Cánh đồng lưu lạc 2
CHƯƠNG 10
Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai
chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập
ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau.
Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng
không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn
nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về
xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ
xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi
trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của
chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy.
Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu
cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt...
cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ
thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó
cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý
mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng
bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho
nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các
em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng
tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo
chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông,
nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh
mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô,
quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng
can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên
tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng
tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải
mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu
rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi,
chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn
vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc
đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu
nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em
hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không
thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời
mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận
ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ
sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt.
Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng
dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo
ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không
đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng
lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn
có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả
thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp!
Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì
cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng
Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa,
lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình
dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng
toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè
của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành
giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu
bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngộ nhỡ đêm hôm có chuyện gì thì
chị làm thế nào?
Chị Nga cười nhẹ, đôi gò má chợt nóng lên ở đâu đó:
- Chả có chuyện gì đâu anh ạ. Mà nếu có gì thì chúng em cũng
tự xoay xở được.
Nhìn nồi cơm đang sôi lục bục trên bếp, toả lan mùi gạo chiêm
quanh quất, chị Nga bỗng thấy nhớ cha mình, nhớ ngôi nhà của cha, nhớ làng day
dứt. Nhớ là thế, day dứt là thế, nhưng chị đã hình thành trong đầu những kế hoạch
của mình. Bác trưởng toán bế thằng Hận, rung rung nó trên đôi tay vạm vỡ, ngó
vào:
- Nhanh nhỉ! Cơm đã sôi rồi đấy. Tôi mà cứ nghe tiếng cơm sôi
là thấy bụng đói cồn cào.
Tĩnh quay sang nói với chị Nga:
- Sao chị không ở trong làng mà ra ngoài bãi soi này?
Chị Nga không biết trả lời thế nào cho dễ nghe. Sự thật không
thể nói ra, còn sự không thật thì chị chưa bao giờ chị nghĩ tới. Chị đánh trống
lảng bằng một câu hỏi lại Tĩnh:
- Các anh ở đâu lên xuôi bè thế?
- Xa lắm, có nói chị cũng chả biết. Nam Định! Chị đến đó hay
nghe nói đến nơi ấy bao giờ chưa?
Chị Nga khẽ bật cười:
- Đến thì chưa đến, nhưng mà nghe thì nghe nhiều rồi chứ. Nghề
sơn tràng cực lắm nhỉ?
- Còn phải nói. Tĩnh hào hứng, anh em chúng tôi đây người
cùng một xóm cả đấy. Bác Thuần kia là trưởng nhóm, là người dày dạn nhất, là
người chỉ huy. Chúng tôi là thợ, trong đó có tôi là lính mới tò te, đi chuyến
này là đầu tiên! Kể ra cũng sợ lắm, chị ạ. Mà đâu phải chỉ có làm sơn tràng, chặt
nứa khắn bè không thôi đâu, còn phải biết chèo lái, vật lộng với sông nước nữa
chứ. Cùng một lúc phải làm hai việc cực nhất nhì trần đời “nhất phá Sơn Lâm,
nhì đâm Hà Bá”...
- Thế trước khi làm cái nghề “phá Sơn Lâm, đâm Hà Bá”, anh
làm gì?
Tĩnh cười láu lỉnh:
- Nghề bắn giết người!
- Nghề gì mà nghe kinh thế? Anh nói cụ thể xem nào? Tĩnh bỗng
trầm giọng xuống, như người nhận lỗi:
- Nói vui với chị vậy thôi, chứ tôi có nghề ngỗng gì đâu. Tốt
nghiệp lớp bảy ở nhà học cày dở dang thì đi lính. Hơn bảy năm trời ở chiến trường
về, cũng may giữ được cái gáo, mà cũng không hề hấn, thương tật gì. Đi học thì
dở dang, đi cày thì cũng chả có đất, có ruộng, quê tôi đất chật, người đông. Ngồi
chơi mãi cũng chán, thế là theo bác Thuần đi làm thợ phá rừng...
“Lại chiến trường, chiến tranh! Chị Nga thầm nghĩ, cả một thế
hệ thanh niên được huy động vào cuộc chiến. May mà chiến thắng và cũng may mà
nguyên vẹn trở về. Chả như anh Kỳ...”. Chị Nga ngồi bần thần gảy những mẩu than
đỏ lừ gom chúng tụm lại, rồi lại tãi chúng ra dưới đáy nồi cơm đang chín. Anh Kỳ
của chị đã mãi mãi chẳng bao giờ được trở về để kể những câu chuyện hiểm nghèo
mà vui vẻ, để nói những câu bông lơn mà buồn lo thắt ruột. Nếu anh Kỳ không chết
mà cũng trở về nguyên vẹn như người thanh niên tên Tĩnh đang ngồi cạnh chị đây?
Rồi anh ấy bế thằng Hận, không, không phải thằng Hận mà là một thằng bé khác,
tên là Thắng, là Mừng, là Nam chẳng hạn. Tiếng củi lửa tí tách, tiếng cơm sôi lục
bục, tiếng ê a của đứa trẻ. Rồi chị sẽ lại trở lại với nghề dạy học, chị sẽ lại
ngồi trên chiếc xe đạp Thống Nhất có tiếng líp kêu lanh tanh... Biết là giữa chị
và anh Kỳ chưa hẳn đã có tình yêu, cái thứ tình cảm khó thấy, khó nhìn, khó kiếm
nhưng dù sao cũng còn có cái tình, rồi xa hơn nữa, nó là cái nghĩa. Thế mà bỗng
dưng, anh Kỳ chết đi, cái tay vịn vững chãi nhất để chị đi trong đời đã bị bẻ gẫy,
để rồi, chị chung chiêng đi giữa trần gian một mình, một bóng tủi hờn.
Đến bây giờ chị cũng không biết là đối với ông lão Tuân, vừa
là cha, vừa là ông của thằng Hận, chị có một tình cảm gì? Căm hận thì rõ rồi,
thế nhưng vẫn còn có một chút tình thương cảm, mà ngay bây giờ hoặc đến bao giờ
chị mới bày tỏ được? Thằng Hận sẽ như thế nào trong cuộc đời này? Danh chính là
gì, để nó được yên bình trong ngôn thuận?
- Thế anh ấy nhà chị đâu, bố thằng bé ấy? Câu hỏi của Tĩnh cắt
ngang luồng suy nghĩ ngắn ngủi của chị Nga, làm chị quay về với thực tại. Chị
lúng túng:
- Cháu không có bố! À mà bố cháu cũng vào chiến trường, có lẽ...
hy sinh rồi!
Tĩnh là một thanh niên nhạy cảm, nếu không anh ta đã vì vui
miệng, hay vì hiếu kỳ mà tra vấn đến kỳ cùng. Anh ta đứng dậy, vuốt nhẹ lên má
thằng Hận, rồi bước xuống mé bờ sông. Nước sông vẫn đục ngầu, chảy xiết.
Cánh thợ sơn tràng bày ra ăn cơm với thức ăn là những con cá
mắm khô nát rữa, nhưng mùi thơm cháy của nó thật quyến rũ.
- Chị ăn cơm cùng với anh em chúng tôi nhé! Bác Thuần nhìn
hai mẹ con chị Nga, ái ngại.
- Vâng! Các bác cứ tự nhiên, mẹ con em đợi thằng cháu từ
trong xóm ra, tí nữa cùng ăn...
Chỉ loáng cái, nồi cơm đã hết veo, nhìn cánh thợ rừng ăn mà
phát thèm. Hình như họ vẫn chưa thật no, nhưng trong nồi hãy còn một ít cơm và
trên đĩa có hai con cá mắm nướng. Chị Nga bưng cái ấm đất đun nước ra mời
khách. Bác Thuần, sau khi uống một bát nước vối, lấy dao chẻ một thanh tre làm
tăm xỉa răng, rồi đứng dậy đến trước mặt chị Nga:
- Anh em chúng tôi cám ơn cô đã giúp cho bữa ăn. Chúng tôi
xin gửi tiền gạo.
Nhìn mấy đồng bạc kẹp giữa những ngón tay xương xẩu của bác
Thuần, chị Nga ngước lên, giọng ẩn nhẫn:
- Các bác, em muốn có câu chuyện thưa với các bác. Xin bác
hãy nghe em nói...
Mấy anh em thợ san tràng nhìn nhau, vẻ mặt đầy sóng gió ngạc
nhiên. Anh chàng Tĩnh lặng lẽ lùi ra phía sau, nhưng hai con mắt vẫn cứ dán vào
mẹ con chị Nga. Bác Thuần:
- Ấy chết, có chuyện gì thế?
- Chả là thế này, nói ra sợ các bác cười, nhưng mẹ con em đã ở
vào cái hoàn cảnh này, xin các bác thương, mà có cười em cũng xin chịu. Rồi dường
như để chậm lại một chút, sẽ không thể nói được, chị Nga trở nên linh hoạt hơn.
Chả giấu gì các bác, mẹ con em ở vào hoàn cảnh tủi nhục lắm, nên mới phải ra ở
cái lều ngoài mom sông, đầu bãi này. Cũng là cái duyên trời dun dủi cho gặp các
bác. Chúng em sống không được lòng bên gia đình nhà chồng, còn vì sao thì xin
các bác tha cho, đừng gạn hỏi. Cứ ở lại thì bẽ bàng, nên mẹ con em đã định bế
nhau mà đi. Chúng em cũng tính làm một cái mảng thả trôi theo dòng nước này mà
ra sông Cái, nhưng vì chân bấy tay yếu chưa làm được. Bây giờ tiện đây, xin cho
chúng em lụy theo con mảng để mẹ con em đi khỏi nơi đây...
Chị Nga không định khóc, nhất quyết không khóc, nhưng nước mắt
cứ tứa ra, không cầm được. Năm người thợ xuôi bè nhìn nhau, dường như họ không
tin vào tai, vào mắt mình. Lại bác Thuần, trưởng toán lên tiếng:
- Chúng tôi nghe mà không hiểu sự thể ra sao, nhưng nghe cô
nói, chúng tôi cũng có phần thông cảm. Nhưng tôi xin hỏi thật: thế cô định đi
đâu?
- Chúng em cứ ra khỏi được nơi này đã, sau rồi sẽ liệu sau.
- Chết thật! Đàn ông như chúng tôi đây để kiếm được miếng cơm
thiên hạ cũng thấy khó, huống như mẹ con cô, đàn bà, con mọn rồi sẽ ra sao...
Chị Nga gạt nước mắt, giọng chị trở nên rắn giỏi hơn:
- Bác hỏi thế thì em cũng biết là kiếm miếng ăn ngoài thiên hạ
không dễ dàng gì. Nhưng đến nước này, là nước cùng, đường cạn mất rồi. Mẹ con
em chỉ xin các bác theo ra đến sông Cái. Rồi chúng em lên bờ, đi tiếp...
Anh chàng Tĩnh bước tới, nhìn vào mắt thằng Hận:
- Cháu tên là gì hả chị?
Chị Nga thấy đã đến lúc phải hé ra một chút sự thật, mong nhận
được sự thông cảm của những con người này:
- Em đặt cho nó cái tên khác người xấu lắm. Tên cháu là Hận!
Tĩnh lặng người, nói với bác trưởng nhóm:
- Cô ấy đã nói thế, em cũng xin bác để cho mẹ con cô ấy quá
giang...
Bác Tuần chép miệng, thở dài:
- Cơ khổ! Tôi đi ăn mòn bát thiên hạ, thấy người khổ cũng nhiều,
mà chưa thấy ai khổ đến như cô. Thôi thế chuẩn bị đi. À mà này, đây là tiền gạo
của cô, cầm lấy...
- Em xin biếu các bác, gọi là...
- Sao lại thế? Không được!
Tĩnh tiến lên, giành bế thằng Hận từ tay chị Nga, hất hàm cho
chị Nga:
- Chị cầm lấy, gạo ăn đong chứ có phải phát chẩn đâu. Đưa thằng
Hận cho tôi, chị đi thu xếp đồ đạc đi, kẻo tối!
Chị Nga ngoan ngoãn nghe theo lời Tĩnh:
- Con ra bác bế nhé. Em có cái gì gọi là đồ đạc đâu!
Nói thế nhưng chị Nga vẫn chui vào trong lều, quơ mấy cái quần
áo của chị và của con, nhét vào cái túi xách mà chị vẫn đi dạy học ngày trước.
Rồi chị trút hết nắm gạo trong cái trường mẻ ra cái ruột tượng được khâu bằng ống
tay áo cánh. Tất cả chỉ là một tay xách. Chị lần vào túi áo, nhớ nhẩm hơn chục
đồng bạc, toàn giấy lẻ cộm lên trong lưng quần, bước ra.
- Anh đưa cháu cho tôi xin. Xong rồi các bác ạ, cho mẹ con em
xuống mảng được chưa?
- Cô ra đây tôi dẫn xuống, bác Thuần nắm tay chị Nga kéo đi.
Anh Tĩnh bế thằng Hận, nhảy một bước dài xuống mảng. Thằng bé sợ, nó khóc thét
lên một tiếng rồi lại im ngay, nhoẻn cười.
- Cháu được mấy tháng rồi chị? Tĩnh trao thằng Hận cho mẹ nó.
- Dạ, cháu được hơn mười tháng rồi ạ. Rồi chị ôm chặt thằng
bé vào lòng, giọng đẫm nước mắt. Thôi nhé, mẹ con mình đi, chào ông, chào bà,
chào cả làng, mẹ con chúng tôi ra đi, chẳng biết có hẹn được ngày trở lại
không?
Cái mảng vừa nứa, vừa gỗ dài ngoằn ngoèo như con thuồng luồng
khổng lồ vặn mình cót két rồi từ từ dạt ra khỏi bờ. Chị Nga ôm chặt thằng Hận
như sợ có ai giằng mất, nhìn đăm đăm về phía căn lều. Chợt chị nhớ ra thằng Hợi.
Sao nó về xóm lâu thế nhỉ? Liệu lúc trở ra không thấy chị nó nghĩ sao? Tội nghiệp
nó quá, nhưng thôi, hẹn thế nào cũng có ngày cô cháu gặp lại nhau...
Đúng lúc ấy, thằng Hợi ôm một cái bọc trước ngực chạy về. Nó
cất tiếng gọi “Cô ơi!”, rồi chui vào trong lều, lại chui ra. Lúc đầu là tiếng gọi
thản nhiên, quen thuộc, nhưng rồi tiếng gọi của nó bông trở nên hốt hoảng, lo
âu như tiếng con nghé con lạc mẹ “Cô ơi, cô!”. Nó dáo dác tìm sau các bụi tre,
dọc sông. Không thấy chị, nó gào to:
- Cô ơi! Cô Nga ơi! Cô giáo ơi!
Mọi người trên mảng đều nghe rõ tiếng thằng Hợi gọi đến khan
giọng. Chị Nga cũng nghe thấy tiếng gào nức nở của nó, xen vào tiếng ầm ào, ì oạp
của sóng nước đánh vào thân mảng, trong chị quặn lên nỗi lo lắng. Nó sẽ không
còn chị để yêu quý, để săng sái làm những việc lặt văt mà nó càng thích thú bao
nhiêu, chị càng lo bấy nhiêu. Chị toan đứng dậy, trả lời nó, nhưng chân tay chi
bải hoải, rã rời. Miệng cắn chặt, hai hàm răng tê điếng cố nén một tiếng kêu,
chị Nga vẫn lặng yên, một tay ôm con, tay kia ghì chặt lấy sợi dây mây bó mảng.
Hãy cứ để cho nó nghĩ là mẹ con chị đã mất tích, đã chết, đã... bay lên cõi hạc
trắng như trong câu chuyện Dệt gấm huyền thoại mà chị đã kể cho thằng Hợi…
- Cô giáo Nga ơi! Cô ở đâ...âu...u...u? Tiếng gọi thất thanh
của thằng bé len lỏi vào khắp bụi tre gai, đám bưởi bung, loang ra mặt sông, đầy
thất vọng thảm thiết.
Tĩnh bước loạng choạng trên mặt mảng:
- Cháu chị nó gọi đấy, chị Nga ạ...
Chị Nga cúi mặt, lắc đầu:
- Đừng, đừng cho nó biết, anh thương tôi... thương thằng bé,
nó côi cút. Cứ để tôi đi, nó biết tôi đi thế nào nó cũng đòi đi theo. Khổ thân
nó...
Dưới mắt chị, nước sôi ùng ục, ngầu đục cuộn thành những đụn
nước bồng lên, như từ sâu thẳm từ trong ruột non, ruột già, lục phủ ngũ tạng của
trái đất, phọt lên, ghê tởm, rồi ngay đó hình thành những cái xoáy sâu hoắm,
hun hút có cái miệng đỏ lòm, tái nhợt, chỉ trực hút đi bất kỳ cái gì rơi vào miệng
nó. Đó là tương lai trước mặt chị đấy ư? Chị nghĩ thế!
Chiều đang dần phai, một vầng tà dương đỏ bầm, loang lổ vết rạch
ngang, rạch chéo của mây đen tơi tả, lùi lại sau lưng đoàn xuôi mảng. Cái bè
dài gỗ ken trộn với nứa vặn mình ken két sau những khúc quanh như con trăn khổng
lồ trườn đi khó nhọc, nặng nề. May mà khúc sông này quanh co, chảy chậm nên chị
Nga không cảm thấy chóng mặt, mặc dù chị chỉ chực ngã dúi về phía trước. Thằng
Hận ngọ ngoạy trên tay mẹ, thỉnh thoảng nó lại nhoai về phía trước, đạp đôi
chân nhỏ nhou của nó xuống mặt nứa, rậm rịch. Anh chàng Tĩnh chống cây sào bằng
vầu thoăn thoắt, thỉnh thoảng anh ta lại chuyển cây sào sang bên kia con mảng.
Nhìn cây sào bay qua trên đầu, lõm tõm nước, chị Nga co rúm người lại, cố dùng
thân thể mình che chở cho thằng con. Thỉnh thoảng Tĩnh lại lơi tay, thả cây sào
trôi theo mép mảng, nhoẻn cười, “làm xấu” với thằng Hận. Dường như nó cũng
thích đùa, chỏi mạnh chân xuống sàn mảng, rồi cười khanh khách, chẳng bao giờ
biết đến những hiểm hoạ đang rình rập trước mặt…
Nhìn Tĩnh trong tư thế chèo chống với chiếc áo quân phục bạc
phếch, vài vết vá vụng về trên vai, tự nhiên chị Nga thấy trong lòng dậy một
chút cảm tình với con người xa lạ và có con mắt buồn này. Và chị cũng thấy yên
tâm hơn khi hai mẹ con chênh vênh trôi dạt trên dòng sông bất trắc này. Chị muốn
nói một câu gì đó, một câu vừa để bày tỏ lòng mình và cũng là để an ủi Tĩnh.
Tĩnh vẫn vô tư, thỉnh thoảng còn búng những hạt nước trên
tay, lính ti như những giọt mưa phùn về phía thằng Hận. Nó cười phô vài cái
răng sữa ra, hai mắt nhứam tít, còn hai bàn chân thì thi nhau đạp trên đùi chị
Nga.
Hai bên bờ sông đã thấp thoáng bóng nhà dân. Tiêng gọi nhau ý
ới, văng vẳng làm chị Nga thấy xốn xang. Giờ này là giờ cha mẹ gọi con về rửa
ráy ăn cơm chiều. Giờ của đoàn viên, ấm cúng trong mỗi can nhà. Ở một bến sông,
hai ba cô gái đang rửa quang gánh, quần xắn ngang đầu gối, họ nói với nhau những
câu gì đó, bỗng một cô chỉ cho bạn mình. Họ chỉ hai mẹ con chị Nga. Chắc họ ngạc
nhiên lắm. Cũng phải thôi, xưa nay cánh sơn tràng chỉ toàn đàn ông, con trai.
Côngviệc cực nhọc và đầy nguy hiểm ấy không bao giờ dành cho đàn bà. Mà nếu có
thì cũng chẳng ai đem theo trẻ con. Thế mà trên mảng bè kia lại có một người
đàn bà ôm con nhỏ. Một cô cất tiếng gọi vọng ra:
- Các bác ơi! Bè xuôi về đâu cho chúng em đi với…
Ông trưởng tràng lại ngỡ là các cô trêu cành thanh niên, đại
laọi như Tĩnh. Ông Thuần đáp lời họ:
- Về xa lắm! Cực khổ lắm, các cô có đi được không?
- Đi được! Các bác còn đưa cả vợ con đi theo thì chúng em
cũng đi theo được chứ!
Ông Thuần nhớ ra là trên bè của mình có mẹ con người đàn bà
đi nhờ. Ông hơi nhíu vầng trán lại:
- À, đấy là người ta đi nhờ về Bầu thôi. Không phải người của
chúng tôi đâu…
“Không phải người của chúng tôi đâu!”. Chị Nga nghe sao mà
xót xa quá. Chị không phải người của ai, của bất kỳ một gia đình hay làng xóm
nào nữa. Bây giờ mẹ con chị lênh đênh, không gia đình, không quê quán… Đôi mắt
buồn và lo lắng của chị ngước lên bắt gặp cái nhìn an ủi của Tĩnh:
- Con gái vùng này ghê lắm! Ấy thế nhưng họ tốt bụng lắm. Dạo
năm ngoái bè chúng tôi bị vỡ, dạt vào soi của họ. Thế mà họ cho ăn, cho ở chu
đáo lắm.
Mỗi giòng sông đều mang một tính cách của nó, và chính nó
cũng sinh ra và rèn giũa tính cách của những con người gắn bó với giòng sông.
Chị Nga một đứa con của giòng sông, của Soi Vạt và của cánh đồng Lưu Lạc, đã
mang đậm trong giàng máu mình tính cách của giòng sông. Như lúc này đây, giòng
sông thật dịu dàng, giòng sông con gái…
Tranh thủ lúc dòng sông êm ả chảy, Tĩnh buông lơi cây sào,
gác lên mép mảng, anh ngồi xuống nắm lấy bàn tay nhỏ nhoi và nhợt nhạt của thằng
Hận:
- Tội nghiệp cháu bé. Trời chiều rồi, nó lạnh đấy. Chị lấy
cái áo của tôi mà quấn thêm cho cháu…
Chị Nga nhìn Tĩnh, cảm động:
- Cháu có áo rồi, anh mặc vào đi. Người anh cũng thâm tái cả
rồi kia kìa…
Tĩnh cười, hàm răng ánh lên tia chói sáng:
- Ăn thua gì với chúng tôi kia chứ. Chuyến này tương đối êm ả.
Về đến đây rồi, chỉ còn cái vực Ba Quanh nữa là coi như xuôi chéo, mát mái…
- Vực Ba Quanh là vực gì mà ghê thế? Chị Nga lo lắng hỏi.
- Là cái vực xoáy dữ lắm. Bè mảng xuôi về đến đây, khó có anh
nào đi lọt một lần, nhất là những bè dài như thế này. Nó phải lượn đủ ba vòng
quanh vực, tức ba lần loanh quanh mới ra được. Người không có kinh nghiệm nếu
không xô vào bờ đá thì cũng mất cả ngày không ra khỏi vực…
Chị Nga bối rối, vẻ hốt hoảng hiện rõ trong mắt chị:
- Liệu mẹ con tôi ngồi trên này có ảnh hưởng gì đến các anh
không?
Tĩnh dịu dàng:
- Ăn thua gì! Bác Thuần của chúng tôi đầy kinh nghiệm. Với lại
nghe kể cho nó rùng rợn để kể công lao san tràng thôi. Lát nữa đi qua, chị sẽ
thấy chỉ như đồ hàng trẻ con thôi. Lại thú vị ngắm cảnh sơnn thuỷ hữu tình nữa…
Chị Nga lẩm nhẩm:
- Lạy Trời lạy Phật, cho chúng con ra khỏi chốn nguy nan này…
- Khoảng sáu bảy giờ tối nay bè chúng tôi đến bến dỡ. Lúc ấy,
chị và cháu đi đâu nữa…? Tĩnh ngập ngừng hỏi.
- Ở bến có nhà dân ở không hả anh?
- Bầu mà chị không biết à? Thiếu gì! Nơi buôn bán, trên bến
dưới thuyền bát ngát. Là tôi hỏi sau đó thì hai mẹ con tính đi về đâu?
Về đâu? Chị Nga nghe câu hỏi mà ớn lạnh xương sống. Gió lạnh
thổi ràn rạt trên mặt sông, luồn lách vào tận sâu thẳm trong cõi lòng phiêu dạt.
Bất chợt chị nghĩ đến cái cảnh hai mẹ con bồng bế nhâu đi gõ cửa từng nhà, xin
miếng cơm ăn… Chị lắc đầu, cố gạt đi cái hình ảnh ảm đạm.
- Đến đó rồi, mẹ con tôi chia tay các anh, để lại lên tàu ngược…
- Đi Phú Thọ hay Yên Bái? Nghe nói trên ấy cũng dễ sống…
- Vâng! Tôi có quen một anh bộ đội ngày xưa đóng quân ở gần
nhà. Quê anh ấy ở Phú Thọ. Không biết bây giờ anh ấy còn sống không? Đi B từ
năm sáu tám. Cứ nghe anh ấy kể thì làng quê bên ấy thanh bình lắm, mọi người sống
với nhau đầy tình nghĩa, không hề đố kỵ…
Tĩnh chộp được một con châu chấu bay sà từ ờ tre đến đậu trên
cái nón rách của chị Nga, anh bẻ đi hai cái càng, rồi đặt vào tay thằng Hận. Nó
thích chí, nhoẻn cười, hai chân đạp chỏi lòi ra khỏi vạt áo mẹ nó đang ủ cho
nó.
- Dạo tôi ở bộ đội, mấy anh bạn quê Vĩnh Phú cũng nói chuyện
thế. Quê tôi có nhiều người ngược lên Phú Thọ, Đoan Hùng, Yên Bái đảo sắn. Mùa
này cũng là mùa sắn trên ấy…
- Anh Tĩnh biết nhiều nhỉ? Chị với các cháu ở nhà chắc trông anh
về lắm nhỉ?
Tĩnh đứng dậy vươn vai:
- Chị nào? Cháu nào đâu chị ơi! Tôi cũng muốn có đứa con như
cái thằng chó cún này, nhưng mà nghèo lắm, chẳng ai lấy…
Chị Nga bật cười, khiến Tĩnh tò mò:
- Chị cười tôi à? Tôi nói thật đấy…
- Tôi cười cái câu chuyện cổ ngày còn bé tôi được đọc.
- À phải đấy! Chị là cô giáo chứ gì? Nãy nghe thằng bé nói gọi
tên chị là “cô giáo Nga”. Chuyện thế nào, chị kể một đoạn cho tôi nghe với….
- Chuyện buồn cười, và buồn nữa. Ngày xưa có một chàng thanh
niên nghèo lắm, nghèo đến nỗi tóc đã bạc mà vẫn không lấy được vợ… Đấy, tôi nhớ
mở đầu câu chuyện như thế. Chuyện của bên nước Ý…
- Buồn cười thật! Nhưng sau đó chắc phải có một nàng tiên
thương anh ta chứ? Tĩnh cười híp mắt hỏi lại.
- Không! Không phải thế! Anh chàng kia nghèo đến nỗi không lấy
được vợ, thế rồi anh trở thành một ông già tóc bạc phơ…
- Vẫn không có vợ? Tĩnh tò mò.
- Vẫn không có vợ. Một hôm ông vào rừng hái củi. Trên đường về,
ông đi qua một khu rừng vắng, bỗng ông nhe thấy tiếng một đứa trẻ gọi:
- Bố ơi! Cứu con với…
Ông già ngạc nhiên nghĩ: quanh đây chẳng có người ở, sao lại
có tiếng trẻ gọi. Ông già nghĩ ngợi mộ lát rồi đi tiếp. Nhưng ông vừa cất bước
thì tiếng đứa trẻ lại gọi. Lần này nghe da diết hơn:
- Bố ơi, đừng bỏ con. Con ở đây này…
Không thể bỏ đi được, ông gìa quăng bó củi xuống đường rồi đi
về phía có tiếng gọi. Nhưng ông không thấy gì, dù ông đã cố tìm tất cả các bụi
cây quanh đó. Ông vừa quay đi thì lại có tiếng gọi: “Bố ơi! Con đây này”.
Lần này thì tiêng gọi phát ra từ một khúc gỗ. Ông lão ngạc
nhiên cần khúc gỗ lên, nó cất tiếng nói:
- Con của bố đây! Bố đem con về nhà đi. Rồi con sẽ giúp bố được
nhiều việc…
Ông lão nghèo và tốt bụng nhăt khúc gỗ đem về nhà. Thế rồi
ông lấy dao, đẽo gọt noa thành hình một thằng bé con trai. Ông già đặt tên cho
nó là Pinôkiô…
Tĩnh sa sầm nét mặt, căn môi im lặng. Chị Nga thấy thế thì thấy
sợ:
- Chuyện cổ tích ấy mà. Anh buồn làm gì!
- Không, tôi chỉ thấy buồn cười thôi. Mà đúng thật đấy chị ạ.
Đối với người nghèo chúng ta thì, con chó, con lợn, hay khúc gỗ cũng thành người
thân thuộc, có linh hồn… Phải không chị?
- Tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi biết nghèo thì buồn lắm.
- Chị có thằng chó con này rồi, việc gì phải buồn. Chuyến
sau, tôi cũng phải tìm một khúc gỗ để đẽo thành thằng con mới được… Tĩnh cười
thoải mái, dường như anh chẳng biết buồn.
Chị Nga cũng cười:
- Anh không cần phải đẽo gỗ làm gì.
- Sao thế? Tôi cũng nghèo đến nỗi, tóc đã bạc mà vẫn chưa có
vợ…
Chị Nga dứ dứ thằng Hận về phái Tĩnh:
- Tôi cho anh thằng Pinôkiô này này…
Tĩnh sững người, nhìn người đàn bà xa lạ, nghèo khó mà anh mới
quen trước đây vài giờ, mà bỗng cảm thấy thân thuộc từ tận cõi nào, sâu thẳm.
Chị Nga thấy xấu hổ, vì câu nói bỗ bã, có vẻ sống sượng của mình, toan ngoảnh mặt
đi tránh cái nhìn của người đàn ông san tràng vạm vỡ, từng trải nhưng cũng chất
chứa đầy nỗi niềm, nhưng không kịp, khiến đôi má chị thoáng có chút hồng lên.
Tĩnh ngồi thụp xuống, ngó sâu vào mắt thằng Hận:
- Thật không? Chị không được đánh lừa tôi đấy nhá…
- Tĩnh! Tĩnh ơi…!
Tĩnh giật mình bởi tiếng ông Thuần quát to. Anh đứng lên nhìn
ông trưởng tràng với cái nhìn lạ lẫm, như lạc đi. Ông Thuần nheo nheo cười:
- Chuẩn bị vào quanh! Cầm cái sào bột lên đây!
- Vâng, có ngay! Tĩnh cầm cây sào nặng chịch chạy loạng choạng
trên mặt mảng.
- Cố lên! Sau cái khúc quanh này, đến bến giao bè xong tao
cho chú mày nghỉ phép. Đồng ý không?
Tĩnh mím môi, cố nén một tiếng “vâng” khoái chí. Anh đứng
“bãi chân chèo”, cầm nghiêng cây sào bột như người chiến binh cầm dáo đứng tấn
chờ quân địch.
Cây sào bột là cây sào cổ truyền. Những người thợ san tràng mỗi
lần vào rừng chỉ cần đem theo lưỡi rìu, lưỡi búa và dao làm công cụ. Tất cả vào
rừng sẽ chặt gỗ để làm cán, làm chuôi. Nhưng cây sào bột này thì không thể kiếm
từ rừng được, mà là vật bất ly thân. Khi về nhà đem theo, lên rừng lại vác đi,
dù nó dài tới sáu thước, có phần bất tiện. Nhìn đoàn người đùm túm đi lên mạn
ngược, không ai biết họ đi đâu. Nhưng thấy trong đoàn có người vác cây sào dài,
thì đích thị đó là đoàn san tràng xuôi bè. Đó chính là cây sào bột, là vũ khí,
và đồng thời cũng là biểu tượng cho sự can trường và từng trải của đoàn san
tràng.
Cây sào bột được chọn làm từ một cây hóp. Hóp là một loại tre
thẳng không có gai và chỉ lớn bằng cổ tay, rất dài. Hóp được dùng làm sao bột
phải là loại hóp đực, nghĩa là loại cây hóp không có khả năng “đẻ” ra măng. Vì
thế nó cằn và đặc ruột. Cây hóp dùng làm sào bột khi đã gần già, nghĩa là còn
có khả năng uốn qua lửa cho thật thẳng. Khi đó nó có cái chất thép để cứng và
cũng có khả năng dẻo để không bị giòn và gãy khi bị chống mạnh. Đặc biệt ở phần
mũi sào, tức là phần gốc cây hóp được bịt bằng một cái khâu bằng sắt như khâu
dao và gắn một mũi đinh thép vào đầu, không cần nhọn, mà tù tù giống y hệt như
đầu ngón tay cái. Nó có thể chống lại với đá, sỏi và rút ra dễ dàng khi đâm vào
đất. Không hiểu do đâu mà những người san tràng lại đặt cho nó cái tên rất hiền
thục là sào “bột”? Thực ra nó không hiền lành tí nào. Trong những năm loạn ly,
vô chính phủ, giặc cướp nổi lên, cây sào bột đã từng chiến đấu và đâm lòi ruột
những tên cướp cạn. Trong đoàn san tràng, ai được giao cầm cây sào bột, phải là
người can trường và có sức lực. Họ chính là người “đứng mũi, chị sào”. Với cây
sào này, người chiến binh có thể chèo chống con mảng bất kham qua bao ghềng
thác hiểm nghèo.
Con mảng đang trôi êm ả bỗng vặn mình răng rắc. Đã vào cổ
thác. Tĩnh không quay lại, đôi mắt vẫn chăm chú nhìn mũi mảng, lên giọng nói với
chị Nga đang ngồi run rẩy ôm thằng Hận đằng sau:
- Hai mẹ con cẩn thận. Giữ chắc đấy!
Bè đã vào cổ thác, dòng nước bỗng choãi ra, trơn tuột, xanh
biếc và mềm mại như lưỡi một con rắn khổng lồ. Nước réo ầm ầm dưới chân anh.
Tĩnh bỗng như người lên đồng, ngực nổi phồng, cầm trong tay thứ vũ khí gia truyền,
mắt anh sáng quắc hướng về phía cuối con thác.
Con mảng xuống thác nhẹ nhàng như trườn vào cái hang trơn nhớt.
Nó vặn mình hơi nghiêng sang bên phải, gió tạt ù ù bên tai Tĩnh, khiến anh hơi
loạng choạng. Đây không phải lần đầu Tĩnh nhận vai đứng mũi chịu sào, nhưng mỗi
lần qua đây, anh cảm thấy giống như những ngàu đầu vào trận của những năm đánh
giặc. Vách đá dựng đứng xám xịt choán dần tầm mắt anh. Ánh chiều loang loáng,
những con dơi đi ăn sơm bay chấp chới, như muốn phân tán sự chú ý của anh.
Nhưng kia rồi, Tĩnh nhận ra cái hốc đá vững chãi đã chịu hàng trăm, hàng ngàn
mũi sào bột của dân san tràng. Tĩnh bĩnh tĩnh như người nhắm mũi giáo đâm vào
ngực kẻ thù. Một tiếng chát chúa vang lên nháng lửa. Cây sào bột trong tay Tĩnh
con lại như bị uốn vồng lên, như muốn hất anh xuống sông. Nhưng Tĩnh đã né
nghiêng về phía trong, nhằm tạo phản lực để xô nghiêng con mảng quay đầu trở
ra. Răng rắng… tiếng dồn mảng nghe ghê người, vài mũi mảng cô lao vào vách đá
đã phải chùn bưỡi trướn cây sào bột bà cánh tay anh cựu chiến binh. Nó nhíc ta
một khoàng, chỉ non nử sải tay, và chi các méo đá xanh không đầy một gang tay.
Chính xác là một gang tay, đúng kỹ thuật. Bởi vì nếu không đánh kịp đầu mảng sẽ
vỡ tung. Còn nếu sớm hơn, mạnh hơn, con mảng sẽ xô ra xa ngoài khoảng cách một
gang tay nó sẽ bật ra xa, giống như con tàu sai quỹ đạo noá sẽ quanh mãi… bất tậtn.
Có khi hàng buổi, cả con mảng cứ luẩn quẩn.
- Tốt rồi! Ông Thuần nói to, tiếng ông vang rền nhờ cộng hưởing
vách đá bờ vực. Để cho chúng nó quạt, cậu xem mẹ con nhà chị kia có sao không?
Tĩnh thở phào, vuốt nước sông đã tung lên mặt anh, chạy lại.
Chị Nga vẫn nhắm mắt, ông ghì thằng Hận vào ngực. Tĩnh phải lay mãi, chị mới chịu
mở mắt ra, ngơ ngác:
- Qua chưa hả anh?
- Qua rồi1 Nhưng mới được một quanh, còn phải hai quanh nữa.
- Ối Giời…! Vẫn còn nữa à? Em tưởng mẹ con em chết ở đây rồi
chứ…
Tĩnh đinh bế thằng Hận, nhưnganh nghĩ sao lại thôi, chỉ nắm
bàn tay trắng bệch của nó:
- Tí nữa tến bến, chú đốt rơm cho cháu sưởi nhé. Cố chịu thêm
tí nữa. Chị còn cái áo khô nào không, quần thêm vào bụng cho nó…
Chị Nga thều thào:
- Còn, nhưng trong bọc kia, anh lấy hộ…
Tĩnh tháo sợi dây buộc chặt miệng cái bị bên nách chị Nga.
Anh lục mãi, thấy tấm áo xanh màu trứng sáo đã ngả màu, định cầm lên, lại nhét
vào.
- Anh lấy cái đấy cũng được. Ao của tôi may lâu rồi…
Được ủ ấm, Thằng Hận tươi lên một chút, nói lại cười. Lúc này
trông nó xúng xính như một con búp bê bằng nhựa, nhưng là con búp bê đã bị tụi
trẻ nhà giàu chơi chán, vứt bỏ, trọc tóc, bợt màu…
Chiếc mảng thong thả quanh một vòng rồi lại vặn mình cót két,
trở lại vị trí cũ. Tĩnh đứng dậy, nắm cây sào bột, đi lại phía đầu mảng. Gặp
cái nhìn đầy lo âu của chị Nga, Tĩnh cười:
- Không sao đâu! Lần này dễ hơn nhiều. Tôi chỉ đánh nhẹ cái
là nó ra thôi.
Nhưng Tĩnh đã lầm, hay anh chủ quan! Không ngờ người đứng mũi
mảng, chịu sào bột chỉ vừa đánh mũi sào vào hốc đá, nó vừa nháng lửa một cái,
chiếc sao bật cong lên và… rời khỏi tay Tĩnh! Qua nguy hiểm, một góc đầu mảng
đâm sầm vào bờ đá, xô nghiêng một bên. May sao, nó không xô chồng đống lên, hay
vờ vụn, mà ngoan ngoãn như đầu con rắn trườn theo bờ đá, vời khoảng cách chỉ
tính bằng đốt ngón tay. Chiếc sào bột văng trở lại, đúng vào tầm tay ông Thuần.
Ông già đầy bản lĩnh và kinh nghiệm bắt lấy nó, đành tiếp một mũi vào bờ đấ, hỗ
trợ cho con mảng nhẹ nhàng lướt đi. Những người thợ san tràng cuống quýt lấy
sào chống vào vách đá để cạnh con mảng không quệt vào đá, chúng sẽ cứa đứt dây
khắn.
Trong khi đó, khi mũi mảng đâm sầm vào bờ đá xanh, thì Tĩnh bị
đà quán tính đã hất anh lên vách đá, giống như người ném một con nhái vào bờ
vách. Trong tích tắc giữa sống và chết, anh chàng cựu chiến binh đã kịp chống
hai tay vào vách đá ghì lại được, không để ngực và đầu đập vào cái mảng xù xì,
lởm khởm ấy. Hai tay anh đã bám vào được một mẩu đá nhô ra. Khi chị Nga ngước
nhìn lên thì đã thấy Tĩnh như một cái xác bị căng ra, đóng đinh vào vách đá.
Nhưng kỳ lạ thay, Tĩnh vẫn sống và ngoảnh lại miệng cười rộng toác, phô hàm
răng trắng nhởn.
- Bám chắc vào! Ông Thuần quát to. Đừng buông tay. Có chịu một
tí. Tay chận có làm sao không?
- Không! Cháu nhảy xuống nhá!
- Khoan đã! Đừng nhảy xuống mảng. Nứa cắt đứt chân đấy. Để bè
đi qua rồi nhảy xuống, bơi theo. Rồi ông quát một tay khác:
- Thằng Phấn, cầm cây sào chạy ra đuôi mảng, lúc nào tao bảo
nhảy xuống, thì thằng Tĩnh nó nhảy, mày đưa cái sào này cho nó nắm…
- Vâng! Phấn chạy lảo đảo lại phía đuôin mảng. Khi mảng đã
trôi khỏi chỗ Tĩnh bám độ dăm sải tay, ông Thuân hô:
- Nhảy! Nhảy đi Tĩnh! Co chân tay lấy đà, nhảy ra xa chứ
không rơi vào đá, chết đấy…
Tĩnh cong người búng mình như con tôm rơi tõm xuống nước,
chìm nghỉ. Chị Nga hét lên một tiếng, bịt mắt, cúi xuống.
Lát sau Tĩnh trồi lên, lắc đầu hấy nước rồi nhoai tới. Vài sải
tay, anh nắm được cây sào của Phấn. Lát sau, anh leo lên mảng, thở phì phì, chữa
ngượng:
- Mẹ nó! Mình ngắm kyc thế mà vẫn trệch mục tiêu. Bác Thuận ạ,
cháu đâm trượt vào cái mấu đá, thế là…
Ông Thuần cầm ra một cái chai nhỏ, nút là chuối, đưa cho
Tĩnh:
- Chết rét! Uống một ngụm vào!
- Rượu à? Thôi cháu không uống đâu. Tĩnh khẽ lắc đầu.
- Rượu đâu mà rượu, nước mắm đấy. Uống vào cho nó ấm lên…
Tĩnh tu một ngụm nhỏ, le lưỡi:
- Khiếp, mặn quá! Nhưng mà có ấm lên thật! Thế mà bác Thuần
chả cho anh em chấm rau tàu bay…
Ông Thuần lấy lại chai nước mắm, bỏ vào túi áo:
- Cái này không ăn được. Để đề phòng chống rét. Cậu bị lần
này là mấy rồi, Tĩnh?
- Mới có hai. Kinh thật đấy…
Ông Thuần cười:
- Kinh đếch gì mà kinh! Tao còn bị nó gẩy lên tới sáu bảy lần
rồi ấy, chả nhớ! Nhưng mà phải rút kinh nghiệm. Không khéo toi mạng! Thôi nào,
đến quanh ba rồi đấy.
- Có ra được không ông Thuần? Cậu Phấn sợ sệt hỏi, nó mới đi
lần đầu.
- Ra… a! Sao lại không ra được? Nhìn mảng thì biết. Thằng
Tĩnh đánh cú ấy cũng khá. Có điều dở quá để nó đóng đinh lên vách là xoàng đấy
Tĩnh ạ…
Tất cả cùng cười, Tĩnh cũng cười, nhìn về phía chị Nga, dường
như anh muốn chữa ngượng.
Chị Nga thật ngạc nhiên sau sự nguy hiểm chết người ấy mà những
người thợ sơn tràng nghèo khó, rách rưới ấy lại vẫn có thể cười nói vô tư như
thế được. Chị cũng đã từng được nghe kể lại, qua những câu hát nói về nghề này.
“Nhất phá Sơn Lâm nhì đâm Hà Bá! Ở đây những con người này đã cùng lúc phải đối
chọi chống chỏi, giành giật miếng cơm manh áo với cả hai vị hung thần là Sơn
Lâm và Hà Bá… Nói dại, nếu chẳng may, Tĩnh có làm sao? Không, anh chẳng làm sao
cả, không có gì hại được anh. Tĩnh cũng như những người thợ đầy nghĩa hiệp và
can trường. Nhưng sao đối với chị Nga, hình như trên con mảng lênh đênh đưa đẩy
số phận hai mẹ con chị đã gắn liền chị với con người này, một cách mơ hồ.
Quanh thứ ba đã nhẹ đi rất nhiều, ông Thuần chỉ cần dùng một
chiếc sào thường đánh và vách đá một cú không mạnh lắm, rồi ông ghì con sào cặp
nách, mũi mảng đã ngoan ngoãn trở ra. Nhưng ông vần quát to:
- Quạt ra! Quạt ra, mạnh vào không nó trở vào luồng bây giờ…
Con vực sâu hun hút, sào không chống tới mà những người thợ
phải dùng đến những mái chèo đan vội bằng những thanh nan nứa để chèo mũi mảng.
Chỉ một chốc, con mảng loằng ngoằng đã ra giũa dòng sông. Nó êm ả xuôi về bến Bầu.
Trời bắt đầu tối. Dòng sông như rộng ra, vời vợi. Sông thượng
du không có tiếng hò, mà chỉ cuồn cuộn thác ghềnh. Những người dân chài hiếm
hoi, cũng đã neo đậu thuyền vào bến, lên bờ. Đèn dầu bắt dầu nhập nhoạng như những
con đom đóm lượn lờ trong những luỹ tre. Tĩnh đến ngồi xổm trước mặt chị Nga:
- Xong! Từ đây là hết lận đận. Lên bờ phải hút một điếu thuốc
lào. Từ chiều thèm quá mà thuốc lửa ướt hết cả. Thằng chó con, à thằng Pinôkiô
của tôi nó ngủ rồi à?
- Vâng! Có lẽ cháu nó ngủ được một lúc rồi. Mà anh cũng nhớ
tài nhỉ, đã nhớ tên nó là Pinôkiô rồi cơ đấy…
- Hồi nhỏ tôi cũng có đọc cuốn truyện đó rồi. Tại chị gợi ra
cho tôi nhớ đấy thôi. Thằng bé thông minh lắm…
- Lúc nãy nhìn anh nhảy lên vách đá, bị bám dính vào đấy, nói
dại, tôi tưởng…
- Tưởng chết rồi chứ gì! Cũng sợ thật đấy. Nhưng mà may có
phúc đức ông bà. Làm cái nghề này kiếm được bơ gạo, nhưng nguy hiểm lắm… Chắc
sau chuyến này, tôi cũng bỏ thôi.
Chị Nga im lặng, thẫn thờ nhìn ra mặt sông rồi lại nhìn vào mặt
thằng Hận. Bỗng noa giật mình, choàng tỉnh. Thấy mẹ, nó ưỡn người lên, rôic bắt
đầu khóc. Nó đói.
- Có lẽ cháu đói rồi chị Nga ạ… Quên lúc chiều không để phần
nó miếng cháy.
- Không. Cháu chưa đói đâu. Chị Nga nói để Tĩnh yên tâm. Thấy
người lạ, lại ngái ngủ nó khóc đấy. Rồi chị nói với con. Nào, để mẹ cho con tè
nào… Muốn tè đây…
Chị Nga dỡ đám áo quần quấn quanh người nó ra. Tĩnh đứng dậy
đi loạng choạng đến bên ông Thuần:
- Chắc khoảng bày giờ tới bến bác Thuần nhỉ.
- Ừ, tao cũng đang thèm thuốc đây.
Bỗng hai người giật mình, nghe tiếng chị Nga thét lên:
- Oi giời ơi! Con ơi!
Tĩnh quay lại thì thấy chị Nga đang nằm xoài trên mặt mảng, nử
người dưới nước, một bàn tay nắm lấy cây nứa, còn tay kia quơ quơ trong nước.
- Cái gì thế? Tĩnh hét toáng lên, giận dữ.
- Con tôi… nó rơi xuống sông rồi… ồi! Anh ơi vớt con tôi với…
Tĩnh không nói, anh nhào xuống sông lặn một hơi. Những cái
bong bóng nhuôm màu hoàng hôn vỡ ra như những cục máu trồi lên từ đáy sông. Con
bè vẫn trôi đi im lặng. Mttọt lúc sau Tĩnh nhô lên, dâng cái bọc vải có thằng Hận
trong đó lên cuối mảng. Chị Nga nhào tới, nhưng bị ông Thuần chặn lại:
- Cô ngồi xuống đây. Không được động vào thằng bé.
Rồi ông Thuần chạy tới tóm thằng Hận từ tay Tĩnh. Ông lột bỏ
quần áo thằng bé dốc ngược nó lên bằng hai chân. Không thấy nước ra, ốc xxốc mạnh
và quay quay nó trên tay mình. Lúc sau, nước từ trong bụng thằng Hận ộc ra.
Tĩnh vẫn chưa leo lên được mặt mảng, anh bám theo nó, nước trong bụng thằng Hận
ốc ra lên cả mặt anh. Phấn và hai người nữa chạy tới phụ giúp ông Thuần. Họ cởi
áo ra trải xuống mặt mảng cho thằng Hận nằm xuống…
Tĩnh đã đu người lên mặt mảng, chị Nga định chạy lại chỗ con
trai, bị anh giữ lại:
- Chị không được nhìn mặt nó. Thấy mặt mẹ, nó ốc máu tươi ra
là chết, không cứu được đâu. Tôi thấy người nó vẫn còn nóng…
Chị Nga khóc lặng đi trong tay Tĩnh. Anh hỏi sang chỗ ông Thần:
- Nó thở được chưa, bác Thuần?
Im lặng. Chỉ thấy hai vai ông già nhô lê, hạ xuống. Ông đang
cố sức thổi hơi vào ngực thằng bé. Một lúc sau, bật lên tiếng khóc ré của thằng
Hận. Chị Nga vùng dậy, nhưng Tĩnh vẫn giữ lại:
- Không sao rồi! Chị cưa yên tâm. Có bác Thuần ở đây không có
gì ông ấy không làm được. Để ông ấy làm xong việc đã…
Ông Thuần tiếp tục thổ thơi vào miệng thằng Hận, Phấn chạy
vòng quanh. Ông quát:
- Lấy ngay hộp dầu con hổ lại đây. Tốt rồi.
Ông bế thằng Hận đang khò khè, hấp háy đến đưa vào tay chị
Nga:
- May quá cô ạ! Cứu được rồi…
- Con ơi… Các bác ơi… mẹ con em đội ơn các bác. Kiếp này
không hết thì sang liếp sau…
- Thôi được rồi! Để kiếp sau có khá hơn hãy trả ơn. Kiếp này
chúng ta khổ đến đây là cùng rồi cô ạ. Cô là cô giáo phải không?
- Vâng!
- Có chồng đi B, hy sinh phải không?
- Dạ, vâng ạ!
- Thôi cố mà sống, mà nuôi con cho chồng. Đây kia rồi, cái chỗ
sáng sáng kia là Bến Bầu rồi. Lên đến nơi tôi sẽ xin thuốc cho cháu. Bây giờ
thì ủm kín nó lại…
Bây giờ thì những con người chỉ là những cái bóng trên mảng.
Họ thoăn thoắt, họ lờ lững với công việc của họ.
Tĩnh cũng định đứng lên, nhưng anh lại cúi xuống, luồn tay
vào trong bụng thằng Hận, lần lên ngực nó, thấy được nhịp đập trái tim nhỏ
nhoi, rất mơ hồ của một con người. Anh nói với chị Nga:
- Sắp lên bờ rồi. Tôi sẽ không bỏ mẹ con chị đâu!
CHƯƠNG 11 -
T
ôi gặp lại chị Nga của mình sau đúng hai mươi bảy năm. Từ dạo
ấy, từ sau cái ngày đám cưới chị, tôi đạp xe mải miết về tỉnh đội, mải miết đi
B, đi trong nhiều đội hình, rồi nếm trải, thưởng thức hương vị vinh quang của
khúc khải hoàn do chiến tranh mang lại. Suốt một chặng đường dài ấy tôi nhận thấy
rằng có nhiều lần tôi đã quên bẵng hình ảnh chị Nga, nhất là những khi cảm thấy
mình có một chút thành đạt trong đời. Nhưng lạ lùng thay hễ cứ mỗi lần vấp ngã,
một bận gặp phải nỗi niềm oan trái tai ương ập đến tôi lại nhớ về cái làng quê
bé bỏng của tôi. Và hình ảnh chị Nga lại hiện ra, lại thì thầm bên tôi như như những
ngày thơ dại. Mỗi lần tôi muốn khóc, tôi lại nghe tiếng chị:
- Nín đi em, khóc thế đủ rồi!
Giờ đây gặp lại chị sau hơn một phần tư thế kỷ, tóc tôi đã bắt
đầu ngả bạc. Và một nửa số nhân vật, những người tôi nhắc đến trong câu chuyện
này đã không còn trên cõi đời này nữa. Anh Kỳ, ông Tuân, bà Tuân, bà Phán Lan,
thầy Hoan và cả bố tôi, đã lần lượt ra đi…
Vào một đêm tháng sáu oi nồng, bức bối có người đập cửa căn
nhà nhỏ ngoại ô của tôi và tiếng một người đàn bà dè dặt nhưng có sức vang như
tiếng gọi của quá khứ:
- Cậu ơi! Cậu Hoàng ơi!
Tôi giật mình choàng dậy hốt hoảng. Ai? Ai gọi tên tôi trong
đêm thanh vắng thế? Có lẽ là trong chiêm bao, trong tiềm thức không yên ổn của
tôi, những tiếng gọi như thế không bao giờ ngưng. Mồ hôi dấp dính trên trán,
trong lưng áo, những cái gai trong cột sống của tôi cựa quậy, nhức nhối. Chờ
nghe lại nhưng không thấy gì, tôi đặt mình xuống thì tiếng gọi ấy lại vọng vào
giường. Lần này đúng là tiếng gọi thật, nghe rõ hơi thở hồi hộp của người gọi:
- Hoàng ơi! Em ơi, chị đây!
Tôi bật đèn mở cửa, trời ngoại ô đêm đêm vẫn một màu vàng đục.
Tôi hỏi bằng một giọng lo lắng:
- Ai gọi trong đêm khuya khoắt thế?
Người đàn bà ấy hiện ra: chị Nga! Trời ơi, sao tôi lại gặp chị
ở nơi này? Tôi reo lên nho nhỏ:
- Chị… chị Nga phải không?
- Ừ! Chị đây! Em ngạc nhiên lắm phải không?
Chị quay lại phía sau nói nhỏ: “Tới đúng nhà rồi, nhà cậu
Hoàng của mình đấy, vào đi con!”
Lúc này tôi mới nhận ra người thanh niên đi cùng chị. Tôi hỏi:
- Ai thế chị? Có phải thằng Hận không?
- Phải! Chào cậu đi con, nhà cậu đây rồi!
Thằng Hận năm nay đã hai mươi hai tuổi, hơi mảnh khảnh cúi đầu
lí nhí chào tôi. Cả nhà tôi thức dậy đón mẹ con chị. Bao nhiêu là chuyện thăm hỏi,
hàn huyên. Nhưng sao không khí lại không được thân thương như ngày tôi còn nhỏ ở
quê nhà mà mỗi lần tôi ngồi bên chị nhỉ? Người ta bảo càng già càng ích kỷ, hay
là tôi đã già rồi?
- Hai mẹ con chị chắc là chưa ăn uống gì. Để em bảo nhà em đi
nấu cơm chị và cháu ăn nhé?
- Chị ăn ngoài ga rồi, sợ cháu Hận có đói không. Hận ơi, con
có đói không để cậu mợ thổi cơm?
Thằng Hận ngồi lặng thinh ở một góc ghế sa lông. Hai tay
khoanh trước ngực, ngửa mặt nhìn những tấm giấy khen của các con tôi treo trên
vách. Lúc này tôi mới nhìn kỹ nó, sao mà nó giống anh Kỳ đến thế! Cũng cái cằm
nhỏ, hai vành tai chúc hướng về đằng trước hơi nhiều. Đặc biệt cặp lông mày ngắn
và xô vào nhau sát tinh mũi, kiểu lông mày của những người ưa toan tính.
Sau khi vợ tôi thu xếp cho thằng Hận ngủ, tôi ngồi lại với chị
Nga. Khuôn mặt chị vẫn không khác nhiều so với ngày xưa, chỉ có vóc người thì sắt
lại. Tôi bồi hồi nghĩ đến bộ ngực thiếu nữ của chị ngày ấy, cái ngày mà trong
cơn thất vọng tôi đã gục vào, như một con gà con nép vào đôi cánh của mẹ mình.
Chị nhìn tôi với cái nhìn ấm áp:
- Chị vẫn nghe nói về em luôn, cuộc sống của em thành đạt chứ?
- Chị ơi! Biết nói thế nào để chị hiểu bây giờ? Vâng, em cũng
tạm ổn…
- Vậy là tốt, chị mỉm cười, còn chị nhiều gieo neo lắm. Để rồi
chị kể cho em nghe. Chắc đời chị chỉ có em là người chị có thể nói hết ra được.
Tôi cúi xuống nhìn vào cốc nước giấu nỗi xúc động của mình.
Chỉ một câu nói nữa của chị là tôi sẽ khóc mất. Lát sau, tôi ngẩng lên:
- Chị ơi, em đã nghe hết chuyện của chị rồi. Thôi, mọi chuyện
cứ coi như giấc chiêm bao…
- Chị cũng nghĩ thế, nếu không chị làm sao sống nổi suốt một
chặng đời tao loạn trái ngang, để hôm nay chị em mình còn được gặp nhau…
- Em cũng đã về đến Soi Vạt, nhưng chỉ gặp thằng Hợi chăn
trâu. Nó bảo “Cô Nga trôi sông rồi”…
Chị Nga lắc đầu:
- Khổ thân thằng bé! Bây giờ không biết nó thành cái gì rồi?
Chợt trong lòng tôi dào lên một nỗi hối hận. Sao bao nhiêu
năm tháng tôi đã không đi tìm chị? Có lúc tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy, nhưng
lại tự hỏi: để làm gì? Câu hỏi ấy hóa ra là chỉ dành cho tôi chứ không phải cho
chị, cho những người thân thiết của tôi. Nghĩ thế nên tôi nói mà thấy gượng gạo:
- Em thì lúc nào cũng nghĩ về chị, nhất là cái đêm trên gò
Chùa Phung, em đang nằm một mình cô độc trên cỏ, với những hồn ma… thì chị đến…
Chị Nga cười nhẹ:
- Em vẫn còn nhớ chuyện ấy cơ à?
- Em quên làm sao được hả chị, cái buổi tối hôm ấy đã vực em
dậy, và chính chị đã nâng em lên…
- Là em đấy chứ! À mà em có còn làm thơ nữa không?
- Có chị ạ! Nhưng những câu thơ của em cũng không giúp được
ai hạnh phúc… Những năm sau này chị ở đâu mà những lần về làng em không gặp chị?
Có đúng là chị và cháu Hận nửa đêm xuôi mảng nứa bỏ đi không?
Chị im lặng một lát rồi nói nhỏ:
- Xuôi mảng thì có, nhưng không phải ban đêm mà là buổi sáng,
ban ngày, đi nhờ các ông san tràng xuôi gỗ.
- Em cũng hỏi thăm chị, nhưng không có thì giờ đi tìm chị…
- Chị bế thằng Hận đi khắp nơi, gặp việc gì làm việc ấy kiếm
ăn qua ngày. Mãi sau chị xin được vào nắm than quả bàng cho một cửa hàng chất đốt.
Đây, em nhìn hai bàn tay chị xem, cho đến tận bây giờ…
Đó là những ngón tay bợt nước và những cái móng đen xậm, lầm
than của chị tôi.
Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến sáng. Hình như tôi có chợp mắt
được một lúc, bởi vì tôi đã được đi lại con đường tuổi thơ của mình cùng với chị
Nga men theo bờ ruộng và chia tay chị dưới gốc gạo, nơi có con đường dẫn vào
ngôi mộ đá Chúc Anh Đài…
Tôi xin được tiếp tục câu chuyện.
Lên bờ! Chị Nga của tôi xốc một bên nách cái tay nải nghèo
nàn, ôm thằng Hận trước ngực bước những bước chân chập choạng trên nền đất gồ
ghề. Đây, đây đất khách quê người là đây. Nghĩ một thoáng, chị quyết tâm đến một
cái quán nước tồi tàn, che bằng mấy tấm liếp tả tơi. Hai người đàn ông nom cũng
có vẻ tiều tụy nhích ra nhường một đầu ghế cho chị Nga. Người đàn bà gầy quắt
chủ quán nhìn chị nhưng không hỏi. Chị lên tiếng:
- Xin bà cho cháu một cốc nước nóng.
- Chỉ có nước chè, cô uống được không?
- Vâng, được bà ạ.
Thằng Hận vẫn ngọ ngoạy trong ngực chị. Thế là chị yên tâm.
Chị Nga chỉ sợ, và chị cứ tưởng ra nó im lặng. Lặng ngắt và lạnh ngắt… Nhưng nó
vẫn rọ rạy trong bụng chị, hơi ấm của nó chị vẫn cảm nhận được. Và chị cũng muốn
dùng hết sức, hết lực, hết hơi ấm cuả mình truyền cho nó. Uống hết bát nước
chè, chị Nga bỗng thấy trong bụng réo cồn cào, chuyển rần rần. Thằng Hận càng cựa
mạnh. Lúc này chị mới vạch những mớ giẻ áo quần cuộn lấy nó, để khuôn mặt xám
ngắt và đôi mắt lờ đờ của nó hé ra.
Người đàn ông ngồi cạnh ái ngại:
- Cháu ốm hả chị?
Nghe giọng hỏi thông cảm của người lạ, chị Nga ngước lên:
- Vâng! Cháu bị cảm. Rồi chị ngước nhìn bà chủ quán. Bà ơi,
bà có sữa hay nước đường cũng được, bán cho mẹ con cháu một cốc?
Bà chủ quán cười khẩy:
- Làm gì có sữa! Nước đường thì có, nhưng đường Hoa Mai thôi…
- Vâng cũng được, cho cháu xin một cốc. Bao nhiêu bà cho cháu
gửi?
Chị Nga móc cái mớ tiền lẻ bùi nhùi trong túi, nhưng bà chủ
quán không để ý, quay vào phía trong. Sau một hồi lục lọi, bà ta cầm ra một cái
gói bằng giấy bao xi măng, to bằng đầu gối. Cởi hai, ba lần lạt buộc, một bọc
giấy báo lộ ra. Thong thả và tỉ mẩn bà chủ quán lấy chiếc thìa nhỏ gò bằng một
mảnh nhôm vụng về, nông choèn trịnh trọng múc từng thìa một như thể ao thóc,
vào trong cái bát ăn cơm ve lòng, đã mẻ một miếng. Nhìn theo bàn tay bà chủ
quán, chị Nga cứ nín thở từng chặp, hồi hộp. Nhất định thằng Hận của chị phải
được uống nước đường, sẽ được cứu sống!
Cầm cái bát đường vàng trên tay, chị Nga đang phân vân không
biết lấy nước gì hoà cho con uống, thì bà chủ quán đã đưa tay ra như là giằng lại:
- Nhà chị đưa đây cho tôi. Rồi bà ngoái vào phía trong, sau
lưng, gọi to. Hến ơi, cơm sôi chưa?
Một đứa con gái nhỏ bé, mặt choắt, mũi hếch chạy ra:
- Sắp rồi! Mẹ hỏi làm gì?
- Sôi thì chắt lấy một ít nước cơm ra cái bát, đem ra đây cho
tao. Nghe chửa?
Con bé vội chui tọt vào rồi chỉ một loáng sau, nó đã rón rén
bưng ra một bát nước cơm. Bà chủ quán cũng rón rén trút vào cái bát đường vàng,
rồi cầm thìa khuấy sơ lên, đưa trả lại cho chị Nga, miệng lầu bầu:
- Gạo mậu(1), nên nước cơm cứ trong leo lẻo như mắt ma ấy.
Nhà chị cứ cho cháu uống cũng đỡ hơn nước sông. Này, cầm lấy mà bón cho nó…
Nãy giờ hai người đàn ông chăm chú theo dõi những động tác của
bà chủ quán. Chị Nga nghe thấy cả tiếng một người nào đó nuốt nước miếng ừng ực.
Chao ơi, rồi một ngày nào đó đất nước mạnh giàu, nhân dân hết cơ cực, mọi người
sẽ có cơm có cá, có thịt, có đường, có sữa… Chứ còn hôm nay, một nhúm đường
vàng mà cả người lớn, lẫn trẻ thơ đều thèm thuồng, nuốt nước bọt cầm chừng. Chị
Nga lại muốn ứa nước mắt, nhất là khi thằng Hận hau háu nuốt từng thìa nước
cơm. Đối với nó, đây là thứ thuốc thần tiên, thứ chỉ có khi ở thiên đường.
Nhưng nó còn nhỏ quá, còn phải lớn lên, còn phải sống dai dẳng, chưa thể lên
thiên đường đựơc. Chó con, à Pinôkiô của mẹ nhỉ?
Nhắc đến cái tên thằng bé gỗ, tự nhiên trong lồng ngực chị
Nga như có gì hụt hẫng. Trong lúc lo cho thằng Hận chị đã để ra ngoài tâm trí của
mình hình ảnh Tĩnh, người đàn ông đã cưu mang, cứu vớt mẹ con chị, mà tưởng như
đã gắn bó với chị tư bao giờ. Chị còn nhớ đôi mắt sáng, chứa chất đầy niềm kiêu
hãnh, vui mừng khi nói với chị: “Tôi sẽ không bỏ chị đâu!”. Vậy mà, bây giờ anh
đang ở đâu? Anh đã xong việc của mình chưa? Anh có nghĩ đến mẹ con tôi không?
Hay… lúc lên bờ, chị đã vội vã bế con đi thẳng, anh tìm không thấy? Bao nhiêu
câu hỏi cứ trôi tuột trong đầu chị, không dừng lại ở một giả thiết nào. Sự trống
trải, hẫng hụt dâng lên tràn lồng ngực chị, một nỗi tủi hờn xâm chiếm, từng
chút, từng chút… Chị Nga hờ hững buông cái thìa nước cơm trên miệng con, nghển
cổ nhìn ra xung quanh, tìm kiếm. Chỉ có bóng đêm đen đặc và thấp thoáng những
ánh đèn tù mù, hoang vắng. Gió vẫn thổi từng chặp, từng chặp ào ạt từ dưới sông
lên, lùa trong lưng áo chị, lạnh buốt.
Bỗng chị Nga nghe mơ hồ ai gọi tên mình, trong gió ào ạt. Rất
mơ hồ rất không thật, nhưng chị đã nghe thấy. Chị nghe được tiếng gọi của Tĩnh:
- Nga ơ… ơi! Hai mẹ con ở đâu…u?
Chị đã nghe được tiếng gọi đứt quãng, theo từng đợt gió. Chị
bế con đứng thẳng dậy bước ra hẳn khỏi túp lều quán nước, lấy hết hơi sức trong
người, đáp lại tiếng gọi:
- Anh Tĩnh ơi! Ở đâ… ây!
- Nga ơ… ơi!
- Em đang ở đây… anh Tĩnh ơi…!
Chị bước sải những bước chân vấp váp trên bùn bãi bến sông về
phía tiếng Tĩnh đang gọi. Những người ngồi trong quán nhìn theo ái ngại. Bà chủ
quán vẫn lặng thinh, nhưng với con mắt cảnh giác cố hữu, miệng lầm bầm: “Rõ khổ,
vợ chồng sông nước”.
Tĩnh ào đến, hai bàn tay nóng bỏng rắn như thép nắm lấy cánh
tay chị Nga, xiết mạnh:
- Có sao không? Thằng bé có sao không?
- Cháu đỡ rồi anh ạ. Em đã xin được chút đường hoà với nước
cơm cho nó uống.
Đêm ấy, chị Nga của tôi đã bế thằng Hận đi theo anh chàng sơn
tràng. Nửa đêm họ đến được nhà ga tàu hoả. Tĩnh trải manh áo mưa ra một góc tối
trong nhà ga lờ mờ:
- Hai mẹ con nằm nghỉ đi, để tôi đi “nắm” tình hình.
Chị Nga thấy ái ngại, nhưng vẫn bật cười:
- Anh lúc nào cũng như người lính!
- Bảo sao? Tĩnh đã bắt đầu có những câu thân mật, thỉnh thoảng
là những câu trống không.
- Không! Anh cứ đi “nắm tình hình” đi! Em ngồi nghỉ một lúc
cũng được.
Và không biết từ lúc nào, chị Nga cũng đã xưng “em” với người
xa lạ.
Chị Nga đặt lưng xuống nến đất lạnh, rã rời chân tay. Chị nhắm
mắt lại để mặc mọi sự cho cuộc đời. Chị đã đến đây rồi, còn biết làm sao? Điều
làm chị yên tâm là tiếng thở đều đều của con trai. Thế rồi chị chìm vào trong
cơn mệt mỏi, ngủ thiếp. Độ hơn nửa giờ sau, Tĩnh quay lại. Anh không định đánh
thức chị Nga, nhưng chị đã mở mắt:
- Anh về rồi à? “Tình hình” thế nào?
Tĩnh dúi vào tay chị Nga một cái bánh xốp mỏng, nguội ngắt:
- Ăn đi một chút đã. Chắc đói lắm hả?
- Không, em không thấy đói…
- Cố ăn đi… cũng ngon lắm, không đến nỗi…
Chị Nga ngoan ngoãn cắn một miếng bánh rẻ tiền. Quả vị ngọt
và hơi bột mì làm chị thấy ấm lên. Tĩnh nhìn người đàn bà xa lạ ăn nhỏ nhẹ từng
miếng bánh, bất chợt anh nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong chiếc miệng cân đối với
hàm răng đều. Dù trong bóng tối lờ mờ anh vẫn nhận thấy những lọn tóc xoà xuống
trước vầng trán thanh tú của chị… Thỉnh thoảng chị Nga lại đưa tay sờ sẫm lên
thân mình con. Miếng bánh đã hết, chị Nga bần thần vuỗi những mẩu vụn vương
trên mép, cười:
- Ngon thật anh ạ…
- Bánh mậu dịch, không phải gia công đâu… Uống nước nhé?
Chị Nga khẽ gật đầu, Tĩnh chạy đi mua một cốc nước đặt vào
tay cho chị. Chị bình thản cầm cốc nước uống hết, ngon lành, không khách sáo, mặc
dù đó là cốc nước nhạt, có vị tanh của chảo gang.
Tĩnh đưa trả lại cốc nước cho quán, bần thần quay lại. Anh
nghĩ rất lâu, không nói, chị Nga nhỏ nhẹ:
- Tình hình thế nào, anh?
Tĩnh hất mái tóc loà xoà, nhìn thẳng vào đôi mắt u buồn của
chị Nga:
- Bây giờ… Nga tính thế nào?
Chị Nga bất ngờ đưa tay cuộn lại mái tóc rối, quấn một vòng
sau gáy. Mái tóc đã rụng nhiều, nhưng vẫn đủ cuộn lại thành một búi, trông nó
như một túm lá kiệu khô. Chị nhìn Tĩnh, bình thản:
- Em cám ơn anh đã đưa mẹ con em đến đây. Em đã tính rồi, mẹ
con em sẽ lên tàu đi Phú Thọ.
- Ở đó Nga sã làm gì? Làm gì để sống và nuôi con?
Chị Nga chùng xuống:
- Em chưa biết sẽ làm gì, nhưng em sẽ làm. Làm để sống và
nuôi con em như anh nói…
Tĩnh thảng thốt:
- Hai tiếng nữa có tàu ngược Phú Thọ…
Chị Nga quyết định hỏi một câu mà chị đã nghĩ mãi, suốt từ
lúc bước khỏi mảng:
- Bây giờ, anh đi đâu?
Tĩnh lắc đầu, buồn bã:
- Tôi cũng chưa định.
Chợt chị Nga thấy ân hận, vì mình mà chàng thanh niên san
tràng khoẻ mạnh, can trường phải khó xử. Anh đã dính vào mẹ con chị, để bây giờ
đâm khổ. Mới lúc nãy, chị mong anh đến chừng nào, thì bây giờ chị lại mong anh
ra đi chừng ấy. Thôi, anh đã tốt với mẹ con em quá rồi, anh hãy đi đi, đi tiếp
con đường, công việc, gia đình của anh… Cuộc đời này, gặp được nhau trong chốc
lát như thế cũng đủ để cho nhau niềm an ủi, mà mãi mãi, chị tự nhủ, chị sẽ không
bao giờ quên anh được. Đi đi, anh… Đứng lên và đừng quên chìa bàn tay cho em nắm…
Trong lòng chị giục anh đứng lên, nhưng miệng chị Nga lại hỏi:
- Bác Thuần và các bác cùng đi đâu rồi?
- Họ còn ở lại ngoài bến chờ lấy tiền…
- Anh cũng phải trở lại bến chứ?
Tĩnh vê một điếu thuốc lá cuộn quăn queo cho thẳng lại, châm
lửa:
- Không biết đượcbao nhiêu, nhưng cái nghề đi mảng của tôi
cũng cực lắm. Tôi tính sau chuyến này sẽ nghỉ.
- Em không biết có nghề nào sướng hơn, nhưng quả nghề sơn
tràng nguy hiểm thật. Quê anh có việc gì làm không?
Tĩnh lắc đầu:
- Ruộng ít, làm không đủ ăn nên anh em chúng tôi mới phải
theo cái nghề này. Nghỉ rồi cũng chưa biết nên làm gì. Thế… Nga biết làm nghề
gì không?
Chị Nga cười:
- Em dạy cấp hai, nhưng nghỉ lâu quá rồi. Với lại đó là nghề
làm nhà nước, mình bỏ việc thì cũng coi như đào ngũ. Có khi còn bị kỷ luật… Em
cũng biết làm ruộng nữa.
- Nga lên Phú Thọ rồi ở đâu?
- Em cứ lên thị xã, rồi tính.
- Nhưng sao Nga lại quyết định lên Phú Thọ mà không phải nơi
khác?
- Hồi nhỏ em nghe bố em kể ông có ở Phú Thọ. Người và đất ở đấy
tốt lắm. Hình như ông cũng có một số người bạn còn ở bên ấy từ hồi kháng chiến
chống Pháp. Em cứ đi, gặp ai em cũng sẽ hỏi thăm, và nhận em là con gái bố em…
Biết đâu có người tốt bụng!… Chị Nga cười hồn nhiên như một đứa trẻ. Tĩnh cũng
bật cười, kể từ lúc gặp nhau, lần đầu tiên anh thấy chị Nga cười như thế.
- Bố em tên là gì? Tĩnh chợt loé lên tia hy vọng.
- Bố em tên là Hoan, thầy giáo Hà Đức Hoan… Mà anh hỏi làm
gì?
Tĩnh trở nên quyết tâm:
- Bây giờ tôi mua vé để hai mẹ con lên Phú Thọ. Rồi tôi phải
quay lại chỗ bác Thuần xem có được đồng nào không?
- Vâ… âng!… Dù đã biết trước và mong muốn để Tĩnh ra đi,
nhưng nghe câu nói ấy của anh chị như sụp hẳn xuống. Trong đêm tối, chị nhắm chặt
đôi mắt, ngăn giòng nước, giọng nghẹn ngào. Thôi anh cứ đi đi, để mặc mẹ con
em…
- Không! Tĩnh rắn rỏi. Tôi có tí việc, phải về quê đưa cho mẹ
tôi ít tiền. Mẹ tôi già rồi, các anh chị tôi nghèo lắm, không nuôi nổi mẹ. Thu
xếp xong, tôi sẽ ngược Phú Thọ. Tôi không bỏ mẹ con Nga đâu!…
Tĩnh đứng dậy xếp hàng mua vé. Hành khách khá dài, nhưng may
nhờ khoẻ mạnh, và có kinh nghiệm, chỉ một lúc sau anh quay lại đưa cho chị Nga
tấm vé tàu hoả làm bằng một miếng bìa các- tông màu vàng, bé hơn cả quân bài
tam cúc, dày và cứng. Cầm tấm vé định mệnh trong tay, chị Nga nhìn ra bầu trời
đen kịt, mây chuyển ầm ầm trên đầu, xen lẫn tiếng sấm xa. Tĩnh cúi xuống dòm
sát vào mặt thằng Hận, thì thào:
- Con trai, ngoan nhé. Rồi ta sẽ đi tìm con…
Chị Nga bần thần nhìn mái tóc rậm của Tĩnh phủ xuống cánh tay
chị. Bao nhiêu mùi nắng, mùi gió, mùi nước… sông hoà trộn trong hơi thở của chị.
Khi Tĩnh ngẩng lên, chị Nga không cầm lòng được. Hai tay chị nắm chặt lấy cánh
tay anh, ghì xuống:
- Anh! Anh Tĩnh ơi…
Chị Nga đã yêu!
Trong đêm ngoại ô thanh vắng và oi nồng, chị Nga đã gục xuống
thành ghế và khóc với tiếng khóc của hai mươi năm về trước. Tiếng khóc tươi mới
và nồng nàn trước mặt thằng em trai bé bỏng, tóc lốm đốm bạc, là tôi. Tiếng nấc
lên nghẹn ngào, khiến tôi hình dung ra hình ảnh anh Tĩnh của chị. Một người đàn
ông thánh thiện.
- Em ơi, em biết không? Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong
đời chị yêu. Yêu trong tuyệt vọng, nhưng đúng là tình yêu thật sự trong một đời
người. Chị đã khóc như mưa gió, không cần phải che đậy hay xấu hổ. Chị yêu mà cảm
thấy mình vơi nhẹ đi trong bao nỗi niềm. Dù biết mình chắc gì đã được anh Tĩnh
yêu lại. Nhưng thôi, như thế cũng đã đủ lắm rồi. Bao cơ cực cay đắng tuyệt vọng
chị cũng không ngờ chị còn yêu được. Đó là một thứ tình cảm mới lạ, trong suốt…
Nó ngọt ngào, ấm áp, nhưng pha vị cay cay, đăng đắng, đầy ma lực, làm chị quên
hết những âu lo, nguy nan đang chờ chị trước mặt.
Chị đã khóc như mưa gió trong đôi cánh tay của anh Tĩnh, của
người đàn ông hoàn toàn xa lạ mà chị chỉ mới gặp chưa trọn một ngày. Lúc ấy chị
cũng không hề nghĩ tới hoàn cảnh của mình, cái hoàn cảnh éo le rất dễ khiến cho
Tĩnh nghĩ rằng chị cần anh ấy, lợi dụng anh ấy. Không, chị không hề nghĩ đến việc
cần anh ấy che chở cho mẹ con chị, bởi vì chị biết cách sống và quyêt tâm sống.
Chị cần anh, cần anh như cần một niềm an ủi, cần một bầu trời, cần một hướng để
hy vọng, dù chị có phải vất vả thêm nhiều lần nữa, cơ cực gấp bao nhiêu đi nữa
để được sống bên anh, có anh và nuôi anh…
- Anh có biết em đã yêu anh không?
Tĩnh để yên tay chị trong tay anh, chị Nga cảm thấy được những
vận chuyển nhẹ nhàng nhưng hối hả của từng giọt máu chạy trong cánh tay rắn chắc
ấy. Nó cũn run rẩy, cũng loạn nhịp và bồi hồi… Nhưng Tĩnh đã không nói gì,
không nói bất cứ lời nói nào, chỉ thay đổi nhịp bóp mạnh trên bàn tay chị.
Tiếng loa nhà ga ọc ạch, và tiếng tàu hoả nghiến trên đường
ray âm âm vọng tới, làm chị trấn tĩnh lại. Chị Nga buông tay anh ra, đúng hơn
là gỡ bàn tay mình ra khỏi tay anh, hối hả:
- Thôi, anh đi đi! Tầu vào ga rồi…
Tĩnh tần ngần, đứng dậy, hai tay anh buông thõng như người mất
trí, lặng lẽ quay đi. Ba bước chân, anh quay lại móc từ trong tui ra dúi vào
tay chị một nắm tiền lẻ. Chị Nga gạt lại:
- Em có đủ rồi. Anh giữ lấy mà lo công việc… Nghe em đi, anh!
Tĩnh cầm lại số tiền bước vào trong bóng tối, khuất sau ánh
đèn đỏ đọc của nhà ga…
Chị Nga vội vã thu xếp mọi thứ, đến khi chị ôm thằng Hận lên,
thì…
- Ối Trời ơi là trời! Con tôi…
Thằng Hận nóng như hòn than, hai bàn tay và cả thân mình nó
co quắp, giật liên hồi. Một bên mép nó bọt xùi ra, trắng xoá…
- Ới… các ông các bà ơi… Con tôi chết mất rồi…
CHƯƠNG 12 -
T
ôi cho rằng, nhất định đến một ngày nào đó, gần đây thôi, người
ta phải chịu hiểu rằng một con người được sinh ra là hoàn toàn ngẫu nhiên. Con
người đó, sinh mệnh đó, bắt buộc phải có mặt trên cõi đời này hoàn toàn do ý
chí của người khác. Và cũng có khi chẳng do ý chí của một ai. Tình cờ thôi! Đó
chính là điều bất hạnh.
Rất nhiều người do chậm hiểu hoặc do lợi ích nào đó của mình,
cố gắng biện hộ cho vai trò của con người. Đó là điều bất nhẫn, không thể tha
thứ được. Sự ngẫu nhiên đến buồn cười của số phận khoác cho ai, buộc cho ai những
thứ gì đó… đến bây giờ cũng chẳng có ý thức nào hiểu nổi.
Con người có thể là tổng hoà xã hội, có thể là người chủ vĩ đại
của trái đất, có thể là sinh vật văn minh nhất trong vũ trụ… Có thể là tất cả.
Nhưng con người trước sau gì cũng chỉ là một sinh vật nhỏ bé, mông muội, không
chân tay, cũng chẳng có móng vuốt, không thể nào cựa quậy được với số phận.
Thằng Hận là một ví dụ. Khi nó hai mươi hai tuổi, đi cùng mẹ
nó là chị Nga đến nhà tôi trong một đêm mùa hè ngoại ô vàng vọt, tôi không biết
nó là một thằng trai bất hạnh. Nó bị bại não, tâm thần, chậm phát triển. Khi nó
khoanh tay nhìn những tấm giấy khen của con gái tôi dán trên tường từ hồi cháu
học mẫu giáo đến tiểu học và cười một cách ngây ngất, tôi tưởng nó là một người
cầu tiến. Những người biết cười với giấy khen, bằng khen, huân chương là người
vĩ đại, có chí lớn, họ đã và sẽ làm nên những kỳ tích. Tôi rất hy vọng ở các
con tôi. Nhưng khi có một kẻ cứ cười mãi, cười hoài với huân chương, huy hiệu,
thì tôi biết đó là một tên bại não. Nguyên nhân có rất nhiều, nhưng chẳng
nguyên nhân nào rõ ràng. Riêng tôi có một cách lý giải mà tôi cho rằng tự nhiên
nhất, không mất lòng ai.
Chị Nga ôm con kêu gọi Trời Đất và những người khách đi tàu.
Tiếng kêu của chị hoà trộn và lọt thỏm vào tiếng còi tàu lảnh lói và tiếng nghiến
rầm rầm của bánh sắt. Không một ai nghe tiếng kêu than, van nài trời đất và
lòng người. Họ tiếp tục chen lấn nhau để lên tàu, để đến một nơi định trước.
Người, quang gánh, thúng mủng và hàng vạn những lời tục tĩu tuôn ra… nhưng
không ai chú ý đến số phận thằng Hận. Họ còn phải sống cho họ vào những tháng
năm tất bật ấy.
Trong lúc thất vọng tuyệt đối thì một người đàn ông rẽ đám
đông, vươn hai cánh tay dài như tay vượn và vững như thép ra ôm lấy thằng Hận.
Giọng anh lạc đi:
- Nó làm sao?
Anh Tĩnh! Chị Nga như người ôm con giữa dòng nước đe doạ chết
đuối vớ được bè mảng. Một lần nữa, Tĩnh ôm thằng Hận chạy thẳng vào nhà ga, gặp
một người có vẻ là quan chức, anh chìa thằng bé ra trước mặt ông ta:
- Y tế đâu? Thuốc đâu?
Người quan chức áo xám thoạt đầu ngạc nhiên, khi hiểu ra, ông
ta lạnh lùng:
- Thuốc gì?
- Cháu bé bị cảm đột ngột, không cứu nhanh nó sẽ chết mất!
Các ông có y tá không? Có thuốc không?
- Không có y tá, có thuốc nhưng không phải để cho hành khách.
Chúng tôi chỉ có tủ thuốc nội bộ.
Tĩnh tiến lên áp sát viên quan chức nọ:
- Ông hãy cứu lấy cháu bé! Hãy cứu lấy một con người. Thuốc
nào cũng được, nội bộ hay bán cũng được. Chúng tôi có tiền…
Thằng Hận tiếp tục co giật. Hai mắt nó trợn trắng dưới ánh
đèn đỏ rực! Hinh như điều đó có làm cho viên quan chức đường sắt mủi lòng. Ông
ta quay lưng:
- Đem nó vào trong này…
Một căn phòng kín gió, vài viên thuốc cảm, một hộp dầu “Con Hổ”,
một ly nước đường đã giúp thằng Hận thoát khỏi bàn tay lạnh lùng của Thần Chết.
Tĩnh nhai trệu trạo những viên thuốc cảm, mớm vào miệng thằng Hận. Rồi anh xoa
dầu khắp người nó, đến nỗi đang từ cứng ngắc, toàn thân nó đần dần mềm lại. Nó
nguội dần, và thở khò khè, khoé miệng nó hơi giật giật, một dòng nước trộn lẫn
bột thuốc cảm trắng toát đọng lại, khô dần.
Bấy giờ chị Nga mới hoàn hồn, hay đúng hơn, mới nhìn thấy cái
gì trước mắt mình. Thằng Hận đang nằm co quắp, Tĩnh ngồi dưới chân bộ ván bất động.
Người cán bộ đường sắt thỉnh thoảng đi lại, vẻ sốt ruột. Những con thạch thùng
bò thoăn thoắt trên bức tường vôi. Và chị ngạc nhiên thấy mình không khóc.
Không khóc được mà chỉ nhìn. Đôi mắt chị dường như không hề chớp, lúc nào cũng
mở trừng trừng. Bất kỳ cái gì lọt vào tầm mắt chị, cái thùng sắt tây, cái ghế gỗ
cập kễnh, một người đi ngang qua, hai thanh ray song song hun hút về mãi tận vô
cùng… cũng đều trở thành mối đe dọa đến sinh mạng con chị. Chị nhìn chúng, sợ
hãi và căm hờn…
Đến lúc này, người cán bộ đường sắt mới hỏi Tĩnh:
- Anh chị đi đâu mà không phòng bị cho cháu? Ghê quá, nhỡ chẳng
may nó chết ra ở đây thì khổ chúng tôi.
Tĩnh trợn tròn mắt nhìn ông ta:
- Chết thế nào được! Ông chỉ vớ vẩn. Mạng người đâu có dễ thế?
- Thì là tôi nói vậy. Bây giờ nó đỡ rồi, các người ra ngoài
trả phòng cho tôi chứ!
Tĩnh thấy máu trong người sôi lên. Anh cố nén giận, hai hàm
răng nghiến chặt, quai hàm bạnh ra. Thời buổi cơ khổ, anh có thể nện cho tên áo
xám này một trận dễ dàng. Mà thế nào cũng có ngày phải nện cho chúng một trận.
Nhưng bây giờ thì chưa, hãy cô nhũn nhặn. Dù sao mình cũng còn đang phải nhờ vả
nó.
- Bác cho hỏi thăm, mấy giờ lại có tàu chạy Phú Thọ?
- Cái gì? Anh có vé đi Phú Thọ chuyến nãy à?
- Vâng! Hai mẹ con cháu. Cũng may, nếu lên tàu rồi không biết
sẽ xoay xở ra sao. Thật phúc đức, nhờ được các bác…
Hình như ông cán bộ nhà ga cũng cảm thấy được phần nào an ủi.
Ừ thì ra ta cũng đã làm phúc…
- Nếu cháu còn nặng thì tôi khuyên anh chị chưa nên ra tàu.
- Vâng! Xin các anh cho cháu nghỉ nhờ đến khi có tàu ngược.
Chuyến tàu sau, chắc khỏi phải mua vé, các bác cho cháu lên nhé!
Người cán bộ áo xám nhìn Tĩnh khinh khỉnh:
- Vé chuyến nào đi chuyến ấy.
- Nhưng mà hãy còn nguyên, chưa xé. Tĩnh giải thích.
- Làm gì có chuyện. Lên tàu nhân viên nó tống xuống chứ yên với
nó đấy…
Tĩnh đuối lý:
- Vậy cũng được! Thế là lại mất toi hai đồng. Mấy giờ mới lại
có tàu hả bác?
- Sáng mai mới có tàu. Rồi ông ta lầu bầu: “Thế thì còn ngủ
nghê chó gì”.
Tĩnh đã nghe thấy, và dường như ông ta lẩm bẩm cũng cốt để
Tĩnh nghe thấy. Anh mỉm cười vì được dịp trêu tức ông ta;
- Làm nghề đường sắt như các bác vất vả thật. Mất ăn, mất ngủ,
mà dễ có mấy ai thông cảm…
- Thì đấy! Ngày cũng như đêm…
- Nhưng mà các bác cũng có cái sướng. Vi vu suốt, nhỉ?
- Suốt đời chết dẫm ở đây, anh bảo đi đến đâu mà vi vu?
Tĩnh thân mật:
- Bác bảo thế nào chứ, cán bộ ngành đường sắt là có quyền lợi
lớn lắm. Chả biết chỗ các bác đây thế nào, chứ ở Hà Nội, hay trong Nam, mỗi người
hàng năm có vé đi tầu suốt không mất tiền…
Ông cán bộ áo xám bỗng trở nên linh hoạt:
- À, cái đó thì có. Năm nào tôi cũng có suất. Nhưng mà năm vừa
rồi… túng quá, bán lại cho người ta!
Nghề nào cũng có cái cực, cái khổ của nó, Tĩnh nghĩ. Nhưng mỗi
nghề cũng có cái hậu của nghề. Anh nhớ hồi từ miền Nam ra, dân tình xếp hàng
đăng ký mua vé cơ khổ. Có người xếp hàng cả chục ngày trời mà vẫn không mua được
vé. Những nhân viên nhà ga tách từng nhóm xếp hàng đầu lùa hành khách như lùa
gà vịt vào trong phòng, có rào lưới mắt cáo kín mít để… xếp hàng tiếp. Tĩnh
cũng ở trong số đó, quần áo bật cúc, tơi tả, mồ hôi đầm đìa như thú vật. Ấy thế
nhưng tất cả những nhân viên ngành đường sắt trong cả nước, từ cán bộ lãnh đạo,
đến anh công nhân, chị cấp dưỡng… đều được ưu tiên hai “giấy đi tàu” (hai giấy,
một công chức đường sắt và một người thân), không những không mất tiền mà còn
không phải xếp hàng. Đúng là một người làm quan cả họ được nhờ! Cái thời quan
quyền đáng nguyền rủa. Vậy mà hễ cứ có dịp là hạch sách!
- Mẹ kiếp! Tĩnh bất thần đập tay xuống ghế, quát to.
Người cán bộ đang lơ mơ, giật mình:
- Anh chửi cái gì?
Tĩnh lúng túng:
- Dạ không! Là nhỡ mất chuyến tàu…
Hình như quá bức xúc vì bị chiếm mất căn phòng, ông ta nghĩ
ra một kế:
- Từ đây vào thị trấn hơn cây số, có bệnh viện huyện. Thằng
bé có vẻ nặng đấy. Hãy cho cháu vào đó khám, điều trị.
Chị Nga nãy giờ vẫn đứng ngoài sân, vì căn phòng quá nhỏ, giờ
len vào ngồi thụp xuông chân giường, hai tay nắn chân thằng Hận.
- Không cần phải vào viện đâu, anh ạ. Chắc nó sốt nóng rồi
cũng khỏi thôi.
Thế nhưng, lời khuyên của ông cán bộ nhà ga đã đúng. Thằng Hận
đã sốt lính bì, liên tục kéo dài hơn một tuần lễ. Tất cả số tiền chị Nga dành dụm
cùng với số tiền kiếm được trong chuyến xuôi mảng đã đổ vào cho nó. Tại bệnh viện
huyện, đến ngày thứ tám, chị Nga phải năn nỉ các thầy thuốc cho nó xuất viện,
vì nếu ở lại chị Nga sẽ không còn tiền.
Thằng Hận sống được là nhờ một phép màu. Nhưng sau trận sốt
ly bì đó nó trở thành một đứa trẻ khác. Nó bắt đầu lớn nhanh như thổi, không bệnh
tật và hầu như cũng chẳng biết khóc. Nó chỉ cười, và cười một cách vô tư, hồn
nhiên, không cần lý do. Nhưng đó lại là một điều may mắn cho chị Nga. Trong những
ngày đầu đặt chân lên đất Phú Thọ, chị bế nó đi kiếm ăn, tìm việc, nó là đứa trẻ
rất ngoan, không gây phiền nhiễu gì cho mẹ. Và vì thế, nó được mọi người không
ghét bỏ.
Chia tay mẹ con chị Nga ở nhà ga đêm ấy, Tĩnh lặng lẽ xuôi
tàu về quê. Lòng anh bịn rịn và đau đớn khi phải xa mẹ con chị Nga. Anh nói với
chị Nga một, nhưng nói với lòng mình mười rằng: “Tôi không bỏ mẹ con Nga đâu!
Tôi sẽ đi tìm!”.
Câu chuyện của chị Nga ở Phú Thọ là một chuỗi những đắng cay.
Đôi lúc, chị đã bất lực, quay đi mắc núi trở lại mắc sông. Không thể quay về được
nữa. Cái thị xã nhỏ bé toàn nhà lá này, không ai biết thầy giáo Hà Đức Hoan.
Một buổi chiều mùa đông giá, hai mẹ con chị Nga đánh liều vào
một cửa hàng ăn uống quốc doanh. Ở đây người ta dễ dãi, để cho hai mẹ con chị
ngồi vào bàn mà không hề hạch hỏi. Cái của hàng ăn uống này bán theo phương thức
xếp hàng. Nghĩa là người mua cần người bán, chứ người bán không cần người mua.
Vậy thì chị Nga cũng chẳng phải là người cần mua. Cứ ngồi đấy mà đợi, chẳng ai ỏ
ê đến đâu mà lo. Nói vậy thôi, chị cũng đứng dậy cúi khom lưng vào cái cửa sổ
tò vò mua một bát phở “không người lái” với giá năm hào cho thằng Hận. Nó ăn
ngon lành, chị Nga húp phần nước với một cái bánh mì cứng như đá, giá hai hào.
Ăn xong thằng Hận gà gật rồi ngoẹo đầu lên đùi chị mà ngủ. Ngoài kia lất phất
mưa bay, sụt sùi bùn vữa trên con đường vắng bóng người đi. Gió bấc ù ù thổi
trong những tàu lá cọ, thỉnh thoảng lại rú lên những âm thanh tần số cao như tiếng
rít của con mèo lên cơn giận dữ. Và trời dần ngả vào đêm. Mùi than đá bay phảng
phất gợi lên một căn phòng ấm cúng.
- Này chị kia! Tiếng một người đàn bà lạnh lùng ngay sau vai
chị Nga, khiến chị giật mình. Chị ngoảnh lại, bắt gặp cái nhìn đầy vẻ chủ nhân
của người đàn bà.
- Dạ, chị gọi em.
- Chị chứ còn ai. Tối rồi, ra ngoài cho chúng tôi đóng cửa!
Chị Nga nhìn thằng con đang ngủ say, không nỡ đánh thức nó,
ngẩng lên nói với bà chủ cửa hàng:
- Vâng! Tại cháu nó đang ngủ, em nhờ các chị. Lúc nào cửa
hàng đóng cửa, chúng em ra…
Người đàn bà toan nói câu gì đó để đuổi được mẹ con chị Nga,
nhưng lại bước vào. Nhưng dường như không yên tâm, bà ta quay lại hỏi:
- Nhà chị không phải người ở thị xã này phải không? Ở đâu mà
giờ này còn ngồi đây?
- Vâng! Em ở xa lắm…
Chị Nga định nói rằng nhà chị không phải ở đây, rằng tí nữa
hai mẹ con chị sẽ lại trở về với cái lều ngoài chợ. Nhưng người đàn bà bán hàng
ăn uống đã tiếp:
- Thế không có họ hàng bà con gì hay sao?
- Dạ, có nhưng em không tìm được. Có lẽ họ chuyển đi rồi mà
em không biết.
Bà chủ kéo cái ghế đẩu ngồi xuống trước mặt chị Nga:
- Phải rồi đấy. Từ ngày giải phóng miền Nam nhiều gia đình đã
chuyển cả về trong ấy. Chắc người nhà cô cũng thế?
- Vâng! Em cũng đoán thế… Chị Nga thấy người đàn bà này cũng
có vẻ dễ chuyện.
- Cô tìm hết chưa? Thế không thấy thì quay về chứ? Quê cô ở
đâu?
- Dạ không! Quê em ở xa lắm, mãi bên Thái Nguyên cơ. Em cũng
chẳng còn ai bên ấy. Em có quay về thì cũng như ở đây…
- Thế? Thế… cô? Bà ta ngạc nhiên, nhìn chị Nga như một con bệnh,
miệng lắp bắp. Chị Nga tuy rất tuyệt vọng, nhưng đã quen rồi, lại mỉm cười:
- Vâng! Em ở đây, tìm xem có việc gì ai thuê mướn, khổ mấy
cũng được…
- Cô muốn làm việc? Bà ta bỗng dịu giọng.
- Vâng! Chị có biết ai cần thuê mướn không? Chỉ cho em với…
Người đàn bà mà sau này, chị Nga biết chị ta tên là Thắm, thở
dài:
- Rõ cơ khổ!
Rồi không nói không rằng, chị ta vào trong.
Chị Nga không biết mình vừa nói những gì và cứ thế trôi đi
trong triền miên lạnh giá. Bỗng có tiếng kéo ghế sát bên. Chị Nga choàng tỉnh
ngước lên, bắt gặp một khuôn mặt đàn ông đứng tuổi, có dáng vẻ của một người lãnh
đạo bởi vẻ tự tin thường trực:
- Chào cô! Tôi nghe chị Thắm nói, cô muốn có việc làm ở đây? Ở
thị xã này?
- Dạ, vâng! Chị gì khi nãy có hỏi em…
- Cô ở Thái Nguyên sang à? Lâu chưa? Có hai mẹ con à?
Chị Nga lúng túng trước những câu hỏi dồn dập của người đàn
ông:
- Vâng ạ!
- Cô biết làm gì? Mà trông cô cũng là người có học đấy nhỉ?
Đi tìm người nhà không gặp phải không? Ai thế?
Chị Nga cảm thấy có một chút vận may đang đến, khiến chị tự
tin hơn:
- Tuy bố em có làm nghề dạy học, nhưng em làm gì cũng được ạ.
- Thế cô có biết nắm than quả bàng không? Than đá ấy…
- Dạ, biết! Chị Nga gần như reo lên. Than đá trộn bùn rồi nắm
thành từng nắm để nấu bếp lò?
- Phải đấy. Ừ… Ông ta ngưng lại như để tìm lời. Lát sau ông dứt
khoát. Tôi là cửa hàng trưởng ở đây. Tôi nhận cô vào làm công nhật. Công việc
là nắm than quả bàng cho cửa hàng. Ngày công mỗi ngày, xem nào… một đồng hai một
ngày. Cô có thằng con, tôi cho thêm ba hào là một đồng rưỡi. Ăn uống thì tuỳ…
Chị Nga ngẩn người ra, không hiểu gì. Bỗng chị ngồi thụp xuống
cúi đầu:
- Đội ơn bác đã thương mẹ con em… Thế này thì còn gì bằng.
- Thôi nào, đứng dậy. Còn chỗ ngủ? Chưa có phải không? Bên
trong kia cạnh kho than có một cái chái, cô có thể ngủ ở đấy. Còn trống lắm,
mai rồi quây mấy tàu lá cọ vào cũng tốt…
- Dạ! Ơn này sống để dạ, chết em mangtheo, chứ không dám
quên…
Ông cửa hàng trưởng cười:
- Ơn huệ gì. Tôi là Thức, cửa hàng trưởng, nhớ chưa? Mà cô
chưa trả lời tôi: cô học lớp mấy rồi? Bố là thầy giáo, tôi trông cô cũng có vẻ
là cô giáo đấy mà sao lưu lạc thế này? Thôi, cô bế cháu vào trong kia tôi chỉ
chỗ cho. Mọi chuyện thủ tục gì nữa, mai làm tiếp.
Lần đầu tiên trong những ngày lưu lạc, rời khỏi cái túp lều ở
Soi Vạt, chị Nga mới biết được cái cảm giác thế nào là ngôi nhà “của mình”, mặc
dù cũng chẳng phải của chị.
Cái chái cạnh đống than đá, ba mặt trống hoang, chỉ có mỗi một
phía liền với vách bếp đựơc đắp bằng gạch vỡ, sần sùi, làm chỗ dựa cho mẹ con
chị. Đêm ấy chị ngủ được một giấc dài và chị lại mơ về cái làng Sơn Cốt bé bỏng
và người cha đang lom khom bên mảnh vườn côi cút.
CHƯƠNG 13 -
Đ
ang dở tay với mấy cái cọc bên bờ dậu, lúng túng thế nào để
cái lạt cật cứa ngang lòng bàn tay, máu ứa ra, buốt xót, Tĩnh vào sân, quăng
con dao lên hè, vào nhà, nằm vật ra giường. Bà cụ mẹ anh đang ngồi xếp lại mấy
thứ lặt vặt, cũ kỹ, trong cái làn mây, thấy con trai thở dài thì nhìn lên, ái
ngại. Cụ định nói một câu gì đó, nhưng nghĩ mãi chẳng ra. Khuyên nó mãi cũng chẳng
nổi. Mắng nó rồi cũng chẳng thấy xiêu. Nhất là sau chuyến ngược bè về, tiền
nong có được vài chục đưa hết cho mẹ rồi không đi nữa. Bà cụ hỏi ông Thuần, thì
ông ấy cũng chẳng nói thật:
- Bè giang cực lắm cụ ơi! Sức chú ấy trông thế nhưng còn yếu
lắm. Ở chiến trường bao nhiêu năm, còn gì là người. Chuyến này để cho nó ở nhà…
Ở nhà là phải rồi, mấy sào ruộng thằng anh nó san bớt cho,
hai mẹ con cũng đủ rau cháo. Nó không nói gì, cứ hơn hớn theo bè ông Thuần. Những
chuyến trước chẳng sao, nhưng mà chuyến này về thấy được ít quá, hay nó chán?
Cũng chẳng phải thế! Chắc cần tiêu nên nó mới giữ lại, chứ mấy
lần trước mỗi chuyến đi về cũng có ngót trăm bạc, lần này nó đưa cho bà có ba
chục. Công của nó, của của nó, bà nhận là giữ hộ cho nó thôi, chứ bà thì tiêu
gì! Nhưng mà thấy nó đưa ít, bà cũng nghĩ. Đúng rồi, đàn ông con trai, chưa vợ
con cũng phải có bạn bè, điếu thuốc, hớp nước…
Têm miếng trầu, vét tí thuốc lào nhét vào chân răng, bà cụ
toan vào giường hỏi nó làm sao, thì đã thấy Tĩnh lò dò ra:
- U cho con xin tí thuốc lào!
- Mày làm sao? Hay lại tập tọng hút thuốc lào…
- Đây này… Tĩnh chìa bàn tay rớm máu ra. Con cầm ngang cái lạt
mà nó sứac thế.
Bà cụ vội vàng lấy nắm thuốc lào nhét vào vết đứt ngang lòng
bàn tay:
- Mấy hôm nay mày làm sao thế? Đi rừng đi búi mà hấp hoảng thế
này thì có ngày chết đấy con ạ. Tao thấy ghê quá.
- Thì con đã bỏ rồi đấy thây! Tĩnh cười.
- Ừ thì bỏ quách đi. Tao thấy nhà ông Thuần đấy, cả đời lặn lội
cũng có hơn ai? Gốc mình là chân đồng chiêm, bì sao nổi với san tràng, rừng rú
…
Bà cụ lấy miếng giẻ quấn vào bàn tay cho con, ái ngại:
- Thôi cứ nghỉ ít bữa, mai u bảo thằng bố An nó san cho mảnh
ruộng ngoài Cầu Đá mà làm. Hai mẹ con mình thì chừng ấy cũng đủ ăn…
- U này…! Tĩnh đột ngột cắt ngang lời mẹ. U có còn tiền
không?
- Thì mày đưa bao nhiêu tao vẫn giữ chứ có tiêu cái gì đâu mà
con hay hết.
Tĩnh ngạc nhiên:
- Thế u lấy đâu ra tiền mà mua mắm muối, cái ăn cái mặc?
Bà cụ cười phô hàm răng đen nhưng nhức:
- Tao khắc có. Mày cần tiêu bao nhiêu thì cứ nói, u đưa cho
mà tiêu.
- U không được lấy của anh chị An đâu đấy. Anh chị ấy còn một
lũ con, lít nhít thấy phát sợ.
- Tiên nhân bố anh, một con, một của, có gì mà sợ. Còn anh đấy,
thế có định lấy vợ, đẻ con không hay lại sợ?
Tĩnh cười:
- Sợ thì con không sợ, nhưng mà lấy ai… Người con thích thì u
không ưa. Mà cái cô u thích thì con lại thấy nó làm sao ấy…
- Tao không ưa bao giờ? Bà cụ nhìn con, cười để rơi mấy giọt
nước trầu ra áo. Thôi được rồi, bây giờ anh cứ việc thích thì lấy, ai cũng được,
tôi không cản. Đứa nào con thích là u thích!
Nhớ hồi mới về, Tĩnh cũng hăng lắm. Lúc ấy bộ đội ở Nam ra rất
có giá, thành ra lấy vợ cũng cứ như phong trào. Thi đua anh này với anh kia, chị
này với cô nọ. Suýt thì Tĩnh cũng đã lấy cái cô Hải con bà hàng nước ngoài đầu
sông. Cũng chỉ vì anh tuếch toác, nói năng không giữ ý, làm bà ấy giận. Cô Hải
thì không đẹp mà cũng chẳng xấu, lấy nhau để đẻ con thì được, nhưng mà yêu thì…
Giận thì cho giận luôn. Tĩnh cứ nhơn nhơn, sống “cá thể”, chẳng chịu theo phong
trào. Thế rồi, phong trào tạm lắng, có đôi hạnh phúc, sung sướng, có cặp an phận
chịu đựng lẫn nhau. Nhưng cũng chỉ ba bốn năm sau, có anh chị đưa nhau ra toà,
nhẹ hơn thì chồng dắt tay vợ về trả cho ông bà nhạc. Buồn thật… Tĩnh thấy buồn
cho tình đời, chung quy cũng chỉ tại nghèo khó. Ấy thế nhưng cả làng cứ thấy
Tĩnh cười hơ hớ. Bí chân anh theo ông Thuần lên rừng…
- Con kể u nghe chuyện này nhá. Nghe được hay không thì u cứ
nói ra, chửi con cũng được.
Bà cụ nghĩ ngay đây không phải chuyện đùa của con trai. Nó đã
ngoài ba mươi, cái đùa cũng không phải là thứ bông phèng, hôn xược. Với lại nó
đã nói “u chửi cũng được” thế có nghĩa là nó đã nghĩ kỹ.
- Con cứ nói xem nào! Bà cụ nghiêm giọng.
Thấy Tĩnh đắn đo mãi, bà phải giục:
- Khó nói lắm hả con? Cứ nói đi, u nghe đây…
Tĩnh bắt đầu kể về chị Nga. Anh kể hết, nhưng khổ nỗi, anh
cũng chẳng biết gì nhiều về chị:
- Một cô giáo cấp hai, chồng đi B đã hy sinh, có một đứa con
trai hai tuổi. Cuộc sống cơ cực và dư luận độc địa khiến cô ấy phải bỏ nhà bế
con ra đi. Cái buổi chiều trên mảng và cái đêm ở nhà ga, con thấy cô ấy là người
mà chưa từng gặp… Một phụ nữ biết vì người khác và dám sống vì người khác…
“Thế là nó đã phải lòng người ta rồi”, hèn nào nó ăn nói văn
hoa như thế, bà cụ nghĩ thầm trong bụng. Rỗ khổ, gần thì chẳng bén duyên cho,
xa xôi cách trở… Thương con, muốn che chở cho con không ai bằng người mẹ, dù là
một nông dân, nhưng bà cụ rất thấu hiểu lòng con…
- Bây giờ mẹ con cô ấy ở đâu?
- Con cũng không biết đích xác. Con chỉ biết cô ấy bế con ngược
lên Phú Thọ, mà thằng bé thì đang ốm.
Bà cụ không nói gì, đứng dậy xuống bếp. Thế giới của bà mẹ
chúng ta có lẽ là cái bếp. Chỉ ở đây, bà mới có thể suy nghĩ, đến thấu đáo
nghĩa tình, và đưa ra những quyết định sáng suốt. Con lợn trong chuồng nghe tiếng
lịch kịch của bà, vội vàng cất lên hững tiếng kêu ư ử. Đó là lời cầu xin, là tiếng
reo vui chào mừng của chúng. Bà cụ lấy nắm gạo đầu ra dưới ánh sáng cuối ngày,
ngồi nhặt những hạt thóc.
Tĩnh lo lắng nhìn những động tác của mẹ. Anh hiểu mẹ đang lo
cho anh. Trong mắt mẹ anh là một thằng trai ngang tàng, và mẹ tự hào về điều
đó. Cái lần anh lấy vợ hụt, cô Hải con bà hàng nước, chính mẹ đã an ủi anh:
“Làm trai quyết chí tu thân; công danh chớ vội, nợ nần chớ lo”. Niềm vinh quang
từ chiến trận anh đem về cho mẹ, nhưng mẹ cũng không bị choáng ngợp như những
người khác. Mẹ dặn anh: “Còn có những người chết, không về. Con liệu mà vui mừng
cho phải lẽ”.
Tiếng xoa gạo sàn sạt khiến Tĩnh không thể nào yên tâm. Anh
mon men đến định hỏi, nhưng lại không dám. Có thể mẹ buồn, có thể mẹ giận… Thôi
hãy cứ để như thế. Thế nhưng còn anh? Tĩnh bắt đầu chất vấn mình. Anh đã nghĩ
thế nào về người phụ nữ anh gặp dọc đường? Hai mẹ con cô ấy sẽ ra sao nếu họ
không gặp anh? Và rồi họ gặp anh họ sẽ ra sao? Những lời hứa hẹn và những việc
anh làm cho mẹ con họ có phải là tình yêu? Đã mấy tháng nay anh bồn chồn. Mấy
ngày đầu khi về với mẹ, anh quyết định sẽ quay trở lại đi tìm mẹ con chị Nga.
Nhưng rồi, bên mẹ và gia đình làng xóm, anh đã có những ý nghĩ khác. Anh muốn
quên, muốn quên đi cũng như những câu chuyện qua đường thường thấy. Anh có cuộc
sống riêng của anh. Mẹ cộnh có cuộc sống của họ. Không ai có thể bắt lỗi anh được.
Anh đã làm hết mình, làm những gì cần làm. Thế nhưng một thời gian sau anh càng
lúc càng thấy trong lòng mình không yên. Tĩnh thường mất ngủ, dù anh đã quyết bỏ
nghề san trang, nhưng hình như anh thấy nhớ rừng, nhớ sông nước. Cái buổi chiều
thổi cơm nhờ bên bến sông đã làm anh thao thức. Hay là anh lại sẽ lên rừng, sẽ
xuôi mảng và trở lại bến sông. Nhưng…, ở đó không còn gì nữa. Dòng sông cũng
không còn gì cho anh nữa.
Hai chữ “phải lòng” không đủ sức chứa nỗi niềm của Tĩnh. Ở
đây chẳng phải là một mối tình si thông thường của người đời. Hình như nó có
cái gì đó như một định mệnh. Tĩnh không muốn ra khỏi nhà, không muốn nói chuyện
với ai. Bà mẹ biết nhưng không biết cách can thiệp. Con trai bà là một kẻ ngang
tàng, và can trường, bà biết…
Bữa cơm tối hôm ấy, dưới ánh đèn tù mù, hai mẹ con im lặng
cho hết bữa. Hình như ai cũng nhai trệu trạo, ai cũng muốn ngẫm nghĩ hơn là ăn.
Lần đầu tiên, sau bữa cơm mẹnói với Tĩnh:
- Con cất dọn mâm bát đi. Để u ngồi đây ăn miếng giầu…
Tĩnh lẳng lặng làm. Anh rửa bát, dọn mâm rất chăm chú và cẩn
thận, đến nỗi chính anh cũng ngạc nhiên. Sao lại không huýt sáo lên một bài vui
vui nhỉ? Anh huýt sáo nhưng hơi hướng cứ đi đâu mất, chỉ là những tiếng thào
thào qua kẽ răng. Bực mình thật…
Tĩnh trở lên nhà, đã thấy mẹ đặt sẵn một xấp tiền chặn cái
cơi trầu:
- Ngồi đây u nói này, Tĩnh!
Tĩnh ngồi ở một góc chiếu, nhìn mẹ. Anh đã hiểu.
- Ngày mai, con đi tìm hai mẹ con cô giáo Nga đi…
Tĩnh cảm động:
- Con cũng có ý định ấy, nhưng…
- Được rồi, con cứ đi tìm, đúng như lời con đã hứa. Không nên
để lời hứa thành lời đầu môi, chót lưỡi. Tiền đây, con cầm cả lấy mà chi tiêu
cho chuyến đi.
Tĩnh cầm xấp tiền lên, nhẩm đếm:
- Nhiều quá u ạ, chắc không dùng đến thế đâu.
- Cứ mang đi. Đường xa tiền bạc không biết thế nào là nhiều với
ít.
- Con cầm một trăm thôi, còn để lại cho u giữ…
Bà cụ vươn cổ ra khỏi hè, nhổ miếng nước trầu rồi như tiện
tay, móc trong túi áo ra một cái bọc:
- Đây là cái vòng bạc, cái vòng con đeo hồi còn bé. U đưa cho
con mang theo, gặp đứa bé, con hãy đeo vào cho nó.
Tĩnh thẫn thờ:
- Sao lại thế?
- Nếu con thấy không cần thì thôi. Nhưng hãy cứ mang theo.
Bây giờ Tĩnh mới hỏi một câu mà anh chợt nghĩ ra:
- U ạ, nếu gặp người ta, con phải làm thế nào? Hay là con đưa
cô ấy về đây với u?
Bà cụ đứng dậy, vào giường:
- Sao anh lại hỏi u câu ấy? Anh cứ làm đúng như những gì anh
nghĩ. Thấy đúng thì cứ làm, nếu vạn nhất có sai lầm cũng không có gì phải hối hận…
Đêm ấy Tĩnh đã thức trắng đêm, tiếng gà xao xác ba canh đã vật
vã, cật vấn anh theo từng chặp. Tĩnh có cảm giác như một định mệnh đã gắn đời
anh với mẹ con người đàn bà bất hạn ấy. Chẳng thế mà, lúc chia tay với tiếng
khóc tức tưởi, ngọt ngào của chị Nga, Tĩnh phải cố nén lòng. Anh chỉ đứng lại một
chút nữa thôi, thì chính anh cũng bật khóc, và không thể đi được nữa. Anh cũng
nghĩ mình không thể xa họ được, mà quay lại chỗ ông Thuần và anh em sơn tràng,
xem có lấy được ít tiền, rồi đuổi theo. Anh đã đi như chạy. Nhưng khi đoàn tầu ầm
ầm kéo đến và tiếng người nhốn nháo, anh nghe thấy thoảng trong gió tiếng kêu cứu
của chị Nga. Rất mỏng manh, rất mơ hồ, nhưng lại rất rõ nét bởi âm sắc của lời
cầu cứu hình như đã được ghi lại trong tâm trí anh. Tĩnh rảo bước nhưng không
đi nổi, bởi trong gió thoảng, trong tiếng bánh sắt nghiến rầm rập ấy, có tiếng
chị Nga. Tĩnh vội vã chạy ngược trở lại, và anh lao vào ôm lấy thằng bé. Không
thể chậm hơn!
Anh đã hối hận khi không đưa ra quyết định kịp thời ngay từ
cái hôm đưa thằng Hận ra viện. Đêm ấy là một đêm khó khăn nhất trong đời anh.
Phải từ biệt mẹ con chị Nga trong một hoàn cảnh éo le như thế đã cứa xát trái
tim Tĩnh biết chừng nào. Có tất cả ba con đường, anh đã chọn con đường bỏ chạy.
Ừ mà sao mình không đi cùng Nga? Sao mình không biết hoặc không nghĩ đến con đường
trước mắt của hai mẹ con cô ấy? Còn một con đường nữa là đưa Nga cùng về với
mình, với mẹ? Anh sợ gì? Sợ dư luận và tai tiếng ư? Cuối cùng anh đã chọn con
đường bỏ đi, để đến bây giờ thấy nhói đau trong lòng.
Thôi, Tĩnh ơi, hãy cố chợp mắt một lúc, lấy sức để sáng mai
anh hãy lên đường đi tìm người anh yêu quý. Tĩnh ra sức dỗ giấc ngủ, và khi nó
đến, anh nằm chiêm bao thấy mình đã tìm được mẹ con chị Nga. Họ đã tìm thấy
nhau, và thằng Hận, đứa con trai người gỗ Pinôkiô của anh đã tung tăng đi lên
phía trước, trên con đường đầy ánh sáng và hoa. Anh cố sức gọi “Con ơi!”, và đuổi
theo những bước chân nhỏ bé lon ton của nó. Nhưng rồi, Nga kéo anh lại, bằng
bàn tay nhỏ bé, ấm áp… Hai người anh và Nga nắm tay nhau đi theo nó, đi mãi…
cho đến khi mẹ gọi:
- Tĩnh ơi! Trời sáng rồi… Dậy đi con!
Anh vẫn còn thấy tiếc giấc mơ. Giấc mơ lành, đầy ngọt ngào
thi vị. Nhưng… cuộc đời này, giữa giấc mơ và hiện thực luôn có những khoảng
cách không dễ gì lấp đầy.
Buổi sáng ấy, Tĩnh lên đường tìm chị Nga, nhưng cuộc tìm kiếm
ấy đã không dễ dàng chút nào, mà nó kéo dài suốt mười năm! Phải mười năm sau, họ
mới gặp nhau. Đó là một định mệnh khắt khe, và độc ác của cuộc đời!
Thật ông Trời cũng có mắt, chị Nga nghĩ thế, khi hai mẹ con
chị có được một chỗ trú thân trong cái chái nhà than của cửa hàng ăn uống. Trưa
hôm sau, ông Thức cửa hàng trưởng đi họp về, tạt vào đã thấy cái chái vốn trống
hoang, trống hoác đã được quây kín thì lắc đầu:
- Cô này giỏi nhỉ? Lấy đâu ra những thứ này? Ông chỉ vào những
tàu cọ chị Nga đã thưng làm vách.
Chị Nga từ đống than sau nhà chạy ra, hai tay đen nhẻm, rụt
rè:
- Bác ạ! Chị Thắm chỉ cho em đấy. Không biết có ảnh hưởng gì
đến cửa hàng không hả bác?
- Không sao! Cái bà Thắm này cũng đáo để nhỉ. Bà ấy là vợ liệt
sĩ, một nách nuôi bốn đứa con đấy. Được cái chúng cũng ngoan và lớn cả. Ghê gớm
ra phết nhưng được cái hảo tâm, tốt bụng. Thế bố thằng cháu nhà cô đâu?
Ông Thức bộc trực quá, thấy cái gì là hỏi, dễ gây ra ấn tượng
một người ỷ quyền thế, hay lục vấn, chẻ hoe. Nhưng, tính ông lại xuề xoà, mau
quên. Hỏi thế thôi, trả lời cũng được, mà không trả lời cũng chẳng sao. Chị Nga
lúng túng, không biết để hai bàn tay toàn than của mình vào đâu:
- Dạ… bố cháu… mất rồi ạ!
- Cô từ bên Thái Nguyên sang à? Này, dạo trước tôi cũng đóng
quân ở bên ấy mấy năm trước khi đi B. Cô có biết trung đoàn 165 của sư đoàn 312
không?
Chị Nga càng lúng túng:
- Vâng, em có nghe!
- Bên ấy cũng khó khăn nhỉ. Dân “con củ” cô biết không? Khoai
lang ấy mà… Có câu chuyện buồn cười thế này, một ông nông dân ra ruộng của mình
thấy rõ ràng dấu chân người, mà phân thì lại phân chó! Hơ hơ… đói quá, dân ta
ăn khoai lang cả vỏ. Khổ thế! Không biết bây giờ thế nào?
- Cũng vẫn khổ lắm bác ạ.
- Ừ thôi, tôi hỏi thăm qua cô một tí cho biết. Cô cũng đảm
đang đấy. Chịu khó làm ăn, anh em chúng tôi thấy cô lưu lạc thì thương cô.
Nhưng mà này, tôi dặn cô một câu, một câu thôi: chớ có tắt mắt! Tôi ghét nhất
là ăn cắp vặt, thế nào cũng có người thấy, mà không ai thấy thì trời thấy! Thiếu
thì xin, xin người ta không cho thì nhịn. Nhất chết chứ đừng ăn cắp. Ăn cắp dù
một nắm than, tôi biết là tôi đuổi đấy. Tôi coi cô như em mới nói thế, đừng giận!
- Vâng! Em xin nghe lời bác…
- Tôi đi đây! Có khó khăn gì thì hỏi bà Thắm. Tôi hay đi vắng
lắm…
Chị Nga bần thần nhìn theo cái dáng đi hơi gù, một bên vai xệ
xuống và đôi chân tập tễnh của ông cửa hàng trưởng mà ứa nước mắt. Người đâu mà
tối thế!
Thời gian đối với chị Nga thật chẳng có ý nghĩa gì, nếu không
có thằng Hận. Chị không mong gì cho mình, dù tháng ngày dài hay ngắn, nhanh hay
chậm, chị không bận lòng. Nhưng còn thằng Hận, nó phải lớn, phải lớn thật
nhanh. Trong những đêm vắng, hai mẹ con nằm trong cái chái nhà quây lá cọ, chị
Nga ôm con mà lòng thật chua chát. Đôi lúc chị lại tự vấn lòng mình. Tại sao chị
phải bỏ làng vào Soi Vạt, sống như một con bệnh hủi, bị cộng đồng hắt hủi. Chị
cứ sống đàng hoàng giữa làng giữa nước, sợ gì ai. Ừ thì anh Kỳ đi bộ đội ba năm
rồi có giấy báo tử. Ừ thì có giấy báo tử của anh Kỳ hơn một năm sau chị mới đẻ
thằng Hận! Thì đã sao? Tại sao chị lại không có quyền có con? Mà tại sao người
ta lại cứ phải hỏi nó là con ai. Rõ ràng nó là con anh Kỳ. Không! Nó không thể
là con anh Kỳ, mặc dù nó mang họ Trần. Chị thì không sao, chị sống thế nào cũng
được, nhưng còn thằng Hận, nó là giòng dõi họ Trần, nó phải được mang họ Trần
và được hưởng tất cả những gì mà nó đáng được hưởng.
Chị đã chạy trốn, điều ấy chỉ chứng tỏ chị có lỗi. Nhưng nếu
chỉ trốn lên Soi Vạt thôi thì một thời gian sau, dư luận sẽ lắng xuống. Cười ba
năm chứ chẳng ai cười ba đời! Bỗng dưng chị hận ông lão Tuân, ông bố chồng chị,
người cha của đứa con chị. Nỗi nhục nhã ê chề luôn đè nặng xuống vai chị. Nó đã
giết chết cả tuổi thanh xuân của chị, chưa đủ, nó còn hạ gục cả cha chị, là thầy
Hoan.
Chị bật khóc trong đêm vắng khi nghĩ về cha mình. Giờ này cha
đang làm gì, hay cũng lại thao thức với con. Cuộc đời cha đặt gọn trong tranh
chấp, trong nghi kỵ. Lúc nào cũng đè phòng, cũng cảnh giác. Mấy năm nay tạm yên
tiếng súng, lẽ ra cha phải được sống thanh thản. Thế mà con đã giết cha. Giết
mà cha không chết, cha sống để ôm hận. Ôi, nhưng nếu cha biết con gái cha lại
ăn nằm với bố chồng để đến nỗi sinh con đẻ cái, thì hẳn cha đã ngã gục rồi…
Gà gáy liên hồi, chị Nga thao thức rồi ngồi dậy, xoay nhẹ đầu
thằng Hận ra khỏi cánh tay, đặt cho nó ngay lại rồi bước xuống đất ra ngoài.
Mùa thu trung châu sớm giăng sương bụi. Chị vào bếp nhóm bếp than. Đó là công
việc mà chị em trong cửa hàng nhờ chị Nga. Chị thấy vui khi được làm việc. Càng
nhiều việc càng tốt. Ai nhờ gì chị cũng làm, làm nhiệt thành, từ giặt khăn bàn,
rửa bát, đến quét nhà nhóm lò… việc nào chị cũng làm gọn ghẽ, sạch sẽ. Mỗi lần
xong việc nắm than của mình, chị ngồi không mà không ai nhờ việc gì, chị thấy bồn
chồn, lo lắng.
Thằng Hận đã lớn. Nó là một đứa trẻ ngoan và đẹp như thiên thần,
không ai có thể ngờ rằng mẹ nó chỉ là một mụ nắm than với hai bàn tay đen đủi.
Nước da nó trắng hồng, đôi môi đỏ như được tô son. Mọi người đều thích nó, nhất
là những cô gái chưa lấy chồng, nhìn vào khuôn mặt có mái tóc loà xoà trước
trán, với cặp lông mày xếch xiên trong xô vào tận sống mũi của nó, hứa hẹn một
chàng trai tuấn tú, thông minh. Tuy thế, không khỏi có những cặp mắt đố kỵ,
ghen tức. Không biết nó ăn gì mà xinh đẹp thế? Mà có phải con nhà giàu có gì
cho cam? Một con mụ nắm than công nhật, loại người thấp hèn, mạt hạng nhất thì
có gì cho nó ăn, nó mặc? Con nhà người ta, nào có thiếu gì cá thịt, vậy mà sao
vẫn xanh xao, còi đẹt?
Lúc đầu chị Nga tự hào về đứa con của mình, nhưng dần dà, chị
nhận thấy có những cái nhìn không mấy thiện cảm, chỉ vì nó đẹp quá, nó khoẻ mạnh
quá, chị thấy lo. Ông Thức mỗi lần đến thấy nó, thì ngồi thụp xuống tóm lấy
“con chim” của nó, nức nở:
- Con cái nhà nào mà đẹp thế này không biết? Cô Nga này, vợ
tôi mà đẻ được đứa con xinh đẹp khoẻ mạnh như thằng Hận của cô thì tôi phải bảo
bà ấy đẻ lấy chục đứa…
- Bác quá khen cháu nó hư đấy bác ạ!
Vợ ông Thức không đẻ được. Đó là lỗi tại ông. Ông đi bộ đội
vào chiến trường trở ra, sốt rét trọc đầu, lại bị thương lệch vai, khiểng chân.
Thương tật thì không sao, nhưng không đẻ được đứa con thì thật đau khổ. Vợ ông
là giáo viên dạy cấp một. Người ta khuyên ông xin lấy đứa trẻ làm con nuôi,
nhưng ông không muốn. Ông nghĩ thế nào, chả ai hiểu, đến vợ ông cũng không hiểu
ông. Người ta ưu tiên cho ông cái chức cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống, ông tận
tình, nhưng cũng không mấy thiết tha. Mọi chuyện đều giao cả cho bà Thắm, bà vợ
liệt sĩ bốn con.
- Này cô, bố cháu hy sinh ở chiến trường nào? Khi đã quen
thân, biết được chuyện của chị Nga, ông Thức hỏi. Lần này, không thể lảng tránh
mãi được, chị Nga đành trả lời theo đúng như người ta đã ghi trong giấy báo tử
của anh Kỳ:
- Em cũng không biết rõ lắm, chỉ thấy báo là anh ấy hy sinh ở
“Mặt trận phía Nam” thôi ạ!
Ông Thức lại được dịp cằn nhằn, mà cằn nhằn rõ to:
- Phía Nam thì đúng rồi, không lẽ lại phía Bắc? Chiến trường
mênh mông thế, ai biết đâu mà tìm. Thì cũng coi như mất tích! Có mấy cái kẹo Hải
Châu, cô cầm lấy cho thằng bé…
Chi Nga ái ngại:
- Bác cho cháu nhiều thế? Các bac thương đã cho mẹ con em được
ở nhờ, lại có việc làm, em còn chưa đền ơn được.
- Ơn huệ gì cái nhà cô này! Hay là cô cho thằng Hận làm con
tôi nhé? Ông Thức nói bằng một giọng nửa đù, nửa thật, nhưng chị Nga nghe thấy
rất rõ nỗi khát khao được làm cha của ông. Lần này, ông Thức nhìn chị Nga cười
nheo mắt, ý như ông nhất quyết không để cho chị được lảng chuyện như những lần
trước. Thấy chị Nga cứ cắm cúi, không trả lời, ông giục:
- Sao? Cô thấy thế nào?
Chị Nga ngửng lên, đôi mắt buồn xa thẳm:
- Đời em chỉ còn mỗi mình cháu, em làm sao xa cháu được? Em
chỉ mong cho cháu lớn khôn, rồi lúc ấy đời em coi như xong…
- Thì ai bắt cco xa nó đâu? Nó vẫn là con cô mà… Chỉ cần nó
nhận tôi làm bố, bà nhà tôi là mẹ, là được rồi.
- Thế…? Thôi, em sợ lắm! Nhỡ nó thấy em nghèo,nó bỏ em thì em
chết! Chị Nga gượng cười, làm như đó hoàn toàn là chuyện đùa.
Ông Thức thôi không nói nữa, nhưng bỗng hỏi:
- Thế chế độ chính sách con liệt sĩ của cháu thế nào? Ở bên ấy
người ta không lo cho nó à…
Lần này thì chị Nga không thể trả lời được. Chị cúi xuống gần
sát đống than, cố giả vờ không nghe câu hỏi của ông cửa hàng trưởng. Nước mắt
chị lại sắp ứa ra, chị quệt một ngón tay lên ngăn giòng nước mắt sằp trào ra, để
lại một vệt nhọ ngang bên má. Ông Thức thấy thế thì cũng không hỏi nữa, lặng lẽ
quay đi. Nhưng không phải lúc này, mà ngay từ hôm đầu tiên gặp mẹ con chị, ông
vốn là người đi đây, đi đó, hiểu nhiều chuyện, ông đã ngờ đến một câu chuyện
không bình thường rồi. Thì có trắc trở, bất an thì người ta mới lưu lạc đến
đây, ông nghĩ thế, và ông sẵn lòng thương người, đã cưu mang mẹ con chị. Nhưng
như mọi người đàn ông khác, ông nghĩ thếnào cũng có dịp hỏi cho ra nhẽ. Không
thể để một đứa con của người liệt sĩ sống lưu lạc, thiếu thốn như thế được.
Chị Nga bắt đầu dạy học cho con trai. Và chị đã thất vọng! Một
lần nữa, trời cao đã hành hạ chị, nhất quyết không buông tha người thiếu phụ
này.
CHƯƠNG 14 -
Ô
ng lão ra đi vào một đêm tối trời, dường như để lánh mặt người
làng. Hành lý của ông lão chỉ gồm có một bộ quần áo được coi là tươm tất nhất,
chiếc áo gụ hơi bạc mồ hôi, cái quần kaki của anh Kỳ để lại cũng đã sờn bạc. Với
số tiền tổng cộng được gần hai mươi lăm đồng bạc, trong đó có đến quá nửa là loại
giấy một hào, hai hào, do tích cóp mà có, số còn lại là tiền liệt sĩ của anh Kỳ,
của nhà nước.
Vào những tháng năm ấy, hẳn nhiều người còn nhớ việc đi lại bằng
xe ô ô khách là một cực hình. Cả tỉnh chúng tôi chỉ có một bến xe Đồng Quang,
mà xe thì ọc ạch, giờ giấc thì phập phù, hành khách lèn chật cứng, còn tài xế
là những người mà vừa là hung thần, vừa là tên lưu manh mạt hạng. Xe ô tô của
nhà nước, thường được ca ngợi là của nhân dân, tài sản của toàn dân, nhưng rơi
vào tay tài xế nó đương nhiên là của báu để kiếm chác, để diễu võ giương oai. Đến
nỗi, trong quân đội vẫn có câu: “Trung uý thiếu uý, không bằng một tí lái xe!”.
Vì thế, ông lão Tuân không thể chọn con đường xe ô tô khách để đi Phú Thọ. Ông
quyết định lấy con đường tàu hoả, lên từ ga Phổ Yên để về Hà Nội, rồi từ ga
Hàng Cỏ, ông lại lên tàu đi Phú Thọ. Con đường đi của mẹ con chị Nga cũng là
con đường ấy, tuy xuất phát từ một bến sông, con đường định mệnh...
Chuyến tàu xuôi khởi hành lúc chín giờ tối xuôi xẻ. Nửa đêm,
ông lão về đến ga Hàng Cỏ. Ông lão Tuân không lạ gì nhà ga này, tuy là một nông
dân nhưng ông đã từng có nhiều lăn lộn trên bến tàu, nhà ga, đường phố... với
những tháng ngày lưu lạc giang hồ thời trẻ. Và gần đây thôi, những năm đói kém,
những chuyến buôn bán sắn khô, khoai lang, lạt dang, củ nâu... đổ xuống ga Long
Biên, hay còn gọi là ga Đầu Cầu. Thời trẻ khoẻ ấy đã qua rồi, ông và mấy anh bạn
buôn tàu sau khi bán xong hàng, tản bộ vào chợ Đồng Xuân tìm một cửa hàng phở.
Ai “không người lái” (phở suông, không có thịt) chứ ông Tuân cứ là phải tìm cho
được món xá xíu, thịt quay, đánh một bát to, rồi ra vỉa hè sà vào quán chè
chén, làm năm xu, một hào, rồi bắn nhờ điếu thuốc lào. Gần sáng lại cuốc bộ ra
ga Hàng Cỏ, mua vé tàu hẳn hoi, leo lên toa tàu chợ, tìm chỗ gà gật...
Bây giờ ga Hàng Cỏ đã khác. Cái đồng hồ to ngất nghểu trên
nóc nhà ga không còn, nhìn nhà ga cũng không còn cái vẻ oai phong mà trẻ trung,
từng trải mà dễ tính như ngày trước. Người đi lại buôn bán khá đông, công nhân,
bộ đội, học sinh... rầm rập. Cảm giác mất an toàn ngự trị. Công an và kẻ móc
túi khá nhiều. Anh công an, anh bảo vệ đeo băng đỏ thì nhắc nhở hành khách cẩn
thận kẻo móc túi, lừa đảo, trấn lột. Còn kẻ lừa gạt, xách làn, bạc bịp... thì vừa
lân la gạ gẫm vừa doạ “công an đấy” để ù té, làm ăn.
Bây giờ ông lão cũng đã khác, không còn cái vẻ ung dung tự
tin như một thời tráng kiện, gặp thằng đạo trộm thì sẵn sàng ra oai cho một đòn
gánh. Ông lão Tuân ôm cái bị vào lòng tìm một góc khuất, hạ lưng tựa vào mảng
tường cáu cáy, giả vờ lim dim. Ông lim dim thế, nhưng rất cảnh giác, một là
không để kẻ gian nào mon men lại gần, hai là hễ quầy bán vé đi Phú Thọ mở cửa,
là có thể nhỏm dậy, lao tới, đút tiền lẻ vào cái khe bẹp, không lọt bàn tay, nhận
tấm vé bằng bìa cứng, bằng hai ngón tay chéo. Ấy nó nhỏ thế nhưng lại đủ sức
kéo ông đi mãi tận phương lai xứ sở nào, tuỳ theo cái giá tiền ghi trên đó.
Tự dưng, trong tiếng bát nháo của loài người di động, ông lão
nghĩ: sao con người ta lại có số nhỉ? Số may, số rủi, số nhàn, số sướng, số
nghèo, số giàu, số có phúc, số bạc phận...? Là ông nghĩ về người em họ, con bà
cô ruột mình, tên là Đạo, nhà ở chợ Hoà Bình, đằng kia. Kể ra, thoạt đầu khi
tính kế ra đi tìm mẹ con chị Nga, phải qua Hà Nội, ông có nghĩ đến ông em này.
Đó là một người họ hàng của ông, tuy không tốt nhưng không thể bảo là anh ta xấu.
Không hại ai, cũng không làm lợi cho ai, có chăng chỉ làm cho người ta ghét. Có
một dạo, khi bà cô còn sống, anh ta cũng có mấy lần về quê, chả biết thật hay
giả, Đạo “thẳng tính” một cách... hợm hĩnh:
- Ối giời ơi! Bác làm gì mà cứ đầu tắt mặt tối thế chả biết.
Người Hà Nội chúng em cứ là sáng bảnh mặt trời ra mới chui ra khỏi chăn, mà
cũng có kém gì ai. Ờ mà này, nước giếng nhà bác nó làm sao ấy, giặt xà phòng nó
cứ nhờn nhờn, kinh bỏ sừ! Nước máy ở Hà Nội giặt đến đâu sạch đến đấy...
Lần khác, anh chàng con cô ông Tuân lại giả lả:
- Nói thật với các bác chứ, đúng là em chả biết gì sất. Thế
cái cây kia nó là cây cỏ hay cây lúa?
- Thế chú không phân biệt được cây cỏ với cây lúa à? Ông Tuân
đáp nhời ông em. Để tôi kể chú nghe. Ngày xưa, dưới trần gian chưa có cây lúa
làm lương thực cho con người đâu... Con người ta sống bằng hoa quả, thịt chim
chóc, cào cào châu chấu thôi. Ông Trời thấy thế mới thương tình, cử một ông Thần,
đem hai thứ hạt cây xuống gieo cho trần gian có cái ăn. Hai thứ này giống nhau
lắm, để cho bọn người ngốc như chú không biết. Một thứ là cỏ, một thứ là lúa. Hạt
lúa, Trời bảo Thần reo vung ra cho rộng rãi, còn thứ hạt kia là cỏ thì rắc từng
cụm, từng cụm, ít thôi. Thần nghe tai nọ xọ tai kia mới đem gieo cỏ vung ra khắp
gầm trời, còn lúa thì rắc từng nhúm nhỏ. Đấy, thế là bây giờ cỏ thì mọc tứ tán,
tràn lan, còn lúa thì lại hiếm hoi, ít quá. Thấy thế Trời mới nổi giận, bắt vị
Thần kia hoá thành con trâu, xuống hạ giới phải kéo cày để làm ra hạt thóc mà
chỉ được ăn cỏ...
Ông Đạo cười khơ khớ:
- Chuyện hay nhỉ? Bố sư, cái lão Thần, à mà cái con trâu ngốc
nghếch kia vung nắm thóc ra thì có phải bây giờ sướng biết mấy, chả phải cấy
hái đầu tắt mặt tối, cứ việc ra đồng mà gặt lúa, bác nhỉ!?
Khi chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Giôn- xơn, vợ chồng
con cái anh ta cũng về ở nhà ông đến hơn hai năm trời. Thế là cũng gắn bó lắm,
cũng thân thiết lắm. Nếu bây giờ ông có đến nhờ vả Đạo thì cũng là công bằng,
phải lẽ... Ông lão lại nghĩ, ấy những người Hà Nội như Đạo, tuy nói tục như
ranh, lưu manh nhất hạng nhưng lúc nào cũng sướng, cũng phởn phơ. Họ ăn nói, đi
lại, khạc nhổ... giữa ngoài đường ngoài phố mà không khác gì ông ở trong bếp
hay trong chuồng xí nhà mình? Chả thế mà dân gian đã có câu: “Tự nhiên như người
Hà Nội”, và cũng những trường hợp tương tự, họ lại nói tránh đi, là “tự nhiên
như ruồi”. Ông lão bật cười, thế chả hoá ra người Hà Nội cũng như con ruồi, con
nhặng à?
Có tiếng rao bán bánh mì ở ngay trên đầu ông lão Tuân, ông không
thấy đói, nhưng ông thèm. Ông thèm cái bánh mì, thèm cái mùi phố thị, và thèm
được bát phở xá xíu bốc hơi và mùi thơm của hành mỡ. Thôi nào, thèm thế thôi,
chứ ông nhất quyết không mua. Phải hà tiện, đường còn dài... Một cơn mưa ào ạt
kéo đến, nước tràn xuống các rãnh nước làm dềnh lên mùi ống cống nồng nặc, lập
tức dập tắt cơn thèm của ông lão. Người chạy rầm rập, sát sạt đến bên cái góc tối
ẩm ướt của nhà ga. Có hai người thanh niên hạ hành lý của mình xuống cạnh ông
Tuân, rồi một người đặt đít xuống chỗ gạch còn trống. Ông Tuân tảng lờ như đang
ngủ, nhưng tất cả tinh lực ông đang căng ra, cảnh giác hết mực. Một người nói:
- Bố sư con “phò”( ), nó tưởng bở ăn, cứ dính lằng nhằng, làm
mất cả việc...
Ông Tuân không biết “con phò” là con gì, nhưng cũng đoán ra rằng
đó là một con người, mà là đàn bà con gái, chắc là ghê gớm lắm...
- Đéo mẹ, trông người như con ve, mà đòi những một cụ! Có cho
không thì tao cũng làm được một quả! Hơ hơ... tiếng một người khác.
Một “cụ” thì ông biết, và thế là ông cũng biết họ đang nói về
một cô gái điếm.
Tiếng hai người đàn ông nói với nhau không to lắm, nhưng cũng
không phải là nhỏ, là thì thầm, đủ biết họ từng trải cảnh này. Lại tiếng một
người:
- Bình này, mày bảo con phò đấy là dân Hà Nội gốc hay tỉnh
nào lên?
- Chắc là dân tứ xứ thôi... Chứ dân Hà Nội gốc nó có tem phiếu,
làm gì đến nỗi.
- Tao cũng nghĩ thế, mà như thế thì thì khổ quá nhỉ...
Im lặng một lúc, có tia lửa xoèn xoẹt từ một cái bật lửa bằng
xăng, họ châm thuốc hút, mùi khói thuốc lan toả, bỗng dưng ông lão Tuân thấy
thèm một mồi thuốc lào. Tiếng Bình:
- Này Ngọc, sao tự dưng tao lại thấy thèm cái hồi chúng mình ở
với nhau ở Đac Tô, Tân Cảnh quá. Lúc ấy tao nghĩ, nếu mà sống sót trở về thì dứt
khoát không phải khổ, không phải tủi nhục. Nào ngờ...
- Ai mà chả nghĩ thế. Nhưng dù sao bây giờ cũng sướng chán.
Có khổ, có nhục một tí nhưng không lo phải chết. Còn giữ được cái gáo là may lắm
rồi. Đấy, hôm mày sang tao, bà cụ mẹ thằng Tuyên vừa ở nhà tao về, lại khóc
lóc, nhớ thương con. Cái thằng Tuyên bẻm mép ấy. Bây giờ mà có nó đi với chúng
mình thì hay biết mấy...
- Hôm nó chết, tao đi nhặt xác nó tan thành mấy mảnh. Hình
như chỉ còn có một cánh tay... Tiếng anh tên Ngọc.
Họ lại im lặng. Ông lão Tuân đoán biết đây là hai anh bộ đội
phục viên, hình như họ cùng đơn vị với nhau. Giờ họ gặp nhau thế này, không biết
họ đi đâu nhỉ?
- Bình, mày bảo có ma không? Là tao hỏi có linh hồn thật
không? Họ lại tiếp tục câu chuyện.
- Tao không biết, mà từ bé đến giờ tao có gặp ma bao giờ đâu.
- Tao thì nghĩ là có. Hôm chôn cất thằng Tuyên xong, đêm về đến
phiên tao gác, có một con đom đóm to bằng quả trứng gà ấy, nó cứ lởn vởn quanh
trận địa. Tao cũng sợ, đom đóm gì mà to thế, chưa thấy bao giờ. Lúc sau nó cứ
chập chờn, đến gần chỗ tao, rồi lại lảng ra. Bất đồ tao nghĩ hay là linh hồn thằng
Tuyên? Tao hỏi nhỏ, gần như là nói thầm, sợ có người nghe thấy. “Tuyên ơi, có
phải mày không? Nếu đúng là mày thì bay bổng lên cho tao biết. Có thiếu gì thì
đợi ngày hoà bình về, chúng tao cúng, chứ bây giờ thì chả có gì đâu”. Là tao cứ
lẩm bẩm thế, bất ngờ cái cục sáng đó vọt lên trời cao, rồi tắt ngấm... Tao vừa
sợ, vừa tiếc. Giá nó đến gần hơn, cho mình hỏi một câu.
- Mày định hỏi câu gì?
- Thì câu gì cũng được. Mà tao sẽ hỏi bao giờ thì chiến thắng,
thì hoà bình?
Tiếng cười khùng khục của Bình:
- Mày chỉ hỏi vớ vẩn. Nó là lính tráng như bọn mình thì biết
quái gì mà hỏi.
- Biết chứ! Người chết trẻ là thiêng lắm. Chưa biết chừng, ở
trần gian nó làm lính, lúc chết nó làm tướng cũng nên. Với lại ở cõi trên, cái
gì chả biết. Đấy mày xem, chúng mình là người trần, mắt thịt ở dưới này, đứa
nào làm cái gì thất đức, ác độc, trên ấy biết cả đấy...
Không thấy Bình nói gì, ông lão Tuân thấy yên tâm. Ông bỗng
thấy quý mến hai người bạn đồng hành đêm nay.
- Nếu thế thì tao phải khấn thằng Tuyên mới được. Tuyên ơi, bữa
nay tao với thằng Ngọc đi mót sắn, mày có khôn thiêng thì phù hộ cho chúng tao
mỗi đứa kiếm được một gánh về đỡ vợ con. Ở nhà chúng nó đang đói... Có tiền
chúng tao sẽ cúng mày một con gà thật ngon, có cả lá chanh, chấm muối ớt...
- Sau đó để chúng tao hưởng lộc... Có thêm cút rượu nữa chứ!
- Ừ đúng đấy! Mỗi thằng một cái đùi... Nhưng thôi, chưa nói
trước, sợ bước không qua. Càng nói càng thèm!
Ông lão thấy thương hai chàng trai quá. Mà ông cũng thèm một
cái đùi gà thật thơm, thật vàng, và một hớp rượu thật cay, thật nồng. Cơn thèm
vội vã cọ quạy vào ngực ông, khiến ông bật ho thành tiếng.
- Ai thế? Mày ngó xem có phải cảnh giác không?
Khuôn mặt Bình hình xương xương ngó xuống sát mặt lão Tuân,
thì thầm: “Một ông cụ”. Lão Tuân mở mắt:
- Các anh đi đâu thế?
- Chúng con đi mót sắn đây. Thế cụ đi đâu?
Ông lão ngồi thẳng dậy, nhìn hai khuôn mặt, sao ông bỗng thấy
hao hao nhang nhác khuôn mặt anh Kỳ:
- Tôi nghe các anh nói chuyện hết rồi. Ở bộ đội về mà khổ thế
à?
Ngọc cười:
- Khổ sở gì đâu hả cụ. Chúng con nói chuyện vui thế thôi. Thế
cụ có đi mót sắn với chúng con không? Nhìn hành lý của cụ, chắc cụ cũng phải đi
xa lắm nhỉ?
- Tôi lên Phú Thọ, tìm người nhà...
- Thế thì đi với chúng con, chúng con cũng lên thị xã Phú Thọ
đây! Rồi từ thị xã chúng con còn đi nữa. Thế người nhà của cụ làm gì? Là con
hay cháu? Đàn ông hay đàn bà?
Ông lão Tuân ngẩn người ra trước những câu hỏi dồn dập của
hai anh cựu binh. Lát sau ông nói:
- Là con. Con dâu, với lại con nó...
- Thế chồng nó đâu mà để cụ phải lặn lội thế này?
Bỗng ông lão rớm nước mắt, ngập ngừng:
- Chồng nó, con trai tôi chết rồi... ông lão dường như nghĩ
ngợi không biết có nên nói ra không. Sau, ông nghĩ là có nói ra với hai anh cựu
binh này cũng chẳng việc gì. Con trai tôi cũng trạc tuổi các anh, nó hy sinh rồi,
ở mặt trận phía Nam!
Hai anh cựu binh nhìn nhau im lặng. Mặt trận phía Nam là một
mặt trân mênh mông, bạt ngàn rừng rú, làm sao mà biết một nơi nào cụ thể. Tất cả
các loại giấy tờ liên quan đến người lính chỉ có một địa danh duy nhất. Cuộc
chiến đấu của họ mang nhiều yếu tố bí mật, đã đành, suốt một thời gian dài, sự
có mặt của anh bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam không được coi là hợp
pháp. Đến cả những anh hùng, dũng sĩ cũng chỉ được báo chí nêu lên bằng cái tên
rất dễ thương: chiến sĩ quân giải phóng, và giấu biệt tăm tích quê hương, nếu
anh ta là người ra đi từ miền Bắc. Đã có hơn một triệu người như thế, mà sau
này chính các anh mới biết. Đã có một cuộc lưu lạc tập thể, rầm rập bước quân
hành mà chỉ có rừng, có đất mới hiểu nổi những bước chân các anh. Rồi ngày chiến
thắng trở về, hàng trăm đoàn xe, đoàn tàu hoả đưa các anh trở lại quê hương,
nhưng với những người đã ngã xuống, họ nằm lại với một địa chỉ quy ước: mặt trận
phía nam!
- Quê cụ ở đâu? Sao con dâu cụ không ở nhà, mà lại bỏ đi để cụ
phải đi tìm?
Ông lão Tuân nghĩ cách nói tránh đi sự thật, nhưng ông vẫn chưa
nghĩ ra được câu chuyện hợp lý. Mãi lúc sau, ông mới thở dài:
- Chuyện nó cũng dài dòng lắm, các anh ạ. Chuyện cơm chẳng
lành, canh không ngọt, để nó bế con ra đi...
Bình, anh chàng có khuôn mặt xương xẩu, cặp môi thâm và cong
tớn, đặt cái ba lô con cóc lộn trái sang một bên, giọng gay gắt:
- Thế là tệ! Đàn bà thế thì tệ thật. Chồng đi B, hy sinh mà
dám đem con bỏ nhà ra đi thì thật là quá lắm. Thế cụ có biết cô ta ở đâu không?
- Không, không phải thế đâu các anh ạ. Con dâu tôi tốt nết lắm.
Chỉ tại gia đình nhà tôi không ưa nó nên mới nên nông nỗi. Hai anh, có anh nào
ăn thuốc lào không?
- Không cụ ạ! Nếu cụ thèm thì ra cái quán nước đằng kia mà
hút nhờ một điếu, để chỗ đấy chúng con trông cho. Hay cụ hút thuốc lá?
Ông lão vuỗi lưng đứng dậy:
- Tôi không hút được thuốc lá, ho lắm. Nhờ các anh giữ hộ tôi
cái túi, tôi đi hút điếu thuốc. Từ tối đến giờ chưa được hơi thuốc, nhạt mồm
quá!
Hai anh cựu binh nhìn theo cái lưng to bè, chắc chắn, nhưng
đã hơi còng xuống của ông lão mà ái ngại. Ngọc bảo:
- Giá bố mình còn sống thì cũng trạc ông cụ này...
Bất thình lình có tiếng loa nhà ga ọ oẹ, rồi một giong nữ
phát thanh nhão nhoét theo truyền thống các nhà ga đường sắt vang lên:
“Đoàn...à tàu...à Hà...à Nội...ỳ Lào...à Cai...a đang...a từ...ừ
từ...ừ tiến...ư vào...à ga...a Hàng...à Cỏ...!”
Ô cửa sổ bán vé bỗng nhiên bật sáng, lập tức hàng chục con
người nhào tới, bâu kín. Một anh nhân viên bảo vệ đồng phuc xanh thẫm, đeo băng
đỏ, tiến đến, bằng một giọng ngái ngủ nhưng vẫn toát ra một giọng nói của kẻ vốn
xử dụng quyền uy quen thuộc:
- Xếp hàng vào! Hàng hai! Chen nhau mất trật tự thế này nhà
ga bán vé thế nào được?!
Ngọc vừa giũ quần đứng lên, vừa ngó quanh:
- Quái, ông cụ này đi lâu thế nhỉ? Bình, mày ngồi đây đợi ông
cụ, để tao ra xếp hàng!
Vừa đói, vừa thèm thuốc, điếu thuốc lào đã vật ông lão Tuân
say lâu quá. Phải mãi ông mới lật đật chạy về chỗ ngồi, nhưng nghĩ sao ông lại
chen vào xếp hàng. Nhận ra ông, Ngọc bảo:
- Cụ cứ về chỗ khi nãy, để cháu mua vé cho. Cụ di Phú Thọ à?
- Thế anh mua hộ tôi nhá! Vừa nói ông vừa móc túi ra một nắm
tiền. Đây tôi có tiền đây, anh cầm mua giúp tôi!
- Thôi con có đây rồi, tí nữa con lấy sau. Cụ cứ cất đi. Cẩn
thận cụ ạ, kẻ trộm nó móc mất bây giờ...
Theo kinh nghệm cũng như kiến thức sư phạm của mình, chị Nga
hoàn toàn thất vọng khi dạy cho thằng Hận học những chữ cái đầu đời. Dù cố gắng
hết sức nhưng chị không làm thế nào để thằng Hận học. Nó ngúng nguẩy, không chịu
học, và nếu cố gắng lắm, chị Nga bắt nó ngồi vào bàn để học thì nó chỉ cười một
cách hồn nhiên. Mọi lời nói từ ngọt ngào, dỗ dành đến qua doạ đều không có kết
quả. Chị cố gắng dậy cho nó vẽ một hình tròn, bảo nó đọc đấy là chưa “o”, thì
nó đọc thành “a”, và vẽ một hình tam giác. Một tháng trời không thể nào dạy cho
nó vẽ được một hình tròn và chữ “o”. Nhưng nếu chị dạy nó vẽ chữa “a” in, hình
tam giác, thì nó vẽ một hình vuông!
Chị không chịu đầu hàng, thử làm một vài trắc nghiệm khác nữa,
thì chị nhận thấy thằng con trai thiên thần của chị hoàn toàn là một đứa trẻ chậm
phát triển. Nó không thể nào phân biệt được dài hơn với ngắn hơn, lớn hơn với
bé hơn. Cũng như, nó không phân biệt được trong với ngoài, trước với sau… Đây
là một đòn giáng mạnh vào chị Nga, mà chị không biết kêu ai, ngoài Ông Trời!
- Trời ơi là Trời! Sao ông nỡ ăn ở bất công đến thế? Nếu tôi
có tội tình gì thì hãy bắt tội tôi đây, chứ nó là một đứa trẻ, sao Trời nỡ hành
hạ nó? Nó đã làm gì nên tội? Tất cả sai lầm hay tội lỗi do tôi gây ra tôi đều
nhận hết! Dù Trời có bắt tôi phải cực khổ, vất vả, làm thân con chó, con trâu…
nhưng hãy để cho con tôi được yên! Mà bao nhiêu năm nay và rồi có khi là hết cả
cuộc đời này, tôi đã là một kẻ hèn mọn, sống cơ cưch đến thế mà Ông vẫn chưa hả
hay sao?
Nhiều đêm chị vật vã, không ngủ được. Mà hễ cứ nhắm mắt lại,
thì lại mơ thấy thằng Hận. Nó ngờ ngệch, bơ vơ, khi chị không còn trên cõi đời
nữa… Con ơi! Con ra đời là gì cho cơ khổ thế này! Có con, mẹ đã chịu bao nhiêu
tai tiếng, cay đắng, nhục nhã. Nhưng dù cho cây đắng, tủi nhục đến đâu mẹ cũng
chịu đựng được, chịu đựng để có con, có mẹ. Mẹ chỉ mong con được thành người, một
con người bình thường như mọi người. Nào ngờ, con lại ra nông nỗi này!
Chị không muốn truy tìm nguyên nhân, nhưng chị luôn ân hận.
Đó là chuyện nó bị ngã xuống sông, chết đuối hụt. Có thể sau cú chết hụt đó và
những trận sốt ly bì, đã làm hỏng thằng bé. Cụ thể là đầu óc nó làm sao đó.
Nhưng cứ nhìn nó ăn, nó chơi, nó lớn lên phổng phao, xinh đẹp
thì chị lại không thể nào tin được. Lần chết đuối hụt và những cơn sốt nếu có
gì thì ảnh hưởng đến cơ thể bên ngoài của nó thôi chứ? Đằng này, nhìn nó không
ai có thể ngờ được nó lại là một đứa trẻ tâm thần, ngờ nghệch?
Tất cả là tại Trời! Có lẽ Trời xanh đã nổi giận! Chuyện loạn
luân trong nhà giữa bố chồng và nàng dâu đã lay động đến lòng tự ái của Trời
Già! Các người đã dám tự ý sắp đặt, tự ý sinh con đẻ cái. Cái sự tuyệt tự của
dòng họ Trần phải xảy ra, phải được thực hiện theo ý của ta. Bất cứ kẻ nào can
thiệp vào đều bị ta hành hạ, tiêu diệt…
- Không! Chị Nga đã cố cãi lại, trong đêm đen đặc, màu than
và mùi than đá. Chị đã cãi phăng phăng, dù đó là Ông Trời! Nếu không có chiến
tranh, không có cuộc binh lửa thì chồng tôi đã không phải ra trận. Sẽ không có
người chết, sẽ không có cảnh chồng vợ chia lìa! Lúc đó những đứa con sẽ được
sinh ra đàng hoàng dưới ánh sáng mặt trời, minh bạch! Nhưng các người đã làm
gì? Trời xanh có mắt như mù. Tại sao cứ đem can qua binh lửa đến cho chúng tôi.
Chúng tôi không thể tuyệt tự được, chúng tôi phải tồn tại và kéo dài mãi kiếp
người, loài người…
Tự dưng trong đêm tha hương, chị Nga nhớ về quê nhà, và chị
thấy thương ông lão Tuân! Ông lão bố chồng và là cha của con trai chị, là nối
tiếp, là không dứt bỏ một giòng giống, vốn cũng đã được duy trì trong nhiều thế
hệ. Bây giờ ông lão đang ở đâu? Liệu ông có hối hận về việc mình làm không? Liệu
ông lão có khi nào tự xỉ vả mình vì sự hèn nhát của mình trước dư luận xóm
làng, và trước những người con gái hàm hồ của mình không? Nếu ông lão can đảm
và thương yêu chị, có thể chị đã không phải bước những bước gập ghềnh đầy bất
trắc trên con đường lưu lạc này? Và nếu ông lão nghĩ lại và hối hận, biết đâu
chị Nga sẽ quay trở về với cái làng Sơn Cốt bé bỏng kia?
Đêm gió bấc đầu mùa kéo về đột ngột, sột soạt ngoài vườn chuối,
hai dòng nước mắt của chị cứ tuôn dài xuống chiếu, ướt đẫm cả một bên má con
trai…
Sáng sớm ngày thứ tư, kể từ khi đặt chân lên đất Phú Thọ, ông
lão Tuân trở dậy sớm hơn mọi ngày. Trong bóng tối lờ mờ, nhờ ánh trăng già thấp
thoáng sau ngọn bạch đàn, ông lão ngồi lần mò đếm lại số tiền trong túi. Năm-
mươi- hai đồng một hào tám, là số tiền còn lại, gồm hai đồng tiền to (mười đồng),
ba đồng tiền nhỡ (năm đồng), còn bao nhiêu là tiền nhỏ, tính cả vài đồng xu lắc
cắc, ông xâu vào một sợi lạt.
Bây giờ, với số tiền này, làm sao có thể sống đến khi tìm được
“nó”? Ông lão bần thần ngồi tựa lưng vào tấm vách ẩm, hai bàn chân lùa vào cái
bao tải rách, chống rét và chống muỗi, thỉnh thoảng lại giật bần bật. Chứng thấp
khớp kinh niên gặp gió lạnh và khí ẩm lại lên cơn hành hạ. Nhưng ông không thấy
thế làm đau, không thấy thế để nản chí.
Bây giờ, với số tiền còm trong tay, ông lão đã thấp thoáng có
ý nghĩ ân hận về việc ra đi của mình. Đây là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Chỉ có
một nguồn tin mập mờ từ anh bạn của Định Khiểng, người giao thông xã. Ông muốn
tìm người bạn của Định, nhưng lại không dám. Ông muốn việc làm của ông phải được
giữ kín, tuyệt đối giữ kín. Chính vì muốn giữ kín nên ông lão Tuân không thể
đem đi được nhiều tiền. Muốn có nhiều tiền phải bán thóc, bán gà, bán lợn… Thậm
chí có thể bán cả chiếc xe đạp của chị Nga để lại. Nhưng như thế sẽ ồn lên, đến
tai mọi người và bị lộ, chưa chắc ông đã đi được.
Nhưng ông lão đã quyết đi. Và bây giờ trong tay ông có ba nước
cờ, ông lão đã bày tính kỹ lưỡng. Nhưng cũng như người ta ngồi vào bàn cờ, quân
chưa đi, đối phương chưa bộc lộ, thì chẳng có nước nào đáng tin cậy.
Trời sáng dần, ông lão nhìn quanh, thu xếp đồ lề, cuộn tròn lại
trong cái tay nải, lững thững đi về phía chợ. Mấy ngày qua ông đã đi tha thẩn
như người nhàn rỗi, thấy người thiếu phụ nào dặt con, ông đều ghé mắt nhìn. Đôi
khi gây ra những điều khó chịu cho người ta. Vậy mà người ông tìm vẫn chưa thấy.
Hôm nay khác, một nước cờ nhỏ đã được thực hiện. Ông không đi
mà ngồi một chỗ ở cổng chợ. Cái nón mê úp lên đầu, chỉ chừa một khoảng để con mắt
nhìn nghiêng lên có thể thấy người qua lại. Một bàn tay chìa ra hờ hững… Thỉnh
thoảng, rất lâu ông mới lên tiếng, hình như chỉ đẻ cho phải lệ:
- Bà ơi, ông ơi… Xin ông bà rủ lòng thương kẻ già nua, đơn
chiếc…
- Khổ quá mất thôi! Một bà lên tiếng lẩm bẩm, tuy nhỏ thôi lại
giữa chợ ồn ào nhưng ông vẫn nghe được. Thời buổi đói kém, ăn mày, ăn xin ở đâu
mọc ra lắm thế…
Ông lão nghe tiếng người than vãn, trách quở, và cũng nghe được,
tiếng đồng xu rơi “cạch” xuống cái bát sắt. Ông hờ hững nhặt lên, nhìn chăm
chú. Đây là đồng tiền đầu tiên trong cuộc đời ngoài sáu mươi của mình, ông lão
kiếm được từ ăn mày thiên hạ. Không sao! Nó có thể giúp ta thực hiện được ý
nguyện.
Từ hôm ấy, ông Tuân trở thành kẻ ăn mày. Ta chợ, ông lần mò
đi vào các ngõ ngách. Đó là một nước cờ, nhưng cũng là một kế sinh nhai. May mắn
thay, đây là chốn tha hương, không có người nào quen biết. Ông lão yên tâm…
Thế rồi một ngày kia, mưa phùn lâm thâm, cái rét của trời đất
cùng với cái lạnh tha hương, lưu lạc và kiếp ăn mày làm ông lão chùn chân. Ông
ghé vào một cái quán nước nhỏ nằm nép cạnh cái nhà kho để hút nhờ điếu thuốc
lào. Mấy cái cột tre chống xiêu chống vẹo đỡ mấy tầu lá cọ rung lên phần phât.
Cả buổi sáng không hút, giờ đây hơi thuốc làm ông say lử đử. Ông lão loạng choạng,
tay quờ quạng, bám vội vào cái cột tre, suýt hụt, mãi mới vớ được khúc gióng,
làm cả cái lều được thể rung lên răng rắc. Đầu ghế bên kia một anh thanh niên
có khuôn mặt vuông, hai quai hàm nở nang, nhìn ông chằm chằm, khiến ông thấy
ngượng. Ông không ngượng về cơn say thuốc lào, cái thứ thuốc ma này hút phải
say. Có say mới là thuốc lào chính cống. Ông ngượng về thân phận của mình, đã
là kẻ ăn mày còn ngồi nhai xôi gấc. Nhưng có lẽ chẳng ai biết ông ăn mày, mà chỉ
có ông biết ông thôi, nhưng dù sao cũng ngượng lắm. Đã ngửa tay xin đồng xu của
thiên hạ thì còn gì là con người nữa, đến cả ngồi trong cái quán lụp sụp này,
ông cũng chẳng còn quyền ngồi ngang với người ta. Ông phải ngồi xuống đất, ngồi
ra xa góc kia cơ! Ông lão tự giày vò mình. Bông nhiên anh thanh niên ngồi nhích
lại, miệng nở:
- Cụ ngồi nhích vào trong này cho đỡ hắt. Gớm trông cụ hút điếu
thuốc mà phát thèm…
Ông lão cười tróm trém:
- Thuốc ngon là nó say thế đấy anh ạ. Anh có hút không?
- Thỉnh thoảng thôi cụ ạ. Dạo trước con còn đi rừng thì hay
hút, bây giờ ở nhà, chả làm gì, cũng phải bỏ, cụ ạ.
- Đây, thuốc đây, anh có ăn một điếu thì ăn! Trời rét thế
này, có hơi thuốc vào nó cũng ấm. Bà chủ quán, cho tôi xin một chén nước…
Người thanh niên kia mỉm cười, nửa như muốn xin điếu thuốc, nửa
lại quyết bỏ, chần chừ không dám. Mãi sau, anh nói:
- Đâu? Cụ cho con xin điếu thuốc! Rét thật đấy…
Ông lão vạch áo đưa cho anh thanh niên gói thuốc:
- Thuốc ngon đấy! Lâu không hút, anh làm cái này là say phải
biết!
Anh thanh niên châm lửa từ que đóm, rít một hơi, bỗng nhả
khói ra rồi ho sặc sụa. Anh ho đến nỗi bà chủ quán phải lắc đầu:
- Rõ khổ, không hút được thì tập tọng làm gì không biết!
Anh ngồi ngẩn ra một lúc, lấy lại sức rồi trả lại gói thuốc
cho ông lão, chữa ngượng:
- Dạo trước con cũng hút nhiều lắm, mấy năm nay bỏ nên hút lại
không được. Mà cai anh thuốc lào nó phải say, đến mấy giây ấy, như người ta
thăng thiên, cụ nhỉ?
- Thế là anh biết hút đấy. Anh người ở đây hay từ nơi khác đến?
- Dạ, con ở dưới xuôi, lên Yên Bái đảo sắn.
Bà chủ quán răng đen, cũng là người xởi lởi, thấy vậy thì hỏi:
- Đi Yên Bái sao còn xuống đây?
Anh tần ngần một lúc, rồi nói nhỏ, như người có lỗi:
- Mấy năm nay rồi, năm nào mùa này cháu cũng lên Yên Bái. Mà…
nửa đường cháu xuống đây tìm một người quen. Bà ở đây lâu chưa?
Bà chủ quán, rót từ cái tích ủ ra đầy hai chén nưới, cười
thân tình:
- Tôi cũng người dưới Nam Định, lên đây từ hồi còn con gái, dạo
đánh nhau với Pháp ấy. Sau lấy chồng, hoà bình rồi ở lại đất này…
- Cháu hỏi bà, thế bà có biết thầy giáo Hoan hồi chống Pháp dạy
học ở đây không? Dạy bình dân học vụ…?
Bà chủ quán nghĩ ngợi:
- Thầy giáo Hoan à? Dạy bình… dân… hoc… vụ? Không, tôi không
biết! Những người có tuổi thì có nhẽ biết đấy. Mới lại tôi có đi đến đâu. Ông ấy
là thế nào với anh?
- Dạ không! Cháu cũng có biết mặt đâu, nghe người nhà nói lại
thế thôi…
Trong lúc anh thanh niên vãn chuyện với bà chủ quán, ông lão
ăn mày làm như người ngoài cuộc. Ông lão né nửa người ra ngoài mưa, nhìn đâu
đó. Anh thanh niên tiếp:
- Thế mấy năm nay bà có thấy một chị phụ nữa có đứa con trai
đọ chừng ba, bốn tuổi từ nơi khác lưu lạc đến đây không?
- Nhiều lắm! Ối giời, mấy năm nay giờ làm đói, người tứ xứ đổ
về đây nhiều lắm. Họ đến một dạo, không sống nổi, lại đi… Thế anh tìm ai?
Anh thanh niên hơi ngần ngừ:
- Dạ cung một người làng thôi. Năm sáu năm nay, cháu đi tìm,
mà chẳng nghe phong thanh gì!
- Khéo thường đi rồi! Có khi đi mãi lên Lào Cai, Yên Bái… Mà
cũng có cả người vào tận trong Nam nữa kia… Thời buổi này, chim trời cá nước,
biết sao mà tìm!
Ông lão ăn mày vẫn để tâm nghe câu chuyện, dù cố làm như
không để ý. Sao người ta lại đổ dồn về cái thị xã nhỏ bé, toàn nhà tranh vách đất
này nhỉ? Để rồi người ta lại đổ đi tìm kiếm một cách tuyệt vọng như thế nhỉ?
Đâu có phải mình ông, đâu có phải chỉ có một mẹ con cô Nga? Thiên hạ không chịu
ở yên một chỗ, mà thiên hạ cũng không chịu để cho nhau được ở yên một chỗ. Vừa
suy nghĩ miên man ông vừa nhìn ra đường, câu chuyện của bà chủ quán và chàng
thanh niên có khuôn mặt vuông chữ điền vần rỉ rả:
- Anh đi có một mình thôi à?
- Có một anh bạn nữa, cũng nể cháu, anh ta xuống đây. Có lẽ tối
nay hai đứa lại nhảy tàu đi Yên Bái.
Mưa bắt đầu nhẹ dần, nhưng gió thì tạt mạnh hơn. Con đường nhỏ
lớp nhớp bùn trước cửa quán, thỉnh thoảng lại có người đi như chạy, như có ai
đuổi sau lưng để tránh gió, tránh mưa. Ở đâu đó, trong những ngôi nhà ấm cúng
đang đợi họ. Chàng thanh niên như sốt ruột:
- Ở thị xã này, ngoài cái cửa hàng ăn uống chõ ngã ba, còn chỗ
nào bán cơm không bà nhỉ?
Bà chủ quán lắc đầu:
- Chỗ đấy bán phở, mà phở cũng làm bằng bột sắn, bột mì thôi,
Anh muốn ăn cơm phải có tem gạo. Ra phía chợ có mấy bà bán cơm nhưng phải quen
mới nhận ra. Anh cứ thấy bà nào có hai cái làn mây to tướng, ngồi thu lu là bán
cơm đấy. Nhà nước quản lý lương thực mạnh lắm, ai bán là bị bắt, tịch thu rồi
còn phạt nữa!
- Vâng! Ở dưới cháu cũng thế, nhưng người ta vân bán. Chứ
không ai đi đâu xa, không là cán bộ, không có tem gạo thì có mà chết đói, bà nhỉ…
Bông vẻ mặt anh thanh niên tươi hẳn lên, nhìn người thanh niên
khác đang co ro chạy đến:
- Sao lâu thế?
Anh kia ngồi sà xuống, hai tay xoa vào nhau:
Chờ mãi cho vãn người mới hỏi. Đây này… Anh ta chìa ra một
cái gói nhỏ, bên trong là hai cái áo may ô dệt kim. Cô bán hàng cảm tình lắm đấy.
Hồi trước bọn mình cùng học cấp hai. Mình đi bộ đội, cô ta đi thanh niên xung
phong. Bây giờ theo chồng lên đây bán cửa hàng mậu dịch.
- Có hai cái áo mà mất cả buổi chiều lại còn mang ơn, mang nợ.
Tớ thì chả cần!
Anh kia cười xoà, nhét cái gói vào túi của mình:
- Chuyện tình cảm thôi. Khi nào về, ghé qua chơi, cô ấy nói
thế. Chả gì cũng đồng hương. Này, thế cậu vẫn đang tìm người trong mộng đấy à?
Anh mặt chữ điền, lắc đầu:
- Vô vọng lắm! Mấy năm rồi còn gì!
- Sao dạo ấy không đi tìm ngay?
- Thì đi ngay đấy, nhưng có biết gì cụ thể đâu. Bây giờ gặp lại
chưa chắc đã nhận ra nhau…
Anh thanh niên đến sau, châm một điếu thuốc lá, phả khói. Làn
khói tan biến vào ngọn gió bấc. Thấy bạn mình im lặng, anh giật áo:
- Này Tĩnh! Chuyến này ta không mót sắn nữa…
Người có khuôn mặt vuông chứ điền chính là anh thợ san tràng
tên Tĩnh. Nghe bạn nói thế, Tĩnh quay lại hỏi:
- Thế biết làm gì?
- Tớ có ít vốn đây, của cô bạn mậu dịch cho mượn đấy. Ta mua
sắn khô, về bán. Vừa nhẹ sức lại vừa có lời…
Tĩnh ngạc nhiên:
- Cho mượn vốn? Bao nhiêu mà dám liều thế? Liệu có đòi được
không? Thời buổi này…
Anh ta cười:
- Thời nào cũng thế. Có tin nhau mới sống được. Cô ấy còn bảo:
nếu anh biết buôn bán, lên đây em chạy hàng cho, không cần vốn! Mình bảo “Cái
thằng Thuận này, từ bé chỉ biết đánh dậm, lớn lên cầm súng, biết buôn bán bao
giờ”. Thế là cô ấy cười: “Cứ tập dần đi thành quen”. Mình nói: “Quen thì hết sạch
cả vốn”. Ấy thế mà cco ấy còn cười mình nữa chứ: “Có hết vốn mới biết buôn
bán”. Tĩnh này, gần tới giờ tàu rồi, chúng mình ghé cửa hàng ăn uống, làm xuất
cơm đi. Tớ có tem gạo đây!
Tĩnh cười:
- Lại của cô bạn học cùng lớp?
- Tất nhiên rồi! Thuận nheo mắt. Nhưng rồi mình sẽ có cách trả
lại. Mình đâu phải là thằng hèn, nhất lại là bạn cùng làng.
Tĩnh thầm nghĩ: thằng Thuận này thế mà đỏ số. Nghe người ở
nhà nói có cô bạn cùng xã, lấy chồng lên đây, thế mà nó tìm ra ngay. Lại còn được
trợ cấp nữa chứ! Thế mà mình đổ bao nhiêu công sức và thời gian mấy năm trời mà
vẫn biệt vô âm tín. Có lẽ số trời nó thế mất rồi. Tĩnh thở dài:
- Đi thì đi. Bà ơi, cho cháu thanh toán này…
Vừa lúc ấy, phía con đường lầy trước mặt, có bóng một phụ nữ
đi qua. Ông lão nhận ra ngay đấy là chị Nga. Ông lão thì nhận ra ngay, còn Tĩnh
cũng nhìn theo cái bóng dáng ấy, nhưng anh không nhận được. Ông lão đã có cả một
quãng đời gắn bó, nợ nần với chị dù xa cách sáu bảy năm. Còn anh chàng Tĩnh tội
nghiệp, chỉ có vài ngày bên chị, lại tất tưởi những lo toan, làm sao mà nhận ra
được, lại từ phía sau lưng, với dáng đi như trốn chạy của chị.
Ông lão lập cập quơ gậy và cái tay nải của mình, móc vội mấy
hào lẻ đưa cho bà chủ quán. Nhưng Tĩnh đã gạt lại:
- Cụ có chén nước chứ gì? Thôi để con. Cụ vội thì cứ đi đi…
- Không mà! Anh đẻ tôi trả phần tôi chứ! Ông lão cố đưa nhưng
bà chủ quán không nhận:
- Thôi, ông để đấy, tôi biếu ông chén nước. Già cả rồi…
Ông lão đành cám ơn một cách đầy mặc cảm rồi vội vàng theo
hút người đàn bà mà ông tin chắc đó là chị Nga. Ông lao đi trong gió lạnh, chỉ
sợ bóng cái áo len màu gụ mất dạng.
CHƯƠNG 15 -
C
hị Nga không biết có người đang theo sát chân mình, nên cứ chạy
co ro trong gió. Chiếc nón lá già thỉnh thoảng lại bị gió lật nghiêng, khiến chị
phải vừa chạy vừa giữ. Mưa đã ngớt nhưng vẫn còn thấm ướt lưng áo. Chiếc áo len
gụ cũng thấm đẫm nước mưa. Không sao, tí nữa chị có thể hong khô ngay trên mặt
bếp lò than của cửa hàng, chị vừa đi vừa mỉm cười một mình.
Đằng sau chị một quãng xa, ông lão cũng rảo chân theo sau. Thỉnh
thoảng đến chỗ ngã rẽ, ông cố chạy lên để không bị mất dạng người ông đang tìm.
Đến khi thấy người đàn bà rẽ vào cửa hàng ăn, ông đinh ninh chị vào ăn hàng. Ông
thu xếp một chỗ ngồi bên dưới một mái hiên nhà kho, chờ đợi như một người qua
đường trú mưa, nhất là trông ông trong bộ dạng một lão già hành khất như thế
này.
Thấy chị Nga vào đã lâu, ông lão sốt ruột. Ông đứng dậy, hai
chân đã tê cứng vì ngồi xổm quá lâu. Ông băng qua đường mon men nhìn vào bên
trong. Tuy trời hãy còn sáng nhưng ánh đèn măng- xông sáng rực rỡ, khiến ông
lão hơi bị loá mắt. Những người khách ăn quà lác đác đứng dậy, thỉnh thoảng mới
lại có người vào, ai cũng lôi thôi một kiểu hành trang như khách vãng lai. Ông
lão cũng vào, nhưng không định ăn gì, cũng chẳng có ai hỏi. Lạ nhỉ, hay là cô ấy
lại biến đi đâu, hay lúc cco ấy trở ra, ông không nhìn thấy? Không nhẽ thế, ông
không rời mắt khỏi ba cái cửa của cừa hàng kia mà. Chờ cho đến lúc một cô gái
don bàn đến gần, ông đánh bạo đến gần hỏi khẽ:
- Này cô gì ơi?
Cô phục vụ mặc cái tạp dề trắng loang lổ nhìn ông, như chờ đợi.
Thấy thế, ông lão lại ngập ngừng, khiên cô ta phải hỏi lại, giọng đĩnh đạc:
- Cụ – ăn – gì?
Ông lão giật mình, lắp bắp:
- Không, tôi không đói…
- Khổ quá, thế thì ra ngoài kia. Không ăn thì hỏi cái gì?
- Tôi… tôi hỏi khí không phải. Trong cửa hàng có chị cán bộ
nào tên là Nga không hả cô?
- Nga nào? Không coa chị cán bộ nào tên Nga cả. Ông ra ngoài
kia mà hỏi.
Ông lão thất vọngđinh quay đi thì cô phục vụ tạp dề loang lại
xẵng giọng:
- Nga hả?
- Vâng! Ông quay lại khấp khởi.
- Có phải có một đứa con trai cùng đi không?
- Vân đúng đấy ạ!
- Hừ, thế mà bảo chị cán bộ? Có, có Nga đấy, nhưng mà Nga nắm
than ở đằng sai kia kìa…
Cô phục vụ hất hàm ra phía sau, rồi ngoa ngoắt bưng chồng báy
ô tô đi vào.
“Thế là đúng rồi! Thì ra cô ấy đã vào làm ở cửa hàng này. Nắm
than à? Cũng tốt rồi. Cũng tốt cho cô ấy, và cũng tốt cho thằng con của ta! Thế
mà bao nhiêu lần qua đây, ta không hề để ý. Thế là tôi tìm được cô rồi, cô Nga
ơi… Bây giờ giữa thiên hạ này ta là chồng, cô là vợ, thăng Hận là con trai của
ta. Nó là thằng nối dõi dòng họ Trần ta. Nó là thằng chống gậy đưa ta xuống mồ.
Nhưng sao lại tênlà Hận nhỉ? Thì ra cô ấy hận ta! Cũng phải thôi. Nhưng cô đừng
trách tôi, nếu đừng có chiến tranh, đừng có bắn nhau. Mà dù có đánh nhau kịch
liệt đi nữa, thì sao thằng Kỳ lại hy sinh? Bao nhiêu người đi cũng khối người
trở về đấy thôi! Ta vô phúc! Nếu không, thằng Kỳ có đi đánh nhau mà để lại đứa
con cho ta, cho ta tthằng cháu nội. Mà nó chưa có con thì nó cũng đừng chết trận!
Đừng chết, để mà về với vợ, mà sinh con đẻ cái cho ta… Nếu vậy thì đâu đến nỗi?
Khổ thân tôi, khổ thân cô!”.
Ông lão cứ tiếp tục độc thoại giữa cửa hàng, nơi kẻ ra, người
vào như thế, nếu như ông không nhìn thấy hai chàng trai Tĩnh và Thuận khi nãy ở
ngoài quán nước đang đi vào cửa hàng. Ông vội lách qua một bên cửa (tất cả có
ba cái cửa cơ mà), đi vòng ra bên đầu hồi, nhìn quanh thấy một đống gạch vụn,
ngồi xuống. Từ đây ông có thể nhìn ra phía sau cửa hàng, nơi lô nhô nhà cửa. Mẹ
con thằng Hận ở trong ấy. Chắc chắn rồi! Ông đinh ninh thế và bắt đầu nghĩ đến
nước cờ của mình.
Có lẽ ông phải tìm gặp ngay cô Nga để khuyên nhủ cô ấy trở về
làng. Không ai còn cười, không ai còn nhớ. Làng Sơn Cốt của ta tuy ác khẩu,
cong môi nhưng cũng chả chấp lâu. Cứ về, cứ sống đàng hoàng, không sợ gì mấy đứa
con gái lăng loàn, ác nhân của tôi. Chúng nó mà chành chẻ thì ông đuổi, ông từ,
ông sẽ công khai nói cho cả họ, cả làng nước biết thằng Hận là con trai ông. Chứ
ông mà sợ?
- Về đi, Nga ơi! Về làng, có nhà có ruộng cho con chúng ta.
Nó sẽ lớn lên và nó sẽ biết cách cởi giải những trái ngang. Về đi, còn ông
giáo, còn cha cô đang mòn mỏi trông tin cô đấy! Ừ thì ông giáo hận ông lão Tuân
lắm, nhưng sự thể đã như thế rồi, lẽ nào ông cầm dao giết con gái ông? Ừ thì
ông giáo đã đuổi thẳng cổ ông ra khỏi nhà, dù ông có quỳ xuống, tạ tội và nhận
làm con rể ông giáo, nhưng lẽ nào ông ấy lại đuổi thằng cháu ngoại duy nhất của
mình? Phải rồi, lấy ông giáo Hoan ra mà dụ, mà dỗ dành, thế nào cô ấy cũng quay
về!
Ông lão cứ loanh quanh với ý nghĩ về nước cờ của mình. Nếu cô
ấy nhất quyết không trở về làng thì sao? Cũng phải thôi, nói đi rồi nói lại,
con dâu mà ngủ với bố chồng thì xưa nay, chả cứ gì làng Sơn Cốt, của mình, ở
đâu người ta cũng có thể cạo đầu, bôi vôi mà thả cho trôi xuống Ba Quanh ấy chứ!
Nếu thế thì ông sẽ ở lại đây để được trông nom thằng con ongcho đến ngày nó lớn,
nó sẽ biết quê hương bản quán của nó mà về. Nếu thế thì ông sẽ về nhà, bán hết
lợn gà, vườn ruộng, xe đạp… để lấy tiền đi với con, với vợ! Ông lão mỉm cười một
mình, với con thì được, chứ mà với vợ thì… trơ quá! Nhưng mà có sao đâu, trông
thế thôi lão mới có sáu mươi ba, còn cô Nga cùng đã ngoài ba mươi rồi. Ngày
xưa, ông chánh ông lý nhà ông, đến gần thất tuần mà vẫn cưới được vợ ba, vợ tư
mười tám đôi mươi, mơn mởn non tơ kia mà! Thế có khi cũng hay!
Ông lão đang hân hoan với những ý nghĩ táo bạo của mình, thì
hai chàng thanh niên Tĩnh và Thuận từ trong cửa hàng đi ra. Họ đã ăn uống xong,
ông nghe thấy anh Thuận bảo có cô mậu dịch nào đó tặng cả tem gạo nữa mà. Họ
sung sướng hơn ông nhiều! Tuổi trẻ là thế đấy. Thuận đi ra trước, với vẻ mặt hớn
hở, thoải mái. Đi sau là Tĩnh, anh chàng có khuôn mặt chữ điền, đáng lẽ thanh
thoát thì lại u uất. Đi một quãng, nghĩ thế nào Tĩnh ngoái cổ nhìn vào cửa
hàng, rồi anh ta quay lại đến sát bức tường quét vôi, loằng ngoằng những chữ viết,
bằng đủ thứ màu, than đen và gạch nâu. Tĩnh cúi xuống tìm cái gì đó, có lẽ là một
hòn gạch, ông lão đoán thế.
Quả nhiên anh ta cầm trên tay viên gạch nhỏ, đứng bần thần chọn
một chỗ còn trống trên bức tường. Rồi anh ta viết, ông lão nhìn từng chữ hiện dần
ra dưới tay Tĩnh:
Nga- Hận! Đã mấy năm rồi anh đi tìm em khắp mọi nơi, mà không
thấy. Em ở đâu? Tĩnh.
Tĩnh bần thần nhìn lại một lần nữa những chữ mình vừa viết rồi
thẳng tay ném viên gạch non vào chân tường, rồi anh vừa đi giật lùi, vừa nhìn bức
tường một lần nữa, trước khi chạy đuổi theo bạn.
- Ra thế! Anh chàng này cũng là kẻ đi tìm Nga của ông! Ông
lão nghĩ vậy và đột nhiên, dòng máu nóng từ đâu không biết dồn chảy ngược lên
thái dương ông. Ông ghen! Thì ra chính cái kẻ này đã quyến rũ, rủ rê vợ con ông
rời bỏ làng quán ra đi lưu lạc đến đây đây! Được! Thế thì được, ông sẽ có cách
của ông! Ông chẳng cần mẹ, chỉ cần thằng con. Nó là máu mủ của ông, không thể để
nó rơi vào tay kẻ khác!
Cơn giận làm ông không còn thấy rét, ông đứng dậy, cảm thấy
khoẻ mạnh hơn người, định phăm phăm đi vào dãy nhà kho đằng sau cửa hàng, nơi
có mấy bóng đèn tù mù. Ông sẽ… ông sẽ… Ờ, mà ông sẽ làm gì nào? Cơn giận bất ngờ
hạ xuống, khiến ông sững lại. Không, ông không thể làm gì được, không thể làm
to chuyện ra ở đây, bẽ mặt quá.
Ông lão lặng lẽ quay lại, trở về cái lều chợ ông vẫn tá túc để
tiếp tục suy nghĩ về nước cờ thứ ba của mình. Nhưng hình như đôi chân ông rã rời
mất rồi, ông không đủ sức về chợ nữa. Nhìn sang bên kia đường, thấy hàng hiên một
ngôi nhà, hình như là cái kho. Ông lão đến đó, lấy cái tay nải làm chổi, phủi sạch
một khúc hè, ngồi tựa lưng vào tường, nhắm mắt lại.
Mưa đã tạnh hẳn, gió khan bắt đầu thổi mạnh, réo ù ù trên dây
thép và trong mái hiên. Đêm ấy ông lão Tuân thức trắng.
Sau những ngày âm thầm theo dõi, ông lão vẫn chưa tìm ra cơ hội
tiếp cận thằng Hận. Ông cũng biết rằng, chị Nga làm việc ngay tại bãi than đằng
sau cửa hàng, nên ông không dễ gì vào “nhà” chị được. Thế rồi, thời cơ cũng đã
đến, khi chị Nga đi đâu đó. Nhìn cách ăn vận của chị, ông lão biết chị đi khá
xa và còn lâu mới về. Với tư cách của một ông lão ăn mày, ông vào quanh mấy
ngôi nhà gần đó và, bất ngờ ông ngoặt một cái, rẽ vào cái chái quây lá cọ, nơi
trú ngụ của hai mẹ con chị Nga. Trời không mưa, nhưng mây ảm đạm, xầm xì, tạo
ra cái không khí âm u, ai nấy ở trong nhà, chỉ biết mình. Thuận lợi cho ông thật!
Ông lão ngó trước sau, không thấy ai để ý, ông vạch cửa bước vào. Ông lão sững
sờ trước thằng Hận. Quả nó là một đứa trẻ đẹp và ngoan, ngoài sức tưởng tượng của
ông. Hình như trong đời ông chưa bao giờ nhìn thấy một đứa trẻ nào đẹp như thế
- Hận ơi! Hận!…
Thằng Hận đang chơi một cái trò gì đó trong góc giường, nghe
tiếng người gọi tên mình, nó ngẩng lên và… cười! Nó cười không thành tiếng, nụ
cười thơ ngây của một đứa trẻ được chăm sóc đầy đủ. Nhìn ông lão, tức cha nó,
dù chưa gặp bao giờ, hoàn toàn là người xa lạ, nhưng nó không thấy sợ.
- Lại đây! Lại đây với… ông! Ông lão đã suy nghĩ về cách xưng
như thế, vì dù sao ông cũng là một ông lão. Lại đây ông cho kẹo.
Thằng Hận ngửa cổ lên cười, rồi lật đật chạy lại, sà vào lòng
ông lão:
- Kẹo à? Đâu, kẹo đâu?
Ông lão ngồi thụp xuống đón thằng Hận vào lòng, rồi lấy gói kẹo,
bóc một cái đưa cho nó. Thằng bé nhìn cái kẹo một cách trịnh trọng rôi há miệng
nhận chiếc kẹo. Nó không cười nữa, mà nhai nghiến ngấu. Đó là một cái kẹo Hải
Châu, một loại kẹo cao cấp, chỉ để phân phối cho cán bộ cao cấp, dân thường hoặc
cán bộ cấp làng nhàng hồi đó không thể có được. Nhưng ở bất kỳ hàng nước nào
cũng có bán. Nó rất đắt, một gói kẹo giá trị bằng bốn, năm cân gạo. Ông lão đã
mua gói kẹo dành cho thằng con trai lưu lạc, bằng tất cả ý chí nhằm đạt được mục
đích và cả tình thương của ông đối với thằng con.
Trong lúc thằng Hận ăn kẹo và ngồi yên trong lòng, ông lão
đưa mắt quan sát căn phòng. Trên vách lá cọ treo vài cái áo, cái nào cũng rách.
Một cái túi xách may bằng vải mưa mà từ hồi còn đi dạy học, hồi chưa lấy anh Kỳ,
chị Nga vẫn xách, và bây giờ nó vẫn còn giá trị, đang được treo vào chỗ trang
trọng nhất trong căn phòng tạm bợ. Ở một góc, một cái hòm gỗ thông đựng vốn để
đựng xà phòng của Liên Xô, được kê trên mấy hòn gạch vỡ, và trên trốc hòm là mấy
cái bát. Tuy nhiên căn phòng rất sạch, mặc dù nền đất, thỉnh thoảng nhô lên vài
đống mùn giun. Xung quanh được thưng kín bằng những tàu lá cọ, đủ cỡ, đủ loại,
toả ra một mùi ấm cúng.
Thằng Hận đã ăn xong cái kẹo thứ nhất, nó nắm lấy cổ áo ông
lão lay mạnh, và há miệng ra cười một cách thành thật. Ông lão cười:
- Cha bố cậu! Đây!
Ông đưa cho nó cái kẹo, nhưng nó vẫn ngần ngừ, không chịu cầm.
Chỉ đến lúc ông bóc, bỏ vào miệng nó, nó mới chịu nhai và lại vừa nhai vừa… cười!
Ông lão cũng cười, vén giòng nước giãi của thằng bé trào ra
khoé miệng. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của đời ông. Ước gì ông được
ôm thằng con bé bỏng thế này mãi mãi. Ông dụi mái đầu bạc và đầy bụi bặm vào ngực
nó, thọc ngón tay vào sườn nó, thằng Hận ngoẹo người và cười, nhưng nụ cười rất
rộng của nó vẫn không thành tiếng.
Đột nhiên ông lão giật thót người, tim đập thình thịch ở hai
bên thái dương. Chị Nga về? Ông lão cưng người lên chuẩn bị đối phó. Ông khẽ
khàng hé cánh của lá ra nhìn, nhưng bên ngoài hoàn toàn im lặng. Chị Nga đi
đâu? Ông lão bỗng trào lên nỗi ngờ vực. Cô ấy đi đâu mà để thằng con ta ở nhà một
mình? Ở đây cco ấy đã kịp quen biết được những ai? Hay là…? Hàng chữ mà anh
chàng Tĩnh viết ngoài bức tường quét vôi của cửa hàng lại hiện ra trong óc ông.
Hay là cô ấy đi với con người trẻ tuổi ấy? Được rồi! Thế thì còn đợi gì nữa, ta
đã có cách của ta.
Ông lão đặt thằng Hận ngồi lên giường rồi nhìn quanh. Ông vơ
lấy bộ quần áo của thằng Hận phơi trên sợi dây thép căng chéo góc nhà. Hãy còn
hơi âm ẩm, nhưng không sao. Ông vo lại, nhét vào cái tay nải bợt bạt, nhớp nháp
của ông. Rồi ông lấy ra cái áo mưa, choàng lên mình, khoác tay nải rồi ôm thằng
Hận, nói:
- Đi! Đi với ông nào!
Thằng Hận hình như có trằn xuống, khiến ông lão hơi loạng choạng.
Cái thằng, lên sáu rồi đấy, lại được chăm, trách gì chả nặng. Nhưng khi ông lão
Tuân ôm chặt nó, ủ vào bên trong áo mưa, thì nó nín lặng. Ông tưởng nó sợ,
nhưng khi ông vạch áo mưa ra, thì thấy nó đang cười, cái vẻ ngây thơ, không ra
sợ sệt, cũng chẳng là thích thú, nên ông lão yên tâm.
Ông lão lách ra cửa, nhìn trước mặt và hai bên, đến lúc biết
chắc không có ai nhìn, ông bước những bước nhẹ nhàng ra hàng rào nứa, rồi lách
qua chỗ giậu đổ, ra ngoài đường phố.
Không hiểu lấy đâu ra sức lực mà một ông lão ăn mày bế nổi thằng
Hận, vốn được mọi người gọi bằng cái tên “cối đá” chạy nhong nhong trên một
quãng đường như thế.
Xù xì như một con lạc đà già, dạn dày kinh nghiệm, ông lão
phăm phăm đi về phía nhà ga xe lửa.
Non trưa, chị Nga về đến cửa hàng. Thỉnh thoảng chị vẫn chạy
đi đây dó, mua cái gì đó, hoặc chỉ vì có ai nhờ một việc mà, chính họ thấy ngại.
Cái đức lam làm của chị Nga được mọi người mến. Nhưng chị biết rất rõ, dù mến,
dù quý nhưng hầu như ai cũng có cái vẻ coi thường chị. Chỉ có ông Thức cửa hàng
trưởng là tỏ ra tôn trọng chị. Nhất là trong một dịp kê khai nhân khẩu để trình
với công an, nhìn nét chữ của mụ nắm than, ông kinh ngạc:
- Chữ của cô đấy à?
- Dạ, vâng! Em viết đấy có chỗ nào không được phải không bác?
Ông Thức xua tay:
- Không! Cô học dến lớp mấy rồi mà chữ nghĩa sáng sủa thế? Lại
đẹp nữa1 Đã bảo mà, con người này quả là có chỗ oan khiên, bất hạnh đây…
Chị Nga chỉ im lặng, thỉnh thoảng lại nhìn ông cửa hàng trưởng
vẻ lo ngại. Lát sau, ông Thức mím môi:
- Tiếc là lý lịch cô không rõ ràng, nếu không tôi cho cô làm
kế toán rồi!
- Thôi bác ạ! Bác thương mẹ com em như thế cũng là quá tốt rồi.
Em không dám mơ gì hơn.
- Không phải mơ! Mà là người biết làm việc. Khỉ thật, tôi
cũng không biết mình làm gì nữa. Cô thông cảm nhé, tôi coi cô như đứa em. Này,
thế còn, chuyện cô cho tôi thằng con cô làm con nuôi tôi thế nào rồi?
Chị Nga cười như mếu:
- Bác cứ nói vui thế chứ, em làm sao bỏ cháu được!
- Không phải bỏ! Ông Thức to tiếng. Nó vẫn là con cô, mà nó lại
là con chúng tôi. Có ai bỏ nó đâu!
Chị Nga thấy mình cần đi xa thêm một chút, tuy có mạo hiểm:
- Em biết bác thương cháu, mà là mẹ cháu em cũng muốn cháu có
chỗ nương dựa. Nhưng mà, em nói có gì không phải bác bỏ quá cho. Nói thật, nếu
bác không phải là lãnh đạo ở cửa hàng, chắc tình cảm giữa hai mẹ con em và gia
đình bác cũng có thể gắn bó, ấm áp hơn. Đằng đây, bác là người lãnh đạo, có quyền,
có thế, khiên em phải giữ gìn. Nhỡ ra, có chuyện gì thì mẹ con em khổ đã đành,
lại còn làm lây sang bác!
Ông Thức ngồi thừ, như người bị điểm đúng huyệt, đúng chỗ yếu,
thì ngồi thừ ra. Lát sau ông nói nhỏ:
- Cô nói cũng có chỗ phải, nhưng tôi thương thằng bé, thương
cô. Vì thế mà tôi không muốn căn vặn cô. Nhận cô vào làm mấy năm nay, mà tôi
không hỏi vặn cô như kiểu người ta thường nghi vấn người xa lạ. Co cũng biết rồi
đấy! Ấy thế mà tôi biết có kẻ xấu mồm đã xì xào rằng tôi muốn nhân cơ hội lợi dụng
cô. Nhưng tôi đâu có phải là thằng xấu, không bao giờ làm kẻ lợi dụng nỗi khốn
khó của người khác, nên tôi không sợ. Thôi thế hôm nào, mời hai mẹ con cô đến
nhà tôi chơi, vợ tôi cũng nhắn mấy lần. Bà ấy muốn bế thằng cháu nhà cô lắm đấy!
Chị Nga vâng dạ thế thôi nhưng cũng chưa bao giờ dám đến nhà
ông Thức. Còn bà vợ ông, một phụ nữ răng đen (có lẽ đấy là người cuối cùng của
thế hệ nhuộm răng), nhìn thuần phác, cũ kỹnhưng tướng người cũng không phải dễ
dãi. Chị Nga đã tự nghĩ như thế, nên thấy sợ.
Thấy trong cửa hàng đang đông khách ăn nên chị không dám vào
thẳng cửa giữa, chị tạt sang cửa bên, không phải cửa ngách, cũng rộng rãi, đàng
hoàng, nhưng không có vẻ trang trọng nhờ cái hàng hiên mở rộng, như một cái đại
sảnh công đường. Mọi ngày, kể cả lúc vắng người, chị Nga có thói quen khi đi
thường nhìn xuống đất, nhìn xuống mỗi bược chân mình. Mãi rồi thành quen, thói
quen của thân phận những kẻ hèn mọn, lấy thủ làm chính, bởi mỗi bước nhân của
chị, biết đâu chẳng dẽ sa vào chỗ hiểm. Nhưng hôm nay, trong lòng có cái gì bất
ổn. Chị có cảm giác một cái gì đo nguy hiểm đang rình rập và đổ ập xuống đầu thằng
con chị. Thường mỗi lần để con để đi một việc gì đó, chị hay để nó chỗ bà Thắm,
nhờ trông hộ. Mà bà ấy cũng thích thằng Hận, nó ngoan, chỉ cười cả ngày, mà
không hề quấy. Nhưng hôm nay, chị đi vội, chỉ dặn nó ở nhà chơi, không được chạy
ra đường. Nên chị thấy sốt ruột. Bâtd ngờ, chị nhìn lên bức tường vôi, có dòng
chưa viết bằng gạch non, có đóng khung. Thấy có chữ “Nga”, tên chị, nên chị dừng
lại, đọc kỹ. Và… hai chân chị như muốn khuỵ xuống! Thì ra, con người ấy, anh ấy
vẫn nhớ tới chị và đã đi tìm chị, như lời nói lúc chia tay.
Trời Già thật trớ trêu! Chị đã thất vọng hoàn toàn, không còn
hy vọng gì gặp lại Tĩnh! Những ngày đầu chị luôn nhớ tới anh, luôn hy vọng gặp
lại anh. Chị đã yêu anh, và dần dần chị nhận ra, chị chỉ yêu anh ấy bằng một
tình yêu đơn phương, vô vọng! Chị chỉ còn coi anh như một người mà mình đã mang
ơn. Một người gặp gỡ giữa đường, nếu có mong đợi, thì đấy chính là sự mong đợi
để gặp được anh, mong đền ơn, đáp nghĩa. Nhưng rồi chị lại nghĩ: bây giờ mà gặp
lại anh ấy, thì biết lấy gì đền đáp, khi chị vẫn chỉ có hai bàn tay trắng! Thôi
thì thà để người ta quên mình, còn hơn là gặp nhau lại thấy thẹn lòng.
Bất ngờ, nhìn được giòng chữ của anh, như một lời than tuyệt
vọng. Sao chị lại không nhìn thấy anh nhỉ? Chị tự hiểu, rằng chị có bước ra
ngoài mấy khi, để anh tìm, anh thấy! Cuộc sống của chị là đống than mỡ trộn
bùn, đảo xới lên rồi nắm lại thành những nắm nhỏ, để hong khô, cho vào lò. Trước
mắt chị, chỉ toàn có một màu đen, của than! Anh không tìm được chị là phải. Chị
ứa nước mắt, nhìn lại dòng chữ và đoán ra là nó mới được viết, chắc mấy hôm gần
đây thôi. Chị vội vàng đưa mắt nhìn quanh, tìm kiếm, hy vọng bắt gặp đôi mắt
nào đó đang nhìn mình. Chị hầu như đã quên khuôn mặt anh, nhưng đôi mắt và giọng
nói thì chị vẫn nhớ. Chỉ cấn một đôi mắt nhìn chị, hay một giọng nói gọi tên chị,
là chị sẽ nhận ra anh, và… nhào tới!
Nhưng không có ai nhìn chị cả, không có ai gọi chị! Khách ăn
uống vần vào ra cửa hàng thản nhiên, họ có niềm vui, nỗi lo âu, sự vội vã của
riêng họ. Chị đứng lặng dưới ánh nắng hanh vàng, se se lạnh. Chị Nga dần bình
tĩnh lại, và ngay lập tức lại nghĩ đến hoàn cảnh và số phận của mình. Chị dặn với
lòng mình rằng, thế nào, hai người cũng có ngày gặp nhau… Còn bây giơ, thôi
nhé, anh ơi, em phải quay vào với đống than đên và thằng con. Chị bước đi vài
bước nhưng nghĩ sao lại quay lại cúi lom khom, tìm một viên gạch non. Tìm mãi
không thấy, và bất ngờ, chị nhặt được một hòn than. Chị cầm lênm ươm ướm thử và
viết bên dưới, hàng chữ của chị chân phương, yếu đuối: “Em ở đây”. Chỉ thế
thôi, nhìn hàng chữ màu đen của mình bên dười hàng chữ ngang tàng màu gạch nâu
của Tĩnh, chị cắn chặt môi, từ từ buông tay, thả hòn than xuống… Chị đi như chạy
về căn nhà tuy tạm bợ, nhưng nó là nơi chị thấy yên lòng nhất… Nhưng…
Chị Nga đứng sững lại, và như người hụt hẫng khi thấy cánh cửa
lá gồi bật tung ra. Chị vừa lao tới vừa gọi:
- Hận ơi! Hận…!
Như mọi ngày, dù đang mải chơi, thằng Hận dạ một tiếng thật
to, có khi nó “dạ, dạ…” liên hồi, rồi xuất hiện ở cửa với cái miệng há ra cười,
phô một hàm răng trắng nhỏ đều và cặp môi đỏ như son. Không nghe tiếng con
thưa, chị Nga lao vào giữa nhà, tìm khắc các xó xỉnh. Dù căn phòng rất nhỏ,
nhưng chị vẫn xới tung lên. Không thấy con, chị nhào ra cửa cất tiếng gọi tên
thằng Hận rất to, không có triếng trả lời của con, mà những người trên cửa hàng
thấy đó là một chuyện lạ, nên họ đều đỏ dồn cả ra sau nhà. Người đầu tiên lên
tiếng vẫn là bà Thắm, cửa hàng phó:
- Có chuyện gì thế cô Nga? Gọi con gì mà ầm lên thế?
Chị Nga rơm rớm nước mắt, chạy trên hai bàn chân trần đến trước
bà cửa hàng trưởng lúc ấy đang đứng trên bậc tam cấp:
- Chị ơi! Chị có thấy thằng cháu nhà em ở chỗ chị không?
- Không! Bà Thắm tỉnh như không, lại còn vặn lại. Sao mọi
ngày cô đi đâu hay để nó ở chỗ tôi, hôm nay đem đi đâu?
- Khổ quá, nào em có đem nó đi đâu? Chị Nga bắt đầu vật vã.
Em chạy lên cửa hàng chất đốt, theo lời bác Thức nhờ, để hỏi lượng than về
tháng sau. Tiện thể em mua cho cháu cái quần Đông – Xuân (chị Nga chìa cái gói
bằng giấy xi- măng ra trước mặt). Lúc em đi thấy cháu đang mải chơi, nên cũng
chẳng nỡ đem nó ra khỏi nhà. Thế mà lúc về, không thấy nó đâu nữa…
Bà cửa hàng phó bước xuống mấy bước, ngang với chị Nga:
- Cô đã tìm hết chưa? Trong nhà? Xuống chỗ nắm than? Hay vao
trong bếp? Đoạn bà quay sang hỏi mấy người nhân viên cũng đang tò mò. Có ai thấy
thằng con cô Nga đâu không?
Bọn họ nhìn nhau, rồi lắc đầu.
Chị Nga như người mất hồn, chạy sang bãi nắm than, xuống bếp,
ra cả cái bờ ao nhỏ bên kia nhà bếp, vạch búi cây, gốc chuối… Không thấy con,
chị thất thểu quay lại. Mấy người ở cửa hàng vẫn đứng đấy, chờ chị về, nhao
nhao hỏi. Bỗng một người lên tiếng:
- Hình như lúc nãy em thấy có người trong nhà chị Nga. Lúc em
đi qua nhìn vào thấy cánh cửa he hé!
- Thật không chị? Chị Nga vội vàng quay về nhà, theo sau là
bà Thắm. Chị Nga lại vừa xoá xào căn phòng vừa gọi tên con. Bông bà Thắm nhặt một
mẩu giấy gói kẹo lên hỏi:
- Thế cái này là cái gì?
Chị Nga cầm lấy mẩu giấy tần ngần:
- Không phải của nhà em. Nhà em không có loại kẹo này cho
cháu. À có, cách đây lâu lắm rồi, bác Thức có cho cháu ba cái kẹo, cũng nhãn hiệu
Hải Châu thế này, nhưng cháu ăn hết ngay rồi.
- À, ra thế! Bà Thắm gật gù. Thế cái giấy gói kẹo này ở đâu
ra?
- Em cũng không biết! Chị Nga thật thà.
- Cô Nhuần cô ấy bảo, lúc nãy thấy có người ở trong nhà cô,
chắc cái giấy kẹo này là của người ấy bóc cho nó ăn. Hay là…? Bà Thắm bỏ lửng.
- Chị bảo sao? Hay là… cái gì?
Bà Thắm vẫn im lặng, để chị Nga phải giật cánh tay áo, bà mới
chậm rãi:
- Hay là… ông Thức?
Chị Nga buông tay áo bà cửa hàng phó, tần ngần:
- Không có lẽ? Em nghĩ, bác Thức là người đàng hoàng, sao bác
ấy lại làm thế được!
- Cũng có thể lắm chứ! Bà Thắm nghiêm trang. Mấy lần ông ấy
chả tính xin cô cho nó làm con ông ấy là gì? Mà có phải giấu giếm gì, ông ấy nói
oang oang, cả cơ quan này ai cũng nghe. Này, tôi bảo nhá, có khi ông Thức thích
nó quá, tranh thủ lúc cô đi vắng, ông ấy lấy kẹo dụ nó đi, rồi bắt cóc nó về
nhà ông ấy rồi!
Chị Nga quay sang,nhìn vào đôi mắt ráo hoảnh của bà Thắm:
- Có thật thế không chị?
- Thật hay không thì bây giờ chưa biết. Theo tôi cô nên đến
nhà ông Thức ngay đi…
- Nhưng mà…!
- Còn nhưng cái gì nữa không biết? Bị người ta bắt mất con mà
còn đứng đấy để “nhưng với chả nhị?!
- Tối qua bác ấy có nói với em là sáng nay bác ấy đi Việt Trì
sớm. Bác ấy có ở nhà đâu mà…
Bà Thắm nhìn chị Nga cười bằng cái vẻ thương hại:
- Ông ấy nói thế, chứ chắc gì đã đi Việt Trì?
Chị Nga lại ngắc ngứ:
- Nhưng…
- Còn nhưng gì nữa?
- Em không biết nhà bác Thức ở đâu?
- Thế à? Bà Thắm ngạc nhiên, rồi tỏ ra thông cảm, bảo một cô
gái đứng gần đó:
- Cô Nhuần, cô biết nhà ông Thức chứ? Cô lấy xe của tôi, đèo
chị Nga đến nhà ông Thức ngay đi. Xong rồi về ngay cho tôi biết nhá!
Cô Nhuần ngúng nguẩy một cái, rồi bẽn lẽn:
- Vâng! Nhưng em cũng đến nhà bác Thức từ năm ngoái cơ, không
biết có còn nhớ đường không?
- Đi đi, nhanh lên, còn ở đấy mà õng ẹo. Bà Thắm mắng cô Nhuần
một cách chân tình.
Chị Nga theo Nhuần ra cổng, lúc sắp nhảy lên booc- ba- ga, chị
hỏi:
- Nhà bác ấy có xa không, cô?
- Cũng không xa lắm! Em tưởng chị biết nhà ông ấy rồi mới phải
chứ?
Chị Nga cắn chặt môi, ngồi im lặng sau xe đạp của Nhuần. Mỗi
cái xóc mạnh dưới bánh xe, lại làm nước mắt chị muốn trào ra, và con đường thì
lại quá dài. Chị mong những điều bà cửa hàng phó nói vừa là sự thật, lại vừa
không phải thế. Chị mong là sẽ gặp được đứa con yêu mà chị dứt ruột đẻ ra, để lại
thấy nó ngây dại cười, để chị không phải cạn nước mắt một lần nữa. Nhưng chị lại
không muốn thấy nó ở trong nhà ông Thức, vì chị không mong ông Thức là người
như thế. Ông Thức đã là ân nhân của chị, hơn thế nữa, ông là một nhân cách lớn
mà không dễ gì một kiếp người lưu lạc như chị lại gặp được một lần. Vì thế, chị
không muốn thấy ông là kẻ nhỏ nhen.
Chiếc xe đạp của cô Nhuần loạng choạng rồi rẽ vào một ngõ nhỏ
nửa phố nửa làng. Không muốn để cô Nhuần phải vất vả, chị Nga đã nhảy khỏi xe
và chạy gằn theo sau cho đến khi, cô Nhuần chỏi bàn chân xuống đất, làm chiếc
xe đạp dừng lại. Không rời khỏi yên xe, cô Nhuần cất tiếng lảnh lói, gọi nhóng
vào cánh cổng:
- Bác Thức ơi! Bác Thức!
Không có tiếng người, chỉ có hai con chó xồ ra quyết liệt. Chị
Nga thất vọng, vì không thấy bóng thằng Hận đâu. Một lúc sau, để hai con chó sủa
phát mỏi mõm, mới thấy một người đàn bà te tái chạy ra cổng, tay vẫn cầm cái liềm:
- Ai gọi gì đấy? Người đàn bà răng đen, chị Nga hiểu đó là vợ
ông cửa hàng trưởng.
- Cháu đây! Cháu ở ngoài cửa hàng đây. Bác Thức có nhà không
bác?
Người đàn bà quát hai con chó rồi nhấc thanh then cổng:
- Không! Thế ông ấy không nói với các cô là sáng nay ông ấy
đi Việt Trì à?
- Đi lâu chưa bác? Vẫn cô Nhuần hỏi, còn chị Nga đứng thụt lại
phía sau, hồi hộp nghe hai người đối đáp. Cô Nhuần:
- Ối, thôi chết! Thế mà cháu cứ tưởng bác ấy có ở nhà. Bác ấy
đi tàu hay đi xe đạp ạ?
Bà chủ nhà răng đen xởi lởi:
- Ông ấy bảo đi xe đạp, nhưng tôi can, sức vóc còn chừng ấy,
đi xe đạp có mà bò ra đường! Mấy lần trước ông ấy đi về phải nghỉ mất mấy ngày.
Thế là sáng sớm nay ra mua vé tàu hoả…
- Bác có biết baơgì bác Thức về không ạ?
- Có giời biết! Không khéo lại ngủ đêm ở dưới ấy cũng nên.
Cia slão già nhà tôi đoảng lắm. Thế mà cũng được tín nhiệm làm lãnh đạo cơ đấy!
Bà cười, khoe hai hàm răng vẫn còn đen nhưng nhức hạt na.
Cô Nhuần quay lại nhìn chị Nga ái ngại, còn chị thì chỉ biết
im lặng nhìn người đàn bà phúc hậu đứng sau cánh cổng bằng tre. Thấy hai cô im
lặng nhìn nhau, bà chủ nhà lo lắng:
- Chết! Thế có chuyện gì không các cô?
Nhuần nhìn chị Nga, như giục. Chị Nga sẽ sàng:
- Dạ, thưa bác, em làm ở nhà than ngoài cửa hàng…
- Thế à? Cô là cô Nga phải không? Ối giời ơi, nhìn hai bàn
tay kìa? Nhưng cơ mà cô có thằng con kháu lắm, vừa ngoan vừa trắng trẻo, sạch sẽ.
Gớm sao mà lại có người khéo đẻ khéo nuôi thế không biết. Mời hai cô vào nhà uống
nước đã… Bà vừa nói vừa mở rộng cánh cổng.
Chị Nga lưỡng lự, rồi nói với Nhuần:
- Thôi, hay là cô có việc bận thì về trước đi, để chị Thắm ở
nhà lại chờ. Cứ để tôi ở đây, tí nữa tôi về một mình cũng được…
Cô Nhuần quay xe ra ngõ, chị Nga theo bà Thức vào sân. Chị
Nga không vào nhà, mà ngồi xuống bậc hè cửa. Bà Thức đon đả chạy đi lấy nước,
chị Nga bảo:
- Thôi bác ơi, nước non làm gì! Em nghe nói về bác, cũng định
hôm nào hai mẹ con đến chào bác. Mãi mà chưa đi được…
- Tôi trông thấy nó rồi, thích lắm!Thế sao hôm nay cô không
cho thằng bé đến đây chơi?
Chị Nga bỗng nấc lên:
- Nó bị người ta bắt đi mất rồi! Em khổ quá?
- Sao? Sao? Bà Thức cũng rối lên, hỏi dồn. Ai bắt? Bắt bao giờ?
- Em đi lên bãi Than của công ty chất đốt về thì không thấy
cháu. Em đến đây vì nghe người ta nói… Chị Nga định nói ra câu chuyện mà bà Thắm
đã nghĩ, nhưng chị nghĩ, như thế thật bất nhã, nên kịp ngưng lại.
- Nghe người ta nói sao? Thế cô đã đi tìm cháu ở những đâu rồi?
- Em đã tìm cháu khắp cả rồi!
- Nhờ người ta đi hỏi giúp chứ? Để đấy rồi tôi cũng đi hỏi
xem. Khổ quá, cái nhà ông Thức này, sao hôm nay lại dửng mỡ thế không biết? Xuống
Việt Trì làm gì? Lại mấy ông bạn bộ đội cũ rủ rê thôi mà! Thế cô đến đây để tìm
ông Thức hay là tìm nó?
Lúc này, chị Nga mới nói theo ý bà Thắm:
- Chị Thắm bảo em là lên nhà chị xem hay nó có theo bác Thức…?
- Ối giời đất ơi! Được thế thì đã phúc! Tôi bảo ông ấy xin cô
cho đem nó về đây để tôi nuôi, mà ông ấy có chịu nói đâu? Bây giờ thế này, nó
chỉ quanh quẩn ở đâu đấy thôi, nhất định tìm được. Lần này tìm thấy nó về, cô để
tôi nuôi nó cho. Để cho cô thì vất vả quá, cả mẹ lẫn con… Nói thật nhé, cô còn
trẻ, rồi cũng phải tìm xem ai người ta để ý đến mình…!
Chi Nga đang như đứt từng khúc ruột, nghe bà Thức nói thế
cũng thấy tấm chân tình của hai vợ chồng bà. Nhưng, biết tìm con ở đâu bây giờ,
Hận ơi!
Chị Nga cúi chào bà Thức rồi chạy ra cổng, chạy về phía trung
tâm thị xã. Chị chạy gằn từng bước, vừa chạy vừa ngó nhìn xung quanh. Chỗ nào
chị cũng thấy như thằng Hận đang đứng cười ngây dại với chị với hai con mắt mở
to, đen láy và đôi môi mọng đỏ …
Ông Thức ngó ra ngoài cửa sổ, thấy mưa bụi đã ngớt, có chút nắng
hanh vàng, thì quay sang cáo bạn, đòi về. Mặc cho mấy ông bạn cựu chiến binh
chèo kéo rồi nói khích, ông vẫn kiên quyết:
- Xin các anh, hôm nay tôi phải về. Chuyện cơ quan cũng có mà
chuyện gia đình cũng có chỗ neo. Chả nói giấu gì, hai vợ chồng già, con cái
không có, nhìn nhau đôi lúc muốn rớt nước mắt. Để bà ấy còi cõi một mình, xót
xa lắm…
Mấy ông bạn nhìn nhau, thôi thì ông ấy đã nói thế thì cũng đến
phải để cho ông ấy về. Một ông bạn đèo ông Thức ra ga, chờ mua vé xong rồi ông
Thức nhảy lên tàu mới quay về.
Nghĩ cuộc đời mình cũng chả ra làm sao. Ngồi trên cái toa
“tàu chợ”, lổn nhổn quang gánh, ầm ào tiếng người, ông Thức lại nghĩ về mình.
Đi bộ đội chống Pháp được hai năm, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ hẳn hoi, rồi
hoà bình. Về nhà cưới vợ! Ơ, bà vợ ông ngày ấy đẹp lắm, răng đen, đẹp theo kiểu
cổ. Thì ông cũng cổ đấy thôi. Ông phục viên làm cán bộ huyện, ở nhà vợ ông vào
tổ đổi công, rồi hợp tác xã… Hai vựo chồng cứ như sao Hôm, sao Mai, mãi chẳng
có con… Đùng một cái, sau cái ngày “mùng năm tháng Tám” năm ấy, ông lại được gọi
tái ngũ. Rồi đi B, đi một mạch vào tận Nam bộ, đánh nhau mãi, suốt hơn mười
năm…
Trở về, bà ấy vẫn đằm thắm, dịu dàng dù phải chịu bao nhiêu
là truân chuyên. Cái khổ nhất là vợ chồng không có con. Thôi thì, nó xấu xí, nó
chẳng ra gì, nhưng nó là đứa con của mình… Ông thì công tác, đi đây đi đó, bạn
bè đủ loại, cũng có cái nguôi ngoai, nhưng với người đàn bà thì muôn vàn cơ khổ!
Tàu cuối năm đông cứng, người dưới xuôi lên kiếm ăn, người
buôn chuyến cứ lèn căng từ toa này sang toa kia. Ông Thức thu người, dựa lưng
vào đống bao tải của ai đó, cố nhắm mắt, như để tách khỏi cái bầu không khí
đang muốn nghẹt thở xung quanh.
Lúc ông choàng dậy, tàu đã vào đến ga. Len mãi ông mới nhảy
được xuống đất. Khổ, lại lòng thòng mấy cân mì sợi mà cái bà vợ ông bạn cứ ấn
vào. Đã bảo “Nhà tôi có người đâu mà ăn?”, thì lại cứ cười cười mà nhét vào
tay: “Không ăn thì cho hàng xóm!”. Bây giờ nó nát vụn ra thế này, dễ hàng xóm
cũng chẳng dám cho, cho để họ bảo nhà cán bộ khinh người, thừa ăn, cho đồ nát…
Rách lắm cơ!
Ông Thức nhằm phía cửa ga, chìa vé cho người soát vé rồi thủng
thẳng đi ra cổng. Nghĩ thế nào, ông quay lưng ghé vào cái quầy nho nhỏ bán đủ
thứ, kẹo bánh. Ông mỉm cười một mình, định bụng mua gói kẹo cho “thằng bé”. Bỗng
ông cảm thấy như có đôi mắt nào đang nhìn mình. Ông nhìn quanh và nghe tiếng trẻ
con gọi tên:
- Bác Thức! Bác Thức ơi…
Ông Thức sững sờ nhìn thấy “thằng bé” đang rướn người lên mà
gọi. Nó gọi thất thanh, khiên ông phải chạy vội đến và sà vào thằng bé đang đứng
một mình. Trên người nó quàng mảnh áo mưa, loà xoà. Ông Thức nắm lấy cánh tay
thằng Hận rồi hỏi nó:
- Cháu đi đâu ra đây? Đi với ai?
Ông bỗng chợt nghĩ hay là mẹ con chị Nga đã bỏ đi, bỏ ông, bỏ
cái cửa hàng để lại ra đi. Cơ khổ, hai mẹ con thân sơ thất sơ! Nhưng nếu có đi
thì cũng phaỉo nói với ông một tiếng, đợi ông về chứ? Hay có ai trêu chọc, hành
hạ? Mà ông đối xử với mẹ con cô ấy bằng cả tấm chân tình của con người…
Thằng Hận níu chặt lấy ông, không trả lời. Ông Thức nhìn
quanh:
- Ai đưa cháu ra đây, Hận?
Thằng Hận cười, chỉ vào ông lão đang từ đằng kia đi tới. Nhìn
thấy ông lão rách rưới, ông Thức buông thằng Hận ra, đứng thẳng lên, nhằm ông
lão, giận dữ. Tức thì, ông lão cũng nhận ra thằng Hận đang đứng nép vào một người
đàn ông, dáng chừng như nó rất quen thân. Ông lão chững lại khi thấy thằng Hận
chỉ tay vào mình. Ông lão cảm thấy sợ, có lẽ chuyện không xong rồi! Một “nước cờ”
nhanh chóng xuất hiện. Ông lão rẽ vào một đám đông hình như đang xô sát hay mua
bán gì đó, tránh không gặp người kia.
Ông Thức nhìn ông lão, rồi co chân chạy tới. Lão già ghê thật!
Một tay bắt cóc chính hiệu! Nhưng ông chạy được một quãng, thấy khuất bóng ông
lão, thì dừng lại. Ông sợ, để thằng Hận một mình ở đấy, nhỡ ra có đồng bọn của
chúng bắt mất thằng bé? Ông đành quay lại, không đuổi theo kẻ bắt cóc nữa, thấy
thằng Hận đang cười:
- Cháu muốn về với mẹ! Bác Thức ơi!
Ông Thức bế nó lên, dỗ dành:
- Ừ, để bác đưa về với mẹ Nga! Thế ai đem cháu ra đây?
- Ông cụ, kia kìa, đến nhà cho cháu ăn kẹo. Kẹo ngon lắm…
- Rồi sao nữa? Ông Thức sốt ruột.
- Ông cụ bảo cháu đi theo ông ấy về quê!
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ đi đâu rồi? Cháu muốn về nhà với mẹ Nga cơ!
Ra thế! Ông Thức đặt thằng Hận xuống, mua cho nó một gói kẹo
rồi nắm tay nó dẫn ra khỏi sân ga:
- Thôi, bây giờ bác cháu ta về với mẹ Nga nhé!
Thằng Hận lại ngửa mặt lên cười!
Được một đoạn, thấy thằng Hận lếch thếch, ông bế nó lên.
Nhưng chỉ một chốc, cánh tay ông mỏi nhừ. Thế là ông để nó lên vai, cứ thế công
kênh nó mà đi. Hai bác cháu nghễu nghện, thỉnh thoảng có người quen mặt chào,
ông lại cười với họ. Một niềm vui khôn tả ập đến với ông Thức. Lần đầu tiên
trong đời, ngoài bốn mươi tuổi đầu, ông được làm “trâu ngựa” cho một đứa trẻ!
Ôi, phải chi nó là con ông!
Nghĩ thế, nên đáng ra phải về cửa hàng giao thằng Hận cho mẹ
nó, ông đi tắt một quãng phố, về thẳng nhà mình. Được cái thằng Hận không nói
gì, nó nói muốn về với mẹ, nhưng khi ông bảo “Về nhà bác nhé!”, thì nó chỉ cười!
Cái thằng, nhẹ dạ thế chả trách bị bắt cóc là phải! Đúng là connhà không có
cha! Ông phải dạy nó mới được!
Về đến nhà, ông Thức co chân đạp mạnh làm cánh cổng, làm nó bật
ra. Tiếng ông oang oang:
- Bà ơi! Bà Thức ơi! Ra đây mà xem này…
Bà Thức từ đầu hồi chạy ra, nhìn thấy thằng Hận đang cười
trên cổ ông thì bà hốt hoảng:
- Chết rồi! Thế này thì chết chứ chả sống!
Ông Thức đặt thằng Hận xuống, ngạc nhiên:
- Cái gì mà bà bà bảo chết?
Bà Thức sà xuống vuốt tóc thằng Hận, rồi ngước lên nhìn chồng,
thì thầm:
- Cô Nga cô ấy đi tìm con suốt từ trưa đến giờ. Cô ấy đến cả
đây, nghe bà Thắm bảo ông bắt nó…
ƠngThcs quẳng cái túi mùi sợi xuống hè, cười cười:
- Đứa nào bảo? Ừ mà tôi bắt nó đấy! Thì đã làm sao?
- Còn hỏi làm sao nữa! Ông bắt nó đi mà không nói, để mẹ nó
khóc hết nước mắt… Cô ấy đang chạy cuống chạy cuồng lên vì thằng con kia kìa!
Thế mà ông còn cười được?
Ông Thức thẫn thờ:
- Tôi có bắt nó đâu? Vừa từ trên tàu xuống, thấy thằng bé đứng
trơ ở ngoài ga. Hỏi nó, nó bảo có mọtoong cụ đến nhà nó bắt nó đi theo. Phải
không Hận?
Thằng Hận cười:
- Ông cụ bảo đưa cháu về quê! Cháu không đi đâu, cháu muốn về
với mẹ!
Bà Thức sợ sệt, hai bàn tay cứ cuống lên:
- Thôi hay là để tôi chạy đến báo cho cô Nga, mẹ nó, để cô ấy
biết mà mừng. Chứ không thì cô ấy đến đâm đầu vào ô tô mất!
- Thì bà đi đi! Bảo cô ấy cứ từ từ nhá! Mà bà cũng cẩn thận đấy!
Bà Thức lấy xe đạp ra, nhảy pê- đan rồi nhoay nhoáy đạp đi.
Ông Thức, nhìn theo bà một quãng rồi kéo thằng Hận vào nhà. Nó ngoan ngoãn đi
theo và lại cười…
Trông thấy chị Nga đang thẫn thờ ở trước cửa hàng, bà Thức nhảy
khỏi xe:
- Cô Nga! Thấy rồi…
Chị Nga như người mất hồn, ngơ ngác nhìn bà Thức:
- Chị hỏi ai?
- Tôi đây! Tôi là vợ ông Thức đây. Tìm thấy thằng con cô rồi!
Chị Nga bừng tỉnh:
- Bác Thức? Bác nói sao ạ? Nói lại em nghe nào!
Bà Thức thì thầm vào tai chị Nga:
- Ông Thức nhà tôi ông ấy thìm thấy thằng Hận con cô rồi.
- Thế ạ? Bây giờ cháu đang ở đâu hả bác?
- Đang ở nhà tôi. Cô lên đây tôi đèo đi…
Chị Nga không nói không rằng, định nhảy lên xe đạp của bà Thức.
Nhìn thấy hai bàn tay chị đen toàn than, bà cười:
- Đi vào rửa tay đi đã! Rõ khỉ!
Có lẽ không cần phải thuật lại cái cảnh hai mẹ con chị Nga gặp
lại nhau. Chỉ biết rằng, hai vợ chồng ông Thức đứng ngây ra nhìn người mẹ ôm
ghì lấy đứa con vào lòng. Chị Nga nức nở chán, lại xoay ra phát vào mông thằng
Hận bồm bộp, khiến bà Thức phải sốt ruột, can thiệp:
- Cái cô này! Sao lại đánh nó? Lần sau có đi đâu thì đem nó
lên đây cho tôi. Ở với tôi đố đứa nào bắt được.
Ông Thức nhìn vợ, cười:
- Nấu cơm! Nấu cơm! Cái bà này, đi nấu cơm cho cả nhà ăn. Mẹ
con cu Hận ở đây ăn cơm nhá!
Trong lúc chị Nga lúi húi cùng bà Thức dưới bếp, ông Thức bày
ra baonhiêu thừ trò chơi. Thằng Hận, lần đầu tiên nó được chơi với một người
đàn ông. Hình như đây là điệu lạ lùng đối với nó. Nó vẫn cười, nhưng hình như
có khác lệ thường. Nó nhìn ông Thức mà cười say đắm hơn, chứ không có vẻ ngây dại
như mọi ngày…
Cơm nước xong, trời cũng vừa tối. Ngày cuối năm, đêm sập xuống
rất nhanh, khiến chị Nga không kịp đưa con về lúc trời còn sáng. Nhìn thằng Hận
ngồi trên đùi ông Thức, chị Nga thấy vui vui mà cũng thật tủi lòng. Có lẽ trong
đời nó, đây là lần đầu tiênnó được sung sướng đến thế. Đọt nhiên chị lại nghĩ đến
Tĩnh, nó cũng nằm trong lòng Tĩnh, nhưng đó là lúc nó đang ốm đau.
Ông Thức kể lại câu chuyện ngoài ga, chị Nga cúi đầu lắng
nghe. Khi ông Thức dừng lời, chị nhìn hai vợ chồng ông bà;
- Em cám ơn hai bác! Không có bác hôm nay chắc em chết mất!
Thật là ơn tái sinh cho cháu…
ƠngThcs nghĩ ngợi, rôi hỏi:
- Tôi không hiểu tại sao cái người bắt cóc thằng Hận con cô lại
là một ông lão già nua? Đã thế lại bảo là đưa nó về quê? Hình như trong chuyện
này có cái gì đó, hả cô?
Chị Nga cúi đầu, im lặng, dường như chị đang phải chịu một
gánh nănbg ghê gớm đang đè lên đôi vai ốm yếu. Nhưng thật bất ngờ, chị ngẩn
lên, nhìn ông Thức rồi lại nhìn bà:
- Đúng là câu chuyện của em thật đáng buồn, lại rất đáng xấu
hổ. Em định giấu suốt đời này, kể cả với con em. Nhưng thôi, giấu mãi cũng chẳng
được, mà càng giấu thài lại càng đau lòng. Em coi hai bác đây như anh, như chị,
như ân nhân, em xin kể lại chuyện đời em để hai bác nghe. Nghe rồi, nếu chỗ nào
thương được thì thương, còn chỗ nào không được thì bỏ quá cho em!
- Bố em, là thầy giáo bình dân học vụ ở thị xã này từ những
năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Ông Thức thong thả:
- Cụ tên là gì?
- Bố em tên là Hoan. Hà Đức Hoan…
Ông Thức nhổm dậy:
- Thầy giáo Hoan? Giời đất ạ…! Thầy Hoan người cao cao, quê ở
Bắc Ninh?
- Thế ra… Ối bố ơi… bác cũng biết bố em?
- Tôi học thầy Hoan! Nhưng mấy năm sau, thầy đi kháng chiến
lên Việt Bắc?
- Đúng thế đấy ạ! Trời ơi, thế ra trời cũng có mắt cho em gặp
lại người quen của bố mình… Bố em lên Việt Bắc, gặp mẹ em rồi có em…
- Bây giờ cụ thế nào rồi?
- Mấy năm nay em không nghe tin tức gì. Nhưng thôi, bây giờ
hai bác nghe em kể đã. Em là giáo viên cấp hai…
Đêm ấy chị Nga đã kể lại hết câu chuyện của đời chị cho hai vợ
chồng ông Thức nghe. Câu chuyện cũng chính là chuyện tôi đã thuật lại từ đầu cuốn
sách này. Có điều, chị kể bằng một giọng buồn, lúc thì rành rọt, rõ ràng, khi lại
ngắc ngứ, quặn đau và đầy nước mắt… Nhưng hầu như không phải chị kể mà là chị
trút câu chuyện hoà nước mắt trước mặt hai người xa lạ, ở một nơi xa lạ mà chị
lưu lạc đến!
CHƯƠNG 16 -
S
áng hôm sau tôi dậy muộn, đó là một tật xấu của tôi. Trong một
số tật xấu có thể kể ra được của tôi, có tật ngủ vùi. Người ta bảo càng già
càng ít ngủ. Những người cùng tuổi với tôi, bốn năm giờ sáng đã dậy, họ đi bộ,
tập thể dục, chăn lợn gà, đưa hàng ra chợ cho vợ con… Còn tôi vẫn đang ngủ, thường
trở dậy vào khoảng tám giờ sáng! Cho nên khi tôi mở mắt ra đã thấy chị Nga đang
lúi húi quét nhà. Tôi ra khỏi giường, nhìn đồng hồ thấy hơn bảy giờ, cười ngượng:
- Chị quét làm gì? Cứ để đấy, tí nữa trẻ con về chúng nó làm…
- Cậu hay nhỉ? Người đâu mà ngủ khiếp thế? Người ta chả bảo
“Cuộc đời ngắn một gang tay; những kẻ ngủ ngày còn độ nửa gang”. Chị cười thật
tự nhiên, cái hồn nhiên của tuổi sắp già, nó vừa buồn cười, lại vừa thương.
Tôi cũng cười:
- Chắc em chả sống lâu đâu, nửa gang tay cũng là tốt lắm rồi!
Những người vô dụng sống dai chỉ tổ vướng bận thiên hạ…
- Phỉ thui cái miệng cậu! Mới sáng ra đã nói năng lăng nhăng
cái gì thế? Hôm nay cậu không đi làm à?
Tôi không phải đến cơ quan, cái nghề của tôi nó thế. Không đến
cơ quan là một sự sung sướng hay thiệt thòi tôi cũng chả biết. Có người sướng
thì bảo khổ, và ngược lại. Cơ quan bây giờ sang lắm, ở đâu cũng thế. Máy lạnh
sướng cả ngày, nước trà ngon, ai không thích thì có nước ngọt tinh khiết. Lương
tháng lĩnh đủ, có phụ cấp, trợ cấp, ăn trưa… Nhưng mà khổ, vẫn bảo là khổ, cả
nhày chết dí ở đây, chả đi được đến đâu. Thế thì ai sướng? Đấy, thích thì lên
công ty, không thích thì ở nhà, mỗi tháng có định xuất, phải bán được mấy triệu
tiền hàng. Cha ơi, đi bán hàng khuyến mãi, nhục còn hơn ăn mày. Vào nhà người
ta gõ cửa, họ đuổi như đuổi ma… Tiền xăng xe, tiền gửi xe bãi, tiền nước nôi dọc
đường, cộng vào cũng gần cạn túi. Lên công ty một tí thì lặn. Mà có lên cũng chả
biết ngồi đâu, có ghế, có bàn, có chỗ cả đấy. Đừng có mà lớ xớ! Thế mà vẫn cứ
hơn hớn ra. Khổ mà không biết khổ! Sướng cũng chả biết đằng sướng! Mà luận về
sướng khổ nó vô cùng lắm. Tôi ngẫm ra, ở đời này cứ bon chen, tị nạnh, hiềm
khích, đố kỵ… cũng mất đến hai phần ba gang tay rồi, chứ có ngủ như tôi, cùng lắm
cũng mới mất có một nửa.
Vừa nghĩ thầm, vừa cười một mình trong nhà tắm, tôi nói vọng
ra:
- Em ở nhà với chị! Kệ đời, làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn nhiều,
lo gì!
- Cậu vẫn như trẻ con ấy. Chị lại cười. Làm ít mà ăn nhiều
thì có mà… làm quan!
- Làm quan cũng khổ lắm chị ơi! Ăn miếng ăn cũng cứ phải
trông trước trông sau…
Không thấy tiếng chị, có lẽ chị ra ngoài sân. Lúc tôi ra đã
thấy chị đang nói gì với thằng Hận. Thấy tôi, thằng Hận ngửa mặt cười. Cái thằng?
Chị Nga bảo vợ tôi đi làm rồi, hai đứa cũng đi học sớm.
- Cô ấy dặn chị đủ thứ, nào là gạo ở đâu, muối mắm, bột ngọt…
ở chỗ nào, cả từ dầu gội đầu, xà phòng cũng chỉ hết. Cậu lấy được cô vợ ngoan
quá, tốt quá! Các cháu cũng ngoan!
Tôi không trả lời chị, mà chăm chú nhìn thằng Hận. Tôi đã biết
nó là một con người không bình thường, bệnh hoạn. Nhưng cứ nhìn dáng bộ nó,
không ai biết nó bị bại não. Nó đang ngồi chăm chú vẻ suy tư rất trầm lắng, hiền
triết. Hai bàn tay thon dài đang cầm một cái que, gẩy gẩy những mảnh đất vụn và
những con cuốn chiếu trong cái chậu cây mai. Đầu hơi cúi xuống, để lộ một tấm
lưng dài, vạm vỡ, thỉnh thoảng lại ngẩng lên cười thản nhiên.
- Hận này, cậu hỏi nhá, đi tầu từ ngoài Bắc vào đây có thích
không?
Nó ngẩng lên, trả lời tôi bằng mọt giọng ồm ồm, lễ phép:
- Dạ, thích lắm cậu ạ! Cháu bảo mẹ, sao không đi nữa, lại xuống
đây?
Tôi lắc đầu:
- Xuống đây chơi với cậu chứ đi nữa chơi với ai?
Nó đứng lên, cao hơn tôi, nửa đầu, tôi chỉ đến vành tau nó:
- Khối gì người chơi? Bác Thức, bác Thức gái nữa, với cả bố
Tĩnh. Cậu có biết bố Tĩnh không?
Tôi nhìn chị Nga, thấy chị khẽ gật đầu, tôi trả lời cốt để nó
khỏi thất vọng:
- Cậu biết bố Tĩnh rồi! Bố có đi với cháu không?
Nó cười hì hì, rất nhạt.
- Bố Tĩnh bảo mẹ đưa cháu đi, bao giờ về, bố đón. Mẹ nhỉ!
Chị Nga để chúng tôi lại, vào nhà. Có tiếng lục cục dưới bếp.
Tôi với thằng Hận còn trò chuyện một lúc nữa. Chuyện với một người không bình
thường, nếu nhẫn tâm để làm vui thì được. Nhưng nếu nó là người thân của mình
thì xa xót lắm.
- Cháu học lớp mấy rồi?
Nó xoè bàn tay ra, nhìn một lúc rồi giơ một bàn tay lên, cười:
- Lớp Năm!
- Đâu, cháu viết tên cháu ra đất cho cậu xem có đẹp không
nào?
Thằng Hận nhìn quanh, nó tìm dược một mẩu gạch vỡ, cẩn thận,
gò gẫm, viết hai chữ “Trần Hận” lên nền xi măng. Nhìn hai chữ viết bằng lối chữ
in hoa, khẳng khiu, gãy khúc, rồi nhìn vào hai bàn tay thon dài, đẹp mẫu mực của
nó, tôi lắc đầu:
- Ai dạy cháu học?
- Mẹ! Mẹ dạy…
- Thế cháu có đến trường không?
- Có! Cháu đến trường, nhưng người ta bảo cháu lớn quá, chỉ đến
để thi xong rồi về.
Chị Nga gọi vọng ra:
- Hai cậu cháu vào ăn sáng nào!
Chị Nga dọn cơm ra, gần đúng với “gu” của vợ tôi: rau muống
luộc, lạc rang muối. Đây là kiểu ăn sáng trường kỳ của gia đình tôi. Vợ và các
con tôi đã ăn từ rất sớm để còn đi làm, đi học.
Xong bữa, thằng Hận loanh quanh rồi leo lên phản, còn hai chị
em tôi ngồi ở bàn, uống nước. Cái thằng ngủ rất nhanh, đến nỗi, tôi phải ngạc nhiên
hỏi chị Nga:
- Đêm qua đi tầu, chắc nó mệt lắm?
Chị lắc đầu:
- Nó vẫn thế đấy! Chị khổ với nó lắm!
- Chị xem thế nào, có điều kiện chạy chữa cho nó chứ? Chẳng lẽ
cứ chịu mãi thế à? Ở trong này có nhiều thầy thuốc giỏi. Để hôm nào em thử nhờ
một vài người quen, kiểm tra xem nó ở mức độ nào?
- Không ăn thua đâu… Chị Nga nói nhỏ như nói một mình.
- Chị cứ thế, chả trách! Để rồi em tính…!
Tôi có biết một ông thầy ở Bình Dương, nhà ngay thị xã. Gọi
ông là thầy, thầy gì cũng không chắc, mà gọi là thầy gì cũng đúng, bởi ông có
thể làm được nhiều chuyện gây ngạc nhiên. Ông là thầy lang, vì ông bốc thuốc
nam rất hay, gãy chân, gãy tay, mụn nhọt nhiễm trùng hoá sâu quảng cho người và
cả trâu bò, đều khỏi. Ông cũng là thầy địa lý, xem đất cát phong thuỷ, hướng nhà,
hướng bếp, mồ mả… Ông lại có tài sờ tay vào điện nhà, hai trăm hai mươi vôn hẳn
hoi, điện không giật, mà tay kia chạm vào người khác, mụn nhọt đầu đinh, máu bầm,
máu tụ đều tan ra. Đặc biệt, ông có cái nhìn như có tia điện, hoặc tia gì đó,
có đủ khả năng bắt mà nhâp vào người, hay bị bùa ngải ám, phải buông tha hoặc
hoá giải vô nghiệm. Đấy là thầy pháp!
Thằng Hận thuộc loại nào? Căn của nó ra sao, chắc phải nhờ đến
ông thầy Bình Dương, may ra có cơ chữa khỏi. Nhưng tôi chỉ nghĩ thế thôi, chứ
chưa nói với chị, bởi cũng chẳng biết cơ sự thế nào. Người ta nói, phước thầy,
may chủ kia mà. Tôi nghĩ sang chuyện khác, chợt nhớ ra mấy tên người thằng Hận
nói: bác Thức, “bố” Tĩnh… tôi hỏi chị:
- Mấy người mà thằng Hận nhắc tên lúc nãy là ai thế? Có phải
người làng ta không chị?
Chị Nga cũng như người chọt nhớ ra, cười buồn:
- Đó là những ân nhân của mẹ con chị. Có lẽ chị khó có thể bước
qua những hoạn nạn mà không có những con người này. Suốt đời chị mang ơn vợ chồng
ông Thức, bà Thắm, cô Nhuần ở Phú Thọ…
Câu chuyện như một dòng hồi ức mang đậm vẻ u hoài, nhưng cũng
có lúc loé lên những ánh vàng nhân ái, mà chị đã trải qua hơn mười nă, kể tù
khi mẹ con chị bước lên cái mảng nứa xuôi dòng sông Công. Tôi ngồi nghe chị kể,
y hệt như ngày còn bé, lắng nghe chị kể chuyện cổ tích hay những câu chuyện chị
đọc được trong những cuốn sách. Bên kia giường, thằng Hận vẫn nằm ngủ yên lành,
thỉnh thoảng tiếng ngáy của nó rộ lên, cũng thật bình yên…
- Sau lần cháu Hận suýt bị bắt cóc, chị cũng đoán biết ra người
bắt nó là ai rồi. May mà nhờ ông Thức, mẹ con chị mới lại được gặp nhau, nên chị
đã quyết định kể hết mọi sự thất về đời chị cho vợ chồng ông Thắc nghe. Và chị
cũng đồng ý để thằng Hận thỉnh thoảng về chơi với với vợ chồng ông ấy, chứ chị
không muốn cho nó về ở hẳn. Em biết đấy, chị khổ vì nó, nhưng nếu không có nó,
chắc chị cũng chẳng sống làm gì. Tất nhiên, sau chuyện này cũng có nhiều lời
bàn ra, tiếng vào, nhỏ to quanh chuyện ông Thức và chị. Chị thấy lo ngại, nhưng
ông Thức thì chẳng coi vào đâu những lời đàm tiếu ấy, lại được cả bà Thức phụ
hoạ, chị cũng thấy hơi yên yên với đống than và căn phòn dột nát của mình.
Nhưng rồi, càng ngày, thằng Hận càng bộc lộ ra là một đứa trẻ
không bình thường. Tệ hại nhất là nó không biết khóc, và cười thì không thành
tiếng. Tiếng nói bình thường như mọi người nhưng ấp úng, ngắc ngứ, không đầu,
không cuối! Chị thất vọng lắm, ông Thức cũng bối rối, nhưng bà Thức thì càng hy
vọng rằng chị sẽ bỏ thằng Hận lại cho bà ấy. Là đàn bà, chị hiểu sự ích kỷ thường
tình cuả người đàn bà, nên không giận. Chị chỉ cố dạy cho nó học, và cũng nhờ
ông Thức xin cho nó đến trường. Cháu học vất vả lắm, phải đúp hai lớp. Đến năm
lớp Năm thì nó lớn quá rồi, quá tuổi, đành phải thôi…
Cuộc đời chị Nga của tôi, có lẽ sẽ được chôn chặt ở cái thị
xã nhỏ bé này với hai bàn tay suốt đời nắm than quả bàng, nếu như không có một
biến cố xảy ra. Sau mười hai năm lưu lạc, biệt tích, lần đầu tiên chị Nga… nhận
được thư! Chị không tin, nhưng trên phong bì ghi rõ họ tên chị và người gửi là…
thầy Hoan! Chị bồi hồi nhìn nét chữ của bố mình rồi chạy về căn phòng vách lá của
mình. Chị muốn mở lá thư nhưng rồi lại không dám. Chị không sợ những lời trách
móc, nhưng chị hốt hoảng phải đọc được những dòng buồn tủi của người cha bị mất
đứa con, sống vò võ một mình trong tuổi già cô độc. Mãi sau, chị rụt rè xé từng
tí một chậm chạp, để lấy ra tờ giấy học trò gấp tư. Chị không cầm đước nước mắt,
nhìn những dòng chữ chân phương, rõ nét và đều tăm tắp nhưng lộ rõ vẻ run rẩy của
cha.
Nga, con gái của bố!
Nhận được thư này, nếu không có gì khó khăn, trở ngại cho
con, con hãy về với bố. Bố biết con nhớ bố, cũng như bố nhớ con. Mọi chuyện ở
quê nhà vẫn như cũ, chỉ có bố là già yếu nhiều. Con về được thì bố con gặp được
nhau lần cuối. Nhưng, bố nhắc lại, nếu có trở ngại mà con không về được, thì con
cũng đừng quá buồn, mà hãy coi đây là lời bố chào con, đứa con xấu phận của bố,
và mẹ.
Bố Hoan.
Khóc và suy tính mãi, cuối cùng, chị Nga đưa bức thư của thầy
Hoan cho ông Thức xem. Suy nghĩ một hồi, cũng chẳng hỏi ý chị, ông lạnh lùng bảo:
- Cô nên về! Không! Cô phải về, để ông cụ được gặp mặt! Tôi
có cảm giác đây là lời trăng trối của thầy Hoan!
Chị Nga ngân ngấn nước mắt:
- Vâng! Em cũng đã nghĩ thế. Có lẽ bố em sắp chết…
Ông Thức nhìn chị Nga,như muốn dò xét:
- Còn thằng cháu Hận, cô có nên cho nó về cùng không?
Nhìn thằng bé đang nằm ngủ ngon lành dưới làn quạt phe phẩy của
bà Thức, chị không nỡ nói thật. Bà Thức vẫn chưa biết chị Nga nhận được thư bố
nhưng linh cảm cho bà thấy có chuyện gì đó không lành:
- Cô định về bên Thái à? Cứ đi đi, để thằng cháu cho tôi.
Cuối cùng, thì chính chị Nga cũng không nhớ, bằng cách nào mà
cả hai mẹ con chị cùng lên tàu về quê. Bà Thức sụt sịt:
- Hai mẹ con về lo cho ông cụ rồi lại sang ngay nhé!
Ông Thức thì đứng lặng dưới sân ga, nhìn theo hai mẹ con vất
vả len lên tầu. Ông kéo bà về, không đợi tàu chạy, vì nếu đứng thêm chút nữa
ông sẽ khóc mất! Vì ông biết, chẳng bao giờ ông còn gặp lại hai mẹ con chị Nga
nữa!
Nhưng cuộc đời chị Nga vốn có nhiều bước ngoặt. Nếu việc chị
nhận được thư của thầy Hoan mà phải về là bước ngoặt thứ nhất, thì hãy còn một
bước ngoặt nữa đang đợi chị. Nó không ở đâu xa, ngay trên chuyến tàu này thôi.
Chị Nga cũng không tin rằng mình sẽ còn trở lại mảnh đất này,
mảnh đất đã mười hai năm che chở, cưu mang mẹ con chị. Cho đến lúc này, chị mới
nhận thấy dù hơn mười năm qua, chị sống ở đây với biết bao cay cực, tủi buồn,
và cũng có những lúc loé lên tia sáng của tình người, nhưng ngoài những người ở
cửa hàng ăn uống, chị không hề quen biết một ai! Thậm chí chị vẫn còn bị lạc đường
khi ra phố, dù cái thị xã nhỏ bé và hoang vắng này, người ta chỉ đi xe đạp
trong một hai giờ là hết đất. Mà rồi chị cũng chẳng nhớ được tên phố, tên làng
nào… Thế nhưng, khi con tầu chuyển bánh một cách lề mề, chậm chạp, nhà cửa, cây
cối, trời mây… ở ngoài cửa toa đang lần lượt trôi qua, tự dưng trong lòng chị
dâng lên một cảm giác bùi ngùi… Nhìn hai bàn tay đen xạm và những chiếc móng
tay đen bóng lên của mình, chị Nga lại rưng rưng. Từ biệt nhé, dù rằng có một
ngày nào ta sẽ trở lại nơi đây, hay dù mãi mãi không còn được thấy nhau nữa,
thì mảnh đất và con người nơi này sẽ còn đọng mãi trong cuộc đời ta, trong ký ức
của ta!
Khi con tàu đã ổn định vận tốc, chạy khá êm ái, gió ở hai bên
đường lùa vào mang theo hơi hướng của những cánh đồng, những vạt rừng chẩu, sừng
sở nhút ngàn, chị Nga mới trở lại với thực tế. Và bông nhiên trong lồng ngực chị
hình thành một khoảng trống, cứ dần lơn mãi lên, phồng lên vặn xiết con tim,
khiến chị như muốn nghẹt thở. Chị bắt đầu hình dung ra ngôi nhà tuổi thơ của
mình. Ngôi nhà chị đã lớn lên rồi từ giã nó một cách âm thầm, vụng trộm. Ngôi
nhà ấy giờ đây ra sao, khi không có chị? Hình bóng người cha sau mười hai năm
chắc đã già lắm, lưng còng xuống chịu đựng muôn vàn tiếng tăm và cả thời gian
xoay vần theo mỗi mùa gió bấc thổi. Và mỗi chiều về bóng cha ngả dài xuống mảnh
sân côi cút. Rồi khi đêm xuống, cha lại lầm lũi một mình, không tiếng người,
không hơi hướm người thân, chỉ có bóng cha in trên vách đất!
Chị lại hình dung ra từng ngõ nghách của làng xóm, những con
đường ghập ghềnh những dấu chân trâu, nứt nẻ mùa đông và sụt sùi bùn lầy trong
mùa mưa gió. Rồi chị nhớ đến những cô, những cậu học trò ngày xưa, tất nhiên
trong đó có cả tôi, đứa em ngỗ ngược và yếu đuối của chị. Và cuối cùng, chị
không sao dứt ra được ngôi nhà của anh Kỳ. Ở đó có tiếng lợn kêu, tiếng gà gáy,
tiếng rên rẩm của bà mẹ chồng đau khớp quanh năm. Ở đó chị đã chôn vùi niềm hy
vọng và cả cuộc sống bình thường, giản dị của chị. Những con mắt dò xét, nghi kỵ
và những lời nói độc ác của những người chị chồng, khiến chị không thể nào đứng
vững trên đời. Và giờ đây, thằng Hận đã lớn, nó đã rõ ràng là một bản sao của
anh Kỳ với đôi lông mày xếch xiên trong vào tận sống mũi và cái miệng cởi mở
thì chị sẽ ăn nói thế nào? Thằng Hận vẫn nghển cổ ngó ra ngoài cửa toa, với nét
mặt lạnh lẽo, không thần sắc, chỉ có cái miệng là hình như lúc nào cũng sắp cười.
Chị cúi xuống chân, cầm cái túi vải đặt lên đùi, cảm giác ấm
áp và đau nhói lại trở về. Trong này là những kỷ vật về cha, và đặc biệt về người
mẹ mà chị chưa hề biết mặt. Chị thử hình dung ra lúc gặp lại cha mình, và cả
hai cha con chị cùng lật giở những kỷ niệm. Đó là con dao oan nghiệt, là nắm
tóc xânhcủ mẹ, là những mảnh áo màu xanh lá rừng… Chị Nga nhắm mắt lại, nhưng
hình như trong cõi tối tăm mù mịt, chị cảm thấy yên lòng hơn, mặc dù chị biết
cuộc trở về này, có thể lại mở đầu cho một cuộc hành trình lưu lạc mới…
Đoàn tàu dừng lại ở một ga, người xuống, kẻ lên lại rầm rập.
Dường như mỗi người xuống, đem đi những nỗi niềm của họ, thì những người lên lại
mang lên những câu chuyện và tâm sự mới. Cứ thế, đoàn tầu đi mãi để tiếp nhận
những số phận và rồi lại bỏ lại những cuộc đời trên mỗi sân ga. Chị Nga lẩn thẩn
nghĩ ngợi về bao chuyện trong lòng và cả những gì chị nhìn thấy trước mắt…
Bỗng chị vô cùng kinh ngạc thấy một người đàn ông đang đi tới
chỗ chị với một khuôn mặt quen quen. Có phải chị đã gặp con người có khuôn mặt
vuông chữ điền và cái miệng nở này? Với chiếc áo quân phục cũ sờn, loang trắng
mồ hôi anh đang mặc gợi cho chị một cảm giác gần gũi và thân thiện. Chị cố nhớ,
trong khi anh ta đang đi lại phía chị và đôi mắt đang kiếm tìm một người hay một
cái gì đó. Chị mong anh hãy nhìn vào mắt mình. Nhanh lên, chị thầm giục mình,
hãy nhớ nhanh lên, kẻo anh đi qua mất! Anh vẫn len lỏi trong đám đông, mải nhìn
đi đâu đó. Anh là ai? Có phải là một người nào đó mà chị đã gặp? Một, hai bước
chân và anh đã đi qua chỗ hai mẹ con chị đang ngồi, mà không nhìn vào chị. Như
một tia chớp nhỏ, nhưng vô cùng sắc sảo, rõ nét hiện ra trong đầu, chị nhìn
theo vội vã cất tiếng gọi thảng thốt:
- Anh Tĩnh…!
Người đàn ông quay lại như một phản xạ tự vệ. Đôi mắt anh
sáng lên chứa chất đầy nỗi kinh ngạc:
- Nga? Nga phải không?
Chị Nga loạng choạng đứng dậy, một tay chị chới với hướng về
phía anh, còn tay kia nắm vội vào thành ghế tầu.
Thế là hai con người này rồi cũng đã gặp được nhau sau mười
năm!
Tĩnh len qua một người đàn bà đang lom khom chất xếp gồng
gánh, đến bên chị. Bộ ngực vạm vỡ của anh áp sát vào đậu chị Nga:
- Trời ơi! Có đúng là Nga không?
- Đúng rồi, anh! Em, Nga đây…
- Ngồi xuống, em, kẻo tàu chạy giật ngã bây giờ. Anh đỡ chị
Nga ngồi xuống ghế rồi tìm chỗ trống quỳ một chân ngước lên nhìn chị:
- Em trốn ở đâu mà để anh đi tìm suốt muời năm trời? Anh hỏi
một câu đầy trách móc.
Chị nhìn anh đăm đắm, lắc đầu:
- Em có trốn anh đâu! Nhưng em phải trốn tránh cuộc đời. Em
biết anh đi tìm em, và em cũng đọc được dòng chữ viết anh nhắn tìm em trên bức
tường vôi của cửa hàng ăn uống.
Tĩnh gật đầu:
- Anh thất vọng và viết lên đó, nhưng không hy vọng gặp được
em. Bây giờ… thật không ngờ! Tĩnh quay sang nhìn thằng Hận. Nó vẫn thản nhiên,
trong bộ mặt sáng sủa của mình. Tĩnh hỏi chị Nga:
- Thằng Hận? À, không, thằng Pinôkiô của tôi đây phải không?
Chị Nga cười ngậm ngùi:
- Anh vẫn còn nhớ à? Nó đấy! Con, chào chú Tĩnh đi con! Chú
Tĩnh là người đã cứu sống mẹ con ta đấy!
Thằng Hận còn đang nghĩ ngợi, nó muốn tìm một câu chào, nhưng
Tĩnh lại cho là nó xấu hổ, bởi nó đã lớn lên thành một trang thiếu niên tuấn
tú. Anh nhanh nhảu:
- Không phải chú Tĩnh, mà là bố! Bố Tĩnh, phải không con?
Nó cười:
- Cháu chào… bố!
Tĩnh phá ra cười vang cả một góc toa:
- Giỏi lắm! Thằng cu giỏi lắm! Lại đây với bố nào…
Thằng Hận còn đang lưỡng lự thì đoàn tầu giật mạnh một cái,
khiến chị Nga xô hẳn người vào vòng tay đang vịn trên thành ghế của Tĩnh. Anh vội
vàng đỡ chị, làm chị đỏ bừng mặt. Lần đầu tiên sau nhiều năm, chị Nga cảm thấy
mình nóng mặt, chị mỉm cười một mình.
- Anh ngồi lên đây, quỳ thế mỏi chân chết! Chị âu yếm nói với
anh.
Tĩnh đứng lên, vạch một chỗ giữa hai mẹ con chị, nhưng rồi anh
nhấc bỗng thằng Hận đặt lên đùi. Thằng Hận có vẻ khoái chí lắm, nó cười. Hồi
lâu, giữa hai người là một khoảng im lặng, dường như mỗi người đều đầy ắp những
câu muốn hỏi, nhưng chưa ai nghĩ ra là hãy bắt đầu thế nào. Thế rồi anh Tĩnh
lên tiếng trước:
- Bây giờ em đi đâu đây?
Như một đứa trẻ ngang bướng, chị Nga đặt tay mình chặn lên
bàn tay Tĩnh mỉm cười:
- Em hỏi trước: thế anh đi đâu?
Không đắn đo, Tĩnh đáp ngay:
- Anh đi tìm hai mẹ con em!
Chị Nga cúi xuống và giật mình nhìn vào những cái móng tay
đen nhẫy của mình. Chị cố giấu chúng vào sau vạt áo, nói nhỏ:
- Có thật không anh? Chẳng lẽ suốt mười năm qua…?
Một tay Tĩnh ôm lấy vai thằng Hận, bàn tay kia nắm lấy tay chị
Nga, đầu cúi xuống như nhìn xuyên suốt sàn tàu:
- Nếu nói suốt mười năm qua anh chỉ đi tìm em thì anh là người
không trung thực. Nhưng quả thật suốt mười năm, lúc nào anh cũng nghĩ về em,
ngay cả khi anh đã cưới vợ, lập gia đình riêng…
Chị Nga thảng thốt:
- Anh đã lấy vợ? Nhưng như sực nhớ ra điều gì đó không phải,
chị vội chữa. Em hiểu, cuộc đời con người ta được mấy đận “mười năm”. Mười năm
là một thời gian quá dài của một cuộc đời…
- Anh không nói dối em, lúc nào anh cũng nhớ về em. Sau khi
chia tay em ở nhà ga, anh về quê, cảm thấy mình trống trải vô cùng. Nhưng, nói
thật nhé, anh không đủ sức lực và tự tin để đi tìm em, nhưng nhờ mẹ anh. Sau đó
mấy tháng, biết rõ sự thật về anh với em, mẹ anh đã lấy hết số tiền cụ đã dành
dụm đưa cho anh và nói với anh những lời thấm thía, cổ vũ thêm lòng tự tin cho
anh. Em có biết mẹ anh đã nói thế nào không? Bà cụ bảo: “Con hãy giữ đúng lời hứa,
dù rằng sau đó câu chuyện có như thế nào đi nữa thì làm thằng con trai, con
không được thất hứa”. Thế rồi anh đã lên cái thị xã nhỏ bé, mà em đã đến. Nhưng
anh đã không tìm thấy em…
Chị Nga cảm thấy như người có lỗi:
- Em ở ngay cái cửa hàng ăn uống mà anh đã viết lên đấy…
Tĩnh lắc đầu:
- Tệ quá! Hình như số phận cứ trêu ghẹo chúng ta? Thế rồi mỗi
năm một lần, anh lấy lý do đi đảo sắn, rồi đi buôn quế, buôn sắn khô… cứ vào
cái ngày chia tay em, anh lại lên… Sau ba năm, anh cưới vợ, một cô gái cùng
quê. Ngay cả sau khi anh đã lấy vợ rồi, anh vẫn giữ nguyên tắc ấy, tất nhiên vợ
anh không biết. Mà anh cũng không biết là nếu gặp được em, anh sẽ xử sự như thế
nào, nhưng anh vẫn đi tìm. Đến bây giờ, quả thật lòng trời không phụ anh.
Cả hai cùng im lặng trong tiếng rập rình của toa tàu. Lúc
sau, Tĩnh phá vỡ sự im lặng:
- Còn em, thế nào?
Chị Nga gỡ bàn tay mình ra khỏi tay Tĩnh, nói nhỏ:
- Em vẫn thế! Nghĩa là em trốn chạy và giấu biệt tăm tích của
mình. Nếu không như thế, không phải chạy trốn, có lẽ anh đã tìm thấy em cũng
không chừng!
- Nghĩa là em vẫn chỉ có mình thằng Hận?
- Vâng! Em chỉ có mỗi mình cháu, và có lẽ mãi mãi cũng chỉ có
hai mẹ con với nhau!
Tàu lại dừng, rồi lại chạy, và rồi lại thay đổi những số phận
trên mỗi toa. Tĩnh gỡ tay thằng Hận đang ngủ, để nó dựa vào chị Nga:
- Em ở đây, anh về chỗ anh bạn người cùng quê một tí rồi anh
quay lại. Chị Nga đỡ vai con, không nói. Chị nghĩ mọi chuyện sẽ phải thế thôi,
gặp nhau rồi, anh lại đi…
Nhưng một lúc sau, Tĩnh quay trở lại, với cái túi nhỏ đựng quần
áo của mình. Chị Nga cố làm ra tự nhiên, nhưng chị thật không tin nổi. Đáng lẽ,
sau những câu chuyện như thế, Tĩnh phải bỏ đi. Anh phải bỏ đi và tránh không gặp
chị nữa mới hợp với lẽ thường. Nhưng anh đã trở lại, trở lại với lòng hăm hở
khiến chị thật xúc động.
- Bây giờ mẹ con đi đâu?
Chị Nga kể lại cho anh Tĩnh nghe chuyến đi về quê này của
mình. Tĩnh lắng nghe và mỗi lúc lại nở nụ cười trên miệng, khiến chị Nga phải hỏi:
- Sao em nói gì anh cũng cười thế?
- Anh cười anh! Vì anh là một tên nhát gan!
- Sao lại nhát gan? Chị Nga ngạc nhiên hỏi lại.
- Có lúc anh nhát gan, toan đầu hàng số phận. Nhưng bây giờ
thì không! Anh đã “xác định lập trường” rồi!
Chị Nga cười:
- Nhưng mà anh chưa “nắm tình hình” thì xác định sao được?
- Em vẫn nhớ nhỉ? Thành tật mất rồi, nhưng có lẽ cũng không
phải là xấu. Phải không nào?
- Không! Chị Nga lắc đầu. Sao lại xấu? Anh tốt lắm! Tốt hơn cả
em nghĩ.
Tàu dừng, chị Nga lay thằng Hận dậy. Đây là lúc phải chia tay
với Tĩnh, nhưng sao chị không thấy buồn. Có lẽ chị nghĩ rằng, cuộc đời cho chị
một người bạn thế là quá đủ. Thậm chí chị còn cảm thấy xấu hổ vì chị đã dám yêu
anh, dù đó là tình yêu chân thật, đầu đời, và cũng có thể là duy nhất.
- Đưa tất cả đây cho anh, hai mẹ con cứ đi ra cửa toa đi. Vừa
nói, Tĩnh vừa giành lấy cái tay nải của chị Nga. Chị không cưỡng lại, mà nghĩ,
thôi cứ để anh làm gì anh muốn. Chỉ một phút nữa thôi, mọi chuyện sẽ mãi mãi đi
vào kỷ niệm.
Chị Nga bình thản rời khỏi toa tàu, khi chị đưa tay ra định
nhận lại cái tay nải, thì Tĩnh đã kéo thằng Hận về phía cửa ga:
- Thôi, ta ra đi. Để anh xem mấy giờ có tàu Thái?
- Anh Tĩnh! Anh đưa mẹ con em đến đây là được rồi. Anh trở lại
toa của mình đi, kẻo nhỡ tàu.
- Không sao! Anh đã hứa với chính mình rồi, anh không thể bỏ
em giữa đường như thế này một lần nữa. Tất cả hàng hóa, anh đã gửi bạn rồi. Cậu
ta sẽ làm thay anh…
- Thế anh…
- Anh sẽ lên tàu ngược Thái cùng với em! Được không?
Chị Nga kêu lên kinh ngạc:
- Trời ơi! Không được đâu, anh! Em van anh, anh còn vợ con
anh…
- Chuyện đó tính sau! Tĩnh tỉnh bơ, như không. Bây giờ cả nhà
ta hãy vào cái cửa hàng ăn của ga, ăn cái gì đã. Anh đang đói đây. Tám giờ tối
mới có tầu Quán Triều cơ…
Không để chị Nga kịp nghĩ ngợi, anh cứ kéo thằng Hận đi, làm
chị phải chạy gằn mới kịp. Bây giờ người ta đã cải tiến, không còn phải xếp
hàng nữa mà cứ ngồi một chỗ, sẽ có người đến hỏi xem anh muốn ăn gì. Họ ghi vào
giấy rồi bưng ra tận bàn. Sướng thật! Tĩnh rung đùi. Trong lúc chờ người ta
bưng cơm, phỏ ra, Tĩnh nhìn chị Nga cười cười, khiến chị đỏ mặt:
- Anh muốn đùa em một tí, nhưng bây giờ thôi, anh sẽ nói thật
hoàn cảnh của anh. Anh lấy vợ được một năm thì sinh cháu gái. Nhưng thật đáng
buồn cho số phận anh. Nghèo túng quá, hai vợ chồng cãi nhau suốt. Khi con gái
anh được bốn tuổi, thì anh phải ký vào đơn để ra tòa. Cháu bây giờ ở với bà nội
và đang học lớp Một.
Chị Nga thẫn thờ nhìn anh và hỏi một câu vô tình:
- Thế chị ấy bây giờ ở đâu?
- Lấy một anh lái xe khách, ở Quảng Ninh. Anh không gặp lại,
nhưng nghe mẹ anh nói, họ cũng đã có một đứa con…
Chị Nga cúi nhìn xuống chân bàn, cố giấu nỗi nghẹn ngào:
- Thật tội nghiệp cho cháu bé, không được sống bên mẹ…
- Không có mẹ cũng khổ, mà không được sống với cha cũng là bất
hạnh, khổ đau. Ước gì đừng có đứa trẻ nào phải thiếu văng cha mẹ…
Ăn xong, họ ra ngồi ở một cái ghế xi măng đợi tàu. Chị Nga thấy
mình như bơi trong sự bất ngờ. Sau cùng, chị nói với Tĩnh:
- Anh ạ, em biết anh thương mẹ con em, mà em cũng rất quý trọng
anh. Nhưng, anh chưa biết gì nhiều về em, dù chúng ta gặp nhau đã mười năm. Chị
cười mỉm. Nói như kiểu của anh: anh chưa hề nắm được tình hình của mẹ con em,
liệu khi biết rõ sự thật, anh sẽ nghĩ về em ra sao? Ngay bây giờ đây, em sẽ kể
cho anh nghe về em. Để rồi, tùy anh suy nghĩ, quyết định …
Tĩnh nhìn chị Nga lộ rõ vẻ thông cảm, xen lẫn lo lắng:
- Em nói đi. Đến một lúc nào đó, anh cũng sẽ yêu cầu em nói hết,
nhưng chưa phải bây giờ…
- Không! Em phải nói ngay bây giờ, ở đây, khi tàu chưa đến
ga! Để châm một tí nữa thôi nữa sợ sẽ muộn!
Tĩnh mỉm cười, khuyến khích, và chị Nga cũng sợ rằng chị sẽ
không thể nói hết, nên chị nói ngay:
- Thằng Hận không phải con của chồng em, mà nó là con của… bố
chồng em. Nó được sinh ra khi chồng em đã có giấy báo tử được gần hai năm! Và,
hình như có cái gì đó trái đạo, nên trời phạt, để thằng Hận là một đứa trẻ
không bình thường…
Tĩnh sững sờ, nhưng anh không tỏ thái độ ngạc nhiên, khiến chị
Nga nghĩ hay là anh ấy đã rõ mọi chuyện…? Chị kể lại tất cả, chậm chạp, rõ ràng
và tỉnh táo. Tĩnh im lặng, dường như để tôn trọng nỗi đau mà chị Nga phải gánh,
trong khi đó, thằng Hận gối đầu lên đùi anh, ngủ ngon lành.
Chị Nga ngừng kể đã lâu, nhưng Tĩnh vẫ không lên tiếng, anh
nhìn xa xăm vào đâu đó. Chị Nga lại thấy hoang mang, nhưng không dám hỏi. Chị
đang hình dung ra khi Tĩnh đặt trả thằng Hận lại cho chị, lặng lẽ cầm cái túi
hành lý của mình, đi về phía con tàu xuôi…
Bất thần, có tiếng loa ọc ạch của nhà ga thông báo có chuyến
tàu ngược, và tiếng bánh sắt nghiến rầm rầm trên đường ray, Tĩnh lay lay thằng
Hận:
- Đồng chí! Dậy thôi nào! Dậy về thăm ông ngoại nào!
Nó vẫn say ngủ oặt ẹo, Tĩnh đưa cái túi cho chị Nga, nói nhỏ:
- Em cầm cho anh, để anh cõng thằng con trai lên tầu. Đánh thức
bây giờ tội nghiệp nó.
Chị Nga lặng lẽ đi theo, như một đứa trẻ ngoan!
CHƯƠNG 17 -
K
hi chị Nga về đến làng Sơn Cốt của chúng tôi thì sức lực của
thầy Hoan đã suy kiệt, thầy yếu lắm rồi. Chị Nga lao vào ôm lấy bố khóc như mưa
gió, trong khi anh Tĩnh và thằng Hận chỉ biết ngồi nhìn. Nhưng khi thấy con gái
đã về, thầy cố gượng dậy và cố vui như không có chuyện gì xảy ra, như chị Nga vẫn
ở bên thầy từ trước đến giờ. Thấy thế chị Nga càng tủi. Một tuần sau, thầy qua
đời. Đám ma của thầy giản dị nhưng trang nghiêm. Tất cả người làng đều đến đưa
thầy ra nghĩa trang, ai cũng muốn thả một hòn đất xuống cho thầy được yên ấm. Kể
cũng lạ, anh Tĩnh là người hoàn toàn xa lạ với phong tục tập quán của làng tôi,
nhưng anh đã rất thành thạo trong công việc ma chay, khiến dân làng cứ tưởng
anh là chồng chị Nga từ lâu rồi…
Mấy năm sau, tôi có dịp về quê và có đến thắp hương trước mộ
thầy. Nhưng tôi vô tâm, đến nỗi không hỏi xem chị Nga bây giờ ở đâu. Mà có hỏi
chắc cũng chẳng ai biết. Tôi chỉ được nghe mẹ tôi nói rằng, “có cả thằng chồng
nó cùng về trước khi ông giáo qua đời. Sau đó chúng nó đưa nhau đi đâu thì
không ai biết”.
- Thế sao mẹ không hỏi kỹ xem chị ấy đi đâu?
- Có, nhưng nó không nói. Nó bảo cũng chưa biết sẽ đi đâu. Chỉ
nhờ tao và các em mày trông nom giúp mộ ông giáo. Nó bảo một vài năm nữa sẽ đem
tiền về xây lên cho chắc chắn. Cũng đến mấy năm, chưa thấy nó về…
Chị Nga đi đâu, làm gì? Thế là lại một lần nữa lưu lạc xứ người.
Những buổi chiều tôi lang thang trên cánh đồng Lưu Lạc, cánh đồng tuổi thơ, mà
tưởng như mới đây thôi, tuổi thơ của tôi, tuổi thiếu nữ của chị Nga vẫn còn
đang trước mặt, đang rì rào trong gió thổi, đang phơn phớt tím trong cánh hoa đậu
bướm… dù cánh đồng đã đổi thay quá nhiều. Con sông đã đổi dòng, Soi Vạt đã bị bạt
đi do nước sông cũng có, mà do con người đào bới lấy cát, lấy sỏi cũng có.
- Cậu ạ, chị đành phải quyết định ra đi. Tất nhiên là do anh
Tĩnh, nhưng nếu chỉ có thế thôi chị nghĩ cũng chưa chắc đã đành lòng bứt đi khỏi
nơi bố chị đang nằm, chí ít cũng ba năm sau… Nhưng, chị vẫn còn thấy rằng mọi
người nhìn thằng Hận như nhìn một con thú hoang từ đâu xộc đến. Nó đúng là con
anh Kỳ, vì không ai không thấy nó giống anh ấy. Đến cả chị Diệu, chị anh Kỳ người
quyết liệt nhất để tìm cách loại trừ nó ngay khi nó vừa chào đời, đã phải đến
xin được hỏi chị về nguồn gốc của nó để đón nó về nuôi. Nhưng chị biết, thằng Hận
không thể sống một mình được, nhất là lại sống bên họ. Chị hận đời, nhưng chị
đã thề rằng, chị còn sống trên cõi đời này, chị không bao giờ xa nó.
Lạ lùng nữa, ông lão Tuân, bố chồng chị và là cha của thằng Hận
thì không biết ở đâu, sống chết ra sao? (bà mẹ thì mất ngay năm chị đem thằng Hận
đi). Người làng chỉ biết rằng, khi mẹ con chị không còn ở Soi Vạt nữa, thì mấy
năm sau ông lão cũng mất tích. Có lẽ ông lão đã chết mất rồi. Khi chị lục lại
chỗ giấy tờ của bố chị, thì thấy một lá thư ông lão viết cho bố chị. Nhờ đó mà
những ngày cuối cùng bố chị đã viết thư nhắn chị về…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét