Cánh đồng lưu lạc 1
CHƯƠNG 1
Bây giờ thì bạn đang cầm trên tay cuốn sách của tôi. Nếu nó
không hay, không hấp dẫn bạn thì tôi, với tư cách là tác giả xin bạn hãy khoan
buông xuống, mà đọc thử một đoạn này. Rồi sau đó, có đọc tiếp hay không, là quyền
của bạn, do bạn quyết định.
Tôi tin rằng bạn biết và nhớ hai câu thơ này.
"Tôi ở Vĩnh Yên lên,
Anh trên Sơn Cốt xuống!"
Hai câu thơ trên được viết bởi nhà thơ lớn nhất, vĩ đại nhất
trong thời đại chúng ta. Hai câu ấy được đưa vào sách giáo khoa, để nếu ai đã từng
cắp sách đến trường đều được học. Nếu chỉ được viết bởi nhà thơ, dù là nhà thơ
lớn tôi cũng không có gan cam đoan như trên, mà vì nó còn được đưa vào sách
giáo khoa cho tôi, cho bạn và hàng triệu, hàng triệu người được học và phải học,
phải trả bài nên niềm tin của tôi vào bạn là có cơ sở, bởi tôi tin là bạn có đi
học và được học hai câu thơ trên.
Sơn Cốt là làng tôi! Làng Sơn Cốt là của tôi, nơi ông nội tôi
đến cư ngụ, lần lượt cha tôi, rồi tôi cũng được sinh ra ở cái làng nhỏ bé này.
Nó vô tăm tích nếu như không từng có hai câu thơ trên. Nó bé lắm, bé như hạt tấm
mà ông Trời đã vô tình để lọt qua kẽ tay, rơi xuống!
Từ bé, tôi tin rằng làng Sơn Cốt của tôi là một cái làng vĩ đại,
tuyệt vời, bởi nó có đầy đủ nhất, những anh hùng, hảo hán, những vĩ nhân bất
phùng thời, những người thất học, những bà ăn mày, những ông dở người, câm và
ngọng...
Nếu từ thủ đô Hà Nội đi lên phía Bắc dọc theo con đường quốc
lộ số Ba, khoảng năm mươi cây số, đến cái phố có tên là Phố Ba Hàng, một con đường
đất đỏ vừa đủ cho hai chiếc ô tô tránh nhau vất vả, rẽ về bên trái, là con đường
dẫn bạn vào làng tôi. Đi chừng hơn một cây số, trên con đường đất đỏ hai bên
chi chít cột điện, có cái đang reo trong gió vi vút, có cái nằm trơ vơ, như cô
gái khẳng khiu lỡ thời, bước qua chiếc cầu bắc bằng gỗ, mà dấu tích cây cầu bằng
bê tông bị đánh sập còn nằm ghếch một tảng xi măng cốt thép lên bờ, nom như một
cái váy đụp rất chi là cứng của một bà lão ăn mày ngủ gật, là bạn đặt chân đến
làng tôi.
Bạn gặp ngay một anh hùng!
Người "anh hùng" này có tên, nhưng tôi không nỡ đưa
ra đây, bởi cho đến bây giờ ông ta đã chết rồi, chết bình thường, cũng có kèn,
có trống, nhưng khi ông ta còn sống rất không bình thường tí nào. Vào cái năm ấy,
là năm người Mỹ chuẩn bị đem bom đến bắn phá miền Bắc, trong đó có cái hạt tấm
của chúng tôi, ông ta chừng băm lăm, băm sáu tuổi, là một trai đinh trong một
dòng họ lớn, mặc dù cũng là dòng ngụ cư. Ngay trên bệ cầu, vì cầu không có lan
can, một con người khòng khoeo, dáng dứng như kiểu pho tượng Milô bên nước Ý, một
tay ngửa ra như mời mọc, còn tay kia vì khoèo nên đưa ra phía sau, thế thủ.
Trên người anh ta không hề có áo quần, người đen nhẻm, và ngay dưới bụng, chỗ
hai chân giao nhau, lòng thòng một cái vật kỳ quái, phủ đầy rêu đen. Đó là một
con Tinh Tinh còn sót lại từ khi làng khai mở, hoặc cũng có thể nó đến từ một
nơi nào đó mà nó bị giam hãm, thoát ra. Anh ta thấy bạn, anh ta cười, hai hàm
răng đều và trắng kinh khủng, trong khi đó cặp môi thâm sì và lợi thì lại đỏ
như miếng tiết đọng trong ngực con lợn khi mổ. Đó là cái miệng của một con dã thú
ăn thịt người không gớm răng. Đợi bạn đến gần chút nữa, anh ta phát ra một câu
từ cái miệng méo xệch, ồm ồm mà rất vang, rất dữ mà cũng rất hiền, vì nó buồn
cười: Chu chố! (Cu bố). Thế rồi ngay lập tức, anh ta phóng mình nhảy xuống nước,
ngay trên bệ cầu ở độ cao chừng bốn thước. Anh ta chìm nghỉm sau một quầng bọt
trắng ngà. Không, bạn đừng ngại, anh ta không chết đâu, không chết được vì anh
ta bơi giỏi và cũng vì ông Trời đầy anh ta, như các vị bô lão trong làng vẫn
nói thế!
Bạn tiếp tục đi về phía Tây, hai bên đường vẫn vô vàn cột điện,
điện chạy lằng nhằng trên đầu, cột điện cắm chi chít vào ruộng vào vườn, nhưng
người dân làng tôi phải đến ba mươi năm sau mới biết thế nào là điện. Hai bên
đường không có nhà dân mà chỉ toàn những lùm cây gai tầm sọng, cây xạ hương và
những cây sau sau lá đỏ bám đầy những con sâu cước to bằng ngón chân cái, mình
đầy gai và mủ vàng đùn ra thành sợi như sợi cước. Thôn xóm ở lùi vào mãi trong
sâu, không ai dám ở và muốn ở ngoài "mặt tiền" như bây giờ ao ước, vì
không muốn mang tiếng "đầu đường, xó chợ" (và bây giờ thì cái "đầu
đường, xó chợ" đã thành một dãy phố, có tên là phố Cong Môi). Đến một ngã
ba, nơi choẽ ra hai nhánh, một vào Bến Đẫm, nơi có miếu thờ vị tướng công thần
nhà Lê Mạt Lưu Nhân Chú, còn bên trái đi về Bến Nhái, theo con đường mòn ăn vào
Đèo Nhe, sang đất Vĩnh Yên như cái tên trong bài thơ chúng ta vừa nhắc trên
kia.
Tôi xin nói kỹ một chút về cái giếng này, gọi là giếng Đồn.
Có thể bạn đang khát, mà nước dưới giếng thì trong vô ngần. Đây là một cái giếng
do người Tây, ông chủ đồn điền Sơn Cốt cho đào đào từ rất lâu, từ cái thuở khai
sinh ra cái đồn điền và cũng khai sinh ra cái làng Sơn Cốt của chúng tôi. Miệng
giếng rộng bằng cái nong, từ dưới đáy giếng sâu chừng sáu, bảy mét được kè bằng
đá xanh lên tận miệng và cả thành giếng. Vào những năm khô hạn, tất cả các giếng,
thậm chí cả ao hồ, cả Sông Công đều cạn, thì giếng Đồn vẫn có nước tuy không
nhiều, nhưng cũng đủ cho một nửa làng sống gần đó sử dụng, dù chỉ để nấu ăn.
Tôi không thể nào lý giải được điều đó, vì cái giếng Đồn ở vào một khu đất khá
cao, lại xa sông, xa hồ? Tôi đã chứng kiến có những tay xe thồ, đi đường vì
khát nước quá, lại không có gầu, anh ta bám vào các bậc đá leo xuống đáy giếng,
uống no một bụng nước rồi lại leo lên, tiếp tục đẩy xe đi. Khi còn nhỏ, tôi
cũng đã có lần xuống uống thử, vì nhà tôi gần đấy, chỉ cần chạy một mạch ngắn
là có thể về nhà, uống nước sôi hẳn hoi, thấy nước giếng Đồn ngọt lịm, mát lạnh,
nhưng khi nhìn lên, mới thấy sợ. Bầu trời nhỏ tí tẹo, hun hút xa xanh, như rời bỏ
tôi, để lại tôi cô độc trong lòng giếng.
Nếu bạn đi ban ngày, lúc còn mặt trời, tất không có chuyện gì
xảy ra, ngoài chuyện người anh hùng Tinh Tinh, nhưng nếu bạn đi vào ban đêm,
đêm thật khuya, đến gần ngã ba, bạn sẽ thấy trên miệng thành giếng, có một cái
bóng trắng. Đến gần hơn tí nữa, bạn sẽ nhận ra cái bóng trắng đó chính là một
người con gái, tóc thả dài, rũ rượi, bộ quần áo trắng toát, thỉnh thoảng ánh
lên lấp lánh hàng trăm, hàng ngàn chấm sáng lân tinh. Nếu người đi đường là người
mạnh bóng vía, có bản lĩnh cao cường, mắt nhìn lên sáng quắc, miệng hôi mùi tỏi
sống... cái bóng trắng ấy sẽ hoảng sợ. Nó rụt rè, run rẩy rồi lắc mình một cái
nhảy xuống lòng giếng, nhẹ như ta thả cái lông tơ xuống mặt nước, không một tiếng
động. Đó là cái bóng ma. Nếu khách lữ hành là một người yếu bóng vía, sắc mặt
trắng, bản lĩnh non gan, đi đường hay lúc ngồi ăn thường hay nhìn xuống, lòng dạ
bâng khuâng lo lắng vì đã trót làm điều gì trái lẽ đạo... cái bóng ma trắng
toát kia sẽ từ từ đứng lên tiến đến trước mặt người ấy. Bằng những điệu vũ công
thuần thục, hai bàn tay dài quá khổ vươn ra, chờn vờn như bắt bóng, cái miệng
tươi cười xinh như đoá phù dung, và thở ra mùi tanh của sắt, của đồng gỉ... ôm
choàng lấy đối thủ, khiến người ấy hoặc là bỏ chạy thục mạng, hoặc là ngất lịm,
gục đầu xuống miệng giếng. Cũng đã có người suy ra rằng, cái bóng ma phù dung ấy
sẽ nắm cổ, kéo tay, xốc áo người khách đem xuống giếng, dìm chết để thay vào
cái kiếp phù dung đêm của con ma ấy. Nhưng không có, hoặc ít ra là chính tôi
chưa thấy có ai phải chết dưới đáy giếng. Con ma trắng tay dài ấy không giết
người.
Khi tôi lớn lên đã được nghe kể về lai lịch của cái bóng phù
dung trong lòng giếng Đồn. Người con gái tóc dài rũ rượi ấy có tên là Mùi, cô cả
Mùi. Cô cả Mùi không hểu vì lý do gì đã nhảy xuống giếng để tự vẫn. Có người
cho rằng thất tình, nhưng ngay sau đó một người khác, có hiểu biết hơn, lại cho
rằng không phải thất tình mà cô Cả Mùi quyên sinh. Người ấy bảo rằng đó là vì
cô ta uất ức vì một nguyên do khác, từ phía chính quyền. Chính quyền phong kiến
thời ấy thối nát, ăn gian, nó dối, vu oan giá hoạ, độc quyền bắt bớ phạt vạ...
làm cho người dân làng Sơn Cốt điêu đứng. Cô Cả đã lên tiếng đấu tranh, nhưng
mà, như sau này trong đợt học tập trị an, ngưới ta bảo "Đấu tranh thì
tránh đâu?". Cô Cả Mùi dũng cảm và dại dột, kiên quyết mà cả sợ đã nhảy xuống
giếng Đồn mà chết, giữa ban ngày. Có anh Cân là một thanh niên nghịch ngợm còn
thêm vào rằng, trước khi nhảy, cô Cả còn hô khẩu hiệu "Công nông liên minh
muôn năm!" và "Chính quyền nhân dân muôn năm!", vì thế nên hơi
thở của Cả Mùi mới hắt ra mùi của đồng, của sắt gỉ, búa liềm đấy!
-Cái mồm thằng Cân thế nào cũng bị vả cho sưng lên! Ăn nói bố
láo bố lếu!
Quả nhiên mấy ngày sau, cái miệng anh Cân sưng to, vêu lên
như mõm bò có chửa, đỏ rực. Anh đau quá, nhưng nhất quyết không chịu cúng vái Cả
Mùi, mà phải nhờ đến cụ Lang Tuất lấy ra từ trong miệng những con sâu to bằng
cái chân hương, trắng hếu như những con bọ trong chum tương. Đó là những con
sâu răng!
Phía tay phải giếng Đồn là cánh đồng, có tên là cánh đồng Lưu
Lạc. Sao lại có cái tên đó, ai mà biết được? Nhưng theo nhiều người già kể lại
có lẽ nó được khai phá bởi những người dân lưu lạc tứ xứ kéo đến khai phá. Đó
là một cánh đồng rộng, cấy lúa nước, và vào dịp xen vụ, cánh đồng bát ngát màu
tím, màu trắng, màu vàng... như hàng tỉ con bướn run rẩy trong gió. Đó là vụ đậu
đang trổ hoa. Mặt đông cánh đồng Lưu Lạc tiếp giáp với làng, phía nam là con đường
đất đỏ bụi lầm, còn phía tây nó ăn thông với giòng sông Công và bị chặn đứng lại
bằng một rặng tre gai, mỗi mùa một màu thay đổi, mùa hạ nó xanh rì, sang xuân
nó ngả màu vàng bủng, và những bông hoa tre xấu xí khô cằn rụng lã chã. Rặng
tre ấy có nhiệm vụ chắn lở, nhưng thế nào đó, dòng sông đã đổi tính, chuyển bờ
lở sang bên kia Thống Hạ, để sau rặng tre làm thành một bãi bồi, không lớn lắm,
nhưng đủ để cho cỏ mọc xanh biếc, những rặng cây bưởi bung nở hoa trắng ngát và
để lại những trái bưởi bung bằng đầu ngón tay, ăn ngòn ngọt, hăng hăng mùi bưởi
bòng. Cánh đồng Lưu Lạc đã từng là nơi chôn vùi hơn ba trăm sinh mạng dân làng
tôi, đó là những xã viên đang làm cỏ tên đồng, thì một chiếc máy bay Mỹ đã thả
hai quả bom bi mẹ xuống, hai quả bom này chao đảo như hai cánh diều đứt dây, rồi
nó bùng nổ ngang trời, tung ra hàng ngàn quả bom bi con, nhổ lụp bụp, suốt ba
mươi năm trời sau này vẫn nổ.
Nhưng thôi, tôi sẽ còn kể về cánh đồng ở những đoạn sau, bây
giờ chúng ta hãy trở lại làng. Xin nói ngay rằng, tôi đã lầm, vì tưởng rằng chỉ
làng Sơn Cốt của chúng tôi mới có đầy đủ những gã ngốc, bà Côi ăn mày, Cụ Đồ
Nham, Giáo sư Thanh, ông Bếp Hồng, anh hùng Tinh Tinh... Nhưng không phải thế.
Tôi đã đi khá nhiều, kết bạn với cũng khá nhiều bạn hữu, để biết rằng, mỗi thôn
làng Việt Nam yêu dấu của chúng ta cũng có đủ những nhân vật ấy. Có thể hơn kém
nhau tí chút, nhưng đều có đủ những hạng người để dân làng giải trí bằng những
câu chuyện lưu truyền hậu thế, hay ít ra cũng là để cười cợt, suy tư trong những
tháng ngày phân gio quần quật. Nhưng làng tôi không có kẻ giết người. Tôi chưa
từng thấy, đã đành, mà con chưa từng nghe đến một tên sát nhân nào tồn tại
trong những câu chuyện tục tĩu hay đoan trang của thế hệ trước kể lại. Mãi sau
này, tôi được kể lại, ông bạn thiếu thời của tôi tên là Phúc, bơi giỏi, thả diều
cũng giỏi, bị bố đánh (ông bố vốn là một binh nhất trong quân đội Lê Dương thuộc
Pháp, đã sang tận Phi Châu đánh thuê) để lại cái sẹo trều môi (nên gọi là Phúc
Trều), người đã từng tặng tôi cuốn sách đầu tiên trong đời tôi được đọc, là cuốn
Rôbinxơn Cơruxô, giá năm xu, vào dịp Quốc khánh 2-9. Chiến tranh, sau này Phúc
đi thanh niên xung phong rồi chuyển sang quân đội ở đơn vị quân giới, giờ về
hưu làm thợ gò hàn đầu phố Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng
cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội,
bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn
này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai,
trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng,
nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu
nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có
kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ
Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp,
mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn,
"phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh
của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm
nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con
nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì
lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ
là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói
chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là
Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ
thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn
Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng
là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong
bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có
mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết,
nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được
sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó
là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa
ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông
Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì
ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng,
mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang
tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá,
còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham
không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa
mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt
một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa
chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết".
Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng
chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà
hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi),
thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết
bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền
bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của
cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người
tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu
Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có
khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho
ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất
ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai
bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo,
nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh!
Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một
người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu
chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái
gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có
khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa
máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp,
rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ
toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao
vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét,
nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón
chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi
tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh
là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với
bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc,
còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì
phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà
bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một
sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ
trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể
cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những
năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà
hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc
chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm
lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng,
béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái
giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính
là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ
và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông
Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi
nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết,
tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui
vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất
cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một
thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng
của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo
đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả
nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái,
chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi
là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu
là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ
một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm
tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ
ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng...
keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng"
là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc
Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung
để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác
con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ
du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó
có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ,
phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng"
của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ
"cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta
dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà
vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả
bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập
mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng
yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ.
Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào
cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học
vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học,
bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy.
Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu
Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái
tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy
tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống
một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó
già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không
còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất
mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối
với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống
một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với
cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ,
vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một
tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi
chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ
đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá!
Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy
Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi
mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi
mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi
và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương
tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng
ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi
con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều
này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng
tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa.
Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng
thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy
lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu
hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi
tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những
câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí
nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay
về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng
truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con
trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là
không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường
trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì
tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí
thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết
bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục
sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy
con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi,
còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở
về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã
học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới
hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không
trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho
chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những
thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình
người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui,
cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán
cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn
và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách
Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với
tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng
nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên
ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể
trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền
đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ,
gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của
thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có
bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy,
chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua
đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải
mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi
không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải
ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi
"dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với
thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn
đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ
im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một
cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó
đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng
có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng
tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt
như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng
láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm
sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng
tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh
giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi
còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô
"có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường
thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng
may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển
vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống
nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là
vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú
tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày
mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường
gánh phân ra đồng!
CHƯƠNG 2 -
S
au khi vãi nốt gánh phân cuối cùng để có được năm điểm ghi
vào sổ hợp tác, tôi quẳng đôi quang gánh vào đâu đó rồi lên đồi nằm vật vờ trên
vạt cỏ mua đất. Bên cạnh tôi, những ngôi mộ cũ cùng những bụi sim chằng chịt
dây tơ hồng. Trời càng lúc càng tối sẫm, văng vẳng tiếng người gọi nhau trở về
từ phía làng, nghe như tiếng gọi của những con người lạc nhau trong chiều hôm.
Từ một ngôi mộ nào đó rất gần cất lên tiếng kêu đơn điệu, cô độc của một con dế.
Tiếng kêu nghe lúc xa như kẻ hụt hơi, lúc gần đến chói tai. Cánh đồng tháng
tám, cánh đồng có cái tên nghe muốn rớm nước mắt, trải ra một vùng tím ngát nối
vùng đồi với dòng sông ngầu đục, con sông chảy cắt đôi làng tôi làm hai nửa
không đều nhau, bên tả ngạn đang bồi, còn bờ kia đang lở. Phía bờ ngòi, một người
đàn bà nách cắp chiếc rổ, xắn quần ngang đầu gối, hối hả chạy, bước thấp bước
cao như có ma đuổi. Tôi bứt một quả sim muộn bỏ vào miệng nhai, vị chát ngấm dần
vào lòng. Nỗi buồn tạm lắng, lại được dịp trào lên, tôi úp mặt vào hai cánh
tay, nằm sấp trên cỏ... Trước mắt tôi hiện ra cánh đồng đục nước, và sau khi gặt
lúc ba giăng (ba trăng - tức ba tháng, cấy xen vào giữa hai vụ chiêm mùa), tôi
đùn chiếc cầy quấn đầy rạ tươi, đến bờ không nhấc nổi, nỗi nghẹn ngào muốn rơi
nước mắt. Trong túi tôi còn một củ khoai. Tôi có ba củ khoai của bữa sáng. Một
củ tôi ăn trước cửa chuồng trâu, chờ cho con trâu thức dậy. Một củ, tôi ăn trên
đường ra đồng trong ánh trăng già hạ huyền, bước thập thõm trên bờ ruộng gầy ngặt.
Khi nào thả cầy, con trâu tìm gặm cỏ là lúc tôi ăn nốt củ khoai cuối cùng của
mình. Thế là tôi đã chấm dứt quãng đời niên thiếu tuổi học trò của mình, vương
vấn quá!
Trời càng tối sậm khi lưỡi trăng non như một cái lá cỏ bay dạt
trong sương xanh lành lạnh. Cả một trái đồi lừng lững in vào góc trời đen thâm
như một ngôi mộ ngàn kiếp im lìm hoang vắng. Chợt tôi rùng mình khi có người vỗ
vai. Ai? Bàn tay vỗ nhẹ và dừng lại, truyền cho tôi một chút hơi ấm. Nếu không
có cái hơi ấm ấy, chắc chắn là một hồn ma nào đó vừa từ dưới một ngôi mộ gần đấy
chui lên. Tôi từ từ ngẩng lên và nhận ra khuôn mặt một người con gái, lờ nhờ trắng
trong chiều tàn. Mái tóc đen và dài chảy xuống cổ và mặt tôi, toả một mùi hương
dịu ngọt rất lạ lùng, nhưng lại đầy vẻ quen thuộc. Tôi vùng dậy ôm choàng ấy
người con gái ấy và khóc. Mãi lâu sau, để cho tôi nguôi bớt cơn khóc, giọng người
thiếu nữ thoang thoảng:
-Nín đi, em! Khóc thế đủ rồi...
Tôi ngước lên lóa mắt trong ánh trăng chiều, rồi gục đầu vào
ngực người thiếu nữ ấy:
-Em buồn quá, chị Nga ơi!...
Chị Nga nhìn tô bằng cái nhìn của người đang nhìn một con thú
bị thương, cái nhìn đầy thương cảm, nhưng bất lực. Tôi tiếp tục nức nở:
-Em biết làm thế nào bây giờ?... Bố mẹ em cũng buồn, nhưng em
phải nghỉ học thôi!
-Cả chị, cả bố chị cũng buồn cho em... em trai của chị! Chị
không biết làm gì khi biết em phải bỏ dở chuyện học hành. Bố chị thì tiếc cho
em lắm...
Chị Nga là con gái thầy Hoan. Mẹ chị mất sớm, mất ngay từ khi
chị mới lọt lòng. Chị không biết gì nhiều về người mẹ của mình, chỉ có thầy
Hoan biết, nhưng thầy một mực giữ kín trong lòng. Đó là một câu chuyện tình của
người xưa, thấm đẫm máu và nước mắt. Tôi ước gì có thể kể cho bạn nghe!
Thầy Hoan bế chị trong một cái áo chàm được bọc thêm bằng một
cái áo trấn thủ, may chần chéo những hình quả trám, loại áo của các anh Vệ quốc
đoàn. Chị im lặng, không khóc, và cũng rất ít cười mà cứ lớn lên bình thản. Lúc
ấy thầy Hoan mới ngoài ba mươi tuổi, và cái lý do khiến thầy đậu lại ở làng tôi
(cũng như cha ông tôi đã đậu lại trên mảnh đấy khó nhọc này) là thầy gặp bà ngoại
tôi. Thầy gọi bà ngoại tôi bằng bá, vì bà người cùng làng quê với thầy. Cuộc
trường chinh tha hương của thầy không hẳn là cầu thực. Có thể là một niềm say
mê rủ rê con người ta ra đi, và cũng như thể để trốn tránh một cái gì đó của
riêng họ, để rồi đến một tuổi nào đó, họ nhận ra mình đầy rẫy những nỗi niềm lầm
lỗi. Những người có chức sắc làng tôi cũng vui vẻ chấp nhận thầy, và thầy Hoan
được đề nghị trân trọng làm thầy giáo dạy đám học trò học chữ sau ngày hoà
bình. Căn nhà rạ một gian hai chái của cha con thầy giáo làng nằm trên cùng với
một mảnh đất nhà tôi, lẩn khuất sau bóng cây si già bên bờ ao Sen.
Lúc nhỏ, chị Nga là một đứa bé sài đẹn, ốm yếu. Nhưng chi cứ
thản nhiên lớn dần lên trong sự lãng quên của làng xóm.
Một lần tôi nghe được câu chuyện giữa thầy Hoan và bà ngoại
tôi:
-Anh giáo xa làng lâu chưa? Bà ngoại tôi hỏi.
Thầy Hoan im lặng một lúc, hai tay mân mê cây cời bếp:
-Cháu không nhớ nữa, nhưng hình như từ lúc cháu còn bé. Cứ thế
theo người ta đi, cũng chẳng biết đi đâu. Sau được làm con nuôi một gia đình
khá giả. Nhờ thế, cháu cũng được đi hoc, bá ạ! Cứ tưởng đời mình được may mắn,
nào ngờ, tạ hoạ ập đến…
Đó là một câu chuyện thê lương. Trong cuộc chạy đua vào chức
phó lý, gia đình bố nuôi của thầy Hoan trở thành khánh kiệt. Hơn thế nữa, họ đã
gây ra mối oán thù giữa những kẻ có của, hãnh tiến. Ông cụ bố nuôi của thầy bị
hàm oan, và đã chết trong nhà lao. Rồi bà mẹ cũng ốm đau dặt dẹo rồi qua đời.
Anh em ly tán, tất nhiên thầy Hoan cũng phải tìm đường bán xứ. Tóm tắt là thế,
nhưng đó là những tháng ngày tuyệt vọng dài đằng đẵng của một anh học trò trường
làng. Năm ấy thầy mới mười lăm tuổi, bắt đầu cuộc hành trình lưu lạc mới.
-Cuối cùng thì thị xã Phú Thọ là nơi cháu dừng lại. Quãng hai
năm sau, cách mạng nổ ra, cũng nhờ công ơn ông bà cha mẹ nuôi, có được ít chữ,
cháu trở thành anh giáo bình dân học vụ…
-Thế ra anh giáo cũng là người trôi lạc, bôn ba nhỉ? Mà nghĩ
cho cùng, cái thời buổi ấy, trăm người được mấy ai thoát khỏi cảnh tha hương,
bán xứ. Nghĩ mà tủi, biết bao giờ mới ngó lại được nơi chôn rau, cắt rốn…
-Cháu cũng muốn về làng một lần, bá ạ! Cái làng Sen Hồ của
mình ấy, không biết bá có còn ai không, chứ cháu chỉ còn một người anh cùng mẹ.
Năm nọ nghe anh ấy gả chồng con gái, là nghe mấy người đi buôn họ nói thế...
-Anh giáo là đàn ông, còn có thể đi đây đi đó, tôi là đàn bà,
theo phận nhà chồng, lại già cả rồi, nào dám nghĩ đi được đến đâu...
Bà ngoại tôi lẳng lặng đem ra một bát bánh đúc tấm và một bát
tương:
-Anh ăn đi. Tôi hỏi nhá, thế mẹ cháu Nga người ở đâu ta?
-Người Trại! Ở bên trên Phúc Thuận một quãng. Chỗ nông trường
bộ đi vào...
-Thế anh cứ định ở vậy mãi à? Tôi nghĩ có đám bên Thống Hạ...
Thầy Hoan xắn một miếng bánh đúc bỏ vào bát tương, chống đũa:
-Thôi bá ạ, cháu có con Nga là đủ lắm rồi. Đèo bòng làm gì
cho khổ thêm mình, lại khổ cả cháu. Bá còn lạ gì thói đời dì ghẻ con chồng,
bánh đúc nào có xương...
Bà ngoại tôi cười:
-Có đấy! Năm nay thóc ao gạo kém, tôi nấu bằng gạo đầu, ăn
thì để ý mà nhằn, kẻo lại hóc. Cháu Nga rồi nó lớn, cũng phải đi lấy chồng. Lúc
bấy giờ còn mình anh, ai đỡ đần, nâng giấc? Năm nay cháu mười mấy nhỉ? Mười sáu
à? Cũng sắp sắp rồi đấy. Trông trẻ nó lớn mà thấy mình già...
-Bá nấu bánh đúc( ) ngon quá! Cứ như thể là ăn ở làng mình ấy!
Bá nói sao? Cháu Nga nó lấy chồng thì cháu chọn thằng nào ở rể. Cháu thành dong
thế này cũng chả đến nỗi khó tính. Ăn uống kham khổ, đạm bạc quen rồi, chẳng cầu
kỳ...
Câu chuyện của thầy Hoan và bà ngoại tôi ngày đó mà tôi nghe
hóng được tôi đem khoe với chị Nga. Chị bảo chị chẳng thèm lấy chồng, cứ ở nhà
với bố. Tôi cũng tin như thế. Lúc này đây, trong ánh trăng mờ, tôi thấy chị
thánh thiện quá. Nhớ lại câu chuyện cũ, tôi hỏi:
-Thế chị có định lấy chồng không?
-Không! Chị đã nói với em một lần rồi mà. Này, nhưng sao em
không là con gái nhỉ? Để chị em mình cùng... không thèm lấy chồng! Nhưng mà
thôi, em cứ là con trai cũng được, để chị còn thương em...
Tôi vùi sâu mái tóc khét nắng của mình vào lòng chị Nga. Trái
tim tôi dần dần nóng lên một cách khó hiểu. Tôi nghe thấy cả tiếng đập của nó,
nặng nề ở đâu bên thái dương. Tôi nói mà nghe thấy tiếng nói của mình như giấu
kín trong tà áo chị Nga:
-Chị em mình mãi mãi bên nhau nhé?
Chị im lặng, không nói. Bàn tay chị lùa vào mái tóc tôi, những
ngón tay chị cứ ngập ngừng, như muốn nói "ừ!", mà cũng có thể là
"không!".
Tôi làm sao hiểu được chị? Không, sẽ chẳng bao giờ tôi hiểu!
Tôi thì trẻ thơ mà giờ đây chị đã là một thiếu nữ, là người chị, người bạn cuả
tôi, hơn thế nữa, chị còn là cô giáo dạy tôi môn địa lý lớp bảy. Đây là lần đầu
tiên từ khi tôi lớn lên, trong cơn tuyệt vọng, tôi gục đầu vào ngực chị để được
khóc. Chị cứ để yên như thế, để mái đầu khét nắng và trái tim của một thằng
trai mới lớn ngủ yên trên ngực chị. Tiếng dế đàn lập tức từ các kẽ đá của những
ngôi mộ đồng loạt cất lên, nghe hào hứng và rạo rực lạ thường. Tôi từ từ tĩnh
tâm lại, ngước lên nhìn vào mắt chị Nga:
-Chị ơi! Sao người ta không thể làm chủ số phận của mình được
nhỉ?
Chị không trả lời mà âu yếm bảo tôi:
-Đưa bàn tay của em đây, bàn tay kia, tay trái ấy...
Chị Nga nắm lấy bàn tay tôi đưa ra dưới ánh trăng. Trăng non
mờ quá lại sắp lặn, tôi nhìn bàn tay mình mà chẳng thấy gì cả. Nhưng chị vẫn lấy
ngón tay của mình chỉ vào lòng bàn tay tôi, giọng xa vắng:
-Bàn tay em đẹp lắm, không phải của người cầm cày, cầm cuốc
mà là có dáng của một thư sinh cầm bút. Nhưng đường học vấn bị đứt ngang, như vậy
là chuyện học của em có nhiều dang dở...
-Hay là tại số hả chị?
-... Có học được cũng chật vật lắm, mà rồi cũng chẳng đi đến
đâu, học nghề này lại đi làm nghề khác! Em còn muốn học không?
-Muốn lắm! Tôi ngồi thẳng dậy, hào hứng như một cậu học trò
thuộc bài, tự tin.
-Có cách này. Em làm hồ sơ xin vào học trung cấp sư phạm, như
chị ấy. Được học văn hóa, lại có học bổng, gia đình không phải lo...
Tôi không tiếp lời chị Nga, chỉ im lặng cắn một ngọn cỏ đắng.
Học hết lớp bảy phổ thông trường huyện (ngày ấy cả huyện tôi chỉ có một trường
cấp 2 - 3) chị Nga vào học trung cấp sư phạm. Ra trường chị được một sự ưu tiên
vô cùng quý giá là về dạy ở quê nhà, để trông nom cha già là thầy Hoan, cũng là
một nhà giáo đã nghỉ dạy. Ở trường chị dạy tôi môn địa lý. Buổi học cuối cùng
chấm dứt, ngày mai chúng tôi thi tốt nghiệp, ra trường và ngày kia, ngày kia nữa...
để rồi câu chuyện học hành của tôi chấm dứt buổi chiều nay.
-Có học toán, học văn không hả chị? Tôi lạnh lùng hỏi lại chị
Nga.
-Có chứ! Nếu em học ban tự nhiên, em sẽ học toán lý hoá, còn
ban xã hội, sẽ được học văn-sử-địa, như chị ấy!
-Em học văn! Em sẽ làm nhà thơ!
Tôi hồn nhiên hào hứng. Chị Nga cúi xuống nhìn tôi:
-Em cũng làm được thơ à? Đọc nghe nào!
Tôi ngồi lên đọc bằng một giọng ngân nga:
"Dù anh đi một ngàn đêm sương gió
Vẫn thương em khi nhạt ánh chiều
Anh sẽ đi làm màu xanh bãi cỏ
Cho em ngồi tình tự với người yêu!"
Đọc xong, tôi ngước nhìn chị Nga, chờ đợi những lời khen ngợi,
thán phục. Nhưng chị chỉ ngồi im nhìn xa vắng về phía giòng sông, yên lặng. Mãi
sau chị nói nhỏ, bâng quơ:
-Yếu đuối quá! Thôi, chị em mình về đi, chị lạnh rồi!
Tôi đứng dậy theo chị Nga. Chị cuốn mái tóc xõa xuống lưng,
vuốt lại tà áo. Lúc này, nhìn chị tôi mới nhận ra chiếc áo chị mặc, không phải
chiếc áo trắng chị vẫn mặc. Cái áo hôm nay chị mặc cũng màu trắng nhưng nhuộm đẫm
màu biếc của trăng non, và hình như ánh lên màu sáng xanh của ánh lân tinh,
nhìn như trong suốt. Tôi cứ bước thấp, bước cao trên bờ ruộng, còn chị Nga cứ
băng băng như lướt trên cỏ, trên đồng và trên cả ánh trăng giãi tràn xuống đôi
chân trần của chị. Đến đầu làng, nơi có cây gạo già nua, chị bảo tôi:
-Em về trước đi, chị đi có tí việc rồi chị về sau!
Tôi chưa kịp nói gì thì bàn tay chị đã rời khỏi tay tôi. Tôi
quay lại nhìn cái bóng trắng có pha màu dạ quang lướt nhẹ về phía góc làng. Ở
đó, ban ngày dưới bóng mát của ngôi mộ đá Chúc Anh Đài (thật ra là mộ của một
người Tây) và những cây dứa ma, đám trẻ vẫn thường tụ nhau đánh chuyền, đánh chắt...
Hôm sau, không chờ được đến tối, sáng ra tôi đến trường tìm
chị Nga. Thấy tôi chị hỏi:
-Em đi đâu đấy? Tìm chị à, có việc gì vậy?
-Về việc tối hôm qua...Em... em muốn đi sư phạm!
-Được để chị hỏi Ban tuyển sinh cho em. nhưng mà muộn rồi. Đã
khai giảng khóa mới, có lẽ phải chờ sang năm...
Tôi chạy ào về nhà, lòng cay đắng hờn trách chị Nga, dù tôi
biết chị chẳng có lỗi gì.
Tôi còn phải ở nhà một năm nữa với ba củ khoai của mình trên
cánh đồng Lưu Lạc cấy lúa ba trăng và vụ màu tái giá. Năm sau,vào một buổi trưa
cuối hè, anh Định Khiểng, người giao thông xã đút qua hàng rào cho tôi bức thư
đặc biệt- nó to hơn những lá thư mà tôi thường thấy, lại được làm bằng giấy
báo, và được dán lên một mảnh giấy vuông vuông màu vàng đề tên và địa chỉ người
nhận là tôi. Tôi giật thót tim: giấy gọi vào học trường trung cấp sư phạm! Tôi
chạy ào qua vườn, qua dõng sắn, băng trên những chà gai xấu hổ, xộc thẳng vào
phòng chị Nga. Chị đang ngủ, vầng trán thanh tú của chị giãn ra nhẹ nhõm. Dưới
lớp chăn mỏng cùng với nhịp thở đều đều, vòm ngực nhỏ bé của chị cũng nhịp
nhàng dâng lên, hạ xuống thanh bình. Tôi đứng lặng đi trong một giây, giùng giằng,
nửa muốn xộc vào đánh thức chị, nửa muốn quay ra. Sau cùng tôi xoay bước, khẽ
khàng không làm động giấc ngủ trưa thanh thả, hiếm hoi của chị. Tôi vừa quay ra
thì có tiếng chị:
-Này, nhà thơ! Em có chuyện gì thế?
Tôi ngoảnh lại và thật kinh hoàng khi nhìn thấy một bên vai
áo chị trễ xuống, một vòm ngực sáng và mịn như được nặn bằng đất sét thạch cao
màu ngà lóe lên. Tôi từ từ tiến đến, chìa ra trước mặt chị cái giấy báo nhập học.
Chị hất mái tóc ra sau, xốc lại áo, rồi nắm tay tôi, kéo ngồi xuống bên cạnh.
Chị đọc xong, liếc nhìn tôi, mỉm cười:
-Mừng không?
-Em cũng không biết nữa. Chị có mừng không? Là em hỏi cái
ngày chị nhận giấy báo nhập học, chị có mừng không?
-Thích lắm. Nhưng chị lại thương bố. Chị đi rồi bố ở nhà một
mình...
Tôi hào hứng:
-Em chẳng phải nuôi ai. Thế mới thích. Ừ mà em mà lại làm được
thầy giáo, chị nhỉ?
-Làm được chứ có gì mà không làm được. Ở nhà, đã ai biết
chưa?
-Chưa!
-Về đi, về báo cho bố em biết!
Lần đầu tiên tôi được đi ra khỏi cái làng Sơn Cốt bé bỏng và
đầy những nghịch cảnh của mình. Theo lời dặn trong giấy, mẹ tôi phải bán hơn bốn
chục cân thóc, lấy giấy chứng nhận của phòng lương thực huyện đem lên trường ăn
gạo nhà nước. Cũng theo lời ghi chú trong giấy báo, học sinh phải đem theo một
loại vũ khí thô sơ: dao găm hoặc mã tấu, tôi lôi ra thanh kiếm cùn trong đống đồ
nghề thợ bạc của ông ngoại tôi. màn đi mài lại cho đến sáng loáng. Tôi được mẹ
sắm thêm cho một cái quần gụ may theo kiểu chân què. Khốn nỗi, phiếu vải không
còn, mẹ mua ngoài chợ của ai đó một tấm vải đầu cây, còn ghi những con số khó
hiểu đánh dấu mẫu mã của xúc vải. Chỗ ấy được bà An may xuống gấu quần, những
hàng số bằng sơn màu vàng, không thể nào giặt sạch trông như số của người tù. Kệ
nó, tôi tự nhủ! Trước ngày lên trường chị Nga ngồi với tôi một buổi chiều, chị
dặn dò từng li, từng tí, ăn ở ra sao, nói năng thế nào, những thầy nào, cô nào,
tính khí ra sao chị cho tôi nghe bằng hết. Đến lúc tôi đem ra khoe vói chị cái
quần có số, chị cười:
-Em mặc vào cho chị ngắm xem nào!
Tôi vào trong buồng một lúc rồi trở ra lùng thùng trong cái
quần có số màu gụ, chị Nga tự dưng cứ rũ ra mà cười:
-Trông em như người Cao Lan ấy. Thôi, không sao, càng đỡ phải
giặt xà phòng...
Nhìn tôi lúc đó, chắc phải buồn cười lắm. Nặng bốn mươi mốt
cân, cao một mét bẩy mươi, diện một cái quần "âm lịch" có đánh số dưới
gấu, lếch thếch cái hòm gỗ - nguyên là cái hòm đựng xà phòng của Liên xô và lủng
lẳng bên hông một thanh gươm... ra đi học làm anh giáo, gõ đầu trẻ. Và đúng như
ước muốn của tôi, tôi học ban xã hội với các môn văn-sử-địa.
Đến nửa năm thứ ba, nghĩa là còn một học kỳ nữa, qua một đợt
thực tập là ra trường, tôi đã kịp hình dung ra tôi, một anh giáo làng, cần mẫn
và an phận. Nhưng, một hôm người ta đánh xe ô tô đến, họ chở nào cân, nào túi
thuốc, nào bảng chữ cái khám mắt đến dựa ngổn ngang cạnh các gốc cây. Tỉnh đội
đến khám sức khỏe, tuyển bộ đội! Chúng tôi được thông báo, và được gọi đến khám
tuyển. Tôi đã trúng tuyển ngay lần khám đầu! Dĩ nhiên là chúng tôi rất hào hứng.
Lòng hân hoan, những miền đất xa xôi, đầy hứa hẹn và lãng mạn đã cuốn hút tôi,
mà không hề hình dung ra những gian nan, cực khổ của cuộc chiến tranh đang chờ
đợi.
Trong khi tôi đang hí húi viết những giòng lưu niệm cho bạn
bè thì nhận được thư chị Nga. Chị lấy chồng! Tôi phải về, phải về ngay! Không
thể nào chần chừ được nữa. Lúc này, tôi đã đủ lớn, đủ sức suy nghĩ để hiểu rằng,
không có hạnh phúc nào lớn lao bằng tình yêu đôi lứa. Rằng, người con gái phải
lấy chồng, họ phải có một gia đình riêng, một cuộc sống riêng. Nhưng sao, lại
là chị Nga của tôi? Chị lấy ai? Người chồng của chị có yêu chị không? Chị có
yêu anh ta không? Và, cả tôi nữa, anh ta có làm cho tôi yêu mến không hay cũng
lại là những tay đàn ông đầy lòng tự ái, vũ phu, gia trưởng và ngu xuẩn mà tôi
đã thấy? Cái cảm giác mất chị tràn ngập trong ý nghĩ. Buổi chiều, tôi ra nhà bố
Tiễu, - bố nuôi tôi, theo quy định của nhà trường, chúng tôi kết nghĩa làm con
nuôi một gia đình nào đó trong địa phương nơi trường đóng chân, tôi làm con
nuôi ông bà Tiễu người Thái Bình lên khai hoang - mượn được một chiếc xe đạp cũ
kỹ. Suốt đêm ấy, từ nơi trường sơ tán, tôi đạp xe gần một trăm cây số về dự đám
cưới chị Nga.
Khoảng gần mười hai giờ đêm tôi về đến nhà. Trời lạnh, gió tạt
cắt da, nhưng hai bên tai tôi lúc nào cũng nóng phừng phừng. Bố mẹ tôi ngạc
nhiên lắm khi thấy tôi về nhà vào nửa đêm thế này. Tôi bảo:
-Con đi bộ đội đây! Trên trường họ khám, con trúng rồi.
Mẹ tôi lo lắng:
-Thật không con?
Bố tôi không nói gì, ông lặng lẽ bước ra sân, ngoài ấy một
màn sương trắng đục đang la đà, tràn ngập vườn tược, cây cối. Lát sau, bố tôi
vào nhìn tôi:
-Được về mấy ngày?
-Con trốn về. Xe đạp con mượn của bố Tiễu... Trưa mai con phải
lên để kịp ra tỉnh đội tập trung!
-Sao không cho con người ta về nhà gặp gỡ, chia tay với gia
đình? Làm gì mà gấp gáp cứ như là bắt lính thế hở con? Mẹ tôi đặt đứa em rồi trở
dậy cứ đứng nhìn tôi trân trân.
-Con không biết nữa! Thời chiến mà. Thôi con ngủ một tý đây.
Bố mẹ cũng đi ngủ đi.
Tôi ra giếng ngó sang nhà thầy Hoan. Bên ấy vẫn còn sáng đèn.
Tôi muốn lao vào mà ôm chầm lấy chị Nga quá. Nhưng nghĩ thế nào, tôi vào nhà
chui vào chăn vói thằng em. Tôi vùi chăn kín đầu, còn nghe tiếng bố tôi:
-Ở nhà mai dự đám cưới chị Nga đã chứ!
Tôi vùng ra:
-Lấy ai hả thầy?
-Thằng Kỳ, con nhà Tuân!
Tôi lặng lẽ hạ gối xuống. Một làn khói từ đâu kéo đến cay gắt
mắt tôi. Trên bàn thờ, ba nén hương cháy đỏ, bố tôi đã thắp lên từ lúc nghe tin
tôi nhập ngũ.
Sáng hôm sau là ngày dẫn dâu, tôi sang nhà thầy Hoan từ sớm.
Chị Nga vẫn còn gánh nước tưới su hào ngoài bãi, nhìn thấy tôi chị lắc đầu:
-Lạnh quá! Em về tối qua à?
Tôi không nói, lặng lẽ cầm lấy cái chổi quét một vũng sân. Thầy
Hoan ho dưới bếp. Không khí ảm đạm cho mãi đến khi bạn bè của chị Nga, là các
thầy cô gíáo kéo đến lục tục. Đám phụ nữ lôi chị Nga vào trong buồng, còn tôi
pha nước bóc thuốc mời cánh đàn ông. Tôi thèm nói chuyện với chị Nga quá, nhưng
chẳng còn một phút thời giờ nào dành cho tôi. Khi nhà trai đến, chú rể là anh Kỳ,
một người cùng xã vói chúng tôi. Chị Nga từ trong buồng bước ra, tôi thấy đôi mắt
chị ngấn nước. Và, cái áo chị mặc ngày đi lấy chồng vẫn chỉ là cái áo chị mặc
khi lên lớp. Sao chị không mặc cái áo mà chị đã mặc hôm lên đồi tìm tôi? Cái áo
trắng, pha màu biếc của ánh trăng mà tôi mới chỉ thấy một lần. Tôi đứng dựa cột
chìm đắm trong tiếng ồn ào, lao nhao tiếng cười nói của hai họ. Khi chuẩn bị
theo chồng, chị nhìn xung quanh như kiếm tìm ai. Tôi rời cây cột đến trước mặt
chị. Chị nắm lấy tay tôi:
-Em đưa chị đi chứ?
Tôi lắc đầu:
-Em không đưa chị đi được đâu. Mười hai giờ trưa em phải về
trường rồi...
-Có chuyện gì gấp thế?
-Em về từ biệt chị. Sáng mai, em phải có mặt để xe chở lên tỉnh
đội. Em... nhập ngũ!
Bất ngờ chị ném cái khăn mù soa vào tay một ai đó, hai tay chị
nắm lấy cổ tay tôi, nghẹn nấc. Mãi sau chị mới nói, rất nhỏ:
-Ừ thôi, em đi đi, chân cứng, đá mềm... Chị chẳng có gì tặng
em!
Tôi đẩy nhẹ chị ra:
-Em cũng thế, chẳng có quà mừng ngày chị đi lấy chồng. Đây...
tôi móc trong túi ngực áo, em có mấy đồng bạc người ta cho em để nhập ngũ, chị
cầm lấy...
Tôi bỏ nửa chừng câu nói, nghẹn ngào quay lưng bước ra ngoài.
Tiếng chị Nga gọi tên tôi phía sau, rất nhỏ nhưng day dứt quá. Tôi về nhà chào
bố mẹ rôi vác xe ra cổng đạp mải miết... Và, tôi cũng không ngờ rằng, chúng tôi
xa nhau từ ngày ấy mà phải đến tận hai mươi bảy năm sau, khi cả hai chị em đã
luống tuổi mới lại được gặp nhau!
CHƯƠNG 3 -
T
rở lại phần đầu câu chuyện, tôi có kể là lúc tôi ở chiến trường
ra, thăm thầy Hoan thầy ở một mình.
-Tôi mới nhận sổ hưu được mấy tháng nay. Định cải tạo cái vườn
trồng ít quất hồng bì và hồng xiêm. Cô Nga cô ấy xin đâu được hai cây giống,
tôi mới trồng góc kia...
-Thế còn cây si, cây si to thế bây giờ đâu rồi ạ?
-Cây si ấy đáng lẽ là của tôi, nó mọc trên đất tôi. Nhưng người
ta bảo của xã. Thế rối tự dưng nó héo cành, úa lá, rụng xuống đen thâm cả nước
ao. Họ chặt năm ngoái rồi!
Tôi nao nao nuối tiếc về những kỷ niệm tuổi ấu thơ cuả mình.
Cái gốc si già tua tủa những chùm rễ, như một bộ râu con quái vật. Khi tôi còn
bé độ sáu bẩy tuổi, mẹ tôi thường "quẳng" tôi sang nhà chị Nga để mẹ
đi làm đồng. Những lúc ấy, khi tôi khóc đòi mẹ thì chị Nga trèo lên cây si, vạch
một chùm rễ, ngó xuống ao.Ở đấy hiện ra cái gì?
-Có nàng tiên con gái vua Thủy Tề, em biết không?
-Có giống Nàng Tiên trong câu chuyện bác Hoan kể không hả chị?
-Giống! Nhưng cơ mà đẹp hơn nhiều.
-Cho em xem với! Tôi nhõng nhẽo.
-Lên đây! Chị gọi tôi và đưa bàn tay ra vẫy vẫy.
Tôi trèo lên nhìn theo chị. Nhưng tôi đâu có thấy Nàng Tiên:
-Tiên đâu chị Nga?
-Kia kìa!
Tôi chỉ thấy bóng chị Nga, một cô bé mười ba tuổi, gầy và
xanh. Một trái si rụng xuống làm lan những vòng sóng. Bóng chị Nga lung linh,
lung linh... tỏa sáng dưới ánh nắng trưa lọt qua vòm lá si xanh ngắt. Và tôi òa
khóc!
Câu chuyện về một người con gái đẹp vì thất tình nên phải tự
tử dưới gốc si già này. Cái chết oan khiên và tức tưởi của cô làm cô không
nguôi nhớ trần gian. Thỉnh thoảng cô vẫn hiện về với khuôn mặt sưng vù, đỏ rực
hận tình. Cũng có khi cô hiện ra an ủi những nỗi buồn, những ước mơ bị tan vỡ của
ai đó. Câu chuyện do nhiều thế hệ thêu dệt đã làm cho trái tim non nớt của tôi
hốt hoảng. Nhiều năm sau này, khi lớn lên, tôi vẫn còn nhớ mãi khuôn mặt chị
Nga hôm ấy... xanh xao, yếu ớt và thật bí hiểm. Và nếu quả là tương truyền có
thật, vong hồn người thiếu nữ chết yểu kia bây giờ trú ngụ nơi đâu?
Chị Nga lấy chồng rồi vẫn vừa đi dạy học, vừa làm dâu. Nửa
năm sau anh Kỳ cũng nhập ngũ. Thế là gia đình nhà ông lão Tuân bắt chị phải nghỉ
dạy để ở nhà làm ruộng, trông nom bố mẹ chồng. Chị Nga im lặng, không cãi lại,
hoặc phân bua nửa lời, âm thầm về làm người nông dân. Công việc đồng áng đã làm
chị sụm xuống, đôi mắt lúc nào cũng nhìn xuống bàn chân, hoặc có khi ngó mã đâu
đâu, xa xôi, hy vọng và cả tuyệt vọng. Ai cũng bảo chi đang thương nhớ chồng.
Tuy là người cùng làng nhưng khi còn ở nhà tôi không biết nhiều
về gia đình anh Kỳ. Chỉ biết nhà anh có ba chị em, hai chị gái lấy chồng thiên
hạ. Anh Kỳ là con trai một nhưng không phải duy nhất, nên tuy không thuộc diện
miễn bộ đội nhưng mấy năm qua anh cũng thuộc diện tạm hoãn. Thời loạn ly, trai
tráng ra trận hết, những người còn lại trong thôn chỉ toàn là ông bà già, phụ nữ
và trẻ con... anh Kỳ nổi lên như một nhân vật quan trọng của địa phương chúng
tôi. Anh là phó chủ nhiệm hợp tác xã, là bí thư chi bộ. Lần này, sau khi cưới vợ,
anh xung phong một cách quyết liệt vào bộ đội. Oái oăm thay, và cũng tủi phận
thay, anh Kỳ hy sinh ở chiến trường Tây Ninh sau một năm thì có giấy báo tử về
làng. Đáng lẽ như bao nhiêu người phụ nữ làng tôi, nước tôi, chị Nga đã lặng lẽ
sống một cuộc đời chinh phụ góa bụa, an phận thủ tiết. Trong đời người, giông
gió như thế là quá đủ lắm rồi, nhưng... vào một đêm thu, trăng già, gió nhẹ
thôi nhưng rất lạnh, heo may lãng đãng, số phận lại khoác vào chị một lần cay
nghiệt nữa...
Tôi tiếc là không biết chuyện tình yêu giữa chị Nga và Anh Kỳ
ra sao. Có nhiều lúc tôi cứ tự hỏi hai người này có yêu nhau không nhỉ? Hai con
người xa lạ thế, khác nhau là thế làm sao mà đồng điệu, mà hòa hợp được? Hay là
có ai bắt, ai ép? Tôi thì nghĩ rằng thầy Hoan chẳng bao giờ ép con gái trong
chuyện chồng con. Sau lần chia tay với chị Nga hôm đám cưới chị, tôi đi một mạch
thẳng vào chiến trường, chị em không còn lúc nào để nói chuyện với nhau.
Sau khi có tin chồng hy sinh, chị Nga cũng không buồn hơn.
Người ta chỉ thấy chị im lặng hơn và lơ đãng hơn. Chị đem tất cả những vật kỷ
niệm của anh Kỳ gói vào một cái bọc nhỏ kê dưới đầu giường. Giấc ngủ mong manh
của chị luôn bị đánh thức bởi những nỗi niềm. Có nhiều đêm chị thức trắng nghĩ
ngợi về số phận của mình. Vào một đêm như thế, trăng già méo mó và lơ lửng trên
cành xoan trước cửa buồng chị. Xa vắng đâu đó ngoài đồng bãi tiếng chó cắn ma từng
chặp, từng chặp rộ lên. Chị Nga nằm quay mặt vào vách và từ từ chợp mắt. Bỗng
chị cảm thấy có hơi thở lạ trong buồng. Chị rùng mình, co cứng người không dám
ngoảnh lại. Hương hồn anh Kỳ, chồng chị trở về! Chị tin là thế. Chị tin là người
ta có những ràng buộc với nhau, không chỉ một cõi nhân gian chật hẹp trong cái
làng Sơn Cốt của chị, mà cả cõi đời này, đã nợ nần nhau dù một ngày cũng thành
tình, thành nghĩa. Miệng chị khô đắng và cái nóng âm ỉ từ đâu chảy về. Nó bắt đầu
từ trong sâu thẳm của ruột gan, rồi lan tỏa ra khắp cơ thể. Đây không phải là lần
đầu tiên chị có cái cảm giác ấy. Càng về sau, nhất là từ khi anh Kỳ có giấy báo
tử, chị Nga càng có những giây phút lạ lùng như thế này. Chị cố nằm im, nhắm chặt
hai mắt, mà để cho lòng dạ trôi nổi về mãi tận những miền ký ức xa xăm. Nhưng
hôm nay, hơi thở lạ càng như có thật chứ không phải mơ hồ do chị tưởng ra. Chị
từ từ mở mắt và trong ánh trăng héo hắt chiếu lên vách đất, một cái bóng to lớn,
chập chờn, và im lặng như đang nhìn xoáy vào cơ thể chị. Chị vùng dậy và hét
lên một tiếng kinh sợ. Cái bóng giật mình lùi lại, thều thào:
-Thầy đây mà... vợ Kỳ! Thầy đơ..ây!... Đó là cái bóng của ông
lão Tuân, bố chồng chị.
Thoát khỏi cái cảm giác hãi hùng, chị Nga rơi nhanh chóng vào
tâm trạng thất vọng. Chị lần tay lên đầu giường lần tìm bao diêm. Không biết có
phải do vội vã cuống quýt hay không mà chị không thấy cái bao diêm đâu, chị đụng
phải cái gói chất đầy kỷ niệm của chồng. Tiếng động loạt xoạt làm ông lão Tuân
lo lắng.:
- Con ơi!... Con làm gì thế?...
Tìm thấy cái hộp vuông vuông hăng hắc mùi lưu huỳnh, chị Nga như
muốn hụt hơi:
-Con tìm bao diêm để thắp đèn.
-Đừng! Con ơi, thầy muốn nói chuyện với con trong ánh trăng
như thế này!
Tự dưng cái cảm giác ghê rợn tràn đến, ào ào, lũ lượt, như một
đàn lươn, đàn trạch, nhớt nhát, tanh tưởi. Ngày thường chị Nga một mực tỏ ra
cung kính, không bao giờ trò chuyện tay đôi với bố chồng. Chỉ một lần duy nhất,
là sau hôm báo tử anh Kỳ một vài ngày, chị xin phép được nói với ông:
-Từ ngày con về làm đau thày u, xin thày cho con biết con có
điều gì không phải với thày u, với các anh các chị, bên nội, bên ngoại nhà chồng
con không?
Ông Tuân kinh ngạc nhìn con dâu:
-Chết! Sao con lại hỏi thày câu ấy? Hay là...
Ông lão bỏ lửng câu nói. Chị Nga ngước cặp mắt buồn bã trống
rỗng lên nhìn ông lão:
-Không! Con mất chồng, con đau một, thầy u mất con thày u đau
mười. Nay con đã thành người góa bụa, con không dám trách ai. Con muốn hỏi thày
câu ấy, để thày chỉ bảo cho con sống nốt những ngày làm dâu con trong nhà.
Ông lão Tuân thẫn thờ:
-Thôi thì cái số thằng Kỳ nó mỏng. Khổ thân con, khổ thân
thày. Người ta có năm có mười thì lành, thày chỉ có một, lại vỡ...
Ông lão Tuân khóc nấc lên thành tiếng, tiếng khóc của một người
đàn ông, lại đã có tuổi, từng trải, nghe nó não lòng hơn nhiều lần những tiếng
khóc khác. Hai người, ông lão Tuân và chị Nga, hai bố con hai thế hệ, nhưng có
cùng nỗi đau mất người thân. Chính chị Nga, cũng cảm thấy bấy lâu nay mình chỉ
cung cúc tận tụy làm người phục dịch trong nhà. Chị chưa hề cởi mở tấm lòng
mình. Sau nỗi mất mát này, chị thấy mình cần phải làm cho mọi thành viên nhích
lại gần nhau, kết nối với nhau thành một cái mảng, phập phù trong những tháng
ngày giông bão. Chính vì thế, mới có cuộc trò chuyện, và tiếng hờ thảm thiết của
ông lão Tuân. Chị Nga ngồi hai tay đặt trong lòng đầy an phận im lặng chờ cho bố
chồng bớt tiếng khóc. Mà sao chị không khóc nhỉ? Chị đã khóc một mình, đã cạn
nước mắt. Chị không chỉ khóc về phận mất chồng, mà chị còn khóc cho những cái
khác, mờ mịt hơn ở mãi tận đâu đâu mà chính chị cũng không tể nào biết được.
Mãi lúc sau chị lên tiếng:
-Thôi, thày ạ. Khóc cũng chả làm cho anh ấy trở về được nữa.
Con chỉ nghĩ thương u...
-Thày hỏi con câu này, là hỏi vậy thôi, chứ thày không có ý
gì đâu. Với lại chỉ nghe thiên hạ họ giăng ca...
Chị Nga cúi xuống nhìn vạt áo:
-Người ta đồn sao ạ, xin thày cứ nói?
-Người ta bảo, có lẽ con... đi bước nữa?
-Ai mà ác mồm thế?
Ông lão Tuân gần như reo lên:
-Thế không phải hả con?
-Lạy thày, con không phải là người ăn ở hai lòng. Tuy con
không có mẹ, bố con một mình gà trống nuôi con, nhưng là nuôi dạy của người có
chút ít chữ nghĩa. Con về làm dâu thày mẹ, sống là người trong nhà, chết làm ma
trong họ, nếu thày u còn thương, còn coi con là con.
Ông lão Tuân lại quay đi ngậm ngùi:
-Thôi người ta nói mất con, còn rể, nhưng thày còn có phúc, mất
con trai, còn con dâu.
Ông lão Tuân là người từng trải, con người quắc thước. Ở vào
tuổi ngoài ngũ tuần, sự tráng kiện đã phôi phai, có phần tàn lụi, nhưng sức vóc
vẫn còn mạnh mẽ. Bà mẹ chồng, sau cái tin con trai hy sinh bà nằm liệt giường
ngay. Mọi sự ăn uống, vệ sinh, tắm giặt... đều tại một chỗ, đến nỗi, ông Tuân
phải thu xếp một góc nhỏ dưới nhà ngang, cho bà nằm. Công việc đồng áng của chị
Nga vốn đã chất ngất, giờ lại thêm bà mẹ chồng, làm cho chị phải luôn chân tay,
đầu tắt mặt tối.
-Con xin thày, có chuyện gì để mai hãy nói.
-Con ạ, thầy nghĩ mãi rồi, thày phải nói với con ngay bây giờ!
Con ơi! Vợ Kỳ ơi, thương thày với...
Tiếng ông lão Tuân chìm hẳn xuống, lạc đi mãi đâu đâu. Nhưng
nghe ra, có một cái gì nữa, như thể tiếng rạ rơm quẹt vào vách nứa. Nói xong
câu này, lão Tuân ghé ngồi vào giường con dâu. Chị Nga thừa thông minh để đoán
biết, nếu như trong tình huống khác. Đằng này ông lão cứ lào phào, rõ ràng ông
kiệt sức lắm rồi. Tuy thế, chị cũng ngồi lui vào tận góc giường. Cảm giác lạnh
buốt đâu đó trong người chạy ra bủa lấy hai bàn tay chị:
-Thày ơi, đêm hôm khuya khoắt này, thày làm thế này, con thấy...
-Con ngồi lại đây, ngồi lên cho thày lạy, rồi thày mới dám
xin con...
-Đừng! Con van thày!
Trong bóng tối lờ mờ, ông lão Tuân quỳ sụp xuống vái liền mấy
cái. Chị Nga cắn chặt hai hàm răng lạnh vào nhau, run bần bật. Chị muốn đứng dậy
nhưng không nổi. Chị muốn òa khóc, nhưng không mở miệng ra được. Ông lão lạy
con dâu xong thì chồm tới phía trước, hai tay ông quờ quạng và túm được một bên
ống quần chị Nga:
-Thương thày với, con ơi!
Chị Nga run rẩy cố đẩy ông bố chồng ra, nhưng ông lão Tuân đã
úp mặt vào chân chị:
-Thày xin con, Nga ơi! Thằng Kỳ chết đi, giòng họ Trần nhà
thày thế là tuyệt tự. Phải chi, trước lúc nó ra trận, con giữ lại cho nó, cho
thày, cho giòng họ này một hòn máu. Hu... hu...!
Chị Nga đau đớn lắc đầu trong bóng sáng từ cửa sổ hắt vào của
quầng thái âm nhợt nhạt:
-Con không biết làm thế nào. Không biết có phải lỗi tại con
không?
-Không! Con không có lỗi. Con thương ta, cho ta một đứa cháu,
một đứa con nối dõi...
Chị Nga càng lắc đầu tuyệt vọng:
-Nhưng con đã không làm được như thế. Thày bảo phải làm sao?
Ông lão ngẩng lên, một khuôn mặt đẫm nước mắt hòa trộn vào
ánh trăng đã vào hồi thiếu sáng:
-Được chứ! Con bằng lòng cho thày nhá, cho thày một đứa con.
Một đứa con thay vào chỗ thằng Kỳ, vào chỗ con thằng Kỳ!
-Không! Không! Khô... ông...
Chị Nga thét lên bằng những cung bậc khác nhau, nghe như tiếng
rít lên phẫn uất của cây đàn mà người nhạc công tạo hóa vuốt ngược sợi dây định
mệnh. Hai chân chị co lại, giãy giụa như đứa trẻ hờn dỗi. Ông lão Tuân chồm tới,
bằng một sức mạnh cuối cùng của lòng quyết tâm cao độ và của sự khát thèm thôi
thúc. Tự dưng chị Nga im lặng, thở dốc, những giọt nước mắt đắng cay tứa ra.
Ông bố chồng cảm thấy một sự thỏa hiệp ở phía người đàn bà đang vào độ mặn mà
phì nhiêu mà phải héo hon dần theo thời gian cay nghiệt. Ông van vỉ con dâu:
-Nhá! Nga ơi, con hãy thương thày với... Không ai biết chuyện
này đâu!
Bất thần, chị Nga vùng dậy xô ông lão ngã lăn ra giữa nền buồng.
Rồi như không nhìn thấy gì, chị nhắm mắt lao ra phía cửa và cứ thế, nhằm hướng
cánh đồng Lưu Lạc mà chạy. Dưới chân chị, đất đợi ải vỡ ra lạo xạo. Những con
nhái ăn đêm bị đánh động chạy tán loạn. Tiếng gió lùa ào ạt trong tai chị, hòa
lẫn với tiếng chó sủa nhấm nhẳng trong làng, làm chị Nga càng chạy khỏe. Dưới lớp
sương mờ và ánh trăng già càng về khuya càng sáng, người đàn bà đầu tóc xổ tung
rũ rượi, trong bộ quần áo trắng ướt đẫm mồ hôi và sương sa, chị như lướt đi vào
cõi hoang mang. Chị Nga chạy mãi mà không biết đến đâu rồi, cho đến khi một búi
dây bìm bìm giằng xấp mình xuống đất, chị mới nằm vật ra. Có tiếng ong ong
trong lòng đất, như những tiếng ru ai oán khiến chị dần tĩnh lại. Xa xa trong
làng có tiếng gà gáy gọi nhau. Nước mắt chị Nga chan hòa cho thân phận chị, cho
hương hồn anh Kỳ chồng chị, cho cả sự trớ trêu của người chinh phụ. Chị kêu lên
một tiếng thảng thốt, ngậm ngùi:
-Mẹ ơi!
Đến đây xin bạn đọc vui lòng cho tôi rẽ ngang câu chuyện một
chút, để tôi được kể về tôi. Kể về tôi sau khi nhập ngũ, trải qua ba tháng huấn
luyện ngắn ngủi và chỉ kịp bắn bia số bốn, bài một rồi vào một đêm trăng sáng lạnh
ngăn ngắt, chúng tôi lên tàu ở ga Sen Hồ vào Nam. Không phải không còn lãng mạn,
nhưng đói và cực, mệt mỏi đã làm tôi nhiều lúc ngồi một mình ứa nước mắt. Chết
ư? Dễ thôi. Chỉ cần một quả bom rơi, một viên pháo lạc, một cái sảy chân bên bờ
dốc thẳm, một cơn co giật của bệnh sốt rét ác tính... cũng là chết rồi. Thực ra
lúc ấy, nghĩ đến cái chết nó nhẹ lắm cơ. Có thể bây giờ có người không tin,
nhưng cứ thử hình dung mà xem, một thân một mình, chẳng nợ ai, ai nợ... thì có
gì mà vương vấn. Với cha mẹ đẻ ra mình thì cầm bằng hòn máu đánh rơi. Cầm tấm vải
liệm quân nhu phát cho nhét vào đáy ba lô đề phòng mọi tình huống, tình huống xấu
nhất, tình huống cuối cùng, mà không thấy sợ, không thấy rủi ro, sui sẻo, thế
là được rồi. Anh đã hoàn toàn là anh lính chiến. Bom đạn rồi cũng quen đi. Chỉ
có gian khổ, đói và nỗi cực nhọc hành hạ thân xác từng phút, từng giờ là giày
vò con người. Nỗi nao lòng, nhẹ dạ rất thường khi ở chỗ này... Bây giờ, khi
chúng ta đã có một gia đình, một đàn con, một trách nhiệm không thể trút bỏ được,
nên nghĩ đến một khi chúng ta không còn trên cõi đời này nữa, để cùng chia sẻ,
cùng gánh vác mọi nỗi niềm, mà chủ yếu vẫn là những nỗi oan nghiệt trái ngang,
thì vợ con ta, cha già, mẹ héo của ta sẽ đau khổ biết nhường nào? Ấy, cứ nghĩ
thế mà lăn lưng ra mà cày, mà cuốc, mà kiềm tiền, mà sống.
Mấy năm đánh nhau có lúc được, lúc thua, có khi thừa thắng
xông lên, có khi cắm cổ chạy dài... Chiến tranh, đó cũng là cái thường tình. Cố
mà đi đến chỗ cấp trên bảo, cố mà lao vào chỗ cấp trên ra lệnh, cố mà sống đến
ngày mai. Rồi ngày mai nữa, được ngày nào hay ngày ấy... Đấy, đại khái là như
thế. Nhưng mỗi đứa lính chúng tôi không chỉ có những lúc đánh đấm, bắn giết và
cắm đầu chạy. Phút giây im lặng trong chiến tranh nhiều lắm, rất nhiều, đó mới
lại là lúc gậm nhấm tâm hồn mỗi thằng lính chúng tôi. Trong cả một khoảng dài
máu me, khét lẹt ấy, không mấy lần tôi không nhớ về chị Nga của tôi. Cuốn sổ
tay mà Thu, người yêu tôi tặng tôi khi chia tay, ghi nhằng nhịt những giòng lưu
niệm của bạn bè, nhưng vẫn còn một khoảng trống khá dày trang. Tôi ghi nhật ký,
không ghi dài được.
30.4- Mệt. Hình như sốt. Uống liền bốn viên nivaquin.
1.5- Thằng Mão tụt lại. Thấy trên cây săng lẻ Binh trạm 32 có
khắc cơ man những dòng chữ nguệch ngoạc, tên họ quê quán của những người lính
đã đi qua đây. Có dòng Hà Đức Mẫn, Phổ Yên, Bắc Thái.
10.5- Gửi thư cho Thu và chị Nga. Sao chị Nga lấy chồng vội
quá nhỉ? Nhanh thế! Chị bảo chị không lấy chồng kia mà? Giá chị ít tuổi nhỉ! Ít
đi vài ba tuổi thôi. Thu trắng hơn chị Nga, và có vẻ yếu ớt hơn. Giá được vùi mặt
vào lòng Thu, trong lúc này như chị Nga nhỉ! Chiều nay gặp một đoàn người đi
ra, toàn là trẻ con và phụ nữ. Có mùi gì lạ lắm...
2-6. Cả một đoàn quân dài dặc chuyền tay nhau từ dưới lên
trên cái xu-chiêng!
8-8. Khương Đức Duy chết rồi. Một quả đạn AT do chính tay nó
gài chống ăn cắp kho quân lương.
Vân vân...
Những dòng nhật ký đại loại như thế mà rồi cũng kín hết chỗ
giấy còn lại của quyển sổ. Tôi lại ghi tiếp vào cuốn khác. Những mẩu chi tiết,
sự kiên, cảm nghĩ như thế cứ nối nhau, nhưng không phải lúc nào, chuyện gì, hay
ý nghĩ ra sao tôi cũng ghi được. Rồi cuốn sổ cũng chẳng còn, một cuốn bị cháy mất,
một cuốn phải nộp cho chính trị viên đại đội. Cuốn sau cùng những thằng bạn
tranh nhau xé làm giấy cuốn thuốc lá Tà Ôi.
Cho đến một ngày cuối tháng mười năm bảy hai, khi trên đài
phát thanh chúng tôi nghe được lời tuyên bố của chính phủ ta phản đối Mỹ lật lọng
không chịu ký một hiệp định hòa bình. Tiếc ngẩn ngơ, một cơ hội hòa bình bị mất
đi, chiến tranh sẽ còn kéo dài... dài đến bao giờ? Lại âm thầm làm phận sự người
lính của mình và chờ đợi. Thế rồi cái ông Richard Nixon trúng cử tổng thống Mỹ
một nhiệm kỳ nữa, nghĩa là bom, đạn, lính Mỹ tiếp tục cày phá đất nước này.
Chiều hôm ấy, ngày Hiến chương quốc tế các nhà giáo 20-11, một
buổi chiều khá thanh thản. Tôi một anh giáo nửa mùa, nhưng sao cứ âm ỉ nhớ về
cái ngày ấy. Và rồi bâng khuâng tơ tưởng về quê nhà, nơi ấy có cha mẹ, có các
em tôi. Nơi ấy còn có Thu của tôi, có thầy Hoan và chị Nga! Tôi lặng lẽ ra bờ
suối ngồi một mình để một mình kỷ niệm về cái ngày của mình. Liệu tôi có còn kịp
trở về để được làm một thày giáo làng gõ đầu trẻ nữa không? Không còn nhật ký,
không còn cả bút mực mà viết một cái gì đó, một dòng chữ gì đó cũng được. Tôi
thả ý nghĩ lang bang trong buổi hoàng hôn rừng rú, tiếng ì ầm của máy bay
C.130, tiếng nổ cuối tầm của đạn pháo xen lẫn tiếng rì rầm của thác suối. Và
ve, tiếng ve đầu mùa khô trong rừng khộp nghe như có cả tiếng kim khí của một
loại khí nhạc đơn điệu độc một giai điệu trung tính, không ra trầm, không ra bổng,
chẳng rõ vui hay buồn. Có tiếng chân người đạp trên lá khộp lạo xạo sau lưng.
Tôi ngoảnh lại, thằng Tiến hào hứng:
-Này nhà thơ! Mày có người tìm!
-Ai tìm? Anh Ngữ à?
-Không phải. Một người lạ, nhưng biết mày, từ Binh trạm xuống...
Tôi ngạc nhiên hỏi Tiến:
-Có phải cán bộ quân lực không?
-Cứ về xem nào. Lúc nào cũng chỉ tưởng quân lực!
Tôi hỏi thế là vì, đã hơn một lần tôi được cán bộ quân lực xuống
hỏi thăm, rồi sau đó là quyết định điều động. Từ công binh, sang thông tin, rồi
bây giờ là pháo cao xạ. Ai mà biết được, trong chiến tranh nhiều cái bất ngờ lắm,
và cũng nhiều cái bất trắc lắm. Người đàn ông từ lán anh Ngữ đứng dậy nhìn tôi
chằm chằm:
-Cậu không nhận ra anh à?
-Dạ... em không biết anh...
Anh Ngữ, trung đội trưởng đế vào:
-Người làng mà không nhận ra nhau à?
-Kỳ đây! Ở nhà đã biết nhau rồi mà.
Dưới bóng loạng nhoạng của hoàng hôn trong rừng thẫm, tôi vẫn
còn đang nghĩ ngợi, không dám nói, thì anh tiếp:
-Kỳ chồng Nga, con rể thầy giáo Hoan đây!
-Trời ơi, anh Kỳ!
Tôi ôm choàng lấy anh mà lắc. Anh Kỳ đây ư? Tôi thật vô tâm.
Mà đâu phải tôi chỉ vô tâm khi đứng trước mặt anh. Suốt từng ấy năm, trong ý
nghĩ của tôi không hề có một tí tẹo nào dành về anh Kỳ. Chồng chị Nga là một
người không có thực trong tôi, nó giống như một cái tên gọi, được gán kèm vào đấy,
ví dụ " Thúy Nga" chẳng hạn, mà tôi thì lại chỉ biết và chỉ chấp nhận
ở chị mỗi hai chữ "chị Nga"mà thôi.
Tôi ôm anh Kỳ khá lâu, lúc rời anh, tôi mới nhìn kỹ thấy một
người đàn ông vêu vao, đầu trọc lốc như người trong tranh hý họa. Tóc rụng đã
đành, cả lông mày cũng không còn, nhìn anh thật sợ. Tôi xin phép anh Ngữ đưa
anh Kỳ về lán tôi. Anh Kỳ lấy võng của mình từ trong cái túi mìn clâymo ra mắc
vào hai khúc cây gác ngang hai bên mái lán, nhún thử rồi ngồi xuống:
-Tôi ở ban quân giới, lúc sang làm việc với quân lực, nhìn ké
danh sách tiểu đoàn 68, tình cờ thấy tên cậu. Hôm nay, nhân xuống làm việc với
quân khí tiểu đoàn mới có dịp tìm cậu. Khỏe chứ?
-Vâng, em bình thường. Tôi vừa hí húi đun nước pha trà, vừa
đáp. Sao anh gầy thế? Trông phát hãi lên ấy!
Anh móc ra một bao thuốc lá RUBI quân tiếp vụ:
-Hút đi cậu!
Tôi thích thú ngắm nghía bao thuốc loại của quân đội Sài Gòn,
có vẽ một người lính rằn ri đang xung trận với vẻ mặt đằng đằng sát khí trong
tư thế một chân co, một chân duỗi trên lá cờ vàng ba sọc đỏ:
-Anh sang thế? Loại "chân co, chân duỗi" này chúng
em có mà mơ!
-À, gặp cánh bộ binh đi ra, họ cho đấy mà.
Tôi cho trà "Thái Nguyên" - một loại trà làm ở Chợ
Lớn được quản lý cấp - cho vào cái ca bằng i-nốc, dốc ngược cái bi-đông Mỹ đựng
đầy nước sôi úp vào, rồi nhớm lên môt tý cho nước ra ngấm trà. Tôi rót ra cái
bát "B52" mời anh. Anh Kỳ bưng bát nước trà kề lên miệng rồi lại đặt
xuống:
-Các cụ ở nhà nói thế mà thiêng thật. Cái hôm tôi lên đường,
bà cụ nhà cậu dặn tôi là vào cố tìm em nó. Cả cô Nga cũng bảo thế. Không ngờ lại
hóa thật. Tôi cứ nghĩ chiến trường thì mênh mông, biết đâu mà tìm nhau. Thanh
bình còn khó huống chi là bom đạn như trấu vãi, lính tráng đâu có được tự do đi
lại. Phải không cậu?
-Ừ mà anh cũng giỏi thật đấy. Anh đi năm nào?
Anh Kỳ uống cạn bát nước, châm một điếu thuốc nhả khói:
-Tôi nhập ngũ sau cậu một năm. À, tôi đã báo cáo với đại đội
rồi, đêm nay anh em mình nằm với nhau một đêm. Sáng mai, các cậu đi nhận nhiệm
vụ mới rồi.
Tôi leo lên võng nằm, mà bụng dạ nghĩ vẩn vơ. Không ngờ có
lúc tôi với anh Kỳ lại nằm bên nhau trong khu rừng nguyên sơ này. Trong khoảnh
khắc, tôi thấy mình cũng yêu yêu anh, yêu yêu một phần đời của chị Nga mà tôi
không nguôi thương nhớ.
CHƯƠNG 4 -
A
nh Kỳ kể:
-Sau khi cưới nhau được già nửa năm, chính xác là sáu tháng với
mười sáu ngày, tôi nhập ngũ. Lần này do chính tôi xung phong, có người can ở lại
chờ vợ có mang rồi hẵng đi cho chắc chắn có người nối dõi. Nhưng tôi không
nghe, bởi thấy nó cứ thế nào ấy. Cậu thấy không? Tất cả dù lý do chính đáng thế
nào đi nữa, có hợp lý đến đâu, trong hoàn cảnh ấy đều không hợp tình. Ba tháng
huấn luyện ở Phú Bình, vợ tôi có sang thăm hai lần, tôi tranh thủ xin về nhà được
một đêm. Sau đó là đi B...
Cậu hỏi chúng tôi có yêu nhau không ư? Về phần tôi thì không
cần nói cậu cũng hiểu. Một người con gái như Nga, theo tôi nghĩ, một của hiếm.
Không phải tôi tự khen đâu, mà tôi là người hiểu được Nga, yêu Nga. Còn về phần
Nga, tôi cũng không biết cô ấy có yêu tôi không? Yêu vì cái gì? Chắc cậu cho rằng
đã là vợ chồng rồi, cái tình, còn thêm cái nghĩa, lại còn lục vấn nhau làm gì nữa?
Nhưng những lúc gian khổ ác liệt như thế này, bên cạnh nỗi nhớ da diết, tôi cứ
hay tự hỏi mình, rồi lại nhủ rằng nếu may mà còn sống trở về, thể nào tôi cũng
hỏi Nga câu ấy.
Học hết lớp bảy tôi vào học trường trung cấp nông nghiệp tỉnh.
Trường tôi sơ tán gần trường sư phạm chỗ Nga học, chắc cậu biết? Hồi bé tôi
cũng là học trò của thầy Hoan, nhưng tôi không biết thầy có cô con gái là Nga.
Một lần đi lên trường, tình cờ chúng tôi lại cùng đạp xe trên quãng đường dài
và cùng ngồi nghỉ tại cái quán anh Gù ở Lương Sơn, vừa bán nước vừa bán vé xổ số.
Hỏi ra mới biết người làng, Nga học năm thứ nhất, còn tôi sắp sửa ra trường. Thế
rồi thỉnh thoảng, chúng tôi có gặp nhau, nhưng không hề có tình ý gì.
Sau khi tốt nghiệp khóa trung cấp cơ khí nông nghiệp, tôi được
điều về xã nhà. Rồi Nga cũng về dạy ở xã. Tôi tiến bộ khá nhanh, vào Đảng, vào
cấp uỷ rồi phó chủ nhiệm. Mấy lần tuyển quân, tôi đều được đảng uỷ xin hoãn cho
ở lại vì lý do công tác và cha mẹ già không ai trông nom. Tôi say mê công tác,
trước mắt là cái ghế bí thư xã đoàn đang chờ, cho nên cũng chưa muốn dính vào
chuyện vợ con, mặc dù ông bà cụ tôi mong lắm, giục tôi bao lần. Và rồi tôi gặp
lại Nga khi đến làm việc với ban lãnh đạo trường cấp II. Nga cũng nhận ra tôi
ngày giữa đám đông các vị quan quyền hai bên, chúng tôi cứ như là hai kẻ tri kỷ
lâu ngày gặp lại. Tôi đến thăm Nga, khi thì ở trường, khi thì ở nhà. Mỗi lần
tôi đến nhà, thầy Hoan tìm cớ ra vườn không rõ là thầy muốn cho chúng tôi được
tự do trò chuyện hay thày không thích nói chuyện với tôi? Cứ thế, nửa năm sau
tôi đặt vấn đề với Nga:
-Nếu em không chờ đợi ai, anh muốn ngỏ lời lấy em làm vợ?
Tôi nghĩ thế nào Nga cúng phản ứng, hoặc là bùng nổ chối từ,
hoặc là e lệ chấp thuận. Nhưng không, Nga thản nhiên cười với tôi:
-Em không chờ ai, không hẹn ai, từ trước đến giờ, và kể cả từ
giờ về sau!
Lồng ngực tôi bỗng trống trải và lạnh toát. Rồi sau đó lập tức
cơn tự ái bùng lên. Trong một cái làng bé nhỏ như cái làng Sơn Cốt của chúng
ta, có biết bao cô gái trông ngóng hy vọng vào tôi, vào một con người vừa khỏe
mạnh, sáng sủa, lại có chút ít chúc vụ. Vậy mà một cô giáo cấp hai, đẹp nhưng
không sắc nước hương trời, lại không có mẹ, không biết mẹ là ai, dám từ chối lời
cầu hôn của tôi? Vậy ra tôi không xứng đáng với cô ấy ư?
Anh Kỳ ngồi dậy, châm một điếu thuốc, rồi im lặng. Tôi dè dặt:
-Em biết!
-Cậu biết gì? Anh ngạc nhiên hỏi tôi.
Tôi định nói: "Em biết chị Nga có một lời nguyền!"
nhưng không hiểu sao tôi lại nói lảng:
-Em biết tính chị Nga, ngang bướng từ bé, có lẽ tại được thầy
Hoan chiều!
-Không phải! Nga không được chiều chuộng, mà trái lại, cuộc sống
của cô ấy khắc khổ từ tuổi thơ, bên cạnh một người cha khắc khổ. May mà cơn tự
ái của tôi không bung ra thành lời nói. Tôi cố gắng nghĩ về điều mà Nga vừa
nói. Không chờ đợi ai, cũng có thể hiểu rằng không có ai mà chờ! Theo cách hiểu
ấy, tôi tự tin hơn:
-Thế nhưng từ hôm nay, em sẽ có người để chờ đợi!
-Anh tự tin quá đấy!
-Anh có được sự tự tin ấy chính là nhờ ở đôi mắt em khuyến
khích! Tôi tranh thủ giành thế chủ động. Có thể lý trí bảo em không nên lấy
anh, vì anh là người có chức trong xã, sợ mang tiếng là người hám lợi. Nhưng
trái tim em, đôi mắt em lại nói điều ngược lại...
Tôi thật sự ngạc nhiên là tại sao lúc đó mình lại nói được những
lời có cánh như thế? Có thể là tôi đã đọc được ở đâu đó, để rồi trong phút
hoang mang, nó chợt kéo về cứu giúp mình. Quả nhiên Nga im lặng. Tôi liều lĩnh
ôm choàng lấy Nga, trong góc khuất của ngọn đèn dầu phòng không, tôi hôn tới tấp
vào mặt, vào môi, vào bất kỳ chỗ nào mà tôi đặt môi tới được. Nga vùng vẫy, giẫy
giụa một cách tuyệt vọng. Và rồi sau đó, cuối cùng cả hai đứa cùng thở dốc mệt
nhoài...
Sau lần ấy, Nga tiếp tục không giữ được mình nữa, cô nói thật
với bố. Thầy Hoan im lặng, chỉ đến khi Nga thật sự tuyệt vọng ông mới nói:
-Vợ chồng là cái duyên, cái phận, không ai cản được, và cũng
không thể gán ghép, ép buộc. Con đã chọn anh ta thì bố biết nói sao. Chỉ có điều
từ nay, coi như bố không còn con, mà con cũng không trông cậy được vào bố. Làm
dâu cái đất này là khổ nhục lắm. Vì thế bố thương con...
Cũng may cho Nga là cô ấy là người nhà nước, có gạo, có
lương. Lấy nhau rồi, tôi mới biết là Nga cũng yêu tôi...
Anh Kỳ còn nói nhiều chuyện, nhưng tôi không còn nghe được gì
nữa. Nỗi buồn cứ chà qua xát lại ở mãi tận đâu đâu trong ngóc ngách tim tôi.
May mà anh Kỳ là người tử tế, nhưng vô tâm nên không đem lại hạnh phúc cho chị
Nga cuả tôi. Sao anh không biết rằng chị Nga của tôi, nàng Nga yêu dấu của anh,
không còn là cô giáo nữa, mà trở thành một nông dân, cái bóng mập mờ trên cánh
đồng Lưu Lạc?
Những hạt mưa cuối cùng của mùa mua miền Đông Nam Bộ, làm cho
hơi rừng dịu lại. Tôi nhắm mắt thật chặt để tìm giấc ngủ nhưng khó quá. Võng
bên kia, anh Kỳ đã ngáy.
Sáng hôm sau, tôi và anh Kỳ, chúng tôi chia tay nhau, hẹn
ngày gặp lại ở quê nhà. Nhưng, ngày trở lại làng quê, chỉ còn tôi, mà không có
anh Kỳ. Anh đã vĩnh viễn nằm lại ở một góc khuất nào đó trong một khu rừng
nguyên sơ của đất nước.
Trong cái đêm hãi hùng ấy, chị Nga đã vật vờ như một bóng ma
đẫm người sương lạnh. Chị hầu như không biết mình đang ở đâu, và không nhớ những
gì đã xảy ra đêm qua với mình. Mãi gần sáng, có tiếng người giục trâu đâu đó ở
phía đồng bãi, chị mới dần dần tỉnh trí lại. Trong bộ quần áo trắng mong manh,
đầu tóc rũ rượi, chị lần men theo rìa làng như một kẻ tà gian về nhà. Ở khúc đường
ngoặt, một vài người đàn bà đi chợ sớm trông thấy chị đã vội vã nép mình vào bờ
rào sợ sệt. Khi chị Nga lướt qua trước mặt họ, chị nghe thấy tiếng các bà hoảng
hốt hỏi nhau:
-Ai như cô giáo Nga, con dâu cụ Tuân Kỳ ấy các bà ạ!
-Chắc là phải rồi. Nhưng mà cô ấy đi đâu về sớm thế nhỉ? Lại
có vẻ vụng vụng, trộm trộm thế nào ấy!
-Dễ thường cũng mèo mả gà đồng...
-Chớ có nói thế, các bà ạ. Cô giáo Nga là người đứng đắn, nói
thế mà phải tội!
-Ối dào, thời buổi loạn lạc, có chính chuyên đứng đắn mãi
cũng bằng hoài công. Chứ còn gì nữa, anh con trai cụ Tuân báo tử hồi đầu năm. Rồi
cô ấy cũng phải cắp nón mà về nhà mình, may ra còn kiếm được đám nào...
-Tội thân thật đấy! Đang làm cô giáo ăn lương nhà nước mà phải
bỏ về cắm mặt xuống bùn, song sóc hai cái thân già nhà chồng. Bây giờ lại góa bụa...
Tiếng kẽo kẹt của đòn gánh, tiếng lộc cộc của thúng mủng cứ
nhịp nhàng cùng với nhũng lời bàn tán giăng ca của các bà chợ búa lọt hết vào
tai chị Nga. Chị chạy tắt qua dõng ngô vào vườn bằng một đạng rào sau nhà, hụt
hơi ngã vật vào cây rơm trong vườn. Hơi ấm từ cây rơm tỏa ra làm chị nóng dần
lên và bình tâm trở lại. Chị Nga cứ ngồi như thế và chợp mắt đi một chốc, cho đến
khi có tiếng lợn kêu đòi ăn và đám gà trống, gà mái đuổi nhau tứ tán xung quanh
cây rơm, chị bừng tỉnh. Phải làm gì bây giờ? Chị uể oải đứng dậy rón rén vào buồng.
Căn nhà tối om, không biết ông lão Tuân đang ở đâu? Chị lặng lẽ thay quần áo,
cuốn sơ đầu tóc rồi vội vàng xuống bếp bắc nồi cháo cho bà mẹ chồng. Thấy động,
bà lão lồm ngồm ngồi dậy, chăn màn vung vãi xuống cả đất:
-Vợ Kỳ đấy à? Sao hôm nay dậy muộn thế?
-Dạ, con hơi mệt! U ăn cháo muối hay cháo đường?
-Cháo muối mãi cũng chán. Nhưng tiền đâu ra mà mua đường hả
con?
-Hôm qua anh Sửu ở uỷ ban mới đưa tiền "tử sĩ". Được
sáu chục đồng, thày con đang giữ. Nghe thấy hai tiếng "tử sĩ" bà lão
lại mếu máo:
-Khổ tôi không hả giời! Tôi bán con tôi được sáu chục bạc thế
này à?
-Thôi, u đừng làm ầm lên nữa. Chị Nga hơi gắt, và chính chị
cũng ngạc nhiên là sao hôm nay mình lại gắt với mẹ chồng. Chị dịu dọng lại. Con
định xin tiền thày mua cho u hai cân đường, còn thì xem may cho u bộ quần áo mới...
Bà mẹ chồng giãy nảy:
-Thôi đi chị ơi! Tôi không ăn đường cát đâu, có mua thì mua
cho tôi hai miếng đường phên được rồi. Còn quần áo thì may làm gì, tôi đi đâu
mà mặc. Hay là các người định may cho tôi mặc xuống lỗ đấy. Ừ, khéo thường thế
thật! Tôi cũng chả muốn sống nữa. Kỳ ơi! Con ơi...
Thực lòng, bà cụ Tuân rất thương chị Nga. Thử hỏi rằng, có ai
thương người đàn bà, bằng một người đàn bà. Thuở xưa, chính bà cụ Tuân, lúc còn
trẻ, lấy ông lão Tuân cũng là người phải làm dâu gia đình nhà chồng. Lúc ấy, cả
bố mẹ chồng bà còn sống. Có ai hiểu được nỗi lòng người con gái làm dâu hơn bà
mẹ chồng. Từ tơ mơ sáng bà đã phải dậy băm bèo, đặt nồi cám lợn. Rồi còn phải
luộc một nồi khoai lang để cho chồng, anh Tuân ấy, bỏ vài củ vào túi đánh trâu
ra đồng. Mà phải làm thật chính xác, thât nhẹ nhàng, bởi vì chỉ cần một tiếng động
nhỏ là bị chửi. Không chửi té tát thẳng vào mặt đâu, nhưng bằng những câu nói
mát, xỉa xói rất dễ làm người ta bực mình. Cả hai ông bà đều không ngủ được, họ
già rồi, họ ngủ chán ra rồi, chính họ cũng biết thế nhưng lại cứ kiếm cớ, đổ cho
con dâu "đá thúng, đụng nia", là kẻ gây hấn. Con lợn trong chuồng,
nghe động xoong nồi là gầm rít lên, cái giống súc vật là thế. Bà mẹ chồng cũng
biết thế, nhưng nào bà có chịu là thế đâu. Trong lúc quờ quạng với cặp mắt nhập
nhèm, bà đứng trên hè, giống giả bằng cái giọng khê khê:
-Chị nhiêu ơi, chị nạt cái con lợn toi vật ấy một tiếng cho
nó câm mõm nó lại cho tôi nhờ cái nào!
Ấy thế mà một lần, chị nhiêu Tuân cầm cái cặp đùa bếp đập vào
cọc chuồng lợn mắng nó:
-Toi vật! Có câm cái mõm lại không nào! Ăn gì vào lúc này mà
gầm rít lên thế...
Nào ngờ lúc ấy, bà cụ đang mải miết "tồ tồ" sau gốc
chuối, cạnh chuồng lợn. Nghe nàng dâu mắng con lợn, bà cụ đã "mát mẻ":
-Ấy, chị ơi! Cả cửa cả nhà nhà tôi cóp nhặt mới nuôi được nó
bằng tưng ấy đấy! Toi mà vật mất nó thì biết trông vào đâu...
Sau này, khi có con, chị Thông, chị Diệu, rồi anh Kỳ lần lượt
ra đời, bà Tuân đỡ khổ được đôi phần. Không, bà vẫn khổ, nhưng cái cực khổ có
phần "dễ chịu" hơn. Có con, bà bấu víu vào con, không còn chịu cảnh xỉa
xói, mát mẻ như trước. Nhưng một nách mấy đứa con thơ, chả bao giờ bà được ăn
miếng cơm cho ra miếng. Đến bữa, hai chân cặp con, để cho nó ngồi trước mặt, bà
nhắm mắt, nhắm mũi vào mà và lấy, và để, mặc kệ, sắn, khoai, cơm, củ... lộn nhộn,
lạo nhạo, miễn là lưng lửng bụng. Để rồi lại quẳng con đấy, lao ra đồng... Gia
đình nhà chồng, bà mẹ chồng, "vuốt mặt còn nể mũi", có hành hạ hay dè
bỉu con dâu, cũng phải kiêng những đứa cháu nội...
Gia đình ông Tuân là nhà gia giáo, có của, có danh... Một thời
xa xưa, chính ông Tuân cũng đã từng giang hồ lưu lạc, theo một bà cô đi buôn
bán khắp mấy tỉnh thành. Sau ngày vỡ đồn Tây (tháng Tám năm 1945) ông mới trở về
làng. Lúc lấy ông Tuân, người ta đã bảo bà sẽ sướng, và sướng là thế! Nhưng ở
cái làng Sơn Cốt của chúng tôi, cái truyền thống đáng nguyền rủa hàng đời, hàng
đời nay về sự đầy ải con dâu và sự ăn miếng, trả miếng giữa nàng dâu mẹ chồng
đã ăn sâu vào trong tận xương trắng, tủy đỏ rồi, biết đến bao giờ mới gột đi được?
Người ta gia giáo ở tận đẩu, tận đâu ấy chứ người đàn bà, nhất là thân phận người
đàn bà làm dâu có khi nào được hưởng. Những tưởng là những người đã đau khổ chất
chồng bởi cảnh làm dâu rồi thì sau này họ ngồi ghế mẹ chồng, thì "lòng vả
cũng như lòng sung", họ phải thương lấy con dâu, nhưng ngờ đâu, họ lại dẫm
vào cái dấu chân tai ác ấy như con trâu trên đường lầy, họ cứ nhè những bước của
"tiền nhân" mà xử với những người đàn bà có chung số phận. Cứ như thể
là trả thù vậy! Không phải ngẫu nhiên mà người ta còn truyền nhau cái câu: mất
tiên mua mâm thì đâm cho thủng! Không muốn, họ cũng phải là "kẻ thù truyền
kiếp" của nhau!
Thế hóa nên, bà lão Tuân có thương chị Nga thật đấy, nhưng
cái miệng bà lúc nào cũng oai oái, làm như mọi tội lỗi bà phải mang, mọi tai
ương bà phải gánh đều do chị Nga của tôi đem lại.
Chị Nga đặt nồi cháo xong, múc cám chăn lợn. Chị đứng hồi lâu
ở chuồng lợn, vừa cho nó ăn vừa gãi gãi trên cái bờ gáy rậm rịt những sợi lông
cứng của nó. Con lợn im lặng, thỉnh thoảng nó lại hặc mõm về một bên như đứa trẻ
hờn. Trong nhà này nó cho chị là người chủ thân thiết, và rồi chị Nga cũng coi
nó như người bạn. Đôi khi công việc ngập chân tay, nhưng chị vẫn dành cho nó
vài phút. Những lúc ấy, chị cảm thấy chính nó mới là nguồn an ủi của chị.
Phục vụ bà mẹ chồng xong, chị Nga lên nhà trên, không thấy
ông lão Tuân đâu, chị vào buồng chải đầu và cẩn thận chít vành khăn trắng lên
mái tóc đã bắt đầu cứng, có rất nhiều sợi chẻ ra làm hai, làm ba... dắt xe đạp
ra cổng. Chị lưỡng lự giây lát rồi dựa xe vào bờ rào, quay vào nói với mẹ chồng:
-Thầy con không có nhà, con về bên bố con một chốc, u ạ!
-Ừ. Liệu mà về sơm sớm cơm nước con nhá. Giọng bà lão ngọt
ngào một cách lạ thường, khiến chị Nga lấy làm ngạc nhiên.
Ra đường, tiếng lách tách của chiếc líp xe làm chị thấy vui
vui. Ừ, chiếc xe đạp hiệu Thống Nhất, món kỉ vật mà người ta dành cho thầy
Hoan, trước khi thầy nghỉ hưu, là quà tặng của thầy cho chị Nga, và đến khi chị
lấy chồng, thì nó là của hồi môn rất đáng giá của thầy dành cho con gái. Chị vừa
nghĩ ngợi lung tung, vừa phải tránh những vũng nước ổ gà và những hòn đá cuội
"nhẵn như đầu ông sư" rải rác trên mạt đường. Một toán học sinh đi học
về, đứng nép vào một bên, chúng thay nhau nhao nhao "Em chào cô ạ!".
Chị Nga cười với chúng bằng nụ cười thật chua chát. Em chào cô ạ! Cô nào? Chị
đã bao nhiêu lần nói với chúng rằng, chúng không phải chào chị nữa, và nhất là
đừng "chào cô giáo" nữa, nhưng chúng không nghe! Liệu chúng có thật
lòng không hay là chúng cố tình châm vào nỗi đau của chị? Và cũng rất có thể là
chúng làm theo lời xui bẩy của một ai đó? Chao ơi, nếu thế thì thật là độc ác!
Chị Nga đạp xe về, không thấy bố trong nhà, chị gọi to:
-Bố ơi!
Có tiếng động phía bờ ao, thầy Hoan xắn quần quá đầu gối, tay
cầm con dao đi lên:
-Nga đã về đấy hả con?
Chị Nga chỉ chờ có thế, gục đầu vào vai bố khóc nức nở. Thầy
Hoan dìu con vào nhà, đặt chị xuống mép ghế rồi vỗ vỗ vào mái tóc có chít vành
khăn trắng. Hai bố con chị Nga cứ ngồi như thế bên nhau có tới hàng giờ lâu. Thầy
Hoan gỡ tay con gái ra khỏi vai áo mình, nói nhỏ:
-Nín đi con! Chiến tranh...
-Con khổ quá, bố ơi!
-Bố hiểu! Bố hiểu con gái. Mọi sự đã được sắp bày cả rồi, biết
phải làm sao!
Chị Nga gạt những sợi tóc mai nhòe đẫm nước mắt, nhìn bố cầu
khẩn:
-Bố hãy cho con một lời khuyên!
Thầy Hoan vân vê que đóm châm thuốc trong tay, ngẩn ngơ nhìn
vào khoảng nắng ngoài vườn. Que đóm cháy leo đến đầu ngón tay khiến thầy giật
mình, dụi nó vào bát điếu. Ngoài kia, xa xôi lắm ở tận nơi nào đó của làng quê,
tiếng người gọi nhau nghe thật hối hả. Xa nữa là tiếng ầm ì của máy bay, không
biết của ta hay của địch mà sao thanh bình làm vậy?
-Bố chỉ có mình con, nhưng bố đã không giữ được con bên mình.
Điều này làm bố ân hận quá. Lại càng đau lòng hơn khi nhìn thấy con rơi vào
hoàn cảnh éo le mà bất lực. Con hãy tha tội cho bố. Thầy Hoan khóc. Và mẹ con nữa,
hãy tha tội cho ta... Lời khuyên của bố ư? Bố chỉ biết nói với con rằng: nếu
con nhận thấy điều gì đúng thì con cứ làm!
Chị Nga nắm chặt những ngón tay gầy guộc của bố, ngước lên:
-Con biết bố muốn con phải làm gì rồi. Nhưng...
-Nhưng sao hả con gái?
-Thôi, bố cứ yên tâm. Bố hãy kể về mẹ cho con nghe đi!
Thầy Hoan nhìn con gái, ngạc nhiên:
-Bố đã kể rồi mà!
-Bố cứ kể lại cho con nghe, xin bố hãy kể hết, và đừng giấu
con điều gì. Nhất là về cái chết của mẹ...
Thầy Hoan thở dài nhượng bộ:
-Thôi được, bố sẽ nói cho con biết. Sau khi sinh con ra được
hai mươi ba ngày, mẹ con qua đời. Đúng là không phải mẹ con chết vì bệnh hậu sản
như bố đã nói với con...
-Vậy thì vì cái gì hả bố?
-Chính vì lưỡi dao của ông ngoại con, cha của mẹ con!
Chị Nga rùng mình ôm chặt lấy đầu gối bố, đôi mắt nhắm nghiền,
giọng thoang thoảng:
-Kinh khủng quá! Thầy Hoan tiếp tục nói như nói cho chính
mình nghe. Ngày ấy bố và mẹ con phải lòng nhau, nhưng không được ông ngoại con
đồng ý. Vì bố là người xa lạ, tứ cố vô thân, hơn nữa lại là người lính, rày đây
mai đó, sống chết khôn lường. Nhưng tình yêu đã làm hai người mù quáng, mẹ con
đã mang hình hài của con trong bụng. Gần đến ngày sinh con, mẹ con đã tìm bố. Rồi
chúng ta đưa nhau vào một cánh rừng, bố dựng lên một cái lán nhỏ. Ở nơi ấy con
đã cất tiếng khóc chào đời. Hai mươi ba ngày sau, khi bố đi vắng, lúc trở về,
thấy mẹ con đã nằm bên vũng máu còn con thì giãy đạp bên cạnh, người cũng đỏ
lòe máu tươi. Lúc ấy mẹ con chỉ còn thều thào:
-Hãy đưa con đi khỏi nơi này! Đừng oán giận cha em, ông đã
tuyệt vọng vì đứa con duy nhất!
Sau khi chôn mẹ con, bố nghe tin ông ngoại cũng đã tự tử. Bố
bồng con đến trước mộ ông ngoại, nói lời vĩnh biệt rồi ôm con ra đi.
Hai bố con chị Nga cùng ngồi bất động hồi lâu. Nắng đã lùi xa
khỏi thềm nhà, mùi ngải cứu trên đầu giường thầy Hoan tỏa ra hăng hăng. cho đến
lúc chị Nga lay bố:
-Bố ơi! sao bố không xử con như ông ngoại đã xử với mẹ?
-Không! Không bao giờ rồ dại lặp lại những điều bi đát!
-Nhưng lại có những bi đát khác?
Thầy Hoan xoa đầu con gái:
-Đúng là có những cái bi kịch khác nhau mà chúng ta khó tránh
khỏi. Nhưng bố tin rằng rồi thế nào cũng phải có một lối thoát. Thôi trưa rồi,
con có ở lại ăn cơm với bố không?
-Con phải đi thôi bố ạ!
Khi chị Nga sắp nón dẫn xe ra cổng, thầy Hoan đưa cho chị cái
gói nhỏ, buộc lỏng lẻo:
-Bố có cân đường, tiêu chuẩn hưu, con cầm lấy mà uống nước...
-Con xin bố! Con thương bố quá! Thôi, con đi đây!
Chị Nga dựa xe đạp, khẽ đẩy dịch bức liếp, lách người vào
nhà. Từ ngoài nắng vào trong mát, mắt chị hoa lên, chưa nhìn rõ mọi vật trong
nhàvừa trống trải vừa ẩm thấp. Chợt chị nghe có tiếng động mạnh như người giãy
đạp và tiếng người nghẹt thở. Thoạt đầu chị tưởng tiếng con lợn đánh hơi thấy
chị về, nhưng không phải. Chị hốt hoảng nhận thấy cả mấy cái duổi nhà cùng rung
lên. Có chuyện không lành rồi! Chị Nga lao vào buồng, nơi vẫn để thóc, sắn khô,
nồi thau đồng, và một cảnh tượng kinh hoàng đã hiện ra trước mắt chị: một thây
người gầy rạc đang treo lủng lẳng trên quá giang nhà. Chị Nga vội quay ra giật
phắt cái liềm cắt lúa vẫn gài trên mái gianh từ sau vụ gặt, nhảy vào trèo lên bồ
thóc, một tay đu người trên mái nhà, tay kia chị ngoặc cái liềm vào sợi dây ra
sức cứa. Sợi dây đứt, cái thân người đổ uỵch xuống nền buồng. Đó là ông lão
Tuân! Chị Nga cởi mạnh cái nút dây thừng rồi bế thốc ông lão đặt lên giường.
Toàn thân ông lão hãy còn nóng, chị Nga nghiêng người ghé tai lên ngực nạn
nhân. Chị im lặng đứng dậy: tim hãy còn đập! Chị Nga tìm cái quạt nan quạt mạnh
lên mặt ông lão Tuân, rồi chị lấy hai đầu ngón tay cái day mạnh hai bên thái
dương. Được một lúc, có tiếng thở khò khè của ông. Như sực nhớ ra, chị đứng dậy
lấy trong cái túi của mình ra gói đường bọc trong giấy báo mà ông bố mới cho,
tìm cái cốc thủy tinh sứt sẹo, pha một cốc nước đường, nâng đầu bố chồng dậy, kề
cốc nước vào miệng. Tất cả những động tác, những việc làm của chị Nga chính
xác, khéo léo diễn ra dưới vẻ mặt lạnh lùng, bình thản, tựa như một bác sĩ đang
làm chức trách của mình. Và khi thấy sức lực ông lão Tuân dần dần lấy lại, chị
ánh lên một nét cười trên vành môi của người vừa hoàn thành một công trình sáng
tạo.
Ông lão Tuân mấp máy môi, uống từng ngụm nhỏ. Bỗng, lão nấc một
tiếng dựng người lên, rồi nôn thốc tháo ra tay chị Nga. Một dòng nước đỏ lòm
trào ra miệng lão, nghiêng xuống cái ngấn cổ nhăn nheo đang bắt đầu sưng vù
lên.
Nghe tin ông lão Tuân ốm, bà con đến thăm chật nhà, không kém
gì cái ngày báo tử anh Kỳ. Ông Tuân ngồi dựa vào thành giường, chùm chăn kín
đôi chân đến ngang bụng, cổ quấn cái khăn phu-la màu gụ, thở khò khè, không nói
được hỉ gật đầu đáp lễ những người đến thăm. Chị Nga tất tưởi chạy lên nhà trên
xuống nhà ngang, nơi hai ông bà bố mẹ chồng đang cùng nằm liệt chiếu. Đun nước,
chào đón khách, một tiếng rên nho nhỏ ở phía nào chị cũng phải có mặt.
-Chị Kỳ này, chết thật, làm sao mà để cụ đêm hôm một mình
không trông nom, đến nỗi này? Một bà thím họ xa, ăn trầu cắn chỉ, trề đôi môi mỏng
ra chành chẻ.
Chị Nga cúi nhìn vạt áo, rơm rớm nước mắt:
-Thưa thím, tại cháu sơ ý!
-Ừ, lần sau nhớ cẩn thận đấy, các cụ già yếu, lại cô đơn một
mình một bóng, con cái đứa lấy chồng thiên hạ, đứa hy sinh ngoài mặt trận. Tất
cả đều trông vào chị thôi đấy!
-Vâng ạ!
Rồi chị tất bật đi ra, từ non trưa đến chiều tối, mãi đến quá
khuya, chị mới được ngả lưng. Đặt mình nằm xuống cái giường chị lại giật thót
người, chỉ muốn vùng dậy phóng ra ngoài. Có đêm, chị như người lẩn thẩn, vùng dậy
chạy vào bếp vục cám cho lợn ăn. Con lợn bị đánh thức ngái ngủ dụi dụi cái mõm
vào tay chị, rồi uể oải xốc cám. Nó hình như cũng muốn chiều chị mà ăn, còn chị,
hàng giờ liền ngồi vừa vun cám cho nó ăn, vừa gãi gãi trên cái bờm có những sợi
lông thưa và cứng của nó. Hai hôm sau ngày ông lão Tuân ốm, một vị đại diện thường
trực uỷ ban xã đến thăm. Tiếng ông ta oang oang, rõ ra là tiếng cười nói của
người đắc chí từ ngoài đầu ngõ:
-Thế nào? Cô giáo Nga đâu? Cụ nhà mỏi thế nào?
Chị Nga lật đật chạy ra, tay cầm cành rong đuổi chó:
-Bác lại chơi!Ấy chết bác đừng gọi em là "cô giáo"
nữa. Em có còn dạy dỗ gì nữa đâu ạ...
-Ừ hừ! Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, cô là cô giáo thì chúng
tôi mới dám gọi. Như ông Bếp Hồng ở ta đấy, cô có biết không? Ông ấy đi lính
cho Pháp làm đến chức "bếp", về làng đã lâu, mà ai cũng gọi là ông Bếp
Hồng đấy thây!
-Người ta khác, em khác. Xin bác cứ gọi em là Nga thôi ạ!
-Ừ, thế cũng được. Cụ nhà nằm đâu?
-Mời bác vào, ông cụ nhà em ở trên nhà trên.
Ông thường trực uỷ ban gạt cái chân trống xe đạp phượng hoàng
đứng giữa sân, úp cái mũ cối bộ đội lên ghi- đông rồi vào nhà:
-Chào cụ! Nghe tin cụ mỏi, anh em trên uỷ ban cử tôi đến thăm
cụ đây!
Ông lão dọ dạy ngồi nhớm lên, hướng đôi mắt lo âu về phía
khách, môi mấp máy không thành tiếng.
-Cụ cứ nằm nghỉ, không sao! Ông khách ghé ngồi vào một bên
thành giường. Chết thật, bệnh tình thế này mà không chạy chữa là khốn. Hay để
tôi bảo cô Sáu trên trạm xá xuống khám cho cụ nhá?
Ông Tuân bất ngờ rút tay ra gỏi chăn, huơ huơ ra chiều không
đồng ý. Thình lình cái khăn phu-la trên cổ tụt xuống, làm lão hoảng hốt, kéo vội
nó lên. Vừa lúc ấy chị Nga cũng từ nhà ngang đi lên:
-Thày! Thày làm sao thế?
-Cổ cụ làm sao mà tím bầm lên thế, hả cô giáo?
Ông lão Tuân cố hết sức bình sinh:
-Đá...nh gio... ó...!
-Gió à? Ông khách cười. Ừ, dạo này gió lạnh về đêm, đi ra
ngoài lại có tuổi như cụ, hay bị cảm lắm đấy. Phải không cô giáo?
-Dạ, bác nói phải ạ!
-Thôi thế này, uỷ ban có cân đường gọi là chút quà thăm nom,
gửi cụ uống nước. Ông lục túi áo đại cán lấy ra cái gói nhỏ. Còn đây là của tôi,
lạng mỹ chính Việt Trì hôm đi tập huấn nông nghiệp ngoài huyện được mua. Cô
giáo cầm lấy, thỉnh thoảng cho vào cháo cho cụ ăn...
-Vâng, em xin bác, cám ơn bác và các bác"ngoài" uỷ
ban!
-Cụ nằm nghỉ, chịu khó ăn vào cho khoẻ. Tôi phải đi sang Thống
Hạ xem mạ mon thế nào đây. Đấy, lại còn phải liên hệ cho nhà trường Đại học gì ấy,
ở Hà Nội về sơ tán. Gớm, sau cái thằng Giôn-xơn, đến cái thằng Ních-sơn này nó
còn ác liệt lắm đây! Mẹ cha chúng nó! Nhà ta còn hầm chứ?
-Dạ còn ạ!
-Ừ. Thôi chào cụ, chào cô giáo, à tôi cứ hay quen mồm, chào
chị Kỳ!
-Vâng, bác lại nhà!
Rồi khách khứa cũng thưa dần, nhưng cái dấu dây thừng trên cổ
ông lão vẫn còn bầm tím khá lâu. Cho đến khi ông lão Tuân đã đứng dậy đi lại được
trong nhà, trên cổ ông vẫn xù xù cái khăn phu-la. May mắn cho ông lão Tuân, cho
cả mình nữa, chị Nga thầm nhủ, nó là cái sợi chạc trâu bằng dây nâu đã ải lại cứng
chứ mềm như sợi vải thì chắc chả kịp. Phải tay mình, chị Nga cười, mình sẽ tìm
một sợi lụa trắng, phải rồi, sợi lụa bạch để ra đi cho thanh sạch!
Khi ông lão khỏi hẳn, trong lúc chỉ còn hai người cần phải
nói với nhau điều gì, chỉ có chị Nga lên tiếng trước.
CHƯƠNG 5 -
S
au những biến cố trên xảy ra, có thể coi như những cơn giông
bão ập đến đổ lên hai vai chị Nga làm chị hoàn toàn thay đổi. Trước hết chị như
người mộng du trong một cõi hư không của riêng chị. Lúc nào chị cũng cảm thấy
muốn cười, cái cười nhạt, không chứa đựng một ý nghĩa nào, dù là chua chát đắng
cay. Chị cười với con lợn, tiếng cười khanh khách như hồi còn trẻ, lúc chị mới
vào trường trung cấp sư phạm. Từ trong nhà ngang, bà Tuân cố bò lại gần cái cửa
sổ mắt cáo nhìn sang, bà thở dài rạch trở lại chỗ nằm, không thể biết bà nghĩ
gì về cô con dâu. Có lúc chị cười với cái bóng mình dưới đáy giếng. Và kỳ lạ ở
chỗ, trong mâm cơm, chị cứ nhìn ông Tuân mà cười! Điều thứ hai làm mọi người
xung quanh để ý là chị bắt đầu hay chải tóc, ngắm nghía mình thật lâu bên thành
giếng nước. Có vài lần chị lấy cái áo để đã lâu không mặc từ trong đáy hòm ra
hong nắng, và buổi tối, chị mặc nó vào đi ngủ.
Về phần ông Tuân, cái cổ của ông đã tan vệt bầm của sợi chạc
trâu, ông có thể ung dung ra đường mà không cần phải quấn khăn. Nhưng trông ông
già sọm đi nhiều, gặp người quen đôi mắt thường đưa ngang ra phía cánh đồng. Ai
hỏi gì, có lúc ông trả lời như một cái máy, chỉ một mực "dạ, vâng".
Thiên hạ không ai đàm tiếu, họ chỉ tỏ ra xót xa cho một gia
đình bất hạnh. Nhưng dần dà những lời cảm thương cũng vơi đi, bởi họ còn phải
lo, phải nghĩ cho chính họ. Còn một sự kiện nữa mà chỉ có mình ông Tuân biết,
là sau chuyện bất thành đó, chị Nga không còn xưng hô một cách cung kính với
ông như trước nữa. Trước đây chị một hai thưa thày, mà bây giờ, trừ khi có người
thứ ba, còn thì chị chỉ nói trống không. Ông Tuân bảo:
-Vợ Kỳ hôm nay ở nhà để thày đi cày chỗ đất củ Đồng Quán cho.
Chị Nga đáp lại:
-Không. Cứ ở nhà đấy.
Lần khác chị bảo:
-Đưa tiền mua đường cho u!
Ông Tuân cảm thấy bị xúc phạm, nhưng vẫn không nói gì, lặng lẽ
làm theo. Nỗi ê chề đã làm cho ông không biết phải xử ra sao. Một lần, khi chỉ
có hai người trong nhà, ông Tuân chần chừ mãi rồi quyết định hỏi con dâu:
-Sao chị Kỳ lại không để cho tôi chết đi cho rảnh mắt?
Chị Nga ngừng tay sàng gạo, nhặt một hạt thóc trên sàng cho
vào miệng cắn:
-Không cứu? Không cứu để chết ra đấy thì tội vạ ai chịu? Chỉ
toàn là đem tai ương gieo vào đầu người khác. Đấy nhá, chỉ mới nằm đấy nửa
tháng mà bao lời trách móc đã đầy tai...
Ông Tuân, vừa cảm thấy bực bội, nhưng lại có cảm giác thinh
thích, dịu dàng, không thấy có cái vẻ xa cách bố chồng nàng dâu như trước. Chứ
còn gì nữa? Họ đối đáp với nhau nhấm nhẳng, như là một cặp nhân ngãi. Ông bố chồng
cũng bắt đầu giở giọng phiêu lưu:
-Cứ để cho tôi chết quách đi cho xong, sống làm gì, sống mà
không con cái, không kẻ nối dõi. Cô là đàn bà làm sao biết được cái khổ tâm của
kẻ tuyệt tự.
Chị Nga tiếp tục quay sàng, miệng vẫn đều đều:
-Thiên hạ cũng đầy ra đấy chứ nào riêng ai. Đằng này con người
ta xông pha ngoài mặt trận mà bỏ mạng chứ ăn cướp ăn trộm gì mà xấu hổ?
Bỗng ông Tuân đổi giọng:
-Nga ơi, hay là con tìm người nào mà chắp nối lại đi, chứ sống
mà như thế này, lúc khỏe trẻ không sao, về già như thày u, khổ lắm, nhục lắm!
Chị Nga vẫn giấm giẳng:
-Chả thiết!
-Còn cái tuổi xuân, con gái đàn bà có thì, có lứa, không ai
trách con đâu. Hỏi con câu này, con với thằng Kỳ ăn ở thế nào mà già nửa năm trời
vẫn không có gì?
-Ăn ở thế nào? Cũng như người ta chứ còn biết ăn ở thế nào?
-Hay là... tại con?
Bỗng chị Nga lắc mạnh tay, làm cho cái sàng vung ra khỏi nia,
gạo thóc tung tóe ra nền nhà. Rồi chị buông tay sàng oằn người lên, tay chống
ra sau, còn tay kia ôm bụng quằn quại, miệng ú ớ:
-Đau... đau quá!
Ông Tuân giật mình luống cuống chạy lại ngồi xuống sát chị Nga,
nhưng không dám động tay vào người chị:
-Sao thế con?
-Đau quá! Chị vừa rên vừa bấu tay vào vai ông Tuân. Dìu...
tôi vào buồng!
Ông Tuân vội vàng xốc nách chị Nga, còn chị, vừa dặt dẹo lê
chân trên nền nhà, vừa dựa hẳn người vào ông Tuân. Ông bố chồng đỡ con dâu nằm
lên giường xong, hỏi nhỏ:
-Đau bụng à? Để lấy nắm tóc rối cho đánh gió nhá?
Chị Nga vẫn nhắm nghiền mắt, vùa lắc đầu. Lát sau, chị nằm
im, thở dốc, hé mắt bảo ông Tuân:
-Ra khép hộ cánh cửa vào cái!
Ông Tuân lật đật làm theo, rồi quay vào, ghé ngồi lên mép giường.
Thình lình chị Nga nắm lấy bàn tay ông Tuân, kéo sát, ghì chặt vào ngực, giọng
lạnh băng:
-Đây! Làm gì thì làm đi!
Những ngày mưa lụt, mua dầm dề suốt ngày này sang ngày khác,
giờ này sang giờ khác, nước mưa hình như cũng được pha một chất keo buồn bã làm
lá sắn úp dính vào nhau theo một chiều thê lương và lành lạnh. Một ngày như thế,
chị Nga đạp xe ra chợ Ba Hàng. Chiếc xe đạp Thống Nhất khung nữ sơn màu xanh thẫm
đẹp như một tiểu thư đài các của chị lăn bánh trên những ổ gà lồm cồm. Mưa xiên
xiên tạt chéo vào khuôn mặt xinh xinh ngày nào, giờ đây hai gò má nhô cao và
rám nắng làm cho nó bợt bạt đi. Gần tới cầu Châu, một hòn đá nung vôi bất thần
nằm chặn giữa đường để cho chiếc xe của chị chồm vào, hất chị xuống rãnh nước.
Mặt mày tối xầm lại, chị chìm ngay vào cõi đen ngòm. Chị chết, chết thật sự. Chị
Nga của tôi đã đi vào cõi vĩnh hằng một cách thanh thản, bất thần, không chuẩn
bị trước và cô đơn.
Nhưng... đúng lúc đó, từ trong một túp lều dựng tạm của một
người bán nước chè xanh, mà vì một lý do gì đó, có thể do mưa bão sụt sùi,
không có khác lữ hành nào dại dột đi trên con đường lởm khởm này, túp lều đã bị
bỏ hoang, ngườ anh hùng Tnh Tinh xuất hiện! Anh hùng của làng Sơn Cốt vẫn đen
nhẻm, vẫn cười nhe bộ răng trắng ghê hồn được mọc ra từ hai miếng lợi đỏ chói
như hai miếng tiết quân hàm của anh binh nhì mới nhập ngũ. Nhưng mưa gió lạnh
lùng đã khoác lên người anh hùng Tinh Tinh một tấm áo đại cán rách bươm vốn của
người cháu là một cán bộ công an. Cái áo của anh công an này vốn có màu vàng
lòng tôm đặc chủng, gửi về cho bố, là anh ruột của anh Tinh Tinh, nhưng ông bố
không thể cứ để như thế mà mặc, thứ nhất cái màu sáng cả ban đêm lẫn ban ngày ấy
đẽ bị chửi vì rất dễ làm mồi cho máy bay, mỗi khi thấp thoáng trong ngõ xóm, thứ
hai là nó sẽ nhanh chóng trở thành màu xỉn cháo lòng, rồi đen thâm trông rất
"rợ", vì anh con trai công an không có đủ xà phòng gửi về cho bố. Thế
là nó được nhuộm bằng nước vỏ cây núc nác, ngả sang màu xanh lá mạ, lúc đầu đẹp
tuyệt trần, và lại rất hợp với tình hình phòng không lúc đó. Những năm sau, tấm
áo đặc chủng cũ dần và màu của nó gần giống với màu áo sĩ quan quân đội, còn kiểu
cách thì may y hệt như nhau, cùng một "mô-đen", như bây giờ ta đang gọi.
Khi chiếc áo đã không còn tốt, còn đẹp nữa, nó rách tan nát, vá víu lằng nhằng,
sơ tướp thì được chuyển giao cho người em trai, người hùng Tinh Tinh, tứ thời ở
trần.
Những bước chân chậm chạp nặng nề và dò dẫm của con Tinh Tinh
làng Sơn Cốt rất cảnh giác khi tiến lại gần chị Nga. Mưa tạt vào mặt, khiến
Tinh Tinh nhíu mắt lại, càng tiến đến gần, bước chân của anh ta càng ngập ngừng,
như bước chân của một người bình thường, thậm chí còn có vẻ tinh ma, ranh mãnh,
có khi một bàn chân nhấc lên trên không trung rồi để đó, chưa biết đặt xuống chỗ
nào?
Chị Nga nằm đó như một đống giẻ cũ nát, cuộn tròn, hai tay ôm
lấy bụng, thò ra đôi chân trắng xanh, bám đầy bùn lầy. Chiếc xe đạp nằm văng
sang một bên, hai bánh vẫn còn quay, tiếng líp xe át cả tiếng mưa tạt, phát ra
những tiếng kêu lách tách, vui tai, khiến người hùng để ý. Anh ta nhếch mép,
không, nhếch cả hai mép ra và nụ cười hoang dã không hề tắt trên đôi môi thâm
đen, không phải vì lạnh mà là vì vốn nó đã thâm đen như thế. Cúi xuống, lấy tay
khẽ chạm vào bánh xe, làm nó quay nhanh thêm một chút và tiếng tách tách càng
có vẻ vui tai, người Tinh Tinh thấy lo lắng, không dám đụng tới chiếc xe đạp
màu cánh trả, anh ta quay sang nhìn vào khuôn mặt tái ngát và có một vết tím bầm
ngay trên mí mắt trái. Có một cái gì đó làm anh ta chững lại. Nụ cười ngây dại
bỗng vụt tắt. Một chút trí tuệ, dù chỉ bằng hạt tấm bỗng loé lên trong bộ óc vốn
đã bị hư hỏng từ thuở bé. Một khuôn mặt khiến cho người hùng Tinh Tinh làng Sơn
Cốt thấy kính nể, hoặc yêu mến, hoặc một thứ tình cảm gì na ná như thế trỗi dậy
trong tâm trí đen thẳm của anh ta. Đúng là anh ta đã từng thấy, từng nhìn ngắm
và với một vẻ kính nể không thông thường toát ra từ khuông mạt chị Nga. Tinh
Tinh cúi xuống, nó cũng biết luồn đôi tay khòng khoèo xuống dưới đống giẻ ướt
sũng nước rồi nhấc bỗng thân thể chị Nga lên, cố hết sức bằng đôi chân lòng
khòng tấp tểnh lết đi trên đường, hướng về một ngôi nhà gần đó, miệng không ngớt
gào lên những tiếng la thê thảm:
-Chu chố...! Chu... chố...!
Về phần chị Nga của tôi, chị coi như đã tan vào một khối mây
đùng đục, hai mắt chị mở to, nhưng lại bị mờ đi trong một thứ ánh sáng nhợt nhạt.
Cảm giác thanh thoát và dịu dàng như tấm chăn bông mềm mại âm ấm hơi người trùm
kín lên khuôn mặt và dần dần bao lấy chị như cái kèn trắng của một loài tằm ăn
lá sằn, mịn màng, êm ái. Liền ngay đó ý thức chị choàng tỉnh và điều đầu tiên
chị nhận ra rằng chị đã chết. Cụ thể và chính xác hơn là chị đang chết, chết một
cách từ từ, chậm chạp, rất rõ nhận ra bằng một sự rơi, rơi nhẹ nhàng như một
cái bông gạo trong gió nhẹ. Thì ra, chết là thế! Chết là từ từ hồn lìa khỏi
xác, nhưng ý thức thì lại không dễ gì tan biến ngay đi, mà nó cứ lửng lơ, như
thể còn một điều gì chưa nói ra mà đã phải quay mặt đi, lặng lẽ trước cái mũi
nhọn của đầu sùng, hay lưỡi lê gì đó của một kẻ rất mạnh, rất đáng sợ nhưng
cũng rất vũ phu, đáng ghét.
Bây giờ thì chị nhận rõ mình hơn, nhận ra từng hạt mưa gõ
bung bung vào chiếc nón lá để bên cạnh, cái thai trong bụng ngột ngạt, cựa quậy
một cách yếu ớt và tuyệt vọng. Chị mang nó đi vào cõi chết nhưng nó không chịu
im lặng để tạn hưởng cái hạnh phúc thoát cõi thế trần gian. Nó là thế, chị biết,
chị làm mẹ nó, chị từng nếm trải những đắng cay, những thất vọng ê chề của cuộc
dồn nén, săn đuổi, nhưng nó chưa từng được ra đời, chưa từng được thấy cái vẻ đẹp
hùng vĩ và ngọt ngào của ánh nắng mặt trời lúc hừng đông, chiếu thẳng tắp vào
khuôn mặt từng con người, bất động. Nó chưa từng nghe tiếng sấm chớp, những giận
giữ của bão giông, uy hiếp vạn kiếp sinh linh nhưng vẫn lộ ra vẻ bất lực của trời
thẳm, không thể nào với tới được những ngõ ngách sâu kín, huyền bí và cả gian
ngoan, dối trá trong mỗi con người. Nó cũng chưa từng cảm thấy những cuộc sát
phạt, đấu đá, hành hạ bằng những tâm trạng khoái trá rửa hận, hay những ánh mắt
lo sợ hãi hùng mà trên dương gian này, con người vẫn thường đem ra để thi thố.
Con ơi! Con chưa được thành người, chưa được có niềm hạnh phúc mang cái danh hiệu
con người thì mẹ đã mang con đi! Không biết là may mắn hay rủi ro cho con, cho
kiếp người đang chờ con ở ngoài kia!
Như nghe được những lời than vãn của chị Nga, cái thai đạp mạnh
hơn nữa, và chị Nga nhận thấy mình đang bay, bằng một đường bay gập ghềnh, nâng
lên, đặt xuống, có lúc như hụt hẫng, nhưng vẫn là đang bay. Rồi, bất thần, đường
bay chững lại, va mạnh chị vào một bờ đất kiên cố, nặng chịch, vỡ oà ra. Máu
trong người chị chảy như suối, chị tan ra thàn muôn ngàn mảnh li ti, bay lập lờ
trong sương nhạt. Thế là hết, là chết! Chết là thế đấy!
Cho đến khi tỉnh lại, trước mặt chị là khuôn mặt vô cảm của
bà Phán Lan:
-Rõ khổ cái thân! Nhà chị đi đâu trong lúc mưa gió thế này?
Nón tơi đâu mà phong phanh? May quá, thế nào mà cái thằng người Tinh Tinh,
chuyên cởi truồng cởi trần nhảy Đầu Cầu nó lại thấy chị, lại còn biết mang chị
vào cho tôi!
Chị Nga ngơ ngác nhìn lên đám mạng nhện đu đưa qua hai cái
kèo tre:
-Cháu đi cắt thuốc cho bà cụ...
-Sao không đưa bà cụ ra viện Than? Thuốc gì hay vẫn thuốc cụ
Lang Khuê?
Chị Nga vẫn vô cảm:
-Dạ phải! Mấy giờ rồi hả bà?
-Năm giờ từ khi nãy, nghe tiếng kẻng của trại tù binh.
Chị Nga gượng ngồi dậy, bà Phán đỡ một bên cánh tay:
-Chị nằm nghỉ, tôi bảo cháu nó đi gọi ông giáo rồi.
Chị Nga giật mình như người đang từ cõi âm u tịch trở lại cõi
dương gian:
-Chết! Bà cho gọi bố cháu làm gì! Cháu bị nhẹ thôi mà. Với lại
cháu còn phải ra phố...
-Thôi, đừng đi đâu nữa, tối rồi, mai hẵng đi. Chị cứ nằm đây
mà nghỉ...
-Không... Chị Nga khẽ rên một tiếng, gượng đứng dậy, nhưng nắm
hụt cái thành giường, chao người, chống một bên đầu gối xuống đất. Bà phán chạy
lại:
-Bảo mà! Đây kia, ông giáo đang ra kia...
Thầy Hoan đội một cái áo bạt cũ rách lỗ chỗ, dừng lại ngoài
hiên rũ phành phạch rồi vắt lên cánh rại, bước vào nhà. Trông thấy chị Nga đang
ôm bụng quằn quại, thầy nắm lấy cổ tay con gái:
-Con bị làm sao thế?
-Con chết mất! Bố ơi!...
Cơn đau bụng quằn thắt thình lình kéo đến cùng với sự có mặt
của thày Hoan. Hai con mắt trắng dại của chị Nga ngó trâng trâng vào mặt cha.
Bà Phán Lan thấy thế thì đâm lo:
-Nói dại, hả ông giáo? Có phải chị Nga...?
Phải rồi! Chị Nga đang vật vã trong tay tay cha, một tay chống
vào bên sườn oằn bụng gồng lên như gò, như đống. Tay kia chị nắm một nắm tóc
cho vào miệng cắn, tiếng rên của chị qua những sợi tóc ré lên một âm sắc ghê rợn:
-Bố ơi... Bố cho con về nhà bố đi. Để con chết!
Thầy Hoan bối rối nhìn vào mắt con gái:
-Sao? Con thấy sao?
Bà Phán vội vàng chạy về phía bàn thờ lật bật đốt ba nén
hương rồi phủ phục xuống đất lầm rầm khấn vái. Đoạn bà quay lại, ghé vào tai thầy
Hoan:
-Ông Giáo ạ... Hình như là... có dễ... chị Nga, chị ấy trở dạ!
-Hả? Bà Phán, bà nói cái gì?
-Không có gì đâu. Cô ấy sắp đẻ...
Thầy Hoan đờ người, buông con gái ra nhìn bà Phán:
-Ai bảo bà thế?
Không nói không rằng, bà Phán Lan giật phăng hàng cúc áo bên
dưới bụng chị Nga trật ra một hàng, mấy lớp vải cắt chéo quấn chặt lấy bụng. Bà
Phán tiếp tục lần giở những cái tã trẻ con hình tam giác được quấn mấy vòng.
Sau cùng, bụng chị Nga như bất ngờ trương lên, lồi những cục, những cục... Chị
Nga hét lên một tiếng:
-Đừng! Rồi chị nhìn thầy Hoan bằng cái nhìn tuyệt vọng: Bố
ơi. Cho con về...
-Không sao! Chị nằm đây, để tôi đi gọi người. Bà Phán vừa thở
vừa nói.
-Đừng! Cháu lạy bà, cháu chết mất!
Thầy Hoan bất thần đứng vụt dậy nhìn chị Nga như ngây dại.
Trong một giây đắn đo, thầy ghé lưng vào:
-Ôm lấy cổ bố. Ta về nhà đi con...
Khi thầy Hoan xốc con gái lên lưng thì trên khuôn mặt màu
vàng nghệ giờ đã chuyển sang trắng bệch của bà Phán Lan lộ vẻ vô cùng kinh ngạc:
-Sao? Ông định giết chị ấy à? Trời đang mưa sầm sập thế này!
-Bà ơi! Bố con tôi đội ơn bà! Bà đừng để chuyện này lộ ra với
ai... Cháu nó dại, tôi xin chịu. Để tôi tính.
Nói xong thầy Hoan cõng chị Nga lao ra sân trong một màn mưa
mờ mịt. Bà Phán tần ngần đứng nhìn cái bóng lù xù của hai cha con ông giáo lảo
đảo lẫn vào trong mưa. Rồi bà quầy quả sắp những thứ mà bà vừa lấy ở bụng chị
Nga ra cho vào cái tay nải, chòng cái áo tơi qua cổ chạy vụt ra trời mưa. Ra đến
giữa sân, bà Phán lại chạy vào buồng tìm kim chỉ, một xấp giấy bản, và hai ba
cái lọ đựng gì không biết. Bà chạy mải miết đuổi theo họ, trong màn mưa đục mịt
mờ và trong gió giăng giàn giạt.
Năm ấy lụt to. Quê tôi chưa năm nào lụt to như thế. Đường ra
chợ Ba Hàng, người đứng trên cầu Châu có thể chỏa chân xuống dòng nước chảy xiết.
Nhiều người còn hào hứng kể lại cho con cháu nghe đến vài mươi năm về sau những
câu chuyện đại loại như thuồng luồng và giải cuộn tròn lại với nhau quấn xiết lấy
những thân cây cổ thụ trôi phăng phăng trên sông Công. Thật là một năm đại họa.
Câu chuyện về mùa lũ ống năm ấy tuy có để lại những ấn tượng hãi hùng cho nông
dân làng Sơn Cốt, nhưng nó mau chóng tan biến đi cùng với cái đói kèm sát sạt
ngay sau đó, và bởi những câu chuyện khác thời sự hơn, sát sườn hơn...
Dân làng Sơn Cốt chúng tôi nói theo thuật ngữ thời bây giờ
thuộc vào hàng đói thông tin. Sở dĩ nói "đói" là vì họ là những người
ưa thích đưa chuyện, nhưng không phải lúc nào cũng có sẵn chuyện để mà truyền
khẩu. Đói ăn vụng, ăn vụng còn ăn, huống hồ được một bữa liên hoan kiểu như đại
hội xã viên thì còn gì bằng. Đàn ông có mâm của đàn ông, đàn bà và trẻ con có
chiếu của mình, ăn xong còn lấy phần. Những miếng thịt mỡ thái con chì trắng ơn
ởn, đói lâu ngày, thiếu kinh niên, tương vào chưa biết bổ béo ra sao nhưng đám
giun đũa, giun kim và vô vàn loài sống ký sinh trong đại tiểu tràng cũng được một
bữa liên hoan. Và rồi những cơn đau bụng té re cả làng quần nhau tìm lá ổi, vỏ
sắn thuyền... Thông tin cũng thế!
Dòng tin thời sự nóng hổi và cực kỳ hấp dẫn lan truyền như một
làn vi ba âm ỉ xuyên suốt từ nhà này sang nhà kia, qua những bức tường đất, qua
những mái rạ đến từng người dân, đàn ông, đàn bà và cả người già, trẻ con. Tất
nhiên là chị Nga không nghe thấy, nhưng có lẽ vì không nghe được những lời đồn
đại ấy nên chị càng đau đớn quằn quại. Trong ngôi nhà lợp lá cọ dặm lá mía ướt
sũng nước mưa, thầy Hoan âm thầm phục vụ con gái. Thầy vui hay buồn, đau khổ
hay hạnh phúc? Có lẽ cả hai, bởi cho nên thầy không nói nhiều, nhưng nhìn con
gái ôm con, thầy ánh lên một nét cười trong bóng tối.
Có một người, đó là bà Phán Lan, người đã đón tiếng khóc của
cậu con trai đem đặt vào tay chị Nga, không, bà đặt vào tay thầy Hoan trước đã:
-Ông bế cháu tý nào! Thằng chó mới hay làm sao!
Cứ thế bà suýt soa, đến nỗi thầy Hoan cũng cảm thấy "thằng
chó" mới hay làm sao. Một ngày hai buổi, bà Phán chạy vào giặt giũ, cơm nước
cho chị Nga. Thầy Hoan phải chắp hai tay vào nói với bà:
-Bà để tôi làm, tôi làm được. Ba làm tôi áy náy quá!
-Giời đất ơi! Ông giáo mới là người hay! Chuyện váy máu, đàn
ông đàn ang, ai lại dúng tay vào. Ông giáo khỏi phải lo, tôi làm là làm phúc
cho con cháu tôi, chứ ân với huệ gì. Nói để ông giáo yên lòng, đời tôi còn chua
chát bằng vạn ấy chứ, mà nào có thằng nào con nào cắn gấu váy tôi đâu... Nào!
xem thằng chó của bà thức hay ngủ nào?
Cứ thế bà Phán Lan xăng xái với những công việc khá là vất vả
và phức tạp. Bà bê chậu quần áo tã lót ra ao Sen ngồi dạng hai chân lên cái cầu
đá ngay sát đường đi mà vò, mà vỗ. Bà vỗ rõ to, cứ bồm bộp, bồm bôp... Đó là bà
tự hào với việc làm phúc đức, nhưng lại thành ra trêu ngươi thiên hạ. Bà Th.,
cái bà đàn bà giàu có, có tiếng là hay thóc mách, khích bác, đi qua dĩ nhiên là
phải ngứa mồm rồi:
-Ôi giời! Bà Phán đấy à, cứ tưởng ai người thiên hạ! Bà giặt
giũ gì mà cứ quần quật thế? Lại có cả tã lót nữa. Con gái hay con dâu "vỡ
chum" đấy?
-A à! Bà Th. đấy à? Con cháu gái tôi nó đẻ đấy bà ạ.
-Thế trai hay gái đấy?
-Trai! Trai mới quý chứ lị. Nó lớn lên nó lại vào Nam đánh
nhau, chứ nó lại thèm trốn chui trốn nhủi như khối thằng sợ chết ở cái làng ta
bà nhỉ...
Bà Phán Lan cười, tiếng cười cứ lanh lảnh, tự nhiên, một
mình, đến nỗi chỉ nghe bà cười, người ta cũng phải cười dù chả biết bà cười gì.
Cuộc đời chị Nga của tôi lại tiếp tục rẽ vào một ngõ ngoặt nữa
trên con đường đời gập ghềnh đầy những bất trắc. Những ngày đầu tiên nhìn đứa
con trai đỏ hỏn, ngọ ngoạy trong đám tã lót, chị không còn biết mình có còn tồn
tại trên cõi đời này nữa. Cứ y như thể một cơn chiêm bao trong giấc ngủ ngày,
muốn tránh đi nhưng cứ phải nhìn, muốn mở mắt ra thì lại chói loà, díu lại, muốn
vùng dậy chạy đi mà chân tay cứ khòng khoeo, cuốn chặt. Nhưng rồi cái cảm giác ấy
cũng dần dần qua đi. Từng tí một, chị Nga nhận thức được đây là sự thật chứ
không phải chiêm bao, mộng mị. Chị ngồi dậy ngắm nhìn đứa con như ngắm nhìn một
con thú nhỏ, lạ lẫm. Trên vầng trán xanh xao, thoáng hiện lên những nếp nhăn
nghi hoặc ngờ vực... Cái sinh linh nhỏ bé kia nó động đậy, nó mở mắt ra rồi lại
nhắm mắt vào, đùn những hạt nhử nhỏ tí màu vang ởn lên bờ đôi mí mắt không lông
mày, lông mi và lớp da mỏng tang màu đỏ thẫm của máu. Và, không biết được rằng
một giây, một khoảnh khắc vụt đến nào đó, chị Nga nhận ra rằng đó chính là đứa
con của mình, nó chính là máu thịt của chị vừa trải qua một cơn đau đớn quằn quại,
đau như cắt, như xé, như dứt. Phải rồi, đó chính là cơn đau vặt ngắt một mảng
thịt xương đâu đó của con người chị để tạo ra nó. Ôi! Con tôi! Đúng rồi, con của
tôi! Chị Nga đờ đẫn nghĩ ra điều đó rồi chị bồng nó lên tay, đưa nhè nhẹ và nước
mắt trào ra, lã chã... Khi chị vạch áo tìm vú đưa vào miệng thằng bé, nó vội
vàng hau háu cái miệng làm như đói khát lắm, nhưng chỉ vài cái mút nó vội vàng
nhè ra để há cái miệng nhỏ xíu toàn lợi ra mà khóc. Chị rất kinh ngạc khi con
mình khóc không ra tiếng. Chị cảm thấy nhức dữ dội hai bầu vú căng sữa. Chị đặt
thằng con xuống góc chiếu rồi vạch vú quay vào tường vắt mạnh. Những tia sữa
màu trắng đục bắn lên vách đất tạo ra hình thù kỳ quái, ngả dần sang màu đen.
Ba ngày sau chị Nga không về nhà, ông Tuân sốt ruột chống gậy
ra ngõ ngóng. Một người nào đó ghé vào cho ông biết tin con d6u ông bị ngã xe
ngoài đường, được đưa vào nhà bà Phán Lan. Ngày hôm sau, lại có tin cô giáo Nga
băng huyết nặng lắm nằng nặc đòi về nhà bố đẻ là ông giáo Hoan. Ông lão Tuân sốt
ruột quá, lo lắng quá. Căn nhà vốn đã vắng lặng, giờ càng trở nên đìu hiu. Ở dưới
nhà ngang bà Tuân vẫn rên và gọi chị Nga. Khi được ông chồng báo cho biết chịNga
bị ngã xe ngoài Ba Hàng, thì bà cắm cảu:
-Dửng mãi mỡ lên, đi đâu ra ngoài ấy để cho nó ngã?
Ông Tuân điên tiết:
-Có câm cái mồm đi không? Đã liệt giường liệt chiếu lại còn
hay ác khẩu. Đi đâu à? "Người ta" đi cắt thuốc cho bà đấy! "Người
ta" mà có làm sao thì bà cứ liệu cái thần hồn...
-Gớm nhỉ! Ông gọi "người ta" là ai thế? Không khéo
lại đội nó lên mà thờ...
-Nằm im đấy! Có đói thì bảo, chứ đừng có mà rống lên như thế.
Hai con lợn kêu cũng đủ rồi...
Ông Tuân quay ngoắt lên nhà trên vê thuốc lào. Mấy con gà con
bị mẹ bỏ sớm đang tranh nhau nhảy nháo nhác lên vành cối xay, hy vọng vào những
hạt thóc lép còn kẹt trong nan cối. Ông vung cánh tay yếu ớt lên xua chúng một
cách chiếu lệ rồi móc cái đóm cài trên cánh rại, châm vào ngọn lửa yếu ớt của
ngọn đèn con để cả ngày. Thuốc lào bắt lửa, lại được kéo gió mạnh, từ hai lá phổi
còn khá tốt của ông lão, rực lên rồi từ đỏ chuyên sang màu trắng của tàn thuốc.
Ông lão ngưng lại lấy hơi, rồi đưa cái điếu lên cao ngang mặt, rít một hơi cực
mạnh, quyết định của một mồi thuốc. Khói tràn vào ngập ngụa buồng phổi, ở đó chừng
một giây rồi lại kéo nhau ra cuồn cuộn, ở cả cái miệng rộng và hai lỗ mũi khoằm.
Say! Thuốc lào bao giờ cũng say. Phải say mới là thuốc lào, say đến quên xung
quanh, quên cả mình, cả điếu. Rồi tỉnh lại một cách nhanh chóng, nhưng sau say
là một tâm trạng tỉnh khác hẳn, mới hẳn, không thật rõ ràng với trước đó, trước
khi hút. Ai đã từng hút thuốc lào, chắc hẳn phải có cảm giác như thế.
Đang lơ mơ với khói thuốc, có tiếng con chó hực lên mấy tiếng
rồi nhảy cẫng lên rên ư ử. Khách nào nhỉ? Con chó nó cong đuôi lên thế kia,
đích thị người quen. Ông vùa tìm chỗ dựa cái điếu vừa ngẩng lên thì đã thấy người
đàn bà bước vào. À, con mẹ Diệu.
Chị Diệu mặc quần phíp, áo sơ mi kiểu Hồng Kông, từ ngực trở
xuống thẳng đuỗn, tóc rẽ ngôi lệch lưỡi trai. Trông chị đúng là mẫu người cán bộ
thời ấy. Chị cũng làm chức gì đấy có chân trong ban lãnh đạo xã bên cạnh. Vừa dựa
cái xe đạp vào thành bể nước, giọng chị oang oang:
-Sao bảo thày ốm đau thế nào? Gớm, con cũng bấn quá, nghe tin
thấy vậy mà mãi hôm nay mới sang được.
-Vâng! Ông Tuân nói mát. Cả năm nay rồi mà chị mới vác cái mặt
sang, giang sơn nhà chồng có bị làm sao không?
Chị Diệu đánh phệt xuống cái chổi rơm, cầm nón ve vẩy:
-Ối dào! Ốm, ốm như u con thì có mà chết người ta. Thế vợ Kỳ
nó đi đâu rồi thày?
-Thấy bảo ngã xe đã vài hôm nay nằm bên nhà ông giáo Hoan...
-Khốn khổ, khốn nạn! Đi đâu mà tí tởn thế chả biết. Dễ thường
lại tính đi bước nữa chắc?
Ông Tuân ngồi im, toan hút điếu thuốc nữa, nhưng thấy người vẫn
còn say say lại thôi. Thấy bố không nói gì, chị Diệu tiếp:
-Ở bên ấy, con nghe người ta đồn về thím ấy nghe rác cả tai
ra.
-Đồn thế nào?
-Còn thế nào nữa. Làm đỏm lắm cơ. Mà cái này mới ác mồm, chả
biết có thật không?
-Cái gì thật với không thật?
Chị con gái nhỏm dậy ghé sát tai bố:
-Nghe bảo thím ấy... cô ấy chim cả... thày, có không?
Ông Tuân giương cặp mắt khói thuốc lên đờ đẫn nhìn con gái.
Mãi sau ông mới buông một câu:
-La...áo...!
Non trưa, ông lão Tuân lọc cọc đẩy cánh cổng tre rệu rạo bước
vào sân nhà thầy Hoan. Lúc ấy, đang bấy lại cái bu gà đã bị bung ra một góc,
nghe động thầy Hoan ngẩng lên và cảm thấy máu trong người như dồn cục lại đâu
đó trên thái dương. Tay vẫn cầm con dao cùn, thầy Hoan đứng dậy chào thông gia:
-Cụ sang chơi?
-Không dám, chào ông giáo!
Nhìn ông Tuân sọm xuống dựa cây gậy sắn vào cột hiên, thầy
Hoan chưa nghĩ ra được một câu nào để khả dĩ đánh loãng cái không khí u uất, nặng
nề đang đè nặng lên căn nhà ốm yếu, đè lên đôi vai mòn mỏi của thầy. Đến khi ngồi
vào cái ghế khập khễnh, thở mấy nhịp ông Tuân lên tiếng:
-Cô Nga làm sao hả ông giáo?
Thầy Hoan bỗng rùng mình một cái như một thầy pháp, nhổm lên
nắm tay ông Tuân lôi xồng xộc dậy:
-Mời cụ vào đây...
Ông Tuân không hiểu chuyện gì, định cưỡng lại nhưng vì ông
thông gia kéo mạnh quá nên ông cũng phải theo. Hai ông già, lôi kéo nhau lò mò
gò lưng chui vào cái cửa buồng tối om. Từ ngoài nắng, ông Tuân đang còn hoa mắt
chưa nhìn thấy gì thì thầy Hoan đã vén tấm vải mục che vuông cửa sổ để một luồng
sáng vàng bửng rọi vào đống tã lót đang ngọ ngoạy.
-Cái gì thế? Ông Tuân thì thào.
-Cụ vẫn chưa nhìn thấy gì à? Cháu tôi đấy! Thầy Hoan đĩnh đạc.
Ông lão Tuân giương hai mí mắt lên nhìn mà không tin vào mắt
mình. Chị Nga giật mình ngồi thu mình vào một gốc chiếu như con mèo thủ thế. Im
lặng trôi đi nặng nề.
-Cháu tôi đấy, cụ ạ! Thầy Hoan dõng dạc nhắc lại một lần nữa,
tưởng ông Tuân thế nào cũng gầm lên. Nhưng không, ông Tuân cúi xuống nhìn sát
vào mặt đứa bé rồi nhìn thẳng vào mặt chị Nga mà hỏi một câu thảng thốt:
-Trai hay gái?
-Trai! Chị Nga buột mồm, còn thầy Hoan thì hoàn toàn bị bất
ngờ bởi câu nói khá hỗn của con. Thầy đứng lùi xa một bước nhìn hai người, ông
Tuân và chị Nga nhìn nhau. Chợt tim thầy nhói lên đau đớn khiến thầy phải ôm
ghì lấy ngực mình. Cơn đau dai dẳng quá, khiến thầy ngã phịch vào cái bao tải đựng
sắn khô. Chị Nga vùng dậy ôm lấy thầy mà khóc:
-Bố ơi! Con giết bố rồi...
CHƯƠNG 6 -
N
ắng gay gắt! Nắng tháng Tám héo quăn héo quắt lá sắn, bưởi
trong vượn rụng bình bịch suốt đêm. Ban ngày, tầm quá trưa nước trên cánh đồng
Lưu Lạc như sôi lên, sủi tăm, những con cua con, những con cá cờ đuôi tím ngắt...
nhao vào bờ leo lên gốc rạ tìm nơi tránh nắng. Một buổi chiều, đúng vào ngày thằng
con đầy tháng chị Nga đội nón bồng con ra xã làm giấy khai sinh. Tôi không muốn
thuật lại cái chuyện đầy sóng gió này vì có nhiều người đã viết về sự "thẳng
như nòng súng, rắn như hòn đạn" của Ủy ban hành chính hồi đó rồi. Nhưng nhờ
vào tấm lòng từ tâm, đầy giông bão và đau khổ của bà chủ tịch xã, mà cũng có lẽ
là do tiếng khóc đanh thép và dai dẳng của thằng bé, đích thân chủ tịch xã đã
viết và ký giấy khai sinh cho nó. Nó mang họ Trần, họ của anh Kỳ, tên nó được
chị Nga đặt là Hận, Trần Hận! Xong xuôi cái thủ tục này, chị bế thẳng con về
nhà ông Tuân.
Nhìn theo cái dáng lầm lũi, nhẫn nhục của người đàn bà trẻ
đang bế đứa con rẽ vào ngõ khuất, bà chủ tịch bỗng cảm thấy lòng mình chạnh đau
như muối xát. Bà cầm con dấu Ủy ban hành chính hình chữ nhật lên ngắm nghía: nó
cũ kỹ và trầy sứt, loang nhoang màu mực, màu nhọ đèn, thật thảm hại, nhưng nó lại
có uy lực rất lớn. Nó có thể cứu một con người ra khỏi tai ương, nhưng nó cũng
có thể đẩy một con người vào vòng lao lý. Và kèm theo với cái dấu ấy là chữ ký,
của bà hay của một người nào đó, của bà chẳng hạn, là chính quyền, là công lý,
là lợi ích... Bà chủ tịch xã chúng tôi, bỏ con dấu cùng với những thứ giấy tờ
linh tinh vào cái túi xách màu đen, dắt xe ra cổng ủy ban. Bà lựa một quãng đường
phẳng, nhảy lên pê-đan chiếc xe đạp nữ màu xanh phòng không. Bà cứ đạp... và
không sao dứt ra khỏi hình ảnh thằng bé con cô giáo Nga, nó đỏ hon hỏn như con
chó con chưa mở mắt, quờ quạng tìm vú mẹ. Tên nó là gì nhỉ? Hận, Trần Hận! Sao
cô ấy lại đặt tên cho con mình như thế nhỉ? Hận gì? Ân hận hay thù hận? Bà nhìn
lên bầu trời chiều nắng đã tàn, nhưng nóng oi hầm hập, tím bầm, một hai con cò
trắng bay lạc lõng phía cánh đông Lưu Lạc. Rồi thế nào người ta cũng nghi ngờ
và chất vấn bà rằng: vì sao mà bà chủ tịch lại chấp thuận một cách dễ dàng lời
khai của chị Nga đến thế. Bà hỏi:
-Cô đặt tên cho cháu là gì?
Chị Nga đáp:
-Thưa chị, em đặt cho cháu tên là Hận ạ!
Bà chủ tịch hơi cau trán, nhưng những giọt mồ hôi li ti đã
nhòe đi theo những nếp nhăn giãn ra, bà lại ôn tồn hỏi:
-Tên mẹ là Nga! Họ của cô là gì nhỉ? Như tự trách mình, bà
nói thêm. Chị em với nhau mà tôi không biết họ của cô. Tôi cũng là học trò của
thầy Hoan!
-Dạ, em là Hoàng Thị Nga!
Bà chủ tịch lại hí húi viết. Còn một câu hỏi bà muốn hỏi, câu
hỏi cuối cùng nhưng lại rất quan trọng, nên bà cảm thấy rất khó. Thằng bé bỗng
khóc ré lên, chị Nga vỗ vào lưng nó, đung đưa hai cánh tay, ru con. Bà chủ tịch
cắn quản bút, nghĩ ngợi. Chị Nga nhìn thấy trên mặt bà hằn rõ sự căng thẳng từ
khóe môi. Bà thở mạnh một hơi, chùng người xuống, rồi nhìn thẳng vào mắt người
công dân đầy vẻ lo âu, căng thẳng, đang ngồi trước mặt mình:
-Họ của cháu cũng là họ Hoàng chứ?
Chị Nga hiểu nỗi băn khoăn của bà chủ tịch và chị nhìn bà với
cái nhìn đầy biết ơn:
-Không, chị ạ! Họ của cháu là họ Trần!
Bà chủ tịch thở nhẹ, cúi xuống định viết, lại ngẩng lên:
-Trần Tuấn? Bố cháu là...?
Chị Nga dù rất cảm phục và biết ơn bà chủ tịch, nhưng chị vẫn
thấy cần phải bày tỏ sự khẳng khái, thậm chí còn đầy khiêu khích của mình.Chị
khẽ lắc đầu, như muốn hất mấy sợi tóc mai vương trên trán, chảy lòa xòa xuống mặc
dù nó đã bết mồ hôi, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt bà chủ tịch:
-Họ tên đầy đủ của cháu là Trần Hận, con của Trần Tuấn Kỳ!
Bà chủ tịch không hỏi gì thêm, bà viết hết những chỗ trống cần
thiết cho một tờ giấy khai sinh, rồi ký tên, đóng dấu. Bà nhìn tờ giấy dang màu
nâu đất, chao qua chao lại chờ mực khô, rồi đưa cho chị Nga:
-Của cô đây! Rồi bà cười, nhìn thằng Hận (từ giờ phút này tên
nó là Trần Hận). Xem thằng Cún cái nào... Cháu ngoan chứ? Cô có đủ sữa cho cháu
bú chứ? Bà là người tế nhị thật, chỉ hỏi với những câu "tích cực".
(Đáng lẽ bà có thể hỏi: Cháu ngoan không? Có đủ sữa không?).
Chị Nga cầm tờ giấy khai sinh quạt cho con:
-Dạ cháu cũng ngoan... Cám ơn chị... Cháu còn non bấy, chưa
ăn bao nhiêu nên em cũng đủ sữa!
Tất cả mọi chuyện xảy ra nhanh chóng như vậy đấy. Nhờ Trời!
Cũng may cho chị Nga, nếu không gặp trực tiếp bà chủ tịch, mà là ông ủy viên ủy
ban phụ trách hộ tịch có lẽ chị chưa biết sẽ phải nói năng, trình bày như thế
nào?
Vừa đạp xe, bà chủ tịch xã bỗng bật cười. Bố thằng Hận là Trần
Tuấn Kỳ? Anh chàng Kỳ đi bộ đội ba năm thì hy sinh, từ hôm báo tử đến nay cũng
đã hai năm! Có họa thằng bé con là ông Thánh Gióng! Nhưng bà mẹ Thánh cũng chỉ
mang thai đến ba năm, đằng này...
Để hiểu tấm lòng vị tha, cao thượng của bà chủ tịch, tôi xin
thuật lại câu chuyện sau đây mà mãi về sau tôi mới được nghe kể lại. Tên bà là
Nghĩa, theo một mối quan hệ họ hàng xa, tôi phải gọi bà Nghĩa bằng dì. Ông ngoại
tôi và mẹ của dì Nghĩa là anh em thúc bá, con chú con bác, cùng từ Thái Bình
lên "tha hương cầu thực". Có lẽ vì thế, mà tuy là họ ngoại, lại đã xa
đến mấy đời, các cụ đã mất, nhưng gia đình tôi với anh em dì Nghĩa rất gắn bó,
còn hơn cả bên nội của chúng tôi. Có điều, sau khi dì Nghĩa trúng cử vào chức
chủ tịch xã, bố tôi, trong một buổi tối có đủ mặt cả nhà, (tất nhiên vắng mặt
tôi) đã phát ra một mệnh lệnh:
-Từ nay, mẹ con nhà này có đến chơi nhà cái Nghĩa thì đến,
nhưng cấm không được nhờ vả, hay là làm cái gì để nó phải khó xử nhá! Chúng mày
nghe rõ cả chưa? Hình như bố tôi nhằm vào một ai đó trong họ nhà tôi thì phải.
Lúc ở nhà tôi có biết chồng dì Nghĩa là chú Cầu. Chú Cầu là
thương binh trong một chiến dịch thời kháng Pháp, bị một vết sẹo to giống như
cái lưỡi hái bên sườn trước bụng. Những lúc cao hứng và có sự vòi vĩnh của
chúng tôi, chú Cầu vẫn thường kể những câu chuyện chiến đấu rất hấp dẫn rồi trật
áo ra khoe cái vết sẹo xù xì rất đáng kinh hãi đó. Chú bảo:
-Ở Điện Biên Phủ đấy! Một quả "tạc đạn" của quân
Pháp bắn xuyên qua bụng tao ra đằng sau! Không tin à, nhìn đây...
Chú xoay lưng lại, đằng sau lưng chú cũng có một vết sẹo, nhỏ
hơn và nom "hiền lành" hơn! Có lần, tôi kể cho cả nhà nghe chuyện của
chú Cầu, bố tôi nghe, ông chỉ tủm tỉm cười. Ông cũng có mặt ở Điên Biên Phủ năm
1954.
Chú Cầu là út và là con trai duy nhất trong một gia đình khá
giả, toàn chị gái. Tên chú đặt là Cầu, vì chú là đứa con cầu tự được trong cửa
chùa. Chú Cầu là một trong rất ít người có học vấn cao trong làng. Tuổi thơ của
chú rất sung sướng, chú bảo thế! Chú có bằng Tây học Diplome, nhưng sau khi bị
thương chú về quê, lấy vợ, làm ruộng. Đáng lẽ chú có thể thoát ly làm cán bộ
nhà nước, ai cũng tiếc cho chú!
Chiến tranh bùng nổ một lần nữa, thanh niên trai tráng lần lượt
lên đường vào Nam chiến đấu hết. Đến cả lớp thanh niên mới lớn, mười bảy, mười
tám tuổi cũng ra đi. Trong làng chỉ còn lại đàn bà, trẻ con và những người già
cả yếu đuối. Sức mạnh của xóm thôn bỗng hụt hẫng, tiếng chó sủa cũng bớt gay gắt,
nhưng nghe trầm lắng hơn, ma quái hơn đầy đe dọa. Trên trời máy bay địch quần đảo
suốt đêm ngày, mây trắng tản đi đâu hết, bầu trời chỉ còn mây đen, mây xám của
khói bom, khói cháy nhà, cháy kho tàng, xăng dầu và cao su, thuốc hóa học...
Hai giờ sáng, những người đàn ông già nua và thương tật cùng với những người
đàn bà đảm đang, tháo vát dong trâu, vác cày bừa ra đồng, cày bừa trong ánh sao
nhợt nhạt để kịp cho các bà, các chị ra cấy vào lúc bốn, năm giờ sáng. Sáng ra,
cánh đồng Lưu Lạc đã vắng người, chỉ còn lác đác những ai về chậm và những đứa
trẻ mò cua. Mặt trời lên cao, cánh đồng Lưu Lạc chỉ còn lại là một cánh đồng hấp
hối, nặng nhọc bốc hơi lên bầu trời đẫm hơi nước và khói xám. Thỉnh thoảng những
tốp máy bay F4, F105... xù xì như những bộ xương đen của loài quỷ lại ào qua,
pháo phòng không ở đâu đó bắn lên lụp bụp. Khi những con quái vật hình xương xẩu
bay về hướng thủ đô, bầu trời còn lại những vệt khói đen ngoằn ngoèo và những
chùm khói trắng như hoa lau của đạn pháo cao xạ.
Dì Nghĩa của tôi lúc bấy giờ là chủ tịch Hội phụ nữ xã, tất
nhiên dì là một đảng viên. Là cán bộ nhưng dì vẫn là một nông dân, nghĩa là dì
cũng dậy từ ba, bốn giờ sáng, cùng với những người đàn bà mắt nhắm mắt mở ra đồng
cấy chạy... tàu bay! (Xin mở ngoặc nói thêm là khái niệm "cấy chạy"
trong thời bình của làng chúng tôi từ nhiều đời chỉ dùng trong trường hợp chạy
cạn, tức là cấy trước khi cạn nước, nếu không nhanh, nước cạn sẽ bị "giẽ",
lúc ấy có thể chảy máu tay người cấy). Đã gọi là cấy chạy thì luôn vội vàng, hấp
hoảng, dưới ánh trăng thượng tuần và ánh sao mờ ảo. Sáng ra, dì lại ăn mặc tươm
tất đi lo những công việc của hội, của đàn bà, phụ nữ. Mà "gái thời loạn"
bao giờ cũng có nhiều nỗi niềm, nhiều trăn trở, nhiều chuyện phải giãi bày, nhiều
vấn đề phải xử lý. Những người đàn bà đang thì đang lứa đói ăn, đói ngủ, và
đói... đàn ông, đã làm cho họ tàn tạ nhanh chóng. Trong những buổi làm đồng tập
thể hay những lúc hội họp, giữa những người có chồng ra trận hay những cô gái đồng
trinh với nhau, họ vẫn cười, vẫn nói, vẫn đùa nỡm bằng những lời thanh tao lẫn
tục tĩu, bất ngờ họ nhìn nhau với cái nhìn đờ đẫn. Họ cùng bất chợt nghĩ về những
niềm khát khao đơn giản, có khi tầm thường của bản năng mà ứa nước mắt. Những
đêm xuân bừng bừng hoa bưởi, những đêm hè rạo rực lá ngâu, những đêm thu ngạt
ngào hương trái thị và những đêm đông gió bấc lùa vào vách liếp, sột soạt lá
chuối khô, họ đơn độc như người khát thèm nước giếng khơi. Dì Nghĩa nói, dì
làm, dì đi... nhưng hầu như chỉ làm nén lại nỗi khát khao của họ như nén cái lò
so đang nóng chảy. Dì biết thế, vì dì đã trải qua những tháng năm chú Cầu đi bộ
đội.
Trong khi dì Nghĩa tất tả với công việc và công tác, thì chú
Cầu cũng là một đảng viên, nhưng chú chỉ làm đội trưởng một đội sản xuất. Công
việc của chú là thăm đồng, thăm nước, thăm mạ mon và phân công công việc cho xã
viên trong tầm quản lý của chú. Công việc không nhàn nhã nhưng cũng không vất vả.
Dì Nghĩa tiếp tục tiến bộ, khóa ấy dì trúng cử vào hội đồng
nhân dân, và được bầu làm chủ tịch xã.
Đùng một cái, chị Xuân, vợ một anh bộ đội đang ở chiến trường,
có... mang! Đây là một việc hệ trọng, một việc tày đình. Không chồng, đúng hơn
là không có chồng ở nhà mà chửa! Tiếng sét loằng ngoằng, xé trời xanh đầy mây
xám, đổ xuống đầu chị Xuân! Ai là thủ phạm hả Xuân? Phải chặn đứng cái thói
giăng hoa, hủ hóa ấy lại! Con chó dái rửng mỡ ấy đâu? Trong khi người ta đổ máu
ở mặt trận thì nó ở nhà mò vào buồng vợ người ta để làm cái trò ăn vụng. Mà cái
cô Xuân ấy nữa, không chịu được thì đổ thóc vào cối mà xay, không có thóc thì
xay cối không, việc gì mà phải ngứa đên thế? Con cho cái không ngoe nguẩy thì đời
nào con chó đực nó vẫy đuôi? Chị Xuân cúi mặt, úp nón vào bụng đi làm! Khi đẻ
được một thằng con trai, thì chị Xuân không chịu nổi sức ép dai dẳng từ mọi bề,
chị đành khai ra cha của đứa bé là... chú Cầu!
Trời hại rồi! Dì Nghĩa bị hai đòn quất vào đầu cùng một lúc.
Cũng không biết bằng cách nào mà dì không gục xuống. Ngoài lòng ghen tuông thường
tình của người đàn bà bị ném trấu vào mặt, dì còn một nỗi nhục của người cán bộ
đã bao nhiêu lần đi giảng giải cho người ta bằng những lời cao cả, đạo đức! Thế
mà, cái điều sỉ nhục ấy lại rơi vào gia đình dì, vào chính đầu dì.
Cuộc chiến đấu không hề kém quyết liệt, đau thương, mất
mát... so với ngoài mặt trận đã đi đến kết thúc. Đảng ủy xã đã quyết nghị để
gia đình chú Cầu phải nuôi đứa bé con chị Xuân. Kể cũng lạ, tình mẫu tử không hề
làm cho chị Xuân thấy đau xót hay nao núng khi chị nhẹ nhàng giao đứa con cho
dì Nghĩa. Còn chú Cầu không chối bỏ đứa con và thế là chú bị bắt ra huyện rồi
phải đi tù ba năm. Không phải đi tù vì không có tòa án xét xử, mà chú Cầu bị
đưa đi cải tạo giam giữ theo lệnh của nhà nước, vì tội hủ hóa với vợ bộ đội,
làm mất ổn định, phá hoại chính sách hậu phương quân đội. Một lệnh là ba năm, nếu
cần, có thể bổ sung bằng những lệnh ba năm khác tiếp theo.
Với bốn đứa con của mình, giờ đây, dì Nghĩa phải nuôi thêm một
đứa con chồng còn đỏ hon hỏn. Khó khăn về cơm áo đã chất chồng, nhưng còn có thể
vượt qua được, nhưng nỗi nhục nhã thì dì chỉ có thể chôn vào lòng. Đúng lúc ấy,
chị Nga đem thằng Hận ra xã làm giấy khai sinh, như tôi đã kể.
Tất nhiên hết khóa ấy, dì Nghĩa của tôi không còn làm chủ tịch
xã, hơn thế nữa, dì từ chối mọi công tác, xin ra Đảng để làm người dân bình thường
nhưng lương thiện để nuôi những đứa con, như lời dì viết trong đơn xin thôi
công tác. Cuộc đời của dì Nghĩa tôi sau này rất buồn thảm. Mãi sau này, cách
đây vài năm, tôi về thăm dì thì dì bị mù cả hai mắt, ở với bà mẹ chồng, tức mẹ
chú Cầu, chín mươi tư tuổi cũng bị mù. Chú Cầu đã bị chết trong khi đi cải tạo,
do vết thương hình lưỡi hái xuyên từ bụng sang lưng tái phát. Còn đứa con của
chú Cầu với chị Xuân đã về ở với mẹ, vì anh chồng chị Xuân đã hy sinh, năm ấy
nó đã hai mươi hai tuổi, nhưng không xin được đi làm nhà nước, vì lý do gì đó.
Còn chị Xuân thì không vui nhưng cũng không buồn lắm, chị vẫn thường qua lại với
dì Nghĩa, nhận dì Nghĩa làm chị. Khi bà cụ mẹ chú Cầu chết, chị cũng góp một
con lợn và hai mươi cân gạo làm ma, và đội khăn trắng. Tôi hỏi dì Nghĩa:
-Sao lúc làm giấy khai sinh cho thằng Hận, dì không hỏi cha
nó là ai?
Dì cười, hướng dôi mắt nhắm tịt, ứa nước ra phía cửa:
-Hỏi làm gì hở anh? Đau khổ đến thế còn chưa đủ hay sao mà
hành hạ nhau nữa...
Chị Nga của tôi lại túi bụi với công việc nhà chồng, để thằng
Hận nằm lăn lóc một mình, thỉnh thoảng ông Tuân mon men lại gần, nựng nó, âu yếm
nó, nhưng chỉ làm nó khóc toáng lên mà thôi. Mỗi lần nó khóc bà Tuân ở dưới nhà
ngang lại rên lên dữ dội. Rên một lúc bà khóc anh Kỳ. Tiếng khóc não nùng, đay
nghiến như vặt thịt vặt da người nào đó. Thì còn người nào nữa, chị Nga chứ ai.
Ông Tuân lúc đầu để yên, nhưng sau phải vào tận nơi, chỉ vào mặt vợ:
-Bà làm cái gì thế? Có câm cái mồm lại không!
-Ối giời ơi! Con ơi là con! Kỳ ơi là Kỳ! Con đem thân đi chết
vì nước vì dân, con có biết đâu ở nhà mẹ khổ như thế này!
-Bà thì khổ cái nỗi gì? Đã là cái cục nợ cho người ta còn
không biết thân biết phận...
-Ối ông giời ơi! Người ta đang rủa tôi. Vâng, tôi là cái nợ,
thế còn ông là cái gì mà ông giương mắt lên nhìn cái con gà cỏ ấy?
-Gà cỏ nào? Nó là máu mủ nhà này đấy!
Cuộc đấu khẩu bất tận bằng những tiếng khóc ấy làm cả làng lắc
đầu. Rồi đến một hôm, hai người con gái lấy chồng thiên hạ bảo nhau kéo về một
lượt. Chị Diệu về trước chị Thông một chút. Cả hai không nể mồm ra sức nhiếc
móc chị Nga, là quân ngứa nghề đồ đĩ rạc. Đã thế lại ngang nhiên đem đứa con
hoang về nhà chồng. Nếu ông Tuân không dọa tự tử treo cổ lên xà nhà thì họ đã
đè chị Nga ra mà gọt đầu. Kể cũng lạ, chị Nga không nói, không khóc, đến gần
trưa, chị xuống nhà ngang qùy sụp xuống lẫy bà Tuân bốn lạy, lên hè cũng lạy
hai bà chị chồng cũng bằng tưng ấy cái, rồi lặng lẽ bế con, đậy cái nón mê lên
mặt nó, ra cổng. Ông Tuân muốn đuổi theo nhưng hai bà con gái giữ ông lại. Họ
cùng đứng ở giữa sân nhìn theo cái bóng chị Nga đi về phía cánh đồng cho đến
khi khuất hẳn vào sau rặng tre bờ sông. Đến lúc ấy, ông Tuân đứng giữa sân ngửa
mặt nhìn mặt trời chính ngọ đấm ngực đùm đụp:
-Giời ơi là giời! Nó là máu mủ nhà này đấy, các người biết
không?
Hai bà con gái nhìn nhau, nhưng không nói gì. Mãi sau chị Diệu
mới lên tiếng:
-Cứ để cho nó đi! Nhà này không cần cái ngữ ấy. Hai ông bà
già đã có tiền liệt sỹ của cậu Kỳ sống hết đời lo gì mà lo?
-Phải đấy! Lúc này chị Thông, người con gái thứ hai, em của
chị Diệu mới góp tiếng vào. Cậu Kỳ hi sinh là để lại quyền lợi cho thầy u, chứ
chứa nó ở đấy ngày nó cướp mất đem cho giai. Lại còn nhà cửa vườn tược này nữa
thì ai mà giữ. Chúng con lấy chồng ăn phận nhà chồng...
Chị Nga cứ lùi lũi bồng con đi về phía bờ sông. Thực trong
lòng chị vẫn hi vọng ông Tuân cất lên một tiếng giữ chị ở lại, dù chỉ là đãi
bôi. Nhưng không, không có ai, không có gì níu chân chị ở lại, ngoài những tảng
đất cày và đám gốc mía từ vụ trước còn loi thoi gập ghềnh dưới chân chị.
Nơi bờ sông ấy là một khu bãi bồi gọi là Soi Vạt. Soi Vạt rộng
chừng vài mẫu được người ta trồng tre bao để dòng sông Công khỏi lấn vào cánh đồng.
Tre rất tốt và đặc biệt những bãi cỏ xanh mướt kéo dài suốt một triền bãi xen kẽ
với những bãi cây bưởi bung. Tôi cũng không hiểu tại sao ngoài đám trẻ mục đồng
chúng tôi ra, người lớn rất ít khi đặt chân đến đây, và Soi Vạt trở thành một
thế giới riêng của chúng tôi, như là trong chuyện cổ tích. Vì là chuyện cổ tích
nên ở đó thường hay có Bụt, có Tiên, và cả những mụ dì ghẻ ác độc và cả ma quỷ
nữa, rất nhiều. Vào mùa nước nhỏ chúng tôi thường lùa trâu vào Soi Vạt và tha hồ
vùng vẫy dưới dòng nước trong vắt của con sông miền Trung du. Chúng tôi say mê
tìm những tổ cò lửa để lấy những cái trứng màu nâu đỏ trong những cái tổ sơ sài
trong bụi dứa gai. Chán, chúng tôi lại xuống sông lật những hòn đá tìm những
chú tôm ngái ngủ. Có khi bắt được một mớ, chất một đống lửa bằng cành tre gai
mà nướng. Những con tôm sông chuyển dần sang màu đỏ au, thơm và ngọt. Những lúc
như thế đám trẻ trâu chúng tôi, cả trai lẫn gái, nằm ngả mình trên cỏ thi nhau
mơ màng. Chúng tôi có một thế giới tuổi thơ êm đềm trên cánh bãi Soi Vạt. Về
sau này, khi chúng tôi lớn lên trở thành những chàng trai, cô gái bay túa đi
nhiều phương nhưng dòng sông vẫn thế, vẫn êm đềm và bí hiểm như là trong một thế
giới cổ tích bị lãng quên...
Từ hôm ấy, Soi Vạt là nơi trú ngụ của hai mẹ con chị Nga. Những
tin tức của mẹ con chị Nga bay về xóm rất nhiều chiều, nhiều luồng và đứt đoạn
bởi chủ yếu là do đám trẻ con mục đồng thuộc thế hệ sau chúng tôi đem về. Rồi một
ngày, ông Tuân chống gậy lần theo những rặng tre ven sông. Nhưng ông đành thất
vọng trở về, bởi vì hai mẹ con chị Nga không còn ở đấy nữa. Không ai biết chị
đi đâu. Mãi một thời gian sau có một nguồn tin nói rằng, vào một đêm trăng
suông, những người lấn mẹt trên sông nhìn thấy bóng người, một người mẹ ôm con
ngồi trên một cái mảng nứa, trôi theo con nước về mãi dưới xuôi. Thế thì đúng
chị Nga rồi! Buồn quá, sự đời nước chảy bèo trôi, chỉ thương cho chị Nga của
tôi, cho người thiếu phụ thời nước non loạn lạc...
Từ sau ngày có tin mẹ con chị Nga đang giữa đêm khuya đưa
nhau trên mảng nứa trôi theo dòng sông Công về mãi dưới xuôi xa tít mù khơi,
dân làng Sơn Cốt chúng tôi được dịp rộ lên một chặp xung quanh "vụ cô giáo
Nga" để rồi lại ắng xuống như dòng sông sau cơn lũ. Mỗi lần một người nào
đó gặp ông Tuân chống gậy lẩn thẩn đi về phía Soi Vạt, họ lại lắc đầu đầy vẻ
thương cảm. Thời gian trôi đi chậm chạp và nặng nề một cách tai ác... Một hôm
như thế, ông lão Tuân đang trên đường từ bãi soi về làng, anh Định Khiểng, người
giao thông xã, chuyên lấy thư từ, báo chí và các loại công văn của xã bằng chiếc
xe đạp Phượng Hoàng tồng tộc tới. Nhìn thấy ông lão Tuân, anh Định rà phanh xe
lại dừng ngay trước mặt ông lão:
-Chào cụ! Cụ đi đâu về mà nắng nôi thế này, nón áo chả có?
Ông lão từ từ ngẩng lên và từ từ cất giọng:
-Ừ! Thế ông là ai...?
Anh giao thông cười:
-Con đây mà cụ! Định giao thông đây...
Nhận ra người quen, ông lão chững lại một giây, rồi thều
thào:
-Tôi có thư à? Hay là lại giấy báo tử?...
-Khổ quá! Làm gì có giấy báo tử nữa... Hoà bình từ mấy năm
nay rồi! Các anh bộ đội ai còn sống thì đã về làng cả rồi!
-Ừ nhỉ! Ông lão Tuân cười nhợt nhạt, nhe hàm lợi khô, nhăn
nhúm.
-Con có tin này cho cụ đây. Rồi giữa đường vắng, anh giao
thông xã vẫn ghé sát vào tai ông lão, giọng thì thào, như sợ có ai nghe thấy.
Con biết chỗ mẹ con cô giáo Nga ở rồi!
-Thế à? Ông lão giật mình, nói to lên bằng giọng reo mừng như
quát. Anh thấy mẹ con cô ấy ở đâu? Họ có khỏe mạnh không?
-Cụ ơi, nho nhỏ thôi, không có các bà con gái cụ mà biết lại
chửi cháu là đồ hóng hớt. Cháu không nhìn thấy, nhưng anh bạn bưu chính huyện
thấy và tả lại thì con nghĩ đúng là mẹ con cô giáo Nga, chứ còn ai?...
Ông lão vịn một tay vào ghi đông xe đạp của anh giao thông:
-Anh chỉ chỗ cho tôi mới!
-Nhưng mà xa lắm, không phải ở tỉnh ta đâu!
-Xa là ở đâu?
-Bên Phú Thọ kia!
Ông lão chống cái gậy tre vào cằm, nghĩ ngợi:
-Phú Thọ à? Tôi biết. Hồi năm đi dân công lên Điện Biên tôi
cũng đã đi đường ấy... Thế anh bạn của anh thấy cô Nga nhà tôi làm công việc
gì?
Anh giao thông tỏ ra ái ngại:
-Con cũng không hỏi...
-Bây giờ anh ta ở đâu? Cho tôi gặp một cái được không?
-Vâng! Để hôm nào con mời anh ta vào nhà chơi, rồi con bảo cụ.
Thôi, bây giờ con phải đem công văn vào ủy ban xã kẻo muộn. Mà này, cụ nhớ giữ
kín chuyện này hộ con nhá!
Ông lão Tuân gật đầu hai ba cái rồi nhìn theo anh giao thông
thọt chân đang dướn mình "nhảy-bê-đan" trên chiếc xe đạp tróc sơn đèo
đằng sau lũng lẵng hai cái túi bạt lòi cả ra những tờ báo còn mới mùi mực in...
Ông lão Tuân bỗng thấy trong ruột gan bắt đầu có cái gì đó
bào xé, nếu như trước đây nó chỉ âm ỉ sôi réo, thì bây giờ nó thật sự bào xé.
Ông không thẫn thờ mà cảm thấy có ai đang đợi mình ở đâu đó. Ở đâu thì ông
không biết, có thể là ở nhà, mà cũng có khi là ở một nơi nào đó xa thẳm. Hình
như ông sợ chết! Nếu cách đây vài phút đồng hồ trước khi gặp Định Khiểng, ông
chả còn thiết sống, ông coi lần ra với Soi Vạt này là lần cuối cùng, để rồi
vĩnh viễn nằm lại trên chiếc chõng tre, chờ người ta gói ông vào tấm vải liệm. Ông
sẽ ra đi mà trong lòng không thể thanh thản, nhưng còn cách nào khác đâu? Người
già như ông làm sao lột da sống lại để trả các món nợ nhân gian!
Nhưng không! Định Khiểng với cái chân thọt nhảy nhoay nhoáy
trên chiếc bút chì pê-đan đã đem lại cho ông một tia hy vọng mới! Hy vọng gì và
làm thế nào để thực hiện nó thì ông chưa biết, nhưng ông biết chắc chắn là thế
nào ông cũng phải gặp được mẹ con chị Nga của tôi. Đó là món nợ đời của ông.
Ông nợ ai? Nợ anh Kỳ? Nợ chị Nga hay nợ thằng Hận? Tất cả, tất cả đã giằng xé
ông trên con đường làng khấp khểnh toàn dấu chân trâu truyền nhau để lại.
Vào nhà, ông lão cẩn thận dựa cây gậy vào góc cột rồi ngồi vật
xuống chiếc tràng kỷ long mộng. Nghe tiếng động, bà lão dưới nhà ngang bắt đầu
rên to dần. Cả con lợn trong chuồng, cũng như một phản ứng dây chuyền, nghe tiếng
rên của bà lão, nó hực lên một tiếng rồi bắt đầu rít. Cùng với sự nổi loạn đồng
loạt ấy, bầy gà đang bới ngoài gốc rơm cũng táo tác, nhảy tứ tung vào trong
sân, lên bệ nước. Ông lão Tuân đang rối ruột, càng thêm bực bội. Ông muốn làm một
cái gì đó cho tan hoang cái cơ ngơi này đi, để khỏi nhìn thấy nó, để khỏi phải
lo lắng cho nó... Ông vê điếu thuốc lào, châm đóm nhưng không hút ngay, que đóm
cháy leo lên gần ngón tay, đến khi nó xém vào da thịt, ông lão thả nó xuống nền
đất, ngọn lửa còn leo lét cháy một lúc nữa mới chịu tắt. Nhìn ngọn lửa bùng lên
dưới chân mình trước khi tắt ngấm, vươn lên một sợi khói mảnh ngoằn ngoèo, ông
lão bật cười. Ông đang có một dự tính, và châm que đóm khác. Điếu thuốc làm ông
đê mê chừng vài giây, vài giây đồng hồ thoát khỏi căn nhà và những ý nghĩ.
Có tiếng động mạnh ngoài hiên, ông lão không buồn ngó ra cũng
biết là ai. Đó là con Thảo, đứa cháu ngoại con gái đầu lòng của chị Diệu. Nó là
một con bé mười ba tuổi, chưa trổ mã, người cao ngẳng, xanh xao. Từ ngày mẹ con
chị Nga bỏ đi, chị Diệu bàn với cha mẹ:
-Thôi thế cũng là xong, là gọn, thày u khỏi phải bận tâm. Con
thử về bàn với nhà, rồi chúng con sẽ cho cháu Thảo sang ở với ông bà. Trước là
để cho có người ruột thịt, sau là để nó đỡ đần, cơm nước, thuốc thang cho bà...
Ông lão Tuân không buồn đáp, ông đang đau lòng, còn bà lão
thì khóc nức nở:
-Ối Giời ơi là Giời! Có con trai mà không được nhờ, phải nhờ
đến con gái với cháu ngoại! Giời bảo tôi thế có đau không?
-Cháu nào chả là cháu, bà cứ nói thế, chả trách! Chị Diệu gắt
lên với mẹ. Giá kể thằng Thu nó lớn thì con cho nó sang, sau này nó sẽ là người
trông nom hương khói cho ông bà. Tội cái, nó hãy còn bé, chả biết việc gì vào với
việc gì...
Nghe đến đây, ông lão Tuân thấy trong ruột gan nóng ran, như
thể ai vừa châm cái đóm vào:
-Thôi được rồi, không phải bàn bạc gì nữa, chị muốn thế nào
thì cứ thế là làm... Nhưng mà cũng phải bảo chồng chị sang đây, cho tôi nói
chuyện. Đấy, dinh cơ vợ chồng tôi và thằng Kỳ làm ra đấy, liệu mà trông nom.
Còn thì hưởng, chả còn thì thôi, tôi nhắm mắt xuống đất, thì còn thiết cái gì.
Nhưng cơ mà các chị cũng ác đức lắm...
Chị Diệu tỏ ra đã hiểu câu nói xa gần của bố, chị rời khỏi
cái ghế đẩu sang ngồi đối diện trước ông bố trên cái tràng kỷ:
-Sao thày lại nói thế? Sao thày bảo con ác đức? Thế dễ thường
cứ để cho mẹ con cô ấy ở đây là mát mặt lắm đấy chắc? Thày u già thì cũng phải
chết, nhưng cơ mà còn chúng con, còn các cháu, cất mặt vào đâu được?
-Cất vào đâu ấy à? Việc gì đến các chị? Có mà các chị tiếc
cái nhà này, tiếc cái mảnh vườn này... Tôi nói thật cho các chị biết...
Chỉ một tí nữa thôi là ông lão nói ra cái sự thật chết người,
mà chỉ một mình ông cất giữ. Ông kịp giữ lại trong lòng. Nhưng ông sẽ giữ được
bao lâu? Không! Nhất định ông phải nói ra, nhưng nói vào lúc nào và nói với ai,
chứ không phải với những bà con gái tham lam, hãnh tiến và mưu mô giả dối này!
Chị Diệu khóc tấm tức, khóc nức nở:
-Sao thày lại nỡ nói thế! Chúng con chỉ muốn cho cha mẹ khỏi
khổ! Chúng con có sung sướng gì khi cha mẹ đơn độc? Nếu cậu Kỳ còn sống thì thử
cho chúng con cũng đã dám nhận nào...
-A, ra cái con này hỗn láo! Mày dám thách thức ông, thách thức
bố mày à? Thằng Kỳ nó không chết thì ai còn nói làm gì? Nó còn sống mà về đây
thì cho ăn vàng chúng mày cũng không dám ho he...
Thực tình, chị Diệu không phải là người xấu, ít nhất là trong
trường hợp này. Cái lý của chị, cái tình của chị không thể chê trách, bắt bẻ chị
được. Có điiều, ông lão Tuân đã giận quá, mất khôn. Trong lòng ông đang dào lên
nỗi nhớ thương chị Nga và thằng con trai của chị, thằng Hận! Thế là niềm hy vọng,
không, niềm tin, không, báu vật của ông đã vuột mất. Vuột ngay trước mắt ông,
nhưng ông đã không giữ nổi, đau đớn hơn nữa là ông không dám giữ. Lúc đó ông là
một người đàn ông, tồi tệ, một người cha hèn mạt. Rồi đây, ông sẽ ăn nói thế
nào với tổ tông, cụ kị? Ừ, thì cứ cho là việc làm của ông với chị Nga là tồi bại
đi! Thì đã sao? Ông đâu phải là con quỷ dâm dục, ông chỉ làm một việc là gìn giữ
cái dòng họ của ông mà thôi... Ngay lúc này đây mà xảy ra cái chuyện hai bà con
gái của ông xa xả đuổi mẹ con chị Nga, thì ông đã...
Cuối cùng thì ông cũng chấp nhận đề nghị của bà con gái là để
đứa cháu ngoại, con chị Diệu sang ở với ông bà. Con bé tuy khờ khạo, nhưng được
cái ngoan hiền, không dám cãi ông bà. Nhất là bà. Bà cụ Tuân sau nỗi đau mất
con, bệnh tình của bà càng trầm trọng. Người đàn bà quê tôi thường không mấy
người chịu ngồi nhà chịu cảnh tôi mọi để chồng nuôi. Bà lão Tuân vốn là một tay
đi rừng, luồn măng, hái củi cừ khôi. Bằng ấy năm, khi bà chưa bị cái bệnh tê thấp
đánh ngã gục, bà đã chèo chống cái gia đình vốn rất đa đoan, đáo để. Ấy thế mà
khi bệnh tật, lao lực đánh bà ngã gục xuống, như là một trận hỏa hoạn, mọi cái
đã tiêu tan... Cho nên bà đau đớn lắm. Đau thì bà phải kêu!
Thực tình bà thương con dâu lắm. Đời người đàn bà làm dâu có
chồng bên cạnh đã khổ, đằng này mới cưới nhau được hai tháng thì chồng đi biền
biệt vào nơi hòn tên mũi đạn, chẳng có ngày về. Thế rồi, bây giờ, chồng chẳng
còn, con cũng không có, ở lại nuôi hai cái nắm xương ư? Thì nó phải phá ra, nó
phải đi thôi! Nhưng, như thế thì oan uổng cho con bà, cho thằng Kỳ quá! Nó chết
có nhắm được mắt không? Hả Giời!
Con bé Thảo lướt qua vách dừng, nó biết ông lão Tuân đã về,
nhưng nó không có thói quen chào ông, mà chỉ lướt qua, đánh động để ông nó biết.
Ông lão Tuân, sau phút say xiêu vẹo của điếu thuốc lào, gọi vọng ra ngoài sân:
-Thảo ơi! Lên đây ông bảo!...
Con bé rón rén vào nhà, ông lão e hèm mấy cái rồi hỏi nó:
-Bà ăn cơm chưa?
-Bà cháu ăn rồi ông ạ! Ông ăn cơm để cháu dọn lên...
Ông lão nhìn ra ngoai sân, cái cần kéo nước ngất nghểu trên
miệng giếng, làm ông phân tán ý nghĩ, suýt thì ông quên mất cái ý định nói với
nó lúc đầu. Ông "sùy" một tiếng đuổi con ngan đang lễ mễ trong sân giếng,
thỉnh thoảng lại "phẹt" một bãi. Con bé Thảo thấy thế toan chạy ra,
ông gọi lại:
-Đứng đấy ông bảo. Ông chưa muốn ăn cơm đâu, cứ để đấy cho
ông. Bây giờ cháu về bên nhà bảo mẹ chiều qua ông nói cái này nhé!
-Mẹ cháu đi họp ngoài huyện ông ạ! Không biết đã về chưa...
-Ừ, cháu cứ về xem, nêu có mẹ mày ở nhà thì bảo sang ngay.
Còn không thì bảo ông nhắn...
Con bé Thảo vào buồng, lúc sau vó đi ra với cái áo mới và cái
nón trắng của chị Nga để lại. Nó lễ phép:
-Ông ơi cháu về!
Ông lão Tuân, chỉ tay vào buồng:
-Lấy xe đạp mà đi cho nhanh con ạ!
Khuôn mặt con bé Thảo chợt ửng lên. Nó sung sướng! Từ hôm nó
sang ở với ông bà, nó nhớ nhà, thỉnh thoảng lại ra đống rơm nhìn ang bên kia
sông, rớm nước mắt. Nhưng nó không để cho ông bà thấy, bố mẹ nó đã dặn là phải ở
với ông bà, sau này ông bà sẽ lo cho... Lo cho cái gì thì nó chưa quan tâm, vì
nó chưa hiểu. Nhưng cái xe đạp thì nó thích lắm. Đấy là chiếc xe đạp của chị
Nga để lại, chiếc xe đạp Thống Nhất màu xanh nước biển, mà không chỉ con bé Thảo
mà rất nhiều người mơ ước. Nó ao ước được leo lên chiếc xe đạp ấy lắm! Nó cũng
biết đó là xe của "mợ Nga", mà mợ Nga thì đã đi rồi. Nó ở đây thì nó
sẽ được đi thôi, con bé tin như thế. Nhưng chưa bao giờ nó được ngồi lên cái xe
ấy, mà nó thì không dám hỏi. Thỉnh thoảng ông nó cũng lấy ra lau chùi chiếc xe
bóng loáng, rồi ông đạp thử mấy vòng quanh sân, ra cổng rồi lại vào nhà, cất
đi. Bây giờ thấy ông bảo thế, nó sung sướng đến nóng cả mặt. Chắc phải là việc
gì quan trọng lắm, khẩn thiết lắm, ông mới cho nó lấy xe đi chứ! Xe của mẹ, dù
mẹ là cán bộ xã, được phân phối nhưng cũng chưa là "cái đinh gì" so với
cái xe nó sắp đi đây. Mẹ nó mà thấy cũng phải ghen lên chứ đừng nói gì mấy đứa
em! Con bé Thảo cẩn thận nhắc cái xe từ trong buồng ra, nó dẫn ra hết sân rồi mới
bước lên pê-đan. Tiếng líp tách-tách ròn tai lăn ra cổng...
CHƯƠNG 7 -
N
gay sau ngày hòa bình, từ chiến trường miền Nam trở về, một
trong những nơi tôi đến thăm đầu tiên là Soi Vạt.
Bao nhiêu lâu rồi nhỉ? Chỉ mới có mười năm thôi ư? Nhưng sao
mà lâu thế, mà đằng đẵng thế? Và bất chợt tôi hiểu ra rằng, thời gian đối với mỗi
con người, mỗi lứa tuổi và mỗi sự kiện, công việc cũng khác nhau. Thời gian
chính là cái đồng hồ chỉ có mỗi một việc là quay tròn, tích tắc vô tư, vô hồn,
còn con người thì lại dích dắc, ngoắt ngoéo, có khi thì là số phận đẩy đưa, mà
cũng có khi lại là những mưu toan do chính mình bày ra và lao theo.
Bây giờ thì tôi hiểu ra rằng tại sao người lớn lại ít đến và
ngại đến Soi Vạt. Chẳng phải ma mãnh, quỷ thần gì cản chân họ, mà cũng không phải
là ở đó không có lợi lộc phì nhiêu, mà là do con đường. Nếu gọi là “đường” để
vào Soi Vạt thì đó chỉ có mỗi con đường độc đạo. Khi rẽ xuống bờ sông, để đến
cái bãi này, phải vượt qua cửa một con ngòi. Con ngòi này chảy ngoằn ngoèo qua
cánh đồng Lưu Lạc, để đến khi đổ vào sông Công đem theo một ít phù sa, tuy ít ỏi
nhưng cũng đủ làm nên một bãi lầy ngay cửa ngòi, mà ngoài con trâu ra, con người
khó mà dám lội xuống. Tất nhiên người ta cũng có bắc một cây cầu, gọi là cầu
Vông. Nhưng cây cầu Vông này là một hệ thống ống được làm bằng những cái thùng
phuy đường kính độ sáu mươi phân, nối vào nhau để dẫn nước từ một cái “cọn” mãi
đâu tận Làng Mương về cho cánh đồng Lưu Lạc. Với một “cây cầu” như thế thì chỉ
có những người can đảm lắm, liều lĩnh lắm mới dám vượt qua! Đám trẻ mục đồng
chúng tôi, đã lợi dụng thế hiểm yếu đó để lùa trâu vào bãi chăn, bằng cách ngồi
chễm trệ trên lưng trâu, hò reo tấn công vào Soi Vạt, như thể đoàn quân chiến thắng,
tiến vào tịch thu đất đai và chiến lợi phẩm. Có lẽ bọn trâu cũng thích thế, nơi
đây có cỏ lúc nào cũng non, bao giờ cũng xanh mướt, có bóng mát của tre phù sa
và nước sông trong xanh, ngọt lừ ngọt lịm, nên chúng băng băng lội qua đám bùn
lầy, đến ngang bụng, và cũng có khi ngập đến tận lưng, chỉ thò có cái mũi lên
thở phì phì!
Nhưng đó là chuyện của cách đây đã lâu. Vài năm trở lại đây,
người ta đã bắc một cây cầu khác, tuy vẫn đơn sơ là tre, là gỗ, nhưng bằng phẳng,
có bề rộng đô hơn một thước, để người đi bộ và gồng gánh có thể qua lại được!
Tôi trở về Soi Vạt trong bộ quân phục bằng vải Tô Châu còn
khá mới, vì nó được phát ngay trước ngày chiến thắng để chúng tôi tiến vào
thành phố hoa lệ, thủ đô của một chế độ khá hùng hậu về tiền bạc, vừa thất trận.
Bộ quần áo ấy, vào thời ấy là sự sang trọng bậc nhất. Nó là hiện thân của sự
vinh quang tột độ mà chúng tôi đem về quê hương. Cùng với bộ quần áo màu xanh
huyền thoại ấy là chiếc mũ cối có ngôi sao vàng trên nền cờ nửa đỏ, nửa xanh, lại
một biểu tượng nữa của một thế hệ thanh niên nhà quê chúng tôi. Có lần, tôi đã
ngầm so sánh chiếc mũ cối với chiếc mũ kê- pi của người Côdắc sông Đông bên nước
Nga xa xôi, khi nó tồn tại hàng mấy thập niên trong nhiều thế hệ như một thứ
vinh quang và tiện dụng. Cái ông già Panchêlây thọt chân mừng như thế nào khi
anh con trai bất trị Grigôri đem về tặng bố chiếc mũ lưỡi chai có viền một băng
đỏ! Cha tôi không thích chiếc mũ cối, nhưng ông luôn thích tôi đi đâu phải có
nó, có khi đội trên đầu và cũng có lúc ôm trước bụng một cách khiêm tốn và tự
tin. Chính vì thế mà trước khi tôi trở lại miền Nam nhận tiếp nhiệm vụ mới, tôi
đã bị mất cắp chiếc mũ cối rất đẹp mà nếu bán được rất nhiều tiền (đủ tiền mua
vé ô tô hai lượt khứ hồi Sài Gòn - Hà Nội) tại ngay Hà Nội, thủ đô văn hiến.
Chiếc mũ ấy tôi đã có ý định tặng lại cha tôi khi tôi ra đi! Nhưng khi tôi trở
lại Soi Vạt thì chiếc mũ ấy chưa bị mất, và một chú bé chăn trâu có mái tóc
vàng cháy và lớp da trên mặt nổi mốc nhìn tôi rất chăm chú, và khi nhận thấy
chiếc mũ và chiếc quân hiệu xanh - đỏ, trên đầu tôi chú ta đánh bạo:
- Anh ở Miền về à?
Tôi bật cười. Miền là Miền Nam, một nơi hoàn toàn xa xôi, lạ
lẫm với chú bé, nhưng có thể chú đã nghe đến Miền Nam suốt từ thuở lọt lòng đến
giờ, thế mà chỉ với thời gian ngắn ngủi gần đây, chú đã kịp bắt chước những người
đi buôn, gọi nó bằng một tiếng “miền” ngắn ngủn và xấc xược. Họ là những ông
vua, bà vua trong việc sáng tạo ra nguồn từ vựng kiểu bến xe, bến tàu, chợ
búa... bổ sung vào vốn tiếng Việt yêu dấu của chúng ta. Xe “miền”, vải “miền”,
gạo “miền”... và giờ đây tôi là anh “miền” của chú bé. Tôi hơi bị tự ái, nhưng
rồi nhìn cái vẻ ngây thơ, thất học của nó, tôi đâm rộng lượng, xoa đầu nó:
- Ừ! Sao em biết anh ở Miền Nam ra?
Chú bé không trả lời tôi, nó ỏn ẻn, chìa tay ra:
- Cho em một điếu thuốc “miền” đi anh!
Tôi không có thuốc “miền”! Đúng ra thì cũng có, nhưng từ hôm
ra tôi đã đãi khách hết rồi, ai cũng muốn thử một điếu, nhà khói phì phèo, đưa
ra một câu nhận xét ác cảm, rồi khi về cầm thêm một điếu làm quà.
- Anh không có thuốc “miền”, chỉ có Tam Thanh thôi...
Tôi chìa bao thuốc ra cho nó, thằng bé nhón một điếu, xin tôi
lửa châm hít một hơi, nhăn cả mũi, rồi cũng thở ra đằng mũi, rất buồn cười. Làm
như vẻ khoái trá, nó hỏi tôi:
- Sao anh không chết?
Tôi giật thót người, hiểu câu nó hỏi, nhưng chưa nghĩ ra cách
trả lời, thì thằng bé hỏi tiếp:
- Đánh nhau ác liệt thế mà anh không bị hy sinh à?
Hóa ra thằng bé là người thẳng thắng nhất trong số những người
mà tôi đã gặp lại trên quê hương mình từ ngày từ chiến trường trở về. Tôi về
làng vào nửa đêm hai mươi sáu Tết, cái Tết đầu tiên sau ngày hòa bình. Một đêm
rét cắt thịt da, gió rít điên cuồng trong các toa tàu đen xù xì, ghê rợn. Nếu
trong những vinh quang mà người chiến sĩ được hưởng, thì được về phép vào dịp Tết
là vinh quang được nhân lên gáp nhiều lần, cùng với niềm kiêu hãnh tột bậc.
Trong niềm hãnh diện chung dành cho anh lính sáng bóng trong vòng hào quang chiến
thắng, còn xen lẫn với niềm sung sướng được về quê ăn Tết. Việc con người tha
hương dù là đi cầu thực, làm thuê cuốc mướn đi chăng nữa thì chuyện trở về đoàn
tụ trong ba ngày tết là một niềm khát khao vô độ, huống là chúng tôi đi chiến đấu,
đi giải phóng! Trong những ngày Tết vừa có thời gian để chơi bời, thăm hỏi, vì
trong dịp này không ai đi làm, vừa có cái ăn, vì trừ ba ngày Tết dân làng mới
thịt, mới có cơm không, còn lại quanh năm suốt tháng nhà nhà chỉ có cơm độn
khoai sắn, và hiếm khi mới có tí... mũi, tức là mỡ lợn. Người làng đến thăm
chúng tôi (cùng đêm ấy có hai chiến sĩ cũng trở về với tôi, nhưng vào những giờ
khác nhau) như đi hội, như đi thăm một kỳ quan của làng. Những người lớn tuổi,
ai cũng muốn chạm vào người chúng tôi một cái, để thấy đích xác rằng da thịt
chúng tôi vẫn còn. Các cô gái đã vào tuổi lỡ thì, ngồi xen với những bà xồn xồn,
thỉnh thoảng đưa con mắt hiếu kỳ pha chút khát khao nhìn chúng tôi đang xúng
xính trong tư thế của người đăng quang. Còn các cô gái mới lớn, đang trổ mã,
phô bày ngồn ngộn sức sống thanh xuân, rực rỡ thì không ngại gì mà cười ngặt
nghẽo, đấm thùm thụp vào lưng, vào vai chúng tôi... Họ, những cô bé còn đầy mũi
giãi và những cái áo xơ tướp, cái quần thủng đít khi chúng tôi ra đi!
Cũng có những người không có mặt trong những ngày đầu chúng
tôi mới về. Đó là những người cha, người mẹ mất con, những người vợ mất chồng...
Và, việc chúng tôi phải đến thăm những gia đình bất hạnh ấy vào ngày đầu năm mới
là một đạo lý. Một trong những gia đình ấy là ông bà Tuân. Ông lão già xụm,
nhưng vẫn tỉnh táo, tinh tường, chứ không ảo não, tàn tạ như bà cụ, co ro như một
đống giẻ cũ nát trong góc giường. Bà cụ Tuân nhìn tôi bằng con mắt nghi ngờ,
nhưng bàn tay bà lập cập lần theo cánh tay tôi, tôi cảm như bàn tay ấy mọc ra từ
bức vách đất, gai gai;
- Nghe nói cậu có gặp anh Kỳ nhà tôi?
Tôi khẽ nắm bàn tay bà:
- Vâng! Anh em chúng cháu có găp nhau...
- Cậu thấy anh ấy thế nào?
Tôi đắn đo, chưa nghĩ ra cách trả lời bà lão. Đáng lẽ tôi phải
nói thật rằng anh Kỳ gầy như một cây củi cành, với cái đầu trọc lốc, không có
tóc, không còn cả lông mày... thì tôi lại nói:
- Lúc ấy anh Kỳ khỏe lắm, to lớn hơn cả lúc ở nhà!
Tôi thấy bàn tay bà cụ lỏng ra, nỗi đau đớn, thất vọng truyền
sang cả cánh tay tôi. Một giọng nói đầy vẻ trách móc:
- Thế mà cậu không rủ anh ấy về cùng...
Tôi hiểu câu nói ấy như sau, rất rõ ràng: thế mà anh ấy chết,
còn cậu thì lại sống!? Những con người làng quê của tôi là như thế đấy. Trong
cái đau đớn, thất vọng tột cùng, họ cũng không nỡ làm tôi buồn.
Thằng bé tiếp tục rít thuốc, và lại ngẩng lên nhìn tôi, chờ
câu trả lời. Tôi, khoác tay lên vai nó, hỏi:
- Mày con nhà ai, nhà ở đâu?
Nó thản nhhiên:
- Nhà em ở trong xóm! - Nó ngoảnh đầu vào rặng tre đen ngòm -
Bố em tên là Tuất, anh có biết không?
- À, anh biết! Bố mày cũng đi bộ đội?
- Chết rồi! Báo tử rồi...
Nó trả lời một cách thản nhiên và kiên quyết. Tôi đoán, thằng
bé không hề biết chết là gì, báo tử là gì, mà nó chỉ nghe qua lời người lớn.
Nhưng bố nó không bao giờ trở về thì nó biết.
- Lâu chưa?
- Năm kia! Xã làm lễ truy điệu, to lắm, có cả bắn súng nữa!
- Năm nay mày lên mấy? Tên là gì?
- Em tên là Hợi, mẹ em bảo em 13 tuổi!
- Mẹ mày đâu? Ở trong xóm à?
Thằng Hợi ngọ ngoạy cái cổ cứng của nó trong tay tôi:
- Mẹ em lấy ông Sáu làm chồng rồi. Ông Sáu đánh xe trâu ở Đầu
Cầu, anh biết không?
Tôi thấy tim mình như muốn nghẹn lại, cánh tay tôi xiết chặt
vai thằng bé:
- Không biết! Mày ở với mẹ, với ông Sáu à?
- Em ở với ông ngoại, cả với dì nữa! Nhưng, em không ở trong
xóm. Nhà em kia kìa...
Tôi nhìn theo hướng ngón tay đen nhẻm và gầy quắt của thằng Hợi.
Sau hàng hàng lớp lớp rặng bưởi bung, là màu xanh ngắt của cỏ. Có mấy con trâu
đang đủng đỉnh gặm cỏ, hai con nghé con thỉnh thoảnh lại lồng lên, rỏng đuôi, rồi
lại lao vào vú mẹ. Dòng sông mùa này nhỏ lại, lấp lánh ánh mặt trời, rồi khuất
vào một mô đất phù sa, như muốn giấu mình, không rõ là thẹn thùng hay đau khổ.
Phía đầu soi, nấp dưới bóng một lùm tre phơ phất hoa khô là một cái chòi. Nhà
thằng Hợi! Tôi khoác vai nó:
- Đi!
Chúng tôi men theo sườn một bờ tre gai đã bị chặt trụi, đất
mùn giun đùn lên đen thâm nom như những hòn non bộ hoặc như những tòa lâu đài cổ
của người A Rập. Tôi nhìn theo bàn chân trần của thằng Hợi đạp phứa lên những
đám mùn giun mà thấy gai người. Một kỷ niệm kinh hoàng chợt kéo đến, khiến tôi
hoảng hốt, la lên:
- Kìa! Cẩn thận, Hợi!...
Thằng Hợi phô hàm răng vàng khè, toàn một màu nhựa sắn, tro
than, nhìn tôi lạ lẫm. Rồi nó bật cười:
- Làm gì có cái gì! Anh làm sao thế?
Tôi không bị làm sao cả, chỉ bất chợt thấy hốt hoảng mà thôi.
Cái ngày 17 tháng 3 năm ấy tôi còn nhớ rất rõ và rất dai dẳng. Đó không phải là
một trận đánh ác liêt, chỉ là một ngày bình thường, nắng gay gắt, trời trong
xanh như muốn xuyên thấu tận đáy vũ trụ, thế mà chúng tôi mất đi hai chiến sĩ,
còn tôi mất hai người bạn, đồng hương. Câu chuyện từ những đống mùn giun...
Tôi được điều động từ sư đoàn bộ về làm quân lực ở trung đoàn
32, lúc ấy đang đóng quân ở Tây Ninh. Là anh cán bộ quân lực, tôi có nhiệm vụ
quản lý quân số, thiết bị, khí tài, vũ khí của trung đoàn. Chỉ ngày hôm sau bàn
giao, đọc toàn bộ danh sách cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn, tôi đã biết cậu
Thanh, đang làm liên lạc, công vụ cho trung đoàn trưởng là người cùng quê với
tôi. Quê Thanh ở xã Thanh Ninh, huyện Phú Bình, và đặc biệt hơn nữa, khi tôi
vào bộ đọi, trong những ngày đầu huấn luyện, tôi ở ngay trong xóm của Thanh, chỉ
cách nhà cậu ta có mấy nhà. Buổi chiều xuống bếp tập thể ăn cơm, tôi thấy một cậu
lính trẻ, nhanh nhẹn nhận phần cơm cho trung đoàn trưởng cho vào một cái ăng-
gô, anh nuôi gọi hắn là Thanh. Tôi bưng bát cơm của mình đến ngồi cạnh cậu ta,
bắt chuyện:
- Cậu là công vụ cho thủ trưởng Sơn à?
Thanh nhìn tôi bằng cái nhìn khó chịu, không nói, tiếp tục gắp
đũa rau muống vào bát. Thanh kém tuổi tôi, tuy nhiên, không hiểu sao trong quân
đội, mọi người rất ghét cách gọi nhau bằng cậu. Mày tao là tốt nhất, lớn hơn là
anh em, khi nào nghiêm trọng lắm mới gọi nhau bằng đồng chí. Tôi biết tính những
tay công vụ, có người bảo hắn là “thủ trưởng con”, cái gì cũng biết, có khi rất
hay “ra oai” với anhem. Nhưng thực ra, trong tâm cậu ta, một nỗi buồn mặc cảm
làm người hầu hạ cho người ta, tuy nhiên, ông trung đoàn trưởng của chúng tôi
đáng tuổi cha chú chúng tôi, lại là một con người nhân từ, có tâm, có tầm và có
tài, có “hầu hạ” ông cũng là xứng đáng.
- Thanh ở Phú Bình à? Mình ở Phổ Yên đây...
Đôi mắt Thanh sáng lên:
- Thế à? Anh mới về quân lực phải không?
- Ừ. Này, tối rảnh rỗi qua chỗ mình nói chuyện chơi nhé. Thôi
ăn đi...
Thanh nhìn tôi ngơ ngác, trong đôi mắt xanh biếc không tương
xứng với nước da mái xanh của những trận sốt rét rừng quất lên chàng trai mười
chín tuổi, chứa chất một cái nhìn khao khát, thèm thuồng rất làng quê. Tối,
Thanh sang tôi chơi và cậu ta ngủ lại. Hai đứa chui chung vào một cái màn lỗ chỗ
vết thủng của những mùa mưa ẩm mốc, Thanh thì thào:
- Mai em cho anh cái màn, thủ trưởng mới cho em, còn tốt lắm!
- Thế mày nằm bằng gì?
- Màn của em! Tuy có thủng vài chỗ nhưng còn tươm hơn của anh
nhiều... Thanh kéo dài chữ “nhi...ề...u” một cách rất trẻ con, đúng giọng quê
tôi. Từ đó, thỉnh thoảng Thanh vẫn sang ngủ chung với tôi. Hồi tôi đóng quân ở
Thanh Ninh, cậu ta mới mười sáu tuổi, đang đi học cấp ba. Hai năm sau, Thanh nhập
ngũ. Ở nhà chỉ còn, bố mẹ và người chị gái, anh trai Thanh cũng đang ở chiến
trường, nghe đâu ở Tây Nguyên. Sáu tháng sau, bằng trình độ văn hóa và những
thành tích của mình, Thanh được xét đi học lớp đào tạo báo vụ. Cậu ta mừng lắm,
cứ nhất quyết cho rằng đó là công lao của tôi. Thực ra, đích thân trung đoàn
trưởng, bảo tôi đề nghị lên trên cho Thanh được đi học. Trước ngày về quân khu
hai hôm, Thanh xin phép xuống tiểu đoàn 10 gặp Tuyền, một cậu bạn cùng học để
chia tay. Đến khuya không thấy Thanh về, tôi đâm lo, nhưng không dám hỏi. Mãi
trưa hôm sau, buổi trưa cái ngày 17 tháng 4 ấy, một anh du kịch xã vào ban tham
mưu trung đoàn. Mặt anh du kích tái nhợt, báo cáo với tham mưu trưởng trung
đoàn, lúc ấy cũng có mặt tôi:
- Báo cáo các đồng chí, chiều tối qua, anh em du kích phát hiện
ra hai xác tử thi, qua quân phục, chúng tôi biết là bộ đội chủ lực. Chúng tôi
cho người đi báo các đơn vị quanh đây, nhưng chưa có người đến nhận. Đề nghi
các đồng chí cho kiểm tra lại...
Tôi nghe anh du kích nói thế, linh cảm thấy có điều chẳng
lành. Thanh vẫn chưa về là nguyên cớ gì? Ông tham mưu trưởng, lo lắng, nhìn
tôi:
- Cậu cho hỏi tiểu các đoàn xem có ai ra khỏi đêm qua có anh
em nào ra khỏi đơn vị không? Hỏi ngay đi!
Ngẫm nghĩ một lát, ông nói tiếp:
- Thôi để tôi báo với tác chiến! Cậu đi theo đồng chí này đến
nơi xem thế nào. Thử cố nhận mặt nạn nhân nhé!
Tôi vội vàng theo chân anh du kích lên đoạn đường 22, nơi vắt
qua một ngọn đồi nhỏ, hơi nhô lên. Gần đến nơi, tôi đã thấy thấp thoáng có những
bóng người, có cả phụ nữ. Đến gần hơn, tôi nhận ra hai chiếc quan tài bằng gỗ mộc,
được phủ lên bằng một tấm nilon mỏng màu xanh. Tôi lại gần nhìn thấu cả những mảng
thịt và xương nhô lên trong lớp nilon bị nắng thiêu mềm nhũn, gần như trong sụốt.
Mùi nước hoa, mùi nhang trầm trộn lẫn với mùi xác người chết tạo thành một mùi
chết chóc rởn người. Tôi chào mấy người dân rồi đến đứng lặng trước hai cỗ quan
tài đang hầm hập bốc hơi nóng và lấy hết can đảm cúi xuống, lật tấm nylon... Chỉ
một chút thiếu bình tĩnh là tôi có thể nôn ọe ra. Một nửa khuôn mặt người sưng
vù, rạn vỡ nham nhở vì một vệt chém toác ra không còn nguyên vẹn. Tôi vẫn nhận
ra khuông mặt quen thuộc của Thanh! Những mảnh đùi, bụng, chân tay... đang động
đậy, mà ngay lúc đó tôi chưa nhận ra những con giòi đã kịp làm tổ, mặc dù mới
hơn mười hai giờ đồng hồ. Tôi cầm miếng nilon nóng hầm hập trên tay một vài
giây, cố không để chân tay rụng rời, nhưng nước mắt tôi tràn ra, không sao cầm
lại được. Tôi chưa gặp Tuyền, nhưng chắc chắn đó kà hai gương mặt mà tôi cần nhận
dạng.
Tôi thả tấm nylon xuống, rồi ôm mặt ngồi gục xuống bên cạnh
hai cỗ áo quan mà khóc. Lát sau, một người du kích già và một phụ nữ đen đúa, nắm
tay tôi kéo ra một góc. Trời vẫn tiếp tục nắng gay gắt, trước mắt tôi những đốm
hoa nắng nhảy múa chập chờn. Người du kích già nói với tôi:
- Chiều qua, tầm năm giờ, chung tôi nghe có tiếng nổ rất lớn,
một cột khói dựng lên, lát sau, một tiếng nổ tương tự... khi chúng tôi chạy lên
thì thấy hai xác người quấn vào nhau. Chúng tôi biết họ đã trúng mìn... Một anh
còn nói được vài câu, mà chúng tôi hiểu là họ đi tiểu, vào quá sâu trong bãi
mìn của địch gài lại từ hồi mùa hè đỏ lửa...
Đây là vùng đã được giải phóng từ hai năm trước, ngọn đồi vốn
là một chốt điểm của địch. Khi quân ta tiến công, địch rút chạy, còn lại những
trái mìn râu. Mìn râu là loại mìn sát thương cực mạnh, được chôn xuống đất, chỉ
để thò lên ba sợi “râu” rất mảnh. Đã mấy năm qua, chốt này bị đốt cháy nhiều lần,
nhưng những trái mìn giết người vẫn nằm im trong đất và được ngụy trang bằng những
ổ mùn giun. Thanh và Tuyền rủ nhau lên Sa Mát chụp ảnh kỷ niệm, vì ở đây có một
tiệm chụp ảnh, mà để đến được, hai người bạn đông hương của tôi phải cuốc bộ gần
hai mươi cây số. Trên dường về, Thanh bụồn tiểu, đáng lẽ đứng ngay bên đường,
vì trên đường chiều không hề có ai qua lại, nhưng vì thói quen xấu hổ của một
chàng trai mới lớn, cậu ta đã đi sâu vào trong và gặp một trái mìn râu. Trái
mìn đã hất tung Thanh lên, thấy thế, Tuyền thương bạn lao vào để cứu bạn, thì gặp
phải trái mìn thứ hai... Và thế là cả hai người đã bị hai quả mìn hất tung lên,
xé họ ra làm nhiều mảnh... Khổ thế đấy, trong chiến tranh, cái chết luôn được
báo trước, nhưng không có cái chết nào là không bất ngờ!
Nhìn hai bàn chân thằng Hợi cứ phăng phăng đạp bừa trên ổ mùn
giun, tôi không thể nào chịu nổi và hét lên. Thằng Hợi còn quá bé, lại ở khá xa
nơi chiến địa, làm sao hiểu được những điều bất trắc? Khi nghe nó hỏi như giễu
cợt cái tính nhát và tiếng hét hốt hoảng của tôi, tôi như tỉnh ra, chỉ cười:
- Ừ, anh nhớ lại một chuyện khủng khiếp từ ngày xưa ấy mà...
Thôi đi đi, nhưng chú ý gai đấy!
Chúng tôi băng qua một đám cỏ xanh mướt, lác đác những bãi
phân trâu, rồi rẽ xuống mép một vũng nước đầy nòng nọc, lại trèo lên một mỏm đất
phù sa tiến về phía cái chòi. Thằng Hợi thoăn thoắt đi trước, thỉnh thoảng nó dừng
lại ngó nghiêng nhìn về phía mấy con trâu. Nó chăn trâu hợp tác ăn công điểm,
hai con trâu và một con nghé, được cả thảy ba trăm công một năm. Tính ra, công
nó cao hơn cả người lớn, chỉ thua nhưng lão nông tri điền và cán bộ trong ban
quản trị mà thôi. Nhưng nếu tính cả nguồn phân do hai con trâu và con nghé đem
lại quy ra điểm thì cao hơn cả họ. Đó là chính sách ưu tiên cho nó, con liệt
sĩ. Nhưng thằng Hợi không biết điều đó, nó chỉ thích được nghỉ học và một mình
ra Soi Vạt chăn trâu. Những ngày cày cấy, nó phải đưa trâu về xóm cho thợ cày,
chiều mới dẫn trâu ra Soi Vạt, còn những ngày rỗi, nó để trâu ngoài soi cả ngày
lẫn đêm, và ở lại. Nó đem theo một ít gạo với sắn, một nhúm muối và tự túc hoàn
toàn bằng tất cả những gì ăn được mà nó kiếm được. Nó là một chàng Rôbinxơn
Cơruxô của chúng tôi.
Thằng Hợi dẫn tôi vào trong cái chòi, mà nó gọi là “dinh cơ”
của nó. Tôi phải khom người thật sát xuống để khỏi cộc đầu, một căn lều thảm hại
hơn cả cái chòi lính tạm bợ trong chiến tranh. Một chiếc giường tre nhỏ không
có chân mà được kê lên mấy hòn đá tảng tròn nhẵn nó khuân từ dưới sông lên. Một
manh chiếu rách gẫy nát, đen thâm và ẩm mốc, trộn lẫn với những mớ rẻ rách, tàn
tích của áo quần, chăn màn. Góc lều là ba ông “đầu rau” cũng bằng những hòn đá
tròn nhẵn đen nhẻm, một cái xoong nhôm quấy bột trẻ con méo mó, và một cái niêu
đất xù xì nhưng rất chắc chắn nằm ềnh ệch ngay dưới chân giường. Khắp lều toàn
mùn giun, cái thấp lù lù, cái cao ngất nghểu... như một cao nguyên đá, nhìn
trong ánh ngày lờ mờ rất ngoạn mục, nếu tôi không bị ám ảnh bởi cái chết tức tưởi
của hai thằng bạn đồng hương năm nào. Tôi nhìn chéo sang bên vách thủng. Ở
ngoài ấy dưới gốc một bụi tre nền nhẵn nhụi, là nơi thằng Hợi buộc trâu vào ban
đêm, có lẽ còn sạch hơn và ấm cúng hơn trong chòi. Tôi ngồi xuống cái giường,
tuy thế lại khá chắc:
- Ai làm cho mày cái nhà này, Hợi?
Nó cũng ngồi xuống một hòn đá, xoay lưng ra cửa, nhìn tôi
bình thản:
- Của cô giáo Nga để lại cho em đấy! Anh có biết cô giáo Nga
không?
CHƯƠNG 8 -
N
ghe có người báo con gái đến tìm, chị Diệu lật đật chạy ra cổng
ủy ban xã. Nhìn thấy con bé Thảo lúng túng nhảy từ trên chiếc xe đạp bóng
nhoáng xuống, mẹ nó hốt hoảng:
- Chết thôi! Ai cho mày đi xe đạp thế hả Thảo?
- Ông! Ông bảo con đi tìm mẹ về ông bảo gì ấy! Con bé Thảo
thích thú đáp lời mẹ. Nó chệnh choạng dẫn chiếc xe định dựa vào thềm gạch,
nhưng dựa mãi không được, làm cái xe suýt thì đổ kềnh. Chị Diệu chạy đến giúp
con gái:
- Ông làm sao thế hả con?
- Ông không làm sao, nhưng cơ mà khi ông chống gậy lên Soi Vạt
về bảo con đi tìm mẹ ngay. Nhanh lên, mẹ về ngay đi!
Chị Diệu ngẩn người không hiểu có chuyện gì. Lại Soi Vạt! Cái
Soi Vạt chết tiệt này nó làm khổ ông bố chị đến bao giờ nữa đây? Mà ở đó có cái
gì kia chứ! Chị chưa bao giờ đặt chân đến cái bãi sông bí hiểm ấy. Đối với chị
nó như một cái cõi xa xăm nào đó, như trong chuyện kể về ma quỷ, về thần thánh
mà trong mỗi con người ai ai cũng nghe, cũng biết, cũng có lo âu sợ sệt và hoan
hỉ, nhưng chưa ai từng nhìn thấy. Cái bãi sông ấy chỉ hợp với những con người
không bình thường, những con người có tuổi tác, có thân phận, có niềm hy vọng,
có cuộc đời kỳ quặc, u mê. Từ ngày mẹ con cô Nga bồng bế nhau lên đấy ở, câu
chuyện về Soi Vạt càng được người ta đồn đại, phóng to lên nhiều lần. Đã có những
câu chuyện kể về những người đàn ông trong làng ra sông lấn mẹt vào những đêm
mùa đông giá rét. Có lần một người nào đó đã bắt được một con cá to bằng đứa trẻ
con lên ba. Nó bị quáng đèn và bị những tấm rào nứa ảo ảnh chặn lại không dám
lao tới, để một cái dập chụp lấy, mặc dù nó hết sức cựa quậy nhưng không làm
sao thoát được. Những người lấn mẹt đem nó lên bờ thì một người đàn bà không biết
từ đâu chạy đến đòi. Chị ta bảo đấy là con mình, chị van xin họ hãy tha cho nó,
đừng làm thịt nó, để chị nuôi cho nó lớn lên, nó sẽ thành một chàng thanh niên
cao lớn, tuấn tú, nó sẽ ra chiến trường đánh giặc! Các người không tin ư? Hãy
nhìn kia! Khi những người thợ lấn mẹt nhìn xuống thì không phải con cá, mà là một
thằng bé con trần truồng đang nằm trên cỏ, thản nhiên mút tay và nhìn mọi người
bằng con mắt ướt của loài cá, không kể gì đến cái rét tháng chạp tím thịt, cắt
da. Họ, những người thợ lấn mẹt gan lỳ nhất trần đời cũng phải hốt hoảng, bỏ cả
dập, cả giỏ, quăng đóm mà chạy. Người đàn bà cười nhẹ bế con lên đi về phía rặng
tre, nơi có túp lều chăn trâu của thằng Hợi.
Rồi lại một câu chuyện khác, về chiếc máy bay Mỹ bị vướng vào
ngọn tre rơi xuống Soi Vạt vào một buổi chiều. Thông thường, máy bay Mỹ bay rất
thấp mỗi lần chúng muốn đánh vào thủ đô. Chúng bay men theo sườn núi Tam Đảo, dọc
lòng sông rồi bất thần tăng đô cao vọt lên rồi từ đó bổ nhào vào mục tiêu mà
ném bom hay bắn rốc- két. Một lần chả biết chúng bay thế nào mà một chiếc F105
to bằng cái gốc đa và cũng sần sùi, gai mấu, gớm ghiếc như thế quệt phải một
cành tre. Cành tre níu lấy chiếc tàu bay, còn nó, cái con Thần Sấm hung hãn thì
cứ gầm rú vùng vẫy, phụt cả khói đen ra đằng đít nhưng cũng không sao thoát ra
được. Cuối cùng, nó ngã vật ra giữa lòng sông, vì thế nó không bị bốc cháy. Những
người dân trong làng kéo nhau ra xả thịt con Thần sấm đem về bán cho cánh thợ
đúc xoong, từ mãi dưới Thái Bình, Nam Định lên hành nghề. Tay nghề của họ thật
siêu đẳng. Những chiếc xoong đủ các cỡ bằng đuya- ra từ máy bay Mỹ thật tuyệt vời.
Vừa nhẹ, vừa sáng loáng, nấu cơm không bị cháy lại vừa bền. Có thể dùng đến năm
mươi năm, hoặc hơn, một trăm năm mà không hề hư hấn. Nhưng có điều lạ là người
ta không tìm thấy tên giặc lái đâu cả, dù là một mảnh xác hay một miếng vải quần
áo của tên Mỹ. Xã, huyện đưa dân quân, du kích và cả bộ đội về săn lùng, rồi
thông báo đến khắp mọi ngóc ngách người dân, nhưng không ai tìm thấy nó, dù chỉ
là dấu tích. Lâu dần mọi người quên đi, thì bỗng dưng có người thấy đêm đêm có
một cái bóng cao to gấp đôi, gấp ba người trong làng, trắng như người bạch tạng,
lần mò dọc theo bờ sông mà bắt cá, ăn sống! Cái bóng người bạch tạng ấy là hồn
ma hay chính là tên phi công Mỹ còn sống?
Những câu chuyện đó không ai tin, kể cả thằng Hợi gan lỳ một
cách khác thường, trừ những chiếc xoong bằng đuya ra ai cũng trông thấy. Dù
không tin nhưng ai cũng nghĩ là có khi có thật thì sao? Ấy vậy mà cô Nga dám bồng
con lên đấy ở, có khi cô ấy đã là nhân chứng cho những câu chuyện hoang đường,
ma mị của Soi Vạt. Không thế thì làm sao cô ấy sống ở đó được. Nhưng rồi, cô
Nga và thăng con trai của cô phải ra đi. Hai mẹ con người đàn bà bất hạnh và ma
quái ấy đi như thế nào cũng chẳng ai biết đích xác. Họ chỉ thấy ông lão Tuân
ngày ngày vẫn chống gậy đi vào đấy, rồi lại trở về, y hệt một người dở hơi,
không hồn, không vía...
Con bé Thảo nhìn mẹ nó đứng nhìn về phía cánh bãi đang vào
mùa mía lên. Màu xanh phơi phới của những mầm mía đã bám được rễ vào cánh bãi
phù sa, hứa hẹn một mùa mật vàng óng thơm lừng. Bất giác chị Diệu nhớ tới những
đêm kéo mật rậm rịch tiếng chân trâu cùng với tiếng nghiến ken ken của trục kéo
mía. Thỉnh thoảng tiếng giục trâu ậm ừ của người rong trâu cũng ngái ngủ như tiếng
thở phì phò, mệt nhọc của con trâu. Tiếng nước mía chảy long tong trong thùng mật.
Cànhg về khuya, tiếng người càng thưa dần, và trăng thì càng trong văn vắt. Mùa
kéo mật, cả làng thơm lừng, thơm từ trong quần áo của thiếu nữ, đến da thịt của
bầy trâu nhọc nhằn. Cả vầng trăng tháng một cũng thơm lựng, ngọt lừ... Vào một
đêm như thế, chị Diệu sống lại với thời gian của thjời thiếu nữ... Những cánh
tay đàn ông vạm vỡ, những bộ tóc bù xù khét năng, dinh dính mật mía và anh
trăng mờ tỏ, thoắt ẩn, thoắt hiện trong bãi mía lao xao. Thời ấy đã qua. Chiến
tranh mà hiện thân của nó là những Con Ma, Thần Sấm, vừa kinh tởm lạ lùng, vừa
dã man điều độ rải từ trong bụng nó ra những quả bom li ti như thóc mạ, rồi ầm ầm
trùm khói mịt mù xuống mọi nơi, mọi chốn. Cánh đồng mia chay tan hoang, xa hơn
nữa, cánh đồng Lưu Lạc của làng chị lỗ trỗ hố bom và những ngôi mộ mới... Thế rồi,
chiến tranh cũng phải đến ngày kết thúc, bao nhiêu thanh niên trai tráng không
về, họ đem đi vĩnh viễn những cánh tay vạm vỡ, những mái tóc bù xù thơm và dính
mật mía... Chị cũng thế, từ ngày theo chồng về làng bên này, chị cũng chưa một
lần trở lại cánh đồng Lưu Lạc, nơi chị đã lớn lên, lần đầu tiên trong đời chị
đã học cách cầm rảnh mạ cắm xuống bùn non! Rồi từ đấy, cây lúa của chị lớn lên
trổ đòng đòng, đơm bông, chín gié, làm thành những hạt gạo trắng trong, nuôi sống
con người...
Mải mê với những ý nghĩ chợt đến, mãi đến khi con bé Thảo nắm
áo chị kêu lên:
- Mẹ...! Mẹ nghĩ gì thế?
Người đàn bà giật mình, trở lại với hiện tại. Chị kéo con gái
đên bên thềm gạch dưới bóng mát của hàng xoan đào, gỡ những bông hoa cỏ trên
tóc nó:
- Thảo này, con ở với ông có vất vả không?
- Không mẹ ạ!
- Con làm những việc gì?
- Thì cũng như ở nhà mình thôi. Nhưng cơ mà khổ nhất vẫn là
lúc cho bà ăn, lúc bà đi đồng...
“Khổ thân con tôi!”, chị Diệu thầm kêu lên trong lòng, nó còn
bé thế, chưa biết gì mà đã phải làm những việc như thế.
- Nhưng mà con cũng thích, thỉnh thoảng ông lại cho con đi xe
đạp. Cái xe đạp của mợ Kỳ đẹp nhỉ mẹ nhỉ. Đạp nhẹ ơi là nhẹ!
Ừ, nếu như chị đừng quá quắt, đừng ghen ghét với mợ Kỳ, thì
con chị đâu đến nỗi. Bất giác chị Diệu thấy ân hận, nỗi ân hận kéo đến làm chị
sắp rơi nước mắt. Nhưng đấy là những giọt nước mắt thương con.
Tội nghiệp nó, mới mười ba tuổi đầu đã phải sống xa bố mẹ, xa
các em. Chị Diệu thương con gái còn bởi nó chính là cái phiên bản, cái bóng của
chị. Năm mười ba tuổi, chị cũng phải lìa nhà đi ở chăn trâu cho một nhà giàu có
trong làng, chỉ vì ở nhà thì chị không biết lấy gì để ăn. Người giàu có trong
cái làng Sơn Cốt bé bỏng của chúng tôi hồi ấy không nhiều, chỉ độ dăm bảy người,
và cái mức giầu có của họ cũng không như những câu chuyện được mô tả trong sách
vở, tiểu thuyết. Vì thế, con cái nhà bần cố nông nào muốn được xin vào để ở
trong nhà họ cũng không phải dễ dàng gì. Và chính chị đã được nhận đi ở chăn
trâu cho nhà ông địa chủ Đồng Giám. Chị Diệu còn nhớ mãi những buổi chiều đông
xám xịt và gió rét cắt da, thổi ù ù, trên cánh đồng Lưu Lạc, một mình chị giằng
co, vật lộn với hai con trâu không chịu về chuồng. Những giọt nước mắt cằn cõi
và nóng rát tràn xuống hai gò má cô bé Diệu, rồi lại bị gió thốc ngược vào môi,
vào miệng mặn chát. Xa xa, xa lắm, là cái vệt đen dài của làng. Thực ra thì cái
khoảng cách giữa cánh đồng Lưu Lạc lồng lộng gió với chân làng không bao xa,
nhưng với tuổi mười ba, côi cút, lưu lạc của chị, đó là cả một chân trời thiên
hạ, mịt mù. Chỉ có một cậu bé, gọi ông chủ Đồng Giám là bác ruột, là thỉnh thoảng
còn tha thẩn đến với chị, trong những lúc chị tủi thân bên đống rơm khô. Người
đó chính là anh Quân, chồng chị bây giờ.
Từ khi xảy ra sự cố, nói đúng hơn là những sự cố liên tiếp xảy
đến để đến giọt nước cuối cùng là sự bồng bế nhau ra đi của mẹ con chị Nga, cái
ly nước buồn đau trong gia đình ông lão Tuân mới được ngó ngàng tới. Sự sụp đổ,
gãy gục của ông lão Tuân và những tiếng than kêu rền rĩ của bà lão khiến cho
ngôi nhà vốn nền nếp, cứng cỏi trở thành nơi trú ngụ của đau thương bi thảm.
Không có tiếng người lớn, không có tiếg trẻ thơ, chỉ có tiếng rít ư ử của con
chó thủy chung và tiếng gào thét của con lợn bị ruồng bỏ là tạo được cái âm
thanh náo động của trần gian. Sự xuất hiện của chị Diệu, những tiếng xua gà, mắng
lợn và những nhát chổi của chị đã cứu rỗi ngôi nhà. Chị tắm rửa, cơm cháo cho
me, lòng thương mẹ của chị không sao lấn át được ý muốn tội tình của người đàn
bà chán ngán. Bất chợt thoáng qua thôi nhưng bỗng dưng nó được neo lại trong
lòng chị: chị mong cho mẹ chết! Ừ, sao chị lại có ý nghĩ mong đợi quái gở và phản
phúc thế nhỉ? Biết là tội vạc dầu, cối giã sẽ đè ập vào chị, nhưng chị Diệu bắt
đầu bị ám ảnh bởi sự sống, hay đúng hơn là sự tồn tại của mẹ mình chỉ càng gây
ra bao khổ đau cực nhọc cho chị, cho bố chị và cho chính cả bà nữa... Chị vừa sửa
lại cái sào gầu múc nước, vừa đưa mắt về phía căn buồng, nơi tiếng rên rỉ rền
rĩ của bà mẹ phát ra. Đến bao giờ, bao gờ nhỉ, những âm thanh ai oán và rỉa rói
ấy ngưng tắt? Đó là ngày giải thoát cho kiếp con người mong manh ma trĩu nặng
dường bao!
Dường như không chịu đựng nổi cái ý nghĩ tội lỗi ấy, chị Diệu
lặng lẽ nhảy lên pê- đan xe đạp, không một lời chào từ giã cha mẹ. Con đường
liên xã vốn đã ngoằn ngòeo và lỗ chỗ chân trâu, vào lúc nhập nhoạng tối, càng
trở nên gập ghềnh bao nỗi đã đưa chị về đến nhà. Ngôi nhà ấm cúng, yên thân của
một cuộc đời người đàn bà giờ đây đã trở thành ốc đảo ích kỷ của chị Diệu. Chị
càng yên thân, êm ấm và kiêu hãnh đến đâu, thì nỗi xót thương cho hoàn cảnh của
cha mẹ càng dào lên gấp bội. Giờ đây, sau khi đã chui vào cái giường âm ẩm quen
thuộc mùi nước đái của đứa con nhỏ, niềm hạnh phúc hân hoan quen thuộc của chị
đã không còn nữa. Chị đã suy nghĩ, và sẽ phải đi đến một quyết định. Chị ngồi dậy
quấn lại mái tóc búi thành một búi sau gáy, quơ mãi chẳng thấy cái kẹp đâu, chị
cứ để như thế, một tay giữ cái búi tóc, đi ra gian nhà ngoài, nơi chồng chị
đang ngồi, cộng trừ sổ sách. Nghe tiếng bước chân vợ, anh Quân, ngưng tay nhìn
lên. Thấy dáng bộ quen thuộc của vợ, nó thường diễn ra như một tiếng nói báo hiệu,
anh lại cúi xuống những con số công điểm, với vai trò của một con người tất bật,
đầy trách nhệm. Chị khẽ khàng ngồi vào ghế, thả mái tóc dày xuống, nén một tiếng
thở dài. Lần này anh Quân ngẩng lên, với một nụ cười của kẻ đã biết hết mọi sự.
- Anh làm sổ sách sắp xong chưa?
- Hứ, còn mấy chỗ rắc rối quá! Không ngủ được à?
Chị Diệu không trả lời câu hỏi cũng rất quen thuộc của chồng:
- Chiều nay em tạt qua nhà ông bà. Buồn quá...
Anh Quân buông bút, ngồi xoay hẳn lại phía vợ:
- Bà có đỡ được tí nào không?
Chị Diệu khẽ lắ đầu:
- Em nói câu này phải tội thật, nhưng sao em mong cho mẹ mình
chết...
Nói chưa hết câu, chị Diệu ngồi gục xuống cánh tay tì trên cạnh
bàn, khốc tức tưởi. Đang từ một tâm trạng phấn chấn, rạo rực, anh Quân rơi vào
cái thế của nỗi buồn chạnh. Anh thương vợ và cũng một lòng thương cha mẹ vợ. Từ
khi người em vợ là anh Kỳ hy sinh, nỗi ám ảnh, mặc cảm càng như day dứt, cư cứa
trong lòng anh. Nỗi mặc cảm của người trốn chạy, mà thực ra không phải mà cũng
không thể là lỗi của anh. Trong khi cuộc chiến tranh đang ầm ầm đổ xô xuống từng
mái rạ, gốc cau, mâm ăn, giừơng ngủ, từng mỗi gia đình, mỗi thân phận thf anh,
như một người ngoài cuộc, người rảnh nợ. Lý do rất đơn giản: anh là cháu gọi địa
chủ Đồng Giám bằng bác ruột. Trong những cuộc tuyển quân rầm rộ, người ta không
màng đến anh. Lúc đầu anh xấu hổ, nhưng rồi anh Quân chợt nhận ra đó là sự may
mắn của mình. Sự may mắn có phần ác độc ấy đôi khi làm anh cũng nhoi nhói,
nhưng rồi cũng tan nhanh, nhất là khi bom đạn và những chiếc Con ma, Thần sấm gầm
rú trên vòm trời. Chỉ từ khi những tờ giấy báo tử lạnh lùng đầu tiên được gửi về
xã, với những tên họ quen thuộc của làng, trong lòng anh Quân bắt đầu nhói lên
sự mặc cảm. Đến tờ giấy báo tử của Trần Tuấn Kỳ thì sự lẻ loi, đơn độc và cả sự
khinh bạc nhẹ nhàng, âm ỉ từ những con mắt, những câu nói vừa xót xa, vừa ngạo
mạn của những người mẹ, người vợ có chồng con ra trận, cứ như xoáy vào đâu đó đằng
sau lưng, mà có khi vào cả trước mặt anh. Anh không chịu nổi nữa, anh làm đơn
tình nguyện nhâp ngũ, một lần nữa, lần này xa hơn, cao hơn: huyện đội! Nhưng vẫn
vô vọng, không ai đáp lời anh, đáp lại sự đau khổ của anh.
Nhìn người vợ cứng cỏi, rất đanh thép của anh đang rũ xuống
trên mặt bàn, anh Quân quên hết những phiền muộn mà chị đã gieo cho anh. Đã có
lần, chị nói với anh một cách vô tư cay độc:
- Tại anh đấy! Nếu anh không phải là cháu địa chủ, anh cũng
bình thường như mọi người thì tôi đâu đến nỗi, thiệt thòi, tủi nhục...
Lần ấy, anh Quân đã bỏ nhà ra đi, nhưng không phải vì anh bỏ
đi mà người ta bầu chị Diệu làm phó hội trưởng hội phụ nữ xã. Lúc ấy, bà dì
tôi, chủ tịch xã đã phải can thiệp:
- Cô không làm cán bộ, cô vẫn phải là người mẹ người vợ. Cô
hãy đi tìm gọi chú ấy về. Rồi đảng ủy sẽ bố trí cho cô một công tác phù hợp!
Dường như chị Diệu đáo để, mà chị đáo để thật, đã có phần tỉnh
ra khi anh Quân trở về. Cho mãi đến lúc phải xua đuổi mẹ con chị Nga ra đi, thì
chị lại hiện ra như một con người đanh thép. Giờ đây con người đanh thép ấy
đang rũ xuống, như một tấm áo không giá. Anh Quân lay vai vợ:
- Này, thôi dừng khóc nữa, nghe tôi bảo này...
Chị Diệu ngoan ngoãn như một đứa trẻ có lỗi, ngẩng lên vén
mái tóc ra sau gáy, nhìn chồng:
- Anh bảo thế nào bây giờ?
Quân đứng dậy, đi vòng sau lưng vợ, ra cửa, nhìn ra bóng tối
mịt mùng, rồi quay vào:
- Ta cho con Thảo sang ở với ông bà một thời gian...
-...?!
- Tuy nó còn bé nhưng cũng giúp cho ông bà được những việc vặt,
duổi con gà, trông nồi cơm. Với lại ở bên ấy nó đi học cũng gần trường hơn...
Chị Diệu đã thôi khóc, để suy nghĩ đến một sự việc nghiêm trọng
hơn. Làm sao con bé Thảo làm nổi những công việc gọi là lặt vặt ấy? Bất giác chị
nhớ lại cái tuổi mười ba và những cơn gió rít quay cuồng trên cánh đồng Lưu Lạc.
- Đừng, đừng để con bé phải khổ...
- Sao lại khổ? Nó về ở với ông bà chứ có phải đi ở kiếm cơm
như ngày xưa đâu?
Ngày xưa ư? Ngày xưa khổ nhục, ngày xưa thương mến đã qua rồi.
Chị Diệu bỗng quay loại ôm choàng lấy anh chồng, hai vạt áo anh Quân đầm nước mắt
của vợ. Hình như họ cùng biết ơn nhau.
Chị Diệu nhìn con gái bằng cái nhìn lo lắng:
- Thế mỗi lần lên Soi Vạt về, ông có nói gì không Thảo?
Con bé phụng phịu lắc đầu:
- Ông chẳng nói gì cả, chỉ ngồi ở hè, ngửa mặt lên nhìn trời.
Con thấy sợ lắm. Mẹ ơi, hay là mẹ cho con về nhà đi...
Người mẹ thảng thốt:
- Ừ, để mẹ bàn với ông...
- Sao ông lên Soi Vạt mà không bảo mợ Kỳ về nhà?
- Mẹ không biết nữa! Hình như là mợ Kỳ bỏ đi rồi...
- Đi đâu hả mẹ?
- Mẹ không biết!
- Mợ ấy có đưa em bé đi không hả mẹ!
- Có...!
- Em bé của mợ Kỳ có giống em bé nhà mình không hả mẹ!
Chị Diệu cúi xuống nhìn con, xẵng giọng:
- Cái con này, hỏi gì mà hỏi nhiều thế? Đi mà hỏi ông ấy!
Con bé Thảo cụt hứng, nó phụng phịu nhìn mẹ bằng con mắt hờn
dỗi:
- Mẹ có về không? Con về trước đây, kẻo ông sốt ruột...
CHƯƠNG 9 -
T
ôi vẫn không biết, mà cũng không dám hỏi thầy Hoan rằng,
trong những ngày hoạn nạn của chị Nga, tức là những ngày chị Nga bồng bế thằng
Hận lên Soi Vạt trú ngụ, thì thầy Hoan làm gì, làm thế nào, sống như thế nào?
Nhưng những mẩu chuyện vụn vặt trong mối giao tình giữ thầy Hoan và ông lão
Tuân thì tôi đã được nghe kể.
Sự đối trọng căng thẳng, quyết liệt và cũng rất cân bằng giữa
một bên là thầy Hoan, một ông giáo làng đã hồi hưu, chẳng giữ một vai trò gì
trong cái làng Sơn Cốt bé bỏng, nghèo nàn, nheo nhóc..., nhưng thầy Hoan của
tôi lại tồn tại như một thứ cây thảo mộc cổ thụ, luôn tiềm ẩn những vị thuốc,
tuy không quý giá, mà đôi khi cần người ta vẫn nhớ đến. Bên kia, là ông thông
gia, cụ Tuân, một lão nông chi điền chất phác với người ngoài nhưng lại rất uy
nghi, pha thêm cái chút láu cá tiểu nông trong cư xử với người thân, trong làng
xóm, trong họ mạc. Nếu thầy Hoan là một thứ cây thảo mộc ít rễ, dễ ăn, dễ sống,
dễ bị lung lay trước cả những cơn gió heo may... thì ông lão Tuân như một cây ổi
già trong vườn tạp bị trẻ con leo trèo, quần thảo, lá cành tơi tả, khiến nó
sinh ra những quả chua ngắt, nhưng mà bền chắc, vững chãi đời đời.
Chiến tranh đối với hai ông già chẳng qua chỉ là một cuộc
chém giết, đầy đọa, giành phần hơn thua đã... quá quen thuộc. Thế nhưng nỗi đau
thì âm ỉ, cứa vào từng mạch máu nhỏ li ti, trong mỗi khoảnh khắc của miếng ăn
giấc ngủ. Hai ông già thương nhau như hai con thú già cùng tồn tại trong một
cái cũi, một cái đích: đó là anh Kỳ. Chỉ có những con thú già, trải qua bao
nhiêu bẫy cạm mới biết thương nhau, nhưng dù sao, vì những biến động của thời
cuộc, của con cái, khiến hai con thú già ấy không thể nào nhập vào nhau được.
Một buổi trưa hè nắng gắt, nắng đến nỗi đường làng cũng chẳng
thấy một mống người nào. Vào lúc ấy, ông lão Tuân, trên tay cầm một cái gói nhỏ
gói bằng giấy báo, phăm phăm đi tắt con lạch nhỏ qua một bãi tha ma vài ngôi mộ
vô chủ, vắng ngắt hơi người đến nhà thầy Hoan. Đây là cuộc gặp mặt cuối cùng,
là ông lão Tuân dự định như thế. Vì là lần cuối cùng nên ông lão Tuân sẽ dự định
nói tất cả những gì cần phải nói cho ông bạn già, một người thông gia và... là
gì nữa, cũng phải nói ra, cho bằng được, bằng hết và bằng đúng. Căn nhà lợp lá
cọ, dặm lại bằng những mảng lá mía, từng mảng theo thời gian cũng đã gần hòa hợp
sắc màu, thả dài xuống giọt ranh cợp xuống như mái tóc tang hiện ra trước mắt
ông lão. Phải đến vài phút đồng hồ tần ngần, ông lão mới gọi cửa, tiếng gọi
cũng dè dặt, thẽ thọt:
- Ông giáo ơi, ông giáo? Ông giáo có nhà không?
Thầy Hoan, lúc bấy giờ đang giấc ngủ trưa. Trong cái mơ màng
của tiếng ve sầu sà sã, thầy có cảm giác như một tiếng gọi từ cõi hoang vu,
thăm thẳm vọng đến...
- Ới, ông giáo! Ông giáo Hoan...
Ai nhỉ? Ai trong cõi u minh đang gọi tên ta. Thôi được rồi,
ta đi đây. Ta chẳng còn gì để lưu luyến nữa, ta đã lưu lạc quá nhiều. Ta đã để
mất quá nhiều. Ta đã nhận được quá nhiều... Nhưng mà ai đã gọi ta, mà sao không
mở mắt ra nổi. Một quầng sáng chói gắt cứ chấp chới tiến gần đến làm cho tay
chân tay ta cứng đơ. Phải vật mạnh, phải quẫy mạnh để thoát ra...
- Ông giáo ơi, tôi đây....
Tiếng gọi đã tiến vào đến cửa sổ, thều thào, đứt đoạn, nhưng
khá rõ ràng... Thầy Hoan vùng vẫy một cách tuyệt vọng và quyết liệt. Trong một
khoảnh khắc thầy hất mạnh được cái quạt bằng mo cau nằm trên ngực ra. Thế là cuộc
sống thực tại ùa vào. Nóng bức và mùi ẩm mốc trong căn nhà chật chội nhưng vô
cùng yêu dấu thân thuộc đã giúp thầy tỉnh lại. Thầy ngồi dậy ngó cổ ra cửa sổ
và không khỏi kinh ngạc khi nhận ra ông lão Tuân. Hơi vội vàng, thầy Hoan đi ra
phía cửa cái, lật bật rút thanh then cửa, mở rộng cánh cửa ọp ẹp, hơi cúi xuống,
có phần lễ phép:
- Cụ sang chơi? Mời cụ vào nhà...
Ông lão Tuân cũng cúi xuống đáp lễ:
- Ông giáo nghỉ trưa, tôi sang thế này phiền quá...
Thầy Hoan ngạc nhiên thấy ông lão thông gia hôm nay cũng biết
trình bày câu nói của mình một cách lịch lãm đáng kể.
- Không có gì đâu cụ ạ. Tôi mệt quá, nằm thiếp đi một chốc. Chứ
dạo này ăn uông ngủ nghê kem lắm...
- Vâng! Cánh mình già quá rồi...
Thầy Hoan xúc ấm pha nước, đãi khách, đó là theo lẽ thường mà
cũng là theo lệ tục. Càng quý, càng trọng, càng cẩn thận. Trong lúc lúi húi dưới
bếp, với ngọn lửa ốm yếu và sức nóng của trời hè, thầy Hoan đầy mồ hôi và nghĩ
ngợi. Ờ, mà sao giữa trưa nắng nôi bức bối thế này mà ông lão đến, chắc hẳn phải
là điều hệ trọng? Mà hệ trong nhất của ông lão là gì nhỉ? Với ông lão Tuân, cái
gì mà không hệ trọng! Bấy lâu nay, không khi nào thầy Hoan không nghĩ về ông
lão. Cứ nghĩ đến chị Nga, thầy trào nước mắt, rồi lại nghĩ đến ông bố chồng chị.
Cái cuộc trao đổi vắn tắt, với vẻ hỗn xược của cô con dâu và ông bố chồng làm
ông giáo già ngạc nhiên. Chuyện gì đã xảy ra? Chuyện gì đã xảy ra giữa hai con
người, một cha, một con, một già, một trẻ?
Kể từ khi sinh thằng Hận, rồi bế nó lên uỷ ban xã làm giấy
khai sinh, chị Nga chưa một lần đưa con về thăm thầy Hoan. Chị đi như để chạy
trốn, để chết. Và kể cả những lúc hai mẹ con chị ẩn náu ở Soi Vạt, chị cũng
không về với cha. Thầy Hoan thì không đi đến đó được. Thầy không dám đi và cũng
không thèm đi, mặc dù thầy rất muốn đi. Thế rồi một lần duy nhất, chị về nhà một
mình, không bế theo con. Đó là lần chị về để từ giã bố, nhưng thầy Hoan không
biết rằng đó là lần cuối cùng cha con gặp nhau. Buổi sáng hôm ấy, hai bố con chị
Nga đã khóc đến cạn nguồn nước mắt. Không nói, hai cha con đã không nói với
nhau một lời nào. Dường như nước mắt đã nói tất cả. Thầy Hoan khóc vì thương
con, vì giận con, vì đau cho con. Cứ mỗi lần thầy định cất tiếng nói thì một
cái gì đó thê lương cấu cắn lại chẹn lấy ngực thầy. Thầy như nghe thấy tiếng
con gái: “Thôi, nói gì nữa, cha ơi!”. Chị Nga đã gục vào lòng cha để khóc, như
thể chị muốn giấu đi tất cả nước mắt, và cả tiếng khóc, mà nếu được thả ra nó sẽ
kinh động đến kiếp nào. Chị rất muốn kể lể với cha tất cả những gì đã đẩy đưa số
phận mình, nhưng lại thôi, lại nuốt đi, cho qua bữa ăn đầy kiêng cữ của số phận
dành riêng cho chị. Chị biết rằng, trên đời này, nếu có một người nghe chị kể
ra thì đó là người duy nhất: cha mình. Chị không sợ, không xấu hổ, cũng không
phải vì muốn giấu. Chị sợ nhất là sẽ làm cho cha mình đau. Cái lần ông lão Tuân
đến thăm mẹ con chị trong lúc thằng Hận còn đỏ hỏn, một câu nói của chị với ông
lão Tuân, bố chồng chị, cha của đứa bé nằm trong đụn giẻ ấy, làm thầy Hoan đã
ngất lịm, vì ngờ vực. Chị biết là cha mình đã nghi ngờ, đã lờ mờ nhận ra người
cha của thằng bé. Nhưng chị không thể nào nói ra được. Sự nghi ngờ làm người ta
đau khổ, nhưng sự thật còn đau khổ hơn!
Nhìn bóng dáng con gái đi lại, lục lọi tìm kiếm, xăm xoi tất
cả mọi ngõ ngách trong căn nhà. Chị có tìm gì đâu, chị chỉ nhìn, chỉ ngửi, chỉ
sờ mó mọi thừ trong nhà. Cuối cùng chị chỉ mang đi con dao nhỏ mà người mẹ bí
hiểm của chị để lại. Trong lúc thầy Hoan đang ngồi như một vị tu hành thoát xác,
thì chị Nga quỳ xuống trước mặt cha, tay nâng con dao được bọc trong một mảnh vải
chỉ để hở ra cái chuôi sừng đen bóng, lên ngang mày. Thầy Hoan hiểu ra, thầy hiểu
cả, khẽ gật đầu. Lúc đó, chị mới đặt con dao sang một bên, dập đầu xuống nền đất
ẩm, lạy cha đủ bốn lạy. Chị ra đi, cầm theo con dao. Chị đi giật lùi, ra đến cửa,
chị còn cúi đầu chào cha một hồi lâu. Thầy Hoan vẫn như người vô hồn, nhìn ra
giữa nắng. Cho đến lúc, chị Nga khép cánh cửa lại, bóng mờ ùn vào, thì thầy như
sực tỉnh. Thầy vụt đứng lên, bước chập choạng ra cửa, nhìn theo tấm lưng áo bạc
sờn của con gái. Ngày hôm sau, có tin đồn, chị Nga đã đưa con đi xuôi theo
giòng sông Công, trên một bè mảng nứa. Thầy biết, thầy đã mất hẳn người con gái
duy nhất, người thân ruột thịt cuối cùng...
Có một câu hỏi cứ chờn vờn, chỉ trực bật ra, nhưng rồi thầy
Hoan lại có kìm giữ lại được. Chỉ đến khi biết là chị Nga sẽ không bao giờ trở
lại, thì thầy cảm thấy hối tiếc; Thằng bé là con ai? Nó dứt khoát sẽ phải có một
người cha, nhưng người đó là ai? Là ai thì chỉ có mẹ nó mới biết được, mới có
quyền nói ra. Đu thầy là cha của chị Nga, thầy cũng không có cái quyền căn vặn,
nếu chị không muốn nói. Và sẽ mãi mãi chuyện đó không được nói ra... Và, thầy tự
nghĩ rằng, nếu không được giải đáp câu hỏi ấy, chắc gì thầy đã đủ can đảm để
lìa xa cõi đời này!
Ấm trà đã được đem lên bày trên chiếc bàn gỗ mọt sứt sẹo. Cái
bàn thì ghẻ lở là thế nhưng bộ ấm chén thì lại sáng bóng, và hương chè thì lại
càng thơm lừng. Dân làng tôi may mắn trời cho có thói quen uống chè ngon, chè tự
tay mình sao lấy, gọi là sao suốt. Sao suốt nghĩa là rang chè bằng chính bàn
tay mình, rang ngay từ khi chè vừa được hái từ ngoài vườn đem vào, không chậm
trễ, và cũng không hề trải qua bất kỳ một động tác nào. Chè như thế mới là tinh
khôi. Khi chè đã bắt đầu héo, chảo đã nóng ran thì dùng một cái móc sắt thay
cho bàn tay để tiếp tục sao, khi nào nghe có tiếng vang, nghĩa là búp chè đã
khô, rơi vào lòng chảo nghe “roong roong”, thì đem ra xảo trên một cái rổ bằng
cật tre đan thưa, để lựa ra cái phần trên rổ sao tiếp. Cái phần đã lọt rổ thì
đem sàng trên một cái sàng gạo, để lấy phần chè tốt, còn cái phần lọt khỏi sàng
là loại chè thứ phẩm, gọi là chè ban.
- Cụ xơi nước! Nhà neo quá, tôi chỉ có chè ban, bên nhà ông
Quang cho!
Nhà ông Quang, tức là nhà tôi, chè do mẹ tôi sao, thỉnh thoảng
đem sang biếu thầy Hoan, nhưng thầy không lấy chè búp sao, loại tốt nhất ấy, bảo
để bán mà đong gạo. Thầy chỉ xin nhận chè ban, nếu không, thầy Hoan sẽ không
bao giờ lấy. Còn mẹ tôi, tôi chưa bao gờ thấy bàn tay bà trắng trẻo, lúc nào
cũng thâm đen, đấy là do nhựa chè bám vào, rồi sáng mai lại ra cánh đồng đi cấy,
sục vào bùn, lập tức trở nên đen xậm.
- Che ngon quá ông giáo ạ! Ông lão Tuân khen một câu, vừa
chân tình, vừa khách sáo. Vì chè ban chẳng bao giờ là thứ chè ngon, cũng ngon,
nhưng chẳng bao giò ngon lắm, vì nó lẫn cả những búp chè đã bị cháy. Dứt khoát,
khi uống, phải có mùi khét khét. Nhưng là lời khen chân tình thì cũng đúng, vì
nhà ông lão Tuân còn neo người hơn, từ khi chị Nga đi, vườn chè đã bỏ hoang, vả
lại cũng chẳng có người hái, sao. Từ lâu, ông lão chỉ còn uống nước chè tươi...
Hai ông già vừa kê cái chén vào miệng vừa nhìn nhau, như thể
hai đối thủ đang lừa nhau trên xới vật, cho đến khi cả hai cùng đặt chén xuống
mặt bàn, đều đến nỗi, hai tiếng cạch nhỏ, khô khan cùng hoà làm một. Rốt cuộc,
vẫn là tiếng thầy Hoan cất lên trước, phá tan cái bầu không khí im lặng, ngột
ngạt:
- Cụ bà bên nhà đỡ nhiều chưa hả cụ?
Ông lão Tuân đáp lại câu hỏi của thầy Hoan bằng một giọng
ngùi ngùi: - Vâng, cám ơn ông giáo, bà nhà tôi cũng đỡ được đôi chút, nhưng xem
ra, càng ngày bệnh tình của bà ấy càng trầm trọng.
- Cũng gay go đấy cụ nhỉ. Thế mọi chuyện cơm nước trong nhà
bây giờ ai lo hả cụ?
- Có con bé cháu con gái nhà mẹ Diệu nó sang nó trông đỡ. Phải
cái con bé còn non quá, mới có mười ba tuổi đầu, còn đoảng lắm. Nhưng cơ mà có
nó cũng đỡ đần được đôi việc...
- Thế cháu nó không đi học à?
- Có. Nó vẫn đi học buổi sáng, buổi chiều về trông nom con
gà, con lợn, giúp bà nó giặt giũ, cám bã...
Thầy Hoan thấy thật sự ái ngại. Đến đây, thầy lại thấy cần phải
oán trách chị Nga, nỡ lòng nào bỏ ra đi được kia chứ? Ừ, nó có thể bỏ ta mà đi
cũng được, nhưng với một hoàn cảnh như thế...
- Ông giáo ạ, hôm nay tôi sang đây, trước là thăm ông, sau là
để có câu muốn nói.
Còn nói gì nữa nhỉ. Mà thôi, thầy Hoan nghĩ bụng, mọi chuyện
cũng là bởi tại con gái ta, đã không biết giữ mình, đã không biết hầu hạ phụng
dưỡng bố mẹ chồng. Nó đã đi rồi, nó đã bỏ đi với cả một nỗi niềm của nó. Thôi
thì, con dại cái mang, ta sắp phải nghe những lời oán trách nặng nề đổ xuống
đây.
- Vâng! Xin cụ có chuyện gì cứ bảo, tôi xin nghe...
- Chả là thế này, ông lão đắn đo, lâu nay ông giáo có nghe được
tin tức gì về... mẹ con cô giáo Nga không?
Đã đoán được trước câu hỏi, thầy Hoan trả lời ngay:
- Không, cụ ạ. Từ ngày nó bỏ đi, tôi nào có được biết tí tin
tức gì. Đến cả nói một lời trước lúc ra đi nó cũng chẳng nói để tôi biết. Thế cụ
có nghe được gì không?
Ông lão Tuân hơi nhớm người trên ghế, như muốn ghé sát vào thầy
Hoan để thông báo một cái tin quan trọng:
- Hôm nọ, tôi có gặp anh Định, giao thông xã, cái nhà anh khiểng
chân ấy, ông giáo có biết anh ấy chứ...?
- Vâng, tôi biết.
- Anh ấy nói với tôi là có biết tin về mẹ con nhà cô Nga...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét