Nguyễn Minh Ngọc - Những trang văn lưu giữ dấu chân người
Sau 20 năm cầm bút, năm 2003 Nguyễn Minh Ngọc vinh
dự được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Nhân dịp này từ quê hương Hà Tĩnh, cô
giáo Phạm Thị Lài dạy văn cho anh hồi lớp 8 đã ghép tên những tác phẩm của người
học trò cưng năm nào thành một bài thơ tặng thú vị: Đất thiêng thiêng mãi
Chị Ngần/ Ngắm Cành mận trắng nhớ lần Bay đêm/ Trường Sa nắng gió đảo điên/ Người…
trước biển vẫn vững bền chí trai…
Nhà văn, Đại tá Nguyễn Minh Ngọc sinh năm 1957. Quê quán:
làng Quang Dụ, xã Đức Quang, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Tác phẩm đã xuất bản: Cành mận
trắng (tập truyện, 1997); Một thời và mãi mãi (tập ký, 2001); Một cõi ấu thơ
(truyện dài, 2002); Bay đêm (tập truyện, 2002); Đất thiêng (truyện dài 2 tập,
2003); Chị Ngần (tập truyện, 2004); Trong nắng gió Trường Sa (tập ký, 2006);
Người đàn bà trước biển (tập truyện; 2007). Giải thưởng văn học: Giải Nhì truyện
ngắn Cây bút vàng (1996-1998); Giải nhất cuộc thi ký Khánh Hòa xưa và nay; Giải
A, Giải thưởng Bộ Quốc phòng 5 năm về VH-NT-BC cho bút ký Trong nắng gió Trường
Sa (1999-2004).
Tiếng rằng ở hai tỉnh khác nhau nhưng làng Quang Dụ quê Nguyễn
Minh Ngọc và làng Trung Yên quê tôi cách nhau chỉ một con sông: Sông Lam, một bến
đò ngang: đò chợ Tràng. Ngày tôi còn nhỏ, cửa hàng mua bán nơi cha tôi làm việc
đặt ngay chợ, mỗi lần đến với cha, tôi lại say mê đứng ngắm con đò chở khách
qua sông. Sông Lam đoạn chợ Tràng rộng, sau vài nhịp chèo quẫy sóng của người
lái con đò trông chỉ còn như chiếc lá mỏng manh giữa dòng. “Sông đẩy bờ trôi
xa, xa mãi…”, tôi ngắm dòng sông thấy vậy mà không phải vậy, chính con đò ngang
ấy hàng ngày đã đẩy bờ trôi xa, kéo bờ gần lại. Vì tò mò, một hôm tôi đánh liều
làm khách lên đò đi sang bờ bên kia thám hiểm làng Quang Dụ của Ngọc. Vẫn tre
pheo, vườn tược, vẫn những cây duối già quả chín vàng gọi mời chim trời và con
trẻ như ở làng tôi… Giá ngày ấy biết Nguyễn Minh Ngọc, hẳn tôi đã ghé nhà anh
chơi. Vậy mà phải hơn 20 năm sau, khi quá nửa làng Quang Dụ đã lở chìm dưới đáy
dòng Lam, còn chúng tôi con của hai làng thì đều đã trưởng thành, Nguyễn Minh
Ngọc làm một anh bộ đội, tôi làm một cán bộ biên tập ở tờ Văn Nghệ Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa chúng tôi mới có dịp quen nhau.
Văn Nghệ Nha Trang là một tờ tạp chí cấp thành phố, nhưng do
vị trí địa lý đặc biệt của thành phố mà nó mang tên và do quan niệm cởi mở của
những người chủ trương, nên quy tụ được khá nhiều những cây bút có tên tuổi
trong tỉnh và trong nước. Một hôm có một chàng Trung úy trẻ tìm đến tòa soạn gửi
thơ, đọc tên tác giả ghi ngoài phong bì tôi biết anh là Nguyễn Minh Ngọc. Tôi
chọn đăng của anh một bài, nội dung nói về tâm trạng của một người lính (tác giả?)
khi đi tìm người yêu trên phố Nguyễn Khắc Cần, Hà Nội mà không gặp. Chúng tôi
quen nhau từ đó. Nguyễn Minh Ngọc còn đến chơi với tôi nhiều lần nữa, nhưng nói
chung thơ anh không gây cho tôi một ấn tượng gì, đọng lại đến giờ may ra còn
bài Lời ru, với những câu lục bát dung dị: Ru con bằng những câu Kiều/ Cha mang
theo mỗi sớm chiều hành quân…. Bài thơ này Nguyễn Minh Ngọc đề tặng nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo.
Vì sao tặng Nguyễn Trọng Tạo? Tôi thắc mắc chưa kịp hỏi anh,
sau đó chuyển công tác về Nghệ, quên mất. 25 năm sau, trưa chủ nhật 14-10-2012
dịp may đến. Nguyễn Trọng Tạo sau khi xong nhiệm vụ làm Trưởng ban Giám khảo
Liên hoan tiếng hát các trường nghề khu vực Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long năm 2012 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tại Cần Thơ, trên đường
ra Bắc ghé TP. Hồ Chí Minh chơi, kéo tôi ra số 3 Phạm Văn Hai nhậu. Khi tới nơi
chúng tôi thấy Nguyễn Minh Ngọc và mấy người bạn đã ngồi chờ sẵn đấy. Nhậu sần
sần, anh Tạo kéo Nguyễn Minh Ngọc đứng dậy song ca bài hát Giờ này anh về đâu của
V.X Xê-đôi, nổi tiếng trong các cựu binh Xô Viết sau chiến tranh thế giới thứ
hai: …Giờ này anh về đâu, hỡi người bạn cũ cùng trung đoàn/ Đã sánh bước cùng
tôi trên con đường xa ?/ Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một gia đình/ Xin mời bạn
đừng ngại ngùng về chốn quê tôi…
Là nhà thơ, Nguyễn Trọng Tạo còn là nhạc sĩ, vì thế dù trải
nhiều rượu bia thuốc lá anh vẫn biết cách làm cho giọng ca của mình nghe hấp dẫn.
Nguyễn Minh Ngọc trái lại, trình độ âm nhạc nốt đen nhầm nốt trắng, móc kép tưởng
móc đơn, lấy liều mạng làm căn bản, hát hết mình. Nhìn hai nhà văn, một đang mặc
áo lính và một từng một thời mặc áo lính say sưa hát, tôi bỗng thấy cay cay nơi
khóe mắt. Chẳng biết vì ca từ đẹp hay vì “giọng ca vàng” của các anh mà khi bài
hát xong lời Việt, chuẩn bị chuyển sang lời Nga thì nhiều khách nhậu ở các bàn
bên cùng ùa tới bàn chúng tôi cụng ly và hòa giọng. Cuộc nhậu hóa thành một buổi
liên hoan văn nghệ tưng bừng. Đến đây thì tôi hiểu, hóa ra ngày mới nhập ngũ
Nguyễn Minh Ngọc cùng ở E 22B, sư đoàn bộ binh Sông Lam với Nguyễn Trọng Tạo. Một
trung đoàn sinh ra hai nhà văn, tiềm năng của Quân đội ta thật đáng nể.
Nhưng Nguyễn Minh Ngọc ở bộ binh không lâu, đến cuối năm 1975
anh được điều động về quân chủng Phòng không – Không quân, nơi từng là cái nôi
cất cánh cho những nhà văn nổi tiếng trên văn đàn Việt như Đỗ Chu, Lưu Quang
Vũ, Nguyễn Khắc Trường, Dương Duy Ngữ… Và đây cũng chính là môi trường lý tưởng
cung cấp chất liệu giúp anh hoàn thành những Một thời và mãi mãi (tập ký), Bay
đêm (tập truyện)… những tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Nguyễn Minh
Ngọc sau này.
Đóng quân ở Trại Cờ, Phố Thắng, Hiệp Hòa, Hà Bắc (nay là tỉnh
Bắc Giang) hàng quý nhà văn tương lai của chúng ta lại được xuôi Hà Nội một lần
nộp báo cáo. Ngày ấy cơ quan Cục kỹ thuật quân chủng Phòng không – Không quân
đóng trên đường Tàu Bay, con đường cũ kỹ đầy bụi bặm, rợp bóng xà cừ. Ngoại trừ
thi thoảng được bám xe đơn vị, còn thì cứ phải rồng rắn xếp hàng mua vé xe ca
đi hai chặng đường mới tới được bến Nứa. Từ đây anh tìm cách lần về trạm khách
tồi tàn ngay lối vào kho gạo Ngã Tư Sở, cạnh cái hồ nước mọc đầy cây đại bi.
Sau này, một đôi lần hăng hái, Nguyễn Minh Ngọc mượn xe đạp guồng từ phố Thắng,
vượt bến đò Lo sang chợ Chờ, băng qua Từ Sơn xuôi về Hà Nội. Bao giờ cũng vậy,
sau khi hoàn tất công việc anh tản bộ ra gò Đống Đa đón tàu điện về Bờ Hồ tìm đến
hiệu sách quốc văn ngắm nghía và chọn mua (khi có tiền) những cuốn sách văn học
mà anh ưa thích đem về doanh trại nghiền ngẫm.
Với những người cầm bút thì thâm nhập đời sống, làm giàu vốn
liếng chữ nghĩa là việc phải làm suốt đời; Nguyễn Minh Ngọc cũng vậy, anh học hỏi
mọi lúc mọi nơi, nhưng những năm ở Hà Bắc đặc biệt quan trọng, nó giúp anh trải
nghiệm, thấm thía hồn cốt, thổ ngơi của đất nước con người xứ Bắc mà lần đầu
tiên trong đời anh được sống, khiến cho những trang viết của anh sau này trở
nên lấp lánh hơn.
Năm 1983, sau khi tốt nghiệp lớp sĩ quan chính trị trường Chỉ
huy – Kỹ thuật Không quân Nha Trang, anh được giữ lại làm công tác tuyên truyền.
Cương vị mới buộc anh phải viết bài phản ánh các hoạt động của nhà trường và
làm “tà lọt” cho một số cây bút đàn anh đến tìm hiểu viết về không quân. Nhờ vậy,
vừa nhập môn nghề văn anh đã may mắn được cụ Kim Lân đọc bản thảo và nói cho một
câu đầy khích lệ: Văn của cậu rất trong sáng. Từ câu nói của bậc tiên chỉ, anh
quyết định đoạn tuyệt với thơ để chuyên chú văn xuôi, thử sức mình ở nhiều thể
loại: ký, truyện ngắn, truyện dài đủ cả. Năm 1984, Nắng Phan Rang, bài ký đầu
tiên trong đời cầm bút của Nguyễn Minh Ngọc ra đời, được in trong tập Mái trường
– Đàn chim.
Nguyễn Minh Ngọc có duyên với ký. Tính đến nay, trong tám đầu
sách anh xuất bản, có đến hai tập ký và trong ba giải thưởng văn học anh được
nhận thì có hai giải được trao cho ký. Trong đó đáng kể là bút ký Trong nắng
gió Trường Sa (giải A, giải thưởng Bộ Quốc phòng). Để có bút ký này, đầu năm
2002 Ngọc đã phải “đi chui” ra quần đảo. Nói “đi chui”, vì năm 1987, anh đã được
mời đi Trường Sa nhưng đơn vị chủ quản nhất quyết không cho. Rút kinh nghiệm, lần
này khi nhận được giấy mời của UBND tỉnh Khánh Hòa anh lẳng lặng xin nghỉ phép
và nhập cùng đoàn cán bộ của tỉnh ra thăm những Sinh Tồn Đông, Sinh Tồn Lớn, Cô
Lin, Len Đao, Đá Tây… nửa tháng trời, viết được hai bút ký và hàng chục bài báo
phản ánh cuộc sống hàng ngày của quân dân ta trên quần đảo.
Nhận giải thưởng Bộ Quốc phòng xong, cuối năm 2004 Nguyễn
Minh Ngọc được điều về Nxb Quân đội Nhân dân. Ngày 10-3-2005, Giám đốc Nxb giao
anh nhiệm vụ rời Hà Nội vào TP. Hồ Chí Minh làm Trưởng đại diện chi nhánh. Đáng
lẽ phải ra ga Hàng Cỏ mua ngay vé tàu nằm thì anh lại ghé Trần Đăng Khoa chơi.
Nhà thơ chẳng rượu chè gì, tiễn bạn bằng cách kéo ra nhà sách Đông Tây ở đường
Nguyễn Chí Thanh mua tặng một ba lô sách, trong đó có tiểu thuyết Đảo chìm của
Khoa. Khi Nguyễn Minh Ngọc ra đến ga thì vé nằm hết, anh đành đi vé ngồi tàu
E1, ghế số 14, toa 3. Đến 23 giờ đêm 11-3 tàu xuất phát, bắt đầu một chuyến đi
kinh hoàng. Trưa hôm sau tàu đến Lăng Cô, cũng là khi Nguyễn Minh Ngọc đọc xong
trang cuối cùng tiểu thuyết Đảo chìm. Anh gấp sách nghỉ ngơi thì bỗng nghe rầm
một tiếng, cả đoàn tàu vụt bay khỏi đường ray đổ ụp xuống đất, hai toa 7, 8 ở
giữa bị bẻ gãy đôi, toa số 3 Ngọc ngồi đổ ngang, cửa kính vỡ loảng xoảng. Nằm
trong tiếng la hét hoảng loạn của khách đi tàu, Nguyễn Minh Ngọc bình tĩnh xem
đồng hồ tay, đồng hồ chỉ con số 11h 49’ ngày 12-3-2005. Vuốt máu mặt, anh đập
kính chui qua khung cửa sổ ra ngoài. Sau này ngẫm lại, Nguyễn Minh Ngọc thấy phải
cám ơn Trần Đăng Khoa, cám ơn Đảo chìm. Vì muốn ghé thăm Nhà thơ mà anh không
mua được vé nằm, phải đi vé ngồi. Và vì bận đọc Đảo chìm mà anh không đi lang
thang trên tàu, nên được bình an. Nếu mua được vé nằm, hôm ấy chắc chắn anh
không thể tai qua nạn khỏi. Và thế là bút ký Chuyến tàu định mệnh ra đời.
Viết ký, Nguyễn Minh Ngọc có nhiều quan sát tinh tế, chẳng hạn:
“…Thói quen quan tâm đến những người chung quanh đã tạo nên nét đẹp trong cách ứng
xử của người Sài Gòn. Bạn đi xe máy trên đường lắm khi quên gạt chân chống
nghiêng, hoặc không nhớ tắt đèn pha ư? Chẳng sao cả, dù đường phố đông nghẹt vẫn
có người bên cạnh nhìn thấy và nhắc bạn biết để tránh những điều đáng tiếc xảy
ra…”
Đoạn văn trên tôi trích trong bút ký Thành phố lưu giữ dấu
chân người của anh, in báo Văn nghệ năm 2005 mà tôi ngẫu nhiên bắt gặp khi giở
lại tập báo cũ, nhưng nó cũng tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi của Nguyễn Minh
Ngọc, một bút pháp chuộng cổ điển, thiên về ngợi ca. Anh am hiểu đời sống, nhạy
cảm, có lòng yêu quý trân trọng những việc tốt, người tốt dám xả thân vì nghĩa
lớn, lại thông cảm, bao dung với những người nghèo khó, thất thế, cùng quẫn,
sai lầm trong cuộc sống. Người đàn bà trước biển, tập truyện ngắn xuất bản gần
đây nhất của anh hay Cành mận trắng xuất bản năm 1997 đều vậy. Trong các tác phẩm
của mình dường như Nguyễn Minh Ngọc muốn chứng tỏ hai điều: một là, trân trọng,
thương yêu những người lao động cần cù, chân thật, dũng cảm, hai là mong muốn
suy nghĩ và hành động của con người phải luôn hướng thiện. Đây là hai vấn đề có
ý nghĩa quan trọng, giàu tính nhân văn trong đối nhân xử thế. Triển khai hai chủ
đề này, tác giả để các nhân vật chính trong các tác phẩm của mình chủ yếu tập
trung vào hai loại người, phụ nữ và người lính. Có thể vì tác giả sống nhiều ở
nông thôn, gần với những người lao động – trong đó phụ nữ vất vả hơn cả; mặt
khác anh là người lính lâu năm, hiểu kỹ đồng đội của mình. Cho nên người phụ nữ
và người lính trong truyện phần lớn là người tốt, nếu không phải là những tấm
gương mà ta có thể soi vào để ngộ ra nhiều điều… Ngay trong kịch bản phim Cao
hơn bầu trời, một bộ phim truyền hình dài 50 tập mà anh vừa hoàn thành và đang
được Hãng phim Giải phóng bấm máy để kịp ra mắt trong dịp kỷ niệm 40 năm chiến
thắng Điện Biên Phủ trên không cũng vậy. Nhân vật chính là những chiến sĩ, những
nữ dân quân tự vệ đã không quản máu xương làm nên chiến thắng.
Sau 20 năm cầm bút, năm 2003 Nguyễn Minh Ngọc vinh dự được kết
nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Nhân dịp này từ quê hương Hà Tĩnh, cô giáo Phạm
Thị Lài dạy văn cho anh hồi lớp 8 đã ghép tên những tác phẩm của người học trò
cưng năm nào thành một bài thơ tặng thú vị: Đất thiêng thiêng mãi Chị Ngần/
Ngắm Cành mận trắng nhớ lần Bay đêm/ Trường Sa nắng gió đảo điên/ Người… trước
biển vẫn vững bền chí trai…
Đối với Nhà văn, Đại tá Nguyễn Minh Ngọc, một người luôn biết
quý trọng những giá trị nhân văn của cuộc đời, như những câu Kiều trong bài hát
ru thuở nào, đây có lẽ mới là phần thưởng lớn nhất.
29/11/2019
Ngô Xuân Hội
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét