Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu từ sự thật
Có một người ăn mày dĩ vãng, sống nay mà dạ xưa, dù cho
lưu trú qua bao nhiêu vòm trời khác nhau vẫn nhung nhớ loài chim lạc khóc
thương vị vua đầu tiên của nước Việt qua đời. Ông kể tôi nghe một thuở hồng
hoang của dòng giống Lạc Hồng. Và ông nói với tôi rằng, không có huyền thoại
nào là không được bắt đầu từ những sự thật.
Trước khi đi Nam, tôi có hỏi nhà thơ Trần Anh Thái trong đó có nhà văn nào thú vị; ông đã nói với tôi rằng nếu vào đó nhất định phải gặp Văn Lê. Thú thực, trước đó, tôi chưa biết Văn Lê là ai. Nhưng lúc vào rồi, sau khi nói chuyện với một số bạn bè văn chương Sài Gòn thì tôi mới biết rằng Văn Lê là một thương hiệu.
Ông không chỉ là nhà biên kịch của bộ phim Long thành cầm
giả ca nổi tiếng mà còn là tác giả của nhiều bộ phim tài liệu và tiểu thuyết
lịch sử đồ sộ, đạt nhiều giải thưởng lớn của Nhà nước. Đầu năm 2015, tiểu thuyết Phượng
hoàng của nhà văn gốc Bắc này đã đạt giải A trong cuộc thi viết về lực lượng
vũ trang và chiến tranh cách mạng do Bộ Quốc phòng tổ chức trong 5 năm (2009 –
2014).
Hôm tôi liên lạc để hẹn gặp ông, sau khi biết tôi là nhà báo,
ông bảo rằng đến chơi thôi, chứ đừng viết gì cả. Bởi “ta chẳng có gì thú vị để
viết cả”. Ông xưng “ta”, kêu tôi bằng “con” rất gần gũi. Ngày tôi tìm đến nhà
ông, người bán hàng đầu phố chỉ rằng cứ đi đến hết đường, nhà nào nhiều cây cối
nhất thì đó là nhà ông Văn Lê.
Văn chương của nhà văn Văn Lê phần lớn xoay quanh thân phận
con người trong chiến tranh. Khi nhiều nhà văn thế hệ ông đã gác bút và các cây
viết trẻ không mặn mà với đề tài người lính thì ông vẫn bám vào đó như một cứu
cánh. Không phải cứu cánh vì bất lực đề tài mà là một cứu cánh nhân sinh. Một cứu
cánh để ông giữ trọn đạo làm người. Bởi, đã có những lúc ông muốn ngưng cơn
nghĩ ngợi, muốn thôi viết về một thời khói lửa ấy nhưng càng trống rỗng, lơ lửng.
Và thế là, ông lại “hành” mình trên giấy. Ông viết như để đi qua cơn ác mộng
dài. Để giải tỏa ẩn ức, bức bối của chính mình. Như một cách để lấy lại thăng bằng
và đi qua cơn chới với.
Với nhà văn nhập ngũ từ năm 1966 này, chiến tranh cho đến bây
giờ vẫn là một điều còn nhức nhối chưa tan. Nó vẫn còn chờn vờn ở đâu đó trong
những giấc mơ đêm về sáng, những bản tin thời sự hay thước phim tài liệu mà ông
vô tình xem. Nó vẫn còn loang lổ trong những di ảnh gọi nỗi đau buốt nhói quay
về. Nhiều đêm ông mơ thấy máy bay chà xát ngay trên đầu và trực thăng đuổi theo
nghiền nát nhiều đơn vị, nhiều trung đoàn. Ông hoảng hốt, giật mình tỉnh thức rồi
cứ triền miên trong đêm.
Cuốn tiểu thuyết Mùa hè giá buốt được ông viết
trong vòng 6 tháng, đạt giải B (không có giải A) về Văn học chiến tranh do Bộ
Quốc phòng tổ chức 5 năm (2004 – 2009), giải Nhất Giải thưởng Văn học TP HCM 5
năm (2006 – 2011). Nhà phê bình văn học Ngô Thảo đánh giá rằng: “Nếu viết về sự
sòng phẳng trong chiến tranh thì chưa cuốn nào vượt qua Mùa hè giá buốt cả”.
Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị cũng từng đánh giá rằng Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh) và Mùa hè
giá buốt của Văn Lê là 3 cuốn tiểu thuyết viết hay nhất về chiến tranh.
564 trang văn Mùa hè giá buốt được viết ra từ chính
ký ức của ông. Ở đó, có những mảnh hiện thực khắc nghiệt, xót xa, có lằn ranh
giữa sống và chết. Và ở đó có một mùa hè giá buốt cả tâm hồn với những người
còn sống hoặc đã hi sinh. Cuốn sách như một cách nhìn lại lịch sử.
Ông bảo với tôi, trong một chừng mực nào đó, chúng ta đã tham
gia tấn công trong Chiến dịch Xuân – hè 1972 như một sự cay cú, phiêu lưu. Việc
Bộ Quốc phòng trao giải cho cuốn sách này, cũng là một cái nhìn thoáng hơn về
cuộc chiến khi nó đã lùi xa hơn 30 năm. Cũng là một cách để chúng ta chiêm nghiệm
lại những gì đã xảy ra.
Cũng viết về chiến tranh giai đoạn này nhưng tiểu thuyết Phượng
hoàng của nhà văn Văn Lê lại xoáy vào một vấn đề then chốt, đó là phẩm hạnh.
Nó như một thước đo cho thành hoặc bại của cuộc chiến. Chiến dịch Phượng hoàng
của địch đánh vào tất cả mọi phương diện, xé nát mọi mối quan hệ giữa người với
người, với dòng tộc, người dân với cách mạng, đặc biệt làm cho con người từ chỗ
nghi kị, không tin nhau đến giết nhau. Chiến dịch đánh phá dài hạn ấy, là cuộc
đụng độ, đối đầu của những bộ óc. Và trong những ngày hè đỏ lửa đó, chính phẩm
hạnh được lưu giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác đã làm nên sức mạnh to lớn dẫn
đến thắng lợi của cuộc chiến.
Cuốn tiểu thuyết còn là những trang văn mơ mộng, là lời tuyên
thệ đẹp đẽ nhất về tình yêu. Trong thời khắc trước khi trở thành hương linh nhẹ
nhàng thoát khỏi cơ thể rách nát bay về chốn thăm thẳm, diệu vợi, người đại đội
trưởng chỉ kịp bày tỏ tình cảm dồn nén bấy lâu của mình với người con gái mà
anh yêu. Và anh an lòng vì đã “làm được một điều hệ trọng nhất của cuộc đời”,
“anh tự hiểu rằng mình đã hoàn thành xong công việc của người đàn ông và giờ
đây chỉ còn chờ đợi cái khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống”. Những riêng chung
hòa vào nhau đó đã làm thức dậy cả một mùa hè huyền thoại.
Từ phải sang, các nhà thơ: Hoài Vũ, Văn Lê, Phan Hoàng
Nhà văn Văn Lê nói rằng, lịch sử vẫn còn là một bí mật với tất
cả chúng ta. Có một loạt vấn đề thuộc về lịch sử được đặt ra. Cũng có nhiều câu
hỏi thuộc về lịch sử, đến nay, vẫn chưa có lời đáp. Và ông cảm thấy mắc nợ vì
điều đó. Vậy nên, ông cứ cần mẫn, cũ càng và đi miết con đường mình đã chọn: viết
về đề tài lịch sử, trong đó có lịch sử xa và cả lịch sử gần – mà đề tài chiến
tranh cách mạng chỉ là một phần nhỏ trong nguồn cội lịch sử ấy. Ông bảo rằng
không có huyền thoại nào là không được bắt đầu từ những sự thật.
Để lí giải những vấn đề thuộc về lịch sử thì người viết phải
nắm bắt được hồn vía của nó. Sau khi nắm được cái linh hồn đó rồi, bằng sự hiểu
biết và tiếp tiến văn hóa của mình mà nhà văn lí giải lịch sử theo cách riêng của
mình. Và lịch sử ấy, luôn là một lịch sử hướng đến con người, lấy con người làm
trung tâm. Vì nói gì thì nói, con người vẫn là cội rễ của một nền văn hóa.
Về tiểu thuyết Thần thuyết của Người Chim dày khoảng
600 trang của mình, nhà văn Văn Lê nói rằng bây giờ, nhiều người không hiểu người
Chim là người gì. Đó là bởi có tích rằng, tổ tiên ta lấy chim thần lạc làm vật
tổ nên người ta gọi người Việt là người chim.
Cùng với câu chuyện mà cụ Nguyễn Văn Tố, nguyên Phó Chủ tịch
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kể lại rằng trong sách của
Trung Quốc có nói rằng vào năm thứ 5 đời vua Nghiêu, sứ thần Việt Thường đã đến
đất Bát biếu rùa thần nghìn tuổi, trên lưng có chữ khoa đẩu nói về thời mở trời
đất, vua Nghiêu mừng quá mới cho người chép lại sử sách.
Từ 2 mẩu thông tin này, cho ta biết được ít nhất về niên đại,
đó là năm thứ 5 đời vua Nghiêu, chúng ta đã hình thành quốc gia, rồi mới đi
sang đó và thời đó chúng ta đã có chữ khoa đẩu. Để rồi từ đây, người viết có
quyền suy nghĩ lại và viết lại. Và nhà văn người Ninh Bình này đã viết lại thời
kỳ đầu của lịch sử dân tộc ấy một cách phóng khoáng, dã sử, đượm mùi liêu trai
mà không kém phần hấp dẫn trong cuốn sách Thần thuyết của Người Chim của
mình. Nhất là đoạn đối thoại giữa sứ thần Âu Lạc và vua Nghiêu, hình ảnh về một
quốc gia Âu Lạc độc lập, “có văn” và bề dày văn hóa hiện lên một cách thật đẹp
đẽ.
Tiểu thuyết kể về thời Lạc Nghị Vương (Vua Hùng Vương thứ
17), kể về giống người Chim thờ chim Thần Lạc, trống đồng và có tục thờ Mẫu. Để
đồng hóa dân mình sau khi chiếm đánh Âu Lạc, Triệu Đà giết các hầu tướng, thiêu
hủy cuốn Thần thuyết của Người Chim cùng văn tự, chữ nghĩa, quốc thống
và đập phá các cột đá phân chia ranh giới giữa các bộ lạc. Cuốn sách của ông đã
làm sống dậy lại tinh thần yêu nước nồng nàn và tự hào dòng giống của người Âu
Lạc xưa, mà tiêu biểu là giống người Chim.
Các nhà sử học có quan điểm của mình. Nhưng nhà văn, bằng sự
nhạy cảm của mình, cũng có cách lí giải lịch sử khác nhau. Các vị sử học cho rằng
chén cơm xoay tượng trưng vòng xoay trái đất, quả trứng tượng trưng cho mầm sống,
đôi đũa chính là lưỡng nghi (âm dương).
Còn “ta lại nghĩ khác: Chén cơm tượng trưng cho dân tộc, quả
trứng tượng trưng cho nơi mình sinh ra (là người Chim nên phải đẻ ra trứng, ý
nhắc về nguồn gốc), còn cây đũa chính là tượng trưng cho cây buồm trên những
con thuyền lạc. Các nhà lịch sử cho rằng thời đó, Âu Lạc với Lạc Việt kết hợp
thành Âu Lạc. Còn theo ta, không phải. Sau khi An Dương Vương đem quân
thôn tính thì đã diễn ra cuộc nhường ngôi dưới sự can thiệp của các vương hầu.
Vua Hùng đã làm một việc cuối cùng tốt đẹp đó là nhường ngôi cho An Dương Vương
và đưa ra yêu cầu phải bảo vệ dân tộc, nước non và đổi tên nước thành Âu Lạc,
nghĩa là nước Việt vững như âu đồng”, nhà văn Văn Lê nói.
“Khi vua đầu tiên chết, chim lạc khóc đầy trời. Vua đòi
chôn trong một chiếc quan tài hình con thuyền lạc và đặt trên nắp quan tài một
chén cơm xoay (2 chén cơm úp vào nhau – PV), một trái trứng và 2 cái đũa”. Và
Văn Lê, người lưu lạc qua bao nhiêu vòm trời thời hiện đại, trên đầu đã độc một
màu trắng lơ phơ, vẫn chỉ nhung nhớ một tiếng chim lạc khóc thương vị vua đầu
tiên của nước Việt qua đời. Ông đã gọi hồn nước, gọi thiên thu quay về bằng những
trang văn thất lạc về một thời huyền thoại.
22/12/2019
Đậu Dung
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét