Hoàng Thoại Châu - Nhà thơ của tình biển nghĩa sông
Nhà thơ đi về phía đô thành giữa lúc bóng đen khổng lồ của chiến tranh không chỉ thấp thoáng như trước mà đã bao phủ cả miền Nam. Thời ấy, Tuổi trẻ làm thơ phần đông đều kêu than thân phận (Phong Sơn). Thơ Hoàng Thoại Châu lại là tiếng kêu đau đớn về chiến tranh, về nỗi chia cắt đất nước: Gió đưa bụi chuối sau hè” Ai khơi lửa hận cho me héo gầy… / Những đứa trẻ chết khi đang ôm vú mẹ… / Tiếng khóc khàn thêm, lửa cháy mỗi ngày…
* Dòng tiểu sử
Sau năm 1954, do đấu tranh chống chiến tranh, đòi thống nhất
đất nước, từng bị chính quyền đương thời bắt giam. Tháng 11-1966, để trốn
quân dịch và các cuộc bắt bớ tại quê nhà, vào Sài Gòn, nương nhờ nơi cửa Phật,
theo học các khóa kỹ thuật xét nghiệm Y khoa.
Cuối năm 1973, bị cảnh sát bắt tại buổi đọc thơ chống chiến
tranh và giới thiệu tác phẩm mới của nhóm văn nghệ Hướng Dương. Tòa án chế độ
Sài Gòn kết án, đưa vào khám Chí Hòa, rồi đày ra Côn Đảo cho đến ngày
30-4-1975.
Trước năm 1975, góp mặt với nhiều tờ báo: Chánh Đạo, Quyết
Thắng, Dân chủ Chủ nhật, Tiểu thuyết thứ Năm, An Lạc. Xuất bản các tập
thơ: Áo trắng ngày xưa, Tình biển nghĩa sông (1) và (2) do Âu Cơ xuất
bản. Tình biển nghĩa sông (1) được gửi dự thi Giải Văn học – nghệ thuật
1967-1969 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1970, tác phẩm được trao giải
Nhất. Đây là năm đầu tiên giải thưởng văn học – nghệ thuật ở miền Nam trong chế
độ Sài Gòn được mang tên này.
Ngoài thơ, Hoàng Thoại Châu còn sáng tác truyện ngắn, đã in
chung với các tác giả của nhóm Hướng Dương: Những trái tim hồng (năm
1973). Tập truyện ngắn Khói cỏ ngoài đồng được giới thiệu sẽ in ở nhà
Hướng Dương nhưng chưa xuất bản thì bị bắt, đày đi Côn Đảo.
Sau năm 1975, hoạt động báo chí chuyên nghiệp với bút danh
chính: Ba Thợ Tiện, bắt đầu từ Tuổi Trẻ, đến Lao Động, Lao động
và Xã hội… Xuất bản các tập tạp văn: Thả cửa (Trẻ, năm 1992); Tạp
văn (Đồng Nai, năm 2006); Viết từ hồi ấy (Hội Nhà văn, năm 2017) và tập tự truyện: Sâu
thẳm buồn vui (Hội Nhà văn, năm 2015).
* Đôi chân bước vội…
Tập thơ đầu tiên Áo trắng ngày xưa của Hoàng Thoại
Châu xuất bản tháng 5-1969. Khi đó, anh còn ở ngoài quê Quảng Nam, tuổi mới đôi
mươi.
Áo trắng ngày xưa rất gần với thơ Mới, từ cấu trúc đến
điệu hồn của thi nhân, thật phóng khoáng, tự do, gần gũi, thân mật, như để giãi
bày bằng hết nỗi lòng của chủ thể trữ tình. Đó là thơ hôm nay, thơ của những
người yêu trẻ, rạo rực, thổn thức, đem hết trăng, sao, mây, gió, bướm, hoa, trời,
đất vào tình yêu của mình. Hoàng Thoại Châu góp thêm một nỗi sầu tình vào muôn
vạn nỗi sầu của nhân gian từ vạn cổ.
Nhưng Áo trắng ngày xưa không hoàn toàn là thơ Mới,
khi bóng dáng của một thời đoạn lịch sử khốc liệt được phô bày: Quê hương
mình quá điêu tàn/ Nên tim anh hận như vàng lá thu… Chàng trai trẻ làng
Giáp Ba xa xôi bước vội về phía đô thành đâu chỉ với một tình yêu hoa mộng của
tuổi học trò mà có lẽ trong lòng chàng còn ngổn ngang lắm nỗi.
* Tiếng khóc và tiếng hát
Nhà thơ đi về phía đô thành giữa lúc bóng đen khổng lồ của
chiến tranh không chỉ thấp thoáng như trước mà đã bao phủ cả miền Nam. Thời ấy, Tuổi
trẻ làm thơ phần đông đều kêu than thân phận (Phong Sơn). Thơ Hoàng Thoại
Châu lại là tiếng kêu đau đớn về chiến tranh, về nỗi chia cắt đất nước: Gió
đưa bụi chuối sau hè” Ai khơi lửa hận cho me héo gầy… / Những đứa trẻ chết khi
đang ôm vú mẹ… / Tiếng khóc khàn thêm, lửa cháy mỗi ngày…
Chiến tranh có muôn ngàn gương mặt. Gương mặt nào cũng bất
thường và phi nhân. Trong tâm hồn nhà thơ, những gương mặt ấy hiện lên, bám lấy,
đeo đẳng không rời: Quê mình đó: từng đêm nghe súng nổ…/ Quê mình đó: mái
tranh chiều nhuốm khói…
Thơ Hoàng Thoại Châu hiện lên hai khung trời đối lập: hòa
bình và chiến tranh; ngày xưa và bây giờ. Tiếng kêu uất hận trong thơ anh bật
lên từ những đối nghịch đó!
Ở bài thơ Đóa hoa đại buồn, Hoàng Thoại Châu có câu
thơ như lời nói thường mà hay đến lạ lùng: Khóc tình như khóc quê hương.
Tưởng đâu khóc tình là tiếng khóc ảo não nhất rồi,
nhưng khóc quê hương mới muôn phần xót xa, đau đớn!
Chiến tranh đối với Hoàng Thoại Châu là thế đó!
Anh đã thấy. Anh đã nghe. Anh đã sống. Và, anh đã khóc!
Anh chờ mong. Anh khát khao. Anh nguyện cầu. Rồi anh van
xin: Mặt trời chín giữa phương Đông/ Em trong áo mới, ruộng đồng nở hoa/
Trăng lên giỡn bóng tre già/ Anh đi hái mộng làm quà tặng em (Hòa bình).
* Tình biển nghĩa sông
Từ ngày về phố thị, phần nhiều, thơ Hoàng Thoại Châu là lời
giãi bày hướng đến số đông, rất đông: Việt Nam sông núi ba miền/ Cùng nhau
ghi nhớ cho liền thịt da… Vì thế, thơ anh từ tiếng nói trữ tình đôi lứa đã
thành tiếng nói trữ tình công dân; từ tiếng hát giao duyên đã thành lời tình tự
dân tộc: Tôi muốn nói về phiên buồn đất nước/ Xóm thôn nghèo và chứng tích
thương đau…
Là nhà thơ. Anh ngồi đây. Anh đứng đó. Anh khóc than cho quê
hương đổ nát, cho nòi giống lầm than, cho đồng bào máu chảy ruột mềm! Tiếng
nói của anh, là Những day dứt chân thành/ Của một người/ Của hơi thở trong
tim. Anh là người Việt Nam, mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, nhịp thở
trong tim là nhịp thở đồng bào. Người thôn quê hay thành phố, dù Nam – Bắc –
Đông – Đoài vẫn là tình ruột thịt mẹ Âu Cơ. Với nhà thơ, giống nòi, dân tộc, đất
nước, đồng bào là điểm tựa và hội tụ, là nguồn cội và nguồn sống, là nơi thẳm
sâu cũng là chốn tìm về của tất cả con người Việt Nam. Tiếng thơ ấy đã đem đến
cho mọi người những gì thân thuộc và yêu thương nhất, đánh thức trong lòng họ
những ngày cũ nồng nàn mà say đắm.
Là người làm thơ, chỉ với cây bút trong tay, Hoàng Thoại Châu
tha thiết: Có tình nào hơn tình sông, nghĩa biển/ Có tình nào hơn tình
nghĩa đồng bào…
Tuy đau đớn, khóc than, tủi hận, nhưng chưa bao giờ nhà thơ mất
niềm tin ở dân tộc và đồng bào: Việt Nam ngàn đời, máu đỏ trong tim/ Nam
Bắc vang danh: lịch sử bốn nghìn/ Không nô lệ, không ươn hèn mất gốc. Hơn
thế nữa, anh thúc giục mọi người: Hãy thức dậy các anh/ Xin cầm lấy tay
nhau dựng lại cuộc đời / Đòi lại những gì chúng ta bị cướp…
Hỏi bạn, có ai đòi hỏi nhà thơ của chúng ta, chỉ với cây bút
trong tay, phải làm gì có ý nghĩa hơn thế?
* Điệu ru hời cao ngất
Đọc thơ lục bát của Hoàng Thoại Châu, ta nghe như đó là những
bài ca dao mới. Đó là lời của Phong Sơn trong bài tựa cho tập Tình biển
nghĩa sông (1), xuất bản năm 1969, cách đây vừa tròn 50 năm.
Nhận xét ấy rất gần với những người cùng thời. Với Phương
Đài: Thơ Hoàng Thoại Châu não nùng, tức tưởi như tiếng độc huyền. Với
Kiên Giang, đó là những bài thơ đượm màu sắc quê hương. Mấy năm sau,
trong lời bạt Tình biển nghĩa sông (2) xuất bản năm 1972, Sơn Nam biểu
lộ sự vui mừng bởi Hoàng Thoại Châu đã đánh tan thành kiến về thơ của lớp
trẻ trong thời chiến thường giống nhau với ngôn ngữ khó hiểu, với thứ triết lý
chán đời giả tạo của kẻ thích hưởng thụ, và nhất là thái độ kênh kiệu. Tác giả Hương
rừng Cà Mau còn cho rằng: Còn gì dễ thông cảm cho bằng tình yêu Tổ quốc,
một Tổ quốc rất cụ thể với “Biển ôm vách đá, đèo hanh da trời”. Còn gì đơn giản
hơn tình đồng bào với lời dặn dò “Thiếu cơm thì được, thiếu thơ xin đừng”.
Hẳn Hoàng Thoại Châu không có ý làm ca dao. Khi nhà thơ cất
lên lời tình tự dân tộc, cả một vùng ca dao, cổ tích bừng dậy với giếng nước đầu
làng, ruộng sắn, nương dâu, với cây đa bóng mát trưa hè… Và nhất là, với tình
quê, tình người nồng nàn, thấm đượm: Đói lòng ăn chén canh rau/ Uống lưng
gáo nước cho nhau trọn tình.
Làm thơ, tác giả của Tình biển nghĩa sông giãi bày
với quê hương, với đồng bào, người Việt, nước Việt. Anh không chọn điệu thơ. Hồn
anh neo đậu, nương tựa vào những gì có thể lay động, cảm thông hồn người: Quê
mình đó: điệu ru hời cao ngất/ Rừng ca dao lịm ngọt bóng ngôi chùa.
Điều khiến thơ Hoàng Thoại Châu trở thành lời tình tự dân tộc
không chỉ ở thể thơ lục bát mà chính là ở lối nói, điệu nói của anh: Bao
giờ suối bạc, mây trong/ Bao giờ xóm nhỏ hết đong đưa sầu…; Anh đi em tiễn lời
này: /Dù ra sao cũng giữ ngày HÙNG VƯƠNG…
Hoàng Thoại Châu là nhà thơ của tình biển, nghĩa sông.
Tình ấy, nghĩa này, thấm đượm vào hồn anh, ở mãi cho đến bây giờ, khi chàng
trai của làng Giáp Ba ngày xưa không còn trẻ nữa: Ta về hỏi chuyện hôm
qua/ Ngày mai khẽ đáp còn xa lối về/ Chập chờn/ Sương khói/ Hồn quê/ Rưng rưng
nỗi nhớ, câu thề biệt tăm!
____________________________
Một bài thơ về Bác Hồ xuất hiện giữa Sài Gòn năm 1969
Theo lời kể của Hoàng Thoại Châu, trưa ngày 5 hoặc 6-9-1969,
khi đang trên đường đến nhà in ở Sài Gòn để sửa bài cho tập thơ Tình biển nghĩa
sông, tác giả được một Phật tử áp sát vào người, nói thật nhỏ: “Bác Hồ Chí Minh
mất rồi!… Hôm ngày 3”! Anh bắt gặp đôi mắt trũng sâu của ông ướt đẫm và đỏ hoe,
còn mình “nghe như đất trời tối sầm”. Bài thơ dưới đây được viết tại phòng sắp
chữ của nhà in, là bài thơ vốn không có trong tập bản thảo của Tình biển nghĩa
sông và như thế, giữa lòng chế độ Sài Gòn, bài thơ khóc Bác được xuất bản công
khai:
Mặt trời ngủ yên
Vũ trụ chuyển mình,
Địa cầu rung động,
Để báo hiệu sau bảy mươi chín vòng quay
Bây giờ:
Ba chín sáu chín mặt trời ngủ yên.
31/10/2019
Bùi Quang Huy
Nguồn: Báo Đồng Nai
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét