Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2023

Người Mỹ trầm lặng 2

Người Mỹ trầm lặng 2

CHƯƠNG 22
- Điều gì đã xảy ra thế? - Tôi hỏi.
Hai người lính nhìn tôi. Pyle nhảy lên kéo được khẩu súng về phía mình.
- Đùa với nhau đấy ư?
- Tôi không muốn nó có súng… nhỡ tụi kia đến thì sao?
- Anh đã dùng súng Sten bao giờ chưa?
- Chưa.
- Đẹp quá nhỉ! Tôi cũng vậy. Mong sao đạn đã lên nòng.
- Chúng ta không biết lên đạn đâu.
Những người lính bình thản chấp nhận việc bị tước mất súng. Một người chúc súng xuống rồi để ngang đùi. Người kia ngả vào tường nhắm mắt như giống lúc còn bé, khi nhắm mắt thì tưởng như không ai nhìn thấy mình. Có lẽ anh ta bằng lòng vì đã hết trách nhiệm. Xa xa, ở phương trời nào không rõ, một khẩu đại liên lại nổ… ba tràng, rồi lại im lặng. Người lính kia lại nhắm chặt mắt, nhíu cả đôi mày xếch.
- Họ không biết rằng chúng ta cóc biết dùng súng - Pyle nói.
- Họ được coi như ở về phía chúng ta.
- Tôi tưởng anh không có phe phái nào.
- Đánh trúng đấy. Tôi mong Việt Minh biết rõ điều này.
- Đằng kia xảy ra sự gì vậy?
Tôi kể lại mẩu tin của báo Viễn Đông ngày mai: "Cách Sài Gòn năm mươi km, một đồn binh đêm qua đã bị Việt Minh tấn công và tạm thời chiếm giữ".
- Anh có cho rằng ra ngoài cánh đồng là an toàn hơn không?
- Ẩm ướt hơn thì có.
- Anh như không có vẻ sợ hãi gì cả - Pyle nói.
- Sợ xanh mắt lên chứ, nhưng tình hình đáng lẽ có thể xấu hơn. Thường mỗi đêm họ chỉ đánh ba đồn là cùng. Chúng ta đã bớt đi được một ít vận rủi rồi.
- Cái gì thế nhỉ?
Đó là một chiếc xe rất nặng chạy trên đường, đi về phía Sài Gòn. Tôi đi ra lỗ châu mai nhìn xuống, và đúng lúc đó một chiếc xe chạy qua.
- Đội tuần tra - Tôi nói.
Khẩu đại bác trên tháp xe quay nòng lúc về phía này, lúc về phía khác. Tôi định gọi, nhưng gọi để làm gì? Trên xe không có chỗ cho hai người thường dân vô tích sự. Đất rung lên chút ít khi xe chạy qua, họ đi rồi. Tôi nhìn đồng hồ: Tám giờ năm mươi mốt phút, và tôi đợi khi ánh sáng lóe lên khó khăn lắm mới đọc nổi những con số, giống như khi người ta tính khoảng cách giữa khi chớp và tiếng sấm để biết sét đánh xa hay gần. Non bốn phút trôi qua mới nghe tiếng đại bác nổ. Hình như có tiếng bazoka đáp lại, rồi tất cả im lặng.
- Khi họ quay về - Pyle nói - Chúng ta ra hiệu cho họ ngừng và đưa chúng ta về đồn.
Lúc này tiếng nổ lớn làm rung cả sàn gác.
- Nếu mà họ quay về được - Tôi nói - Vừa rồi như tiếng mìn thì phải.
Khi tôi nhìn lại đồng hồ thì đã quá chín giờ mười lăm một chút và chiếc xe tăng không quay lại. Súng không nổ nữa.
Tôi ngồi xuống cạnh Pyle duỗi dài hai chân.
- Cố ngủ đi - Tôi nói. Chẳng có thể làm được việc gì khác đâu.
- Tôi không yên tâm chút nào về hai tên lính này.
- Chừng nào Việt Mình không tới thì không sợ gì cả. Để khẩu tiểu liên dưới chân cho yên trí hơn.
Tôi nhắm mắt lại và cố hình dung ra mình đang ở một nơi khác… ngồi cứng thẳng lưng trên một toa tàu hạng tư của nước Đức trước khi Hitler lên cầm quyền, những ngày của tuổi thanh niên khi tôi thường suốt đêm ngồi, không biết gì là u sầu, khi tôi có những cơn mơ mộng, lúc không ngủ đầy hy vọng chứ không phải đầy sợ hãi. Hoặc bây giờ là lúc Phượng thường tiêm thuốc bữa đêm cho tôi. Tôi tự hỏi xem đã có một bức thư nào đang chờ tôi không, tôi hy vọng rằng không có, vì tôi biết trước thư sẽ nói gì, và chừng nào nó chưa đến thì tôi còn có thể ước mơ những điều không thể có được.
- Anh ngủ à? - Pyle hỏi.
- Không.
- Có nên rút thang lên không?
- Tôi bắt đầu hiểu tại sao họ lại cứ để thang, đó là con đường thoát duy nhất.
- Tôi mong cho chiếc xe tăng lộn lại.
- Nó không lộn lại đâu.
Tôi cố lâu mới nhìn đồng hồ, thời gian sao mà đi chậm thế. Chín giờ bốn mươi, mười giờ năm, mười giờ mười hai, mười gia ba mươi hai, mười giờ bốn mươi mốt.
- Anh thức hay ngủ - Tôi hỏi Pyle.
- Thức.
- Anh nghĩ cái gì đấy?
Hắn lưỡng lự rồi nói:
- Nghĩ về Phượng.
- Nói rõ hơn xem nào.
- Tôi tự hỏi lú này cô ta đang làm gì.
- Tôi có thể cho anh hay. Cô ta chắc rằng tôi ngủ lại ở Tây Ninh, vì đây không phải là lần đầu. Cô ấy nằm trên giường, cạnh một nén hương đốt để trừ muỗi, và đang xem ảnh đăng trên số báo Paris Matchs cũ. Như tất cả những người Pháp, cô ta rất mua truyện các vua chúa.
Pyle nói với một vẻ tư lự:
- Thật tuyệt vời khi ngưòi ta biết rõ đến thế.
Còn tôi, trong đêm tối, tôi mường tượng ra đôi mắt anh chàng hiền từ như đôi mắt của một con chó. Đáng lẽ anh chàng phải mang tên là Cún chứ không phải là Pyle.
- Thật ra tôi không biết. Nhưng chắc là như thế. Khi chẳng làm đựơc cách nào khác thì chẳng nên ghen tị làm gì: "Không nên xây thành lũy quanh cái bụng một người đàn bà".
- Đôi lúc, tôi rất ghét cái kiểu nói năng của anh, Thomas ạ. Anh có biết hình ảnh Phượng trong tôi là thế nào không? Tươi tắn như một bông hoa.
- Bông hoa khốn khổ, bị cỏ dại lấn át đến nghẹt thở.
- Anh gặp cô ta ở đâu?
- Cô ta khiêu vũ ở Đại thế giới.
- Khiêu vũ ư? - Pyle thốt lên như việc đó xé nát lòng hắn.
- Đó là một nghề đáng kính - Tôi nói - Đừng thắc mắc gì cả.
- Anh dày dạn kinh nghiệp quá, Thomas, ghê gớm quá đấy!
- Tôi đã có một số tuổi đời ghê gớm. Khi anh sống đến tuổi tôi…
- Tôi chưa hề đoạt được một người phụ nữ nào đến nơi đến chốn. Tôi không rõ anh gọi kinh nghiệm bản thân là cái gì.
CHƯƠNG 23
Những người đồng bào của anh hình như để một phần lớn nghị lực vào việc nốc rượu.
- Tôi chưa hề nói với ai điều này.
- Anh còn trẻ. Đừng lấy điều đó làm ngượng.
- Có phải anh có đến một đống đàn bà không, anh Fowler?
- Tôi không hiểu một đống là thế nào. Chỉ có bốn người phụ nữ là đã ít nhiều quan trọng đối với tôi, hay với bản thân họ. Còn đối với bốn mươi người khác - hay xấp xỉ như vậy - người ta tự hỏi làm thế để làm gì? Để giữ sức khỏe, hay vì nghĩa vụ xã hội, các lập luận đó đều láo toét cả.
- Anh coi là sai lầm thật ư?
- Tôi muốn có thể sống lại những đêm đó. Tôi bây giờ vẫn muốn yêu Pyle ạ, nhưng ngày càng hết duyên rồi. Ồ tất nhiên, có sự kiêu hãnh ở chỗ này. Được người khác mê mình thì mình còn tự kiêu mãi mãi. Nhưng trời có hiểu cái gì làm ta nở mũi khi nhìn thấy chung quanh ta những người đàn ông định chinh phục không?
- Anh Thomas này, hay là bộ máy con người tôi có cái gì bị hỏng liệt, anh cứ nói thật cho.
- Không phải đâu, Pyle ạ.
- Không phải là tôi không biết thèm khát phụ nữ, tôi cũng giống như mọi người thôi, tôi không có cái gì khác thường cả đâu.
- Thật ra chúng ta không thèm khát nhiều như chúng ta tưởng. Chúng ta tự ám thị ghê gớm quá về vấn đề này. Bây giờ tôi biết rằng tôi không thèm khát một người phụ nữ nào… ngoài Phượng. Nhưng điều đó là một khoa học mà phải có năm tháng trôi qua, ta mới nắm được. Nếu không có Phượng, tôi có thể cả năm không có đêm nào thao thức cả.
- Nhưng cô ta còn đấy - Pyle nói nhỏ đến nỗi tôi không nghe rõ.
- Người ta bắt đầu bằng cách tìm thú vui ở khắp mọi nơi, rồi kết thúc bằng sự chung thuỷ với một người, y như cha ông chúng ta vậy.
- Bắt đầu kiểu như vậy thì cũng hơi ngây thơ.
- Không.
- Trong báo cáo của Kinsey không nói điều này.
- Báo cáo sẽ nói, nếu đó là một sự ngây thơ.
- Anh Thomas này, nằm ở đây mà nói những chuyện này thì khoái thật. Lạ thật, y như chúng ta không bị sống trong sự đe dọa vậy.
- Người ta có cảm giác như vậy trong lúc tạm yên giữa hai đợt máy bay ném bom. Nhưng họ sẽ trở lại.
- Nếu người ta hỏi, theo kinh nghiệm quan hệ với phụ nữ của anh, lúc nào là lúc sống sâu lắng nhất, thì anh trả lời thế nào?
Câu trả lời của tôi đã sẵn sàng.
- Vào lúc sáng sớm, nằm ở trên giường và nhìn một người phụ nữ mặc áo ngủ đỏ đang chải tóc.
- Jo thì nói rằng đối với hắn, đó là lúc vừa được ngủ cả với một người Tàu và một người da đen.
- Khi tôi hai mươi tuổi, tôi cũng nghĩ như vậy.
- Jo này đã năm mươi tuổi.
- Tôi tự hỏi, khi người ta tống hắn ra mặt trận, người trước tính hắn đã có trí tuệ bao nhiêu tuổi.
- Có phải Phượng chính là người phụ nữ mặc áo ngủ màu đỏ không?
Nếu Pyle không đặt câu hỏi này thì hay biết mấy!
- Không phải. Cô ấy đến với tôi trước Phượng. Khi tôi đã xa vợ.
- Thế rồi việc gì đã xảy ra?
- Tôi cũng lại lìa cô ta.
- Sao vậy?
Thật ra thì tại sao nhỉ?
- Khi yêu, chúng ta là những người ngu ngốc - Tôi nói - Ý nghĩ sẽ mất cô ta làm tôi kinh sợ. Tôi thấy như cô ta đối với tôi sự đổi thay. Tôi không rõ cô ta có đổi thật không, nhưng tôi không thể chịu đựng nổi sự hoài nghi thấp thỏm. Tôi chạy nhanh đến chỗ kết thúc y như một tên lính nhút nhát lao mình về phía địch và vì thế lại được hưởng một tấm huân chương. Tôi muốn lấy cái chết để chấm dứt.
- Cái chết ư?
- Đó cũng là một kiểu chết. Rồi sau tôi sang phương Đông.
- Và anh đã gặp Phượng?
- Phải.
- Thế sống với Phượng, anh có ý nghĩ tương tự không?
- Không. Thế này nhé, người kia thì yêu tôi. Tôi sợ mất cái tình yêu đó. Bây giờ tôi chỉ sợ mất Phượng thôi.
"Sao tôi lại nói như vậy nhỉ? - Tôi tự hỏi - Pyle không hề cần đến tôi động viên anh ta".
- Nhưng Phượng cũng yêu anh, phải không?
- Yêu theo một kiểu khác. Bản chất cô ta khác. Anh sẽ nhận ra thôi. Nếu nói rằng những người như cô ta chỉ là những đứa trẻ con, thì cũng là dùng một hình ảnh rập khuôn thôi, nhưng quả thực là ở họ có những mặt rất ấu trĩ. Họ đem lòng yêu mến anh để đền đáp lại sự đôn hậu, sự an toàn và những món quà anh đem lại cho họ. Họ ghét anh khi anh có một cử chỉ vũ phu hay bất công đối với họ. Họ không hiểu rằng người ta có thể vào một căn nhà và yêu một người chưa quen biết. Pyle này, khi đã là một người luống tuổi, điều này làm ta yên tâm: Cô ta không bao giờ lìa nhà ta khi cái nhà đó còn là cái nhà ấm cúng.
Tôi không có ý định làm Pyle đau khổ. Chỉ khi nghe hắn nói bằng giọng nghẹn ngào và bực bõ, tôi mới biết tôi đã làm hắn đau đớn như thế nào.
- Cô ta có thể thích hơn, nếu được an toàn hơn hay đối đãi tử tế hơn.
- Có lẽ.
- Anh không sợ điều đó ư?
- Không sợ bằng sợ tình huống đã xảy ra.
- Thực ra anh có yêu cô ta không?
- Có chứ, Pyle, có chứ. Nhưng yêu như yêu con người kia thì tôi yêu chỉ một lần.
- Tuy biết đến bốn mươi người - Hắn nghiêm khắc nói.
- Chắc chắn là con số đó còn dưới con số trung bình đã được nêu trong báo cáo của Kinsey. Anh xem, Pyle này, phụ nữ không cần con trai tân đâu. Tôi cũng không chắc chúng ta thích những người phụ nữ còn trinh, trừ phi ta thuộc về loại người mắc một kiểu bệnh tinh thần nào đó.
- Tôi có nói với anh rằng tôi là trai tân đâu?
Kiểu nói chuyện giữa tôi và Pyle thường cứ chất chưởng như vậy. Phải chăng vì hắn thật thà quá mà câu chuyện hay bị lệch hướng? Cứ như mỗi khi gặp khúc ngoặt thì chiếc xe lại va quệt vậy.
- Có thể biết tới một trăm người đàn bà mà vẫn là trai tân. Trong chiến tranh, phần lớn những G.I của các anh bị treo cổ vì tội hiếp dâm là những người trai tân. Ở châu Âu chúng tôi không đến nỗi như thế. May quá. Họ đã gây ra biết bao tai hại.
- Tôi không hiểu nổi anh, anh Thomas ạ.
- Điều đó chẳng đáng để giải thích thêm cho anh. Vả lại vấn đề nhức đầu lắm. Tôi đã đến tuổi mà những câu chuyện quan hệ nam nữ không quan trọng bằng các vấn đề cái già và cái chết. Buổi sáng khi tỉnh giấc, đầu óc tôi bận rộn về những vấn đề đó hơn là hình hài một người phụ nữ. Tất cả điều tôi mong muốn là không phải sống lẻ loi trong mười năm cuối cùng của đời mình. Không mong điều gì khác. Cả ngày tôi sẽ không biết nghĩ đến việc gì. Tôi muốn có một người đàn bà bên cạnh, trong cùng gian phòng với tôi… dù đó là một người mà tôi không yêu. Nhưng nếu Phượng lìa bỏ tôi, không hiểu tôi có nghị lực đi tìm một người khác không?
- Nếu cô ta chỉ là thế thôi đối với anh…
- Chỉ là thế? Pyle! Anh hãy chờ cho đến khi phải sợ hãi cuộc sống cô đơn mười năm và sau đó là vào nhà dưỡng lão. Rồi anh chạy đi tứ phương, chạy trốn cả con người mặc áo ngủ màu đỏ, để tìm được một người, bất kỳ ai, miễn là ở với anh đến cùng.
- Thế tại sao anh không trở lại với vợ anh?
- Không dễ sống với người mà mình đã làm cho đau khổ.
Một băng dài Sten nổ vang, chắc chỉ gần chưa đến 2 km. Có lẽ một người lính gác hoảng hốt đã nã vào một bóng đen. Có lẽ một cuộc tấn công mới bắt đầu. Tôi hy vọng đó là một cuộc tấn công: như vậy, vận may của chúng tôi lại được tăng lên.
- Anh có sợ không anh Thomas?
- Sợ quá đi chứ. Sợ với tất cả bản năng của tôi. Nhưng lý trí của tôi lại bảo chết kiểu này lại là hay. Chính vì thế mà tôi đã tới phương Đông. Ở đây cái chết lúc nào cũng ở cạnh anh. (Tôi nhìn đồng hồ. Hơn mười một giờ. Chỉ còn tám giờ nữa là thoải mái được rồi). Tôi cho rằng - Tôi nói tiếp - Chúng ta đã nói về tất cả các vấn đề, trừ Thượng đế. Phải dành vấn đề đó cho những lúc thanh vắng giữa đêm như thế này.
- Tôi có cảm tưởng như anh không tin ở Người.
- Không.
- Đối với tôi, gắn mỗi việc vào ông trời thật là vô nghĩa.
- Khi xưa tôi đã học…
- Tôi không bao giờ biết Pyle đã đọc sách gì (Tôi đoán rằng không phải York Hardin hay Shakespeare, hay tuyển tập thơ của các thi sĩ đương đại, hay sinh lý trong kết hôn… có lẽ thắng lợi của cuộc sống). Một tiếng gọi ùa vào tháp canh và như bùng nổ ngay cạnh chúng tôi, nó như từ trong bóng tối, gần cái cửa sập bay lên một thứ tiếng ồ ồ của một cái loa nói điều gì bằng tiếng Việt.
- Đến lượt chúng mình rồi đó! - Tôi nói.
Hai người lính mặt quay về phía lỗ châu mai, há hốc miệng ra nghe.
- Gì thế nhỉ? - Pyle hỏi.
Khi đi qua gian phòng để ngó qua lỗ châu mai ra ngoài, tôi có cảm tưởng như tôi đang đi xuyên qua tiếng gì đó. Bên ngoài tối mịt không nom thấy gì. Tôi không nhìn thấy cả con đường và khi quay nhìn lại, tôi thấy khẩu súng trường đang chĩa thẳng, không hiểu vào tôi hay vào lỗ châu mai. Tuy nhiên, khi tôi đi men theo tường lần đi thì khẩu súng động đậy, lưỡng lự rồi chĩa vào tôi, tiếng nói bên ngoài vẫn nhắc đi nhắc lại những lời ban nãy. Tôi ngồi, nòng súng chúc xuống.
- Họ nói gì thế? - Pyle hỏi.
- Không hiểu. Tôi cho rằng họ thấy chiếc xe họ ra lệnh cho hai người lính phải trao cho họ, nếu không thì ăn đòn: Anh cầm khẩu súng lên, trước khi những người lính quyết định một điều gì.
- Nó bắn đấy.
- Chưa chắc. Khi nó đã quyết thì đằng nào nó cũng sẽ bắn.
Pyle nhấc chân lên và khẩu tiểu liên lộ ra.
- Bây giờ tôi men vào tường - Tôi nói - Nếu mắt nó nhìn theo tôi thì anh giơ súng ngắm nó.
Khi tôi đứng lên thì tiếng nói im bặt: chính sự im lặng lại làm tôi giật mình. Pyle quát gọn: "Bỏ súng xuống". Tôi chưa kịp nghĩ xem khẩu Sten được lên đạn chưa (lúc này tôi cũng không thèm kiểm tra) thì người lính đã quẳng súng xuống.
Tôi đi ngang qua căn phòng và nhặt lấy. Lúc đó tiếng gọi lại vang lên. Tôi cảm thấy như người ta nhắc lại những âm tiết ban nãy. Có lẽ họ dùng một cái đĩa hát chăng? Tôi tự hỏi đến lúc nào thì tối hậu thư đó được chấm dứt.
- Và bây giờ thì điều gì sẽ xảy ra? - Pyle nói như một chú học sinh theo dõi một việc làm trong phòng thí nghiệm - Hình như hắn thấy số phận hắn không dính vào đó.
- Có lẽ đấy chỉ là một Việt Minh đi lẻ, cũng có thể họ có súng bazoka.
Pyle ngắm khẩu súng đang cầm.
- Xem bộ dùng không khó khăn lắm, hay tôi bắn xuống?
- Đừng, cứ để cho họ tính toán. Họ thường thích lấy được đồn một cách chắc chắn nhất và như vậy chúng ta càng thêm có thì giờ. Tốt hơn hết là chuồn cho nhanh.
- Biết đâu họ chẳng đón chúng tôi, tôi nói hai người đàn ông, nhưng tôi tin rằng tổng cộng số tuổi cả hai người lính thì chưa chắc đã tới bốn mươi.
- Còn hai tên kia? - Pyle hỏi, và nói tiếp một cách đơn giản đến đáng sợ - Lia cho họ một loạt đạn nhé?
Có lẽ hắn ta muốn dùng thử khẩu súng.
- Họ làm gì nên tội đâu?
- Nhỡ họ đem chúng ta nộp cho bọn kia thì sao?
- Cũng chẳng sao. Chúng ta có quyền gì được đến đây. Đây là đất nước của họ.
Tôi tháo băng đạn ra và vứt súng xuống sàn.
- Anh định để lại những thứ này ở đây sao?
- Tôi già quá rồi, sức đâu mà chạy vừa vác súng nữa. Vả lại cóc phải cuộc chiến của tôi. Đi nào.
Chiến tranh này không phải là của tôi, nhưng tôi muốn những người đang chờ trong bóng đêm kia cũng hiểu cho điều đó. Tôi tắt đèn, thõng chân qua cửa sập, khoắng tìm chiếc thang. Tôi nghe hai người lính thì thào với nhau bằng tiếng mẹ đẻ của họ, y như họ ngậm miệng mà hát.
- Tiến thẳng về phía trước - Tôi nói với Pyle - Hướng theo phía ruộng lúa. Nhớ rằng có nước đấy. Không rõ nông hay sâu. Sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng.
- Cám ơn bạn đã đến.
- Tôi mới là người phải cảm ơn.
Tôi nghe tiếng động đậy sau lưng. Bụng bảo dạ không hiểu họ có dao không? Tiếng trong loa có vẻ kiên quyết hơn, như để ra một cái hạn cuối cùng. Có cái gì sột soạt nhè nhẹ trên đầu chúng tôi trong đêm tối, nhưng có lẽ chỉ là một con chuột. Tôi lưỡng lự.
- Trời, bây giờ mà được cốc rượu mạnh nhỉ? - Tôi nói thầm.
- Lên đường đi.
Có cái gì đang leo lên thang, không nghe tiếng động nhưng thang cứ rung lên dưới chân tôi.
- Sao lại ngừng thế? - Pyle hỏi.
Không rõ tại sao trong đầu tôi sự chuyển động nhè nhẹ và câm lặng đó phải là một "cái gì" đang đến. Chỉ có một con người mới có thể leo thang được, tuy nhiên tôi không thể hình dung ra được đó là một con người giống như tôi, hình như đó là một động vật nào đó tiến lên để giết một cách bình thản và chắc là không hối tiếc, vì nó thuộc vào một loài khác. Chiếc thang rung lên, rung lên và tôi nhìn thấy ở phía dưới có những con mắt nhìn sáng rực. Bỗng nhiên, tôi không chịu đựng nổi, nhảy xuống và thấy là không có cái gì cả, chỉ có nền đất xốp hút chặt lấy một chân tôi và bẻ quặt nó ở chỗ mắt cá, y như có một tay người đã nắm chặt và vặn chẹo nó đi. Tôi thấy Pyle xuống từng nấc thang một và tôi hiểu rằng mình đã xử sự một cách ngốc nghếch như một tên nhát gan không nhận ra được sự run rẩy của bản thân mình. Thế là tôi cứ tự cho mình là một con người cứng gân cứng cốt không hề có đầu óc tưởng tượng, đúng kiểu một người quan sát giỏi và một phóng viên thực thụ. Tôi đứng lên và suýt nữa ngã xuống vì quá đau. Tôi đi về phía đồng ruộng, vừa đi vừa lê chân và nghe thấy Pyle tiến tới sau lưng. Đúng lúc đó, một viên đạn bazoka nổ tung trên tháp canh và tôi ngã sấp xuống.
CHƯƠNG 24
- Anh có bị thương không? - Pyle hỏi.
- Bị va vào chân. Không có gì trầm trọng.
- Nào chúng ta đi lên - Pyle cố nài.
Tôi chỉ nhận ra hắn vì thấy hắn như bị một lượt bụi mịn và trắng phủ lên người. Nhưng rồi hình ảnh hắn lại biến mất, y như khi xem phim hình ảnh không rõ vì điện yếu, chỉ còn nghe tiếng nói. Tôi lại đứng lên bằng cách tì vào bên đầu gối còn nguyên vẹn và gắng đứng thẳng mà không tựa lên chân trái bị sai khớp, nhưng tôi lại ngã, đau đến đứt thở. Không phải đau ở mắt cá mà chân trái tôi bị thương ở một nơi nào đó. Tôi không còn ngại gì nữa, sự đau đớn làm mờ hẳn sự sợ sệt. Tôi cứ nằm ra đất, bất động, với hy vọng rằng cái đau không tìm thấy tôi, tôi nín thở, như người ta thường làm trong một cơn đau răng, tôi không nghĩ đến cả việc quân Việt Minh sắp tới để lục soát cái thápc anh vừa bị bắn sập. Một quả đạn nữa lại vừa trúng tháp và nổ tung. Trước khi tới, họ đề nhiều món tiền khổng lồ được đổ ra để giết vài nhân mạng, ngưòi ta giết những con ngựa với những tổn phí ít hơn. Tôi hình như chưa tỉnh hẳn vì tôi nghĩ lan man đến quê hương tôi, cái lò đó là sự khiếp đảm của tôi hồi nhỏ. Ở đó chúng tôi tưởng như còn vang lên tiếng súng ngắn bắn giết những con vật và tiếng hí khiếp sợ của chúng.
Có một lúc, nhờ tránh mọi cử động và nhất là tránh thở mạnh, điều này rất quan trọng, tôi thấy hết đau. Trong lúc tỉnh táo, tôi tự hỏi có nên bò ra cánh đồng không. Quân Việt Minh chắc không ai có thì giờ lùng kiếm thật xa. Một đội tuần tra sắp xuất hiện và tìm cách liên lạc với chiếc chiến xa thứ nhất. Nhưng tôi lại sợ đau hơn là sợ quân du kích và tôi lại nằm yên. Không có tiếng động nào cho hay hiện Pyle ở nơi nào, chắc hắn ta đã ra khóc ở phía tháp canh, hay đúng hơn là ở nơi trước kia là cái tháp canh. Đó không phải là tiếng khóc của một người lớn, người ta cho rằng đó là tiếng thút thít của một đứa nhỏ sợ bóng tối, nhưng không dám kêu lên. Tôi đoán rằng đó là một trong hai người lính trẻ, có lẽ người đồng ngũ của anh ta đã bị chết. Tôi hy vọng rằng khi Việt Minh đến, họ không cắt cổ anh ta. Người ta không nên đánh nhau với trẻ con, và tôi lại nhớ tới hình ảnh một thi hài nhỏ nằm co quắp trong một cái hố. Tôi nhắm mắt lại và điều đó như xưa không cho đau đớn tới gần tôi và tôi cứ nằm chờ, có tiếng ai đó kêu điều gì tôi không rõ. Tôi như có cảm giác rằng tôi có thể ngủ một giấc trong đêm tối cô độc và hết đau như thế này.
Tôi lại nghe tiếng Pyle thì thào:
- Thomas, Thomas!
Hắn ta đã nhanh chóng học được lối đi không gây ra tiếng động và tôi đã không nghe thấy tiếng bước chân của hắn.
- Anh cút đi! - Tôi trả lời rất nhỏ.
Hắn tìm ra tôi và nằm dài xuống bên cạnh.
- Tại sao anh không đi theo tôi? Anh bị thương à?
- Cái chân. Tôi chắc nó bị gãy.
- Bị đạn?
- Không, không, một mảnh gỗ, một hòn đá, hay một mảng tường và phải. Không thấy máu chảy.
- Anh phải cố lên một tí.
- Anh đi đi, Pyle. Tôi không muốn đi, đau lắm.
- Chân nào?
- Chân trái.
Hắn trườn sát người tôi, vắt tay tôi lên vai hắn. Tôi vừa muốn khóc thút thít như người lính trẻ gác tháp canh, lại vừa thấy bực dọc, nhưng không thể biểu thị sự phẫn nộ trong một tiếng thì thào được.
- Mặc kệ tôi, Pyle. Tôi muốn ở lại đây.
- Không thể ở lại đây được.
Hắn vừa lôi vừa lấy vai đỡ tôi và cơn đau lại trở lại không sao chịu nổi.
- Xin đừng chơi trò anh hùng rơm nữa, trời ơi tôi không muốn động đậy chút nào.
- Anh phải góp sức anh vào một tí chứ, không thì anh làm cho cả hai chúng ta bị bắt bây giờ.
- Anh…
- Im đi, họ nghe thấy bây giờ.
Tôi muốn khóc lên được vì tủi nhục, nói như vậy không phải là quá đáng. Tôi tựa hẳn lên người hắn, để cho bên chân trái thõng ra… chúng tôi nom như những người ục ịch chơi trò ôm nhau chạy bằng ba chân và tôi chắc là sẽ bị phát hiện ra ngay, nếu đúng lúc lên đường không có một khẩu đại liên nổ từng loạt đạn ngắn và nhanh đâu đó phía tháp bên cạnh: Có lẽ một đội tuần tra hay là quân Việt Minh hoàn thành mục đích hạ ba chiếc tháp canh như thường lệ. Tiếng súng trùm lấp tiếng chân chạy trốn chầm chậm và ngượng nghịu của chúng tôi.
Tôi không nghĩ mình đã tỉnh suốt dọc đường. Tôi chắc rằng hai mươi mét cuối, Pyle như đã cõng hẳn tôi đi.
- Cẩn thận - Pyle nói - Ta đi vào đây.
Những gốc rạ loạt soạt kêu quanh chúng tôi, bùn bắn tung tóe. Khi Pyle ngừng lại thì nước đã lên tới ngang lưng. Hắn thở hồng hộc, khiến tôi nghĩ đến tiếng một chú ễnh ương.
- Phiền anh quá - Tôi nói.
- Tôi không thể để anh nằm đó.
Lúc đầu tôi thấy rất dễ chịu, bùn và nước bó lấy chân tôi một cách mềm mại, chặt chẽ như một thứ băng đặc biệt, nhưng chẳng bao lâu rét lạnh làm hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Tôi không hiểu đã đến đã đến quá nửa đêm chưa, giả dụ Việt Minh không tìm thấy thì cũng phải chịu đựng thêm sáu giờ nữa.
- Anh có thể dịch người một chút cho đỡ nặng không? - Pyle hỏi - Một lát thôi.
Thế là cơn giận dữ vô lý của tôi bỗng nổi lên, tôi không có lý lẽ nào đòi hỏi người ta đến cứu tôi, hay nói đúng hơn là đến đẩy lui giờ chết bằng cái giá là làm cho tôi đau đớn như thế này. Tôi đứng trên một chân như con cò để đỡ gánh nặng cho Pyle và khi cử động chúng tôi không thấy những gốc rạ cào cứa vào chân.
- Anh đã cứu tôi ở chỗ kia - Tôi nói - Để mang tôi đến chết nơi đây (Pyle hắng giọng, sắp sửa trả lời tôi bằng một câu nói công thức). Tôi thích chết ở nơi khô ráo.
- Anh đừng nói nữa thì tốt hơn - Pyle nói như để dỗ dành người ốm nặng - Phải tiết kiệm sức lực chứ!
- Ma quỷ nào xui anh cứu tôi. Tôi đến để chết ở cái đất này. Với cái thói chết tiệt là hay nhúng mũi vào việc của người khác.
Tôi lảo đảo chực ngã trên đất nhão và Pyle lại khoác tay tôi lên vai anh.
- Anh tựa tay vào đi - Hắn nói.
- Anh đã xem nhiều cuốn phim về chiến tranh quá đấy. Chúng mình không phải là hai tên lính thủy đổ bộ và người ta không thưởng huy chương thập tự danh dự cho chúng mình đâu.
- Suỵt, suỵt…
Chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân đi xuống tới bờ ruộng. Trên đường, khẩu đại liên đã ngừng bắn và tất cả đều im lặng, ngoài tiếng chân đó và tiếng cây lúa xào xạc. Rồi những bước chân cũng ngừng lại, cách chúng tôi chỉ bằng chiều rộng của một gian phòng. Tôi cảm thấy trên vai lành của tôi sức bàn tay Pyle từ từ ấn xuống để tôi lún xuống bùn. Chúng tôi lún xuống chầm chậm để khỏi chạm mạnh vào gốc lúa. Một đầu gối quỳ xuống tôi ngửa đầu hết sức về phía sau, vừa đủ để mồm mũi thò lên trên mặt nước. Chân tôi lại đau nhói và tôi nghĩ, nếu ngất đi thì sẽ bị chết đuối. Từ xưa tôi vẫn sợ và ghét cái kiểu chết ngụp trong nước. Tại sao người ta không thể chọn một kiểu chết cho mình nhỉ? Không có mảy may tiếng động nào, có lẽ cách mười bước chân thôi thì họ hẳn nghe được tiếng sột soạt, tiếng ho, hay một tiếng hắt hơi. Trời, buồn hơi hơi quá. Nếu chỉ có mình tôi, nếu tôi chỉ chịu trách nhiệm về cái chết của mình tôi, không phải là cái chết của hắn, hắn bám lấy cái sống quá! Tôi lấy những ngón tay còn lại còn được tự do ấn chặt vào môi trên, theo lối của trẻ con khi chơi trốn tìm, nhưng cái muốn hắt hơi cứ dai dẳng mãi chờ lúc nổ ra, nhưng khi những người kia đứng chờ trong bóng tối như chỉ đợi có thế! Này hắt hơi này, này, này…
Nhưng đúng lúc cái hắt hơi phát ra thì quân Việt Minh nổ một tràng tiểu liên vào ruộng lúa… và tiếng hắt hơi chìm trong tiếng nổ đanh sắc, nghe như tiếng máy khoan đục lỗ trong một tấm thép. Tôi hít một hơi dài và ngụp đầu xuống, thế là khi cái chết yêu mến đến thì người ta lại theo bản năng mà chạy trốn nó. Chúng ta làm nũng với thần chết y như một người đàn bà cứ bắt người tình hiếp dâm mình. Những thân cây lúa bị quất mạnh, chúc xuống dưới làn đạn và cơn bão lửa đi qua. Cùng nhô đầu lên một lúc để thở, chúng tôi nghe thấy những bước chân đi xa dần về phía tháp canh.
- Thoát rồi - Pyle nói.
Tuy đau, tôi vẫn cứ nghĩ: Thoát cái gì nhỉ? Trước mắt tôi là sự già nua, một chân biên tập viên tại tòa soạn, sự cô đơn, còn đối với hắn, bây giờ rõ ràng là hắn đã buột miệng nói và nhanh nhảu quá. Rồi trong đêm tối, chúng tôi đứng đợi. Trên đường về Tây Ninh, một đám lửa ăn mừng bốc lên, lửa bùng cháy vui vẻ như trong một đêm hội hè.
- Cháy xe của tôi rồi.
- Hoài của, anh Thomas. Tôi chúa ghét những sự hủy hoại vô ích.
- Vừa đủ ét xăng cho chiếc xe bị đốt cháy. Anh Pyle có rét như tôi không?
- Không bao giờ rét như thế này.
- Hay chúng ta đi ra và nằm trên đường?
- Chờ họ đi hộ nửa giờ nữa.
- Tôi tỳ lên anh nặng quá.
- Chịu được, tôi còn trẻ mà.
- Anh ta đưa cái yêu sách đó ra để nói đùa, nhưng câu nói lại làm tôi lạnh người đi như gặp phải bùn nước vậy. Tôi muốn xin lỗi anh ta về những lời lẽ mà khi đau tôi đã thốt ra, nhưng nỗi đau của tôi lại lên tiếng:
- Đúng là anh còn trẻ. Anh có thể cho phép anh chờ đợi phải không?
- Tôi chẳng hiểu anh định nói gì, anh Thomas.
Chúng tôi đã cùng nhau sống mấy giờ dài bằng cả bảy đêm của một tuần, nhưng anh ta cũng chưa hiểu tôi, cũng như anh ta không hiểu tiếng Pháp vậy.
- Đúng ra anh cứ để tôi ở chỗ kia thì hơn - Tôi nói.
- Thế thì tôi còn mặt mũi nào mà nhìn thấy Phượng nữa.
Cái tên Phượng vừa nói ra đó giống như một con bài đối thủ vừa quật ra bàn, nằm giữa hai người, tôi chấp nhận sự thách thức.
- Thì ra vì Phượng mà anh đã làm những việc như vậy. (Cơn ghen của tôi lại càng lố bịch và nhục nhã, vì đáng lẽ phải được biểu lộ bằng những tràng lời lẽ như trên sân khấu, thì này chỉ có thể thì thào rất nhỏ với nhau). Anh tưởng rằng cái trò bịp đóng vai người hùng sẽ gây ấn tượng cho cô ta sao? Sao mà anh lầm vậy! Nếu tôi mà chết thì cô ta có thể thuộc về anh.
- Tôi không muốn nói thế. Nhưng, khi người ta yêu thì người ta cũng chịu chơi lắm chứ, thế thôi.
- Đúng vậy - Tôi nghĩ - Nhưng sự đời đâu có đơn giản như hắn tưởng. Khi yêu, người ta tự nhìn mình bằng con mắt của người khác, người ta thành ra yêu một hình ảnh của bản thân không còn nguyên vẹn vì được tô vẽ cho thanh cao hơn. Trong khi yêu không còn có thể thật sự vì danh dự mà hành động, cử chỉ anh hùng chẳng qua chỉ là một vai hề đóng trước một công chúng hai người. Có lẽ tôi hết yêu rồi, nhưng vẫn nhớ lại khi còn yêu.
- Ở vào địa vị anh thì tôi chuồn một mình - Tôi nói.
- Ồ, không phải thế đâu, đời nào anh lại làm thế, anh Thomas!
Và hắn nói thêm với một vẻ tự phụ không sao chịu nổi:
- Tôi hiểu anh hơn là anh tự hiểu mình.
Bực mình, tôi định đứng xa ra và gánh lấy cái trọng lượng của bản thân mình, nhưng cơn đau lại trở lại giống như một con tàu ầm ầm qua đường hầm và tôi lại phải tì lên hắn nặng nề hơn, trước khi ngã nhào xuống ruộng. Hắn hai tay ôm giữ lấy tôi rồi từng tấc, từng tấc kéo tôi lên cái mô đất bên lề đường. Khi lôi tôi tới được đó, hắn đặt tôi nằm ngửa trên bờ ruộng còn bị một lớp bùn mỏng kín và khi đỡ đau, hễ phải nín thở, mở mắt ra, tôi chỉ nhìn thấy những chòm sao vẽ trên nền trời những đường nét rắc rối như một thứ mật mã mà tôi không đọc nổi, những chùm sao không giống như ở quê nhà. Cái mặt của Pyle lại đảo đi đảo lại trên mặt tôi và che lấp những chùm sao.
- Tôi ra đường xuôi xuống để tìm một toán lính đi tuần.
- Đừng dại - Tôi nói - Họ sẽ bắn vào anh trước khi nhận rõ anh là ai. Ấy là giả dụ anh không bị Việt Minh quơ đi.
- Chỉ còn cách đó thôi. Không thể để anh nằm ở đất ướt sáu giờ nữa.
- Thế thì kéo tôi lên mặt đường.
- Để khẩu tiểu liên cho anh có can gì không? - Hắn ngập ngừng hỏi.
- Chẳng can gì. Nhưng nếu anh muốn chơi trò người hùng thi đi chầm chậm, và đi trên đồng ruộng.
- Nếu thế thì xe đi tuần chạy mất trước khi tôi kịp ra hiệu.
- Anh cũng thông thạo tiếng Pháp cơ mà?
- Tôi hét to: "Tô-ôi lờ - người Phạp đơ-ơi". Đừng quá lo, anh Thomas ạ. Tôi sẽ hết sức cẩn thận.
Trước khi tôi kịp thì thào đáp lại, thì hắn đã đi rồi, đi hết sức êm lẹ, vừa đi vừa luôn dừng lại. Tôi có thể nom theo hắn nhờ ánh lửa của chiếc xe đang cháy lụi, không một tiếng súng nổ. Chẳng bao lâu hắn biến mất bên kia một chiếc xe cháy và cũng không còn nghe được tiếng chân của hắn nữa. Phải, hắn cẩn thận như hắn đã cẩn thận khi một mình chở mảng xuôi đến Phát Diệm, với sự chú ý tỷ mỷ như các nhân vật trong một cuốn truyện tranh viết cho trẻ con, hắn tự hào về sự cẩn thận của mình như tự hào về một chiếc huy hiệu hướng đạo sinh mà không biết rõ cuộc phiêu lưu của mình phi ký và bấp bênh như thế nào.
Nằm dài bất động, tai vểnh nghe, tôi chờ những loạt súng do Việt Minh hay quân lê dương bắn, nhưng không có điều gì xảy ra. Chắc hắn phải mất ít nhất là một giờ để tới tháp canh, lúc nãy xem còn lại những gì. Chỉ thấy đống đất, tre, kèo cột như đang lụi xuống cùng với ảnh lửa tắt dần. Sự bình an đến khi sự đau đớn không lên tiếng nữa, một sự đình chiến đối với cân não và tôi muốn hát to lên. Thật lạ lùng là những đồng nghiệp của tôi chỉ viết được từ những sự kiện như trong đêm nay một mẩu tin vặt vài dòng - Tôi tự nhủ như vậy. Đêm nay cũng giống như bao đêm khác duy chỉ sự có mặt của tôi là một ngoại lệ. Lúc này tôi lại nghe thấy tiếng khóc khàn đục từ một cái tháp đổ bay ra, một người lính chắc còn chưa chết.
Khổ thân anh ta - Tôi nghĩ, nếu chúng tôi không hỏng xe cạnh tháp canh anh ta, thì chắc anh đã kịp đầu hàng như mọi người khác thường đã đầu hàng, hoặc khi nghe tiếng loa gọi lần thứ nhất, đã kịp thời chạy trốn. Nhưng chúng tôi lại ở đó, hai người da trắng, vưói khẩu tiểu liên, và họ đã không dám động đậy. Khi chúng tôi xuống thì muộn quá đối với họ rồi. Tôi mang trách nhiệm về tiếng khóc trong đêm tối kia, tôi tự hào về việc mình được tự do tư tưởng, không dính dáng với cuộc chiến, nhưng những vết thương của người lính thật y như chính tôi đã gây ra bằng khẩu Sten này, như Pyle đã định làm. Tôi cố gắng vượt qua mô đất để lên đường cái. Tôi muốn tới cạnh anh lính kia. Đó là điều duy nhất tôi có thể làm, đến để chia sẻ nỗi đau đớn với anh ta. Nhưng cơn đau của bản thân đã làm tôi ngã ngửa ra sau. Tôi không nghe tiếng anh ta khóc nữa, tôi nằm yên và chỉ nghe thấy cơn đau của mình đập như một con tim quái ác, tôi nín thở và cầu xin ông trời mà tôi không hề tin: "Cầu trời cho tôi ngất hay chết hẳn đi". Và tôi đoán rằng tôi đã ngất đi thật, vì tôi mê man không biết gì nữa cho đến lúc tôi mê thấy hai đôi mi mắt tôi bị nước đá đông cứng lại và có người định dùng đục cậy ra, khi đục, nhưng tôi không sao nói được và cái đục bắt đầu đục. Một bóng đèn điện bỗng bật sáng lên trước mặt tôi.
- Thoát rồi, Thomas! - Tiếng Pyle nói.
Tôi chỉ nhớ những tiếng đó, nhưng sau điều gì đã xảy ra như Pyle kể lại với những người xung quanh, thì tôi không nhớ gì, tôi huơ tay chỉ lung tung, nói cho mọi người biết có một người còn ở trong đống tháp đổ và phải cứu lấy hắn ta. Chắc chắn cử chỉ của tôi không có cái dáng dấp như anh chàng Pyle giàu tình cảm đã mô tả. Tôi tự hiểu mình, tự hiểu nỗi vị kỷ của tôi sâu xa đến mức nào. Tôi không thể yên ổn (mà sống yên ổn là nguyện vọng lớn nhất của tôi) khi có một người khác đang đau khổ trong tầm tai tôi nghe được, mắt tôi nhìn được, tay tôi sờ được. Những kẻ ngây thơ cho đó là lòng nhân từ, là sự vị tha, trong khi tôi chỉ hy sinh một sự bằng lòng nhỏ (lúc này là lúc việc chăm sóc cho vết thương của tôi) để đổi lấy một sự bằng lòng lớn hơn, là sự yên ổn của tâm hồn để sau đó được phép chỉ nghĩ đến mình thôi.
Họ đi rồi quay lại báo cho tôi hay anh lính đã chết, tôi nhẹ hẳn người. Khi mũi kim tiêm liều morphin cắm vào đùi tôi, tôi không còn thấy đau đớn gì nữa.
CHƯƠNG 25
Tôi chậm rãi leo thang gác lên phòng tôi ở phố Catina, tới tầng một phải ngừng một lát để nghỉ lấy sức. Những bà già gần như thường lệ ngồi ở bậc thang, trước buồng tiểu, nói chuyện phiếm với nhau, nét mặt nhăn nheo như những đường số phận mà ta đọc trên bàn tay họ. Ho im tiếng khi tôi đi qua và tôi tự hỏi, nếu biết tiếng Việt thì tôi đã nghe được điều xảy ra khi tôi nằm tại bệnh viện của quân đội lê dương, trên đường đi Tây Ninh. Dọc đường tôi đã đánh rơi mất chìa khóa, nhưng tôi đã viết thư cho Phượng, thư chắc cô nhận được, nếu cô vẫn còn ở đây. Chữ "nếu" đó như tóm gọn tất cả những nỗi băn khoăn của tôi. Nằm viện, tôi không nhận được thư nào của cô, nhưng tôi hiểu là cô viết tiếng Pháp rất chật vật, còn tôi lại không biết tiếng Việt. Tôi gõ cửa, cửa mở ra luôn, tôi luôn thấy như không có điều gì khác trước. Tôi theo dõi cô rất kỹ khi cô hỏi han sức khỏe tôi, để tay vào chân tôi đang còn phải mang nẹp và chìa vai cho tôi tựa, y như người ta có thể tìm thấy chỗ dựa chắc chắn tại một cây non vậy.
- Tôi thật vui lòng khi trở về nhà chúng ta.
Cô ta nói là nhớ tôi nhiều và tất nhiên là điều tôi mong được nghe, giống như một người phu xe khi họ trả lời, cô ta bao giờ cũng nói ra những điều mình mong được nghe nhất, trừ phi bất ngờ và tôi đang chờ đợi cái điều bất ngờ đó.
- Cô giải trí như thế nào?
- Ồ, tôi lại bà chị chơi luôn. Bà ta đã tìm được việc làm ở Mỹ.
- A, thế ư? Pyle tìm hộ?
- Không phải Pyle mà Jo.
- Jo là ai nhỉ?
- Anh quên đấy thôi. Tuỳ viên thương mại.
- A, phải, đúng rồi.
Đấy là một con người mà người ta không sao nhớ nổi. Ngay tới bây giờ, tôi cũng không sao miêu tả nổi hắn, tôi chỉ nhớ lại cái bụng phệ, cặp má nhẵn thín lại xoa phấn, và tiếng cười hơ hớ, còn cá tính của hắn ra sao, tôi không nhớ nổi. Tôi chỉ biết hắn mang tên Jo. Có những người bao giờ cũng mang tên gọi tắt.
Phượng đỡ cho tôi nằm xuống giường.
- Cô có đi xem chiếu bóng không? - Tôi hỏi.
- Có một phim hay lắm chiếu ở rạp Catina.
Và cô ta lập tức kể lại nội dung chuyện phim một cách tỷ mỷ, trong khi tôi đưa mắt tìm cái phong bì trắng phải đựng một bức điện. Chừng nào tôi chưa hỏi thì tôi có thể tin rằng Phượng đã quên không nói lại với tôi, và chiếc bì thư có thể ở trên bàn, gần cái máy chữ hay trên chiếc tủ, hay là cẩn thận hơn, trong ngăn kéo nơi cô cất cái khăn choàng.
- … Viên thu ngân của sở dây thép (tôi cho đó là thu ngân, nhưng có thể đó là viên thị trưởng) theo dõi họ về tận nhà, mượn ông chủ hiệu bánh mì chiếc thang leo lên tận cửa sổ của Corin, nhưng cô ta lại chạy sang buồng bên với Phrăngxoa, hiểu không, cho nên anh ta không nghe thấy bà Bompie tới. Bà ta vào nhà, thấy anh ta trên thang, lại tưởng rằng…
- Bà Bompie là ai? - Tôi hỏi và quay lại nhìn bàn trang sức của Phượng, nơi cô tay hay để tờ giấy đánh dấu những việc cần làm giữa các chai lọ.
- Tôi đã nói rồi đấy. Là mẹ của Corin và đang kiếm một ông chồng vì bà ta góa bụa…
Phượng ngồi lên giường, luồn tay vào trong áo sơ mi của tôi.
- Phim vui lắm! - Cô nói.
- Hôn tôi đi, Phượng.
Cô ta không biết làm duyên. Bảo gì thì cô làm theo lời ngay, rồi lại kể tiếp chuyện phim. Cô ta như thế đấy, nếu bảo ngủ với tôi, thì cô liền tụt quần dài ra, sau đó chắc chắc lại kể tiếp câu chuyện phim ở chỗ bà Bompie bắt gặp ông thu ngân đang leo thang.
- Tôi có điện tín không?
- Có.
- Sao không đưa?
- Sao anh lại làm việc luôn như vậy? Anh phải nằm và nghỉ ngơi.
- Nhỡ không phải điện về công việc thì sao?
- Phượng đưa cho tôi phong bì và tôi thấy nó đã bị mở. Điện viết: "Yêu cầu gửi bốn trăm chữ về ảnh hưởng của việc De Lad về nước đối với tình hình chính trị và quân sự".
- Đúng là điện về công việc. Sao cô biết? Sao cô lại mở điện ra xem?
- Tôi tưởng điện của vợ anh. Tôi hy vọng nhận được một tin tốt lành.
- Anh dịch cho cô?
- Tôi đưa bà chị.
- Nếu đó là một tin không vui thì Phượng có bỏ tôi không?
Cô ta xoa bàn tay vào ngực tôi để yên tâm, lần này cô không hiểu rằng tôi đang thèm nghe những lời nói, dù đó chỉ là những lời dối trá.
- Anh có hút một điếu không? Anh cũng có một lá thư đấy. Có lẽ của bà ta.
- Cô cũng mở ra xem chứ?
- Thư thì tôi không bóc. Điện là những thứ công khai. Nhân viên bưu điện vẫn đọc.
Chiếc phong bì nằm trong ngăn đựng khăn quàng. Cô dùng mấy ngón tay lôi ra và để nhẹ nhàng lên giường. Tôi nhận ra chữ người viết.
- Nếu đây là một không lành thì cô có…
Tôi biết trước là tin chỉ có thể là không hay. Một bức điện có thể là dấu hiệu của một thiện chí bột phát, một bức thư có thể là một sự thanh minh, bào chữa… cho nên tôi để câu hỏi lửng lơ, vì thật là không lương thiện khi van xin một lời hứa mà không ai có thể giữ nổi.
- Anh sợ điều gì? - Phượng hỏi.
Và tôi nghĩ: tôi sợ sự cô đơn, sợ câu lạc bộ báo chí, sợ cảnh nhà chứa. Tôi sợ Pyle.
- Cho tôi một cốc rượu pha với nước.
Trong khi chờ đợi có rượu, tôi đọc dòng đầu thư: "Anh Thomas thân yêu" và lời cuối thư: "Thân mến, Hellen".
Thư của vợ anh phải không?
- Đúng.
Trước khi đọc thư, tôi cứ tự hỏi: đọc xong, tôi sẽ nói thật hay nói dối với Phượng?
"Anh Thomas thân yêu.
Tôi không ngạc nhiên khi nhận được thư anh và biết anh không sống một mình trong khi xa nhà lâu ngày được, phải không? Anh nhặt đàn bà như chiếc áo veston của anh hứng những hạt bụi. Tôi sẽ ái ngại cho tình cảnh của anh hơn nếu tôi không nghĩ rằng trở về London, anh cũng sẽ dễ dàng tìm thấy sự an ủi khác. Chắc anh không tin tôi nói rằng điều làm tôi suy nghĩ không cho phép tôi điện cho anh chức "không" cộc lốc, đó là vì tôi nghĩ đến cô gái đáng thương đang sống với anh, người phụ nữ bao giờ cũng hiến mình hơn những người đàn ông nhiều!".
Tôi uống một hớp rượu. Toi đã không không hiểu rằng những vết thương trong quan hệ vợ chồng sau bao nhiêu năm vẫn chưa khép kín miệng. Tôi vô tình vì dùng chữ một cách vụng về đã làm những vết thương cũ của vợ tôi ứa máu. Bây giờ thì sao còn có thể trách là để đáp lại bà ta, đã cứa vào những vết sẹo cũ của tôi. Khi đau khổ, thường người ta hay làm tổn thương lẫn nhau.
- Tin dữ à? - Phượng hỏi.
- Cũng khá ác - Tôi đáp - Nhưng bà ta có quyền.
Tôi tiếp tục đọc:
"… Tôi đã tưởng trong bọn chúng tôi, anh yêu nhất cô Anne, cho tới lúc anh cuốn gói và biến mất. Và đến bây giờ là lúc anh định bỏ một người đàn bà khác, vì tôi xem giọng thư của anh thì cảm thấy thật sự không mong chờ ở tôi sự trả lời thuận lợi cho anh. Nếu tôi trả lời: "Đồng ý" thì anh sẽ quyết định sao đây? Anh có định lấy cô ta làm vợ hay không? (Tôi bị buộc phải dùng chữ cô ta vì anh không cho tôi biết tên cô ta là gì). Có lẽ như thế đấy. Tôi phỏng đoán rằng anh ngày càng có tuổi và lo sợ phải sống cô đơn. Bản thân tôi lắm lúc cũng thấy đơn độc quá. Tôi nghe tin Anne đã có người bạn đời khác. Nhưng anh đã xa cô ta đúng lúc".
Bà ta đã thấy đúng đâu là vết thương chưa khép kín miệng. Tôi uống một tợp rượu nữa. "Cắt chỉ ở vết thương", thành ngữ này bỗng xuyên qua óc tôi.
- Để tôi tiêm cho anh một điếu thuốc - Phượng nói.
- Gì cũng được, gì cũng được.
"… Vì lẽ trên, trong số những lẽ khác, tôi có bổn phận trả lời anh là "không" (không cần nêu ra đây những lý lẽ về giáo lý, vì anh có hiểu và còn niềm tin đâu!). Việc anh đã làm chồng, ai cũng không cấm được anh bỏ người đó phải không? Điều này chỉ làm anh lùi ngày về nước lại và như vậy càng thêm thiếu trung thực với ngời đàn bà trẻ đó, nếu anh đã sống với cô ta cũng lâu như sống với tôi. Anh sẽ đưa cô ta về Anh quốc, nơi cô thấy mình bị lạc lõng và xa lạ và khi anh bỏ cô ta thì cô ta sẽ thấy mình bị hắt hủi một cách tệ bạc biết mấy! Tôi tin rằng đến cầm con dao ăn và chiếc dĩa, cô ta cũng không biết nữa. Tôi nói rất tàn nhẫn, vì tôi đang nghĩ đến lợi ích của cô ta hơn là nghĩ đến lợi ích của anh. Nhưng, anh Thomas, thế cũng là nghĩ đến anh đấy!".
Tôi buồn nôn thật sự. Lâu lắm tôi không nhận được thư của vợ. Nay tôi buộc bà ta phải viết và tôi thấy nỗi đau của bà ta toát ra từ mỗi dòng. Nỗi đau của bà ta đánh vào nỗi đau của tôi: chúng tôi trở lại con đường mòn làm khổ lẫn nhau. Nếu tình có thể không là lụy nhỉ? Trung thành với nhau chưa phải là đủ. Tôi đã trung thành với Anne, nhưng tôi vẫn làm Anne đau khổ. Khi đựơc yêu là người ta tự chuốc lấy khổ đau, chúng ta nhỏ bé quá cả về phần xác lẫn phần hồn, để khi chiếm đoạt ai lại không tự kiêu, hoặc bị lệ thuộc vào ai mà không tủi nhục. Mặt khác, tôi hài lòng vì lại bị vợ xỉ vả, lâu nay tôi đã quên nỗi đau của bà và bà chỉ có cách bù lại là mạt sát tôi. Nhưng khốn thay những kẻ vô tội bao giờ cũng bị lôi vào bất kỳ sự xung đột nào. Ở mọi nơi, mọi lúc đều có một tiếng than khóc cất lên từ một tháp canh.
Phượng thắp chiếc đèn nhỏ lên.
- Bà ấy cho anh lấy tôi không?
- Tôi vẫn chưa rõ.
- Bà không nói à?
- Nếu có nói thì bà cũng phải viết dài lắm.
Tôi thấy tự mình khoe khoang là không đứng về bên nào, là phóng viên chứ không phải là nhà bình luận, nhưng thực ra tôi đứng ở hành lang mà lại gây ra bao đổ vỡ. Chính ra đánh nhau thực sự lại không độc ác bằng. Dùng súng cối mà bắn lại gây ít đổ vỡ hơn.
"Nếu tôi hành động ngược lại với niềm tin tưởng sâu xa nhất của tôi và tôi nói "đồng ý", thì có phải là hành động về lợi ích của anh không? Anh biết rằng anh bị gọi về nước và tôi hiểu rằng anh sẽ ghét cay đắng cuộc sống ở đây và sẽ làm bất cứ điều gì để cho nó dễ chịu hơn. Tôi như nhìn thấy anh quyết định lấy một người vợ sau khi uống quá một chén rượu. Lần đầu, chúng ta đã thành thật cố gắng - anh cũng như tôi - và chúng ta đã thất bại. Lần thứ hai người ta không cố gắng với nghị lực ngang với lần thứ nhất. Anh đã nói nếu anh mất tôi thì đời anh không còn gì nữa. Xưa kia, viết thư cho tôi, anh đã dùng câu nói như vậy. Tôi có thể đưa anh xem lại thư, tôi còn giữ nó đây… và tôi đoán anh cũng viết cho Anne câu đó. Anh nói rằng hai chúng ta đã luôn nói với nhau nghe sự thật, nhưng anh Thomas ơi, sự thật đối với anh tại sao chỉ có giá trị nhất thời như vậy. Tranh luận với anh làm gì, cố gắng nói anh hiểu lẽ phải làm gì? Điều dễ dàng hơn đối với tôi là hành động theo niềm tin của tôi, theo cái mệnh lệnh phi lý, chắc anh sẽ nghĩ vậy và viết cho anh mấy chữ: Tôi không tin rằng nên ly hôn, đức tin của tôi cấm làm điều đó, vậy câu trả lời của tôi là: "không", anh Thomas ạ, không".
Trước khi kết thúc bằng lời chào "thân ái, Hellen" thư còn nửa trang nữa mà tôi không đọc. Tôi tin rằng cuối thư là phần bà ta cho tôi biết tin tức về thời tiết và về bà cô già mà tôi rất yêu quý.
Tôi không có quyền được trách móc và tôi cũng chờ một thư trả lời như vậy. Những điều nói trong thư phần lớn là đúng sự thật. Tôi chỉ ao ước rằng vợ tôi không nói thẳng ra một cách dài dòng như vậy, vì những ý nghĩ đó làm bà ta đau khổ cũng chẳng kém gì tôi.
- Bà ta không đồng ý à?
- Tôi trả lời gần nhưng không do dự:
- Bà ta chưa quyết định ra sao cả. Vẫn còn có hy vọng.
Phượng phá lên cười và nói:
- Anh nói còn hy vọng, mà mặt anh lại dài như thế kia!
Phượng nằm dưới chân tôi như một con chó săn trên mồ người lính thập tự chinh và nhào viên thuốc phiện trong khi tôi tự hỏi xem nên nói năng với Pyle ra sao đây. Khi hút xong điếu, tôi thấy mình sẵn sàng đương đầu với tương lai hơn và tôi nói với Phượng rằng thực sự có hy vọng, vợ tôi đang tham khảo một luật sư về vấn đề này. Ngày một ngày hai, tôi sẽ nhận được một bức điện, nó sẽ là sự tuyên bố giải thoát cho tôi.
- Việc đó không quan trọng. Anh nên gửi vào ngân hàng cho tôi hẳn một khoản tiền.
- Tôi thấy rõ những lời đó là lời bà chị đã mớm cho cô.
- Tôi không có khoản tiền để dành nào và không đua với Pyle được.
- Anh yên tâm. Chắc sẽ tìm ra cách. Bà chị tôi nói anh có thể mua một suất bảo hiểm sinh mệnh của tôi.
Tôi thán phục tính thực tế của Phượng. Cô không cần làm thấp giá trị của đồng tiền hoặc chỉ đòi tôi huyênh hoang tuyên bố về yêu đương thay cho những hứa hẹn thiết thực. Tôi tự hỏi Pyle trong những năm tháng sau này làm sao có thể chịu đựng được một sự thẳng thừng về một tiền bạc như thế, vì hắn là người thơ mộng, nhưng hoàn cảnh hắn cho phép một khoản tiền lớn, và sự cứng rắn của Phượng có thể dịu hẳn đi, giống như một bắp thịt lúc không cần lên gân thì có thể chùng hẳn. Những người giàu về mặt nào cũng sẽ là kẻ thắng.
Tối hôm đó, trước khi các hiệu phố Catina đóng cửa. Phượng đã mua được ba khăn choàng lụa mới. Cô ngồi trên giường trải ra cho tôi xem với những tiếng reo vui khi ngắm những màu rực rỡ và tiếng nói như hát của cô đầy ắp gian phòng, rồi cô gấp lại cẩn thận, cất vào ngăn kéo cùng với một tá những chiếc khác, y như cô xây dựng cơ sở đầu tiên cho một gia sản nhỏ bé. Và tôi cũng đặt nền tảng lung lay cho gia sản của tôi bằng việc viết một lá thư cho Pyle ngay tối hôm đó, trong khi hơi thuốc đang còn và tạo ra một sự sáng suốt.
Tôi viết: "Anh Pyle thân mến" và có lẽ là lần duy nhất tôi toan gọi "Andon thân mến", vì đây là một lá thư khá quan trọng, viết có dụng tâm, lại cũng như các thư có dụng tâm khác, ít nhất nó cũng chứa một lời nói dối
"Anh Pyle thân mến, tôi muốn viết từ bệnh viện để cảm ơn anh về những việc đêm hôm nọ. Anh rõ rằng là đã tránh cho tôi một cái chết không thú vị chút nào. Bây giờ tôi đã đi lại được, nhưng phải chống gậy. Hình như tôi bị thương vào chỗ ít tai hại nhất và tuổi tác tôi chưa đến nỗi làm xương cốt phải mủn ra. Chúng ta phải ăn mừng bằng một cuộc liên hoan nhỏ trong một ngày gần đây. (Ngòi bút tôi viết đến chữ "ăn mừng" thì bị chững lại giống như một con kiến gặp vật cản bắt nó phải đi vòng). Tôi có một việc khác để mừng và chắc anh cũng chia vui, vì anh thường nói rằng lợi ích của Phượng là nỗi quan tâm chung của hai chúng ta mà. Khi về nhà, tôi nhận được một lá thư của vợ gửi tới trong lúc tôi đi vắng và bà ta ít nhiều chấp nhận việc ly hôn. Vậy anh khỏi phải lo cho số phận Phượng…". Câu nói này thật ác, nhưng chỉ thấy nó ác khi đọc lại, và bây giờ thì không chữa được nữa. Nếu gạch xóa những chữ đó, thì xé thư đi còn hơn.
- Anh thích chiếc khăn nào? - Phượng hỏi - Tôi rất mê chiếc khăn màu vàng.
- Đúng. Chiếc màu vàng. Bây giờ cô bưu điện bỏ hộ lá thư này nhé.
Cô nhìn tên người nhận thư.
- Tôi đem thẳng ra Tòa lãnh sự. Như vậy tiết kiệm được một con tem.
- Tôi lại thích cô cứ gửi qua bưu điện.
Bây giờ tôi ngả người ra đằng sau, và trong cơn sảng khoái nhờ thuốc phiện, tôi nghĩ: Ít ra cô ta cũng không bỏ mình trước khi về nước, biết đâu đấy! Ngày mai, hút xong vài điếu, có lẽ bằng cách này hay cách khác, tôi cũng tìm ra cách ở lại.
Những công việc lặt vặt cụ thể hằng ngày tiếp tục chính nhờ thế mà nhiều người khỏi phải mất trí. Nếu trong một đợt ném bom không thể lúc nào cũng sợ hãi thì trong công việc hằng ngày những cuộc gặp gỡ không định trước, những sự lo lắng cho công việc chung, khiến người ta quên đi trong nhiều giờ liền nỗi khiếp sợ của cá nhân. Cái ý nghĩ rằng tháng tư đang tới gần, tôi phải rời Đông Dương và việc không thể hình dung nổi một tương lai không có Phượng, đã bị khuây đi nhờ một bức điện hằng ngày, những thông cáo báo chí Việt Nam và những khó khăn gây ra bởi bệnh tật của người trợ tá của tôi. Anh này là người Ấn Độ mang tên Dominge (gia đình anh ta đi từ Goa qua Bombay rồi đến đây). Anh ta thường thay mặt tôi theo dõi những hội nghị báo chí quan trọng nhất, anh ta có một bộ tai rất thính, nắm bắt được những màu vẻ của công luận cũng như những lời bàn tán riêng tư. Anh ta đưa những bức điện tôi viết ra bưu điện hay phòng kiểm duyệt. Nhờ những bạn đồng hương buôn bán, nhất là ở miền Bắc Hải Phòng, Hà Nội và Nam Định, anh ta có một mạng thông tin mật riêng dành cho tôi, và tôi tin rằng anh ta còn biết rõ hơn Bộ Tổng Tư lệnh Phá, về vị trí đóng quân của các tiểu đoàn Việt Minh tại châu thổ sông Hồng. Bởi lẽ chúng tôi không bao giờ sử dụng những tin tức thu lượm được trước khi chúng đựơc đưa thành những tin công khai và cũng không hề cho cơ quan mật vụ Pháp biết. Dominge đã tranh thủ được lòng tin và tình bằng hữu của nhiều phái viên Việt Minh ẩn náu ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Tuy anh ta có tên Âu, nhưng lại là người Á, điều này chắc đã là sự đóng góp tiện lợi vào tình hình đó.
Tôi rất quý Dominge. Khi những người khác trưng sự kiêu ngạo của mình ra như một thứ bệnh ngoài da, động khẽ vào đã phản ứng, thì niềm tự kiêu của anh ta rất kín đáo, thu lại đến mức nhỏ nhất với một con người bình thường. Trong sự tiếp xúc hằng ngày với anh ta, người ta chỉ thấy sự dịu dàng, sự nhún nhường và sự tuyệt đối tôn trọng sự thật. Có lẽ phải là vợ anh ta mới phát hiện ra được niềm tự kiêu của anh ta. Có lẽ chân lý và khiêm tốn đi với nhau, còn tính kiêu căng của chúng ta đã sinh ra bao nhiêu điều dối trá. Trong nghề nghiệp của tôi, ai mà chẳng mắc tính hiếu thắng của người phóng viên, ý muốn được đưa những bài có giá trị hơn những người khác?… nhưng chính Dominge là người đã dạy tôi nên thản nhiên, giúp tôi chịu đựng khi có những bức điện của tòa soạn, chất vấn tại sao không đưa tin về những chi tiết do một người nào đó đã phát hiện mà tôi biết tỏng là bịa đặt.
Từ khi anh ta ốm, tôi mới hiểu tôi đã phải mang ơn anh ta như thế nào. Anh ta lo tới cả việc xe tôi lúc nào cũng đầy đủ xăng, nhưng không hề động chạm đến đời tư của tôi, dù bằng một câu nói, một cái nhìn. Tôi tin rằng anh ta theo Thiên Chúa giáo như, nhưng không có gì làm bằng, ngoài cái tên à nơi anh ra đời. Qua những câu chuyện nói với nhau, tôi hiểu anh có thể tôn thờ Kristina, hoặc hàng năm đi hành hương trong một cái gông bằng dây thép gai tới tận động Batu. Nhưng chính vì anh ốm mà tôi thành bận bịu, do thế thoát khỏi sự lo lắng về việc riêng tư của mình, bệnh của anh trở thành một điều tốt lành đối với tôi. Bây giờ chính tôi phải đi dự những buổi họp báo tẻ ngắt, rồi tập tễnh ra khách sạn Continetal để chuyện phiếm với những đồng nghiệp, nhưng tôi không sành sỏi như Dominge trong việc phân biệt thực hư, bởi vậy đêm đến thường tôi tới nhà anh để thảo luận về những tin tức tôi nhận được. Đôi khi tôi gặp một vài người bạn Ấn Độ của anh, ngồi trên đầu chiếc giường sắt hẹp trong căn nhà mà Dominge chỉ có một góc, nhà nhìn ra một phố nghèo khổ nhất liền kề với đại lộ Galieni.
CHƯƠNG 26
Anh ngồi trên giường, thẳng lưng, chân xếp vành tròn khiến ta ít có cảm tưởng đang tới thăm người ốm, mà đang được một vương công hay một tu sĩ cho tiếp kiến.
Khi cơn sốt bốc lên, mặt anh nhễ nhại mồ hôi, nhưng không bao giờ anh để mất đi sự tỉnh táo. Có thể nói như căn bệnh đang giầy vò thân thể một người khác. Bà chủ trọ lúc nào cũng để một bình nước chanh lạnh vừa tầm tay anh, nhưng không bao giờ thấy anh uống, hình như làm thế là thú nhận rằng chính cơn khát đó là cơn khát của anh, cái hình hài đang đau đáu kia là hình hài của anh vậy.
Trong tất cả những buổi tới thăm anh, tôi nhớ lại một buổi đặc biệt. Tôi không còn hỏi thăm anh về sức khỏe nữa, vì sợ câu hỏi hình như trách móc anh. Chính anh mới là người quan tâm đến sức khỏe của tôi một cách ân cần, và băn khoăn xin lỗi về mỗi bậc cầu thang mà tôi phải leo lên để tới thăm anh.
- Tôi muốn anh gặp một người bạn thân của tôi - anh nói - anh bạn đó có câu chuyện chắc anh sẽ quan tâm.
- Thật thế à?
- Tôi đã ghi tên anh ta, vì tôi biết anh khó mà nhớ được người Hoa. Tất nhiên không được để lộ ra cái tên đó. Trên bến Mỹ Tho có một cái kho chứa sắt cũ.
- Chuyện quan trọng?
- Có thể.
- Nói qua cho tôi biết là chuyện gì đi?
- Tôi muốn anh ta trực tiếp nói với anh. Trong câu chuyện có điều gì lạ lắm mà tôi không hiểu nổi.
Mồ hôi chảy nhễ nhại trên mặt anh, nhưng anh cứ để mặc cho nó chảy, như mỗi giọt là một vật sống và thiêng liêng.
(Anh vẫn còn giữ được nhiều tính của người Ấn, và đến một con ruồi anh cũng không nỡ giết).
- Đúng ra thì anh hiểu thế nào về ông bạn thân Pyle của anh chứ?
- Không hiểu gì nhiều lắm. Đường đi của chúng tôi cắt ngang nhau, thế thôi. Từ hôm đi Tây Ninh về, tôi không gặp anh ta.
- Hắn làm công việc gì?
- Làm ở phái đoàn thương mại, nhưng đó chỉ là một cái vỏ che đậy cho vô số hành động xấu xa khác. Tôi tin rằng hắn quan tâm đến những công nghiệp địa phương có dính tới người Pháp tiếp tục cuộc chiến, vừa chăm lo nhưng việc riêng của họ.
- Hôm nọ tôi đã nghe hắn nói trong một buổi Lãnh sự quán chiêu đãi các đại biểu Quốc hội Hoa Kỳ tới thăm. Hắn là người phải báo cáo.
- Nhờ trời phù hộ cho Quốc hội! Tôi nói - Hắn mới đến đây chưa đầy sáu tháng.
- Hắn nói về những nước thực dân già cỗi: Pháp và Anh, về sự bất lực của Pháp cũng như Anh trong việc gây lòng tin cho những người châu Á. Chính vì thế mà người Mỹ phải can thiệp vào, vì họ có đôi bàn tay sạch sẽ hơn.
- Như ở Honolulu, Poocto Rico, chẳng hạn - Tôi nói.
- Và một người nào đó nêu cái câu hỏi kinh điển là liệu chính quyền ở đây có thể thắng đựơc Việt Minh không, thì hắn trả lời rằng một lực lượng thứ ba mới có thể thắng được. Vẫn có thể tìm ra một lực lượng thứ ba, không ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản và cũng không dính tới chủ nghĩa thực dân, hắn gọi đó là một chủ nghĩa dân chủ quốc gia, chỉ cần kiếm một người cầm đầu và bảo vệ cho họ chống lại những thế lực thực dân.
- Tất cả những điều trên đều có trong sách của York Hardin. Hắn đã đọc nớ trước khi rời Hoa Kỳ. Ngay tuần đầu tới đây, hắn đã nói với tôi như thế và từ đó hắn không không hơn ra được chút nào.
- Có lẽ hắn đã tìm được người cầm đầu.
- Việc này có nghiêm trọng không?
- Không rõ. Tôi không biết hắn đang làm những việc gì. Nhưng anh, anh đi gặp và chuyện trò với người bạn của tôi ở bên Mỹ Tho đi!
Tôi tạt về phố Catina để lại vài chữ cho Phượng rồi thuê xe ra bến khi mặt trời đang lặn. Bàn ghế này la liệt trên bến, gần những tầu biển, tàu chiến sơn màu xám và xe lưu động bán thức ăn đang nhả khói sôi sùng sục. Dọc theo đại lộ Som, những người thợ đang cắt tóc dưới bóng cây và những người bói bài tây ngồi xổm dọc chân tường đang trải ra những lá bài nhem bẩn. Đến Chợ Lớn là đến một thành phố khác hẳn, ban đêm, các hoạt động đáng lẽ giảm dần thì lại bắt đầu nhộn nhịp. Người ta có cảm tưởng như đang đi vào một quang cảnh sân khấu, các biển dọc ghi tên cửa hàng, những đèn sáng chói và những người đóng trò lôi cuốn anh đi theo vào hậu trường đột ngột tối và im ắng hơn hẳn. Một ngách đi giữa phông và màn, đưa tôi ra bến sống, nơi thuyền bè đỗ san sát, nơi những kho hàng cửa mở toang hoác trong bóng đêm vắng vẻ. Khó khăn lắm và gần như vì tình cờ, tôi mới tìm ra nơi định đến. Kho hàng vẫn chưa đóng cửa và tôi thấy ngổn ngang những hình thù kỳ lạ - như trong tranh Picasso của một đống đồ sắt cũ dưới anh một ngọn đèn dầu, giường sắt, bồn tắm ngăn tủ, mui xe, với những vệt sơn cũ còn sót lại sáng lên dưới ánh đèn. Tôi lách mình đi theo một lối giữa đống sắt và gọi tên ông Chu, nhưng không ai trả lời. Bên trong kho hàng có một cầu thang mà tôi đoán là để đi lên nhà ông Chu. Tôi đã đi vào lối cửa sau theo sự chỉ dẫn và chắc Domige có cái lẽ của anh. Ngay bên cầu thang cũng là đống sắt và đồ đạc cũ sẽ được việc trong cái nhà giống như tổ chim sáo này. Lên gác một, tôi thấy một phòng rộng lớn, nơi cả một gia đình, người thì nằm, người thì ngồi, tựa như một đội quân trú tạm, khi cần thì bốc ngay đi được. Những chén trà để mỗi nơi một chiếc, giữa vô số những hộp giấy đựng gì không rõ và những chiếc va-li giả da, tất cả đều đóng kín. Trong nhà có một bà cụ ngồi trên một chiếc giường rộng, hai đứa con trai, hai đứa con gái nhỏ, một chú bé lê la trên mặt sàn, ba người đàn bà đứng tuổi quần áo nâu sồng cũ và ở trong một góc, hai ông già áo dài lụa xanh dang đánh mạt chược. Họ thấy tôi vào nhưng vẫn cứ dửng dưng. Họ gieo bài rất nhanh, chỉ cần xoa tay là biết quân gì, và tiếng xoa bài giống như tiếng sỏi khi sóng lui trên bờ biển. Cũng như hai ông già, không có chú ý tới tôi, chỉ cần có con mèo nhảy vọt trên đống hộp giấy và một con chó gầy tới gần ngửi ngửi tôi rồi lại bỏ đi.
- Ông Chu có nhà không? - Tôi hỏi. Hai người đàn bà lắc đầu, lại chẳng có sự quan tâm nào nhưng một người đứng lên, tráng một cái chén, rót cho tôi đầy chén trà chứa sẵn trong một ấm tích ủ trong một giỏ bọc lụa xanh.
Tôi ngồi xuống giường cạnh cụ già, một cháu gái đem chén nước cho tôi, tôi thấy như tôi đã nhập vào cái cộng đồng này, lẫn cả với hai con chó và mèo chắc hôm đầu cũng đến đây một cách bất đắc dĩ như tôi. Đứa con nít bò đến chân tôi nghịch ngợm với dây giầy, nhưng cũng không bị ai rầy la, ở phương Đông, người ta không mắng mỏ trẻ con. Ba tờ lịch quảng cáo treo trên tường trên mỗi một chiếc là hình một cô thiếu nữ môi son má phấn mặc quần áo Tầu rất diêm dúa. Một chiếc gương lớn, không rõ vì lý do bí ẩn nào, lại mang dòng chữ: Hiệu cà phê Hòa Bình, chắc người ta tình cờ đã kiếm được nó cùng với các đồ sắt cũ. Tôi có cảm giác mình cũng là đồ vật tình cờ có mặt ở đây.
Tôi chầm chậm uống thứ chè xanh đắng nghét, đưa cái chén không quai nóng bỏng từ tay này sang tay khác, vừa uống vừa suy nghĩ xem nên kéo dài việc thăm viếng này tới tận bao giờ. Tôi lại thử dùng tiếng Pháp hỏi gia đình xem ông Chu liệu bao giờ về nhưng không ai trả lời tôi. Chắc họ không hiểu tôi nói gì. Khi chén nước đã cạn, có người đến rót cho đầy, rồi ai lại công việc người đó, một bà đứng tuổi thì là quần áo, một cô con gái thì khâu, hai đứa con trai thì học bài, bà cụ ngắm đôi bàn chân của mình, đôi bàn chân bị bó theo lối người Hoa cổ, còn con chó thì chăm chú theo dõi chú mèo nằm trên các hộp giấy.
Tôi hiểu thêm sự vất vả của Domige để đổi lấy một đồng lương ít ỏi của anh.
Một người Hoa, gầy còm hết mức, đi vào trong phòng, hình như anh ta không chiếm một khoảng không gian nào. Người ta tưởng ông ta là cái tờ giấy mỏng đặt giữa các lượt bánh trong chiếc hộp sắt. Bề dày của ông ta chỉ là ở bộ quần áo pigiama mang bằng thứ vải flanen kẻ sọc.
- Ông là ông Chu? - Tôi hỏi.
Ông ta nhìn tôi với cặp mắt dửng dưng của người nghiện ngập, má hõm, cổ tay như của con nít, cánh tay như của một thiếu nữ nhỏ, chắc phải hút mất không hết bao nhiêu điếu thuốc và trong bao nhiêu năm nên người mới tọp đi như vậy.
- Người bạn tôi tên là Dominge cho biết ông có cái gì có thể cho tôi xem. Ông có phải là ông Chu không?
- À đúng, đúng tôi là Chu - Ông ta nói như vậy và bằng một cái vẫy tay lịch sự, mời tôi ngồi vào ghế của mình. Tôi thấy rõ mục đích chuyến đi thăm của tôi đã lạc đâu mất trong những ngách ám khói của bộ óc ông. Ông khách có xơi một chèn trà nữa không? Chủ nhân rất hân hạnh được khách tới thăm. Một chén khác được tráng nước đổ ngay xuống sàn, rồi được rót đầy trà, đặt vào tay tôi một hòn than nóng, thử tài khách xem có biết thưởng thức trà không. Tôi khen gia đình chủ nhà thật đông đúc.
Ông đưa mắt nhìn quanh phòng, hơi ngạc nhiên, y như chưa hề chú ý đến nó.
- Mẹ tôi, vợ tôi, em gái tôi, chú tôi, anh tôi, các con tôi và các cháu họ.
Đứa trẻ nhỏ lăn dưới chân tôi, nằm ngửa tênh hênh, hai chân đạp lung tung, miệng líu lo. Tôi tự hỏi không biết đó là con ai. Hình như không có ai còn trẻ… hoặc chưa đủ lớn, để sinh ra một đứa như vậy.
- Anh Dominge báo cho tôi biết một việc hệ trọng - Tôi nói.
- Anh Dominge à? Tôi mong rằng anh Dominge khỏe mạnh.
- Anh ta vừa bị sốt.
- Trong năm thì mùa này rất độc.
Tôi chưa tin rằng ông ta đã nhớ ra Dominge là ai. Ông ta nổi cơn ho, và dưới chiếc áo đứt mất hai cúc, làn da rung lên như một thứ da trống.
- Ông phải tới bác sĩ khám bệnh.
Một người mới tới nhập bọn với chúng tôi. Anh ta vào lúc nào tôi không nghe thấy. Đó là một thanh niên bận âu phục, ăn mặc chải chuốt. Anh ta nói bằng tiếng Anh:
- Ông Chu chỉ có một bên phổi.
- Cho phép tôi chúc ông mạnh khỏe.
- Ông ta hút một trăm rưỡi điếu một ngày.
- Tôi nghĩ là nhiều quá.
- Bác sĩ nói thế là rất có hại, nhưng ông Chu chỉ sảng khoái khi hút thôi.
Tôi ậm ừ để tỏ vẻ tán thưởng.
- Tôi xin tự giới thiệu, tôi là giám đốc nơi ông Chu làm việc.
- Tên tôi là Fowler. Ông Dominge bảo tôi tới đây. Anh ta nói ông Chu định bàn điều gì đó.
- Ông Chu bây giờ thì chẳng còn nhớ được việc gì nữa. Ông xơi một chén nước nữa.
- Cảm ơn, tôi đã uống ba chén rồi.
Chúng tôi lại chuyện trò với nhau y như theo những câu vấn đáp trong một cuốn sách dạy đối thoại.
Giám đốc của ông Chu lấy chiếc chén từ tay tôi đưa cho một cô gái. Cô ta hắt nước chè xuống sàn và lại rót đầy.
- Chè loãng mất rồi - Anh ta nói.
Rôi anh ta cầm chiếc chén nếm thử, tráng lại rất cẩn thận và rót trà từ một chiếc ấm khác.
- Ngon hơn chứ?
- Hơn nhiều.
Ông Chu hắng giọng, nhưng chỉ là để khạc ra một cục đờm to nhổ xuống đúng vào ống nhổ bằng sắt tráng men vẽ hoa hồng. Đứa con ít vẫn lăn trên chỗ nước tráng chén, con mèo nhảy vọt từ hộp giấy lên chiếc va li.
- Có lẽ ông nên nói chuyện với tôi thì hơn, tên tôi là Heng.
- Nếu ông nói cho tôi nghe…
- Chúng ta đi xuống nhà dưới. Ở đó tĩnh hơn.
Tôi chìa tay cho ông Chu, ông để tay tôi vào lòng hai bàn tay ông với một vẻ ngơ ngác, mắt ông đảo qua gian phòng như để tìm cho tôi một chỗ ngồi. Tiếng xo mà được nghe nhỏ dần khi chúng tôi xuống thang.
- Xin chú ý - Heng nói, - bậc thang cuối bị rơi mất rồi - và anh ta chiếu đèn bấm cho tôi đi.
Chúng tôi lại trở lại nơi có những giường sắt và bồn tắm. Heng đi trước đưa tôi vào một gian nhà. Đi được hai mươi bước, anh ta ngừng lại, lấy đèn dọi vào cái thùng sắt nhỏ nom như một cái trống.
- Ông nom rõ không?
- Rõ, cái gì vậy?
Heng lộn chiếc hộp lại, và chỉ cho tôi nhìn rõ nhãn hiệu Diolacton.
- Chữ này đối với tôi không có nghĩa gì.
- Ở đây có hai hộp như vậy, nhặt được tại nhà nhà để xe hơi của ông Phan Văn Mười, cùng với những đồ bỏ đi khác. Ông biết ông Mười chứ?
- Hình như không.
- Vợ ông ta là họ hàng với tướng Thế.
- Tôi vẫn không hiểu…
- Ông có biết cái này là để làm gì không? - Heng vừa nói, vừa cúi xuống nhặt một vật dài và lõm nom như một dọc cần tây, nước mạ lấp loáng dưới ánh đèn.
- Có thể là một cái ống trong phòng tắm.
- Nó là một cái khuôn - Heng nói. (Chắc hẳn anh ta thuộc về loại người rất thích thú với việc giải thích cho người khác. Anh ta ngừng một lát để tôi một lần nữa phải thú nhận sự dốt nát của mình). Ông hiểu tôi nói cái khuôn là nói cái gì chứ?
- Tất nhiên, nhưng tôi vẫn không thấy.
- Cái khuôn này làm từ Mỹ, Diolacton là tên một hãng sản xuất Mỹ. Ông hiểu rồi chứ?
- Vẫn chưa hiểu gì cả.
- Cái khuôn này có một chỗ sai quy cách, một vết tì. Vì thế người ta bỏ di. Nhưng đáng lẽ không được vứt nó cùng với sắt cũ… cái hộp cũng vậy. Đó là một sự sai sót. Ông chủ của ông Mười đã thân chinh vào tận đây lục tìm. Tôi bảo chỉ có thế, ông ta thì nói tìm hộp để đựng hóa chất để dành. Tất nhiên ông ta không hỏi xem có khuôn không, hỏi vậy sẽ lộ ra hành vi của ông nhưng ông tìm kỹ lắm, ông Mười sau đó đã đến tòa lãnh sự Mỹ xin gặp ông Pyle.
- Hình như ông có một mạng lưới tình báo rất tốt - Tôi nói.
- Nhưng tôi vẫn chưa hiểu câu chuyện sẽ dẫn tới đâu.
- Tôi đã nhờ ông Chu liên lạc với ông Dominge.
- Xem chừng ông phát hiện ra một đường dây giữa Pyle và tướng Thế - Tôi nói.. - Sợi dây có vẻ mỏng manh lắm. Cũng không đáng là một tin tức nữa. Ở đây ai cũng cho mình là một người tình báo.
Heng lấy gót chân đạp vào cái thùng sắt sơn đen, và tiếng động như được các giường sắt tiếp âm cho vang thêm lên.
- Ông Fowler, ông là một người Anh. Ông trung lập. Ông cư xử với chúng tôi không thiên vị bên nào. Ông có thể có cảm tình người nào trong chúng tôi, nếu họ vì niềm tin mà đứng về bên này hay bên khác.
- Nếu ông có dụng ý định nói rằng ông là một người cộng sản hay là một phái viên của Việt Minh thì xin cứ nói thẳng. Tôi không có phản ứng gì đâu. Tôi không có quan điểm chính trị.
- Nếu có điều gì không vui vẻ lắm xảy ra ở Sài Gòn nay, thì chúng tôi sẽ bị lên án. Uỷ ban của chúng tôi mong ông có một sự nhìn nhận đúng vấn đề. Do thế, tôi sẽ đưa ông xem vật này vật khác.
- Diolacton là cái gì? Một thứ sữa đặc ư?
- Cũng không xa lạ với sữa lắm.
Anh Heng chiếu đèn vào trong cái hộp sắt. Một chút bột trắng còn dính lại ở đáy hộp, như một lớp bụi.
- Đây là một loại thuốc nổ Hoa Kỳ - Anh ta nói.
Tôi cầm lấy cái khuôn để xem kỹ và thử đoán xem nó dùng để đúc ra viện gì. Tất nhiên vật đúc từ khuôn ra sẽ hình thù ngược lại khuôn như những hình trong gương vậy.
- Không phải để sản xuất đồ chơi.
- Như một thanh sắt để treo cái gì đó.
- Không rõ để dùng vào việc gì.
Anh Heng quay mặt đi, nói:
- Tôi chỉ mong ông sẽ nhớ lại những cái hôm nay ông đã thấy. Một ngày nào đó có lẽ ông có cơ hội viết một bài về vấn đề này. Nhưng xin đừng bao giờ nói về cái thùng ông đã nom thấy ở đây.
- Cả về cái khuôn?
- Nhất là về cái khuôn.
Thật là không dễ chịu khi lần đầu gặp lại con người đã cứu mình, như người ta nói. Từ khi nằm bệnh viên, tôi không gặp lại Pyle, tôi dễ hiểu sự không lên tiếng, không lại thăm của hắn, vì hắn còn hay dè dặt ngượng ngùng hơn tôi, nhưng tôi vẫn cứ băn khoăn về một điều vô lý. Buổi tối, trước khi những điếu thuốc làm thần kinh tôi đỡ căng thẳng có lúc tôi hình dung ra hắn lên thang gác của tôi, gõ cửa phòng tôi, ngủ trêng giường tôi. Về điều này, tôi thật bất công với hắn, và thấy mình vừa mang ơn vừa có lỗi. Rồi tôi lại thấy ăn năn về bức thư đã viết cho hắn (vài vị tổ tiên xa xôi nào để lại cho tôi cái lương tâm vô lý đó. Chính các cụ xưa cũng không băn khoăn như vậy khi hiếp chóc và giết người trong cái thế giới đồ đá cũ của các cụ).
Tôi có nên thết người đã cứu tôi một bữa cơm không? - Đôi khi tôi tự hỏi như vậy - Hay đơn giản là hẹn nhau tới uống chút ít tại quán rượu cảu tiệm Continetal. Đây là một việc xã giao ít khi gặp, làm thế nào là tuỳ ở việc mình cho tính mạng đáng giá bao nhiêu. Một bữa cơm với một chai rượu vang hay một cốc Whisky lớn? Tôi băn khoăn mất mấy ngày, nhưng việc này lại do Pyle giải quyết hộ, vì hắn đến lớn tiếng gọi tôi qua cánh cửa phòng đang đóng. Một buổi trưa nóng nực, tôi đang ngủ say vì suốt buổi sáng đã mệt nhoài vì cố tập đi đứng với cái chân đau, nên không nghe thấy gì hết.
- Thomas, anh Thomas!
Tiếng gọi rơi vào đúng khi tôi mơ thấy mình đi trên một con đường vắng, tìm mãi không ra chỗ rẽ. Đường cứ trải dài ra một cuốn băng ghi tín hiệu đều đều chạy theo một tốc độ không thay đổi, nếu không có tiếng người gọi đó đến làm nó ngưng lại, trước hết là tiếng rên rỉ từ trong tháp canh, sau đó gọi đích danh tôi.
- Thomas, anh Thomas!
Tôi trả lời nho nhỏ:
- Cút đi, Pyle. Đừng tới gần tôi. Tôi không muốn ai cứu tôi cả.
- Thomas!
Hắn lấy nắm tay đấm cửa, nhưng tôi giả chết, y như tôi đã lộn lại thửa ruộng, và Pyle là kẻ thù địch.
Bỗng nhiên tôi thấy tiếng la ngưng hẳn, ai đó thì thào nói trong hành lang và ai đó trả lời lại. Những tiếng thì thầm bao giờ cũng nguy hiểm. Tôi không nhận ra tiếng nói của ai. Tôi nhẹ nhàng xuống giường, chống gậy đi tới cánh cửa phòng ngoài. Có lẽ vì tôi đi chậm quá, có lẽ họ đã nghe thấy tôi đi, nên ngoài cửa là sự im ắng. Sự im lặng giống như một cây leo có tay bám, thân cây luôn qua cửa, bò dài ra, tỏa lá khắp phòng tôi đang đứng. Đây là một sự im lặng mà tôi không ưa thích. Tôi xé tan sự im lặng đó bằng cách mở tung cửa. Phượng hiện ra ở hành lang, hai tay Pyle đặt trên vai cô, với vẻ như họ vừa buông nhau ra sau một cái hôn.
- Nào, xin mời vào, xin mời - Tôi nói.
- Không sao gọi được anh - Pyle nói.
- Lúc đầu vì tôi đang ngủ, sau đó vì không muốn bị ai quấy rầy. Nhưng bây giờ bị quấy rồi, thì xin mời vào. Tôi dùng tiếng Pháp hỏi Phượng: - Cô kiếm được hắn ở đâu đưa về đây thế?
- Ở ngay đây, tại hành lang này, tôi nghe tiếng đập cửa và chạy lên mở.
- Xin mời ngồi - Tôi nói với Pyle - Uống một ly cà phê nhé?
- Không, Thomas ạ, và tôi cũng chẳng muốn ngồi nữa.
- Tôi thì ngồi, chân chóng mỏi lắm. Anh đã nhận được thư của tôi chưa?
- Rồi. Tôi cho rằng anh không bao giờ nên viết như thế.
- Vì sao?
- Vì nó gồm toàn những điều dối trá. Trước kia tôi rất tin ở anh.
- Anh không nên tin ở bất kỳ người nào khi đứng trước việc được hay mất một người đàn bà.
- Vậy xin kể từ hôm này, anh cũng không nên tin tôi nữa. Tôi sẽ viết những lá thư với bì thư đánh máy. Tôi thấy mình đã trưởng thành lên (Nhưng giọng nói của hắn lại đầy nước mắt, và có vẻ trẻ con hơn bao giờ hết). Anh có thể thắng mà không cần gian lận được không?
- Không. Đây là một thí dụ về lối chơi hai mặt của châu Âu. Chúng tôi phải tìm cách bù đắp lại sự thiếu vũ khí. Nhưng tôi chắc đã hớ hênh thế nào. Sao anh phát hiện ra được lời nói dối?
- Nhờ chị cô ta. Bà ấy làm việc ở sở của Jo. Tôi vừa ở chỗ bà ta về. Bà ta biết anh bị gọi về nước.
- Ra thế! - Tôi thở phào trả lời - Phượng cũng biết rồi?
- Và thư của vợ anh, Phượng chắc cũng biết. Chị cô ta đã xem rồi.
- Sao?
- Hôm qua bà ta đến đây, anh đi vắng, Phượng đã cho bà ta xem. Anh không bịp nổi bà ấy vì bà ấy đọc được tiếng Anh.
- Thế đấy.
Chẳng nên trách móc ai làm gì. Rõ ràng thủ phạm là tôi. Chắc Phượng chỉ vì khoe khoang mà cho xem thư, cô ta không vì hồ nghi mà làm việc đó.
- Cô biết rõ từ tối qua à? - Tôi hỏi Phượng.
- Vâng.
- Thảo nào cô chẳng nói năng gì (Tôi nắm tay cô), đáng lẽ cô phải nổi cơn tam bành lên. Nhưng cô không phải là một con mụ Tam Bành.
- Tôi cũng phải suy nghĩ tính toán chứ.
Lúc này toi mới nhớ là khi chợt thức giấc lúc đêm, tôi thấy cô không thở đều và biết cô không ngủ. Tôi đưa tay sờ cô và hỏi. Em nghĩ gì vậy? Từ khi đến ở đường Catina, cô hay bị mê sảng, nhưng đêm qua cô lắc đầu để trả lời tôi là không phải mê sảng. Cô quay lại tôi, tôi kề đùi vào đùi cô… cử chỉ mở đầu cho quan hệ riêng tư giữa chúng tôi. Nhưng lúc đó tôi cũng chưa nhận ra điều khác thường.
Anh Thomas, anh có thể giải thích là tại sao…
- Điều đó đối với tôi là việc tất nhiên. Tôi muốn giữ cô ta.
- Dù ngược lại lợi ích của cô ta?
- Đúng thế.
- Thế không phải là yêu.
- Có lẽ đó không đúng với kiểu của anh.
- Tôi muốn bảo vệ cho cô ta.
- Tôi thì khác. Cô ta chẳng cần sự bảo vệ nào. Tôi muốn có cô ta bên cạnh tôi. Tôi muốn có cô ta trên giường tôi.
- Dù có không thuận tình và bị ép buộc?
- Pyle này, cô ta chẳng ở nơi nào khi cô ta không đồng tình và bị cưỡng bức đâu.
- Sau những việc làm của anh ta thì cô ta chẳng yêu nổi anh nữa.
Những tư tưởng của Pyle cứ đơn giản như vậy. Tôi quay lại nhìn Phượng. Cô ta đã vào trong buồng, kéo chiếc khăn trải giường, cho phẳng phiu, làm xong cô lấy từ ngăn sách ra một cuốn sách tranh rồi ngồi xuống giường đọc, y như câu chuyện chúng tôi không liên quan gì đến cô. Tôi biết cô đọc cuốn sách gì: Đời bà hoàng hậu nước Anh kể bằng hình ảnh. Tôi nom thấy hình quay ngược của chiếc xe ngựa bốn bánh sang trọng chở bà tới cung điện Westminster.
- Chữ "tình yêu" là một từ ngữ tây phương - Tôi nói - Chúgn ta dùng từ đó vì những lý do tình cảm hay để che đậy cái việc chúng ta bị ám ảnh về ý muốn có một người phụ nữ. Những người ở đây không bị cái gì ám ảnh cả, Pyle ạ, anh sẽ bị khốn khổ nếu anh không tự đề phòng.
- Nếu chân anh không bị gãy thì tôi nện cho anh một trận.
- Anh phải biết ơn tôi, biết ơn cả bà chị cô Phượng. Từ nay, anh có thể cứ tiến thẳng về phía trước, anh vốn hay bị lương tâm cắn rứt trong những việc không dính gì đến chất nổ.
- Chất nổ gì?
- Tôi thành tâm mong anh hiểu anh đang làm những việc gì. Tôi vẫn tin rằng anh có những ý đồ tốt đẹp cả. (Hắn có vẻ tự lự và hồ nghi). Đôi lúc tôi lo rằng anh có những ý đồ xấu, như vậy anh dễ hiểu những con người hơn. Điều tôi nói với anh là nói về cả nước anh. Pyle ạ.
- Tôi muốn đảm bảo cho cô ta một cuộc sống đàng hoàng. Ở đây… khai thối quá.
- Chúng tôi chống lại mùi đó bằng những nén hương. Còn anh, tôi chắc anh sẽ mua cho cô ấy một tủ lạnh, một xe riêng, và chiếc máy thu hình kiểu tối tân nhất, và…
- Và những đứa con.
- Những công dân Hoa Kỳ trẻ tuổi, xuất sắc, sẵn sàng tuyên thệ không có dính dáng gì đến các hoạt động chống nước Mỹ…
- Còn anh, anh biếu cô ta cái gì? Anh định đem cô ấy về Anh à?
- Không, tôi không độc ác đến nỗi thế. Trừ khi đủ tiền mua cho cô ta một tấm vé khứ hồi.
- Vậy anh giữ cô ấy để tùy thích sử dụng cho đến lúc anh ra đi?
- Pyle, cô ta là một con người. Cô ta đủ khả năng tự quyết định đời mình.
- Dựa vào những lời nói dối?
- Cô ấy không phải là một đứa con nít. Cô ấy rắn rỏi hơn anh đấy. Anh có biết có loại sơn bóng không cạo xước được không? Phượng như thế đấy. Cô ta có thể tiếp tục sống sau một tá người như anh và tôi. Cô ta chỉ già đi thôi. Đói khát, rét mướt, tê thấp, đẻ đái sẽ làm cô ta khổ sở, nhưng cô ta không như chúng ta giày vò bởi những cơn ám ảnh hay những nỗi suy tư, không có cái gì cào xước nổi cô ta. Dần dần cô ta sẽ thoát được.
Nhưng vừa nói, tôi vừa nhìn Phượng giở ra xem trang sách khác (bức ảnh công chúa chụp cùng gia đình) và tôi hiểu rằng tôi đã hư cấu ra một nhân vật, y như Pyle đã làm. Người ta không bao giờ hiểu được một con người khác. Theo tôi biết, cô ta có thể có những nỗi sợ như chúng tôi, nhưng không bao giờ biết nói những điều đó ra. Và tôi nhớ lại cái năm đau khổ đầu tiên khi tôi rất nhiệt tình tìm hiểu tâm tư cô, khi tôi van vỉ yêu cầu cô nói cho tôi nghe cô đang nghĩ gì, khi tôi làm cô kinh hãi vì đã nổi giận một cách vô lý trước sự im lặng của cô. Tôi đã sử dụng những cơn dục vọng của tôi như khi đâm mũi gươm vào ruột gan một nạn nhân, giết luôn sự tự chủ của nó và bắt nó phải nói ra.
- Anh nói thế đủ rồi đấy. Pyle ạ. Anh đã biết hết những điều anh cần biết. Bây giờ xin mời anh về.
- Phượng - Pye gọi.
- Ông Pyle bảo gì ạ? - Cô ngước mắt lên trả lời, giữa khi đang mê mải ngắm ảnh lâu dài Wilson và sự lễ độ trịnh trọng của cô lúc này mang một vẻ tức cười và làm tôi yên lòng.
- Anh ta đã lừa dối cô đấy.
- Tôi không hiểu gì cả.
- Ôi, anh cút đi - Tôi nói - Trở về cái lực lượng thứ ba của anh, về với York Hardin và với vai trò của nền dân chủ. Đi mà làm những đồ chơi bằng chất nổ!
Sau này tôi phải thú nhận rằng hắn đã làm đúng như tôi bảo hắn.
CHƯƠNG 27
Gần hai tuần trôi qua, kể từ cái chết của Pyle, tôi gặp lại Vigo. Tôi đang đi dọc đại lộ Sacne lên thì nghe hắn gọi tôi từ "Câu lạc bộ".
Đấy là cái tiệm ăn tôi ưng lui tới nhất, thời gian đó, những nhân viên mật vụ như thách thức những người căm ghét họ thường dùng bữa trưa tối luôn ở từng trệt, trong khi những căm ghét họ thường dùng bữa trưa bữa tối luôn ở từng trệt, trong ki những người khác ăn uống tại tầng trên, ngoài tầm ném lựu đạn của du kích. Tôi lại bàn ông ta và ông ta gọi một cốc Vecmus Casi.
- Làm một vài ván chứ?
- Nếu anh muốn.
- Tôi dốc những con xúc xắc của tôi ra để đánh 4-2-1 theo thường lệ. Ba con số đó, hay những con xúc xắc thoáng trông thấy, sao mà làm tôi nhớ lại những năm chiến tranh ở Đông Dương thế! Ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, chỉ nhìn thấy hai người gieo những con xúc xắc là tôi như thấy lại mình đang sống trong phố phường Hà Nội, Sài Gòn, hay tại những ngôi nhà đổ nát của Phát Diệm bị oanh tạc, tôi thấy lại những lính dù mặc áo nguỵ trang loang lổ nom tạ những con sâu, đi tuần dọc những con kênh, nghe tiếng súng cối tiến lại gần, đoi khi như thấy lại một đứa bé chết còng queo.
- Không cần bôi vaseline à? - Vigo hỏi.
Ông ta đẩy lại phía tôi que diêm cuối cùng. Kiểu nói lóng tục tĩu này là kiểu nói của tất cả bọn nhân viên Liêm phóng, có lẽ do Vigo sáng tạo ra, được mọi tên tuỳ tùng dùng theo tuy họ không bắt chước ở ông ta sự thích thú Pascan.
- Thiếu uý.
Mỗi lần thắng là được lên một bậc. Ván bài kết thúc khi một bên lên tới đại uý hay thiếu tá. Vigo thắng ván thứ hai cũng như ván trước, rồi vừa đếm những que diêm vừa nói:
- Chúng tôi đã tìm thấy con chó của Pyle.
- Vậy à?
- Tôi đoán nó không chịu rời xác chủ nó. Dù sao họ cũng đã cắt cổ nó rồi. Thấy nó ngập trong bùn, cách Pyle năm mươi bước. Nó đã lết được tới đó.
- Anh vẫn tiếp tục theo dõi việc này?
- Ngài bộ trưởng thúc chúng tôi. Nếu một người Pháp bị giết thì nhờ trời, chúng tôi không bị phiền hà đến thế. Phải thú thật rằng việc này chẳng đến nỗi là một sự kiện hiếm hoi có chút giá trị nào.
Chúng tôi chia lại số que diêm, và lại tiếp tục đánh ăn thua thật sự. Vigo đánh nhanh như làm ảo thuật. Số que diêm của ông ta chỉ còn lại có ba, trong khi số điểm của tôi cứ tụt hoài.
- Vú vê - Vigo vừa nói vừa đẩy sang phía tôi hai que diêm.
Khi đẩy được nốt que diêm cuối cùng, ông ta tuyên bố: Đại uý và toi phải gọi người hầu bàn đến mua rượu phạt.
- Anh có bị ai đánh bại bao giờ không? - Tôi hỏi.
- Ít khi. Anh có muốn phục thù không?
- Xin để lần khác. Đánh như anh thì tài thật, anh Vigo, anh có chơi loại bài bạc may rủi nào khác?
Ông ta mỉm cười chua chát và tôi không hiểu tại sao lại nghĩ tới con người tóc vàng ông ta đã lấy làm vợ, con người mà thiên hạ đồn rằng không chung tình, hay đi lang chạ với người dưới quyền trẻ tuổi của ông ta.
- Ô này, - Ông ta nói - Nhất đấy.
- Nhất?
- "Hãy cân nhắc hơn thiệt - Vigo dẫn Pascan, - Và nên tin rằng có trời. Xét hai trường hợp: nếu được thì được tất cả, nếu mất thì cũng chẳng mất gì".
Tôi dẫn Pascan để đáp lại ngay - Và đây cũng là đoạn duy nhất của Pascan mà tôi còn nhớ được:
- "Cần phải nói rằng kẻ tin và kẻ không tin đều có lỗi. Cái đạo đúng là không nên thách thức".
- "Nhưng phải thách thức. Không phải do tự nguyện mà mọi người bị trói buộc". Anh đã không hành động theo những nguyên tắc sống của anh. Anh cũng đứng về một bên rồi đấy, y như tất cả mọi người.
- Nưng không phải lĩnh vực của sự tín ngưỡng.
- Tôi không nói về vấn đề tín ngưỡng. Thực ra tôi đang nghĩ đến vấn đề con chó của Pyle.
- Ồ!
- Chắc anh còn nhớ anh nói với tôi những điều gì…
anh bảo phải tìm ra dấu vết qua chân của con chó, bằng cách phân chất vết bùn, và vân vân…
- Và anh đã trả lời là anh không phải thuộc loại thám tử như Merge và Le Cok
- Ấy thế mà tôi không đến nỗi uổng công đâu. Khi đi ra ngoài, Pyle bao giờ cũng dắt theo con chó của mình, phải không?
- Hãy cho là như thế đi.
- Con chó đó quý lắm, hắn không bao giờ để chạy rông một mình đâu nhỉ?
- Ai lại dại dội như thế! Ở đây chó nào người ta cũng thịt được (Ông ta định bỏ những con xúc xắc của tôi vào túi) Ấy xúc xắc của tôi!
- Ồ, xin lỗi, tôi đang mải nghĩ.
- Sao anh lại nói tôi đứng về một phe?
- Anh gặp con chó của Pyle lần chót vào hôm nào, anh Fowler?
- Có trời biết được. Tôi không ghi vào sổ tay những cuộc hẹn hò với giống chó.
- Khi nào anh trở về Anh?
- Cũng chưa thật chính xác.
Tôi không muốn cung cấp tin tức cho bọn Liêm phóng. Như vậy lại đỡ rày rà cho họ.
- Tối nay tôi muốn nói chuyện với anh một lát. Vào mười giờ nhé? Trừ phi anh đang bận với ai.
- Tôi sẽ bảo Phượng đi xem chiếu bóng.
- Nối lại quan hệ tốt… với cô ta rồi à?
- Phải.
- Lạ nhỉ. Tôi trước đây tưởng anh đau khổ lắm.
- Có nhiều lý do khiến người ta đau khổ, anh có nghĩ thế không? (và tôi nói thêm một cách tàn nhẫn) Anh có đủ tư cách để hiểu điều đó.
- Tôi ấy à?
- Anh cũng không phải là con người hạnh phúc lắm.
- Ồ, tôi không có lý do gì để than vãn cả. "Một gia đình phá sản không phải là một gia đình tồi tệ".
- Anh nói gì thế?
- Vẫn dẫn Pascan đấy mà. Đấy là một lý lẽ để bảo vệ niềm tự kiêu khi người ta bị đau khổ. "Một cái cây to không tự cho mình là tồi tệ".
- Tại sao anh lại làm cái nghề mật thám này, anh Vigo?
- Vì một loạt yếu tố. Vì cần kiếm sống, vì tò mò muốn biết nhiều kiểu người, và… nói thật là do ảnh hưởng của nhà viết tiểu thuyết trinh thám Gabrio.
- Có lẽ anh phải thành tu sĩ thì đúng hơn.
- Khi xưa tôi không được đọc những tác giả cần phải đọc.
- Anh vẫn còn nghi ngờ tôi phải không?
Ông ta đứng lên, uống cạn cốc rượu.
- Chỉ muốn nói chuyện với anh thôi.
Khi ông ta đi rồi, tôi nhận ra ông ta đã nhìn tôi một cách ái ngại, y như người ta nhìn một tù nhân mà mình sắp bắt, sắp phải chịu cái án tù chung thân.
Tôi đã phải chịu đựng sự trừng phạt. Có thể nói rằng Pyle, khi rời khỏi phòng tôi đã bắt tội tôi phải sống nhiều tuần lễ hoài nghi, lo ngại. Cứ mỗi lần về đến nhà là mỗi lần đón chờ một tai họa.
Đôi khi, Phượng không ở nhà và tôi không sao làm việc được cho tới lúc cô về, vì tôi luôn tự hỏi không biết cô có về nữa hay không. Tôi khéo hỏi xem cô đi về những nơi đâu (và cố để cho sự lo ngại, nghi ngờ không xen vào trong giọng nói của mình). Và cô ta trả lời "đi chợ" hay "ra hiệu", vừa nói vừa giơ một vật để làm bằng (lúc đó, ngay đến việc cô vội vã chứng mình cho lời nói cũng lại càng khiến cô đáng khả nghi hơn) và đôi khi là đi xem chiếu bóng, cái cuống vé sẵn đấy để làm bằng, thảng hoặc đi thăm bà chị thì hẳn là, theo tôi nghĩ, để gặp lại Pyle tại đó. Trong thời gian này, tôi ngủ với cô một cách thô bạo, y như vì ghét cô, nhưng chính ra tôi có ghét là ghét sự lo lắng cho tương lai. Sự trống trải vào tận giường tôi, tôi ôm trong lòng tôi sự trống trải. Phượng thì không có gì khác trước, cô nấu cơm, tiêm thuốc, với sự dịu dàng và vẻ dễ mến, cô hiến tấm thân cô cho sự khoái lạc của tôi (nhưng đâu còn sự khoái lạc). Và giống những ngày đầu, khi tôi muốn hiểu tâm hồn cô, ngày nay tôi muốn biết cô đang có những ý nghĩ gì, nhưng cô giấu những ý nghĩ đó dưới một thứ ngôn ngữ mà trước tôi chưa hề quen biết. Tôi không muốn vặn hỏi cô. Tôi không muốn buộc cô phải nói dối (chừng nào người chưa nói dối trắng trợn với nhau, thì người ta còn nuôi ảo tưởng là giữa hai người chưa có gì thay đổi), nhưng rồi sự lo âu của tôi bỗng bật thành tiếng, và tôi hỏi:
- Cô gặp Pyle lần chót khi nào?
Cô ngập ngừng hoặc cô thực sự tìm nhớ lại, tôi cũng không rõ:
- Đó là lần anh ta tới đây lần cuối cùng.
Gần như một cách không có chủ định, tôi đâm ra phủ định tất cả những cái gì là của Hoa Kỳ. Trong khi trò chuyện, tôi luôn nhấn mạnh về sự tầm thường của văn học Mỹ, những vụ bê bối trong chính cuộc Mỹ, tư cách bỉ ổi của trẻ con Mỹ. Người ta có thể nói là vì Phượng mà tôi không chỉ mất một người bạn, mà mất đi cả một quốc gia. Không có gì Hoa Kỳ làm mà lại có thiện ý. Tôi đi đến chỗ làm người ta nhức đầu về sự ám ảnh bởi nước Mỹ, ngay cả những người bạn Pháp, họ sẵn sàng chia sẻ với tôi sự khinh ghét đó. Y như tôi bị một kẻ phản bội lại. Nhưng người ta chỉ có thể gán chữ phản bội cho một bạn bè thôi chứ, còn đây lại là kẻ thù.
Chính vào lúc xảy ra vụ "bom xe đạp". Một hôm từ quán rượu Hoàng Gia về, tôi thấy căn phòng trống rỗng (Phượng đi xem chiếu bóng hay ở nhà bà chị?). Anh ta xin lỗi vì còn ốm và yêu cầu tôi mời giờ rưỡi sáng mai có mặt trước cửa hiệu lớn tại góc đại lộ Sacne. Anh ta viết thư theo yêu cầu của ông Chu, nhưng tôi cho là của ông Heng thì đúng hơn, ông ta đòi hỏi sự có mặt của tôi ở nơi đó.
Tất cả vụ này thực ra không đáng được kể lại trong một đoạn viết, nhất là một đoạn văn hài hước. Việc sẽ không đáng giá gì nếu so với cuộc chiến đáng buồn và nặng nề đang dai dẳng ở miền Bắc, so với những con sống đào đầy xác chết bị ngâm nước lâu ngày ở Phát Diệm, với tiếng súng cối dập xuống, hay với ánh sáng thê thảm của bom napan bùng cháy. Tôi chờ chừng mười lăm phút cạnh một quầy bán hoa, thì một chiếc cam-nhông chở đầy cảnh binh từ tổng hành dinh cảnh sát phố Catina đỗ xịch trong tiếng phanh nhức óc và tiếng bánh xe kín kít sát mặt đường. Người từ trên xe nhảy xuống và xông tới cửa hàng như để tấn công vào đám đông dân chúng nhưng không có đám đông, chỉ có một dãy xe đạp đổ nghênh ngang. Tất cả những tòa nhà lớn ở Sài Gòn đều có một hàng rào như vậy bao quanh, ở các nước phương Tây chúng ta không có một khu sinh viên nào lại lắm xe đạp như vậy. Trước khi tôi chỉnh được chiếc máy ảnh thì một cảnh tức cười và không hiểu nổi đã diễn ra xong xuôi. Những cảnh binh đã lách tới được cái rừng xe đạp ấy rồi lại nhô lên giơ cao trên đầu ba chiếc, chạy ngang qua mặt đường rồi vứt vào cái bể nước xây làm cảnh. Tôi không túm được một người nào trong bọn, họ đã nhảy lên xe phóng nhanh về phía đại lộ Bona.
- Trận đánh xe đạp - Có tiếng nói, tiếng ông Heng.
- Có việc gì đang diễn ra thế? - Tôi hỏi - Tập à? Để làm gì?
- Xin chờ một lát - Ông Heng nói.
Một vài người đang dạo chơi bắt đầu tiến lại gần bên bồn nước, nơi một bánh xe thò lên như một chiếc phao báo hiệu cho tầu qua lại biết nơi đây còn có những xác tàu bị chìm. Một cảnh binh vừa chạy qua đường vừa xua tay.
- Ta tới gần xem một chút.
- Cứ đứng đây thì hơn - Ông Heng nói, mắt dán vào chiếc đồng hồ đeo tay. Kim chỉ mười một giờ bốn phút.
- Đồng hồ ông nhanh đấy! - Tôi nói.
- Khi nào nó cũng nhanh vài phút.
Đúng lúc đó bể nước nổ tung, và nước tràn ra đường, một tảng gạch bay tới đập vỡ tan một cửa kính, và những mảnh kính vỡ rơi như một dòng nước trút xuống.
Không có ai bị thương. Chúng tôi rũ áo cho sạch nước và mảnh kính vụn. Một chiếc bánh xe quay tít trên mặt đường, kêu vù vù như một con cù, lảo đảo rồi đổ kềnh xuống đất.
- Bây giờ đúng mười một giờ - ông Heng nói.
- Quái quỷ gì thế…
- Tôi đã nghĩ việc này có thể làm ông phải lưu tâm.
- Ông Heng nói - bây giờ chắc hẳn ông đã lưu tâm.
- Đi uống chút gì đi.
- Không, tôi xin lỗi, tôi phải về nhà ông Chu. Nhưng trước hết, tôi chỉ xem ông cái này. (Ông ta dẫn tôi tới nơi để xe đạp, mở chiếc khóa dây xe của ông). Xin ông nhìn cho kỹ.
- Một chiếc xe Raleigh - Tôi nói.
- Không, xin nhìn chiếc bơm xe. Nó không làm ông nhớ lại cái gì à?
Ông ta mỉm cười một cách tự kiêu trước vẻ ngơ ngác của tôi rồi bỏ đi. Tuy nhiên, ông ta vẫn quay lại vẫy tay chào tôi và đạp về phía chợ Lớn, nơi có kho sắt cũ của ông.
Khi tới Sở Liêm phóng để lấy tin, tôi mới hiểu ông đang định nói tới cái gì. Cái khuôn tôi được thấy trong kho nhà ông có hình dáng của một phần nửa một cái bơm xe đạp. Ngay hôm đó trong toàn thành phố Sài Gòn, nhiều cái bơm xe đạp bình thường hóa ra là những quả bom trá hình nổ đúng lúc mười một giờ, trừ những cảnh bình được người báo (tôi đoán là chính người của ông Heng đã báo) đã hành động kịp thời trước khi bom nổ. Việc cũng nhỏ thôi, sáu người bị thương nhẹ, còn không biết bao nhiêu xe bị hư hại. Những đồng nghiệp của tôi - ngoài phóng viên tờ Viễn Đông dám nói đến "mưu sát" - hiểu rằng họ muốn cho báo của họ bán chạy thì chỉ nên đem vụ này làm một câu chuyện hài hước. "Bom trên xe đạp" là một cái đầu đề hấp dẫn. Tất cả đều đổ cho cộng sản. Chỉ có tôi là người đổ việc làm, này cho tướng Thế không còn là vấn đề thời sự. Hoài giấy mà nói về ông ta. Tôi nhờ Dominge chuyển cho ông Heng một thư nói rõ là tôi đã gắng hết sức mình. Ông Heng nhờ trả lời miệng một cách lịch sự. Hình như ông ta hay cái Uỷ ban gì đó của ông ta dễ phật ý lắm. Không có ai oán trách ghê gớm những người cộng sản về vụ này. Ngay dù cho họ có làm như vậy, thì họ chỉ được thêm tiếng là những người thích đùa. Trong các cuộc tiếp tân, người ta thường hỏi nhau: "Liệu họ sẽ nghĩ ra một trò gì ngộ hơn thế nữa không?". Và cái vụ lố bịch này được hình tượng hóa trong óc tôi bằng hình ảnh của chiếc bánh xe quay tít một cách vui vẻ như một con quay ở giữa đường phố. Tôi không nói gì về Pyle về những mối quan hệ của hắn với tướng Thế. Mặc hắn cứ làm những đồ chơi với thuốc nổ, như vậy có lẽ hắn khỏi nhớ đến Phượng. Tuy nhiên, một tối, vì đi ngang qua, và cũng vì không có việc gì làm thú vị hơn, tôi tạt vào garage của ông Mười.
Đó là một nơi trên bờ phố Somer, không rộng và rất lộn xộn, khá giống với một kho chứa đồ sắt cũ. Một chiếc xe đang được kích lên ngay giữa garage, nắp xe há hốc, hình thù xe giống như một con thú tiền sử trưng bày tại một nhà bảo tàng tỉnh lẻ không có ai vào xem. Tôi tin rằng không có ai còn nhớ là chiếc xe nằm đó. Những mẩu sắt cũ vứt rải rác trên mặt đất, những người Việt Nam không bỏ đi một chút gì, giống như một người đầu bếp Tàu, từ một con vịt làm được bảy món, đến cái móng chân cũng không để phí. Tôi lại nghĩ vì một sai sót nào mà người ta đã vứt những hộp Diolacton rỗng và những khuôn đúc hỏng, biết đâu nó chẳng bị một người làm lấy trộm đem bán lấy dăm đồng bạc, hay là ông Heng lắm mưu mẹo đã mua chuộc được một nhân viên nào đó.
Hình như trong nhà không có ai: Tôi cứ việc vào. Tôi nghĩ chắc họ tạm lánh để đề phòng cảnh binh đến tìm bắt.
Có thể ông Heng đã báo mật thám, nhưng dù có thế, cảnh sát chắc cứ khoanh tay. Chúng cho rằng cứ để cho công chúng tin là các vụ nổ do cộng sản gây ra thì vẫn có lợi hơn.
Không có gì ngoài chiếc xe và những mẩu sắt rải rác trên nền xi măng. Khó mà tưởng tượng được rằng những quả bom có thể được chế tạo tại đây. Tôi chỉ có sự hiểu biết mơ hồ về cách chế biến chất bột tôi đã thấy trong các hộp thành mìn nhựa, nhưng rõ rằng đó là một công việc quá phức tạp không thể tiến hành ngay ở đây, nơi mà ngay hai chiếc bơm ét-xăng ngoài cửa xem chừng cũng không được bảo quản tử tế. Tôi đi ra tận cửa và nhìn ra ngoài. Dưới hàng cây, phía giữa phố, những người thợ cạo đang làm việc, một mảnh gương treo trên thân cây phản chiếu lại những tia mặt trời. Một cô thiếu nữ đầu đội nón, quang gánh trên vai, đang chạy. Người bói bài tây, ngồi xổm lưng tựa vào tường hãng Simon, đang có một vị khách: một người già, râu thưa, thản nhiên nhìn ông thầy bói trang và lật những con bài cũ kỹ. Tương lai cụ đáng giá bao nhiêu và bỏ hẳn một đồng bạc ra xem số? Trên đại Somer, người ta sống ngay ở ngoài đường, mọi người đều biết rõ những điều cần biết về ông Mười, nhưng cảnh sát thiếu cái chìa khóa để mở được lòng tin của họ. Sống ở cái mức như thế này thì tất cả đều phơi bày ra, những người ta không thể xuống sống ở mức sống đó như đi xuống phố được. Tôi lại nhớ tới những mụ già ngồi nói phiệu ở cầu thang gác, cạnh những nhà tiêu công cộng, các mụ đó cũng nghe biết hết được mọi tin đồn, nhưng tôi nào có biết được họ đã biết những gì.
Lộn về nhà chứa xe, tôi vào đựơc một phòng giấy nhỏ ở trong cùng, tôi thấy cuốn lịch Tầu quảng cáo như mọi nơi, một bàn viết ngổn ngang, cataloge, lọ cồn, máy tính, kìm kẹp, ấm tích, ba chén uống nước trà, một lô bút chì chưa gọt, và có trời mới hiểu được, cả một bưu ảnh mới mang hình Eiffel nữa. York Hardin có thể viết bằng những công thức trừu tượng về lực lượng thứ ba, nhưng đấy chính là lực lượng thứ ba ấy, ngoài ra không có gì khác! Giữa bức tường hậu có một cái cửa khóa chặt, nhưng chìa khóa lại để giữa đống bút chì. Tôi mở cửa và đi sang bên kia.
Tôi thấy mình đang ở trong một nhà kho rộng ngang tới cái garage. Trong kho chỉ có một cái máy mới nom tưởng là một cái lồng làm bằng ống tuýp và dây thép với vô số những giàn cho chim đậu. Người ta dễ có cảm giác là tất cả những thứ đó đều được buộc vào nhau bằng những mảnh vải cũ, nhưng chắc các miếng vải chỉ được dùng để lau và còn vương ở đó khi ông Mười và đồng bọn vội bỏ chạy. Tôi nom thấy tên hãng sản xuất ra chiếc máy làm tại thành phố Lion và số thứ tự của bằng sáng chế. Tôi cắm cho điện chạy và chiếc máy cổ lỗ sống lại, những thanh sắt có sức mạnh nhất định, chiếc máy quá nhiều tuổi giống như một cụ già thu hết tàn lực, dùng tay đấm, đấm hết sức mình… Đúng là một cái máy nén, cổ lỗ sĩ. Nhưng máy nén này vẫn dùng được tại các nước người ta không bỏ chi phí một vật gì, có thể bất kỳ cái gì một hôm có thể từ chỗ bị quên lãng nhảy ra trút hơi thở tàn của mình. Tôi nhớ lại là đã xem tại một phố nhỏ của thành phố Nam Định, một cuốn phim rất cổ: Con tầu Robery to lớn, chiếu ra, hình chỉ thấy loáng thoáng, nhưng vẫn đôi chút mua vui cho khán giả.
Tôi lại gần xem cho rõ hơn, và còn thấy những vệt bột trắng. Đúng là Dionlacton rồi. Nhưng không tìm đâu ra hộp sắt hay khuôn ép. Tôi quay trở lại phòng giấy, rồi nhà garage. Tôi toan vỗ một cái thân mật lên chắn bùn của chiếc xe cũ kỹ, nó có lẽ còn phải chờ lâu đấy, nhưng chính nó, biết đâu, một ngày nào đó… Trong lúc này, chắc ông Mười đang tìm cách lội qua ruộng để tới khu núi thiêng nơi tướng Thế đặt bản doanh. Khi tôi gọi to: Ông Mười! thì tôi lại tưởng như đã đi xa nhà garage, đại lộ, những người thợ cạo, và tôi đang trở lại những cánh đồng lúa trên đường đi Tây Ninh là nơi tôi đã ẩn núp. "Ông Mười!". Tôi như nhìn thấy một con người ngoảnh đầu lại, ở giữa các cây lúa.
Tôi đi bộ trở về nhà và trên bậc cầu thang những mụ già râm ran trò chuyện như những con chim trên bờ rào, tôi chẳng hiểu nổi họ nói gì như tôi không hiểu tiếng chim kêu trên cành vậy. Phượng không có ở nhà, chỉ có mấy chữ báo cho tôi biết cô đang ở nhà chị của mình. Tôi nằm dài ra giường và thiếp ngủ. Khi tôi thức giấc, nhìn ra chiếc đồng hồ báo thức thấy đã một giờ hai mươi lăm phút, quay đầu lại những tưởng như Phượng ngủ cạnh tôi. Nhưng chiếc gối chưa có ai động đến. Hôm đó chắc Phượng đã thay khăn trải giường, mùi vải mới giặt là còn nguyên. Tôi đứng dậy, mở ngăn kéo nơi Phượng vẫn cất khăn choàng, khăn không còn ở đó nữa. Tôi đi ra tận giá sách, cuốn sách tranh về cuộc đời gia đình hoàng gia đã biến mất. Phượng đi đã mang theo gia sản của cô.
Khi mới bị choáng váng, người ta ít đau, cơn đau đến lúc ba giờ sáng, khi tôi suy nghĩ về cách xếp đặt lại cuộc đời, cuộc đời mà theo cách này hay cách khác, tôi bắt buộc phải tiếp tục sống, và khi tôi nghĩ cách xếp lại những kỷ niệm để quên đi, chưa rõ quên bằng cách nào. Những kỷ niệm, êm ấm làm người ta đau khổ nhất, vì thế lại tệ hại nhất, bởi vậy tôi gắng nhớ lại những kỷ niệm buồn. Tôi đã quen với việc này. Tôi đã sống qua tất cả những cảnh ngộ này. Tôi hiểu rằng tôi đủ sức làm những việc cần làm, dẫu đã già nua… Tôi cảm thấy còn sức để xây dựng lại.
Tôi đến tòa Lãnh sự Mỹ và yêu cầu được gặp Pyle. Phải viết đầy đủ vào một tờ phiếu rồi giao cho một người quân cảnh ngay từ ngoài cửa.
Tên này nói:
- Ông chưa ghi rõ mục đích việc xin gặp.
- Rôi ông ta sẽ biết.
- Thế ông được hẹn trước hay sao?
- Xin cứ coi như vậy cũng được.
- Xem ra cũng phiền toái, nhưng chúng tôi phải hết sức chú ý. Thỉnh thoảng vẫn có những kẻ khả nghi tới đây.
- Người ta nói với tôi như vậy.
Hắn đưa đẩy miếng kẹo cao su sang phía miệng bên kia và đi vào thang máy. Tôi đứng chờ. Tôi cũng chưa rõ mình sẽ nói với Pyle điều gì. Đây là một màn kịch lớn tôi chưa đóng bao giờ. Người cảnh binh trở ra.
- Mời ông lên - Hắn nói một cách không vui vẻ - Phòng số 12A, gác một.
Đến nơi tôi không thấy Pyle, Jo, tuỳ viên thương mại ngồi ở bàn giấy. Tôi vẫn không nhớ ra tên chính của hắn. Bà chị của Phượng chăm chăm theo dõi tôi từ sau chiếc máy chữ. Phải chăng cặp mắt nâu đầy vẻ hám lợi của bà đã lóe lên vẻ chiến thắng. Jo nói lớn với vẻ dễ tính ồn ào:
- Mời vào, mời vào anh Tom. Rất vui sướng được gặp anh. Chân anh ra sao rồi? Chẳng mấy khi anh tới cái sở nhỏ bé củ chúng tôi. Xin kéo một chiếc ghế mà ngồi. Cho tôi nghe ý kiến anh về trận tấn công vừa qua đi. Tối qua tôi gặp anh Grand ở Continetal. Hắn lại sắp ra miền bắc. Hắn ta thật hăng. Đâu có gì mới là có mặt Grand. Hút thuốc nhé? Anh cứ tự nhiên. Anh quen Miss Hải đấy chứ? Người có tuổi như tôi không sao nhớ được đầy đủ tên họ các cô có… dài quá. Tôi cứ gọi: "Hello, cô kia!". Thế mà cô ấy lại thích. Kiểu cách theo lối thực dân cũ là hết thời rồi. Ngoài phố có tin đồn gì mới nhất, Tom? Các anh như lúc nào cũng áp sát tai xuống đất để nghe ngóng. Rất tiếc cho chân anh. Andon, đã kể cho tôi nghe…
- Pyle đâu rồi?
- Sáng nay Andon không tới sở. Tôi thấy anh ta đang ở nhà. Lắm việc ở nhà lắm.
- Tôi biết hắn đang làm cái việc gì ở nhà rồi.
- Say sưa lắm, cái anh chàng. À, anh vừa nói gì nhỉ?
- Dù sao tôi cũng biết chắc hơn anh cái việc anh ta đang làm ở nhà là gì.
- Tôi chẳng hiểu anh định nói gì, anh Tom. Tôi vẫn cứ là anh chàng Jo lơ mơ. Từ xưa, và mãi mãi.
- Nó đang ngủ với người yêu của tôi, em gái cô thư ký đánh máy của anh.
- Tôi chẳng hiểu anh nói gì cả.
- Cứ hỏi cô ta thì biết. Chính cô ta đã bố trí việc này, Pyle đã cướp người yêu của tôi.
- Nghe này, Fowler, tôi cứ tưởng anh đến đây là có việc công. Tôi không thể cho ai tới phòng giấy này gây sự, anh rõ chứ?
- Tôi đến tìm Pyle, nhưng chắc y trốn rồi.
- Này, anh Fowler, đáng lẽ anh là người cuối cùng được phép ăn nói như vậy, sau cái việc mà Andon đã làm cho anh.
- À, phải, phải, tất nhiên. Hắn đã cứu sống tôi phải không? Nhưng tôi có yêu cầu hắn làm việc đó đâu?
- Xả thân ra cứu anh. Anh ta hẳn phải rất tốt bụng.
- Tôi cóc nói đến cái bụng hắn. Lúc này tôi đang nghĩ đến một bộ phận khác của con người hắn.
- Này, này, đừng nói bóng gió như thế trước mặt một phụ nữ.
- Bà này với tôi đã hiểu quá rồi. Bà muốn vòi tôi một khoản tiền mà không được, nhưng bà ta đã làm ăn được với Pyle. Thôi được. Tôi rõ là tôi đã cư xử lỗ mãng, và tôi cứ muốn lỗ mãng như thế. Trong hoàn cảnh này, chẳng ai tử tế với ai cả.
- Chúng tôi đang bận. Cần làm báo cáo về vấn đề sản xuất cao su…
- Anh khỏi lo, tôi đi đây. Nếu Pyle có gọi thì nói hộ là tôi đã đến. Có lẽ anh ta thấy anh ta cần đến đáp lễ tôi, cho phải phép. (Tôi quay lại phía bà chị cô Phượng). Tôi hy vọng bà sẽ đưa ra công chứng viên xác nhận số tiền thưởng, trước mặt ông Lãnh sự Mỹ và những nhà theo chủ nghĩa khoa học gia tô giáo.
- Tôi đi ra ngoài hành lang trước mặt, ở đây có cánh cửa mang biển "Các ông". Tôi vào, cài cửa lại, và ngồi gục đầu vào tượng lạnh ngắt mà khóc. Cho đến bây giờ tôi chưa hề khóc. Chuồng xí của họ đặt máy điều hòa khí hậu, không khí mát mẻ đã làm khô nước mắt của tôi, như đã làm khô nước bọt trong miệng và tinh khí trong cơ thể.
Tôi giao phó công việc dở dang vào tay Domige và đi ra miền Bắc. Ở Hải Phòng, tôi có nhiều người quen thân trong phi đội Gasconer và tôi sống hàng giờ tại phòng bán rượu của sân bay, hay chơi cầu trên con đường trải sỏi ngay trước mặt.
Nói theo cách chính thức thì tôi đang ra tiền tuyến, tôi thi đua với Grand, nhưng báo của tôi cũng chẳng thêm được bài nào, y như khi tôi thăm Phát Diệm báo cũng chẳng được bài nào. Tuy nhiên, khi người ta viết về chiến tranh, thì lòng tự trọng cũng buộc người ta đôi lúc cũng phải chia sẻ nổi gian nguy với người khác.
Gian nguy thật ra cũng khó chia sẻ, dù trong những thời gian hạn chế, vì có lệnh từ Hà Nội ban xuống, cấm không cho tôi được tham gia vào các phi vụ nào không phải là phi vụ "ngang" bay trên tầm súng đại liên. Nhưng những phi vụ ngang cũng chẳng khác một chuyến đi ôtô buýt, chỉ gặp khó khăn nguy hiểm khi xe hỏng máy hay người lái lỗi lầm. Chúng tôi cất cánh theo giờ đã định, về nhà theo giờ đã định: bom thả chênh chếch rơi, những cột khói uốn khúc bay lên, từ một ngã tư hay một cây cầu rồi đúng giờ chúng tôi lại đi uống rượu khai vị hay lăn những quả cầu thép tròn trên con đường rải sỏi.
Một buổi sáng, tôi đang uống Cognac với Soda ở quán ăn sĩ quan trong thành phố với một sĩ quan trẻ, anh này ngày đêm mơ ước được thăm cảnh con đê chắn sóng của một thành phố ở nước Anh, thì lệnh chiến đấu tới, anh ta hỏi tôi có muốn đi không, tôi đồng ý. Dù chỉ được dự một phi vụ ngang cũng là một cách giết thì giờ và giết cả những suy nghĩ của tôi. Trên xe đi ra phi trường, anh ta nói:
- Lần này là một phi vụ "dọc".
- Tôi tưởng họ cấm tôi…
- Nhưng đừng có viết lách gì đấy. Tôi sẽ đưa anh đi xem, gần biên giới Trung Hoa, một góc đất nước mà chắc anh chưa được thấy. Gần Lai Châu.
- Tôi nghĩ mọi việc đang yên ổn ở đó cơ mà?
- Trước thì yên. Hai ngày trước đây họ chiếm mất rồi. Lính dù đang tiến lên, vài giờ nữa thì tới. Chúng tôi muốn quân Việt Minh phải chúi dưới hầm hố cho tới khi chúng tôi lấy lại được đồn. Như thế có nghĩa là phải bổ nhào và bắn. Chúng tôi chỉ có hai chiếc máy bay, một thì đang hoạt động. Anh đã đi ném bom kiểu bổ nhào bao giờ chưa?
- Chưa bao giờ.
- Chưa quen thì cũng khó chịu đấy.
Phi đội gác Gasconer chỉ được trang bị bằng những máy bay ném bom kiểu Maroder B26. Người Pháp gọi chúng là những "con đĩ" vì cánh chúng tôi rất nhỏ, như không biết lấy cớ gì đỡ cho thân. Tôi ngồi co trên mẩu ghế không lớn hơn chiếc yên xe đạp, đầu gối tì vào lưng người lái. Chúng tôi dọc theo sông Hồng đi lên, từ từ lên cao và vào giờ này quả là con sông mang mầu hồng. Tưởng như chúng tôi đã lùi ngược thời gian, như chúng tôi đem con mắt nhà địa lý xưa ra khám phá, đặt cái tên cho con sông đúng vào lúc mặt trời đang lặn, làm từ bờ này sang bờ kia, con sông tràn đầy màu đỏ. Rồi ở độ cao ba nghìn mét, chúng tôi bay ngoặt sang phía sông Chảy, nom thật là đen, đầy bóng tối, mặt trời không dọi tới, và cái cảnh hùng vĩ của rừng rậm, núi cao, khe thẳm bỗng chao đảo và sừng sững dưới chúng tôi. Người ta có thể mang cả một phi đoàn tới ném bom xuống khoảng bao la màu xanh hay xám này mà không để lại dấu vết gì hơn là tung mấy đồng tiền vào một ruộng lúa. Xa xa, trước mặt chúng tôi là một chiếc máy bay lượn như một con mòng. Chúng tôi bay theo nó.
Lượn xong hai vòng bên trên tháp canh và ngôi làng có cây xanh bao bọc, chúng tôi bay vọt lên trong ánh nắng chói chang. Viên phi công (tên là Truan) quay đầu lại phía tôi, nháy mắt: bên trên tay lái là những cần điều khiển khẩu súng máy và bộ phận thả bom. Khi ở vào tư thế sắp lao xuống, tôi cảm thấy bụng thót lại như khi sắp bước vào một cuộc phiêu lưu mới: lần khiêu vũ đầu tiên, bữa chiêu đãi trọng thể đầu tiên, mối tình đầu tiên. Tôi nhớ lại khi dự hội chợ Wembly, chơi trò tụt dốc, khi lên đến đỉnh sắp tụt thì không có cách nào thoát vì bị mắc vào bẫy của trò chơi. Tôi chỉ còn kịp nom thấy kim chỉ ba ngàn mét ở cao kế, thế là bổ xuống. Mắt tôi không nhìn thấy gì nữa, cả người chỉ còn là cảm giác. Tôi bị ép chặt vào lưng người lái, một vật gì nặng ghê gớm như đè chặt vào lồng ngực tôi. Tôi không rõ lúc nào là lúc bom rơi. Sau đó nghe thấy đại liên nổ, mùi thuốc súng đầy khoang máy bay, và càng trở nên cao thì cái sức nặng càng giảm đi trên lồng ngực tôi, bây giờ đến lượt cái dạ dày tụt ra, xoắn trôn ốc mà rơi xuống như một người tự sát lao mình xuống đất. Trong bốn mươi giây, Pyle không tồn tại, ngay nỗi cô đơn cũng không tồn tại. Trong khi lượn một vòng rộng để lên cao, tôi nhìn qua cửa sổ bên, thấy khói đang bay lại phía tôi. Trước lượt bổ nhào lần thứ hai, tôi hoảng sợ, sợ bị nhục, sợ nôn mửa ra lưng người lái, sợ bộ phổi bị lão hóa của tôi không chịu nổi sức ép của không khí. Rồi sau khi bổ nhào lần thứ mười, tôi lại chỉ cảm thấy bực dọc: cuộc thí nghiệm kéo dài quá lâu, đã đến lúc về nhà. Rồi chúng tôi lại vọt lên như một cây nến để tránh luồng đạn đại liên, chúng tôi lại lượn một vòng thật lớn để đánh lạc hướng và cột khói cứ bốc coi. Chung quanh làng đều là núi. Mỗi lần chúc xuống, chúng tôi chỉ có thể theo một con đường, một lối đột phá duy nhất, không có đường khác. Khi bổ lần thứ mười bốn, tôi nghĩ, lúc này hết sợ bị nhục - Nếu bên kia có một khẩu đại bác phòng không thì…". Một lần nữa, chúng tôi lại ngóc lên cao, nơi an toàn, - Có lẽ họ không có đại bác. Bốn mươi phút lượn đối với tôi như một thời gian vô tận, có điều là chúng đã làm cho tôi đỡ khổ vì những nỗi ưu tư của riêng mình. Mặt trời đang lặn khi chúng tôi bay về, thời gian của nhà địa lý đã qua rồi: Sông Đà không còn đen nữa, còn sông Hồng vẫn cho trôi những làn sóng vàng ối.
CHƯƠNG 28
Chúng tôi lại rơi khu rừng với những thân cây cong queo và nứt nẻ, chúc xuống mặt sông, và bay ngang trên cánh đồng bỏ hoang, rồi chiếc máy bay bỗng nhằm thẳng một con thuyền tam bản đang lênh đênh trên mặt nước màu vàng mà lao xuống.
Khẩu đại bác chỉ bắn một quả đạn lửa, và chiếc thuyền tan ra thành nhiều mảnh, bay tung lên rồi rơi xuống như một trận mưa tàn lửa, chúng tôi không cần chờ xem những nạn nhân có ngoi ngóp bơi mong thoát chết không, chúng tôi bay vọt lên và trở về căn cứ. Một lần nữa, như khi ở Phát Diệm, lúc thấy xác đứa nhỏ, tôi lại nghĩ: "Sao mà tôi căm thù chiến tranh thế!". Thật là đáng phẫn nộ khi phải chọn một cái mồi cho thần chết, bay vù qua, chỉ một phát đạn là đủ, và không gặp một sự chống trả nào. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi, sau khi đã đóng góp cái suất nhỏ bé của mình vào tổng số người chết trên đời này.
Tôi cầm lấy ống nghe để hiểu Truand định nói gì.
- Bây giờ bay vòng đi đường khác. Cảnh mặt trời lặn trên những núi đá vôi thật kỳ ảo. Anh thế nào cũng phải khoe với khách cảnh đẹp của trang trại mình.
Trong hơn 100 km, chúng tôi bay theo vệt sáng của mặt trời trên vịnh Hạ Long. Bộ mặt Truand chụp cái mũ như người của sao Hỏa, cúi nhìn những lùm cây đỏ ối chạy dưới kia những ụ và vòm đá xốp, và vết thương của tội giết người không thấy ứa máu nữa.
Tối hôm đó, đại uý Truand cố mời tôi đi tiệm hút, tuy chính hắn không hút. Hắn ưa ngửi thuốc phiện, theo lời hắn, hắn thích cái cảm giác êm ả của nó khi một ngày chấm dứt, nhưng vì nghề nghiệp, hắn không được phép đi xa hơn trong việc tìm sự lắng dịu này. Cũng có dăm sĩ quan hút nhưng họ thuộc về bộ binh. Còn hắn, hắn cần có một giấc ngủ trọn vẹn. Chúng tôi nằm dìa trong một cái vòm nhỏ, trong cả một dẫy vòm giống như phòng ngủ của một ký túc xá, và người Hoa chủ tiệm sửa soạn tiêm thuốc cho tôi. Đó là lần đầu, tôi hút kể từ khi Phượng bỏ tôi. Bên phía đối diện của phòng, một người phụ nữ lai Âu, sau khi đã hút, nằm co đôi chân tuyệt đẹp, đọc một tờ tạp chí in trên giấy láng, và ở trong cái ô cạnh đó, hai người Hoa đứng tuổi bàn chuyện làm ăn, điếu gác một bên, thỉnh thoảng lại uống một hớp nước nhỏ.
- Chiếc thuyền chiều nay là của ai - Tôi hỏi - Nó có làm điều gì hại đâu?
- Biết đâu đấy? - Truand trả lời - Chúng tôi được lệnh thấy cái gì trên các đoạn sông chạy thẳng thì bắn vào cái đó.
Tôi hút điếu thứ nhất. Cố xua đuổi nỗi nhớ những điếu hút ở nhà mình.
- Cuộc ném bom hôm nay - Truand nói tiếp - Không phải là một cuộc ném bom tồi tệ nhất đối với một người như tôi. Họ có thể bắn rơi chúng ta trên ngôi làng. Cả hai bên đều chịu những sự đe doạ ngang nhau. Tôi kinh tởm nhất những vụ ném bom napal. Ném từ trên độ cao 1.000 m, rất an toàn (hắn phác ra một cử chỉ ngao ngán), khu rừng sẽ bốc cháy. Có trời biết được nếu đang ở dưới mặt đất thì người ta thấy được những cái gì. Những kẻ khốn khổ bị thiêu sống, lửa cứ như những đợt sóng dội xuống đầu họ. Lửa ngấm vào họ như nước ngấm. (Hắn lại giận dữ nói tiếp chống lại cả một thế giới không hiểu nổi hắn). Tôi không tiến hành một cuộc chiến tranh nội địa. Anh tưởng tôi đi đánh như vậy cho bọn chủ đồn điền đất đỏ hay sao? Thà ra trước tòa án binh còn hơn! Chúng tôi phải làm mọi kiểu chiến tranh cho các ngài nhưng các ngài đổ hết trách nhiệm lên đầu chúng tôi.
- Còn chiếc thuyền lúc chiều? - Tôi hỏi.
- Cả chiếc thuyền đó nữa. (Hắn nhìn tôi với tay cầm điếu thuốc thứ hai). Tôi thèm được có những cách lẩn trốn thực tế như các anh.
- Anh đâu biết tôi đang lẩn trốn cái gì. Không lẩn trốn cuộc chiến đâu, nó chẳng liên quan gì đến tôi. Tôi không dính vào đó.
- Rồi một ngày nào đó các anh sẽ dính vào tuốt.
- Tôi thì không.
- Chân anh còn tập tễnh đó thôi.
- Họ có quyền bắn vào tôi, nhưng họ đã không bắn. Họ phá một tháp canh. Bao giờ người ta cũng phải phòng ngừa những kẻ đi phá nhà. Ngay cả ở giữa thủ đô nước Anh.
- Rồi một ngày nào đó sẽ xảy ra một việc gì đó. Anh sẽ phải chọn nên đứng về bên nào.
- Không. Tôi sắp trở về Anh.
- Thế còn cái ảnh hôm nọ, anh đã đưa tôi xem?…
- Xin chia buồn.
- Đời là như thế đấy. Người ta chia tay nhau, nhưng vận đỏ lại đến. Việc đó làm tôi tin rằng ở đời còn có công lý.
- Tôi cũng tin là có công lý. Lần đầu tiên tôi ném bom napal, tôi nghĩ: đây là cái làng nơi tôi đã ra đời. Cái nhà này là nhà ông Durba, bạn cố tri của bố tôi, ông chủ lò bánh mì - khi nhỏ tôi rất yêu ông chủ lò bánh mì - tìm cách chạy trốn, kia kìa, ở dưới tôi, giữa những đám lửa do chính tay tôi đốt lên. Những người thuộc phái Visi không ném bom nước mẹ của họ. Tôi thấy tôi tội lỗi hơn họ.
- Thế mà anh cứ tiếp tục.
- Cũng có lúc bị lương tâm cắt rứt. Tôi thì chỉ bị lương tâm giày vò khi đi ném bom napal. Lúc khác tôi nghĩ mình bảo vệ châu Âu. Và anh có biết không, phía bên kia họ có những việc làm ghê gớm.
- Chính vì thế mà tôi không muốn dính vào cái việc này.
- Đây không phải là việc thuộc lý trí hay công lý. Trong một lúc quá bồng bột, chúng ta bị lôi cuốn rồi sau rút ra không được. Chiến tranh, tình yêu… thường người ta cứ đem hai cái đó so sánh nhau. (Cái nhìn buồn bã của hắn chạy qua gian phòng và đọng lại nơi cô gái lại nằm hưởng mọt sự yên tĩnh nhất thời). Tôi mong rằng sự việc chỉ là như thế thôi. Kia là một cô gái phải lựa chọn giữa bên bố và bên mẹ… số phận cô ra sao khi cái sân bay này bị mất? Nước Pháp chỉ là một nửa Tổ quốc của cô ta.
- Sân bay có sắp bị mất không?
- Anh là một nhà báo. Anh hiểu hơn tôi rằng không thể chiến thắng được. Anh hiểu rằng con đường đi Hà Nội đêm nào cũng bị cắt và cài mìn. Anh hiểu rằng mỗi năm chúng tôi mất đứt một khóa sĩ quan đào tạo ở Sansia. Đáng lẽ thua từ năm 1950 rồi đấy. Dlat chỉ vớt vát thêm được hai năm, thế thôi. Nhưng chúng tôi là lính nhà nghề, và chúng tôi phải đánh nhau cho tới khi những nhà chính trị bảo chúng tôi ngừng. Lúc đó, chắc hai bên họp lại để định những điều kiện giống hệt như những điều kiện mà chúng tôi đáng lẽ đạt được ngay từ đầu, và điều đó khiến cho những năm chiến đấu này trở thành cực kỳ vô nghĩa. Cái bộ mặt xấu xí của hắn, khi ném bom đã nháy mắt cho tôi, nay mang một vẻ tàn ác của nhà nghề và giống như một mặt nạ mà ngày lễ Noel trẻ con thường đeo chỉ để hở đôi mắt nhìn anh. Anh không thể hiểu nổi sự phi lý đó. Fowler, anh không phải cùng cánh với chúng tôi.
- Trong đời cũng có những việc khác khiến cho những năm cố gắng trở thành công toi.
Hắn để tay lên đùi tôi, như để bảo vệ cho tôi như hắn là người anh của tôi vậy.
- Tối nay rủ cô kia đi, còn hơn là hút thuốc.
- Tại sao anh biết cô ta sẽ đi?
- Tôi đã ngủ với cô ta, trung uý Peranh cũng vậy. Năm trăm tờ.
- Đắt.
- Ba trăm chắc cũng đi thôi, nhưng trong lúc này chẳng buồn mà cả làm gì.
Tôi theo lời khuyên của anh ta, nhưng thấy không đạt được sự thành cộng nào. Thân thể con người chỉ có thể làm được một số hành động có hạn, mà thân tôi thì đã bị kỷ niệm làm cho thành nguội lạnh. Cái thân thể mà đôi tay tôi được vuốt ve đêm hôm đó tất nhiên không phải chỉ cắn câu vì cái mồi sắc đẹp. Cô ta dùng cùng một loại nước hoa như Phượng và bỗng nhiên, đúng khi tôi sắp ngập vào người cô thì bóng ma của cái gì đó tôi đã đánh mất tỏ ra mạnh dạn hơn, là tấm thân đang nằm dài ra hiến cho tôi. Tôi rời cô ta, nằm ngửa, rồi dần dần, cơn ham muốn nguội đi.
- Xin lỗi nhé - Tôi nói. Và tôi nói tiếp một câu nói dối - Không hiểu sao tôi lại thế.
Cô bạn trả lời tôi một cách dễ thương với một sự thiếu thông cảm đầy dịu dàng:
- Anh đừng lo. Nhiều khi nó thế. Tại thuốc phiện đấy.
- Phải, tại thuốc phiện.
Trời ơi, ước gì đó chỉ là do thuốc phiện mà thôi!
Cái lần đầu tiên tôi trở về Sài Gòn không có ai ra đón, sao mà lạ. Ở sân bay, sao mà tôi muốn có thể nói cho anh lái xe taxi một cái địa điểm khác hơn là phố Catina. Lòng tôi tự hỏi, liệu nỗi đau có vợi đi không so với lúc ra đi? Và tôi cố thuyết phục tôi rằng lòng đã dịu đi rồi đấy. Khi lên tới tầng gác, tôi thấy cửa phòng mở, và tôi như ngừng thở bởi một niềm hy vọng vọng điên rồ. Tôi chầm chậm bước lại cửa phòng. Chừng nào chưa tới cửa, nỗi hy vọng của tôi còn tồn tại. Tôi nghe tiếng ghế cọt kẹt và bước qua ngưỡng cửa, tôi nom thấy một đôi giày, nhưng không phải của phụ nữ. Tôi bước nhanh vào, và thấy Pyle vụng về nhấc cái thân nặng chịch của hắn ra khỏi chiếc ghế bành mà Phượng quen ngồi.
- Chào anh Thomas - Hắn nói.
- Chào Pyle. Làm sao mà vào được nhà thế?
- Tôi gặp Dominge mang thư tín lại cho anh. Tôi đã nói với anh ta cho tôi vào ngồi chờ anh.
- Phượng để quên gì ở đây à?
- Ồ không, nhưng Jo nói rằng anh tới Lãnh sự quán. Tôi nghĩ rằng chúng ta có gì thì nói với nhau ở đây tiện hơn.
- Nói về vấn đề gì?
Hắn phác một cử chỉ lúng túng, như một học sinh phải phát biểu ý kiến trong một buổi lễ chính thức của nhà trường mà không tìm ra được những lời lẽ có vẻ người lớn.
- Vừa qua anh đi vắng à?
- Vâng. Còn anh?
- Ồ, đi nơi này nơi khác một chút.
- Anh vẫn nghịch ngợm với chất nổ dẻo?
Hắn chỉ đáp lại tôi bằng một nụ cười đau khổ.
- Thư từ của anh kia kìa.
Thoáng nhìn tôi đã thấy một lá thư gửi từ tòa báo Lon don và những thư khác trông có vẻ là những bieê lai, một bì thư đề tên người gửi là ngân hàng của tôi.
- Phượng ra sao?- Tôi hỏi.
- Ồ, cô ta vẫn khỏe - Hắn trả lời, môi bỗng khép kín lại như đã lỡ nói quá nhiều.
- Mời anh ngồi, anh Pyle. Tôi xin phép nhìn qua thư gửi từ tòa báo đến xem họ nói gì.
Tôi mở bì thư. Sao mà cái điều không chờ đợi lại đến vào lúc lỡ thời! Ông Tổng biên tập viết rằng ông đã coi trọng lá thư chót với tôi, và do tình hình rối ren ở Đông Dương sau khi Dlad chết và quân Pháp phải rút khỏi Hòa Bình, ông ta hoàn toàn đồng ý với đề nghị của tôi. Ông ta đã cử một biên tập viên tạm thời phụ trách tin đối ngoại và yêu cầu tôi kéo dài thời gian làm việc ở Đông Dương ít ra một năm. Để kết thúc lá thư, ông ta viết một cách hoàn toàn thiếu sự thông cảm, là "vẫn giữ nguyên chỗ cho anh ở đây". Ông ta cứ tưởng như tôi hám công việc, hám tờ báo lắm.
Tôi ngồi xuống trước mặt Pyle và đọc lá thư đến quá muộn. Trong một phút, tôi thấy vô cùng sảng khoái, như khi người ta mới ngủ dậy, chưa kịp nhớ ra điều gì.
- Tin buồn à? Pyle hỏi.
- Không.
Tôi nhầm nghĩ đằng nào cũng không thể xoay chuyển được tình hình. Bản án được coi giảm đi một năm nhưng sao chọi lại được một bản chứng nhận kết hôn.
- Anh chị kết hôn với nhau chưa? - Tôi hỏi.
- Chưa. (Hắn đỏ mặt). Nói thật với anh, tôi mong được nghỉ phép đặc biệt. Như vậy sẽ làm lễ thành hôn ở tại quê nhà, đàng hoàng.
- Cưới ở nhà thì đàng hoàng hơn hay sao?
- Hơn chứ, tôi nghĩ như vậy… thật khó giải thích cho anh việc này, anh Thomas ạ, anh trơ trẽn quá, nhưng tôi làm như vậy để biểu lộ sự kính trọng. Cả bố mẹ tôi cũng sẽ có mặt, tóm lại Phượng chính thức thành một thành viên của gia đình. Điều đó rất quan trọng do quá khứ.
- Quá khứ gì?
- Anh ắt hiểu điều tôi muốn nói. Tôi không muốn để nó sống một mình bên đó với một vết nhơ…
- À, chắc bởi vì anh để cô ta lại bên đó?
- Chắc là như vậy. Bà mẹ tôi là một người đàn bà đáng kính, bà sẽ đưa cô ta đi khắp mọi nơi, giới thiệu cô, sau cùng, anh biết, để cô ta quen dần. Bà sẽ giúp cô chuẩn bị cho tôi một gia đình ấm cúng.
Tôi không rõ nên hay không nên thương hại cho Phượng… cô ao ước biết bao được xem những nhà chọc trời, tượng thần tự do, nhưng cô nào có ngờ dến những việc gì đang chờ cô sau đó: giáo sư Pyle và phu nhân, những bữa ăn sáng tại câu lạc bộ các bà… họ có đi tới dạy cô chơi bài Catana không? Tôi hình dung lại chiếc áo dài trắng của cô, tối đầu tiên gặp nhau ở Đại thế giới, lượn vẻ duyên dáng tuyệt vời trên đôi bàn chân thiếu nữ, và tôi lại hình dung ra cô, một tháng trước đây mặc cả mua thịt tại cửa hàng thịt phố Somer. Liệu cô có thích thú với những cửa hàng thực phẩm nhỏ bé, sạch sẽ và bóng lộn bên nước Anh, ở đó các miếng thịt đều được bọc trong giấy kính, có khi với cả một nhành cần tây. Có thể. Tôi chưa rõ. Điều kỳ lạ là tôi nghe thấy bản thân tôi đang nói cho Pyle nghe điều mà Pyle như đã nói với tôi một tháng trước đây:
- Hãy cư xử với Phượng một cách dịu dàng. Đừng làm cái gì hấp tấp, thô bạo. Cô ta dễ bị tổn thương và sẽ đau khổ đấy, như anh và tôi vậy.
- Nhất định, nhất định rồi, anh Thomas.
- Cô ta mỏng mảnh, bé nhỏ, rất khác với những phụ nữ bên chúng ta, nhưng đừng có nên coi cô như là… một đồ trang sức.
- Lạ thật, anh Thomas ạ, về chiều hướng đi của sự việc, nó ngược hẳn lại với điều dự kiến của chúng ta. Trước khi đến đây, tôi rất sợ cuộc nói chuyện này. Tôi cứ tưởng anh sẽ nổi nóng.
- Tôi đã đủ thời gian để suy nghĩ khi tôi ở miền Bắc. Tôi gặp một người đàn bà… có lẽ đã gặp cái mà anh gặp ở những cô gái làm tiền. Đi được với anh là một điều hay cho cô ta. Còn ở với tôi thì có thể một ngày nào đó, tôi cũng về và để cô ta lại cho một anh chàng như Grand, một người chỉ biết có xác thịt!
- Và không có điều gì cản trở tình bằng hữu của chúng ta, phải không Thomas?
- Không, tất nhiên. Nhưng có điều là tôi không muốn gặp lại Phượng. Cái gì cô để lại trong phòng này là đủ cho tôi rồi. Có lẽ tôi phải đi kiếm một phòng khác… khi nào có thì giờ.
Hắn duỗi chân ra và đứng lên.
- Tôi rất hài lòng, anh Thomas ạ. Không thể nào nói anh hiểu tôi đã hài lòng đến mức nào. Điều này tôi đã nói với anh rồi đấy, tức là tôi rất ân hận rằng không sự không may lại đến với chính anh.
- Nhưng tôi lại hài lòng vì điều này đã đến với anh, Pyle.
Cuộc gặp gỡ đã không theo cái hướng mà tôi đã tính trước: Tuy sự giận dữ có lúc làm tôi đã có những dự kiến nông cạn, nhưng nay chương trình hành động thực sự của tôi đã hình thành. Mặc dầu bị bực vì sự ngây thơ của Pyle, tôi thấy từ nơi sâu kín trong lòng tôi có một quan tòa đã lên tiếng bênh vực cho hắn khi so sánh sự trơ trẽn của tôi với tính lý tưởng hóa, nhưng ý kiến không thể đứng vững của hắn rút ra từ tác phẩm của York Hardin. Tôi có thể có lý khi xét về các hoạt động thực tiễn, nhưng hắn lại có lý vì hắn còn trẻ và trẻ thì hay lầm, và phải chăng hắn là người chồng tốt hơn đối với một phụ nữ trẻ tuổi?
Chúng tôi bắt tay nhau một cách chiếu lệ, nhưng không hiểu có niềm lo ngại nào đó xui tôi đi theo hắn tới tận cầu thang và gọi hắn lại. Có lẽ bên cạnh vị quan tòa lại có cả một nhà tiên tri trong nơi thầm kín của chúng ta, nơi sinh ra những quyết định thật sự.
- Pyle này, đừng có quá tin ở York Hardin.
- York ấy à?
Từ tầng gác dưới, hắn dừng chân và ngẩng đầu lên sửng sốt nhìn tôi.
- Chúng tôi là những nước thực dân già cỗi, nhưng chúng tôi đã có thì giờ học được một vài sự thật. Chúng tôi đã học được rằng đừng có đánh bạc ăn quê diêm. Cái lực lượng thứ ba đó, nó chỉ có trong sách thôi. Tướng Thế chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp trong tay có vài ngàn người, hắn không tiêu biểu cho một nền tảng quốc gia dân chủ nào đâu.
Người ta tưởng Pyle là một người đang nhìn qua khe cửa bên trên một hộp thư, nhìn thấy một kẻ định đột nhập liền sập cửa lại, quyết không cho cái con người khó chơi đó vào nhà. Tôi không nhìn thấy tròng mắt anh ta.
- Tôi không hiểu anh định nói gì, anh Thomas.
- Những quả bom xe đạp. Chỉ là một trò chơi, tuy một người đã mất một chân… Nhưng Pyle này, đừng có dựa vào những người như tướng Thế. Họ không cứu phương Đông này thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản đâu. Chúng tôi biết tỏng họ rồi, họ và đồng bọn nữa.
- Chúng tôi là những ai?
- Là những người thực dân kiểu cũ.
- Tôi cứ tưởng anh không ở về phía nào.
- Tôi không đứng về phía nào, Pyle ạ. Nhưng nếu có ai trong sở của anh nhất định cứ dùng chất nổ chơi, thì cứ để cho Jo chơi. Anh về nước với Phượng đi. Quên hẳn cái lực lượng thứ ba đi.
- Xin anh tin rằng tôi rất coi trọng lời khuyên của anh, anh Thomas - Hắn nói một cách trịnh trọng - Chắc chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau.
- Chắc vậy.
Tuần lễ này tiếp tuần lễ khác trôi qua, nhưng không rõ sao tôi chưa tìm được một căn nhà ở khác. Không phải vì thiếu thì giờ.
Một lần nữa, cơn khủng hoảng hàng năm của cuộc chiến đã qua: Ở miền Bắc mưa phùn ẩm ướt và ngột ngạt đã về, quân Pháp đã rút khỏi Hòa Bình, Bắc Bộ đã qua mùa hành quân vì thóc gạo, và Lào cũng qua mùa hành quân vì thuốc phiện. Mình Dominge có thể dễ dàng đảm nhiệm đưa tin về các sự kiện ở miền Nam. Tôi tự bắt tôi phải đi xem căn hộ tại một ngôi nhà gọi là kiểu mới (nơi làm cuộc triển lãm Paris 1934) tận đầu phố Catina, gần khách sạn Continental. Đó là nhà ở tạm thời của một chủ đồn điền cao cu sắp về nước. Ông ta muốn bán gọn cả nhà lẫn đồ đạc và các thứ trang trí bầy biện bên trong. Những bức tranh phần lớn là phiên bản tranh của phòng tranh Paris từ năm 1880 tới năm 1890. Nhân tố chung quan trọng nhất cho các bức tranh đó là một người đàn bà vú cực kỳ to, tóc búi rất cầu kỳ, các tấm mút-sơ-lin che người một cách hớ hênh bao giờ cũng để lộ bộ mông đồ sộ với cái rãnh, nhưng bao giờ cũng phủ kín bãi chiến trường. Trong phòng tắm, nhà chủ đồn điền tỏ ra mạnh dạn hơn trong khi chọn các bức phiên bản tranh của Rov.
- Ông là một nhà say mê nghệ thuật? - Tôi hỏi.
- Ông ta trả lời tôi bằng một nụ cười thỏa mãn, y như hai chúng tôi là đồng lõa. Ông ta béo sệ, ria đen, đầu hói.
- Những bức tranh có giá trị nhất của tôi, tôi để ở Paris - Ông chủ nói.
Nhà còn có một cái đựng tàn thuốc lá rất lớn và kiểu rất lạ, theo hình một người phụ nữ khỏa thân đội cái bát trên đầu, và những đồ sứ mỹ nghệ vẽ những thiếu nữ trần truồng ôm mấy con cọp. Lạ nhất là tượng một phụ nữ trần tới thắt lưng đang đi xe đạp. Trong phòng ngủ trước chiếc giường rất rộng treo một bức tranh sơn dầu, lồng khung kính, vẽ hai người thiếu nữ, đang ngủ với nhau. Tôi hỏi giá căn nhà không kể bộ sưu tập tranh tượng, nhưng ông chủ muốn bán gộp tất cả với nhau.
- Ông không phải là nhà sưu tập à? - Ông ta hỏi.
- Thú thật là không.
- Tôi có một số sách, có thể để lại với các thứ khác, chỉ trừ các loại này mà tôi định đem về Pháp.
Ông ta mở cái tủ khóa kín và chỉ cho xem sách cảu ông: Có những bộ sách đắt tiền có minh họa như Nana, Alfrodit, Cô gái tự do và cả nhiều tác phẩm của Paul Dcok. Tôi toan hỏi thăm ông có định tự bán mình theo với bộ sưu tập không vì chủ và đồ rất hợp với nhau. Ông ta cũng là của "thời đại".
- Khi người ta sống một mình ở vùng nhiệt đới - Ông ta nói - thì bộ sưu tập là người bạn đời của anh.
Tôi nghĩ tới Phượng, chính vì không có cô ở đây. Bao giờ cũng vậy, khi người ta trốn vào trong bãi sa mạc thì sự yên lặng lại vang lên như hét vào tai.
- Tôi không tin tòa báo của tôi cho phép mua một bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật.
- Không hề gì, tôi sẽ không ghi vào hóa đơn.
Tôi hài lòng vì Pyle chưa được gặp ông này, ông ta có bộ mặt đúng theo kiểu "thực dân cũ" như Pyle quan niệm, bản thân bộ mặt đó cũng đã khiến không ai muốn lại gần. Khi ra khỏi nhà ông ta thì đã mười một giờ rưỡi, và tôi xuống tiệm Pavillon uống một chai bia ướp lạnh. Pavillon là nơi hẹn hò của các bà người Âu, Mỹ, chắc hẳn không gặp Phượng ở đây. Sự thật tôi biết rõ Phượng lúc này đang ở đâu. Cô không phải là người đàn bà thay đổi thói quen. Bởi vậy, khi ra khỏi nhà ông chủ đồn điền tôi sang hè bên kia để tránh cửa hàng bán thức ăn làm bằng sữa, nơi sáng nào Phượng cũng tới uống đại mạch pha sôcôla. Ở bàn bên cạnh tôi, hai cô gái Hoa Kỳ trẻ, sạch sẽ tinh tươm tuy trời nắng bức, đang uống kem cốc. Người nọ và người kia đều đeo bên vai trái những cái xắc giống nhau có gắn huy hiệu chim đại bàng đằng đồng. Đôi cặp chân của họ dài và thon, cũng giống nhau như hệt, họ còn giống nhau ở đôi mũi hơi hếch. Họ ăn kem một cách chăm chú như đang làm một cuộc thí nghiệm trong phòng học. Tôi tự hỏi không hiểu họ có phải là đồng sự của Pyle không và tôi muốn họ cũng cút về nước nốt. Ăn xong, một cô nhìn đồng hồ đeo tay.
- Phải đi thôi - Cô ta nói - để được an toàn.
Tôi tự hỏi, như để giết thì giờ, xem các cô có thể những loại hẹn hò nào.
- Waren đã bảo không thể ở đây quá mười một giờ hai mươi lăm.
- Quá một chút rồi đấy.
- Rất muốn ở lại. Không hiểu là việc gì. Đằng ấy cô hiểu không?
- Không rõ lắm. Nhưng Waren đã dặn là phải đi.
- Cậu có tin sẽ có một cuộc biểu tình không?
- Mình đã xem nhiều biểu tình quá rồi! - Cô kia đáp với vẻ mệt mỏi của những du khách đã chán ngấy với việc tham quan các kiểu nhà thờ.
Cô ta đứng lên, đặt trên bàn tiền mua kem. Trước khi rời quán, cô nhìn quanh một vòng và những tấm gương phản ánh lại dưới tất cả góc độ nét mặt nhìn nghiêng đầy tàn nhang của cô.
Trong phòng, ngoài tôi ra, chỉ còn lại một bà nạ dòng người Pháp, mặc lôi thôi, đang hóa trang lại bộ mặt một cách cẩn thận nhưng hoàn toàn vô ích. Hai cô Mỹ kia chỉ cần thoa một lớp phấn mỏng, điểm qua chút son, đưa qua cái lược một lượt. Trong thoáng lát, các cô nhìn tôi, đó không phải là một cái nhìn của người phụ nữ, mà là cái nhìn của một người đàn ông, nhìn thẳng, chỉ lưỡng lự một giây trước khi quyết định một việc gì. Rồi cô ta đột ngột quay sang phía cô bạn.
- Phải chuồn thôi - Cô ta nói.
Tôi lơ đãng nhìn theo hai cô sánh vai nhau đi ra ngoài đường đang nóng bỏng dưới nắng. Không thể tin rằng một cô nào đó sẽ làm mồi cho một cuộc cuồng si, không thể liên hệ hình ảnh các cô với cảnh chăn gối tơi bời, ướt đầm mồ hôi sau một cuộc vật lộn trong yêu đương. Không biết khi đi ngủ, các cô có mang theo thuốc chống hôi nách vào theo không? Trong một phút tôi thoáng đâm ra thèm muốn cái thế giới vô trùng của họ, khác xa với thế giới nơi tôi đang sống… Bỗng nhiên, không sao hiểu nổi, thế giới đó tan ra từng mảnh. Hai trong số gương treo trên tường bay lại phía tôi và rơi xuống nửa đường. Bà người Pháp ăn mặc lôi thôi ngã ngồi ra giữa đống bàn ghế bị đổ gẫy. Hộp phấn của bà mở nắp sẵn, nguyên vẹn bay đến đỗ trên đầu gối tôi, và lạ kỳ thay, tôi vẫn ngồi nguyên nơi cũ, tuy chiếc bàn của tôi bay đến tận nơi bàn ghế đổ gẫy vây quanh bà. Một thứ tiếng lạ lùng, tiếng nước máy chảy đều đều, vang lên đầy quán, ngoảnh nhìn trước quầy rượu, tôi thấy hàng dẫy chai vỡ dốc hết rượu ra làm thành một dòng nước nhiều màu, rượu Bordeaux đỏ, rượu Sartor màu xanh, rượu hồi màu vàng đục lênh láng mặt đất. Bà người Pháp bình tĩnh và và thẳng lưng lên đưa mắt tìm hộp phấn của bà. Tôi đưa bà hộp phấn và bà vẫn ngồi trên đất, cám ơn tôi một cách trịnh trọng. Tôi thấy tiếng nói của bà rất nhỏ. Tiếng nổ quá gần làm màng nhĩ tôi chưa hồi lại được như cũ.
Tôi bực bội nghĩ: lại một kiểu đùa nhả với chất nổ. Bây giờ tôi phải viết thế nào đây để ông Heng được hài lòng? Nhưng khi đi đến phố Ganie, nhìn thấy những đám khói nặng nề bốc lên, thì tôi hiểu lần này không phải là một chuyện đùa nữa. Khói bốc ra từ những chiếc xe đang cháy dở tại bãi chứa xe trước nhà hát quốc gia, những mảnh xe vỡ ngổn ngang khắp quảng trường và một người cụt chân nằm cạnh bồn cây cảnh giật nẩy lên từng cơn. Đám đông xô lại từ phố Catina và đại lộ Bona. Tiếng cảnh binh, xe cứu thương kéo chuông liên hồi, xe cứu hỏa dội vào đôi tai còn ù đặc của tôi. Trong một lúc, tôi quên phứt rằng Phượng lúc này chắc đang ở hiệu sữa phía bên kia quảng trường. Làn khói không cho tôi nhìn sang tới nơi đó được.
Tôi tiến lại quảng trường, nhưng một cảnh binh ngăn lại. Cảnh binh đã lập một hàng rao chặn các ngả vào để khỏi ùn người lại, và người ta đã nom thấy những chiếc cáng chở người ra. Tôi van vỉ người cảnh binh cản đường:
- Cho tôi vào. Tôi có quen một người ở đó.
- Xin lùi ra - Hắn nói - Ở đây ai cũng nói là có người quen.
Hắn né để một ông cố đạo vào, tôi định đi theo nhưng người cảnh binh kéo tôi lại. Tôi nói: "Tôi đại diện cho báo chí", vừa nói vừa tìm mãi chiếc ví đựng thẻ nhà báo, nhưng mãi không thấy hay là để quên ở nhà?
- Ít nhất ông cũng cho tôi biết cửa hiệu bán sữa có bị làm sao không? - Tôi hỏi.
Khói đã tan dần, tôi cố nhìn xem, nhưng đám người dày đặc quá, người cảnh binh nói điều gì tôi không nghe rõ.
- Ông bảo gì?
- Hắn nhắc lại:
- Không rõ. Xin lui ra. Ông cản lối những người khiêng cáng đấy.
Hay là tôi đánh rơi chiếc ví ở quán Pavillon? Quay lại phía quán để tìm, tôi nom thấy Pyle. Anh ta gọi to:
- Thomas!
- Pyle, trời ơi, anh có giấy thông hành đặc biệt của lãnh sự quán không? Phượng đang ở hiệu sữa.
- Không đâu! Không đâu - Hắn đáp.
- Có đấy, Pyle. Bao giờ cô ta cũng đi uống ở đó, lúc mười một giờ. Chúng ta phải đi tìm cô ấy.
- Cô ấy không có ở đấy đâu, anh Thomas ạ.
- Sao anh biết? Thông hành của anh đâu?
- Tôi đã báo trước cho cô rằng không được đi đến đó.
Tôi quay lại phía người cảnh binh, định bụng xô anh ta sang một bên và chạy bừa vào. Có lẽ anh ta sẽ nổ súng bắn tôi, nhưng mặc kệ. Bỗng câu "đã báo trước" đập vào nhận thức của tôi. Tôi nắm tay Pyle nói:
- Báo trước à? Anh nói gì? Báo trước?
- Tôi đã bảo cô sáng nay không được đi tới đó.
Những mảnh rời của trò chơi chắp hình được xếp lại trong óc tôi. Tôi hỏi:
- Còn Waren? Waren là ai? Hắn cũng đã báo trước cho hai cô gái?
- Tôi không hiểu anh nói gì?
- À, ra không được để cho người Mỹ nào là nạn nhân phải không?
Một chiếc xe cứu thương từ phố Catina lách tới, người cảnh binh tránh ra cho xe vào quảng trường. Còn người cảnh binh thứ hai đang mắc cãi cọ với ai đó. Tôi đẩy Pyle đi trước, và chúng tôi vào được trước khi họ kịp cản lại.
Chúng tôi đi giữa một đám đông buồn xỉu, cảnh binh ngăn được những người ở chỗ khác xô tới, nhưng không xua đuổi được những người sống sót và những người tới lúc đầu. Những thày thuốc bận rộn không có thể lo cho những người đã chết, và những người đã chết cũng có thể là tài sản của một ai đó, giống như một chiếc ghế là tài sản của anh vậy. Một người đàn bà ngồi xệp trên mặt đất, để trên đùi mình phần còn lại của đứa con nhỏ của bà, vì một sự giữ ý nào đó, bà còn lấy chiếc nón rộng vành của nông dân đậy lên người nó. Bà ta ngồi không động đậy, không nói một lời. Điều đập mạnh vào trí óc tôi trên quảng trường này là sự im lặng. Nó làm tôi nhớ tới một nhà thờ tôi vào giữa lúc làm lễ misa, chỉ nghe tiếng những người đang làm lễ, trừ mấy người Âu lác đác thút thít hay cầu nguyện, rồi lại rơi vào sự im lặng, y như những người đó hổ thẹn trước sự khiêm nhường, nhẫn nại, chỉnh tề của những người châu Á. Bên rìa công viên, thân người cụt chân vẫn nẩy lên như một con gà bị chặt đầu. Đoán theo chiếc áo đang mặc thì anh ta hẳn là một người kéo xe tay.
- Ghê quá - Pyle nói (Hắn nhìn xem cái gì làm ướt đôi giầy hắn và hỏi một cách ghê tởm) - Cái gì thế này?
- Máu đấy - Tôi đáp - Anh chưa nhìn thấy máu bao giờ à?
- Phải đưa đánh giầy trước khi vào gặp ngài bộ trưởng.
Tôi không tin rằng hắn hiểu hết ý nghĩa câu hắn vừa nó. Hắn chứng kiến lần đầu một cuộc chiến tranh thực sự, khi một mình xuôi thuyền đi tới Phát Diệm, hắn đã bị một giấc mơ của thời niên thiếu thúc đẩy, vả lại dưới con mắt hắn, người lính sống hay chết có gì đang quan tâm.
- Anh xem - Tôi hỏi - Một thùng Diolacton đã có thể gây ra những điều gì, khi người ta giao nó cho những kẻ không nên giao. (Tôi đặt tay vào vai hắn, bắt hắn quay ra nhìn chung quanh). Giờ này đúng là lúc quảng trường đầy đàn bà, trẻ em, giờ họ đi mua bán. Tại sao lại chọn đúng giờ này?
Hắn trả lời một cách thảm hại:
- Đáng lẽ phải có một cuộc diễu binh.
- Và các anh định đánh trúng vài đại tá chứ gì? Nhưng Pyle ơi, hôm qua người ta đã quyết tâm hoãn cuộc diễu binh rồi.
- Thế mà tôi không biết.
- Anh không biết ư? (Tôi đẩy hắn bước vào một vũng máu, nơi người ta vừa khiêng một chiếc cáng đi). Anh cần nắm vững tin hơn.
- Hôm qua tôi không có mặt tại Sài Gòn - Hắn vừa nói, vừa cúi xuống đôi giầy - Đáng lẽ họ phải huỷ việc này đi.
- Huỷ để mất cái điều vui thích như thế này ư? Anh tưởng Tướng Thế bỏ qua cơ hội này để chứng minh sự tồn tại của mình ư? Hiệu quả lớn hơn việc đánh vào một cuộc diễu binh đấy. Trong thời chiến, việc đàn bà, trẻ con bị chết gây tiếng vang lớn hơn lính tráng chết, báo chí sẽ làm ồn hơn. Việc này sẽ làm dư luận thế giới hết sức chú trọng. Anh đã làm Tướng Thế nổi bật lên đấy, xin cứ tin chắc là như thế, anh Pyle ạ. Anh hãy nhìn xem cái lực lượng thứ ba và cái nền dân chủ quốc gia đang nhoe nhoét trên chiếc giầy bên phải của anh kia. Đi mà kể cho cô Phượng nghe câu chuyện về những người hy sinh anh dũng của anh… Kia kìa, mấy chục đồng bào của cô ta từ nay không cần ai chăm lo cho họ nữa.
Một ông cố đạo nhỏ bé bụng phệ bước nhanh qua, tay bê một cái gì có khăn phủ kín trên một cái khay. Pyle yên lặng một lúc và tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa. Thực ra tôi đã nói nhiều quá rồi. Anh ta tái xám mặt, người như muốn sụp đổ, như sắp ngất, và tôi nghĩ, nói để làm gì nhỉ? Anh ta bao giờ cũng sẽ ngây thơ như vậy. Người ta không thể lên án những kẻ ngây thơ, họ không chịu tội với lương tâm họ. Tất cả những điều có thể làm là theo dõi họ sát sao, hoặc là trừ khử họ đi. Ngây thơ là một sự điên rồ.
- Tướng Thế không bao giờ làm việc này đâu! - Hắn nói, tôi tin chắc rằng ông ta không bao giờ làm. Hẳn có kẻ nào làm, ông không rõ. Bọn cộng sản…
Thiện chí và sự ngu dốt của Pyle đã là một áo giáp không thể xuyên thủng nổi. Tôi để mặc hắn đứng đó và đi ngược phố Catina lên tới chỗ có một ngôi nhà thờ lớn màu hồng xấu ghê gớm sừng sững chắn ngang. Tín đồ đã lớp lớp đổ vào đó, chắc là họ tìm cách làm vững lòng mình bằng cách cầu người chết phù hộ cho những người vừa bị chết.
Khác với những người đó, tôi lại có lý do đầy đủ để mang ơn, vì lẽ Phượng còn sống. Phượng đã chẳng được "báo trước" rồi sao? Nhưng tôi lại nhớ tới cái thân người ở vườn hoa, cái đứa nhỏ trên đùi mẹ. Họ không được báo trước vì họ không phải là những người quan trọng. Và nếu cuộc diễu binh cứ tiến hành thì họ vẫn cứ có mặt ở đó, vì tò mò, để xem những người lính, để nghe những bài diễn văn, để tung những bông hoa. Một quả bom cỡ hai trăm bảng Anh không biết lựa chọn mục tiêu. Bao nhiêu đại tá chết để biện bạch cho việc giết một em bé, một phu xe, khi người ta đang còn mải xây dựng một mặt trận quốc gia dân chủ? Tôi gọi một chiếc xe xích lô gắn máy để chở đến cảng Mỹ Tho.
CHƯƠNG 29
Tôi đưa tiền để Phượng rủ bà chị đi xem chiếu bóng, như vậy để cô khỏi dự vào cuộc nói chuyện giữa chúng tôi. Tôi ăn cơm tối với Dominge và trở về phòng đợi Vigo, hắn đến đúng mười giờ.
Hắn xin lỗi vì sẽ không uống gì vì mệt quá, chỉ cần một ly rượu là ngủ liền. Hôm nay, hắn quá bận.
- Lắm vụ giết người và đột tử lắm à?
- Không. Ăn cắp vặt và tự sát. Những con người đó mê đánh bạc, và khi đã nướng hết cả thì tự vẫn. Có lẽ tôi không bao giờ vào làm cảnh sát, nếu tôi biết trước phải mất nhiều thì giờ như thế trong các nhà xác. Tôi không ưa mùi amoniac. À, có lẽ anh cho tôi uống bia đi.
- Xin lỗi, tôi không có tủ lạnh.
- Không như ở nhà xác. Thế thì làm một whisky Anh vậy.
Tôi nhớ lại cái đêm tôi xuống nhà xác với hắn, khi người ta kéo ra cái xác Pyle trên một tấm khay lớn, nó trượt ra như một cái ngăn đựng miếng đá của một tủ lạnh.
- Thế anh không về nước à? - Hắn hỏi.
- Anh đã kiểm tra lại rồi chứ?
- Phải.
Tôi cầm cái cốc rượu giơ lên để hắn thấy thần kinh tôi vẫn vững.
- Vigo này, tôi mong anh nói tôi nghe tại sao anh cho tôi đã đóng một vai trò nào đó trong cái chết của Pyle đi. Vì một động cơ nào chăng? Anh tưởng tôi muốn chiếm lại Phượng ư? Hay là để trả thù vì tôi đã mất Phượng?
- Không. Tôi đâu đến nỗi ngu như vậy. Khi coi ai là kẻ thù thì người ta không lấy những sách của họ để làm kỷ vật. Tôi nom thấy một cuốn sách trên giá: "Vai trò của Phương Tây". York Hardin là ai?
- Đấy là con người anh ta đang truy lùng đấy, Vigo ạ. Chính hắn đã giết Pyle… từ đằng xa.
- Tôi không hiểu anh định nói gì.
- Đấy là một nhà báo thuộc loại siêu đẳng… người ta gọi họ là phóng viên chuyên về đối ngoại. Hắn tóm được một quan điểm, rồi bóp méo mọi tình hình để vận dụng vào quan điểm của mình. Pyle đến đây với chúng ta, nhiễm đầy quan điểm của York Hardin. Hardin chỉ ở đây có một lần, một tuần lễ, trên con đường đi từ Bangkok tới Tokyo. Pyle đã mắc sai lầm là đem thực hành quan điểm của hắn ta. Trong sách của mình, Hardin nói tới một lực lượng thứ ba, Pyle đã lập cái lực lượng đó… với một tên cướp quèn, trong tay có hai nghìn bộ hạ và hai con hổ đã được thuần hóa. Anh chàng Pyle như vậy là đã đứng hẳn về một phe.
- Còn anh có khi nào đứng về một bên không?
- Tôi đã cố giữ mình.
- Nhưng đã không giữ nổi, phải không Fowler?
Không hiểu sao tôi lại nhớ tới đại uý Truan và tới cái đêm cùng sống với nhau mấy năm trước kia, hình như tại một tiệm thuốc phiện ở Hải Phòng. Anh ta đã nói gì với tôi nhỉ? Tới sự tất yếu là mọi người chúng ta sớm muộn cũng phải đứng về một phía nào đó trong lúc xúc động.
- Đáng lẽ anh phải là một vị cha cố giỏi, Vigo ạ - Tôi nói - Trong lòng anh có cái gì đó khiến anh tin rằng người ta dễ xưng tội… cứ giả dụ người ta có tội để mà xưng đi.
- Tôi có cần ai xưng tội bao giờ đâu.
- Nhưng chắc anh đã nhận được những lời xưng tội.
- Thỉnh thoảng.
- Phải chăng công việc của anh, cũng giống như việc một linh mục, là hiểu biết và thông cảm không gây ra sự phản ứng? "Thưa ông thám tử, tôi phải nói rõ với ông tại sao tôi đã đập vỡ sọ bà cụ già" - Phải đấy, Gustavo, anh hãy thong thả rồi nói cho tôi nghe tại sao".
- Anh thật có một óc tưởng tượng kỳ cục. Nhưng này, anh không uống à, Fowler?
- Thật là dại dột cho một kẻ giết người lại say sưa với một sĩ quan an ninh.
- Có bao giờ tôi nói anh là một kẻ sát nhân đâu?
- Nhưng cứ giả dụ là rượu vào vào kích động ý muốn xưng tội ở trong ngay một người như tôi, thì sao? Trong nghề nghiệp của anh không có điều quy ước của phòng nghe tội là phải giữ kín những điều đã được xưng ra.
- Khi người ta đã xưng tội, thì ít khi người ta cần được người nghe giữ kín, ngay khi xưng tội với một vị linh mục. Người đó bị những động cơ khác thúc đẩy.
- Động cơ đó là nhu cầu làm mình trở nên trong sạch chăng?
- Không nhất thiết. Đôi khi mình muốn sáng suốt nhìn lại mình. Đôi khi nói dối mãi cũng mệt. Anh không phải là kẻ giết người, nhưng tôi muốn biết tại sao anh đã dối tôi. Anh đã gặp Pyle cái đêm hắn bị giết.
- Điều gì làm anh tin như vậy?
- Tôi không tin anh đã giết. Nếu giết thì đâu anh phải dùng đến một lưỡi lê gỉ.
- Gỉ à?
- Đó là những chi tiết mà một cuộc nổ xét nghiệm tử thi cho thấy. Vả lại tôi nói với anh rằng Pyle không chết vì vết thương. Chết vì bùn sông Đa Kao. (Hắn chìa cốc ra cho tôi rót đầy Whisky). Bây giờ ôn lại sự việc một chút nhé. Anh đã uống rượu ở khách sạn Continental tan vào sáu giờ mười phút.
- Đúng.
- Và tới sáu giờ bốn lăm anh nói chuyện với một báo khác ngoài cửa rạp Magestic?
Đúng. Với Uynkin. Anh Vigo, tôi đã kể lại với anh tất cả những điều đó, ngay cái đêm vụ án.
- Đúng. Từ đó tôi đã kiểm tra lại. Thật kỳ lạ là anh nhớ được những chi tiết nhỏ nhặt như vậy.
- Tôi là phóng viên mà, anh Vigo.
- Có lẽ về giờ giấc thì không đúng hẳn như vậy đâu, nhưng có ai có thể buộc tội anh là đã lầm mất mười lăm phút về việc này, hay mười phút về việc khác, phải không anh. Anh cũng không có lý do gì để ngờ rằng giờ phút lại quan trọng đến thế. Vả lại, nếu anh nói chính xác đến tuyệt đối thì lại đáng nghi đấy.
- Nói không đúng à?
- Không hoàn toàn đúng. Anh nói chuyện với Uynkin lúc sáu giờ mười lăm cơ.
- Nghĩa là mười phút sau.
- Đúng thế. Như tôi đã nói. Và sáu giờ vừa điểm thì anh đã tới Continental.
- Đồng hồ của tôi thường chạy nhanh chút đỉnh - Tôi nói - Bây giờ anh chỉ mấy giờ?
- Mười giờ tám phút.
- Đồng hồ tôi chỉ mười giờ mười. Xem đây này.
Vigo không cần nhìn kỹ.
- Vậy lúc anh nói chuyện với Uynkin phải là sáu giờ năm mươi lăm, nếu cứ bằng vào đồng hồ anh. Vậy là một sự sai lầm đáng kể chứ? Đúng không?
- Có lẽ lúc đó tôi đã lấy lại giờ trong đầu óc tôi. Có lẽ tôi đã thực sự lấy lại giờ trên đồng hồ hôm đó. Điều này có thể xảy ra.
- Điều làm tôi ngạc nhiên (xin cho tôi thêm nhiều nước hơn, anh pha cốc này nhiều rượu quá đối với tôi) là xem anh có bực mình với tôi hay không. Thật chẳng thú vị chút nào khi bị tra hỏi như tôi tra hỏi anh.
- Tôi thấy thế lại ly kỳ như một truyện trinh thám vậy. Và rút cuộc anh đã biết là tôi không giết Pyle, chính anh đã nói vậy.
- Tôi biết rõ anh không chứng kiến việc người ta sát hại Pyle.
- Tôi tự hỏi xem anh hy vọng tìm ra điều gì khi chứng mình rằng tôi đã nói sai mất mười phút lúc này, năm phút lúc khác.
- Vì như thế là còn chút thời gian trống.
- Vậy anh cho rằng trong khoảng thời gian trống đó, tôi đã làm gì?
- Pyle đã tới thăm anh.
- Vì đâu anh cố tìm ra điều đó?
- Vì có việc về con chó.
- Và vì việc chân nó có dính bùn.
- Không phải là bùn mà là xi măng. Anh biết, đêm đó khi chạy theo Pyle, tại vài chỗ nó đã dẫm vào xi măng còn ướt. Tôi mới nhớ lại rằng ở tầng trệt nhà anh thợ nề đang làm việc. Hôm tới thăm anh, tôi đã gặp họ ở nước này người ta làm việc tới khuya.
- Tôi tự hỏi, trong không biết bao nhiêu nhà có thợ nề đang làm và xi măng chưa khô. Họ có nhớ là có thấy con chó không?
- Tất nhiên tôi có hỏi họ. Nhưng nếu có nhớ họ cũng chẳng nói: tôi là cảnh sát mà.
Hắn im lặng và ngả lưng ra sau, tựa vào lưng chiếc ghế bành, mặt đăm đăm nhìn cốc rượu. Tôi có cảm giác rằng hắn vừa thấy mình choáng váng bắt gặp sự giống nhau giữa hai việc nào đó và ý nghĩa của hắn lúc này đang chơi vơi tận một nơi xa, xa lắm. Một con ruồi bò trên bàn tay, nhưng hắn không xua đi, y như Dominge trong trường hợp nào vậy. Tôi có cảm giác đứng trước một sức mạnh bất động và sâu lắng. Nếu hiểu được hắn thì tôi cho rằng có lẽ hắn đang cầu nguyện.
Tôi đứng lên và kéo chiếc rèm, đi vào trong buồng ngủ. Tôi không có lý do gì để vào buồng, nếu không phải chỉ để trong một lát trốn tránh sự im lặng ngự trị trên chiếc ghế bành đó. Những cuốn sách tranh của Phượng đã trở về trên giá. Cô ta cắm giữa những lọ đựng các mỹ phẩm của cô một bức điện của tôi, chắc là một mệnh lệnh nào từ tòa soạn gửi tới. Tôi lúc này không hứng thú bóc xem chút nào hết. Tất cả đều y như trước khi Pyle đến. Những căn phòng không thay đổi những đồ trang trí ở nguyên nơi chúng tôi đã xếp đặt: duy chỉ có con tim là rệu rã đi.
Tôi trở lại phòng khách và Vigo đưa cốc rượu lên miệng.
- Tôi chẳng có gì để nói với anh cả - Tôi nói - chẳng có gì.
- Vậy thì tạm biệt anh nhé. Tôi tin rằng tôi sẽ không trở lại làm phiền anh đâu.
Ra tới cửa, hắn lại trở vào, như hắn không can tâm từ bỏ hết mọi hy vọng - hy vọng của hắn hoặc hy vọng của tôi.
- Hôm đó sao anh đi xem một cuốn phim lạ kỳ làm vậy? Đối với anh thì thật lạ kỳ. Tôi không thể tim được rằng anh lại tìm xem một cuốn phim lịch sử. Phim gì nhỉ? Robin Hood à?
- Scaramuster, tôi nghĩ vậy. Tôi cũng phải giết thì giờ chứ. Và khi đó tôi đang cần lãng quên đi.
- Cần lãng quên?
- Chúng ta ai mà chẳng có những nỗi buồn phiền riêng tư của mình, anh Vigo - tôi làm ra vẻ chăm chú giải thích.
Khi Vigo đi rồi, tôi còn được một giờ trước khi Phượng về để được một con người đang sống làm bầu bạn. Thật lạ kỳ là việc Vigo tới thăm lại làm cho tôi xao xuyến đến thế. Tôi có cảm giác như được một nhà thơ đem tác phẩm lại nhờ tôi phê bình, nhưng tôi đã sổ toẹt đi một cách hờ hững. Tôi là một con người không có một thiên hướng gì - người ta không thể nghiêm túc coi nghề làm báo là một thiên hướng - nhưng tôi có thể nhận ra thiên hướng của người khác. Nay thấy Vigo đã ra về để hoàn tất bản hồ sơ còn chưa đầy đủ của mình, tôi ân hận rằng đã chưa đủ can đảm để gọi anh ta lại mà nói: "Anh đã thấy sự thật. Tôi đã gặp Pyle cái đêm hắn ta chết".
Khi đi sang bến cảng Mỹ Tho, tôi gặp những chiếc xe cứu thương đi từ chợ Mỹ Tho tới quảng trường phố Gacnie.
Người ta gần như có thể đo được tốc độ của sự lan truyền tin tức nhờ ở vẻ mặt của những người đi đường. Những người tôi gặp lúc đầu còn đem cặp mắt thăm dò và lo âu nhìn những ai như tôi từ phía quảng trường đi lại. Khi vào đến Chợ Lớn, tôi đã đi khỏi vòng lan tỏa của tin đồn: cuộc sống vẫn náo nhiệt như mọi ngày, không hề ngừng, không ai biết việc gì xảy ra.
Tôi tìm thấy kho hàng của ông Chu, lên tới tận phòng ông ở. Không có gì thay đổi so với lần trước tôi tới thăm. Con mèo và con chó vẫn nhảy từ sàn nhà lên đống hộp và từ đó lên những chiếc vali, giống như hai con mã đuổi nhau trên bàn cờ mà không con nào bắt được con nào. Thằng bé con vẫn lê la dưới đất, và hai ông già vẫn chơi mạt chược. Chỉ vắng mặt mấy anh chị thanh niên. Khi tôi vừa xuất hiện ở cửa, một người đàn bà đã đứng lên rót trà mời tôi. Bà cụ già ngồi trên giường vẫn nhìn đôi bàn chân của mình.
- Xin hỏi ông Heng - Tôi nói.
Tôi lắc đầu không uống chè, tôi chẳng muốn dùng hết tách này đến tách khác thứ nước uống đắng và thiếu hương vị đó.
- Thế nào tôi cũng gặp ông Heng.
Không có cách nào làm cho người nhà hiểu tôi cần gặp ai một cách gấp gáp như thế, nhưng có lẽ việc tôi khăng khăng không chịu uống trà đã làm họ lúng túng. Hay có lẽ đôi giày của tôi cũng như giày Pyle bị dính máu chăng? Dù vì lẽ gì nữa, sau vài phút, một người đàn bà dẫn tôi ra khỏi phòng, xuống cầu thang, đi dọc hai dẫy phố chật ních người qua lại dưới các biển tên hiệu, và để tôi đứng trước một cửa hàng bán những chiếc tiểu làm bằng đá, loại cửa hàng này bên nước của Pyle người ta gọi là những "salon tang tóc".
- Ông Heng, ông Heng - Tôi nói vậy với một người Hoa Kiều nhiều tuổi đứng ở cửa.
Nơi này thật đáng là nơi dừng chân của một ngày, sáng xem những tranh dâm ô của vị chủ đồn điền, trưa thấy trong công viên những thi hài của người chết oan. Có tiếng gọi của người nào đó từ trong nhà, cụ già người Hoa né ra để tôi vào.
Ông Heng ra đón tôi một cách niềm nở và mời tôi vào một phòng hẹp và sâu trong nhà, nơi đây có những hàng ghế xếp dọc tường, những chiếc ghế đen bóng, chạm trổ, bất tiện, mà ta thường thấy bày trong các phòng chờ của người Hoa, không có ai ngồi và không có ai thích ngồi vào đó. Nhưng lần này tôi nghĩ vừa có người ngồi trên ghế, vì trên mặt bàn còn bày năm chiếc uống trà mà hai chiếc mới còn vơi.
- Tôi đến làm ngưng một cuộc họp à? - Tôi nói.
- Họp bàn về làm ăn buôn bán thôi - Ông Heng đáp lại một cách lửng lơ - chẳng có gì quan trọng. Tôi lúc nào cũng rất sung sướng được gặp ông, thưa ông Fowler.
- Tôi từ quảng trường phố Gacnie tới đây.
- Tôi cũng nghĩ đúng là vì việc đó.
- Ông đã biết tin…
- Người đã đại diện cho tôi. Tôi nghĩ rằng trong ít bữa, tôi nên tạm lánh ông Chu. Hôm nay chắc cảnh sát hoạt động mạnh.
- Nhưng ông có dính gì vào vụ đó đâu?
- Công việc của cảnh sát là tìm ra thủ phạm.
- Thủ phạm lại là Pyle à - Tôi nói.
- Đúng vậy.
- Họ gây ra những vụ ghê gớm quá.
- Tướng Thế chưa chế ngự nổi mình.
- Và chất nổ không phải để cho những đứa trẻ nhép vừa từ Boston sang. Ai cũng là người chỉ huy Pyle, ông Heng?
- Tôi nghĩ rằng hắn ta tự chỉ huy mà thôi.
- Hắn ta là gì? Một nhân viên của OSS?
- Cái tên viết tắt hay không cũng không quan trọng.
- Tôi có thể làm được việc gì, ông Heng? Phải bắt hắn không được làm như thế nữa.
- Ông có thể viết đúng những bài bóc trần sự thật hay không?
- Báo của tôi không quan tâm đến tướng Thế. Nó chỉ quan tâm đến các đồng bào của ông thôi, ông Heng ạ.
- Có thật ông định buộc Pyle ngưng hành động không, ông Fowler?
- Nếu mà ông thấy hắn vào đúng lúc đó. Hắn đứng như bị trời trồng ở quảng trường, và nói đây là một sự lầm lỡ đáng tiếc, đáng lẽ là đánh vào một cuộc diễu binh. Hắn còn nói phải đưa đánh bóng đôi giày trước khi đi gặp ngài Bộ trưởng.
- Chắc hẳn ông sẽ kể những điều ông biết cho cảnh sát rõ.
- Cảnh sát cũng chẳng quan tâm đến tướng Thế. Và ông tưởng họ dám đụng đến một người Mỹ hay sao? Hắn hưởng đặc quyền ngoại giao. Hắn tốt nghiệp Đại học Havard. Ông Bộ trưởng rất quý hắn. Ông Heng này, ở đó có một người đàn bà có con bị… bà ta lấy chiếc nón lá úp lên người con. Tôi không sao quên được hình ảnh ở đó. Ở Phát Diệm cũng có một người đàn bà khác…
- Ông Fowler, xin hãy cố trấn tĩnh lại.
- Làm gì bây giờ, ông Heng? Với một hộp Diolacton, người ta tạo ra được bao nhiêu xác trẻ em?
- Ông có định tiếp tay cho chúng tôi thật không, ông Fowler?
- Hắn ta đến nước này để làm những điều xằng bậy, và bao nhiêu người đã phải bỏ mạng vì những hành động dại dột của hắn. Thật là đáng tiếc rằng quân của các ông không thịt hắn trên sông gần Nam Định. Như vậy thì bao nhiêu mạng người đã không bị mất.
- Tôi cũng nghĩ như ông, ông Fowler ạ. Phải kìm các hành động của hắn lại. Tôi xin gợi ý với ông điều sau đây.
Đằng sau cánh cửa có ai đó khẽ ho và khạc nhổ ầm ĩ.
- Tối nay ông hãy mời hắn ta ăn cơm ở hiệu Cối Xay cổ - ông Heng nói tiếp - Khoảng từ tám rưỡi tới chín rưỡi.
- Để làm gì?
- Chúng tôi sẽ dừng hắn ở giữa đường và nói chuyện với hắn.
- Có thể hắn bận.
- Tốt hơn hết là ông bảo hắn tới thăm ông vào lúc sáu rưỡi. Lúc đó hắn rỗi, chắc chắn hắn sẽ tới. Nếu hắn nhận lời thì ông cầm một cuốn sách lại gần cửa sổ, y như để đọc ở nơi còn ánh sáng.
- Tại sao lại tới quán Cối Xay cổ?
- Vì đó gần cầu Đa Kao. Tôi tin rằng ở đó sẽ tìm được chỗ tiện lợi để nói chuyện với hắn.
- Ông định làm gì hắn?
- Điều đó thì ông không cần biết, ông Fowler. Nhưng tôi hứa với ông là chúng tôi sẽ hành động với tất cả sự êm thấm mà tình hình cho phép.
Những người bạn không thể nom thấy của ông Heng cửa động phía bên kia tường nhẹ như những con chuột chạy.
- Ông có thể làm giúp chúng tôi việc đó không, ông Fowler?
- Tôi chưa rõ - Tôi đáp.
- Sớm hay muộn ông cũng nên làm điều đó thôi - Ông Heng nói.
Và tôi nhớ lại những lời đại uý Truan đã nói tại tiệm thuốc phiện, sớm hay muộn cũng phải có thái độ. Nếu người ta muốn vẫn được là người.
Tôi vào Toà Lãnh sự viết cho Pyle mấy chữ, hẹn hắn tới thăm tôi, rồi tôi đi ngược lên tới khách sạn Continental để làm một cốc.
Tất cả những đống đổ vỡ đã được dọn đi, những người lính cứu hoả đã rửa sạch công viên. Tôi không hề nghĩ rằng địa điểm và giờ giấc lại có tầm quan trọng đến như vậy. Tôi lại còn định cứ ngồi nơi đây hết cả buổi tối, không lo gì đến cuộc hẹn hò nữa. Nhưng tôi lại nghĩ rằng tôi có thể làm cho Pyle sợ hãi, buộc hắn ngừng các hành động của hắn lại, bằng cách chỉ cho hắn thấy tai họa đang chờ hắn, bất kể là tai họa nào. Tôi cạn cốc bia và ra về: Khi ngồi ở nhà, tôi lại muốn Pyle đừng tới nữa. Tôi định đọc sách, nhưng không có cuốn nào trên giá sách cuốn hút được tôi. Nếu có người tiêm cho thì có lẽ tôi cũng làm một điếu thuốc. Tuy cố không nghĩ tới nhưng tôi vẫn cứ ngóng đợi những bước chân. Có ai đó gõ cửa. Tôi ra mở, nhưng đó chỉ là Dominge.
- Anh cần gì? - Tôi hỏi.
Anh ta nhìn tôi, vẻ rất ngạc nhiên.
Cần gì ư? (anh ta nhìn đồng hồ). Ngày nào tôi chẳng đến vào giờ này. Ông có điện để gửi đi không?
- Xin lỗi nhé. Tôi quên khuấy đi mất. Không, không có gì.
- Nhưng bản tường thuật về vụ nổ bom? Ông không định viết gì ư?
- Ồ, cứ viết hộ tôi, anh Dominge. Tôi cũng không rõ viết thế nào bây giờ. Lúc đó tôi ở ngay nơi bom nổ, nên cũng hơi bị chấn động. Tôi không thể gói ghém câu chuyện này vào khuôn khổ của một bức điện. (Tôi định đập con muỗi vo ve quanh tai, và tôi thấy Dominge nhăn mặt lại theo bản năng anh ta). Yên chí, Dominge, tôi đánh hụt rồi.
- Anh ta đáp lại tôi bằng một nụ cười thảm hại. Anh ta không thể bào chữa cho sự kinh tởm của mình trước một việc sát sinh: dù sao anh ta cũng là tín đồ của đạo Thiên Chúa, một trong những người mà Neron xưa đã dạy cho nghệ thuật biến thân người thành đuốc sống.
- Tôi có thể làm giúp ông việc gì không? - Anh ta nói.
Anh ta không uống rượu, không ăn thịt, không sát sinh. Tôi ao ước có được một sự dịu hiền trong tâm hồn như thế.
- Không, Dominge ạ, buổi tối tôi chỉ cần được sống một mình.
Qua cửa sổ, tôi nhìn theo anh ta đi ngang qua đường phố Catina. Một người lái xe đạp gắn máy đỗ xe ở vỉa hè, ngay trước cửa sổ phòng tôi, Domige định thuê xe đi, nhưng tôi thấy người lái xe lắc đầu. Chắc hẳn anh ta đang chờ một người khách đang mua hàng, vì đây không phải là nơi xe thường đỗ đón khách. Nhìn đồng hồ, tôi thấy mới đợi chưa đầy mười phút, và khi Pyle gõ cửa, lần này tôi lại thấy tôi đã không nghe được tiếng bước chân của hắn.
- Mời vào.
Nhưng như thường lệ, con chó của hắn vào nhà trước hắn.
- Tôi rất hài lòng vì nhận được mấy chữ của anh. Sáng nay hình như anh bực với tôi lắm.
- Chắc thế. Cảnh tượng lúc đó có đẹp đẽ gì đâu.
- Anh đã rõ nhiều điều quá rồi, nên tôi cũng có thể nói thêm chuyện với anh mà không sợ nguy hại cho ai cả. Chiều nay tôi vừa gặp tướng Thế.
- Anh gặp ông ta à? Vậy ông ta đang ở Sài Gòn ư? Chắc hẳn ông ta về chiêm ngưỡng kết quả của vụ đánh bom của ông ta.
- Anh Thomas, tin anh nên mới nói riêng với anh là tôi đã rất nghiêm khắc với ông ta.
Hắn nói năng như một người thủ quân một đội bóng học sinh vừa bắt gặp một cầu thủ vừa vi phạm kỷ luật của cuộc tập dượt. Dù sao tôi còn hỏi thêm với đôi chút hy vọng:
- Liệu anh có bỏ rơi ông ta không?
- Tôi có nói với ông ta là chúng tôi sẽ cắt đứt quan hệ nếu, ông ta lại biểu thị một sự khinh suất như vậy.
- Nhưng từ nay anh đã ngừng ủng hộ ông ta chưa?
Tôi bực mình xua con chó đang đến ngửi ngửi mắt cá chân tôi.
- Tôi không thể làm như vậy. Nằm yên, Duk! Về lâu dài, ông ta tượng trưng cho hy vọng độc nhất của chúng tôi. Nếu nhờ sự giúp đỡ của chúng tôi, ông ta lên nắm được chính quyền, thì chúng tôi có thể dựa vào ông ta...
- Cần bao nhiêu người bỏ mạng nữa, trước khi các anh hiểu ra?
Nhưng tôi thấy rõ là lập luận của tôi không có hiệu quả gì.
- Hiểu ra điều gì, anh Thomas?
- Hiểu ra rằng trong lĩnh vực chính trị không có sự tri ơn.
- Ít ra, họ cũng không căm ghét chúng tôi như đối với người Pháp.
- Có chắc là như vậy không ? Cũng có khi chúng ta yêu kẻ thù, và ghét bạn bè.
- Anh suy nghĩ như người châu Âu, anh Thomas ạ. Loại người ở đây không phức tạp đến thế.
- Đấy là điều mà anh học được qua mấy tháng này ư ? Chẳng bao lâu nữa anh sẽ nói rằng họ chỉ là đồ con nít...
- Quả là như vậy... trên một số phương diện.
- Anh Pyle, anh hãy thử tìm cho tôi một đứa trẻ không phức tạp. Một người trẻ lại là một khu rừng chằng chịt những điều phức tạp. Chính khi già đi, chúng ta lại hóa đơn giản hơn.
Nhưng nói hắn nghe những điều đó để làm gì? Trong khi lập luận, chúng ta đều dùng một điều gì hư ảo. Trước khi khôn ra, tôi đã nói năng như một nhà chuyên viết bình luận. Tôi đứng lên, tiến lại gần giá sách của tôi.
- Anh kiếm gì thế, anh Thomas?
- Ồ, chẳng có gì quan trọng. Một đoạn văn tôi vẫn ưa thích. Chiều nay anh có thể dùng cơm với tôi không?
- Rất hài lòng. Tôi thật vui vì thấy anh không bực dọng với tôi. Tôi hiểu rằng chúng ta không đồng tình với nhau. Nhưng có thể vẫn là bạn thân khi có chính kiến khác nhau, phải không ?
- Tôi không rõ. Tôi không tin là như thế.
- Xét đến cùng, Phượng vẫn là quan trọng hơn tất cả những điều đó.
- Anh có thành tâm tin như vậy không?
- Cô ta là cái đáng kể nhất trên thế giới này. Đối với tôi. Cả đối với anh nữa, anh Thomas ạ.
- Đối với tôi thì hết rồi.
- Hôm nay chúng ta bị một sự chấn động ghê ghớm, Tômát, nhưng anh sẽ thấy sau một tuần chúng ta sẽ quên đi. Ngoài ra, chúng tôi còn săn sóc tới các gia đình.
- Chúng tôi là ai?
- Chúng tôi đã điện sang Whasington. Chúng tôi sẽ được phép sử dụng một phần ngân quỹ. Tôi ngắt lời.
- Chén ở quán Cối xay cổ nhé? Từ chín giờ tới chín rưỡi nhé?
- Ở đâu cũng được, tuỳ anh thích.
Tôi tiến lại cửa sổ. Mặt trời đã khuất sau các mái nhà. Người lái xe xích-lô vẫn chờ khách của mình. Tôi cúi xuống nhìn, người đó ngẩng đầu lên nhìn tôi.
- Anh chờ ai đến à, Thomas?
- Không, tôi tìm một đoạn thơ.
Để cử chỉ của tôi được kín đáo. Tôi giơ cuốn sách ra chỗ còn có tia nắng cuối cùng và đọc.
Tôi lái xe giữa các phố phường và mặc kệ tất cả.
Những người qua đường nhìn tôi chăm chăm và hỏi xem tôi là ai.
Và nếu chẳng may tôi đâm vào một người khốn khổ/Tôi có đủ tiền để bồi dưỡng dù đắt thế nào.
Là kẻ có tiền thật vui thay - A ha !
Là kẻ có tiền thật vui thay! .
- Thơ gì mà lạ thế? - Pyle nói với một giọng không tán thưởng
- Đây là thơ của một tác giả thế kỷ XIX, một nhà thơ đã trưởng thành. Không có lắm người như ông ta đâu.
Tôi nhìn xuống đường. Người lái xe đã đi rồi.
- Anh có gì để uống không? - Pyle hỏi.
- Có, nhưng tôi tưởng...
- Có lẽ tôi bắt đầu tự buông lỏng mình. ảnh hưởng của anh đấy. Tôi tin rằng anh đã làm tôi khôn hơn lên.
Tôi đi lấy chai rượu và cốc. Lần đầu quên một cốc, sau lại phải đi một lần nữa vì quên nước trắng. Hôm nay tôi làm cái gì cũng mất nhiều thì giờ.
- Anh biết đấy, - Pyle nói, - bố mẹ tôi là những người cừ khôi; nhưng hai cụ đều có xu hướng sống nghiêm nghị. Chúng tôi ở tại một ngôi nhà cũ kỹ ở phố Chenus phía bên phải, lên dốc một chút. Mẹ tôi sưu tập những đồ pha lê cổ, và cha tôi, khi không ngụp vào việc nghiên cứu vấn đề xói mòn, thì đi vét hết những cuốn sách chép tay về những tác phẩm Darwin in lần thứ nhất mà cụ phát hiện ra được. Như anh xem, các cụ sống với quá khứ. Có lẽ vì vậy mà York có ảnh hưởng lớn đối với tôi. Ông ta thích ứng với những điều kiện sống hiện đại. Cha tôi thì theo chủ nghĩa biệt lập.
- Chắc là tôi hợp với cụ: tôi cũng là người theo chủ nghĩa biệt lập.
Vốn là người trầm lặng, hôm nay Pyle lại nói quá nhiều. Tôi cố tự nhủ rằng ông Heng đang sẽ có phép thuyết phục hắn khác với một hành động thô bạo và tất yếu... Nhưng trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến ở đây, tôi hiểu người ta không có thì giờ cân nhắc: người ta tiện võ khí gì thì dùng võ khí đó, người Pháp có bom napal, ông Heng có đạn súng ngắn hoặc con dao găm. Tôi tự bảo, nhưng hơi muộn, rằng tôi không đủ tư cách để đứng ra làm quan toà. Tôi để cho Pailơ nói một lúc rồi tôi sẽ bảo hắn đề phòng. Hắn có thể ngủ đêm tại đây. Họ không dám xộc vào nhà tôi. Lúc này hình như hắn đang nói về người vú nuôi của mình...
- ... Bà nhũ mẫu của tôi đóng một vai trò quan trọng hơn mẹ tôi trong cuộc đời của tôi, và sao bà biết làm những chiếc bánh kem mứt ngon đến thế!
Tôi ngắt lời hắn:
- Anh có khẩu súng ngắn nào mang theo người không kể từ cái đêm đáng ghi nhớ đó?
- Không. Quy định của toà lãnh sự...
- Nhưng anh là người có công tác đặc biệt.
- Có súng cũng chẳng được việc gì. Nếu họ định hạ tôi thì chẳng có gì cản được họ. Vả lại, tôi cận thị như một con chồn. ở trường trung học, người ta gọi tôi là Con dơi vì trong đêm tối tôi rất tinh mắt hơn người khác. Một hôm chúng tôi đùa như quỷ sứ...
Hắn lại thao thao bất tuyệt. Tôi quay ra cửa sổ.
Có một chiếc xe xích lô gắn máy đang chờ. Chắc hẳn là một người lái xe khác lúc nãy - tuy tôi không tin hẳn, vì họ giống nhau quá đỗi. Biết đâu người lái đó không thật sự chờ một vị khách. Tôi lại bỗng có ý nghĩ rằng nơi an toàn nhất cho Pyle là Toà Lãnh sự. Từ lúc nhận được ám hiệu của tôi, chắc họ đã chuẩn bị đầy đủ để đêm nay hành động. Cầu Đa Kao hẳn có một vai trò gì đó trong dự định của họ, tôi không hiểu tại sao, hoặc như thế nào mà Pyle lại không điên rồ cả gan qua sông sau khi mặt trời lặn và bên đầu cầu phía này, có công an võ trang gác hẳn hoi.
- Tôi nói hết cả lời của hai người, - Pyle bảo. - Tôi không hiểu tại sao, nhưng chiều nay...
- Xin đừng ngại, - tôi nói, - Tôi là người ít nói, thế thôi. Có lẽ tối nay bỏ bữa cơm chăng...
- Chớ, xin chớ bỏ. Tôi cảm thấy xa anh kể từ khi...trời...
- Kể từ khi anh cứu tôi, - tôi nói tiếp hộ anh, nhưng không giấu nổi sự đau nhói của vết thương mà tôi tự gây cho tôi.
- Không, tôi không muốn nói đến điều đó. Nhưng dù sao chúng ta đã nói được không biết bao nhiêu chuyện trong cái đêm kỳ lạ đó! Y như là chúng ta đang sống những giờ khắc cuối cùng của mình trên dương thế vậy. Qua đó tôi hiểu nhiều điều về anh, anh Thomas ạ. Cứ cho là tôi có nhiều điểm bất đồng tư tưởng với anh, tốt hơn hết là không nên đứng về một phía nào. Anh chịu đựng giỏi đấy, ngay khi đã gẫy chân phải, anh vẫn có thái độ trung lập.
- Bao giờ cũng sẽ tới lúc người ta đổi thay, lúc người ta bị xúc động...
- Anh chưa đến lúc đó đâu. Tôi không tin rằng anh sẽ đến cái lúc đó. Và tôi cũng tin rằng không có gì làm cho tôi thay đổi được...trừ khi chết, - hắn nói tiếp một cách vui vẻ, nhẹ nhõm.
- Ngay cả khi anh đã được chứng kiến cái cảnh sáng hôm nay? Cảnh đó không có điều gì có thể làm anh thay đổi thái độ ư?
- Họ chẳng qua chỉ là những nạn nhân của chiến tranh, - hắn đáp. - Đáng buồn thật đấy, nhưng khi bắn nhau có phải lúc nào cũng bắn trúng đích đâu. Dù sao đó cũng là những người chết cho chính nghĩa.
- Nếu chính bà vú nuôi khéo làm bánh kem mứt của anh bị chết như vậy thì anh nói sao?
Hắn chẳng cần đếm xỉa đến cái lập luận có vẻ rẻ tiền của tôi.
- Xét về một mặt nào đó, có thể nói là họ đã chết cho nền Dân chủ. - hắn nói.
- Tôi không sao dịch nổi ý anh ra tiếng Việt được.
Bỗng dưng tôi thấy mình hết sức mệt mỏi. Tôi mong hắn đi đâm đầu vào chỗ chết cho rảnh. Sau đó tôi lại có thể tìm lại cuộc sống như ở quãng đời tôi trước khi hắn sang đây.
- Hình như anh chưa bao giờ cho tôi là người đúng đắn, anh Thomas, (Hắn phàn nàn như thế, kèm với một tiếng cười rất học sinh trung học mà hình như hắn đã găm lại để dành cho cái đêm nay). Thomas này, Phượng đã đi xem chiếu bóng. Nếu chúng ta thức suốt đêm với nhau? Tôi chẳng bận việc gì cả. (Hình như từ một nơi xa xôi nào đó bên ngoài, có ai mớm lời cho hắn, khiến tôi không còn đường rút lui). Tại sao không lại quán Sale nhỉ? Từ cái đêm đáng ghi nhớ đó, tôi chưa hề trở lại đấy. Ở đó ăn cũng ngon chẳng kém Cối xay cổ, mà lại thêm âm nhạc.
- Tôi không muốn nhớ lại cái đêm đó.
- Xin lỗi. Lắm lúc tôi thật là ngốc, anh Thomas ạ. Nhưng đi chén cơm Tàu ở Chợ Lớn thì sao?
- Muốn ăn ngon ở đó thì phải đặt trước. Anh sợ quán Cối xay cổ hay sao, Pailơ? ở đó có lưới sắt bảo vệ, và bao giờ cũng có cảnh sát gác trên cầu. Và tôi hy vọng rằng anh sẽ không điên rồ gì mà đi qua cầu.
- Ồ, không phải như thế. Tôi chỉ nghĩ rằng ở với nhau suốt một đêm thì thú biết mấy.
Hắn giơ tay và chạm vào cái cốc khiến nó rơi xuống đất vỡ tan.
- Điềm lành, - hắn nói không suy nghĩ. - Xin lỗi anh Thomas.
Tôi cúi nhặt những mảnh cốc vỡ và để vào trong cái đựng tàn thuốc lá.
- Anh nghĩ sao, anh Thomas?
Tiếng thuỷ tinh vỡ lại làm tôi nhớ lại tiếng những chiếc chai ở tiệm Pavillon trút hết rượu ra sàn.
- Tôi đã báo trước với Phượng rằng đêm nay chắc tôi đi chơi với anh.
Sao mà chữ “báo trước” được lặp lại lúc này khó nghe thế. Tôi nhặt mảnh thuỷ tinh cuối cùng.
- Tôi đã có một cuộc hẹn ở rạp Magestic, - tôi đáp, - và đến chín rưỡi tôi mới được rảnh.
- Thế cũng được. Nếu vậy tôi sẽ trở lại phòng làm việc. Nhưng tôi chỉ luôn sợ rằng họ sẽ tìm được một việc cỏ vê giao cho tôi.
Tại sao không để cho hắn ta được hưởng cái số may đó nhỉ ?
- Có đến chậm một chút cũng đừng ngại nhé, - tôi nói. - Nếu bị cột vào bàn giấy thì sau đó anh cứ về nhà tôi. Tôi về nhà vào mười giờ để chờ anh, nếu anh không tới ăn cơm được.
- Tôi sẽ báo cho anh...
- Khỏi phiền. Hoặc anh lại Cối xay cổ, hoặc tới nhà tôi.
Tôi giao số phận Pyle vào tay cái đấng mà tôi vốn không tin: nếu muốn can thiệp vào đây thì mời ông Trời cứ can thiệp, - một bức điện để trên bàn giấy, một mệnh lệnh của Bộ trưởng. Nếu Trời không có đủ quyền lực để làm thay đổi tương lai, thì quả thật làm gì có Trời.
- Pyle, bây giờ anh đi đi, tôi bận.
Nghe bước chân hắn đi xa, cùng với tiếng chân con chó chạy theo, tôi cảm thấy mệt như đến kiệt sức.
Nếu muốn đi xe thì phải lên tới tận phố Dokmay, cho nén ra khỏi nhà, tôi đi bộ tới tận rạp Magestic và đứng một lúc xem người ta rõ những chiếc máy bay ném bom Hoa Kỳ.
Mặt trời đã lặn hẳn, và công việc này được tiến hành dưới ánh sáng của những ngọn đèn hồ quang. Tôi không có ý định tạo ra một cái cớ vắng mặt, nhưng tôi đã nói với Pyle là tôi tới rạp Magestic, và tự nhiên tôi không thích làm sai với lời nói.
- Chào Fowler.
- Đó là Uynkinx.
- Chào.
- Chân cẳng ra sao rồi?
- Anh đã gửi được một bài hay chứ?
- Tôi để Dominge viết.
- Sao vậy? Người ta nói anh có mặt ở đó cơ mà.
- Đúng, tôi có mặt ở đó. Nhưng ngày nay báo thiếu chỗ. Họ chỉ cần tin ngắn thôi.
- Tin nào cũng như tin nào thôi, phải không? - Uynkinx nói. - Chúng ta đã sống trong thời ông Rusen và báo Time cũ. Tin tức thì gửi bằng khinh khí cầu. Người ta có thì giờ viết kỹ các bài của mình. Người ta có thể viết một bài về chỗ chúng ta đang đứng như sau: khách sạn loại sang, những chiếc máy bay ném bom, đêm đang xuống. Bây giờ có đêm đâu, mỗi chữ là bao nhiêu đồng bạc. (Từ tít trên lầu cao, y như từ trên trời, những tiếng cười vang xuống: ai đó giống như Pyle đã dánh vỡ một chiếc cốc. Tiếng cười nói giống như tiếng mưa đá rơi xuống). Những ngọn đèn toả sáng trên những mỹ nữ và những anh hùng, Uynkinx đọc câu thơ của Bảiơn với một vẻ ác ý. Chiều nay anh làm gì, Fowler? Anh có đi chén với tôi không?
- Tôi sắp đi ăn cơm tối, anh có hiểu không, ở quán Cối xay cổ.
- Tôi chúc anh thật vui: Grand sẽ có mặt ở đó. Họ cần quảng cáo rùm beng nhân dịp những “dạ hội Grand”. Có những người thích những buổi nhạc ồn ào!
Tôi chào từ biệt anh ta và vào rạp chiếu bóng. Erron Fline hay là Tiron Power (khi họ mặc áo
may ô bó sát người thì tôi không thể phân biệt được ai với ai) đánh đu trên những sợi dây thừng, nhảy từ ban công cao xuống và tót lên những con ngựa không yên cương trong ánh bình minh của phim mầu. Anh ta cứu một cô gái, giết chết kẻ thù, còn chính anh thì như có phép thần che chở không sao chết được. Đó là một cuốn phim gọi là phim cho thanh niên; nhưng nếu dựnh cái cảnh Erdip 2 từ lâu đài Teber của mình chạy ra, hai mắt bị chọc mù đang ứa máu, thì còn có tác dụng hơn trong việc chuẩn bị cho họ sống trong cuộc đời hiện tại. Không có cuộc đời của ai được một phép màu che trở mãi. Pyle đã gặp may ở Phát Diệm và trên đường đi Tây Ninh, nhưng cái số đỏ không bền được mãi, và chỉ trong hai giờ nữa, người ta sẽ biết phép đã hết màu rồi. Một người lính Pháp ngồi gần tôi, tay để lên đầu gối của một cô gái, và tôi ao ước được có sự đơn giản của anh ta trong hạnh phúc cũng như trong đơn chiếc. Không chờ hết phim, tôi thuê một xe tay và bảo kéo tới quán Cối xay cổ.
Tiệm ăn chung quanh có lưới sắt chống lựu đạn và hai người cảnh sát võ trang gác lối vào cầu. Chủ tiệm, béo phệ vì hưởng mãi những món ăn nhiều chất bổ của chính vùng quê Boocginon của ông ta đích thân ra dẫn tôi qua hàng rào lưới thép vào nhà. Trong bầu không khí buổi tối oi bức, mùi gà sống thiến quay với bơ thấm vào mọi thứ trong khách sạn.
- Ông có phải cùng đám với ông Grand không? - Ông chủ hỏi.
- Không.
- Một suất ăn?
Chỉ đến lúc đó tôi mới nghĩ tới tương lai và tới những câu chất vấn mà có lẽ tôi phải trả lời.
- Một suất, - tôi đáp, - và như vậy gần như tôi công bố to lên rằng Pyle đã chết rồi.
Quán ăn chỉ có một phòng, phía trong cùng Grand và những khách của hắn mời chiếm một cái bàn lớn. Ông chủ dành cho tôi một bàn nhỏ kề ngay với hàng lưới. Kính đã được cất đi, sợ khi vỡ sẽ bắn ra nhiều mảnh vụn. Nhận thấy mấy người quen trong đám bạn của Grand, tôi chào họ trước khi ngồi. Còn Grand thì quay nhìn phía khác. Từ mấy tháng nay, tôi không gặp Grand, trừ có một bận, kể từ tối mà Pyle mê Phượng. Có lẽ một lời nói xúc phạm của tôi tối hôm đó đã xuyên qua những đám mây mù của cơn say rượu lọt vào tận tai hắn vì hắn cau có chủ trì bữa tiệc, trong khi bà Depre, phu nhân của viên sĩ quan phụ trách công việc giao tế và đại uý Đuypác phụ trách ban thông tin của Sở báo chí gật đầu với vẻ tán thưởng. Còn có mặt một người to béo làm nghề chủ khách sạn ở Phnôm Pênh thì phải, một cô đầm trẻ tôi chưa hề gặp, và vài ba người mà tôi chỉ thoáng nom thấy mặt ở các phòng nhẩy. Hôm nay có lẽ là hôm duy nhất bữa tiệc lại không nhộn nhạo.
Tôi gọi một cốc rượu, nói vì tôi muốn chờ (nhỡ Pyle đến được)... Có khi một việc định làm lại bị cản trở, và chừng nào tôi chưa bắt đầu ăn, thì hình như còn thì giờ để chờ đợi. Rồi tôi lại tự hỏi xem mình mong đợi điều gì. Mong sự may mắn cho bọn OSS nếu quả đó là tên gọi của tổ chức của Pyle? Mong cho bom làm bằng chất nổ dẻo và tướng Thế sống mãi? Hay là mong (tôi, một con người giữa mọi người) điều kỳ lạ là ông Heng phát minh ra một cách thuyết phục không phải là cái chết? Nếu cả hai chúng tôi cùng thiệt mạng trên đường đi Tây Ninh thì có phải tiện biết mấy không? Tôi chậm rãi uống cốc rượu hồi, mất những hai mươi phút, rồi bắt đầu ăn. Gần chín giờ rưỡu rồi. Chắc hắn không tới.
Tuy không chủ tâm, tôi vẫn cứ lắng tai: để chờ nghe thấy gì? Một tiếng kêu? Một tiếng nổ? Tiếng cảnh binh chạy trên cầu? Nhưng chắc là không nghe được gì, vì những vị khách của Grand đã bắt đầu náo nhiệt. Ông chủ quán, tuy hát không thạo, nhưng tiếng dễ nghe, bắt đầu hát, và khi một chiếc nút chai rượu sâm banh mới đưa thêm ra nổ giòn, thì nhiều người hoà tiếng cùng ông, nhưng Grand thì không. Hắn đứng im, mắt đỏ ngầu nhìn tôi từ phía đầu phòng, một cách hăm doạ. Tôi tự hỏi có lẽ hai người sắp đánh nhau chăng. Tôi không đủ sức để chọi với Grand.
Họ hát một bài hát trữ tình, và trong khi tôi ngắm một cách thiếu hứng thú khẩu phần bé nhỏ được mang tên “Gà thiến kiểu quận công Sáclơ” thì tôi nghĩ tới Phượng, lần đầu tiên kể từ khi biết cô được an toàn lành lặn.
Tôi nhớ lại lúc Pyle ngồi trên mặt đất chờ quân Việt Minh tới, Pyle nói: “Cô ta tươi mát như một bông hoa”. Và tôi đã đáp lại bằng một kiểu nói quá trớn: “Hoa khốn khổ, khốn nạn”. Và bây giờ cô chẳng còn được xem phong cảnh Hoa Kỳ và không bao giờ được biết những bí mật của lôí chơi bài Canarta nữa. Có lẽ cô không bao giờ được hưởng sự an toàn nữa: với tôi, tôi có gì là kém giá trị so với hai người nằm tại quảng trường? Đau khổ nhiều không phải là do nhiều người đau khổ: một tấm thân thôi có thể chứa đựng tất cả đau khổ trên thế gian này. Tôi đã phán xét theo kiểu một nhà báo, đánh giá bằng số lượng, và tôi đã phản lại những nguyên tắc của chính tôi; từ nay trở đi tôi cũng đã đứng hẳn về một phía như Pyle, và tôi thấy hình như không có một sự quyết định nào lại đơn giản cả. Nhìn đồng hồ, tôi thấy đã gần mười giờ kém mười lăm. Có lẽ hắn ta vẫn có thể bị công việc giữ lại ở bàn giấy; có lẽ Thượng đế mà hắn tin đã phù hộ hắn, và lúc này hắn đang phải ngồi trước bàn tại Lãnh sự quán, mải miết và chật vật đọc một bức điện viết bằng mật mã; một lát nữa hắn sẽ leo, bốn bậc một, cầu thang lên phòng tôi ở phố Catina. Nếu sự việc xảy ra như thế thì tôi sẽ nói lại tất cả cho hắn biết.
Bỗng nhiên Grand đứng lên, ra khỏi bàn và đi tới gần tôi. hắn không nom thấy cả chiếc ghế ngang đường, vấp phải nó và chống tay vào mép bàn tôi đẻ gượng lại được.
- Đi ra ngoài kia đi, Fowler.
Tôi đặt tiền trả bữa cơm bên cạnh đĩa và đi theo hắn. Tôi không muốn đánh nhau với hắn, nhưng vào lúc này, dù hắn có đánh tôi nhừ tử, tôi cũng mặc kệ. Chúng ta có quá ít những biện pháp để làm vợi cảm giác tội lỗi của mình.
Grand tựa vào thành cầu và từ xa, hai người cảnh sát nhìn hắn.
- Tôi có chuyện cần nói với anh, Fowler, - hắn nói.
Tôi tiến lại đúng tầm tay hắn và chờ đợi. Hắn không làm một cử động nào. Người ta tưởng hắn là một pho tượng tượng trưng cho tất cả những thứ mà tôi tin rằng tôi rất ghét trong cái quốc gia Hoa Kỳ của hắn; hắn cũng có những nét vụng về, vô nghĩa như tượng thần Tự do.
- Anh tưởng tôi say ư? - hắn nói, người vẫn không động đậy. - Anh lầm đấy.
- Có điều gì thế. Grand?
- Tôi cần nói với anh, Fowler. Tối nay tôi không thể ngồi cùng với những tên lính dù kia. Tôi không ưa anh, nhưng vì anh nói tiếng Anh. Một kiểu tiếng Anh nào đó.
Hắn ta vẫn tựa vào thành cầu, to sù và không ra hình thù gì trong bóng đêm, giống như một lục địa chưa được thám hiểm.

- Anh muốn gì?
- Tôi không yêu những người Anh. Tôi không hiểu sao Pyle lại có thể ưa anh được. Có lẽ vì hắn là người Boston. Tôi, ở Piberk và tự hào về điều đó.
- Tại sao lại không tự hào?
- Được. Anh bắt đầu rồi đấy! (hắn nhại tôi nhưng không thành công). Các anh nói như chó con sủa vậy. Thế mà lại còn loè bịp đấy. Anh tưởng cái gì anh cũng biết.
- Xin chào, Grand. Tôi có một cuộc hẹn.
- Đừng bỏ đi, Fowler. Hãy tốt bụng một tí. Tôi không sao chịu được bọn lính dù kia.
- Anh say rồi.
- Tôi chỉ mới uống hai cốc sâm banh thôi. Nhưng ở vào địa vị tôi, anh cũng say thôi: tôi phải ra miền Bắc.
- Thế rồi sao?
- Ồ, tôi chưa nói anh nghe! Tôi cứ tưởng mọi người đều đã biết. Sáng tôi nhận được một bức điện của vợ.
- Thế ư?
- Con trai tôi mắc bệnh bại liệt trẻ em, nặng lắm.
- Xin chia buồn.
- Đừng có giả tạo. Có phải con anh đâu.
- Anh sẽ về nước bằng máy bay.
- Không thể về được. Họ muốn có một bài về một cuộc tảo thanh quái quỷ gì ở gần Hà Nội, và Conolive lại ốm (Conolive là người trợ tá của hắn).
- Chia buồn Grand. Tôi có thể làm gì hộ anh?
- Chiều nay là ngày kỷ niệm của cháu. Đúng mười giờ rưỡi hôm nay, giờ Hoa Kỳ, nó được tám tuổi, bởi thế tôi đã đặt một bữa tiệc có cả sâm banh... đặt trước khi hay tin. Fowler, tôi cần nói chuyện này với một người nào đó mà tôi lại không thể thổ lộ với những tên lính dù kia.
- Thày thuốc hiện nay chữa được bại liệt.
- Nó tàn tật cũng được, Fowler. Miễn là nó sống. Tôi mà tàn tật thì tôi là đồ bỏ đi thôi, nhưng thằng bé thông minh. Anh có biết khi thằng khốn kia hát khúc tình ca thì tôi làm gì không? Tôi cầu nguyện. Tôi nghĩ nếu Thượng đế muốn lấy đi một sinh mạng thì xin lấy đi mạng của tôi.
- Anh tin ở trời ư?
- Muốn tin lắm.

10/6/2015
Graham Greene
Nguyễn Kim Vỹ dịch
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Văn Lê cả đời Chí Thụy

Văn Lê cả đời Chí Thụy Nhân dịp kỷ niệm 100 ngày nhà thơ, nhà văn, đạo diễn Văn Lê - Lê Chí Thụy (1948-2020) từ giã cõi trần, Văn Học Sài ...