uống từng ngụm nước cam nhỏ, rất tự chủ.
- Tôi rất hân hạnh… - Pyle nói với cách phát âm đáng tởm của hắn. Một lát sau, tôi thấy họ đang nhảy với nhau ở phía đầu phòng. Pyle giữ cô cách xa hắn đến nỗi như họ sắp sửa tuột khỏi tay nhau. Hắn nhảy rất dở, còn Phượng lại là người nhảy giỏi nhất mà tôi biết trong khi cô còn làm việc tại Đại Thế Giới.
Tôi phải ve vãn Phượng rất lâu và nhiều lúc đến nản chí. Giả thử tôi xin kết hôn đàng hoàng và cho cô một món của thì mọi việc đã dễ dàng và bà chị cô sẵn sàng biến mất một cách tế nhị và lặng lẽ mỗi khi chúng tôi gặp nhau. Nhưng suốt trong ba tháng, tôi không làm sao gặp riêng một mình cô được, dù chỉ là một lát trên ban công của khách sạn Magestic, bà chị từ phòng bên luôn gọi với ra, hỏi bao giờ thì đi về. Trên sông Sài Gòn, dưới ánh trăng, người ta bốc dỡ hàng từ một tàu vừa từ Pháp tới, tiếng chuông xe xích lô leng keng như tiếng chuông điện thoại, nghĩ lại những điều tôi đã nói với cô, tôi thấy mình có thể là một thằng cha đần độn, thiếu kinh nghiệm. Tôi trở về với cái giường của tôi phố Catina không một bóng hy vọng và tôi không bao giờ có thể tượng được rằng, bốn tháng sau, cô đã nằm dài cạnh tôi, hơi hổn hển thở và cười như cô cũng ngạc nhiên, thấy không có cái gì giống với những điều đã dự kiến
-Ông Fowler! …
Vì nhìn theo họ nhảy với nhau, tôi không thấy bà chị cô ở một bàn khác và ra hiệu cho tôi. Bà ta đi dọc qua phòng và tuy chẳng thích chút nào, tôi cũng phải mời bà cùng ngồi vào bàn. Chúng tôi không thân thiết với nhau kể từ khi bà khó ở và tôi phải đưa hai chị em về nhà họ.
-Đến một năm nay không nom thấy ông.
-Tôi thường phải ở Hà Nội.
-Bạn của ông là ai đó?
- Một người tên là Pyle.
- Ông ta làm gì?
- Làm việc ở phái đoàn thương mại Mỹ. Việc của họ là thế này nhé: Cấp những máy khâu điện cho những người thợ may đang chết đói.
- Có máy không?
- Không rõ.
- Nhưng có ai lại dùng máy khâu điện đâu, nơi họ ở làm gì có điện.
Bà ta hiểu theo nghĩa đen những câu nói của tôi.
- Phải bảo điều đó cho ông Pyle rõ - tôi nói.
- Ông ta có vợ chưa?
Tôi nhìn ra nơi họ đang nhảy.
- Tôi tin rằng hắn chưa bao giờ gần một người đàn bà nào như lúc này.
- Ông ấy nhảy dở lắm.
- Rất dở.
- Nhưng nom có vẻ dễ thương và tin cậy được.
- Đúng.
- Tôi có thể ngồi nán ở đây một lát không? Những ông bạn cùng đi với tôi chán òm.
Âm nhạc dừng. Pyle cúi chào Phượng một cách cứng quèo, dẫn cô về, giữ ghế chờ cô ngồi. Tôi thấy cô tán thưởng việc tôn trọng những lề thói xã giao đó. Tôi chạnh nghĩ đến việc tôi không làm được như vậy và hẳn cô đã không hài lòng.
- Xin giới thiệu bà Hải, chị cô Phượng - tôi nói với Pyle.
- Rất sung sướng được làm quen với bà - hắn vừa nói vừa đỏ mặt.
- Ông từ New York tới? - bà Hải hỏi.
- Không, từ Boston.
- Cũng là trong nước Mỹ.
- Vâng, à… vâng.
- Cụ thân sinh ra ông là một nhà kinh doanh?
- Không hẳn thế, cụ là giáo sư
- Đi dạy học? - Hải hỏi, lộ vẻ hơi thất vọng.
- Không, không, cụ là một nhà chuyên môn cự phách, bà hiểu cho. Người ta phải đến để cụ ban cho ý kiến.
- Về sức khoẻ của họ ư? Vậy ra cụ là bác sĩ?
- Không phải bác sĩ theo kiểu đó. Tuy nhiên, cụ cũng là một nhà thông thạo trong lĩnh vực nghiên cứu về công nghiệp. Cụ hiểu biết tất cả những điều gì người ta có thể hiểu về xói mòn dưới biển. Bà hiểu đó là cái việc gì chứ?
- Không.
Pyle liền buông một câu nói đùa:
- Thế thì xin để ông cụ giảng cho rõ thôi.
- Cụ ở đây ạ?
- Ồ, không.
- Thế cụ sắp sang?
- Không đâu. Tôi nói thế để giỡn một chút mà - Pyle giảng giải như để xin lỗi.
- Bà có một cô em khác? - tôi hỏi bà Hải.
- Có đâu. Tại sao ông hỏi vậy?
- Tại thấy bà lục vấn ông Pyle như để làm mối cho ông ta lấy ai vậy.
- Tôi chỉ có một em gái - Hải nói - và bà đặt mạnh bàn tay lên gối Phượng, như một vị chủ toạ hội nghị gõ mạnh búa xuống bàn để nhắc cho mọi người giữ trật tự.
- Đó là một cô em rất đẹp - Pyle nói.
- Cô gái đẹp nhất Sài Gòn - Hải đáp, như để bổ sung cho ý kiến của Pyle.
- Tôi dễ dàng tin như vậy.
- Đến lúc gọi các món ăn rồi - tôi lên tiếng - Cô gái đẹp nhất Sài Gòn cũng phải ăn đấy.
- Tôi không đói - Phượng nói.
- Em nó mảnh dẻ lắm đấy - Hải nói tiếp, như đe dọa ai một cách quả quyết - Nó rất, rất chung thuỷ, thật thà.
- Ông bạn tôi là một người may mắn - Pyle nói một cách nghiêm trang.
- Cô ấy quý trẻ con lắm đấy - Hải nói.
Tôi phá lên cười, rồi bắt gặp cái nhìn của Pyle: Hắn nhìn tôi với cái vẻ vừa ngạc nhiên, vừa bất bình và tôi bỗng hiểu rằng hắn ta thành thật quan tâm đến những điều mà Hải nói. Trong khi gọi các món ăn (tuy Phượng nói là không đói, tôi biết cô ta có thể ngon lành chén sạch món bít-tết kiểu Tác-ta kèm với trứng và bao nhiêu thứ phụ khác), tôi nghe Pyle bàn một cách nghiêm trang vấn đề con cái.
- Tôi bao giờ cũng mong có nhiều con - Pyle nói - Một gia đình đông con là một vấn đề kỳ diệu cần quan tâm. Nó làm cho hôn nhân được ổn định. Mặt khác, đối với con trẻ, nó rất bổ ích. Tôi không có anh chị em gì cả. Làm con một, thật là một sự thiệt thòi.
Chưa bao giờ tôi nghe thấy hắn nói một thôi dài như vậy.
- Cụ thân sinh ra ông bao nhiêu tuổi? - Hải hỏi một cách ngấu nghiến.
- Sáu mươi chín.
- Những người già thích có nhiều cháu. Rất tiếc rằng cô em tôi không còn cha mẹ nữa để các cụ được hưởng niềm vui khi cô ta sinh ra một lũ con -chẳng biết ngày nào - Hải vừa nói thêm, vừa nhìn tôi một cách ảm đạm.
- Hay là vui với các con của bà - Pyle nói - tôi nghĩ câu này thật là nhàm.
- Bố tôi cũng là con nhà dòng dõi. Cụ đã làm quan ở Huế.
- Tôi đã bảo mang cơm lên cho cả bốn người - tôi nói.
- Tôi xin kiếu - Hải nói - tôi phải nhập lại bọn với những người bạn của tôi. Tôi mong được gặp lại ông Pyle, ông Fowler chắc có thể thu xếp hộ được.
- Khi tôi ra Bắc về.
- Anh ra Bắc sao?
- Tôi cho rằng đã đến lúc tôi phải ngó qua chiến sự một cái.
- Nhưng tất cả các phóng viên đã trở lại - Pyle nói.
- Đó là lúc tốt nhất để tôi đi. Tôi sẽ không bị bắt buộc phải nói chuyện với Grand.
- Thế thì ông Pyle phải đến chơi, xơi cơm với chị em chúng tôi… để cô em tôi đỡ buồn - Hải nói thêm, về xã giao một cách buồn thiu.
- Thật là một người phụ nữ dễ thương và có học thức - Pyle nói khi Hải đã đi - Sao bà ta nói tiếng Anh cừ làm vậy?
- Nói hộ với ông ta là chị tôi tham gia những việc kinh doanh ở Singapore - Phượng tự hào nhờ tôi nói.
- Thật ư? Kinh doanh gì?
Tôi dịch:
- Xuất nhập khẩu. Bà ấy biết cả tốc ký.
- Chúng tôi cần có những người như vậy trong phái đoàn thương mại.
- Tôi sẽ nói với chị tôi - Phượng nói - bà ưng làm việc cho người Mỹ lắm đấy.
Sau bữa ăn, họ lại khiêu vũ với nhau. Tôi nhảy cũng không giỏi, nhưng tôi không có sự thiếu ý thức của Pyle. Tôi tự hỏi không hiểu tôi có thiếu ý thức khi tôi bắt đầu mê Phượng không? Phải trải qua nhiều buổi đáng ghi nhớ là bà chị Hải bị khó ở và tôi đã khiêu vũ với Phượng với mục đích duy nhất là để được nói với cô. Pyle không sử dụng được cơ hội này khi họ nhảy đi nhảy lại, hắn chỉ có vẻ bớt ngượng ngập thôi, giữ Phượng bớt xa mình hơn một chút, nhưng cả hai đều không chuyện trò gì với nhau. Bỗng nhiên, khi nhìn đôi bàn chân Phượng, nhỏ nhắn bước chính xác, đang hướng dẫn những bước chân nặng nề của người cùng nhảy, tôi lại thấy yêu Phượng như xưa. Thật là khó mà tin được rằng sau một, hai giờ nữa cô lại trở về cùng tôi trong cái nhà nhớp nháp, với chuồng xí chung, với những mụ già ngồi xổm ở bậc thang gác.
Tôi tiếc rằng đã nghe những tin đồn về Phát Diệm, tôi vẫn mong cho chiến sự diễn ra nơi khác ngoài cái thành phố duy nhất ở miền Bắc mà tôi được tự do đột nhập lẩn tránh được mọi sự kiểm duyệt, mọi sự kiểm soát nhờ quen thân với một sĩ quan hải quân Pháp đóng ở đó. Để làm một thiên phóng sự giật gân ư? Không phải, vì thế giới lúc này chỉ muốn nghe về tình hình Triều Tiên. Để được một cơ hội tử trận ư? Tại sao lại muốn hết sống, khi đêm nào cũng có Phượng ngủ bên mình. Nhưng tôi đã biết câu trả lời cho vấn đề này. Từ thuở nhỏ, tôi không bao giờ tin ở sự bất biến, nhưng tôi vẫn cứ hoài vọng có nó. Tôi luôn nơm nớp sợ mất hạnh phúc. Chắc tháng này hay năm sau Phượng sẽ bỏ tôi. Nếu không năm sau thì ba năm nữa. Chỉ có cái chết là cái giá trị tuyệt đối trong cái vũ trụ của tôi. Khi đã mất tính mệnh là không còn cái gì để sợ mất nữa. Tôi thèm muốn được như những người tin ở một đức Chúa trời. Với cái chết cũng mất luôn cái có thể diễn ra hàng ngày là việc mất tình yêu. Sự ám ảnh của một tương lai buồn tẻ và đơn độc cũng tan biến luôn. Tôi không bao giờ có thể là người theo chủ nghĩa hoà bình. Thật thế, giết một người tức là đem lại cho họ một điều tốt lành vô giá. À phải, người ta bao giờ cũng yêu mến kẻ thù của mình. Họ dành cho kẻ thù nỗi đau khổ và sự hư vô.
- Xin tha lỗi vì tôi đã không để cô Phượng với anh - tiếng nói của Pyle vang lên.
- À, tôi không nhảy, nhưng tôi thích nhìn cô ấy nhảy.
Bao giờ chúng tôi cũng nói về Phượng theo kiểu đó, cô ở ngôi thứ ba trong lời nói, y như cô không có mặt ở đó. Có khi như người ta không nhìn thấy cô, y như người ta không nhìn thấy hoà bình vậy.
Những trò vui của tôi bắt đầu: một nữ ca sĩ, một người nhào lộn, một người kể chuyện bông phèng - những điều hắn nói thật tục tĩu - nhưng nhìn Pyle, tôi thấy hắn không hiểu tý gì về thứ nói lóng đó. Phượng mỉm cười thì anh chàng cũng mỉm cười, khi tôi cười to thì y cũng cười to một cách ngượng ngập.
- Tôi không rõ Grand lúc này ở đâu? - tôi nói và Pyle nhìn tôi một cách trách móc.
Sau đó đến các mục chủ yếu của tối biểu diễn: Một tốp con trai mặc giả gái. Tôi đã nhìn thấy nhiều bọn này giữa ban ngày đi lại dọc phố Catina, mặc chiếc quần vá, áo xăng đay cũ, cầm đánh phấn phớt xanh vừa đi vừa lắc lư. Tối hôm đó, trong bộ áo dạ hội, hở ngực đeo đồ trang sức giả, vú giả, nói với giọng kim, họ có vẻ đáng mê ngang với đa số các bà người Âu ở Sài Gòn. Một nhóm sĩ quan không quân trẻ huýt sáo ầm ĩ và họ đáp lại bằng những nụ cười mê hồn. Sự phản ứng mạnh mẽ của Pyle làm tôi bị ngạc nhiên.
- Fowler - hắn nói - đi về thôi. Chúng ta đã xem đủ kiểu rồi, phải không anh? Trò này không hợp với cô ấy.
CHƯƠNG 6
Chiến trường khi nhìn từ gác chuông nhà thờ xuống chỉ thấy vẻ ngoạn mục, bất động như một bức tranh toàn cảnh vẽ cuộc chiến tranh của người Boe trong một tờ báo tin ảnh London cũ. Một máy bay thả dù tiếp tế lương thực cho một đồn bị cô lập giữa vùng núi đá vôi, những ngọn núi kỳ lạ nơi biên giới. Trung Bộ, bị nắng mưa đục khoét, trông như những bọt đá chồng lên nhau và khi chiếc máy bay lộn lại lượn trên chỗ cũ, ta có cảm giác như nó đứng nguyên tại chỗ lơ lửng giữa đất với trời. Từ đồng bằng vọng lên tiếng súng cối, khói của đạn pháo thành những cụm đứng yên nom như những khối đá chắc nịch, trong khi khu chợ vẫn cháy, ngọn lửa như tôi đi dưới mặt trời. Hình bóng nhỏ xíu của những lính dù tiến hàng một dọc theo những con sông đào, từ trên cao nhìn xuống, cũng như đứng yên tại chỗ. Ngay vị linh mục đang đọc kinh ở một góc tháp cũng không hề thay đổi lối ngồi. Từ xa nhìn vào, chiến tranh thật sạch sẽ và được sắp xếp có ngăn nắp từng ly từng tý.
Tôi từ Nam Định tới lúc trước rạng đông bằng một tàu đổ bộ. Chúng tôi không thể cập bến ở căn cứ thuỷ quân vì vướng quân địch, họ cô lập hoàn toàn thị trấn theo một đường bán kính 600 m, bởi vậy chiếc tàu phải cập vào cạnh khu chợ đang bốc cháy. Dưới ánh lửa, chúng tôi quả đã là một cái đích ngon ăn, nhưng không rõ vì một lẽ bí ẩn nào đó, không có viên đạn nào bắn tới cả. Mọi vật đều im lặng, chỉ trừ những quầy hàng cháy kêu răng rắc và đổ ụp xuống một cách nặng nề. Tôi nghe tiếng đổi chân của một người lính Senegal gác ở bờ sông.
Tôi rất quen thuộc Phát Diệm những ngày trước khi có cuộc tấn công: cái đường phố độc nhất dài và hẹp, hai bên là những quán hàng bằng gỗ, cứ 100 m lại có một con lạch cắt ngang, một nhà thờ và một cây cầu. Tối đến chỉ có nến hay đèn dầu nhỏ (Phát Diệm không có điện trừ nơi sĩ quan Pháp ở) và đêm cũng như ngày, người ta sống ồn ào, đông lúc nhúc. Theo một kiểu Trung cổ kỳ lạ, dưới bóng và sự che chở của ông Hoàng Giám mục, đó là thị trấn sống động nhất của cả nước, nhưng ngày hôm đó, khi đổ bộ và đi về khu sĩ quan, tôi lại thấy đó là một thị trấn chết. Gạch vụn, mảnh kính, mùi sơn và vữa cháy, con đường phố dài không bóng làm tôi nhớ lại một đại lộ của London, vào buổi sáng sớm, khi có chuông báo an, người ta như chờ để thấy một cái biển báo: "Có bom chưa nổ!".
Bề mặt của ngôi nhà sĩ quan bị một quả bom làm bay đi và bên kia phố, nhà cửa đều đổ nát. Khi đi cùng tôi từ thành phố Nam Định xuống đây, trung uý Pero đã cho tôi biết điều gì đã xảy ra. Đó là một người còn trẻ nghiêm trang, hội viên Hội Tam điểm và tất cả những điều đó bị coi như là một tai vạ đối với sự mê tín của đồng loại. Vị giám mục Phát Diệm đã sang Âu châu và mang về dòng Đức Mẹ Phatima: Dòng lập ra do Đức Mẹ Đồng trinh, mà người theo đạo Thiên Chúa tin là đã xuất hiện trước một đám nhi đồng ở Bồ Đào Nha. Đến lượt mình Giám mục đã cho xây một cái động thờ Đức Phatima trong khu vực nhà thờ và hàng năm, người ta tổ chức lễ rước Đức mẹ. Quan hệ giữa ông ta và viên đại tá chỉ huy quân Pháp - Việt trở nên căng thẳng khi các nhà đương chức đã giải tán đội vệ binh của Giám mục. Năm nay, viên đại tá là người có đôi chút thiện cảm với giám mục vì cả hai đều đặt tổ quốc của họ cao hơn đạo - đã có một cử chỉ thân thiện và đi hàng đầu trong đám rước cùng với những phụ tá cao cấp. Chưa bao giờ từng có một số người đông như vậy đã tập trung ở Phát Diệm để rước thành Phatima. Cả đến những người theo đạo Phật, họ chiếm non nửa số dân ở đây cũng không thể thờ ơ với cảnh tưng bừng đó, và những người chẳng lương cũng chẳng giáo, cũng đinh ninh rằng theo một lẽ bí hiểm, tất cả những lá cờ, bình hương, bình bánh thánh bằng vàng đó có thể đẩy lui chiến sự ra xa gia đình họ. Tất cả những cái gì còn sót lại của đạo vệ binh của Giám mục, đội kèn đồng dẫn lộ cho đám rước và những sĩ quan Pháp, đầy vẻ mộ đạo theo lệnh của đại tá, đi tiếp theo như những lễ sinh. Đám rước qua cửa lớn vào trong sân diễu qua bức tượng Thánh Tâm màu trắng dựng trên một hòn đảo giữa cái hồ nhỏ phía trước nhà thờ, dưới tháp chuông có đôi cánh cong theo kiểu Á châu, rồi vào trong cái nhà thờ kiểu kỳ lạ làm bằng gỗ chạm, với những chiếc cột cái nguyên cả cây gỗ cùng với bàn thờ Chúa sơn son rực rỡ (nom giống bàn thờ Phật hơn là bàn thờ Chúa. Người ta ùn ùn kéo về Phát Diệm, từ tất cả các làng cách nhau bởi những con sông đào, từ cánh đồng thấp như đồng nước Hà Lan, chỉ khác ở chỗ những cây mạ xanh hay những vạt lúa chín vàng óng đã thay cho những cây hoa tuy-líp và những nhà thờ thay cho các cối xay gió.
Không ai để ý đến những người của Việt Minh đã trà trộn vào đám rước, đến tiểu đoàn quân chủ lực của cộng sản vượt qua các đèo của dãy núi đã vôi đột nhập vào đồng bằng, dưới mắt của những tốp quân Pháp bất lực gác ở các đồn tiền tiêu đặt trên núi. Đêm hôm đó, lính trinh sát của Việt Minh đã đánh vào Phát Diệm.
Sau bốn ngày đánh nhau, nhờ có lính dù giúp sức, quân địch chỉ bị đẩy ra xa non một cây số và đang bao vây thị trấn. Đó là một chiến bại mà những nhà báo không được phép nói tới, không một bức điện nào được đánh đi, vì báo chí chỉ được đăng tin chiến thắng. Những nhà cầm quyền chắc đã cản không cho rời Hà Nội, nếu họ biết ý đồ của tôi, nhưng người ta càng đi xa đại bản doanh thì sự kiểm soát càng lỏng lẻo và khi tới tầm súng địch, người ta sẽ được đón nồng nhiệt. Điều đe doạ đối với Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội và là sự phiền hà cho viên chỉ huy khu vực Nam Định, đối với viên thiếu uý đang lâm trận lại là một câu chuyện vui, một sự giải trí, một bằng chứng về sự quan tâm của thế giới bên ngoài, nhờ có nó mà trong vài ba giờ quý báu, ông ta có thể ít nhiều quan trọng hoá vai trò của mình và dọi một ánh sáng anh hùng giả tạo vào những người bị thương vong của ông.
Vị linh mục gấp cuốn sách kinh lại và nói: "Thế, xong rồi". Ông là người Âu, nhưng không phải là người Pháp, vị Giám mục không đời nào chịu để có một linh mục Pháp trong địa phận của mình. Linh mục nói thêm như để tạ lỗi:
- Xin hiểu cho là tôi phải leo lên đây để được yên thân một chút và không bị quấy bởi những con người khốn khổ kia.
Tiếng súng cối hình như gần lại, hoặc bây giờ phía địch mới chịu trả lời. Điều khó khăn kỳ lạ là tìm ra địch: Có mười hai mặt trận nhỏ hẹp và không biết bao nhiêu là chỗ địch có thể phục kích giữa những con lạch, những trang trại và cánh đồng.
Thẳng ngay phía dưới chúng tôi là toàn bộ dân Phát Diệm, đứng, ngồi, nằm: lương, giáo, vô thần, họ đã gói ghém những của cải quý báu nhất của họ - cái bếp, cái đèn, cái giường, cái tủ, vài chiếc chiếu, một bức tranh thánh - và vào trú trong địa phận Nhà Chung. Đêm xuống trời miền Bắc rét căm căm, nhà thờ đã chật ních người, không có nơi trú ẩn nữa, ngay trên cầu thang đi lên gác treo chuông, tất của các bậc đều có người. Trong khi đó người ta vẫn réo tới các cửa và bước vào, mang theo những đứa con nhỏ và đồ đạc. Họ tin rằng dù theo bất kỳ đạo giáo nào, ở đây họ sẽ được an toàn. Trong khi chúng tôi đang nhìn cảnh tượng đó, một người trẻ tuổi mặc quân phục Việt và mang theo súng lách vào. Một linh mục ngăn anh ta lại và lấy đi khẩu súng. Linh mục đứng cạnh tôi nói, như để giải thích:
- Chúng tôi trung lập. Đây là đất của Chúa.
Tôi suy nghĩ: Chúa có trên mảnh đất của Người một số dân sợ sệt, đói rét, khốn khổ đến kỳ lạ vậy thay! Một tu sĩ đã nói với tôi: "Không biết lấy gì để nuôi sống tất cả bao nhiêu người này". Người ta tưởng rằng một vị vương giả phải làm nhiệm vụ trọn vẹn hơn là thế này. Nhưng tôi lại nghĩ, đi tới đâu người ta cũng gặp cảnh tương tự: không phải những ông vua hùng mạnh nhất có thể làm cho dân mình sung sướng nhất.
Dưới sân, những mẹt hàng đã được bày ra.
- Trông như một phiên chợ khổng lồ - tôi nói - Nhưng không tìm ra được một vẻ mặt tươi cười.
- Đêm qua họ bị rét đến chết - linh mục nói - Chúng tôi đã phải đóng hết cửa tu viện lại, sợ họ ồ vào.
- Trong tu viện chắc ấm lắm?, tôi hỏi.
- Chắc ấm lắm. Nhưng chúng tôi không đủ chỗ để chừa được một phần mười số người hiện có. Phải - ông ta nói tiếp - Tôi hiểu ông định nói gì. Nhưng cũng cần để cho dăm ba người trong chúng tôi còn được khoẻ mạnh. Ở Phát Diệm chỉ có một bệnh viện mà y tá đều là những cô nữ tu cả.
- Còn người làm phẫu thuật?
- Không, tôi tới để tìm phương hướng đi tiếp.
- Tôi hỏi như vậy vì hôm qua có một người lên tận đây. Ông ta xin xưng tội. Những điều nhìn thấy dọc con sông đào đã làm ông ta sợ hãi. Chúng ta cũng chẳng nên trách ông ta.
- Tình hình chỗ đó có gì không hay?
- Quân dù đã dồn địch vào giữa hai lưới đạn. Những người đáng thương! Tôi tin rằng ông cũng có cảm giác đó.
- Tôi không phải là người thực hành đạo Thiên Chúa. Tôi cũng không tin rằng ông có thể coi tôi là người tin ở Chúa.
- Sự sợ hãi đã gây ra tác động kỳ lạ với con người.
- Đối với tôi, nó lại khác. Dù tôi có thể mơ hồ tin ở một Đức Chúa nào đó, tôi vẫn sẽ không thể thích xưng tội. Quỳ xuống trong một ngăn giống như một cái hộp. Tự lột trần truồng mình ra trước một con người khác! Xin Cha thứ lỗi cho, tôi thấy việc đó có vẻ yếu đuối… một sự thiếu dũng khí…
Ông linh mục nói bằng một giọng nhẹ nhàng: Tôi chắc ông là một người lương thiện và chẳng bao giờ làm điều gì đáng hối hận.
Tôi đưa mắt nhìn những nhà thờ xếp hàng ra tận biển cách đều đặn dọc những con sông đào. Một tia lửa loé ra từ tháp chuông thứ hai.
- Các nhà thờ của các ông cũng không phải là trung lập cả, như ông nói.
- Chúng tôi biết làm thế nào được - linh mục đáp - Người Pháp chỉ chấp nhận là không vượt qua hàng rào của Nhà thờ Lớn thôi. Chúng tôi không thể đòi hỏi hơn được. Nơi ông đang nhìn là một đồn của quân lê dương.
- Tôi phải đi đây. Xin chào Cha.
- Xin chào và chúc ông may mắn, ông hãy đề phòng những tay súng lẻ đấy.
CHƯƠNG 7
Tôi phải chen lách mãi mới thoát khỏi đám đông ra khỏi nhà thờ, đi ven phía trước cái hồ và pho tượng màu trắng đứng giơ tay nom như đã được điêu khắc bằng một khối đường và ra được tới cái phố dài. Tôi có thể nhìn tới hơn nửa dặm về cả hai chiều và thấy ngoài tôi, người lính đội mũ có ngụy trang đi từ phía dưới phố lên, hai khẩu súng Sten sẵn sàng nhả đạn. Tôi nói hai người sống vì có một xác chết nằm ngay ở cửa, đầu gục xuống đường. Lọt vào tai tôi chỉ có tiếng nhặng vo ve và tiếng phlích phlắc của bước chân những người lính đi xa dần. Tôi ngoảnh mặt, bước nhanh qua xác chết. Vài phút sau, quay lại phía sau, tôi thấy chỉ còn tôi và cái bóng, và tai tôi không nghe thấy gì khác ngoài những tiếng động tự tôi gây ra. Tôi có cảm giác rằng mình là cái bia trên trường bắn. Tôi chợt nghĩ nếu có sự gì xảy ra với mình trong cái phố này, thì hàng giờ sau người ta mới biết và những con nhặng có đủ thì giờ để bu tới.
Khi đã vượt qua được hai con kênh, tôi rẽ vào con đường dẫn tới một nhà thờ. Một chục người mặc áo dù rằn ri, ngồi trên đất, trong khi hai sĩ quan đang tra cứu tấm bản đồ. Không có ai lưu ý tới tôi khi tôi nhập bọn. Một người lưng đeo chiếc máy bộ đàm có cần ăng ten dài, nói:
- Bây giờ có thể tới đó được rồi.
Tôi dùng thứ tiếng Pháp tồi hỏi xem có thể đi theo họ không. Một trong những điều thuận lợi trong cuộc chiến tranh này là bộ mặt của người Âu tự nó là một tấm hộ chiếu để tới chiến trường, người ta không thể nghi một người Âu là kẻ làm tay chân cho địch.
- Anh làm gì? - viên trung uý hỏi.
- Tôi viết những bài báo về chiến tranh.
- Người Mỹ à?
- Không, người Anh.
- Đây chỉ là một cuộc hành quân nhỏ - hắn nói - nhưng nếu anh muốn đi cùng chúng tôi…
Anh ta định lấy mũ của mình đưa cho tôi.
- Không - tôi nói - cái này là để cho những người đánh nhau.
- Tuỳ anh.
Chúng tôi đi vòng sau nhà thờ, theo hàng dọc, trung úy đi đầu và dừng lại một lát khi tới bờ một con sông đào, để người lính mang máy bộ đàm có thể liên lạc với hai tốp đi tuần ở hai bên. Đạn súng cối bay qua đầu chúng tôi để nổ xa ngoài tầm mắt. Chúng tôi đã lấy thêm người khi đi gần nhà thờ và quân số đã lên non ba mươi người. Viên trung uý khẽ giảng cho tôi, ngón tay chỉ trên bản đồ:
- Có người báo là có ba trăm địch trong làng này. Chúng tập hợp để phục kích đêm nay. Chúng tôi không rõ thực hư. Chưa có ai phát hiện ra họ cả.
- Cách đây bao xa?
- Ba trăm mét.
Một vài tiếng được truyền vào bộ máy vô tuyến điện, rồi chúng tôi tiếp tục cuộc hành quân một cách lặng lẽ. Bên phải là con sông đào thẳng tắp, bên trái là những lùm cây là là mặt đất, đến những thửa ruộng, rồi lại đến những lùm cây. "Đường thông rồi", viên trung uý vừa nói thì thào, vừa khoát tay làm hiệu khi chúng tôi tiếp tục đi. Bốn mươi mét sau là một con lạch, với cái gì còn lại của một cây cầu (một tấm ván không có tay vịn), khiến chúng tôi phải dừng lại. Viên trung uý ra hiệu cho mọi người dàn ra và chúng tôi vào vị trí, ngồi xổm trước mảnh đất lạ dải ra bên kia cầu. Mọi người nhìn xuống nước, rồi như nhận được một mệnh lệnh, nhất tề quay mặt đi. Lúc đầu tôi không nhìn thấy cái gì họ đã thấy, nhưng khi đã thấy thì óc tôi, không hiểu tại sao lại nhớ tới những ngày đã qua, tới tận khách sạn Sale, tới những anh con trai mặc giả gái, tới những binh sĩ trẻ huýt sáo tới Pyle khi y nói: "Không hợp với cô ta".
Khúc sông đầy những tử thi. Bây giờ tôi lại nhớ như hình ảnh của món ra-gu nấu với quá nhiều thịt. Những xác người đè lên nhau, một cái đầu, màu xám như da con hải cẩu, vô danh như một tù nhân tóc bị cạo trọc, nhoi khỏi mặt nước như một cái phao. Không trông thấy máu: Tôi đoán rằng dòng máu đã trôi hết từ lâu. Tôi không thể ước lượng được con số những người chết đó, chắc họ đã bị lọt bất ngờ vào giữa hai làn đạn trong khi tìm cách rút và tôi đoán rằng mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ: ăn miếng trả miếng! Tôi cũng như mọi người, quay mặt đi, chúng tôi không muốn được nhắc tới sự vô nghĩa của cuộc đời và cái chết đến nhanh chóng, đơn giản, vô danh như thế. Tuy lý trí của tôi khát vọng cái chết, nhưng với tư cách là một thực thể, tôi lại sợ cái chết như một cô trinh nữ sợ hãi sự giao phối. Tôi ao ước được báo trước khi cái chết sắp tới để có thì giờ chuẩn bị. Chuẩn bị cho cái gì? Tôi cũng không hiểu và cũng không biết chuẩn bị như thế nào, ngoài việc soát lại những thứ mà tôi sắp lìa bỏ.
Viên trung uý ngồi cạnh người lính mang máy bộ đàm và chăm chú nhìn vào khoảng đất ở giữa hai bàn chân mình. Chiếc máy lẹt xẹt truyền tới những huấn lệnh và viên sĩ quan đứng lên với một cái thở dài như vừa bị đánh thức. Giữa bọn họ có một tình bằng hữu kỳ lạ thể hiện qua các cử chỉ, người ta cảm thấy họ bình đẳng với nhau, khi họ bận rộn về một công việc đã cùng làm với nhau không biết bao nhiêu lần rồi. Không có ai cần người khác nhắc mình phải làm việc gì.
Hai người đi về phía tấm ván và định vượt qua, nhưng bị mất thăng bằng bởi trọng lượng võ khí mang theo, nhiều khi họ phải ngồi như cưỡi ngựa và nhích lên dần từng phân một. Một người lính tìm thấy một con đò giấu trong lùm cây về phía hạ lưu và đẩy đến nơi viên trung uý đứng. Sáu người chúng tôi xuống và người lính chống sào sang bờ bên kia, nhưng một lớp xác người đông đặc giữ chặt đò lại. Người lính lấy con sào đẩy đi, con sào ngập trong đám bùn đất thịt người đó, một cái xác bỗng nổi lên nằm dài dọc theo thuyền, như một người đang phơi nắng trên bãi biển. Rồi đò thoát ranh và một lần nữa chúng tôi leo lên bờ mà không ngoái cổ lại nhìn. Không một phát súng nổ, chúng tôi sống cả, cái chết đã lùi lại, có lẽ tới con sông sau. Tôi nghe thấy ai đó nói phía sau với một giọng nghiêm trang: "Tạ ơn Chúa". Không kể viên trung uý, đa số những người khác đều là người Đức.
Đến đây là những căn nhà trong một trang trại, viên trung uý là người vào trước tiên, hai tay ép vào tường chúng tôi lần lượt theo sau, Rồi (một lần nữa không cần phải có lệnh) mọi người triển khai ra khắp khu trại. Tất cả sự sống ở đây đã biến mất: Một con gà cũng không còn. Nhưng trên tường của căn phòng, chắc đã là phòng khách, vẫn treo hai bức tranh in một cách xấu xí ảnh Thánh Tâm và ảnh Đức Mẹ với Chúa Hài đồng, nó đem lại cho những ngôi nhà lúp xúp xiêu vẹo này một cái vẻ phương Tây. Người ta hiểu những người ở đây tin ở gì, dù không chia sẻ niềm tin của họ: Họ là những con người, không phải là những xác chết xám xịt đã mất hết cả máu.
Trong chiến tranh, người ta đã để mất đi không biết bao giờ rỗi, để mong đợi một người nào đó. Khi không biết còn sống được bao lâu nữa, người ta có ý nghĩ rằng chẳng có việc gì đáng làm cả, kể cả việc suy nghĩ cho có hệ thống. Thực hiện một hành động đã quá quen thuộc, những người lính gác tản ra xa. Kể từ phút này, tất cả cái gì động đậy ở phía trước mặt là thù địch. Viên trung uý tính toạ độ trên bản đồ và dùng máy vô tuyến báo cáo về vị trí của chúng tôi. Sự im lặng của buổi giữa trưa bao trùm lên tất cả: ngay đến súng cối cũng im tiếng và không trung vắng tiếng phi cơ. Một người cầm một cành cây nhỏ chọc bới đám bùn của sân gà vịt. Trong chốc lát, có thể nói chiến tranh đã bỏ quên chúng tôi. Tôi hy vọng rằng Phượng đã đưa quần áo của tôi đi nhuộm. Một cơn gió lạnh thổi bay những cọng rơm trên sân và với vẻ kín đáo, một người ra sau nhà chứa thóc để đại tiện. Tôi cố gắng nhớ xem đã trả ông lãnh sự nước Anh ở Hà Nội tiền chai Whisky ông nhượng lại chưa.
Hai phát súng nổ ở phía trước và tôi nghĩ: thế là đụng nhau rồi! Bắt đầu rồi! Đó là tín hiệu mà tôi đang mong đợi. Tôi chờ đón với một niềm vui sâu sắc cái điều không thể thay đổi được.
Nhưng không có điều gì xảy ra cả. Một lần nữa, tôi đã "cường điệu sự chuẩn bị đối phó với tình huống". Chỉ sau vài phút sốt ruột chờ đợi, một người lính gác vào báo cáo với trung uý. Tôi nghe thấy nói: "Hai thường dân".
- Ra xem nào! - viên trung uý nói với tôi.
Theo sau người lính, chúng tôi phải lần từng bước đi men theo một bờ ruộng lầy lội đầy cỏ mọc. Hai mươi mét cách khu trại, trong một cái hố chật hẹp, chúng tôi đã nom thấy cái mà chúng tôi đi kiếm: Một người đàn bà và một đứa trẻ con. Nhưng rõ ràng là họ đã chết tôi rồi, một cục máu nhỏ nằm gọn giữa trán người đàn bà, đứa bé nom như đang ngủ. Nó chừng 6 tuổi và nằm co hai chân khẳng khiu lên sát cằm như cái bào thai trong dạ mẹ.
- Tội nghiệp cho họ - viên trung uý nói.
Hắn cúi xuống, lật đứa bé lên. Đứa nhỏ đeo nơi cổ một hình Chúa và tôi bụng bảo dạ: Cái bùa này không công hiệu. Dưới mình nó có một mẩu bánh ăn dở. Tôi tự nghĩ: Sao mà tôi căm thù chiến tranh làm vậy.
- Anh xem đã đủ chưa? - viên thiếu uý hỏi tôi với một vẻ dữ tợn, gần như tôi là người chịu trách nhiệm về những cái chết đó.
Có lẽ dưới con mắt người lính, người dân thường là người đã dùng anh để giết người, là người đã trút vào trong phong bì cho anh cái tội sát nhân cùng với đồng lương để rồi phủi tay. Chúng tôi trở lại khu trại và như lúc nãy, chúng tôi ngồi im lặng trên đống rơm, để tránh ngọn gió, cái ngọn đó giống một con thú, như biết rằng đêm tối sắp đổ xuống. Ngay lúc nãy đã chọc đám đất này lại đi tiêu, và người đã đi tiêu này lại chọc đám đất. Tôi nghĩ vào lúc yên tĩnh thế này, lúc những lính gác đã về vị trí của mình, thì hai người đã chết kia như có thể mò ra khỏi hố của họ. Tôi tự hỏi không rõ nằm ở đó đã lâu chưa, với mẩu bánh đã khô cứng. Cái trại này chắc là nhà của họ.
Chiếc máy vô tuyến lại hoạt động.
- Họ sắp ném bom vào làng - người trung uý nói với một vẻ mệt mỏi - các đội tuần tra được gọi trở về.
Chúng tôi đứng lên và trở về nơi xuất phát, lại phải lượn giữa những xác chết, đi vòng qua nhà thờ theo hàng một. Chúng tôi chưa đi được xa là mấy, tuy nhiên cuộc hành quân mà kết quả chỉ là thấy hai xác chết hình như dài lắm. Bây giờ máy bay đã cất cánh và phía sau chúng tôi, việc ném bom đã bắt đầu.
Đêm đã xuống khi tôi tới khu vực dành cho các sĩ quan, nơi tôi sẽ ngủ đêm nay. Trời rét tới một độ trên không và nguồn nhiệt duy nhất để chống lạnh là khu chợ đang cháy. Những tấm rèm vải treo sau các cánh cửa đã bị vênh và bức tường bị bazoka bắn thủng không đủ sức ngăn các luồng gió. Máy phát điện không chạy và để nến khỏi tắt, chúng tôi phải đem sách và hòm ra dựng thành tường chắn. Tôi đánh bài với một viên đại uý mang tên Soren, ăn thua bằng tiền Việt. Không thể ăn thua nhau bằng rượu vì tôi là khách của quán ăn sĩ quan. Vận đỏ đen lần lượt tới mỗi bên một cách đều đều, buồn tẻ. Tôi mở chai Whisky ra để uống cho ấm bụng và mọi người xúm quanh chúng tôi.
- Đâu là cốc Whisky đầu tiên tôi uống từ rời Pháp - viên đại tá nói.
Một viên trung uý đi đốc gác về, nói:
- Có lẽ đêm nay yên tĩnh.
- Họ không tấn công trước bốn giờ sáng đâu! - đại tá nói - anh có súng ngắn không?
- Không.
- Tôi sẽ kiếm cho anh một khẩu. Nên khôn ngoan nhét nó ở dưới gối (ông ta lịch sự nói tiếp). Tôi ngại rằng sẽ thấy chiếc nệm của chúng tôi rắn quá đấy. Và tới ba giờ rưỡi thì súng cối sẽ tiếp tục bắn. Chúng tôi thử đập tan mọi cố gắng tập trung quân của địch.
- Anh cho rằng chiến sự còn kéo dài bao lâu nữa?
- Ai biết được. Chúng tôi không thể rút thêm quân từ Nam Định về tiếp ứng nữa. Đây chỉ là một mũi đánh nhử. Nếu với số quân có trong tay, chúng tôi cầm cự được hai hôm, thì có thể coi như là một trận đánh thắng lợi rồi.
Gió lại lồng lộn quanh nhà tìm chỗ lọt vào. Tấm rèm vải lại phồng lên (tôi chợt nghĩ đến cảnh Polonius bị đâm chết từ sau một bức thảm treo tường) và ngọn nến lung lay. Những bóng người có dáng điệu của các nhân vật trên sân khấu. Người ta có thể cho chúng tôi là một đám hát rong tụ tập trong một kho thóc.
- Các đồn của anh cầm cự tốt chứ?
- Tốt theo những tin chúng tôi biết (ông ta nói tiếp, biểu lộ sự vô cùng mệt mỏi). Xin hiểu cho rằng đây là một trận đánh chẳng có tầm quan trọng gì so với những cái đang diễn ra cách đây một trăm mét, ở Hoà Bình. Ở đấy mới đánh nhau thật sự.
- Anh uống thêm một cốc chứ?
- Thôi, cám ơn. Whisky Anh quốc của ông thật tuyệt vời, nhưng cần để dành một chút đến đêm, nhỡ có khi cần. Xin lỗi, tôi nghĩ tôi phải đi ngủ một giấc. Đến khi súng cối nổ thì chẳng ngủ được nữa đâu. Đại uý Soren, xin lo cho ông Fowler có đủ các thứ cần thiết: nến, diêm và một khẩu súng ngắn.
Rồi ông đi vào phòng mình.
Đấy là hiệu lệnh và chúng tôi ai nấy đều rút lui. Người ta trải cho chúng tôi một cái nệm trong một kho nhỏ và xếp quanh tôi những chiếc hòm rỗng. Tôi chỉ thức được một lát: Nền đất cứng lại làm tôi dễ chịu. Tôi tự hỏi, không một chút ghen tuông, rằng chẳng hiểu Phượng đêm nay có ngủ ở nhà không? Hình như trong một đêm như đêm nay, việc làm chủ một tấm thân chỉ là một điều nhỏ bé… có lẽ vì trong ngày tôi đã nhìn thấy người tấm thân không còn là của ai nữa, ngay cả của chính mình. Tất cả chúng tôi đều là những con số được tính trong món tổng chi phí. Khi ngủ, tôi mê thấy Pyle. Hắn khiêu vũ một mình trên một sân khấu của nhà hát, cứng nhắc, hai tay hướng về một bạn nhảy vô hình. Tôi thì ngồi trên một cái ghế đẩu giống ghế dùng cho người đánh piano và tôi nhìn theo hắn, tay cầm khẩu súng ngắn sẵn sàng nhả đạn nếu ai tới quấy phá hắn. Trên một bản chương trình treo bên cạnh sân khấu, như là bản giới thiệu tiết mục của một nhà hát ca vũ nhạc Anh Cát lợi, người ta thấy đề: "Điệu khiêu vũ của yêu đương dành cho người lớn". Có ai động đậy ở phía trong sân khấu, tôi bấm cò và bừng tỉnh dậy.
Tôi thấy tay đang nắm khẩu súng ngắn người ta đã cho mượn và một người đang đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm một cây nến. Hắn đội một chiếc mũ sắt, bóng chiếc mũ phủ lên mắt hắn, và tôi chỉ nhận ra chính đó là Pyle khi hắn lên tiếng.
- Tôi thật lấy làm phiền vì đã làm anh thức giấ, - hắn nói một cách rụt rè - Người ta bảo tôi có thể vào đây ngủ.
Tôi chưa tỉnh hẳn.
- Anh kiếm được cái mũ ở đâu đấy? - tôi hỏi.
- À, một người nào đó cho tôi mượn - hắn đáp một cách mơ hồ.
Hắn kéo lê vào trong phòng một chiếc túi dết của lính và lôi từ đó ra một chiếc chăn túi có lót len.
- Anh được trang bị cẩn thận nhỉ? - tôi vừa nói, vừa cố hiểu xem vì sao hắn và tôi lại cùng ở đây.
- Đấy là trang bị tiêu chuẩn cho những đội cứu trợ về y tế của chúng tôi. Họ cho tôi mượn một bộ từ Hà Nội .
Hắn lôi tiếp ra một bình thuỷ, một đèn cồn, một bàn chải chải tóc, một bộ đồ cạo râu và một hộp đựng khẩu phần thức ăn. Tôi nhìn đồng hồ. Đã gần ba giờ sáng.
Pyle tiếp tục lôi đồ trong túi ra. Hắn dùng các hộp làm một cái vòm, trên đó hắn để chiêc gương và các đồ lỉnh kỉnh khác.
- Chắc gì anh đã tìm được nước! - tôi nói.
- Ồ, tôi có đủ dùng cho đến sáng mai trong chiếc bình thuỷ kia.
Hắn ngồi trên chiếc chăn và bắt đầu cởi giày.
- Anh làm thế quái nào mà tới tận đây được? - tôi hỏi.
- Người ta cho tôi đi Nam Định để kiểm tra công việc của các đội phòng đau mắt hột của chúng tôi. Sau đó, tôi thuê một chiếc thuyền.
- Một chiếc thuyền à?
- Ồ, một chiếc mảng, tôi cũng không hiểu gọi nó bằng tên gì. Thực ra tôi đã mua chiếc mảng đó. Không đắt lắm!
- Có, nhưng tôi không tới. Tôi đã tự kiềm chế - hắn nói tiếp một cách âu sầu - thế thì tệ quá! Tôi sẽ là một kẻ đáng tởm, nhưng xin anh tin cho tôi, nếu hai anh chị đã là vợ chồng với nhau… không bao giờ tôi tìm cách xen vào giữa một cặp vợ chồng.
- Xem ra anh có thể cứ xen vào đấy - tôi nói.
Lần đầu, hắn làm tôi bực mình.
- Fowler - hắn nói - tôi không rõ tên thánh của anh là gì?
- Là Thomas, anh hỏi để làm gì?
- Anh cho phép tôi gọi anh là anh Tom? Tôi nghĩ như vậy chúng mình gần với nhau hơn. Tôi muốn nói khi hai người cùng yêu một người đàn bà…
- Bây giờ anh định làm gì?
Với vẻ phấn hứng, hắn đứng lên, tựa lưng vào những chiếc hòm. Hắn nói:
- Bây giờ, khi anh đã rõ thì mọi việc đối với tôi trở nên khác hẳn. Tôi sẽ xin cưới cô ấy làm vợ, anh Tom ạ.
- Tôi muốn anh gọi tôi là Thomas.
- Cô ấy sẽ phải chọn giữa anh và tôi, anh Thomas ạ. Một cách đơn giản. Một cách đúng với lẽ phải.
Hắn ta bắt đầu cởi quần áo ngoài và tôi nghĩ là hắn có ưu thế của tuổi trẻ. Thật đáng buồn khi người ta phải thèm khát được như Pyle.
- Tôi không thể cưới Phượng làm vợ được - tôi nói - tôi có một bà vợ ở nước Anh. Không bao giờ bà ấy chịu ly hôn. Bà ấy là thành viên của Thượng Giáo Hội, anh hiểu thế là thế nào rồi chứ?
- Tôi rất lấy làm tiếc cho anh, anh Thomas. Này, tên thánh của tôi là Andon, nếu anh muốn…
- Tôi ưng gọi tên chính của anh thôi - tôi đáp - tôi nghĩ tới anh dưới cái tên đó.
Hắn chui vào trong chăn và thò tay ra tắt nến. Hắn nói:
- Ôi, tôi hài lòng vì việc đó đã giải quyết xong, anh Thomas ạ. Trước tôi khổ sở quá, phát ốm vì nó được.
Rõ ràng là hắn đã hết ốm.
Khi nến tắt, tôi chỉ có thể nhìn đường nghiêng của mái tóc hắn nổi bật lên trên ánh lửa đám cháy bên ngoài.
- Thôi, chào Thomas, chúc ngủ ngon.
Đúng lúc hắn nói như vậy, ngay lập tức, y hệt sau câu đáp, người xem đã biết trước trong một vở kịch tồi, tiếng súng cối bắt đầu ù ù, rít lên.
- Trời đất - Pyle nói - Một cuộc tấn công hay sao?
- Người ta tìm cách ngăn chặn một cuộc tấn công khác.
- Thế là hết một đêm ngủ rồi!
- Hết.
- Anh Thomas này, tôi muốn anh hiểu ý tôi về thái độ của anh trong việc này. Anh thật là tuyệt vời, không có từ nào khác để nói về anh.
- Cám ơn.
- Anh có một thế giới quan mà tôi không có. Anh biết đấy, Boston đứng về nhiều mặt mà xét, đã co hẹp lại. Dù anh chưa phải là một Lowen hay một Cabot. Tôi mong anh sẽ cho tôi những lời khuyên bảo.
- Về vấn đề gì?
- Về Phượng.
- Nếu tôi là anh, tôi sẽ cảnh giác với những lời khuyên của tôi. Tôi có thiên kiến. Tôi muốn giữ Phượng.
- Ồ, nhưng tôi hiểu tính cương trực, cương trực tuyệt diệu của anh và cả hai chúng ta đều một lòng lo đến lợi ích của Phượng.
Đột nhiên, tôi không chịu nổi sự ấu trĩ của hắn.
- Tôi cóc lo đến lợi ích của cô ta - tôi nói - anh đi mà lo. Tất cả những điều tôi muốn là cái thân xác của cô ta. Tôi muốn có cô ta trên giường của tôi. Tôi muốn giày vò cho cô ta tan xác còn hơn là quan tâm đến lợi ích chết tiệt của cô ta.
Hắn ồ lên một tiếng khẽ trong bóng tối.
- Nếu anh lo cho cô ta được sung sướng - tôi nói tiếp - lạy trời, anh hãy để cô ta yêu. Như mọi đứa đàn bà khác, cái cô ta thích nhất là cái con…
Một tiếng đạn súng cối nổ làm cho đôi tai người Boston của hắn khỏi phải nghe cái chữ tục tĩu của người Anglo Saxon tôi đã dùng.
Nhưng ở Pyle có một cái gì đấy cứng nhắc. Hắn đã cho cách cư xử của tôi là cao thượng, thì nhất định nó cứ phải cao thượng.
- Tôi hiểu là anh đau khổ đến chừng nào, anh Thomas ạ.
- Tôi không đau khổ.
- Ồ có chứ, có chứ. Tôi biết tôi sẽ đau khổ ra sao nếu tôi phải lìa bỏ Phượng.
- Nhưng tôi đã lìa bỏ Phượng đâu.
- Mặt vật chất cũng làm tôi quan tâm, anh Thomas ạ, nhưng tôi lìa bỏ những ảo vọng về mặt đó để Phượng được sung sướng.
- Cô ấy đang có hạnh phúc đó chứ!
- Làm sao cô ấy hạnh phúc được trong hoàn cảnh này? Cô ấy cần có con.
- Anh thật sự tin ở những lời nói tầm phào của bà chị cô ta à?
- Một người chị đôi khi hiểu nhiều điều hơn…
- Mụ ta chăng một cái bẫy, Pyle ạ, chỉ bởi mụ tin rằng anh có nhiều tiền hơn tôi. Và trời ơi, anh đã đâm đầu vào cái bẫy đó.
- Tôi chỉ có đồng lương thôi.
- Nhưng các anh được hưởng một giá hối đoái hời.
- Thôi, xin đừng chua chát làm gì, anh Thomas. Những điều đó thường xảy ra. Nhưng anh là người cuối cùng mà tôi mong phải chịu đựng điều đó. Tiếng súng cối này là tiếng súng của chúng ta à?
- Vâng, súng của "chúng ta". Anh nói như Phượng sắp bỏ tôi ấy.
- Tất nhiên - hắn nói mà không hề tin tưởng một chút nào - có thể cô sẽ chọn ở lại với anh.
- Nếu vậy, anh sẽ làm gì?
- Tôi xin chuyển đi một nơi khác.
- Tại sao anh không xin đi ngay đi, anh Pyle, mà không gây ra những phiền hà như vậy?
- Như vậy lại là không hành động một cách lương thiện với cô ta, anh Thomas ạ - Pyle nói với một sự nghiêm trang rất lớn.
Tôi chưa từng gặp một người nào đã gây ra tất cả tai họa với tất cả một thiện ý như Pyle.
- Tôi không tin - hắn nói tiếp - rằng anh đã hiểu rõ Phượng.
Vài tháng sau, một buổi sáng tỉnh dậy có Phượng nằm bên, tôi nghĩ: "Còn anh, anh có hiểu Phượng không? Anh có lường tới tình huống này không? Phượng sung sướng nằm bên tôi, còn anh thì chết tỏng rồi? "Thời gian trả đũa nhưng các sự trả đũa thường mang vị chua cay: khôn ngoan hơn cả tôi lẫn anh, là không nên tìm hiểu, mà chấp nhận rằng không có người nào có thể hiểu được một người khác, dù là vợ chồng, dù là người yêu, là bố mẹ, và con cái. Có lẽ vì thế mà con người đã nghĩ ra Thượng đế, một nhân vật có thể hiểu những người khác. Nếu tôi muốn hiểu hay muốn được người khác hiểu mình, có lẽ tôi sẽ làm được cái việc là tin có Trời, nhưng tôi lại là phóng viên, chỉ có những nhà viết xã luận mới tin có Trời mà thôi.
- Anh tin chắc rằng có nhiều điều dễ hiểu hay sao? - tôi hỏi Pyle - ồ, chán nhỉ, uống Whisky. Mỗi khi súng nổ, tay hắn lại run lên, tuy vậy hắn đã làm cuộc đi điên rồ từ Nam Định về đây.
- Lạ lùng thay - hắn nói - nhưng anh cũng như tôi, không ai chúc được người kia hai chữ "may mắn".
CHƯƠNG 8
Tôi đã tính phải xa Sài Gòn 8 ngày, nhưng chỉ trở về được sau ba tuần hay gần như vậy. Trước hết, tôi đã gặp nhiều khó khăn để ra khỏi khu Phát Diệm hơn là khi vào đó. Đường bị cắt giữa Hà Nội - Nam Định và người ta chẳng thể dành một chiếc máy bay chở khách cho một phóng viên đúng ra không nên ở đó. Rồi khi tôi về đến Hà Nội, một máy bay vừa chở phóng viên ra ghi nhận cuộc chiến thắng mới, chuyến trở về đã chật ních không sao dành được một chỗ cho tôi. Pyle thì rời Phát Diệm ngay sáng hôm y tới, hắn đã hoàn thành nhiệm vụ của hắn là gặp tôi để nói câu chuyện về Phượng. Không có gì lưu luyến hắn lại nữa. Tôi để yên cho hắn ngủ lúc năm giờ rưỡi sáng. Súng cối ngừng nổ, tôi ra nhà ăn, dùng xong chén cà phê và mấy chiếc bánh quy về thì hắn không còn ở nhà nữa. Tôi tưởng hắn dạo một vòng…, khi người ta đã đẩy được một chiếc mảng từ Nam Định về đây thì người ta chẳng bận tâm gì đến vài tay súng lẻ. Hắn là người không hình dung nổi nỗi đau khổ hắn gây cho người khác. Trong một trường hợp nữa - nhưng phải đến nhiều tháng sau - khi tôi hết cả bình tĩnh và bắt hắn phải nhìn thẳng vào những nỗi đau khổ, thì tôi thấy hắn quay đi, băn khoăn nhìn vào đôi giày bẩn của mình và nói: "Có lẽ tôi phải cho đánh giày trước khi vào gặp ngài bộ trưởng". Lúc đó tôi hiểu hắn đã dùng cách nói học được trong sách của York Hardin. Tuy nhiên, hắn lại thực thà theo kiểu của hắn: Nếu đau khổ chỉ đổ lên đầu kẻ khác thì đó chỉ là do một sự trùng hợp nào đó thôi… cho tới cái đêm chót, dưới chân cầu Đa Kao.
Chỉ khi về tới Sài Gòn, tôi mới biết trong khi tôi đi uống cà phê, hắn đã thuyết phục một sĩ quan thuỷ quân trẻ để anh này cho hắn lên một chiếc xuồng đổ bộ và lén cho lên Nam Định sau một chuyến đi tuần như thường lệ. Hắn đang trong cơn vận đỏ cho nên đã cùng với đội "chống đau mắt hột" về được Hà Nội 24 giờ trước khi đường được chính thức coi như bị cắt đứt. Khi tôi về đến Hà Nội, hắn đã đi vào Nam và để cho tôi một lá thư, nhờ anh chàng phụ trách quầy rượu ở Trại báo chí chuyển giúp.
"Anh Thomas thân - hắn viết - tôi không thể nào nói hết được rằng đêm hôm nọ anh đã tuyệt vời như thế nào. Bây giờ phải thú thật với anh rằng lúc vào nơi anh ngủ tôi rất e ngại" (Thì ra hắn không e ngại gì khi xuôi mảng trong một thời gian dài sao?). Không có mấy người đã chấp nhận tình hình một cách bình tĩnh như anh. Anh thật là tuyệt vời và tôi bây giờ, sau khi đã nói được hết với anh, thấy mình bớt đáng khinh đi một chút" (Tôi giận dữ nghĩ chỉ có hắn là đáng đếm xỉa tới hay sao? Và tuy vậy tôi hiểu không phải hắn định viết như vậy. Đối với hắn tất cả câu chuyện sẽ tốt đẹp khi hắn không thấy mình là có tội nữa. Ta sẽ sung sướng hơn, Phượng sẽ sung sướng hơn, nhân loại sẽ sung sướng hơn, cả tùy viên thương mại và ngài bộ trưởng nữa. Mùa xuân rạng rỡ cả trên đất Đông Dương khi Pyle không thấy là mình có tội).
“Tôi đã chờ anh 24 giờ ở đây, nhưng nếu hôm nay tôi không lên đường thì tôi sẽ không có mặt ở Sài Gòn sớm hơn một tuần lễ, mà công việc chính là của tôi ở miền Nam. Tôi đã nói với anh em ở đội chống đau mắt gặp khi anh tới, chắc anh sẽ vui về bọn họ. Đó là những người dễ chịu đang làm một việc tốt đẹp. Đừng thấy tôi về Sài Gòn trước mà lo. Tôi hứa không tới thăm Phượng từ nay tới khi anh về. Tôi không muốn sau này anh có thể nghĩ rằng tôi xấu chơi đối với anh. Chào thân thiết. Andon".
Một lần nữa, đó là dấu hiệu quả đoán rằng tôi sẽ mất Phượng. Niềm tin đó căn cứ vào giá hối đoái chăng? Đôi khi người ta nói về một người nào đó rằng anh ta có tấm lòng vàng. Bây giờ chúng ta nên đem những chữ vàng ra để đánh giá tình yêu và có một từ kép là ái tình - đôla hay sao? Tất nhiên, khái niệm về ái tình - đôla bao gồm cả sự cưới xin nhau, một đứa con trai, ngày hội của những người mẹ, dù cho tất cả những điều đó sẽ kết thúc tại thành Rono hay đảo Virgin hay đến những đâu, có trời biết. Ái tình - đôla có động cơ tốt, lương tâm trong sạch và mặc xác cho thế giới còn lại có thể tìm nơi nào tan biến đi. Nhưng tình yêu của tôi không có khát vọng gì: Nó đã biết ngày mai của nó. Điều mà tôi có thể làm được là tìm cách làm cho ngày mai đó đỡ vất vả, chuẩn bị cho tương lai một cách từ từ, nó đến đâu chuẩn bị đến đó và trong việc này thì a phiến có tầm quan trọng của nó. Nhưng tôi không thể nào tính trước được cái tương lai mà tôi phải thận trọng chuẩn bị Phượng lại bắt đầu bằng cái chết của Pyle.
Chẳng có việc gì làm, tôi đi dự cuộc họp báo. Lẽ tất nhiên Grand đã có mặt. Một viên đại tá quá đẹp trai chủ trì. Ông ta nói tiếng Pháp và một sĩ quan cấp dưới làm nhiệm vụ phiên dịch. Những nhà báo Pháp cụm lại với nhau như một đội bóng đối thủ của các đội khác. Tôi khó khăn không sao tập trung được tư tưởng về những điều mà viên đại tá nói: Ý nghĩ của tôi luôn quay về với Phượng, với nỗi lo duy nhất: nếu điều Pyle nói là sự thật, nếu tôi mất Phượng, thì mọi việc sẽ đi tới đâu?
Người phiên dịch nói: "Đại tá thông báo rằng quân địch đã chịu một cuộc thất trận lớn và số thiệt hại của chúng ngang với một tiểu đoàn. Những phân đội cuối cùng hiện nay đang dùng những bè mảng vượt qua sông Hồng. Máy bay của chúng tôi liên tiếp đánh vào chúng".
Viên đại tá lấy tay vuốt mái tóc rất đẹp của ông ta, rồi giơ cao chiếc que dài chỉ trỏ những tấm bản đồ treo trên tường như biểu diễn một điệu múa.
- Sự thiệt hại của phía quân Pháp là bao nhiêu? - một phóng viên Mỹ hỏi.
Viên đại tá hiểu rất rõ câu hỏi đó: đó là câu thường được nêu khi cuộc họp báo đã tới bước này, nhưng ông ta đứng yên, chiếc que giơ cao, một nụ cười nở trên môi hệt như một thày giáo vốn được học trò quý yêu, cho tới khi người thông ngôn đã dịch xong. Lúc đó ông ta mới trả lời một cách mở hồ và kiên nhẫn:
- Thiệt hại của chúng tôi không lớn. Chưa rõ con số chính xác.
Bao giờ cũng vậy, những câu nói đó gây ra một sự náo nhiệt. Người ta tin rằng sớm muộn, viên đại tá sẽ tìm ra một công thức để trị được cái lớp học mất trật tự này, hoặc vị giám đốc trường sẽ cử thay ông ta một ông giáo khác có khả năng duy trì trật tự tốt hơn.
- Đại tá có nói một cách nghiêm túc không, khi ông bảo có thì giờ đếm xác chết của phía địch, mà không có thời giờ đếm xác phía mình? - Grand hỏi.
Viên đại tá tìm cách chống chế, tuy biết rằng cách đó sẽ bị đổ nhào bởi một câu hỏi khác. Những nhà báo Pháp thì ủ rũ và im lặng. Nếu những nhà báo Mỹ, bằng cách châm chọc đã bắt viên đại tá phải chấp nhận sự việc - khi đó họ cũng liền ghi chép luôn - thì tuy vậy họ không chịu hỏi thêm người đồng hương của mình.
- Đại tá nói rằng - người phiên dịch tiếp - địch rút lui một cách hỗn loạn. Có thể đếm những tử thi sau tuyến lửa, nhưng trong khi cuộc chiến đang diễn ra thì không thể chờ cho các đơn vị quân Pháp đang tiến công phải gửi những con số báo về.
- Không phải là chúng tôi chờ - Grand nói - mà là việc bộ tham mưu biết hay không biết. Ông thật sự định làm cho chúng tôi tin rằng những đội quân chiến đấu không dùng máy bộ đàm báo cáo về những thiệt hại của mình sao?
Viên đại tá bắt đầu nổi xung. Nếu ông ta ngay từ đầu chấp nhận sự thách thức, thì tốt hơn cứ trả lời thẳng là có biết, nhưng không thể công bố sự thiệt hại. Xét cho cùng, đây là cuộc chiến tranh của người Pháp, không phải của chúng tôi. Chẳng có pháp luật trời ban nào cho chúng tôi cái quyền được biết tin tức. Chúng tôi không phải đấu tranh với quân của cụ Hồ Chí Minh giữa sông Hồng và sông Đà. Chúng tôi không phải những người phải hứng lấy sự chết chóc kia.
CHƯƠNG 9
Viên đại tá nói tuột ra là số tử vong của quân Pháp là một đổi ba, rồi quay lưng lại chúng tôi, nhìn vào bản đồ một cách bực bội. Những người chết là quân của ông, là những sĩ quan bè bạn của ông, cùng tốt nghiệp Saint Sir một khóa với ông và đó không phải chỉ là những con số như đối với Grand.
- Thế là rốt cuộc, chúng tôi rõ hơn một chút - Grand đắc chí một cách vụng về nói. Còn những người Pháp thì ghi chép lia lịa, đầu cúi gầm.
- Ở Triều Tiên đâu được như thế - tôi nói tảng lờ như không hiểu. Nhưng tôi chỉ tổ gợi ra cho Grand một ý để hắn hỏi tiếp.
- Xin hỏi hộ đại tá xem người Pháp định làm gì bây giờ. Ông ta nói quân địch tháo chạy qua sông Seine.
- Sông Hồng - người phiên dịch đính chính.
- Tôi chẳng cần biết màu sắc của con sông. Điều tôi muốn biết là người Pháp định làm gì trong những ngày sắp tới.
- Quân địch đã tháo chạy.
- Việc gì sẽ diễn ra khi quân địch về bên kia sông? - Grand hỏi - các ông sẽ quyết định những điều gì nữa lúc đó? Các ông sẽ ngôi tại bờ bên này hỏi vọng sang. Xong rồi chứ? (Những người Pháp buồn rầu với vẻ cam chịu, lắng nghe giọng nói như điên dại của hắn). Các ông có định gửi cho những tấm bưu thiếp chúc mừng ngày Noel không?
Người đại uý phiên dịch thận trọng từng chữ cả chữ thiếp chúc mừng nhân ngày lễ Noel.
Ông đại tá nhếch một nụ cười nhợt nhạt, nói:
- Không thể có thiếp chúc đâu.
Tôi có cảm nghĩ rằng vẻ trẻ trung và đẹp trai của đại tá làm cho Grand bực bội. Ít nhất là theo ý của Grand, ông ta thiếu một vẻ đẹp rắn rỏi.
- Các ông cũng chẳng có gì khác đâu mà gửi tặng nhiều - Grand nói tiếp.
Đại tá bỗng trả lời bằng tiếng Anh, một thứ tiếng Anh rất chỉnh tề:
- Nếu đạn được người Mỹ đã hứa được gửi đến thì chúng tôi có nhiều thứ gửi cho họ.
Tuy bề ngoài trang trọng, nhưng trong bụng là người đơn giản, ông ta cứ tin rằng một phái viên báo chí thì bao giờ cũng để danh dự quốc gia mình lên trên những cái tức.
Grand nói một cách ngắn gọn (vốn thông thạo, hắn ghi sẵn trong óc những số liệu về ngày tháng):
- Ông muốn nói rằng những đồ quân trang hứa cho đầu tháng 9 chưa được gửi tới?
- Đúng như vậy.
Grand túm được tin này, bắt đầu viết.
- Tôi rất tiếc - Đại tá nói - rằng những điều tôi vừa nói không phải là để đăng báo, tôi chỉ muốn để các bạn rõ cái hậu cảnh của cuộc chiến đấu.
- Nhưng, thưa đại tá - Grand cự lại - đó cũng là tin tức. Viết ra, chúng tôi có thể trợ lực thêm cho các ông.
- Chớ, chớ nên, để cho các nhà ngoại giao làm với nhau về vấn đề này đã.
- Nhưng viết ra thì có hại gì?
Những nhà báo người Pháp ngồi đó rất hoang mang. Họ viết rất ít tiếng Anh. Viên đại tá đã làm trái với những quy định. Họ nhìn nhau với vẻ bất bình.
- Tôi không phải là người phán xét - đại tá nói tiếp - có lẽ những nhà báo Mỹ sẽ viết: "Ôi, những người Pháp khi nào cũng ca cẩm, khi nào cũng ngửa tay ra xin". Và ở Paris, những người cộng sản sẽ kết tội: Người Pháp đổ máu cho châu Mỹ mà châu Mỹ không gửi cho cả một chiếc máy bay lên thẳng cũ. Viết để làm gì? Rút cuộc máy bay thì vẫn thiếu mà địch thì vẫn ở đó, cách Hà Nội 60 km.
- Ít ra tôi có thể viết rằng các ông đang cần máy bay lên thẳng?
- Các ông có thể viết - đại tá nói - rằng 6 tháng trước chúng tôi có ba chiếc trực thăng, nhưng bây giờ chỉ còn một. "Một" - ông ta nhắc lại với vẻ kinh ngạc cay đắng - các ông có thể viết nếu có một người bị thương, không cần bị thương nặng, chỉ cần bị đạn làm xước da thôi, thì hắn biết chắc mình sẽ chết. Phải chờ 12 giờ, có khi 24 giờ trên một chiếc cáng để đi tới trạm cứu thương qua những đường mòn, có khi bị pan xe, có khi gặp trận phục kích, gặp bệnh hoại thư… Bởi vậy, thà chết còn hơn (Những nhà báo Pháp nghiêng người về phái trước, cố tìm cách hiểu). Các ông có thể viết những điều đó - đại tá kết luận, vẻ điển trai của ông chỉ làm tăng thêm câu nói cay độc. Bây giờ, dịch đi - ông nói ra lệnh cho người sĩ quan thông ngôn và rời phòng họp, mặc cho người phiên dịch ôm lấy cái công việc khác thường là dịch từ Anh sang Pháp.
- Tôi đã chọc đúng vào vết thương - Grand khoái trá nói.
Rồi hắn ra một góc thảo bức điện. Bức điện của tôi thì ngắn thôi, vì những người kiểm duyệt chẳng cho tôi gửi điều gì có thể viết về Phát Diệm. Nếu câu chuyện lý thú tôi có thể đáp máy bay đi Hong Kong, rồi gửi tin từ đó về nước. Nhưng có tin nào lý thú đến nỗi gửi đi, mà có thể bị trục xuất không?
Phải tính toán kỹ. Bị trục xuất là hết đời, là sự đại thắng của Pyle. Ấy thế mà khi trở về khách sạn, tôi thấy đúng bằng chứng về thắng lợi của Pyle nằm trong ngăn kéo, sự kết thúc của tôi: Bức điện mừng tôi được thăng cấp. Nhà thờ Dante cũng không nghĩ ra kiểu chơi độc ác như vậy đối với số phận những cặp tình nhân khốn khổ của mình. Paolo không hề được đề bạt để vào tĩnh thổ tây oan.
Tôi lên căn phòng trần trụi của tôi với chiếc máy nước rò rỉ (ở Hà Nội không có hệ thống cung cấp nước nóng) và ngồi trên mép giường, trên đầu tôi là cái màn toòng teng như một đám mây mọng nước. Tôi sẽ là người biên tập phụ trách phần tin nước ngoài, mỗi buổi chiều đúng 3h30 phải tới tòa nhà ảm đạm xây theo kiểu thời nữ hoàng Victoria gần nhà ga Blecfrie, nơi gần thang máy có gắn biển kỷ niệm huân tước Sonbore.
Người ta đã gửi tin tốt lành đó từ Sài Gòn ra cho tôi và tôi không rõ tin đã đến tai Phượng chưa. Tôi sẽ không còn được làm phóng viên nữa. Từ nay trở đi, tôi sẽ có quan điểm về các vấn đề và đổi lấy cái đặc quyền rỗng tuếch đó, tôi sẽ bị tước khỏi hy vọng cuối cùng của tôi là cuộc đọ sức với Pyle. Võ khí của tôi để chống lại sự trinh bạch của hắn là những kinh nghiệm của tôi. Trong cái trò chơi về quan hệ nam nữ, kinh nghiệm cũng là lá bài tốt như sự trai tráng, nhưng từ nay không còn có cái thời hạn 12 tháng để dành cho tương lai nữa. Và con chủ bài chính lại là ở tương lai. Thấy những sĩ quan bị dằn vặt vì nỗi nhớ gia đình và bị đẩy ra nơi chết chóc, tôi lại thèm được như vậy. Tôi muốn khóc, nhưng đường ống dẫn nước mắt của tôi bị khô cạn như đường ống dẫn nước nóng của máy nước. Ừ, sao không trả gia đình cho những sĩ quan!... Còn tôi thì lại chỉ ao ước một căn phòng ở phố Catina thôi.
Trời rét đêm đã xuống, ở Hà Nội đèn không sáng như màu sẫm của phụ nữ, với thực tế của thời chiến. Tôi đi ngược phố Gambetta lên quán rượu Hòa Bình. Tôi không muốn nhậu nhẹt tại khách sạn Metropol cùng với đám sĩ quan cao cấp Pháp có vợ hay tình nhân đi theo.
Và khi tới quán rượu, tôi nghe thấy tiếng đại bác nổ như sấm rền về phía Hòa Bình. Ban ngày tiếng súng lẩn vào xe cộ, nhưng vào giờ này, tất cả đều im tiếng, trừ tiếng xích lô leng keng tại nơi xe đỗ chờ đón khách. Pietri đã ngồi vào chỗ quen thuộc. Hắn có một cái đầu dài đặt trên đôi vai nom như một quả lê đặt trên một cái đĩa, hắn đã là sĩ quan cảnh sát đã lấy cô vợ xinh đẹp chủ nhân quán rượu. Đây cũng là một người chắc chẳng muốn trở về quê chút nào. Hắn là người đảo Corse, nhưng hắn ưng Marseille hơn, và nay thì ưng cái ghế ngồi của mình trên hè phố Gambetta hơn Marseille. Tôi tự hỏi không rõ hắn có biết tôi nhận được bức điện có nội dung ra sao chưa.
- Làm một ván 421 chăng? - hắn hỏi.
- Sao không làm nhỉ?
Chúng tôi bắt đầu gieo những con xúc xắc và tôi nghĩ không thể có một cuộc đời nào khác, xa phố Gambetta, phố Catina, xa những cốc Vemus Casi nhạt hoét, xa tiếng xúc xắc quen thuộc, xa tiếng đại bác nổ vòng qua bốn phương như vòng chạy của chiếc đồng hồ.
- Tôi sẽ trở về - tôi nói.
- Về nhà? Pietri vừa hỏi vừa gieo xúc xắc.
- Không, về nước.
CHƯƠNG 10
Pyle thu xếp để mời dự một bữa tiệc rượu, nhưng tôi biết hắn không phải là người mê rượu. Sau vài tuần kể từ buổi gặp gỡ kỳ lạ ở Phát Diệm, tôi vẫn thấy có những điều khó tin được là sự thật: Những chi tiết của nội dung cuộc nói chuyện với nhau càng thêm mơ hồ. Chúng giống như những nét chữ đã bị mờ mất trên một ngôi mộ La Mã cổ mà tôi là người khảo cổ phải điền vào, theo vốn kiến thức chủ quan của mình. Có lúc tôi tưởng hắn đùa, tất cả câu chuyện chỉ là sự ngụy trang lắt léo và hài hước để che giấu một ý đồ thực, vì tin đồn Sài Gòn đã cho rằng Pyle là người của một trong những cơ quan đó cung cấp vũ khí Mỹ cho một lực lượng thứ ba, cái đội kèn đồng của giám mục, hay những tên lính mới mộ của ngài, luôn luôn sợ sệt và không bao giờ được hưởng lương. Tôi vẫn để trong túi áo bức điện nhận được ở Hà Nội. Không cần báo cho Phượng làm gì, như vậy chỉ làm cho ba tháng tôi còn được ở Sài Gòn bị đầu độc vì những giọt nước mắt và những cuộc cãi lộn. Và khi xin thị thực xuất cảnh cũng nên chờ đến ngày chót, đề phòng có người nhà của cô làm việc tại Sở Xuất nhập cảnh.
- 6h, Pyle sẽ tới chơi - tôi nói với Phượng.
- Tôi tới nhà bà chị.
- Được gặp cô, anh ta sẽ vui lắm đấy.
- Anh ta chẳng quý gì tôi, chẳng quý gì cả họ hàng của tôi. Khi anh đi vắng, chị tôi mời, nhưng anh ta chẳng thèm lại, làm bà chị giận không để đâu hết.
- Cô chẳng cần phải lánh mặt.

- Nếu anh ta muốn gặp tôi thì cứ việc mời chúng tôi đi ăn tại nhà hàng Magestic. Chắc lại muốn gặp riêng anh để bàn công việc thôi.
- Hắn ta đang nhúng tay vào việc gì đó?
- Người ta đồn rằng hắn nhập cảng nhiều loại hàng lắm đấy.
- Hàng gì?
- Thuốc nước, thuốc viên…
- Nhập cho những đội chống bệnh đau mắt ở miền Bắc đấy mà.
- Có lẽ. Hải quan không được phép mở. Đó là những kiện hàng giao. Nhưng một hôm người ta nhỡ mở nhầm và người mở bị đuổi luôn. Viên bí thư thứ nhất dọa đình chỉ tất cả việc gửi hàng sang.
- Trong hòm có gì?
- Thuốc nổ dẻo.
- Họ cần gì đến chất nổ dẻo? - tôi làm ra vẻ thờ ơ, nói.
Khi Phượng đi ra, tôi viết thư về Anh. Một nhân viên hãng Reuters vài ngày nữa sang Hong Kong và từ đó có thể gửi hộ thư cho tôi. Tôi biết cuộc vận động của tôi sẽ không đạt được kết quả gì, nhưng sau này tôi không muốn tự trách là đã không dùng hết cách. Tôi viết cho ông Chủ nhiệm tờ báo của tôi rằng chưa phải lúc thay đổi phóng viên. Tướng De Cat đang ngắc ngoải ở Paris, người Pháp sắp tháo chạy khỏi Hòa Bình, miền Bắc Việt Nam chưa bao giờ đứng trước một nguy cơ lớn như vậy. Tôi không được đào tạo để thành một biên tập viên về đối ngoại, tôi là một phóng viên, tôi chẳng có quan điểm về tình cảm riêng tư của tôi, tuy không tin tí nào rằng một chút thiện cảm của tình người lại sống sót được dưới ánh sáng trần trụi, giữa những lưỡi trai xanh và những câu nói rập khuôn như "lợi ích tờ báo", "hoàn cảnh bắt buộc"…
Tôi viết: "Vì những lý do cá nhân, tôi sẽ rất khổ sở nếu phải cách xa Việt Nam. Tôi không tin rằng tôi sẽ làm việc một cách tốt nhất khi ở Anh, ở đó tôi sẽ vấp phải những khó khăn không phải chỉ về mặt tài chính, mà về mặt gia đình. Thực ra nếu có thể được, tôi sẽ từ chức hơn là về Anh. Tôi chỉ nhân tiện nói qua điều này để chứng tỏ rằng sự phản đối của tôi thật là mạnh mẽ. Tôi không tin rằng ông sẽ phải phàn nàn về tôi trong nhiệm vụ phóng viên và đó là ân huệ đầu tiên mà tôi xin ở ông".
Tôi đọc lại bài viết về trận đánh ở Phát Diệm gửi đi từ Hong Kong. Người Pháp sẽ không bực bội về bài này lắm: cuộc bao vây đã được giải tỏa, một chiến bại có thể được ngụy trang bằng chiến thắng. Rồi tôi lại xé trang thư cuối cùng. Viết làm gì? Những lý do cá nhân sẽ chỉ là cái đích cho những lời châm biếm thâm độc. Người ta đã khẳng định rằng mỗi phái viên đều có một sự dan díu với một cô gái bản địa. Biên tập viên ca ban sáng sẽ kể câu chuyện này với biên tập viên ca chiều và tên này sẽ biến chuyện thành một sự ghen tỵ mà hắn đem theo với hắn khi chui vào chăn ngủ với bà vợ trung thành hắn đưa từ Glasgo về từ mấy mươi năm xưa. Tôi hình dung rõ rệt cái kiểu nhà ở lạnh lẽo, với chiếc xe bánh hỏng để ở nơi ra vào, chiếc tẩu thuốc lá ưa thích nhất đã bị ai đánh vỡ, trong phòng khách kiêm phòng ăn có chiếc áo sơ mi trẻ con đứt cúc. Sau này, khi ra uống rượu tại Câu lạc bộ báo chí, tôi không muốn người ta, bằng những câu bông đùa nói tới "lý do cá nhân" của yêu cầu, nhắc lại hình ảnh Phượng. Có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và mời Pyle vào, con chó đen chạy trước y, Pyle nhìn qua vai tôi và thấy trong phòng không có ai.
- Tôi ở nhà một mình, Phượng đi đến nhà bà chị chơi.
Hắn đỏ mặt. Tôi thấy hắn mặc chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii nhưng màu và hình vẽ cũng nhã nhặn. Điều này làm tôi hơi ngạc nhiên: Hắn bị tố cáo là có hoạt động chống Mỹ sao?
- Hy vọng là tôi không làm phiền anh - hắn nói.
- Có gì mà phiền. Anh uống gì?
- Cám ơn. Uống bia.
- Rất tiếc tôi không có tủ lạnh để ủ bia. Gọi đá ngoài vậy. Uống tí Scoth chăng?
- Tí chút thôi, anh bằng lòng vậy. Tôi không mê rượu lắm.
- Nguyên chất?
- Pha nhiều soda vào, tôi chắc anh không thiếu thứ này
- Từ bữa sống ở Phát Diệm, tôi không gặp lại anh.
- Anh có nhận được thư của tôi không, anh Thomas?
Khi hắn gọi tôi bằng tên thánh, tôi thấy như hắn tuyên bố đây không đùa, đây không bóp méo sự thật, mà đây đến để cướp Phượng đấy. Tôi thấy tóc hắn mới được cắt còn cái kiểu áo Hawaii là bộ cánh mặc ngày cưới chăng?
- Có nhận được thư anh. Đáng lẽ phải trả lời anh bằng mấy quả đấm.
- Tất nhiên anh có quyền tuyệt đối để làm như vậy. Tuy nhiên, xin anh biết cho là tôi đã học quyền anh ở trường đại học và tôi trẻ hơn anh nhiều.
- Không thú à, anh cho là tôi có thái độ như vậy là sai lầm ư?
- Anh biết đấy anh Thomas (và chắc hắn cũng nghĩ như tôi), tôi không muốn anh nói về Phượng đằng sau lưng cô ta. Tôi tưởng cô ta có mặt ở đây.
Tuy không định trước, tôi lại cho cho hắn nghe câu đột ngột đó.
CHƯƠNG 11
Anh cũng biết việc này à? - hắn nói.
- Phượng kể với tôi.
- Sao cô ta biết được?
- Anh cứ tin rằng cả thành phố đang nói về việc đó. Có gì là quan trọng đâu? Các anh sắp lao vào việc sản xuất đồ chơi à?
- Chúng tôi không muốn những điều chi tiết trong công việc cứu trợ của chúng tôi bị đưa tin tràn lan. Anh hiểu các vị đại biểu Quốc hội là thế nào rồi đấy… lại thêm các ngài Nghị viên đi công du nữa. Công cuộc "chống nạn đau mắt" của chúng tôi đã gặp không biết bao nhiêu điều phiền hà rồi, do dùng loại thuốc này hay thuốc khác.
- Tôi vẫn không hiểu tại sao phải cần đến thuốc nổ.
Con chó đen của hắn thở hổn hển, ngồi trên sàn và chiếm nhiều chỗ quá, lưỡi cứ thè ra giống như một miếng bánh xèo bị cháy. Pyle trả lời tôi một cách mơ hồ:
- Ồ, anh biết đấy, chúng tôi định dựng lại một vài ngành công nghiệp địa phương và chúng tôi phải đối phó với những người Pháp, họ cứ bắt mọi thứ đều phải mua tại nước họ.
- Tôi hiểu họ. Người ta cần tiền để tiến hành chiến tranh.
- Anh có thích chó không?
- Không.
- Tôi tưởng tất cả người Anh đều mê chó.
- Tôi thì tưởng người Mỹ nào cũng mê đôla, nhưng cũng có ngoại lệ chứ.
- Tôi không hiểu tôi làm gì nếu không có con Dich này. Lắm lúc thấy mình cô độc quá, anh hiểu cho…
- Anh có nhiều bạn bè đấy chứ.
- Con chó đầu tiên của tôi là Hoàng. Tôi đặt cho nó cái tên để liên tưởng đến Hoàng tử Đen… Cái ông Hoàng…
- Cái ông Hoàng đã giết sạch đàn bà, trẻ con của thành phố Limoz
- Tôi không nhớ điều này.
- Những sách giáo khoa về môn sử đã lờ nó đi.
Số phận của tôi như phải luôn chứng kiến nỗi đau khổ hiện lên măt, lên miệng hắn, khi hắn bị cụt hứng, khi hắn biết thực tế không đúng như ý nghĩ thơ mộng hắn ấp ủ, hay khi một nhân vật hắn kính yêu không đạt tầm vóc lý tưởng mà hắn gán cho. Tôi nhớ có một lần tôi phải an ủi hắn khi tôi phát hiện ra trong sách York Hardin một sự sai lầm sống sượng.
- Con người làm sao tránh khỏi sai sót.
Hắn đã cười một cách bực dọc và đáp:
- Chắc anh cho tôi là một đứa ngốc, nhưng thế mà tôi coi ông ta gần như không thể nào có sai lầm. Ông thân sinh ra tôi trong bữa gặp nhau độc nhất đã mê ông ta, mà cụ thì có mấy khi vừa lòng về điều gì đâu.
Con chó to mang tên là Dich, sau khi thở hổn hển đủ lâu để đoạt lấy hết không khí có thể hít thở được, bây giờ lại chạy quăng trong phòng.
- Anh có thể bảo con chó của anh nằm yên được không?
- Xin lỗi, Dich, Dich, nằm xuống…
Dich ngồi xuống, liếm hạ bộ. Tôi đứng lên rót thêm rượu và khi đi qua cố làm cho nó ngừng việc vệ sinh đó. Hòa bình giữa tôi và nó thật là ngắn ngủi, liền sau đó nó lại gãi mình sồn sột.
- Dich thông minh một cách lạ thường - Pyle nói.
- Con Hoàng ra sao rồi?
- Khi chúng tôi ở trong trại tại Conecticut thì nó bị chẹt chết.
- Anh có bị xúc động lắm không?
- Tôi buồn quá. Nó đã chiếm một chỗ quan trọng trong đời tôi, nhưng ta cũng phải biết điều. Không có cách gì làm cho chó sống lại được.
- Nếu anh mất Phượng, anh có biết điều không?
- Ồ, có chứ, tôi hy vọng vậy. Còn anh?
- Tôi không tin sẽ biết điều. Tôi có thể bị điên đến phát rồ mất. Có bao giờ anh nghĩ đến điều đó không, anh Pyle?
- Anh Thomas, tôi muốn gọi anh là Andon.
- Tôi lại không muốn, tên Pyle gợi cho tôi những ý nghĩ khác. Anh nói xem, anh có nghĩ đến điều đó không?
- Không, lẽ tất nhiên. Anh là kiểu người chín chắn nhất mà tôi được biết. Tôi nhớ lại cách anh đã tiếp tôi khi đêm nào tôi nhảy xổ vào anh…
- Tôi nhớ rằng đêm hôm đó trước khi ngủ, tôi đã nghĩ nếu địch tấn công mà anh chết quách đi thì mọi việc đều ổn. Chết trong danh dự. Chết cho nền dân chủ.
- Đừng nhạo báng tôi, anh Thomas. (Hắn co chân này vào, duỗi chân kia ra y như đang bị khó ở). Dưới mắt anh, tôi có vẻ khờ khạo chút đỉnh, nhưng khi anh định xỏ mũi tôi, tôi biết ngay.
- Tôi đâu có xỏ mũi anh.
- Tôi hiểu rằng trong thâm tâm anh cũng muốn hành động ra sao để bảo vệ được lợi ích Phượng một cách chắc chắn nhất.
Chính đến lúc đó, tôi nghe tiếng chân Phượng. Tôi đã hy vọng một cách vô vọng rằng hắn ta sẽ rút lui trước khi Phượng về. Hắn cũng nghe thấy tiếng chân Phượng, tuy hắn chỉ có được một tối để học nghe tiếng bước đi của cô ta.
- Cô ấy đây rồi - hắn nói.
Con chó cũng đứng lên đi ra tận cái cửa tôi để mở cho thoáng mát, như thể nó ra đón bà chủ nhà. Tôi lại thành kẻ lạ vào nhà mình.
- Chị tôi đi vắng - Phượng nói và nhìn Pyle một cách thận trọng.
Tôi tự hỏi không rõ cô ta nói thật hay bà chị đã bảo cô ta về nhà cho mau.
- Cô nhận ra ông Pyle chứ? - tôi nói.
- Hân hạnh.
Cô chứng minh rằng mình cũng là người lịch sự.
- Tôi sung sướng được gặp lại cô - hắn đỏ mặt.
- Gì cơ ạ?
- Cô ấy biết rất ít tiếng Anh - tôi giải thích.
- Tôi lại cho rằng tiếng Pháp của tôi quá tồi. Nhưng tôi đang học thêm. Và tôi cũng hiểu được… nếu cô Phượng nói chầm chậm cho.
- Tôi xin làm người dịch - tôi nói - phải mất một thời gian các anh mới nắm được cách phát âm của người bản xứ. Nào, bây giờ anh muốn nói gì với cô ta? Phượng ngồi xuống đi. Ông Pyle đến chính là vì em. Hay là - tôi hỏi Pyle - anh muốn tôi để hai người nói chuyện riêng với nhau? Thế nhé?
- Tôi muốn anh nghe tất cả những điều tôi cần nói. Làm khác đi sẽ không đàng hoàng, trung thực.
- Thế cũng được. Nào, xin mời.
Pyle nói một cách trịnh trọng như hắn đã học thuộc lòng cái bài hắn phải nói này, rằng hắn rất yêu, rất kính trọng Phượng. Tình cảm đó nảy sinh từ hôm hắn khiêu vũ với cô. Cách nói của hắn gợi cho tôi cảm nghĩ như khi một viên quản gia dẫn đám khách du lịch đi thăm một lâu đài cổ nhỏ. Lâu đài cổ là con tim Pyle và chúng tôi là khách chỉ được liếc nhìn vào những căn phòng riêng mà gia đình đang ở. Tôi dịch rất sát lời hắn, điều đó lại càng làm những lời đó có vẻ vụng về, tồi tệ. Và Phượng ngồi nghe, không cử động, tay đặt lên đầu gối, y như khi ở rạp chiếu bóng.
CHƯƠNG 12
- Cô ta có hiểu những điều đó không? - hắn hỏi.
- Theo ý tôi thì hiểu được. Anh có muốn tôi thêm chút nhiệt tình vào lời nói không?
- Ồ không, anh cứ dịch lời thôi. Tôi không muốn gây ảnh hưởng bằng sự tác động đến tình cảm của cô ấy.
- Rõ.
- Anh nói hộ là tôi muốn lấy cô ấy làm vợ.
Tôi dịch.
- Ý kiến cô ta ra sao?
- Cô ta hỏi anh có định nghiêm túc không? Tôi bảo cô ta rằng anh là người rất nghiêm túc.
- Thật là một tình huống lạ kỳ. Tôi lại bắt anh dịch những lời như thế của tôi.
- Kể cũng khá lạ kỳ.
- Nhưng như thế lại có vẻ tự nhiên. Vì suy cho cùng anh là người bạn thân nhất của tôi.
- Anh thật đáng yêu khi nói như vậy.
- Khi gặp điều phiền hà nào, trước hết tôi phải nhờ cậy vào anh.
- Và tôi trộm nghĩ nếu rằng đi yêu người tình của tôi cũng là một điều phiền hà?
- Đúng thế. Tôi rất khổ tâm khi điều đó lại đến với chính anh, anh Thomas ạ.
- Được. Bây giờ tôi nói gì nữa? Nói rằng không lấy được cô ấy thì anh sẽ chết?
- Không, đừng làm cô ấy xúc động. Vả chăng sự thật không hẳn là như thế. Tất nhiên, tôi bắt buộc phải xin thuyên chuyển, nhưng anh ta sẽ phải tự an ủi về tất cả những sự bất hạnh thôi.
- Trong khi anh nghĩ xem nói tiếp điều gì nữa, anh cho phép tôi bênh vực lợi ích của chính tôi, có được không?
- Được, được. Như vậy mới công bằng, anh Thomas ạ.
- Này, Phượng này - tôi nói - cô có bỏ tôi để đi theo anh ta không? Anh ta sẽ lấy cô làm vợ. Tôi thì không được phép lấy. Cô hiểu tại sao chứ?
- Thế anh cũng sắp đi về à? - cô hỏi và tôi thì nghĩ đến lá thư của tòa báo đang nằm trong túi.
- Không.
- Không bao giờ chứ?
- Làm sao hứa với cô điều đó được? Chính hắn cũng không hứa nổi với cô. Những vụ kết hôn có thể bị tan vỡ. Nó lại thường tan vỡ mau hơn những lối chung sống như giữa cô và tôi.
- Tôi chẳng muốn đi đâu.
Phượng trả lời như vậy, nhưng tôi không vì thế mà phấn khởi vì câu nói như đã có chữ "nhưng" kín đáo không nói ra.
- Tôi cho rằng - Pyle nói - bây giờ tôi phải hạ tất cả những con bài của tôi xuống. Tôi không giàu. Nhưng khi cha tôi chết, tôi có 50.000 đôla. Tôi không có bệnh tật gì. Tôi có giấy chứng nhận sức khỏe mới được cấp cách đây hai tháng và tôi có thể đưa cô ta giấy chứng nhận về máu tôi thuộc nhóm số mấy.
- Tôi không biết dịch điều này. Để làm gì nhỉ?
- À, để cô ấy biết chắc rằng hai người có thể sinh con đẻ cái với nhau.
- Ở Mỹ các anh tỏ tình với phụ nữ như vậy hay sao? Số thu nhập và số nhóm máu?
- Tôi cũng không rõ. Đây là lần đầu đối với tôi. Nếu cùng ở Mỹ cả thì chắc mẹ tôi sẽ nói với mẹ cô ta.
- Về số nhóm máu?
- Đừng giễu tôi, Thomas. Chắc tôi có những ý nghĩ cổ lỗ quá. Anh hiểu là tôi ở trong trường hợp này cũng lúng túng.
- Tôi cũng vậy. Anh xem có nên bỏ quách tất cả câu chuyện này để đánh xúc xắc với nhau xem ai thắng thì được cô ta không?
- Anh Thomas, đừng giả bộ anh hùng rơm làm gì. Tôi hiểu rằng, anh yêu cô ta cũng như tôi yêu cô ta, anh yêu theo kiểu của anh.
- Nhất định rồi, bây giờ anh nói tiếp đi.
- Anh nói hộ rằng tôi không có hy vọng được cô ta yêu ngay tức khắc. Việc đó sẽ đến với thời gian, nhưng cái mà tôi đem lại cho cô ta là sự an toàn. An toàn có vẻ là một lợi ích không sôi động lắm, nhưng có giá hơn sự say đắm.
- Cô ta có thể tìm được sự say đắm với người lái xe trong khi anh làm việc ở bàn giấy.
Pyle đỏ mặt. Hắn đứng lên một cách vụng về.
- Điều anh nói là lệch lạc và thô lỗ. Tôi cấm không cho ai thóa mạ cô ta. Anh không có quyền…
- Cô ta đã là vợ anh đâu?
- Liệu anh đem lại cho cô ta được những cái gì? - và hắn nói trong cơn thịnh nộ - hai trăm đôla khi anh về nước chứ gì? Quá lắm là thêm bộ bàn ghế.
- Bàn ghế không phải là của tôi.
- Cô ta cũng không phải là của anh! Phượng, cô có muốn lấy tôi không? - Này, còn nhóm máu? Và giấy chứng nhận sức khỏe trước khi cưới? Chắc anh cũng cần thứ giấy đó của cô ta. Có lẽ anh cần cả bệnh án cô ta nữa. Và lá số tử vi. À, không, cái đó là theo phong tục Ấn Độ.
CHƯƠNG 13
Cô có muốn lấy tôi không? - Pyle lại nhắc.
Tôi tiến lại một bước về phía Phượng và con Dich lại gầm gừ. Tôi nói với Phượng:
- Cô bảo thằng cha ấy cút đi và mang cả chó theo.
- Cô đi với tôi ngay đi - Pyle nói.
- No - Phượng đáp.
Đột nhiên tất cả cơn giận dữ của chúng tôi xẹp hẳn đi, nỗi giận của tôi cũng như Pyle. Vấn đề cũng không khó giải quyết đến thế. Người ta có thể giải quyết nó bằng một từ quá đơn giản. Tôi nhẹ hẳn người đi, còn Pyle đứng đó, mồm há hốc, ngẩn người ra. Hắn nói:
- Cô ta bảo không.
- Cô ta chỉ sử dụng được tiếng Anh tới mức đó.
Tôi bây giờ lại muốn cười: Pyle đã ngốc nghếch biết mấy!
- Mời anh ngồi - tôi nói - ta uống thêm một cốc Whisky nữa, anh Pyle.
- Tôi nghĩ rằng tôi phải rút lui.
- Làm một chén chia tay đã!
- Tôi uống hết Whisky của anh mất - hắn lẩm bẩm.
- Cần bao nhiêu, đến Lãnh sự quán Anh, tôi sẽ có.
Tôi đi một bước về phía cửa và con chó lại nhe nanh.
- Nằm ngay, Dich. Ngoan nào, Pyle quát, vẻ giận dữ, tay lau mồ hôi trán - tôi rất ân hận, anh Thomas ạ, ám ảnh tôi hay sao ấy. Hắn bỏ kính xuống nói tiếp, tư lự và buồn bã: Kẻ nào xứng đáng hơn thì thắng trận. Nhưng xin anh Thomas, anh đừng bao giờ bỏ rơi cô ta.
- Lẽ tất nhiên, tôi sẽ không bỏ cô ta - tôi nói.
- Anh ta có muốn làm một điếu thuốc không? - Phượng hỏi.
- Anh có hút thuốc phiện không?
- Không. Cám ơn. Tôi không bao giờ sờ đến thuốc phiện và điều lệnh của cơ quan tôi rất nghiêm đối với vấn đề này. Tôi cạn chén và xin về. Xin lỗi vì con Dich hư quá. Mọi khi nó ngoan hơn.
- Ở lại xơi cơm với chúng tôi đã!
- Nếu điều này không làm các bạn phiền, thì tôi muốn được ở yên một mình - hắn nói với một nụ cười gượng gạo - tôi nghĩ rằng người ngoài cuộc sẽ nói cách cư xử của chúng ta thật kỳ lạ. Tôi muốn anh lấy cô ta làm vợ chính thức, anh Thomas ạ.
- Thật ư?
- Thật vậy. Từ khi tôi vào cái nơi… anh hiểu, cái nhà ngay cạnh quán Sale, tôi sợ quá.
Hắn vội nuốt chất rượu Whisky hắn vốn không quen dùng, không nhìn Phượng và khi từ biệt, đáng lẽ bắt tay, thì hắn gật đầu chào một cách cứng nhắc và vụng về. Tôi thấy Phượng nhìn theo hắn ra đến tận cửa và khi đi qua tấm gương, tôi nhìn thấy hình tôi với chiếc cúc quần trên tuột và bụng bắt đầu phệ.
Xuống tới bậc cầu thang, Pyle còn nói với:
- Tôi hứa là không lại thăm cô ta, anh Thomas ạ. Những gì xảy ra không được làm chúng ta xa nhau, phải không? Hết nhiệm kỳ, tôi sẽ xin đi nơi khác.
- Bao giờ hết?
- Gần hai năm nữa.
Tôi trở vào phòng vừa đi vừa nghĩ: Như thế này để làm gì nhỉ? Đáng lẽ tôi cũng có thể nói cho họ biết rằng tôi cũng sắp đi. Hắn chỉ phải trưng con tin ứa máu của hắn lên như một tấm huy chương trong vài tuần nữa thôi… Tôi nói dối đâm ra lại làm lương tâm hắn được thắc mắc.
- Tôi tiêm cho anh một điếu thuốc nhé? - Phượng hỏi.
- Được, nhưng lát nữa. Chỉ chờ tôi viết xong một lá thư thôi.
Đó lá thư thứ hai trong ngày, nhưng tôi không xé đi, tuy biết thư thứ hai chẳng hy vọng gì được trả lời thỏa đáng, cũng như thư thứ nhất vậy.
Tôi viết:
Helen thân mến,
Tháng 4, tôi sẽ về nước để làm nhiệm vụ biên tập đối ngoại của báo. Chắc bà cũng tưởng tượng nổi là tôi không lấy điều đó làm một việc vui sướng. Nước Anh là sân khấu của những thất bại đối với tôi. Tôi đã hy vọng rằng cuộc tình duyên của chúng ta sẽ lâu bền tới chừng nào mà tôi còn chia sẻ với bà niềm tin ở đạo Thiên Chúa. Đến bây giờ, tôi cũng không biết rõ điều không yên ấm do đâu mà ra (tôi biết cả hai chúng ta đều đã cố gắng), nhưng tôi tin rằng nguyên nhân là ở tính nết của tôi. Bây giờ nó khá hơn một chút: Phương Đông đã tác động tới tôi, tôi không hiền hơn, nhưng bình thản hơn xưa. Có lẽ đơn giản hơn là vì tôi đã có thêm 5 năm tuổi đời, ở vào thời điểm mà 5 năm là một khoảnh quan trọng trong phần còn lại của cuộc đời. Bà đã rất độ lượng đối với tôi và từ khi xa nhau, bà chưa trách móc tôi lần nào. Bây giờ bà có thể độ lượng thêm một mức nữa không? Tôi biết rằng trước khi lấy nhau, bà đã báo trước rằng sẽ không bao giờ có thể ly hôn với nhau được. Tôi đã chấp nhận sự mạo hiểm đó và bây giờ không thể trách bà vào đâu được. Tuy vậy, bây giờ tôi vẫn cứ xin bà cho ly hôn.
Từ giường nằm, Phượng gọi lại, nói khay điếu đã sẵn sàng.
CHƯƠNG 14
- Em chờ cho lát nữa.
- Tôi lại viết tiếp:
Tôi có thể phủ lên tất cả việc này một tấm màn khiến thái độ của tôi ra vẻ có phẩm giá và đáng kính hơn, bằng cách nói tôi hành động vì lợi ích của một người nào khác. Nhưng đó là điều dối trá và chúng ta đã có thói quen là nói đúng sự thật với nhau. Vậy tôi làm việc là vì tôi, chỉ vì tôi. Tôi đang yêu, rất say đắm, chúng tôi đã sống chung với nhau hơn hai năm, cô ta đã hết mực trung thành với tôi, nhưng đến lúc này, tôi không cần thiết cho cô ta nữa. Nếu tôi xa cô ta, cô sẽ mất đi một ít hạnh phúc, nhưng không bi đát lắm. Cô ta sẽ lấy người khác và sẽ có con. Viết cho bà như vậy, tôi quả là ngu ngốc vì bao giờ cũng thật thà, tôi nói điều này có lẽ bà tin, mất cô ta là cái chết bắt đầu đến với tôi. Tôi không yêu cầu bà "biết điều" (lẽ phải hoàn toàn thuộc về phía bà) hay tỏ lòng thương hại tôi. Thương là một từ quá đáng đối với hoàn cảnh tôi, vả lại, tôi chẳng đáng để ai thương hại một cách đặc biệt. Tôi cho rằng sự thật tôi đang yêu cầu bà sẽ làm một điều phi lý, trái đời. Tôi mong rằng, bị thúc đẩy bởi… (tôi ngần ngừ, trước khi viết chữ này), lòng thân ái, bà sẽ hành động trước khi có thì giờ suy nghĩ kỹ. Thật ra, nếu nói qua điện thoại thì tiện hơn, vì chúng ta xa nhau mười hai nghìn ki lô mét. Giá bà điện cho tôi một cách đơn giản: "Đồng ý".
Khi viết xong, tôi có cảm giác là đã vừa chạy một thôi dài và đã bắt những cơ bắp thiếu rèn luyện phải làm việc quá sức. Tôi nằm dài ra giường lúc Phượng sửa soạn tiêm thuốc.
- Hắn ta còn thanh niên - tôi nói.
- Ai?
- Pyle.
- Điều ấy chẳng lấy gì làm quan trọng.
- Phượng này, nếu được phép thì tôi sẽ lấy cô.
- Tôi hiểu, nhưng chị tôi khong tin như vậy.
- Tôi vừa viết thư cho vợ chồng tôi và yêu cầu bà ta cho tôi ly hôn. Từ trước tôi chưa thử làm như vậy. Phải tính đến khả năng đó.
- Khả năng có lớn không?
- Không lớn, nhưng cũng có.
- Anh cứ yên tâm, nào, hút đi nào.
Tôi hút điếu thuốc và Phượng chuẩn bị tiêm điếu thứ hai.
- Có thật bà chị cô lúc nãy đi vắng không?
- Tôi đã nói thật. Bà ta không có nhà.
Thật vô lý khi bắt cô ta phải phục tùng cái đam mê tìm sự thật rất là theo thói châu Âu ấy, giống như sự ham mê uống rượu. Vì đã uống Whisky với Pyle, tác động của thuốc phiện bị giảm nhẹ.
- Tôi đã nói dối cô. Tôi đã nhận được lệnh phải trở về Anh.
Cô ta để chiếc điếu xuống.
- Nhưng anh không về chứ?
- Nếu không về, chúng ta sống bằng gì?
- Tôi sẽ đi theo anh. Tôi muốn được biết London
- Nếu chúng ta không chính thức làm vợ chồng thì sẽ phiền cho cô đấy.
- Nhưng biết đâu vợ anh chẳng ly dị với anh.
- Có thể.
- Đằng nào tôi cũng đi theo anh.
Cô ta nghĩ như vậy, nhưng trong khi cô ta cầm lại cái điếu và nướng thuốc, tôi thấy trong mắt cô nảy ra bao nhiêu là ý nghĩ.
- Ở London có nhà chọc trời không?
Câu hỏi ngây thơ làm tôi tràn ngập lòng yêu thương Phượng. Cô ta, vì lịch sự, có thể nói dối, hay vì sợ hãi, vì lợi lộc, nhưng không đủ khéo léo để giấu giếm được sự dối trá của mình.
- Không, phải sang Mỹ mới nhận thấy được.
Cô ta thoáng nhìn tôi và nhận ra sự sai lầm của mình. Rồi vừa vê thuốc, cô vừa nói linh tinh về những quần áo sẽ mặc khi ở London, về nơi sống với nhau, về đường tàu điện ngầm và những chiếc xe khách hai tầng mà cô đã thấy tả trong một cuốn truyện, về việc đi về bằng máy bay hay tàu biển.
- Lại cả tượng thần Tự Do… - cô nói.
- Không, Phượng ạ, tượng đó cũng ở bên Mỹ.
CHƯƠNG 15
Ít nhất mỗi năm một lần, những người theo đạo Cao Đài tổ chức một ngày hội lớn ở Tây Ninh, nơi đặt thánh thất của họ cách Sài Gòn 80 km về phía Tây Bắc, để kỷ niệm một năm giải phóng hay chiến thắng, hoặc ngay cả một ngày lễ về đạo Phật, đạo Khổng hay đạo Gia tô, đạo Cao Đài bao giờ cũng là một mục hứng thú trong các cuộc tóm tắt tình hình của tôi cho các vị khách nghe đạo Cao Đài, do một viên chức Nam Kỳ sáng lập ra, là sự tổng hợp của ba đạo trên. Thánh thất đóng ở Tây Ninh. Một vị giáo chủ và nhiều nữ giám mục. Thánh truyền qua một cái làn có nắp. Đức Christo và Đức Phật từ trên tràn nhà thờ ngắm xuống một đám rước Á Đông kiểu tranh truyện ở Walt Disney rồng rắn vẽ theo kỹ thuật phim màu. Những người mới tới rất mê khi nghe kể như vậy. Làm sao giải nghĩa được tất cả sự thê thảm đó, đội quân gồm 25.000 người được võ trang với súng cối làm ống xả của xe hơi cũ, những đồng minh của quân đội Pháp, khi gặp nguy biến lại tuyên bố đứng trung lập? Trong những ngày hội nói trên, được tổ chức ra để trấn an tinh thần nông dân, giáo chủ mới những thành viên Chính phủ (họ chỉ tới dự vào lúc Cao Đài là thành viên), mời đoàn ngoại giao (họ cử vài người ở cấp thư ký đi cùng với vợ hay con gái) và Tổng tư lệnh Pháp (viên này cử một cấp tướng ở bàn giấy, hai sao, đi thay mặt).
Dọc con đường đi Tây Ninh, xe hơi của Bộ Tham mưu và của đoàn ngoại giao chạy như suối chảy và trên những quãng đường nguy hiểm, đội lê dương rải quân ra cánh đồng để bảo vệ. Đó là một ngày lo ngại đối với Bộ Tổng Tham mưu Pháp và có lẽ cũng là một ngày hy vọng cho phái Cao Đài, vì có bằng chứng nào tốt hơn và cũng không đau đớn gì về sự trung thực của họ hơn là một cuộc tấn công ở ngoài khu vực của họ, khiến cho vài vị khách quan trọng bị bỏ mạng.
Cứ mỗi kilômét là một tháp canh bằng đất nện vươn cao lên trên cánh đồng bằng phẳng như một cái dấu hỏi và cứ 10 km là một đồn lớn hơn với một tiểu đội lính lê dương, người Marốc hay Senegal. Cũng giống như khi sắp tới New York, tất cả xe cộ đều đi theo một tốc độ, và cũng như khi sắp tới New York, người ta có một cảm giác sốt ruột cố giấu kín, người nào cũng nhìn chiếc xe đi trước và qua chiếc gương hậu nhìn chiếc xe đi đằng sau mình. Tất cả mọi người đều muốn tới Tây Ninh xem hội và trở về càng sớm càng tốt vì 7h đã bắt đầu giờ giới nghiêm.
Đoàn xe đi khỏi khu vực của người Pháp, qua khu vực của quân Hòa Hảo, để vào khu vực của quân Cao Đài thường hay xung đột với quân Hòa Hảo, chỉ có lá cờ trên tháp canh là thay đổi thôi. Những đứa trẻ trần truồng cưỡi trên lưng những con trâu lội ở ruộng ngập tới bụng, nơi nào lúa đã chín vàng, những người nông dân đội nón lá sẩy thóc, lưng dựa vào những tấm cót cuốn tròn. Những chiếc xe lăn nhanh trên đường, sát ngay họ, vẫn là thuộc thế giới kỳ lạ.
Sau cùng các nhà thờ Cao Đài mọc lên ở mỗi làng thu hút sự quan tâm của những người khách lạ, những kiến trúc bằng thạch cao màu xanh hay hồng nhạt trên cửa ra vào có vẽ to tướng một con mắt - mắt Trời. Cờ xí ngày càng cắm la liệt, những người nông dân đi trên đường ngày càng đông, chúng tôi sắp đến Tòa Thánh thất. Đằng xa là núi Thánh nom giống một chiếc mũ quả dưa màu xanh, chế ngự thị xã Tây Ninh, đó là bản doanh của tướng Thế, viên tham mưu trưởng ly khai vừa tuyên bố chống lại cả Pháp và Việt Minh. Những người Cao Đài không làm một việc gì để tóm cổ viên tướng này, mặc dầu y vừa bắt cóc một giám mục, nhưng lại có tin đồn rằng y đã làm việc với sự thỏa thuận của Giáo chủ Cao Đài.
Người ta có cảm giác rằng Tây Ninh là nơi nóng bức nhất của đồng bằng miền Nam, có lẽ vì đây hiếm nước cũng có thể vì lễ lạt liên miên làm cho ai cũng phải đổ mồ hôi, từ những người lính bồng súng nghe một diễn văn dài bằng thứ tiếng mà họ chẳng hiểu, tới vị Giáo chủ mặc bộ đồ nỉ dày cộp như phường tuồng Tàu. Duy chỉ có nữ giám mục mặc quần dài bằng lụa trắng chuyện trò với các nữ tu sĩ mang mũ cát thuộc địa gây cho ta một cảm giác mát mẻ dưới ánh nắng mặt trời chói chang. Dễ có ý nghĩ rằng không bao giờ tới 7h chiều, giờ uống coktail trên sân thượng hãng Magestic, dưới làn gió nhẹ từ sông Sài Gòn đưa lên.
CHƯƠNG 16
Sau buổi duyệt binh, tôi phỏng vấn người đại diện cho Giáo chủ. Tôi cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở người này, và tôi đã không lầm: mọi việc đều theo quy ước của cả hai bên. Tôi hỏi về tướng Thế.
- Đó là một con người hay có những việc làm thiếu suy nghĩ - Ông ta trả lời và vội vàng lảng sang vấn đề khác.
Ông ta lao vào một bài diễn thuyết đã làm sẵn, quên rằng hai năm trước tôi đã nghe rồi, điều này lại làm tôi nhớ tới những bài nói của chính mình, những cái đĩa hát mà tôi quay cho những người mới tới: đạo Cao Đài là sự tổng hộp các đạo giáo... là đạo tuyệt vời nhất trong các đạo... những giáo sĩ đã đi tới cả Los Angeles... biết cả những bí ẩn của Kim Tự Tháp.
Ông ta bận một chiếc áo thầy tu dài màu trắng và hút hết điếu thuốc lá này đến điếu khác. Ở ông ta có một vẻ gì vừa mưu mẹo, vừa đốn mạt, từ “tình thương” luôn xuất hiện trong những câu nói dài của ông ta. Tôi tin chắc ông ta hiểu rằng tất cả chúng tôi có mặt ở đó cũng đều nhạo báng lời nói và cử chỉ của ông ta, vẻ kính cẩn của chúng tôi cũng giả dối như cái thứ bậc giả hiệu của ông ta, nhưng chúng tôi không láu cá được như ông ta. Sự đạo đức giả của chúng tôi không mang lại một chút gì, kể cả một đồng minh đáng tin cậy, trong khi sự giả dối của các ông đó đem lại vũ khí, lương thực và cả tiền mặt nữa.
- Xin cám ơn Đức giám mục.
Tôi đứng lên để đi ra. Ông ta tiễn tôi tới cửa, vừa đi vừa vảy tàn thuốc quanh mình.
- Trời độ trì cho công việc của ông - Ông ta nói một cách mượt mà… - Xin nhớ rằng Thượng đế bao giờ cũng yêu chân lý.
- Chân lý nào? - Tôi hỏi lại.
- Trong niềm tin của đạo Cao Đài, tất cả các chân lý đều được dung hòa với nhau, và chân lý là tình thương cho tôi, tôi tin rằng ông ta sẽ đặt vào đó một chiếc hôn, nhưng tôi không phải là một nhà ngoại giao.
Trong ánh nắng buồn tẻ của mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, tôi nhìn thấy Pyle, hắn cố gắng một cách vô hiệu để làm cho chiếc xe Bich của hắn khởi động được. Ở bất kỳ nơi nào trong hai tuần vừa qua, ở tiệm rượu Continetal, tại cửa hiệu sách duy nhất coi như khá tại phố Catina, tôi cũng luôn gặp phải Pyle. Cái tình bạn mà hắn áp đặt cho tôi buổi đầu, nay hơn bao giờ hết, hắn tìm cách biểu lộ. Cặp mắt buồn của hắn van nài một cách lặng lẽ những tin tức về Phượng, còn đôi môi hắn nói lên một cách nhiệt tình không ngừng gia tăng sức mạnh của lòng ưu ái và kính phục - Xin trời tha tội cho đối với tôi.
Một Thiếu tá Cao Đài đứng cạnh hắn và nói liến thoắng. Y ngừng lời khi tôi lại gần. Tôi nhận ra hắn, hắn là một người cộng tác với Thế khi Thế rút lên núi.
- Chào Thiếu tá - tôi nói. Tướng Thế độ này ra sao?
- Tướng nào cơ? - Hắn hỏi lại với một nụ cười ngượng ngập và nhăn nhúm.
- Thế nào, trong đức tin của đạo Cao Đài không phải là tất cả các vị tướng lãnh đều giải hòa với nhau hay sao?
- Anh Thomas này, tôi không sao khởi động nổi chiếc xe. - Pyle nói.
- Để tôi đi tìm một người thợ máy - Viên Thiếu tá nói và từ biệt chúng tôi.
- Tôi làm ngừng câu chuyện của các anh.
- Có gì quan trọng đâu - Pyle nói - Anh ta muốn biết giá cái xe Bich là bao nhiêu. Những hạng người này khi được đối đãi tử tế thì sẵn sàng bày tỏ tình bạn thân thiết. Tôi có cảm giác là người Pháp khong biết lấy lòng họ.
- Người Pháp không tin ở họ.
- Một người trở thành tin cậy đựơc. - Pyle nó một cách trịnh trọng - khi người ta biết tin ở họ.
Tôi tưởng như hắn vừa đọc được một châm ngôn của đạo Cao Đài vậy. Tôi bắt đầu thấy không khí Tây Ninh chứa đựng nhiều bài học đạo đức quá, khiến phổi tôi không hít thở nổi nữa.
- Anh muốn giải khát không? - Pyle hỏi.
- Thế thì thích nhất rồi.
- Tôi có mang theo nước quả.
Hắn cúi tìm trong cái làn buộc ở xe.
- Rượu Gin?
- Không, tiếc quá. Anh biết đấy, uống thứ nước chanh này trong khí hậu ở đây thật có lợi cho sức khỏe, - hắn nói như để làm tôi thèm khát. - Lắm sinh tố… gì lắm đấy.
Hắn đưa cho tôi một chén và tôi uống cạn.
- Dù sao cũng là nước rồi - Tôi nói.
- Anh có muốn ăn một miếng bánh này không? Ngon lắm. Mẹ tôi vừa gửi sang.
- Không cám ơn, tôi không đói.
- Bánh có vị giống như vị rau trộn kiểu Nga, nhưng khô hơn.
- Không, tôi không đói thật.
- Còn tôi xin phép cứ chén được chứ?
- Tất nhiên, không có gì phiền tới tôi cả.
Hắn ngoạm một miếng thật to và nhai ngấu nghiến. Xa xa, đức Phật bằng đá trắng và hồng, đi xa dần nơi ở của tổ tiên và người hầu - cũng là một pho tượng khác hối hả chạy theo. Những bà Giám mục chậm rãi đi về nơi ở, và mặt trời từ trên cửa nhà thờ vẫn theo dõi chúng tôi.
CHƯƠNG 17
- Người ta thết một bữa ở đây, anh có biết không? - Tôi nói.
- Tôi không muốn liều vào ăn. Thịt thà… nóng như thế này phải cẩn thận đấy.
- Chẳng phải lo. Họ ăn chay.
- A, chắc ngon lắm…, nhưng tôi ưng biết trước như những thứ của mình ăn (hắn lại ngoạm một miếng bánh nữa). Anh có tin rằng họ có một thợ cơ khí chữa nổi xe không?
- Thợ đủ giỏi để biến ống xả nòng súng cối. Tôi tin rằng xe Bich làm súng cối thì nhất đấy.
Viên thiếu uý trở lại, giơ tay nhanh nhẹn chào theo kiểu nhà binh và bảo cho biết đã cho người vào trại lính tìm thợ. Pyle mời ăn một miếng bánh sandwich, nhưng anh ta từ chối. Với một vẻ lịch sự, anh ta nói:
- Ở đây, chúng tôi có hẳn một bản danh sách những điều quy định về món được phép ăn (tiếng Anh của hắn khá sõi). Thật là vô lý. Nhưng các anh chắc hiểu sống ở một thủ phủ về tôn giáo là thế nào. Tôi cho rằng ở Roma cũng vậy… cũng như ở Canbri - Hắn vừa nói vừa chào kiểu bốc đồng.
Rồi hắn im lặng. Cả hai đều im lặng. Tôi thấy rõ là cả hai đều muốn cho tôi đi xa nơi này. Tôi không cưỡng nổi ý muốn trêu ghẹo Pyle, suy cho cùng là vũ khí của những người yếu, mà tôi chính là kẻ yếu. So với anh ta, tôi thiếu hẳn sự trẻ trung, chững chạc, sự liêm khiết và một tương lai.
- Có lẽ tôi xin anh một miếng sandwich đấy.
- Được, được chứ!
Nhưng hắn còn ngần ngại trước khi cúi vào hòm xe.
- Này thôi - Tôi nói - đùa chơi một tí thôi, không định xin gì đâu. Chắc các anh muốn tôi rút để hai anh yên.
- Không đâu - Pyle nói (hắn ở trong số những người nói dối một cách vụng về nhất mà tôi được gặp, chắc hẳn hắn chưa từng vận dụng nghệ thuật này). Hắn nói với tên thiếu tá: Tôi chưa có người bạn nào tốt hơn ông Thomas.
- Tôi đã được quen ông Fowler - Gã thiếu tá nói.
- Tôi sẽ gặp lại anh trước khi về, Pyle ạ - Tôi nói và đi về phía nhà thờ, nơi mà tôi tin sẽ được mát dịu hơn.
Đức thánh Victo Hugo trong bộ quần áo viện sĩ hàn lâm, một vành hào quang quanh chiếc mũ hai mũi, giơ ngón tay chỉ vào Tôn Dật Tiên lúc này đang ghi lên phiến đá vài tư tưởng cao cả. Tôi đi vào nhà thờ có hình dáng một con tàu. Ngoài chiếc ngai dành cho Giáo chủ, có con rắn hổ mang bằng thạch cao quấn quanh, không một chiếc ghế ngồi. Nền đá hoa bóng lên như nước và cửa sổ không có kính, chúng ta nhốt không khí vào trong chiếc lồng có lỗ đục, tôi nghĩ như vậy và con người cũng nhốt sự tín ngưỡng của mình vào một chiếc lồng tương tự… cùng với những điều hoài nghi lắm khi có mưa nắng và những sự tin tưởng có thể giải thích bằng muôn nghìn cách khác nhau. Bà vợ của tôi cũng tìm thấy cái lồng đầy lỗ thủng đó và đôi khi tôi cũng ao ước được như bà. Nắng và gió mẫu thuẫn với nhau, tôi đã sống quá lâu dưới ánh mặt trời.
Tôi tản bộ rất lâu trong lòng nhà thờ dài và vắng, tôi không tìm thấy ở đây, xứ Đông Dương mà tôi yêu mến. Những con rồng ở đầu sư tử leo lên bục diễn giảng, trên trần, chúa Crixto trưng ra trái tim ứa máu của mình. Bộ râu của Khổng Phu Tử lơ thơ rủ xuống như thác nước mùa khô. Tất cả những thứ trên đều là hài kịch: quả địa cầu lớn phía trên bàn thờ là biểu tượng của tham vọng, cái làn có nắp di chuyển mà Giáo chủ dùng để ban ra những lời tiên tri chỉ là một ngón kỹ xảo để lừa bịp. Nếu ngôi nhà thờ này có từ 5 thế kỷ, mà không phải 20 năm, thì nó có thêm sức thuyết phục hơn một chút nào không, nhờ những vết chân đã làm mòn nền đá hoa và gió mưa đã ăn lõm những thềm đá? Một con người như bà vợ tôi sẵn sàng để cho mình bị thuyết phục, liệu có tìm thấy ở đây một niềm tin mà con người không đủ sức tạo nên không? Và nếu tôi thành tâm hướng tới một đức tin, thì liệu tôi có tìm thấy nó tại cái nhà thờ theo giáo phái Anh mà bà ta thường lui tới không? Nhưng tôi chưa hề bao giờ đi tìm một đức tin. Công việc của nhà báo là trình bày và tường thuật. Trong sự nghiệp của mình, tôi chưa gặp điều nào là không thể giải thích nổi. Vị Giáo chủ viết những lời sấm truyền bằng một chiếc bút chì cắm vào nắp một cái làn và mọi người đều tin ông ta. Trong tất cả những điều thiên cảm, phải nhìn thấy cả mảnh ván trên đó người ta viết ra những lời sấm truyền. Bởi vậy, lục hết danh mục những ký ức của mình, tôi chưa hề thấy những thiên cảm hay kỳ ảo nào.
Tôi ôn lại những kỷ niệm đó trong trí nhớ của mình một cách hú họa, như lật lại những bức ảnh trong một cuốn album: Một con cáo mà dưới ánh sáng tên lửa của địch, tôi thấy ở ngoại ô London đang từ cái ổ phủ đầy lá khô của nó luồn theo một cái chuồng gà, thi hài một người Mã Lai bị một nhát lê đâm thủng và một đội lính tuần tra Ấn Độ quẳng lên thùng xe mang về tại một khu thợ mỏ Pahang (những người phu Hoa kiều thì cười cợt, chế giễu, còn một người Mã Lai khác lấy chiếc gối kê dưới đầu người chết), một con bồ câu từ trên lò sưởi của khách sạn, như vươn cánh sắp bay, bộ mặt bà vợ tôi ở cửa sổ khi tôi trở về nhà lần chót để chào từ biệt. Những ý nghĩ của tôi bắt đầu từ bà ta rồi lại kết thúc ở bà ta. Bà ta chắc đã nhận được thư của tôi từ hơn một tuần nay, nhưng bức điện trả lời tôi chờ đợi vẫn chưa thấy tới. Nhưng người ta thường cho rằng nếu ban hội thẩm mà bàn lâu thì người bị cáo càng thêm hy vọng. Một tuần chờ không nhận được điện, vậy tôi có thể bắt đầu hy vọng được không? Quanh tôi, những chiếc xe nhà binh của các nhà ngoại giao đã nổ máy ầm ĩ: Tan hội rồi, đến năm sau lại có. Các xe hơi đua nhau chạy về Sài Gòn, nghĩ đến giờ giới nghiêm, ai nấy đều vội vã. Tôi ra tìm Pyle.
CHƯƠNG 18
Hắn đứng dưới một bóng cây nhỏ cùng với viên thiếu tá và chẳng ai ngó ngàng gì đến chiếc xe cả. Câu chuyện giữa hai người hình như đã xong xuôi, không rõ họ bàn về việc gì, họ đứng im lặng và lúng túng trong sự lễ độ của họ. Tôi nhập bọn.
- Nào, tôi nghĩ rằng đã đến lúc phải đi về. Phải về trước giờ giới nghiêm - Tôi nói.
- Anh thợ máy không tới.
- Hắn tới ngay bây giờ - Viên thiếu tá nói - Hắn vừa đi rước về.
- Anh có thể ngủ qua một đêm ở đây - Tôi nói - Người ta sắp làm một lễ mi-sa đặc biệt mà chắc anh sẽ thú vị, kéo dài tới ba giờ.
- Tôi cần phải về.
- Anh chỉ về kịp nếu khởi hành ngay.
Và tôi miễn cưỡng nói thêm:
- Mời anh lên xe tôi cùng đi, còn thiếu tá ngày mai sẽ đưa xe anh về Sài Gòn.
- Chừng nào còn trên địa phận Cao Đài thì các anh không cần lo về giờ giới nghiêm - Viên thiếu tá nói với vẻ tự mãn. Nhưng, xa hơn… Tất nhiên, tôi sẽ cho đưa xe anh về.
- Với ống xả nguyên vẹn - Tôi nói.
Hắn ta trả lời tôi bằng một tiếng cười giòn, ngắn gọn vì tự đắc, một tiếng cười thu gọn lại theo kiểu nhà binh.
Khi chúng tôi khởi hành, đoàn xe đi trước đã cách khá xa.
Tôi cho xe chạy nhanh để đuổi kịp, khi chúng tôi chạy tới địa phận Hòa Hảo, phía đằng trước không còn thấy đám bụi to như đám mây nữa. Cảnh vật trải ra phía trước, bằng phẳng và vắng tanh trong buổi chiều tối.
Đây chưa phải là quang cảnh khiến người ta liên hệ tới một cuộc phục kích, nhưng người phục kích vẫn có thể ngâm mình dưới ruộng lúa ngập nước tới tận cổ, chỉ cách đường vài mét.
Pyle hắng giọng và đấy là dấu hiệu của những chuyện tâm tình sắp sửa đưa ra trao đổi.
- Tôi hy vọng rằng Phượng vẫn khỏe - Hắn nói.
- Tôi chưa hề thấy cô ta ốm bao giờ.
Một tháp canh qua, tháp khác hiện ra, y như con số chỉ trọng lượng theo nhau xuất hiện trên bàn cân.
- Hôm qua, tôi gặp chị cô ta đang mua hàng.
- Chắc bà ta mời anh tới thăm hai chị em.
- Đúng vậy, bà ta có mời.
- Bà ấy chưa thể buông trôi hy vọng của mình đâu.
- Hy vọng gì?
- Được thấy anh lấy Phượng.
- Bà ấy nói anh sắp về nước.
- Đó là một tin đồn.
- Anh dùng lối xử sự thẳng thắng với tôi đấy chứ? Anh Thomas? - Pyle hỏi.
- Thẳng thắn!
- Tôi đã xin chuyển công tác. Tôi không muốn cô ta chẳng còn ai khi cả anh lẫn tôi cùng đi.
- Tôi tưởng anh sẽ ở hết nhiệm kỳ.
Nhưng không thương tiếc bản thân mình, Pyle nói:
- Tôi cảm thấy không chịu đựng nổi điều đó.
- Chừng nào anh đi?
- Không rõ. Họ cho rằng trong vòng 6 tháng sẽ thu xếp được việc đó.
- Anh chịu được thời gian 6 tháng à?
- Cũng phải chịu thôi.
- Anh đã viện ra những lý do gì?
- Tôi đã nói với tuỳ viên thương mại… anh đã gặp hắn ta đấy: Jo… ít nhiều cũng rõ sự tình.
- Tôi phỏng đoán rằng hắn ta đứng về phía anh đấy.
Máy xe của tôi khậm khặc, lẹt xẹt. Chắc nó dở chứng từ mấy phút rồi, nhưng tôi không chú ý vì trong đầu còn suy nghĩ về câu hỏi ngây thơ của Pyle: Anh có xử sự thẳng thắng không? Nhưng câu đó gắn với một thế giới tâm lý hết sức giản đơn, cái thế giới nơi người ta nói đến dân chủ và danh dự (viết bằng chữ hoa), nơi mà những chữ đó mang cái nghĩa như cha ông chúng ta đã gắn cho nó.
- Hết xăng rồi - Tôi nói.
- Hết xăng?
- Lúc nãy thừa chứ không phải thiếu. Tôi đã lấy đầy thật đầy, trước khi rời Sài Gòn. Những tên bất lương ở Tây Ninh đã dùng vòi hút trộm. Đáng lẽ tôi phải kiểm tra trước khi về. Chính bọn họ đã chừa lại chỉ để đủ cho ta ra khỏi vùng của họ.
- Làm thế nào bây giờ?
- Vừa đủ để đi đến tháp canh gần nhất. Hy vọng ở đó họ có chút ít.
Nhưng vận rủi vẫn theo đuổi chúng tôi. Cách tháp 25 m, xe ngừng. Chúng tôi đi bộ khoảng cách còn lại và tôi dùng tiếng Pháp nói to lên rằng chúng tôi là bạn và muốn lên tháp. Tôi không muốn một tên lính gác Việt cho tôi ăn một viên đạn. Không có trả lời. Không có ai thò mũi ra.
- Anh có một khẩu súng ngắn phải không? - Tôi hỏi Pyle.
- Không bao giờ tôi mang theo.
- Tôi cũng vậy.
- Những mẩu hoàng hôn, xanh hay vàng ối như màu lúa, từ từ tắt trên đường viền của cánh đồng bằng phẳng. Trên nền trời xám nhạt, tháp canh bật lên với màu đen như trong một bức tranh in tay. Chắc đã sắp tới giờ giới nghiêm. Tôi lại gọi to lên, không có ai trả lời.
- Anh có biết là kể từ đồn binh cuối, chúng ta đã vượt qua bao nhiêu tháp canh không?
- Tôi không để ý.
- Tôi cũng vậy.
Chắc ít nhất cũng phải 6 cây số mới tới được đồn sau - khoảng 1 giờ đi bộ. Tôi gọi một lần nữa và sự im lặng lại lặp đi lặp lại như là câu trả lời.
- Y như tháp không có người vậy - Tôi nói - Tôi thử leo lên xem sao.
Lá cờ vàng có những sọc đỏ đã phai màu thành màu da cam chứng tỏ chúng tôi đã vượt khỏi khu Hòa Hảo và đang ở trong khu vực ở quân chính quyền Sài Gòn.
- Anh có tin rằng - Pyle nói - Nếu đứng chờ, chúng ta sẽ gặp một cái xe nào đó đi qua không?
- Có thể, nhưng những người khác sẽ tới trước.
- Hay tôi quay lại bật đèn pha? Để làm hiệu.
- Trời đất! Xin đừng động đến cái gì cả.
Đêm đã xuống đến mức tôi vẫp mãi khi đi tìm chiếc thang lên lầu. Có cái gì kêu răng rắc dưới bước chân và tôi tưởng như những tiếng động nào đó lan ra khắp cánh đồng và lọt vào đôi tai nào đó. Tôi nhìn về phía Pyle nhưng không thấy rõ hình bóng hắn mà chỉ thấy một vệt mơ hồ bên đường. Đêm xuống nhanh như một hòn đá khi rơi.
- Hãy đứng yên đó cho tới khi tôi gọi anh nhé - Tôi nói.
Tôi tự hỏi không rõ người gác có kéo chiếc thang lên theo mình không, nhưng không, nó đây rồi. Tất nhiên kẻ địch có thể dùng thang mà leo lên, nhưng chiếc thang cũng là cách độc nhất để trốn chạy. Tôi leo lên.
Tôi thường đọc trong sách thấy nói khi gặp cơn sợ hãi lớn, người ta nghĩ tới Thượng đế, tới gia đình, tới một người phụ nữ. Tôi bái phục sự bình tĩnh đó. Tôi thì chẳng nghĩ tới gì cả, kể cả cái cánh cửa sập trên đầu tôi. Trong mấy giây này, tôi như không tồn tại nữa. Tôi thành hiện thân của sự sợ hãi trong dạng nguyên sơ. Lên tới cao, tôi cộc đầu đau điếng, vì sợ nên không đếm nổi bậc thang, nghe hay nhìn gì hết. Sau cùng, tôi thò đầu lên khỏi sàn gác và không có ai nổ súng vào tôi, cái sợ thoát khỏi người tôi và bốc hơi bay đi mất.
CHƯƠNG 19
Một ngọn đèn dầu thắp để trên sàn và hai người dựa vào tường, đang theo dõi tôi. Một người cầm khẩu tiểu liên Sten, người kia - một khẩu súng trường, họ vừa trải qua một cơn sợ hãi y như tôi vậy. Người ta tưởng như đó là hai cậu học trò, nhưng ở Việt Nam từ tuổi trẻ rơi vào tuổi già cũng đột ngột như từ ban ngày rơi vào ban đêm vậy, trẻ như thiếu niên đấy, nhưng bỗng nhiên trở thành những người luống tuổi. Tôi hài lòng vì màu da và dáng mắt tôi đã là giấy thông hành. Họ không bắn vào tôi, dù do sợ hãi cũng vậy.
Tôi vừa nhô hẳn người lên sàn, vừa nói để họ yên tâm. Tôi giảng cho họ hiểu là xe hơi của tôi ở ngoài kia và tôi hết xăng. May ra họ có và để lại cho tôi một ít. Nhưng nếu họ có thì họ để đâu nhỉ? Khi nhìn quanh quất, tôi thấy rõ là điều này khó mà có được. Trong cái gác hình tròn này không có gì ngoài hòm đạn tiểu liên, một cái giường gỗ và hai gói gì treo vào một cái đinh. Hai cà-mèn đựng cơm ăn dở với những đôi đũa chứng tỏ họ ăn chẳng ngon miệng lắm.
- Đủ để tới đồn binh gần nhất thôi - Tôi nói thêm.
Một người tựa lưng vào tường, người giữ khẩu súng dài, lắc đầu.
- Nếu các anh không kiếm được, chúng tôi bắt buộc phải ngủ đem ở đây.
- Điều đó thì cấm đấy.
- Ai cấm?
- Vì các ông là dân thường.
- Chẳng ai bắt được chúng tôi ở ngoài đường để người ta cắt họng đi.
- Các ông là người Pháp à?
Chỉ có một trong hai người nói. Người kia ngồi bất động, đầu quay nghiêng, nhìn qua một cái lỗ đục ở tường. Qua lỗ, anh ta chỉ có thể nhìn nổi một khoảng trời to như một chiếc bưu ảnh, anh ta lại có vẻ dỏng tai nghe và tôi cũng lắng tai nghe nốt. Sự im lặng như chứa đầy những tiếng động nhỏ, những tiếng động không rõ là cái gì - tiếng răng rắc, tiếng xào xạo, tiếng sượt nhẹ, tiếng giống như tiếng ho, rồi là tiếng rì rào. Lúc này tôi nghe tiếng Pyle - chắc hắn tới được chân chiếc thang.
- Tốt cả chứ, anh Thomas?
- Lên đi - Tôi nói to.
Hắn lên thang và người lính từ nãy vẫn im lặng rê khẩu súng ra chỗ khác, tôi cho rằng anh ta không hiểu chúng tôi nói gì và hơi giật mình vì khó chịu. Bằng giọng sẵng của một anh đội trưởng, tôi ra lệnh: "Đặt súng xuống" và thêm lệnh đó mấy tiếng Pháp tục tĩu mà tôi cho rằng anh ta thế nào cũng hiểu. Anh lính tuân lệnh tôi như một cái máy. Pyle vào trong phòng.
- Người ta mời chúng ta chia sẻ sự an toàn ở đây cho tới sáng - Tôi nói.
- Tuyệt nhỉ - Pyle nói. (Giọng hắn biểu lộ đôi sự băn khoăn). Không rõ một trong hai tên khỉ đột này có canh gác không?
- Họ không muốn biến họ thành những mục tiêu cho súng. Tôi tiếc rằng anh không mang cái gì uống nặng hơn nước chanh.
- Thôi, để lần sau tôi sẽ mang.
- Chúng ta sẽ phải trải qua một đêm dài.
Bây giờ, khi Pyle đã lên với chúng tôi, tôi không nghe thấy những tiếng động nữa. Ngay đến hai người lính cũng có vẻ thoải mái hơn.
- Nếu Việt Minh tấn công họ thì tình hình sẽ ra sao? - Pyle hỏi.
- Họ bắn một phát súng rồi chuồn. Ngày nào người ta chẳng đọc được những tin này trên tờ "Viễn Đông", "Phía Tây Nam Sài Gòn, một bốt gác đêm qua đã bị Việt Minh tạm chiếm".
- Cái viễn cảnh này thật không thú vị chút nào.
- Từ đây về Sài Gòn có bốn chục chiếc tháp canh như thế này, có thể là chiếc bên cạnh sẽ bị ăn đòn.
- Bây giờ bánh sandwich của tôi có tác dụng đây - Pyle nói - Tôi nghĩ một trong hai người này phải ra canh gác.
- Họ sợ có một viên đạn rình họ.
Thấy chúng tôi cũng ngồi xệp trên sàn, những người Việt Nam có vẻ bớt cứng nhắc đi. Tôi thấy có thiện cảm với họ, thật không phải là một việc dễ dàng gì đối với hai người không được luyện tập tốt, đêm này qua đêm khác, ngồi ở đó, luôn luôn chờ Việt Minh luồn qua cánh đồng lên tận đường cái.
- Anh có cho rằng họ đang chiến đầu vì nền dân chủ không? - Tôi hỏi Pyle - Chúng ta sẽ phải mang York Hardin tới giảng cho họ.
- Anh bao giờ cũng nhạo báng York.
- Tôi nhạo tất cả những kẻ phí thì giờ để viết về những điều không có trong sự thật, viết về những khái niệm hoàn toàn trí tuệ suông.
- Anh ta có khái niệm đó. Còn anh có được khái niệm gì tương tự không? Như về Thượng đế chẳng hạn?
- Tôi chẳng có lý do gì để tin rằng có Thượng đế. Còn anh?
- Tôi ấy ư, có chứ! Tôi là người theo duy nhất thần giáo.
- Không biết con người đã tin ở mấy triệu thần thánh? Này nhé, ngay đến một người theo đạo Thiên chúa La Mã khi gặp đói khát hay sợ hãi, cũng sung sướng có một vị chúa khác để mà tin.
- Có lẽ Chúa Trời bao la đến nỗi hiện ra trước mắt mỗi người như là một vị chúa khác vậy.
- Như Phật Bà ở Bangkok, lớn quá, ta không thể nhìn thấy cả người. Nhưng ít nhất Bà cũng ở yên.
- Tôi cho rằng, anh chỉ tỏ ra vẻ là một người hùng - Pyle nói - Tôi chắc rằng anh phải tin ở một cái gì đó. Không ai có thể sống mà không tin, bất kỳ đó là niềm tin nào.
- Tôi không phải là một người duy tâm theo kiểu Berkely. Tôi tin rằng lưng tôi đang tựa vào tường. Tôi tin rằng phía đằng kia là một khẩu súng Sten.
- Tôi không muốn nói tới những điều đó.
- Tôi tin cả ở những điều tôi viết trong các bức điện gửi đi và đa số các phóng viên của các anh không thể nói được như vậy.
- Làm một điếu thuốc lá chăng?
- Tôi không hút… chỉ hút thuốc phiện. Anh mời những người lính kia hút. Giữ quan hệ tốt với họ, đó cũng là điều cần đấy.
Pyle đứng lên, châm thuốc mời họ hút và trở lại với tôi.
- Rất tiếc thuốc lá không có nghĩa hữu nghị tượng trưng như hạt muối - Tôi nói.
- Anh không tin ở họ sao?
- Không có người sĩ quan Pháp nào lại ưng một mình ngủ đêm trong tháp canh với hai lính gác sợ hãi đến phát điên lên. Người ta đã biết có những nhóm lính nộp sĩ quan cho địch. Có khi Việt Minh đạt kết quả tốt bằng một chiếc loa gọi hàng hơn là một khẩu bazoka. Tôi cũng không hề trách họ. Họ cũng không tin ở cái gì cả. Các anh và những người tương tự cố tiến hành một cuộc chiến bằng những người lại không thiết tha gì đến cuộc chiến đó.
- Họ không ưa chủ nghĩa cộng sản.
CHƯƠNG 20
- Họ muốn có bát cơm đầy - Tôi nói - Họ không muốn ăn đạn. Họ muốn ngày mai cũng giống như ngày hôm nay. Họ không muốn những người da trắng chúng ta xen vào dạy họ muốn điều gì.
- Nếu Đông Dương mất vào tay…
- Tôi hiểu cái điệp khúc này rồi: nước Xiêm sẽ mất Malaysia sẽ mất, Nam Dương sẽ mất. Mất nghĩa là gì? Nếu tôi tin có trời, thì tôi sẽ đánh cuộc cây đàn thần của tôi lấy chiếc mũ miện dát vàng của anh, rằng năm trăm năm sau có lẽ New York và London không còn tồn tại nữa, nhưng ở đây, trên những cánh đồng này, những người đội nón lá vẫn cấy lúa, vẫn gánh hàng ra chợ. Trẻ con của họ vẫn cưỡi trên lưng những con trâu. Tôi yêu những con trâu, chúng không thích hơi người chúng ta, hơi người châu Âu. Và xin anh đừng quên vội, dưới mũi trâu, anh cũng cũng là người châu Âu thôi.
- Họ bắt buộc phải tin ở những điều người ta nói cho họ nghe. Họ không có quyền tự do suy nghĩ.
- Suy tư là một thứ xa xỉ phẩm. Anh tin rằng người nông dân đêm về chui vào túp lều tranh để suy tư về Thượng đế và dân chủ?
- Anh nói như trong cái nước này chỉ có những người nông dân. Thế còn những người được học hành, họ sướng hay khổ?
- Không. Họ được chúng ta giáo dục theo những quan điểm của chúng ta. Chúng ta dạy họ chơi những trò chơi nguy hiểm, chính vì thế mà chúng ta ngồi chờ ở đây cho đến khi người ta đến cắt cổ. Chúng ta thật đáng để được cắt cổ lắm. Tôi tiếc rằng ông bạn York của anh không có mặt ở đây với chúng ta. Tôi tự hỏi xem ông ta có khoái về cái cảnh này không?
- York Hardin là một người can đảm. Xem như khi ở Triều Tiên…
- Ông ta không phải là lính phải không? Ông ta có vé máy bay khứ hồi. Khi có một chiếc vé như vậy trong túi thì sự can đảm chẳng qua chỉ là một bài tập về mặt trí tuệ, như một tu sĩ đánh roi theo tông phái của hắn ta. Không rõ tôi chịu đựng được tới bao giờ những người như vậy? Còn những người khốn khổ như những người này không thể nhảy lên một máy bay để rông về nước. Này, hai anh bạn, tên các anh là gì?
Tôi tưởng chừng như việc biết tên họ là một cách kéo họ vào cuộc tranh luận giữa chúng tôi. Họ không trả lời: Họ chỉ hằm hè nhìn chúng tôi qua làn khói của điếu thuốc gần tàn.
- Họ tưởng chúng ta là người Pháp - Tôi nói.
- Chính thế - Pyle nói - Anh không nên trách York, mà nên trách những người Pháp, với cái chủ nghĩa thực dân của họ.
- Xin đừng nói nhiều đến các chủ nghĩa này nọ. Tôi muốn những việc thật. Một chủ đồn điền cao su đánh thợ, đúng, tôi chống lại anh ta. Khi đánh thợ, anh ta không nhận được mệnh lệnh nào của ông bộ trưởng thuộc địa của anh ta. Nếu anh ta ở Pháp, tôi tin rằng anh ta sẽ đánh vợ. Tôi đã thấy một tu sĩ nghèo đến nỗi ngoài chiếc quần ra, không có lấy một cái gì, làm việc mười lăm giờ một ngày, đi từ lều này sang lều khác giữa một cơn dịch tả, chỉ ăn cơm với cá mắm, làm lễ mi-sa với chiếc chén cũ, một cái tô bằng gỗ. Tôi không tin ở chúa trời, nhưng tôi rất phục vị tu sĩ này. Tại sao anh không gọi đó là chủ nghĩa thực dân?
- Nhưng đó cũng là chủ nghĩa thực dân đấy. York đã nói rằng nhiều khi những quan cai trị tốt lại làm khó khăn cho việc cải cách một chế độ tồi tệ.
- Dù sao đi nữa, những người Pháp vẫn đang phải bỏ mạng hằng ngày, đó không phải một quan niệm về trí tuệ. Họ không lừa dối những con người này bằng lời nửa thật nửa dối trá như những nhà chính trị của các anh… hay của chúng tôi. Anh Pyle này, tôi đã ở Ấn Độ và tôi hiểu những tai hại mà những người cấp tiến gây ra. Chúng tôi không có đảng cấp tiến, chủ nghĩa cấp tiến đã nhiễm vào tất cả các đảng khác. Chúng tôi hoặc là những bảo thủ cấp tiến, hoặc là những người xã hội cấp tiến, lương tâm chúng tôi rất trong sạch. Tôi ưng làm một kẻ bóc lột, chiến đấu cho sự bóc lột và sống chết với nó, hơn là làm người cấp tiến. Anh xem điều gì đã xảy ra ở Miến Điện? Chúng tôi đã xâm lược nước này, những bộ tộc địa phương ủng hộ tôi, chúng tôi đã thắng trận, nhưng cũng giống người Mỹ các anh, chúng tôi lúc đó không tự cho mình là những kẻ thực dân. À, nhưng mà!… Chúng tôi giảng hòa với nhà vua, trả lại đất đai và bỏ mặc đồng minh, mặc cho họ đóng đinh câu rút hay bị cưa làm đôi. Họ là những người ngây thơ. Họ tưởng chúng tôi sẽ ở lại. Nhưng chúng tôi cũng là những người cấp tiến và chúng tôi không muốn lương tâm bị day dứt.
CHƯƠNG 21
- Đấy là một chuyện xảy ra lâu quá rồi.
- Chúng ta sắp làm những việc tương tự ở đây. Cổ vũ họ rồi để mặc họ với vài cỗ máy và những xưởng làm đồ chơi.
- Đồ chơi?
- Chất nhựa dẻo của các anh đấy thôi.
- Ồ, phải, tôi hiểu.
- Không hiểu sao tôi lại nói về chính trị. Tôi không quan tâm đến chính trị. Tôi là phóng viên. Tôi không đứng về phía nào.
- Thật ư?
- Vừa rồi, tôi nói chẳng qua chỉ để có chuyện mà nói để qua đi cái đêm khốn khổ này, thế thôi. Tôi không đứng về phía nào cả. Tôi sẽ cứ viết những bài phóng sự, bất kỳ bên nào thắng.
- Nếu bên kia thắng thì những bài của anh sẽ là lời bịa đặt.
- Thường ra người ta vẫn có cách thoát được. Vả lại tôi cũng không bao giờ có cảm giác rằng báo chí của các anh tôn trọng sự thật lắm.
Tôi tin rằng cái việc mà chúng tôi ngồi ở đây tán vã với nhau đã động viên hai người lính: có lẽ họ nghĩ âm thanh những tiếng nói màu trắng của chúng tôi (vì những tiếng nói cũng có màu sắc: tiếng nói màu vàng thì như hát, tiếng nói màu đen thì òng ọc như nước từ trong chai đổ ra, còn có tiếng nói của chúng tôi chỉ là nói thôi), tạo ra các cảm tưởng của chúng tôi đông người khiến cho quân Việt Minh không dám lại gần. Họ bưng ga-men lên và lại ăn, tiếng đũa lách cách, vừa ăn vừa nhìn Pyle và tôi, từ sau bát ăn của họ.
- Vậy anh tưởng chúng ta đã thất bại ư?
- Vấn đề không phải là ở đó - Tôi đáp - Tôi không có điều mong mỏi đặc biệt là ở việc các anh sẽ thắng. Tôi mong cho hai người khốn khổ kia được sung sướng. Thế thôi. Tôi ước ao rằng họ không bắt buộc phải trải qua đêm trong bóng tối và sợ run như cầy sấy.
- Muốn có tự do thì phải đấu tranh chứ!
- Tôi chẳng thấy một người Mỹ ma dại nào chiến đấu ở đây. Còn tự do ư? Tôi chẳng biết ý nghĩa của nó thế nào. Hãy hỏi họ xem.

Tôi dùng tiếng Pháp hỏi to họ từ đầu gác bên này: Tự do… tự do là cái gì hở các bạn?
Họ lùa và nuốt cơm kiểu như người ta đang húp một thứ gì. Họ nhìn chúng tôi trân trân và im lặng.
- Anh muốn tất cả mọi người đều được đúc từ một cái khuôn ra sao? - Pyle hỏi lại tôi - Anh tranh luận để mà tranh luật. Anh là một nhà trí thức. Anh cũng ở tầm quan trọng của mỗi cá nhân, giống như tôi… hay York vậy.
- Tại sao mãi gần đây người ta mới phát minh ra cái tầm quan trọng đó? - Tôi hỏi lại Pyle - Bốn mươi năm trước đây có ai nói theo kiểu đó đâu.
- Khi đó nó chưa bị điều gì đe dọa.
- Chúng ta không bị đe dọa ư? Không phải đâu nhưng lúc đó ai là người quan tâm đến cá nhân những người nông dân… và bây giờ thì ai quan tâm? Con người duy nhất đã coi họ như những con người là người đang cai quản từng quận huyện. Hắn ta đi vào từng ngôi nhà tranh, hỏi tên họ từng người, nghe từng lời than thở, để ra hàng giờ dạy họ điều này, điều khác, cư xử với họ như con người, như những cá nhân có giá trị đến mức nào đó. Đến phương Đông, xin anh đừng nói như còn vẹt rằng linh hồn mỗi cá nhân ở đây bị đe dọa. Ở đây, chúng ta không đứng về phía chân lý đâu, chính họ mới là người bênh vực cho cá nhân mỗi người, còn chúng ta chỉ bênh vực cho cá nhân mỗi người, còn chúng ta chỉ bênh vực cho tên lính quèn mang số đăng ký 23.987, một đơn vị nằm trong chiến lược toàn cầu.
- Anh thì chẳng tin được một nửa những điều anh nói - Pyle tuyên bố một cách khó chịu.
- Cứ nói là ba phần tư đi. Tôi ở đây lâu rồi. Anh hiểu đấy, thật may mắn cho tôi là tôi không đứng về phía nào, có những điều tôi muốn làm lắm, vì ở phương Đông này tôi chẳng yêu ông "Tổng Ai" đâu. Tôi yêu hai con người đang ngồi kia. Đất nước này là đất nước của họ. Mấy giờ rồi nhỉ, đồng hồ tôi chết rồi.
- Hơn tám rưỡi một tý.
- Chờ mười giờ nữa là chuồn được.
- Lát nữa chắc trời lạnh lắm - Pyle rùng mình nói - Tôi không bao giờ ngờ có thể rét đến thế.
- Quanh chúng ta là ruộng nước. Trong xe tôi có để một cái chăn. Đủ ấm.
- Nhưng lấy ra thì mạo hiểm quá.
- Việt Minh không tấn công sớm thế đâu.
- Để tôi đi lấy cho.
- Tôi đi tối quen hơn anh.
Khi tôi đứng lên, hai người lính ngừng ăn. Tôi báo trước cho họ: "Tôi trở về ngay". Cho chân xuống lỗ cửa, tôi tìm thấy chiếc thang và xuống gác. Khi nói chuyện về những vấn đề trừu tượng, người ta trở nên an tâm: Hình như cảnh diễn ra lạ lùng nhất cũng trở thành bình thường. Tôi không thấy sợ nữa. Tôi có cảm giác như vừa rời khỏi phòng tôi một lát và sắp trở vào nói tiếp câu chuyện đang bỏ dở. Tháp canh là phố Catina, là tiệm rượu Magestic hay chỉ là một buồng nhìn ra một công viên ở thủ đô London.
Tôi ngừng một phút ở chân thang để mắt quen với bóng tối. Sao sáng nhưng trăng bị mây chi. Ánh trăng bao giờ cũng gợi cho tôi ánh sáng trong một nhà xác hay ánh đèn trần không có chao rọi xuống một phiến đá cẩm thạch, nhưng ánh sao lại có sức sống hơn và lung linh không ngừng. Người ta có thể tưởng như từ trên không bao giờ la có ai đó đang gửi xuống một tín hiệu, vì tên các vì sao cũng là thân thiết: Vệ nữ là người mà chúng ta yêu dấu. Đại hùng tinh là những con gấu nhồi bông chúng ta chơi hồi nhỏ và tôi tin rằng chòm thánh giá phương Nam đối với những người sùng đạo như vợ tôi, là tên một bài thánh ca hay một bài kinh thì thầm đọc ở đầu giường người bệnh. Tôi run lên vì rét, như cơn rét run của Pyle. Tuy vậy đêm vẫn ấm như làn nước ở hai bên tả hữu như đã trùm lên khí nóng một màn mỏng lạnh như nước đá. Tôi đi về phía chiếc xe hơi và trong chốc lát, đứng trên đường cái, tôi có cảm giác như nó không còn ở đó. Lòng tin của tôi bị lung lay, ngay khi tôi vẫn nhớ là nó hết xăng nên phải đỗ cách tháp canh có ba mươi mét. Tôi không thể không khom lưng khi đi, hình như làm vậy, tôi chiếm ít chỗ hơn trong không gian.
Tôi phải mở khóa nắp hòm xe để lấy chiếc chăn. Tiếng mở khóa lách cách và tiếng va chạm làm tôi giật nảy mình. Tôi không thú vị khi nghĩ rằng chỉ có mình gây ra tiếng động giữa ban đêm, khi chắc là có biết bao nhiêu người ở quanh mình. Chăn vắt hai vai, tôi đóng cửa hòm xe nhẹ nhàng hơn khi mở: đúng lúc chiếc khóa kêu đến tách, bầu trời về phía Sài Gòn bỗng rực hồng và chớp lửa đó được một tiếng nổ tiếp ngay làm rung cả mặt đường. Một khẩu tiểu liên khạc ra tiếng hai lần và ngưng bặt trước khi tiếng nổ to lắng xuống. Tôi nghĩ "lại có kẻ ăn đòn rồi" và từ rất xa vọng lại những tiếng kêu đau đớn, kinh hãi hoặc là tiếng reo thắng lợi. Không hiểu tại sao bao giờ tôi cũng nghĩ tới một sự tấn công phải đến từ phía sau và khi hiểu rằng Việt Minh phải ở phía trước, giữa Sài Gòn và chúng tôi, thì tôi lại thoáng nghĩ như đó là điều giả dối. Giống như khi đáng phải chạy xa nơi nguy hiểm thì tôi lại đâm bổ vào, đáng lẽ phải đi thong thả để bớt gây tiếng động, thì cơ thể tôi lại cứ muốn chào chạy cho nhanh.
Tới chân cầu thang, tôi gọi Pyle: "Tôi đây, Fowler đây!" (Ngay đến lúc này tôi cũng không thể đem tên thánh của mình ra để tự xưng với hắn). Bên trong căn gác đã diễn ra một cảnh tượng khác. Những cà-mèn cơm vẫn ở dưới đất, người lính dựa lưng vào tường, tỳ khẩu súng lên đùi nhìn chằm chằm Pyle. Pyle quỳ dưới đất gần sát tường phía trước mặt, mắt nhìn như dán vào khẩu tiểu liên nằm giữa anh ta và người lính thứ hai. Người ta có cảm tưởng như hắn định bò lại khẩu súng và bắt buộc phải ngừng lại. Người lính thứ hai giơ tay về phía khẩu súng. Chưa ai xung đột hay hăm dọa ai, tình hình giống như những đứa trẻ đang chơi, một cái trò, trong đó ai bị bên kia trông thấy đang cử động thì phải lùi về chỗ xuất phát.
10/6/2015
Graham Greene
Nguyễn Kim Vỹ dịch
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Xuân và Sinh DỐI  Thay lời tựa Ta đã dối lòng khi dùng viết Trong tim trong máu vấy lên tơ, Ta đã dối người nhưng chẳng biết Ô...