Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2023

Tâm thức hướng thiện trong truyện ngắn của Lê Đình Trường

Tâm thức hướng thiện trong
truyện ngắn của Lê Đình Trường

Có những lúc ta như mụ mị, u mê trước những sợi dây tình cảm vô hình siết chặt một người với một người, một người với mọi người, siết chặt ta vào nhau. Tình cảm chỉ diễn ra trong khoảng khắc nhưng tâm thức thì luôn thường trực trong mỗi con người. Văn chương sẽ bắt lấy cái hư ảnh của khoảng khắc để tâm thức trổi dậy, và cung bậc đa chiều của sự trổi dậy ấy… sẽ tuỳ thuộc vào bút lực của người sáng tạo.  
Năm tập truyện đầy ắp tình người với tâm thức luôn hướng thiện của Lê Đình Trường đã lần lượt ra đời, đánh dấu một sự lao động chữ nghĩa miệt mài, bền bĩ: Cô gái trong cơn bão khô (Nxb Mũi Cà Mau – 1987, tái bản 2002), Hơ tay trên ngọn khói (Nxb Phương Đông – 1993), Có mưa trên núi (Nxb Phương Đông 1997). Gần đây nhất là Một bóng thuyền không (Nxb Phương Đông 2007) và Sứ giả từ địa ngục (Nxb Phương Đông 2012). Nhưng, khi tiếp cận với các tập truyện, đặc biệt là hai tập sau cuối( Một bóng thuyền không, Sứ giả từ địa ngục)  ta mới thấy đâu chỉ giản đơn là chữ nghĩa, ngôn từ. Lấp lánh phía sau lớp vỏ vật chất của ngôn ngữ ấy chính là tâm trạng, là cảm xúc, là sự thăng hoa của trí tuệ và tâm hồn. Chữ nghĩa đã được chắc và lọc như tinh luyện quặng thì mới bật ra âm thanh, ánh sáng, nụ cười, nước mắt… mới khắc họa được chân dung, tính cách, niềm riêng, cuộc sống chung và tình cảm muôn hình vạn trạng của con người.
Hai nhà văn Lê Đình Trường (bên trái) và Nguyễn Ngọc Tung ở Đại Lải, Vĩnh Phúc.
Một chút lạ hoá về hình thức dẫn chuyện, một sự tinh tế trong quan sát cảnh và tình, cách sử dụng câu đặc biệt, cách cảm nhận tâm trạng sâu sắc và sự biểu hiện mạnh mẽ… thông qua những ngôn từ giàu hình tượng được chọn lọc cẩn trọng đã mã hoá sự hiện sinh của phận người với tâm thức hướng thiện một cách đầy ấn tượng trong truyện ngắn Lê Đình Trường. Đọc tập truyện Một bóng thuyền không, qua ngòi bút mê dụ của tác giả, ta sẽ thấy cuộc đời đầy rẫy những chông gai. Mười hai truyện gói trọn trong 286 trang sách (Khỏa thân màu xám, Viết cho một nhà văn, Vẻ đẹp, Tai biến một trò chơi, Muỗi đói, Điểm tựa trắng, Có mưa trên núi, Cô gái nhỏ trong cơn bão khô, Bia mộ, Thập giá gỗ, Hơ tay trên ngọn khói, Một bóng thuyền không) là một xã hội được thu nhỏ với nhiều kiểu người, nhiều vùng miền, nhiều hoạt động… với nhiều sự phức tạp và biến thiên.
 Lê Đình Trường đã từng chia sẻ trong “Tôi viết từ tâm thức” (Tham luận Lê Đình Trường đọc tại Hội thảo văn học Malaysia – 2001): “Tôi đang sống ở Việt Nam – một tỉnh tận cùng của Tổ quốc – tỉnh Cà Mau. Nơi có những cánh rừng bạt ngàn ngày ngày vươn ra biển cả – lúc nào cũng tràn đầy những lượn sóng vỗ. Nơi tôi sống là những con sông chằng chịt như những mê cung. Dọc theo những triền sông ấy là những thành phố, thị trấn, thôn xóm…Đồng bào tôi hiền lành nhưng sức chiến đấu rất dữ dội…Họ là những nhân vật trong tâm thức của tôi. Và chính tôi cũng là nhân vật trong tâm thức mình. Tôi viết từ tâm thức… Những gì thương yêu, cảm xúc mảnh liệt và bỏng rát cứ trào lên. Cứ thế, tôi viết. Cứ thế, tôi chỉ việc khơi dòng cho những cảm xúc ấy chảy trên giấy… Tình cảm chỉ diễn ra trong khoảnh khắc và văn chương của tôi bắt lấy cái hư ảnh của khoảnh khắc ấy… ”.
Có lẽ những ngọn sóng cảm xúc đưa đẩy anh đến với văn chương đã vượt qua những định luật, nguyên lý… mà anh đã từng học để trở thành giáo viên Vật lý THPT khi còn trẻ tuổi; nên anh đã tự nhận rằng những trang viết của mình đầy cảm xúc mà ít lý trí. Nhưng, thật ra, lý trí vẫn là ngọn đèn soi tỏ mọi “đường đi lối về”. Chỉ những khoảnh khắc lóe sáng được bộc bạch trên trang giấy mới là niềm an ủi ngọt ngào trong cuộc sống của riêng anh. Đó là tâm thức hướng thiện của chính anh qua những nhân vật mà anh đau đáu nuôi dưỡng, để qua những câư chuyện kể anh sẽ mã hoá sự hiện sinh của thân phận con người.
Đó là tâm thức muốn trở thành một người thầy đúng nghĩa để làm điểm tựa trắng cho một cô học trò bé dại phát âm không tròn tiếng lại có một đứa em trai bị khùng, làm điểm tựa trắng cho một người phụ nữ gánh chịu quá nhiều đau khổ vì cùng một lúc phải chấp nhận hai phần máu thịt tật nguyền (Điểm tựa trắng).
Đó là tâm thức hướng thiện của hai vợ chồng trẻ, đẹp, hạnh phúc trong Khoả thân màu xám. Những niềm vui hoan lạc thể hiện sự đam mê thể xác khi họ ghi lại dấu vết tình yêu một cách đầy lý trí. Nhưng rồi, đến một ngày nọ, họ đã nhận ra sự dung tục của mình khi nhìn lại những vết khắc trên cây. Rồi họ trót sinh hạ một cô bé không như mong muốn. Bằng thủ pháp “Khẩu súng treo trên tường cuối cùng cũng phải bắn”, Đình Trường đã để cho cô bé thổ lộ nỗi đau xâu xé tâm can vì sự tương phản giữa sắc đẹp của bố mẹ và sự xấu xí của mình. Những dòng cuối truyện mới bộc lộ hình hài trẻ thơ “cô bé có một chiếc cánh gãy bẩm sinh”. Cô bé đã là một thiên thần gãy cánh, nhưng bố mẹ nó gãy cả hai cánh khi nhận ra ánh mắt thù hằn, xa xót, ganh tỵ của cô bé  trước vẻ đẹp hoàn hảo của bố mẹ.
Đó là tâm thức hướng về những điều tốt đẹp để sống chân chính và viết những điều chân chính của một nhà văn. Nhân vật “tôi” trong truyện – nhà văn – có tấm lòng thành trong chốn văn chương, trong cõi sóng gió trùng trùng. Miệt mài viết và viết. Trong ông có cả sự thâm trầm, rộng lượng, tài hoa, tình yêu, vật chất, quyền lực… Nhưng để làm gì? Ước vọng viết tiểu thuyết có thể không thành và khi giã từ vũ khí để về hưu thì sức đã kiệt. “Đó là những vết chém rất ngọt, rất sâu bởi không bao giờ ông chạm đến đỉnh. Như có như không. Có gì vui, có gì buồn? Những kẻ bất tài giỏi nịnh hót đã tạo nên không khí bất trắc quanh ông”. Vì bên ngoài thân ông vẫn là sự bảng lảng. Như có như không. “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Quyền lực đầy ưu tư và trách nhiệm. Họ không tài năng, không thông minh, không có nhân cách của kẻ sĩ nên sự đố kỵ càng lớn, Họ lại thiếu cái đức bao dung nên đoạn tình để giải quyết sự hàm ơn với một kẻ có tài có đức hơn họ. Ngày ông gần về vườn, những cái mặt nạ đạo đức nhũn nhặn đã rơi xuống. Về thôi, về thôi. Lộng giả thành chân. (Viết cho một nhà văn).
Trong truyện ngắn Vẻ đẹp, nhân vật chính: cô gái làm ở xưởng cưa và người thương binh với tâm luôn hướng về ánh sáng, dù có khi chỉ là ánh sáng le lói cuối đường hầm. Đó chính là tâm thức tìm về cõi “thiện căn” vốn có của con người.
Tâm thức hướng thiện chính là sự ăn năn khá muộn màng của người đàn ông đứng tuổi trót tham gia vào trò chơi tình ái nguy hiểm với một cô gái tinh quái, để cuối cùng, những người thân yêu đều bỏ ông mà đi. Và,người đàn ông từng trải, giàu có, đầy bản lĩnh ấy đã tự phạt bản thân bằng một cách tàn độc: đổ acit vào lòng bàn tay để gặm nhấm nỗi đau thể xác lẫn tâm hồn (Tai biến một trò chơi).
Thập giá gổ có lẽ là một truyện ngắn duy nhất trong tập tác giả dành trọn tình yêu viết về những người kính Chúa. Sự ngưỡng vọng của một tu tập (Chiến) sắp được thụ phong linh mục đối với cha bề trên (cha Hạnh) nổi tiếng về kiến thức uyên thâm, sự hiểu biết xã hội, có sự truyền giảng thu hút con chiên… Rồi những cảm giác hụt hẩng trước sự kín đáo và nghiêm khắc của cha Hạnh đơn lẻ cách biệt sự đời. Cuộc đời cha Hạnh quá nhiều đau khổ: có người mẹ khó nghèo, vất vả nuôi con chỉ mong hai anh em Phận Hạnh trở thành linh mục, nhưng anh Phận bị bệnh thần kinh phải rời Đại Chủng viện, lập gia đình, sinh con, nhưng vẫn như trẻ thơ yêu Chúa, một đứa cháu sống lặng lẽ mà cha cưu mang cho ở trong tu viện đã cùng người tu tập yêu nhau như một sự trừng phạt khủng khiếp. Sau những bức bình phong đạo giáo, chỉ mong con người hãy sống tốt đạo đẹp đời, phải ghi nhớ những ẩn dụ trong lời Chúa, những dụ ngôn trong Phúc âm.
Thật ra, Cha Hạnh không sống đời sống của Cha. Cha sống đời là con chiên của Chúa, là người phụng sự Chúa nên cha không thể vượt qua dư luận. Cha chờ đợi sự thú tội của vị tu tập nhưng vô ích. Cả hai vừa giận vừa thương nhau vì đã làm khổ nhau. Con người vẫn mãi là con người, những hào quang khác đều vô nghĩa. Dù là tu sĩ khổ hạnh, có phẩm bậc, quyền uy, nhưng quan trọng hơn hết vẫn là bản chất thánh thiện và tình yêu chân chính. Cuối cùng, họ đã xưng tội: xin Chúa tha thứ cho nhau.
Nhưng có lẽ, tạo được sự chú ý và gây xúc cảm đặc biệt cho người đọc chính là câu chuyện cuối cùng mang tên cả tập: “Một bóng thuyền không”. Lê Đình Trường đã chạm đến hồn vía của sự tồn sinh qua hai nhân vật chính trong truyện. Trường lực sáng tạo của anh đã mở rộng biên độ thậm sâu, thậm miên man về “cõi bên trong” của con người. Tâm thức của một người con miền sông nước dường như đã được ấp ủ từ những nhịp sóng thanh thoát, nhẹ nhàng và cả sự phóng khoáng, phiêu bồng của dòng sông. Cái mênh mang khi trong khi đục, khi hiền hoà khi hung dữ… Để rồi từ đó, anh khơi nguồn cho tâm thức tràn chảy như sông; để rồi từ đó, anh bày tỏ sự khát khao tìm đến “chốn thiện căn”. Chẳng phải thế sao?
Nhà phê bình Nguyễn Thị Liên Tâm
Nỗi đau đời của một con người không thể chịu đựng sự bức bối từ những phiền não về vật chất lẫn tinh thần, nên đã rũ bỏ cuộc sống bình dị để đuổi theo một bóng ma hư ảo. Nhân vật: “tôi” đã chọn một con đường đầy bất trắc trên sông nước trùng trùng với một người phụ nữ cô quạnh đã từng một mình một bóng trên chiếc thuyền không lang bạt sông hồ.. Trên mặt đất, khi con người đi lâu sẽ thành đường. Nhưng trên sông mênh mang, đi lâu mà thành đường thì chỉ có những người sống hoà trong sông, da thịt mặn mòi mùi của sông thì mới thành người của sông. Từ một kẻ “ngoại đạo” môi trường, như một người ăn bám, nhân vật xưng “tôi” đã quen với những hoạt động trên sông nước, thuộc lòng đường đi chằng chịt không rõ như trên đất liền… Tưởng rằng đã quen, nhưng “tôi” đã dằn vặt, trăn trở, nhớ nhung nơi mình đã từng sống với mọi người trên bờ, thèm được thấy cảnh làng quê quen thuộc, thèm nghe tin tức con người đến độ mỗi khi thuyền cập bến mua thức ăn, “Tôi” đã dành dụm từng mảnh báo gói thịt để vuốt phẳng và đọc ngấu nghiến vì đói thông tin…(tr 259)
Những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật “tôi” (gã trai yếu ớt bi quan, xấu xí – có lúc giống con thú ) và Hường (ngưòi phụ nữ hư ảo – rất đẹp – giỏi chịu đựng, khát khao sống và yêu) trong những ngày lênh đênh phiêu bạt trên sông nước và những ngày cuối sắp quay trở lại với đất liền (tr, 268) thật sắc ngọt. Lòng muốn đào thoát lắm rồi (tr, 253, 258), rất muốn quay về chốn cũ, nơi có những con người đã từng sống với mình, thèm thấy cảnh vợ chồng nhà họ đánh chửi nhau, “thèm người”; nhưng sâu thăm thẳm tận đáy con tim, nhân vật “tôi” lại muốn kéo dài ngày về vì tiếc nhớ những thời khắc hạnh phúc đầy đau khổ và dằn vặt đã trải qua.  Đúng như Lê Đình Trường đã tâm tình: Họ là những nhân vật trong tâm thức của anh. Và chính anh cũng là nhân vật trong tâm thức mình… từ đó mới thấy ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật của Đình Trường sâu tận đáy giếng, chẻ ra và xâu kết lại, như nước sông xé ra khi thuyền đến, dập duyềnh, rồi họp lại khi thuyền đã đi xa.
Miêu tả cuộc sống lang bạt kỳ hồ trên sông nước, Lê Đình Trường viết nhẹ như không nhưng thậm chân thật như những gì đang diễn ra trong cái đêm mưa to gió lớn bão bùng, nhân vật trong tâm thức cuả anh phải chống chọi để giành sự sống: “Ghịt kéo. Hút nhả. Nghiêng lắc. Nổi lên. Hạ xuống. Tôi nôn nao, hụt hẵng và rợn cả người…Chí có dòng nước với sức mạnh vô bờ, trùng trùng băng băng về biển… bất trắc khôn lường…Gió đang nổi lên. Gió đang chạy trên những ngọn cây ào ạt. Tiếng gãy đổ đùng đùng, răng rắc của cây rừng…Đêm nung nấu một màu đen khủng khiếp… Bỗng thuyền bị một con sóng lớn đập vào rồi hút ra xa…thuyền lảo đảo tuột nhanh ra giữa sông… Giữa đêm đen, không một bóng xóm làng, tôi sẽ bơi về đâu?…Tôi quờ quạng. mò mẫm tìm cái thau đang trôi nổi trong con thuyền ngập nước… hất nước như điên dại…Tôi khum người. Tôi bò. Tôi trượt ngã…Tôi tát nước ra ngoài sông…Tôi tát vào vách thuyền…Tôi tát ngược vào chính gương mặt mình..”…(tr, 254 – 257) Ta đọc và nghe rát cả lồng ngực: “Ngày về xanh xao, rạn vỡ, mê mải, sục mạnh tìm những mảnh vỡ tung toé, nóng nảy, hối thúc, bỏng rát, trầy xước, tấy đỏ. Chòng chành. Ngược nước. Ngược sóng. Đày đọa đến tận cùng sức lực…Chiếc thuyền giữa dòng như đông cứng, chết lặng. Quay lại ra khơi như những ngày cũ. Vô nghĩa. Trở về, đời ai nấy sống.Vô nghĩa. Chúng tôi như chết lặng giữa dòng, mặc cho thời khắc chuyển động…”
Họ khát khao đi tìm một cuộc sống an lành nhưng hành trình tìm kiếm quá sức gian nan, có khi đối diện với cái chết có thể ập đến bất kỳ lúc nào: “Tôi”đã yêu cuồng nhiệt, suy nghĩ cuồng nhiệt, khao khát được yêu, được sống, đi đến cái đích mà mình mơ ước, không thể sống xa con người, không thể lênh đênh, lạc loài vô định không có ngày mai. Cuối cùng, sự quay về không tránh khỏi nhưng cũng không thanh thản của nhân vật “tôi” chính là tâm thức hướng đến vẻ đẹp của một cuộc sống hoà nhập, kiếm tìm hạnh phúc, khát vọng. Tuy nhiên, kết truyện vẫn là một kết thúc mở: Tôi ngồi bệt xuống thềm ximăng, Hường dìu tôi đứng lên… và trên sông, vẫn hắt hiu một bóng thuyền không. Là một người gắn chặt đời mình với sông nước, liệu Hường có quay lại tiếp tục lang bạt kỳ hồ, cô độc, bóng chiếc lênh đênh?
Nếu giọng điệu trong Một bóng thuyền không sâu sắc, giàu cảm xúc khi thể hiện tâm trạng của những con người từng trải thì ở Sứ giả từ địa ngục (7/2012), những trang viết mềm hơn, ngọt ngào hơn, giàu lòng yêu thương con trẻ hơn. Trong các truyện, anh thường dùng danh xưng “anh”, như đang tâm sự với một ai đó về những tình cảm đang diễn ra trong tâm thức anh. Với người bạn, với những cô con gái thân yêu, với cuộc sống vẫn đang diễn ra một cách tự nhiên trước mắt anh và mọi người. Đó là tâm thức hướng về cô con gái đi học xa nhà, đã có lần bị anh tát như bị quỷ ám. Thế nhưng con gái hình như không nhớ chuyện cái tát của anh nữa. Như có thần giao cách cảm, anh té trên sườn núi, hình như con gái vẫn cảm nhận được qua giấc mơ. Là ước mơ mặc áo thiên thần, ở trên thiên đường của con gái. (Khoảng khắc ởThiên đường – tr 11). Là nỗi lo của anh khi bé nhỏ nói chuyện với người tù (Trò chuyện với người tù – 15). Là khu vườn êm ái của mẹ, nâng dỡ bước chân anh lúc anh vấp ngã, là nơi luôn đón bước chân anh quay về để anh vơi đi xót xa khi phải tự liếm vết thương của chính mình nơi xa mẹ… Là khu vườn mẹ luôn yêu thương anh như con trẻ dù anh đã gần đến tuổi thất thập cổ lai hy (Khu vườn của mẹ)…
Có những điều ta biết, ta nhận ra, nhưng ta không dám đối diện với sự thật. Khoảng lặng nói về chuyện bé con hỏi anh vì sao ông bà nội không nói chuyện với nhau, để anh giật mình nhận ra điều ấy anh đã biết từ lâu nhưng chưa bao giờ đặt câu hỏi đó cho ba mẹ như bé đã đặt ra cho anh. Tâm thức hướng về chân, thiện, mỹ đã khiến anh có cái giật mình rất đời thường nhưng lại rất con người của kẻ làm con.
Từ vô vàn chất liệu của đời thường, Lê Đình Trường đã chiêm nghiệm và chắc lọc, đã khao khát kiếm tìm, đã chọn cho mình những nẽo đường không phẳng lặng để khám phá những miền tâm thức hướng thiện và trao gởi tình yêu văn chương… Ấn tượng nhất trong Sứ giả từ địa ngục còn có tham luận “Tôi viết từ tâm thức”. Một bản tham luận trí tuệ, tài hoa bởi sự sâu sắc, giàu cảm xúc của Lê Đình Trường. Là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ 1993, gia tài văn chương khiêm tốn, nhưng anh đã chạm đến tận đáy những cung bậc rất đời thường qua hai tập truyện ngắn đã giới thiệu. Mong rằng, anh không như nhà văn trong Viết cho một nhà văn, hãy viết những gì anh bắt gặp được, dù chỉ là khoảnh khắc. Bởi từ đó, anh biết cách khơi dòng cho cảm xúc chảy tràn trên giấy; để từ đó, anh sẽ góp thêm nhiều tác phẩm cho cuộc đời vẫn đang ồn ả ở ngay chính trước sân nhà anh.
5/3/2020
Nguyễn Thị Liên Tâm
Nguồn: Rút từ tập tạp luận Chạm vào linh lệ, NXB HNV 2017
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu từ sự thật

Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu từ sự thật Nhà văn Văn Lê vừa vĩnh biệt chúng ta. Ông là cây bút chuyên nghiệp và bền bỉ, cuối đờ...