Lê Giang, còn đó một tấm lòng!
Tôi không biết nhiều về chị, dù chị đã là người nổi tiếng
trong số những người ở R (“Rừng” – chỉ chiến khu của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam) về. Những năm tháng ở rừng biên giới Tây Ninh, Sông Bé và trên
mấy tỉnh biên giới Đông Bắc Campuchia, tôi và đồng đội trẻ đã nằm dài trên võng
hay ngồi dưới công sự nghe những ca khúc phổ từ thơ chị mà nghe lòng mình ấm
hơn về thành phố thân thương như đang ở rất gần.
Thời đó – những năm cuối thập niên bảy mươi và đầu thập niên tám mươi của thế kỷ trước, các ca khúc “Ngày mai anh lên đường” (nhạc Thanh Trúc), “Em vẫn đợi anh về” (nhạc Hoàng Hiệp) rồi “Hãy yên lòng Mẹ ơi” (nhạc Lư Nhất Vũ) phổ từ thơ chị, được hát lên không chỉ trên đài, trên sân khấu biểu diễn, mà còn cả trong những buổi sinh hoạt tập thể đông hay ít người. Những ca từ nhẹ nhàng mà như thôi thúc làm ấm lòng người đi xa, ở xa đó như thúc giục tôi tìm hiểu về chị – nhà thơ ở rừng về.
Nhưng mãi đến năm 1986, khi được bầu làm ủy viên Ban chấp
hành Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh khoá 2, tôi mới gặp được chị. Thi thoảng
trong những lần từ biên giới Tây Bắc Campuchia xa xôi về lại thành phố, đúng
vào dịp họp Ban chấp hành Hội, tôi thường được chị hỏi han về chuyện sống và
chiến đấu nơi chiến trường xa. Với bản tính của người Nam Bộ, lại là người con
nơi quê xứ cuối đất cùng trời Tổ quốc, bằng chất giọng trong trẻo, đôi lúc cao
vút, chị thăm hỏi thật thân tình. Cái thân tình của người lính thế hệ thứ hai,
thế hệ đi trước, đã trải qua nhiều hiểm nguy và gian khó, với người lính thế hệ
thứ tư – ra đi khi đất nước đã thanh bình – và đồng cảm hơn lại là những người
cầm bút.
Chị nói chị thích cái không khí lính tráng, bụi bặm trong thơ
tôi, nó có cái gì đó chân thật, không lên gân, lên cốt. Chị khuyên tôi đừng làm
dáng, làm điệu trong thơ bởi cái chất liệu sống cồn cộn trong cuộc sống người
lính là không thể tưởng tượng được. Nó trần trụi mà không kém phần nhân văn. Đừng
làm cho thơ mình mướt và mượt, bởi cái đó chỉ cần cho những người thiếu vốn sống,
thiếu thực tiễn, họ phải cần đến “thẩm mỹ viện” để cho nó dễ nhìn, dễ đẹp hơn.
Họp được mấy lần, bỗng dưng một lần họp, không có chị dự, nhà
văn Nguyễn Quang Sáng, lúc đó là Tổng thư ký Hội, đọc cái thư chị xin từ nhiệm
chức uỷ viên Ban thư ký Hội với lý do là bận quá nhiều việc trên hành trình sưu
tầm dân ca, không có điều kiện hoàn thành chức trách được giao. Thư thì nói vậy
nhưng tôi nghĩ chuyện chắc không chỉ có vậy. Bởi tôi biết trong các hội chuyên
ngành văn học nghệ thuật, ngoài đa số là nghệ sĩ hoạt động trên lĩnh vực chuyên
môn đó, còn có không ít quan văn, những người rất ít tính nghệ sĩ nhưng rất nhiều
máu quan chức. Chính những quan chức nầy đã làm cho hoạt động của Hội ngày càng
trở thành một cơ quan nhà nước hơn là một tổ chức hội đoàn.
Việc chị từ nhiệm ủy viên Ban thư ký dường như là chuyện
đương nhiên, bởi tôi biết chị không ham lắm chuyện chức quyền, chuyện địa vị.
Chính cái việc chị chọn ở nơi lầu sáu trong cái chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa,
quận 3 đã phần nào nói lên điều đó. Hai vợ chồng lớn tuổi (nhưng chưa già), dù
anh (nhạc sĩ Lư Nhất Vũ) ít tuổi hơn chị, nhưng cả hai hàng ngày phải leo thang
bộ đến hàng trăm bậc như thế, thì không phải là chuyện đùa. Có lẽ chính cái việc
ở trên cao như thế đã tạo điều kiện thuận lợi cho anh chị tập trung sáng tác và
làm việc tốt hơn, bởi chỉ nghĩ đến chuyện phải lên phải xuống hàng trăm bậc
thang mỗi ngày đã là chuyện chẳng dễ dàng gì. Vả lại đến lúc nầy việc đi sưu tầm
dân ca của anh chị đã mang lại kết quả ban đầu khá tốt đẹp. Nhiều bài dân ca được
anh chị ghi chép lại đã được phổ biến trên các phương tiện truyền thông làm nức
lòng bạn nghe đài.
Cuối năm 1988, tôi rời áo lính, trở thành Chánh văn phòng Hội
Nhà văn TP Hồ Chí Minh, thì may mắn gặp chị nhiều hơn, không những chỉ trong
các phiên họp Ban chấp hành, mà còn trong các sinh hoạt cơ quan lúc không lúc
có vì chị thuộc biên chế cơ quan Hội Nhà văn. Mãi đến năm 1990 chị mới được giải
quyết nghỉ hưu theo chế độ. Dù vậy tôi cũng chưa có dịp thượng lên lầu 6 nơi chị
ở để tham quan. Chỉ biết đứng dưới sân nhà 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa nhìn lên, dù
nhiều lần đã đến nơi đó để được thưởng rượu cùng chú Tư Sâm Trang Thế Hy, anh
Ba Chim Trắng, anh Hai Thời sự Diệp Minh Tuyền hay góp chút ít bữa ăn với nhà
anh Văn Lê đang khó. Đứng dưới sân nhìn lên, tôi chẳng thấy gì ngoài một vài
nhánh cây loà xoà thưa thớt. Nghe nói trên đó là cả một vườn rau xanh với đủ thứ
rau, mùa nào thức đó như cách ăn của người Nam Bộ. Đặc biệt chị Năm Lê Giang nổi
tiếng với cái ơ kho quẹt. Ai mà được chị đãi món kho quẹt thì… ngàn năm không
quên.
Sau nầy, khi làm người biên tập sách cho chị, tôi mới nhận ra
cái ơ đó là của gia bảo của chị, do má chị mang từ quê Cà Mau lên Sài Gòn trong
thời loạn lạc và chờ chị trở về sau gần 20 năm xa nhà mới trao lại. Một
cái ơ bằng đất, mang từ quê xứ Cà Mau lên đất Sài Gòn đô hội để chờ cô Năm Kim
(tên gọi ở nhà của chị) chẳng biết sống chết thế nào nhưng má vẫn tin và đợi chị
từ rừng về trao lại. Nội chuyện cái ơ kho quẹt không đã đủ sức trở thành câu
chuyện thú vị của niềm tin và tấm lòng.
Điều thật thú vị và đặc sắc ở chị Lê Giang nữa là khi ra
ngoài đường, chiếc áo bà ba trở thành trang phục duy nhất của chị, cho dù là đi
dự lễ trọng hay lễ thường, dù đi công tác hay là đi chợ. Một cái quần đen và
chiếc áo bà ba (có màu, hoa văn hoặc không) dường như là trang phục và cũng là
lễ phục của chị. Trời lạnh thì có thể điệu đàng hơn bằng cách thêm một cái khăn
choàng cổ, đôi khi chỉ là chiếc khăn rằn vắt vai trong thời gian đi tìm kiếm những
khúc dân ca. Phải nói chị rặt Nam Bộ trong ăn mặc, nhưng điều đó cũng thật gần
gũi và chẳng xa lạ gì giữa chốn đô hội phồn hoa như đất Sài Gòn. Trong chị có
cái sang của người nhà quê và cái trung lưu bình dân của người phố thị. Tất cả
như quyện làm một Lê Giang rất tự tin và bản lĩnh có thừa.
Dường như cái duyên giữa tôi và chị chỉ thật sự mặn mòi khi
tôi rời cơ quan Hội Nhà văn về Nhà xuất bản Trẻ. Mà cũng chẳng phải ngay tức
thì đâu. Cũng phải sau vài cuốn sách bút ký, tạp văn chị in ở Nhà xuất bảnTrẻ
như Gặp gì ăn nấy, xin mời (Phan Thị Vàng Anh biên tập), Nghiêng tai dưới gió
(Ánh Tuyết biên tập) thì tôi mới có dịp tiếp cận với bản thảo sách của chị. Dù
trước đó, những cuốn sách trên là do tôi khai thác mang về. Gần như cứ 2 năm một
lần, chị cho ra mắt bạn đọc một tập tạp văn và bút ký. Bút ký là chuyện ghi
chép từ những chuyến đi sưu và tầm dân ca, chuyện buồn vui của những người già
đi tìm cái cũ, đi thật gấp, thật nhanh nếu không thì mai một, không còn gì để
lưu giữ cho muôn đời sau.
Những chuyến đi trở thành đời sống của chị, như ăn, như thở,
như nhớ mà sợ có lúc sẽ quên. Đối với người bước vào lứa tuổi xưa nay hiếm mà
chuyên cơm hàng cháo chợ nhiều khi thành chuyện thường ngày quả là một chuyện
phi thường. Nhưng chị với tư cách là tay hòm chìa khoá của những chuyến đi, dường
như chưa hề thấy chị mệt mỏi. Đi và ghi chép, chuyện âm nhạc thì đã có anh và bầu
đoàn… lo, còn chuyện buồn vui thì mình chị âm thầm ghi lại, sau đó có dịp lại
tiết lộ đôi điều cho bạn đọc cùng… phê. Còn tản văn thì chị viết nhiều, nghĩ một
điều đôi khi trở thành nhiều đoạn. Chuyện quanh nhà, quanh xóm, quanh chợ,
quanh làng, chuyện con, chuyện cháu, chuyện dâu, chuyện rể, đôi khi cả chuyện
chồng, chuyện đời trở thành những nghĩ suy, những ưu tư, trăn trở của chị. Cả
cái chuyện tự dưng bỏ phố về với phố biển Phan Thiết cũng là chuyện… bất ngờ.
Nhân dịp bước vào tuổi tám mươi, chị có gởi và nhờ tôi biên tập
cũng như lo phần in ấn tập Thơ Lê Giang, gồm tập tuyển hàng trăm bài thơ, từ
thơ viết trong chiến khu đầy bom rơi đạn nổ đến những ngày hoà bình, thống nhất
mấy chục năm qua. Đọc thơ chị, ta mới thấy hết tấm lòng của người phụ nữ, người
vợ, người mẹ, người bà trong cuộc sống nhiều nỗi niềm lo toan mà ít quá những
phần hạnh phúc, sung sướng. Là người phụ nữ nhưng thơ chị lại mạnh mẽ (dĩ nhiên
là không thiếu phần đằm thắm), mạch lạc, không thiếu những đoạn, những bài cách
tân, mới mẻ. Bây giờ người ta ít nhắc đến nhà thơ Lê Giang vì ít đọc được thơ
chị, mà thường chỉ nghe chị nói chuyện về hát ru, hát lý, nói vè.
Khoảng hơn hai chục năm lại đây không ai nhắc đến chị, nói đến
chị về thơ mà chỉ đề cập đến những cánh chim không biết mỏi trong hành trình đi
gìn giữ và phục hồi những di sản cha ông trong lời ca, tiếng hát. Chị là con ngựa
già bất kham, đến gần tuổi tám mươi vẫn còn tung vó trên dặm trường phim tài liệu.
Dạo nầy dù ít được gặp chị, do chị đã dọn về nơi ở mới khá xa thành phố (hai
trăm cây số chứ ít gì), nhưng mỗi lần nghe điện thoại của chị (thật ra là điện
thoại của anh), tôi vẫn nhận ra trong tiếng cười sảng khoái, giọng nói sang sảng
một niềm tin yêu cuộc sống đến diệu kỳ. Chị khoe là đang viết kịch bản cho một
số phim tài liệu liên quan đến nhạc sĩ nầy, diễn viên kia, những người đã được
đề cập ít nhiều trong tập sách Hành khúc Giải phóng, một tập hợp khá đầy đủ những
ca khúc của một thời đạn bom giải phóng miền Nam, do Nhà xuất bản Trẻ đặt hàng
gia đình anh chị thực hiện trong năm 2011. Nói là gia đình vì có cả sự tham gia
của nhạc sĩ Lê Anh Trung, con trai của anh chị trong phần chép nhạc và chỉnh
lý.
Như vậy là ở vào tuổi mụ tám mươi lăm, chị – nhà thơ Lê Giang – vẫn còn lên đường đi về nhiều nơi để tiếp tục gìn giữ những giá trị truyền thống thiêng liêng và cách mạng. Tấm lòng chị vẫn hướng về quá khứ, hướng về cái đã qua để mong sao lớp người đi sau sống xứng đáng với những gì được xem là thiêng liêng và cao quý.
25/11/2019
Phạm Sỹ Sáu
Nguồn: ANTG
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét