Trước cảnh hoang tàn
Đế Thiên Đế Thích
1- Trước cảnh hoang tàn Đế-Thiên Đế-Thích
Trong phòng xem sách tại khách sạn Angkor-les-Ruines, đèn điện
thắp sáng choang, những cánh quạt trần tung ra cái không khí mát mẻ, những cậu
bồi mẫn cán quần áo sạch sẽ, cử chỉ lễ phép, đã khiến cho khách du quan đến trọ
ở đấy không phải phiền lòng về sự bỏ nhà ra thất nghiệp, được thảnh thơi mà xem
xét những di tích lâu đài thành quách rải rác khắp chung quanh. Khách sạn này
trước kia chỉ có mấy cái nhà gạch đơn sơ, nhưng từ khi chính phủ đặt ra phòng
du lịch, nhờ về sự quảng cáo đắc lực mà khách phong lưu giầu có năm châu
đến đây vãn cảnh một ngày một đông ; khách sạn đã phải mở rộng ra: phòng ngủ,
phòng ăn, phòng xem sách, phòng tiếp khách, hàng ngang dãy dọc san sát, qui mô
rất to tát, xếp đặt rất tối tân.
Hồi ấy về tháng sáu, đang là vụ mưa, nên khách du quan đến
đây rất ít, có chăng chỉ một vài viên chức nhà nước nghỉ phép, một vài nhà đại
phú hiếu kỳ cùng dăm ba thủy quan thừa lúc tàu đổ bến Saigon tiện thể lên thăm
cổ tích mà thôi.
Trong phòng xem sách khách sạn tối hôm ấy chỉ có hơn một chục
người vừa Pháp vừa Nam. Ở góc phòng bên trái, một thiếu nữ đang ngồi dựa lưng
vào cái ghế xích đu nói chuyện với người hướng đạo (guide). Nàng trạc độ 23,
24, tuổi, ăn mặc rất lịch sự, quần cẩm châu trắng, áo cẩm quít màu da trời. Đôi
bông tai, chiếc vòng ngọc và mấy sợi dây chuyền nạm kim cương phản chiếu ánh
sáng đèn điện nẩy ra những tia sáng lóe mắt làm cho con người ngồi đó đã xinh lại
càng thêm xinh. Một mái tóc cánh phượng đen nháy, một bộ mặt trái xoan nõn nà,
một khổ người óng ả, điểm thêm một nụ cười tươi tỉnh: đó là cái biểu hiệu cho vẻ
đẹp của đàn bà xứ Nam. Nàng chẳng những kiều mị lạ thường, lại nói năng rất hoạt
bát, cử chỉ rất lịch thiệp chẳng có vẻ rụt rè e lệ của người xứ Bắc.
Nhưng đừng thấy thế mà đã vội bảo nàng có vẻ lả lơi tầm thường đâu. Không, nàng
có vẻ trang nghiêm, sắc sảo khiến ta trông thấy phải đem lòng kính nể.
Tờ báo La Tribune Indigène ở trên tay ngọc ngà kia
đủ tỏ cho ta biết rằng nàng chẳng phải là người vô học mà trông cách phục sức,
cách đi đứng, ta có thể đoán được rằng nàng không phải là kẻ mới ra đời vậy.
Nàng chính tên là Bella Như-Nhang, nhưng đám phong lưu công tử
đất Saigon lại đặt cho cái huy hiệu “Cô ba Cần-thơ” vì nàng chính quê ở Cần-thơ
và lại là con thứ hai [1]. Ai đi qua con đường Legrand de la Liraye ở
Saigon, mà chẳng phải dừng chân đứng lại, nhìn tòa nhà ba từng nguy nga ở đầu
phố. Trong bảy năm giời lăn lộn với đời, nàng đã dùng cái sóng khuynh thành kia
đạp đổ bao nhiêu cơ nghiệp để lấy tiền tậu ngôi nhà lộng lẫy ấy.
Trong cái đội tình nhân của nàng (nói cho đúng những người mê
nàng) quan sang có, điền chủ có, hiệu chủ có, nàng chẳng hề yêu ai, mà thứ
nhất đối với những hạng công tử xác thì dẫu xinh xắn như Phan An, tài tình như
Tương Như, nàng cũng chẳng thèm để mắt đến bao giờ. Nàng chỉ coi bọn phú quý
kia như những cái máy đúc tiền cho nàng, mà hạng công tử xác kia nàng chỉ coi
như những vật vô dụng vậy thôi. Một cuộc thí nghiệm rất đau đớn về tình ái xưa
kia đã làm cho thui cái mầm tình ái nó sắp nẩy nở ở trong lòng nàng. Nàng
bước chân vào cõi phong tình đã bảy năm giời nay mà tự thân mình chẳng hề vướng
víu, nhưng khách tài hoa đã vướng víu vì nàng chẳng phải là ít. Nàng đã làm
nghiêng ngửa bao nhiêu cơ đồ, tan nát bao nhiêu gia đình!!
Một vài thí dụ trong nghìn việc đã xẩy ra đủ khiến cho ta biết
nàng là hạng người thế nào.
Ông điền chủ họ Nguyễn ở Bạc-Liêu là một trang thiếu niên rất
lanh lợi đã đem một tấm tình si yêu nàng. Ông bỏ vợ dại con thơ, bán hết điền sản
lên ở Saigon cho được gần gụi nàng. Không đầy một năm giời, cái gia tư hơn mười
vạn kia đã thành ra luồng khói: tiêu tán vào trong cuộc đổ bác, cuộc vui chơi cả.
Lúc biết ông đã hết tiền, nàng liền cự tuyệt ngay. Ông bèn năn nỉ mà rằng: qua
vì em mà ra cái thân thế dường này, nếu em dứt tình cùng qua thì thà rằng qua
chết trước mặt em, chứ qua không đành lòng mà xa em đâu. Ông vừa nói vừa rút
súng lục ra. Nàng thấy thế cứ điềm tĩnh mà bỏ đi. Hai phát súng lục đinh tai
cũng không làm cho nàng quay đầu lại.
Dư luận ở Saigon đã một phen sôi nổi. Tuy pháp luật có can
thiệp vào nhưng vì chẳng đủ chứng cớ nên không kết án nàng được. Từ đấy, người
ta đặt cho nàng cái biệt hiệu “con cọp cái”. Tuy biết chắc là “con cọp cái” nó
ăn thịt người đấy mà bọn phong lưu tài tử cũng vẫn tranh nhau lăn mình vào.
Lại một lần nàng nhận được một bức thư:
Saigon, ngày ….
Cô Ba,
Tôi là học trò kiết mà lại muốn ăn ngon, muốn gái đẹp, muốn
có tiền tiêu, nhưng tự xét mình chẳng có một cái tài năng gì để làm cho thỏa được
những điều sở nguyện, vậy xin mong ở tấm lòng nghĩa hiệp của cô.
Phạm Bích Ng…
Nàng xem xong, viết giấy hẹn ngày, mời lại chơi nhà.
Đúng hẹn, anh chàng vác cái “mặt dày” lại. Sau một bữa tiệc đủ
cả rượu ngon, vật lạ, nàng giữ “cu cậu” ngủ lại một đêm. Sáng dậy nàng cho một
tấm giấy một trăm mà bảo rằng:
– Từ nay thầy đừng có trở lại đây nữa nhé.
Nàng lại cho gọi hết gia nhân đầy tớ đến mà dặn rằng:
– Hễ từ nay chúng bay thấy người này lại cứ việc đuổi cổ
ra, không cần phải hỏi han gì. Phải nhớ lấy nghe không.
Cái bản lĩnh nàng đã như thế thì bọn nam tử trong con mắt
nàng chẳng qua là những “bồ nhìn” mà thôi. Mà ngày nay, nàng đã trở nên giàu
có, chẳng cần phải lợi dụng bọn si tình nữa, thì cái giá trị của bọn đàn ông đối
với nàng, ta chẳng cần phải nói cũng đủ biết là thế nào rồi vậy.
Ngày nay, nàng lại xem chùa Đế-Thiên Đế-Thích, trong khi nàng
biết chắc rằng, đương vụ mưa này, ít kẻ đến, cũng là muốn tìm lấy cái thú tịch
mịch, để được thư lòng xem xét những dấu vết của một nền văn minh rực rỡ mà nay
đã mai một đi, mà có lẽ vì nàng đã chán cảnh ngựa xe huyên náo đất Saigon rồi.
Trong khi nàng đang ngồi nói chuyện với người hướng đạo, thì
cái sắc đẹp của nàng đã làm cho bao nhiêu người Pháp ngồi đấy phải ước vọng, mắt
nhìn chầm chập mà bàn ra nói vào. Nếu ta để tai nghe thì thấy tiếng xì xào:
– Morceau de roi (đồ ngự của vua) – extra
chic (lịch sự quá) – trop sérieuse (đứng đắn quá) – Ce n’est pas à vendre,
c’est dommage (Thế mà không đem bán, tiếc nhỉ?)
Những cái nhìn sống sượng ấy, những câu nói vô lễ ấy, chẳng
hay nàng có biết không, nhưng xem ra nàng cũng chẳng thèm để ý đến, coi như là
bọn họ không có mặt ở trong phòng vậy. Nàng chỉ chăm chú nói chuyện với người
hướng đạo để hỏi về lịch sử các di tích mà nàng đã được xem qua. Nhưng nếu ta để
tâm xét kỹ thì cuộc hỏi chuyện người hướng đạo khúm núm ở trước mặt nàng chẳng
qua là một cái “cớ”, chứ nàng vẫn chú ý nhìn một thiếu niên ngồi tít ở phía đằng
đầu phòng, nhưng tiếc thay, thiếu niên cứ cặm cụi xem sách tưởng chừng như
không có nàng ngồi đấy. Mà nào anh chàng ta có đẹp đẽ gì cho cam, nhưng nàng sở
dĩ nhìn, chẳng phải là nhìn về sự đẹp đẽ của anh chàng.
Thiếu niên người dong dỏng cao, mặt mũi gân guốc, phỏng độ
26, 27 tuổi mà nét mặt trông đã già cằn. Trông da chỗ đen, chỗ trắng, ta có thể
đoán ngay chẳng phải lúc sinh là đã thế, có lẽ trong đời dầm mưa dãi nắng nhiều,
nên mặt phong trần đã phải nắng sạm mầu dâu vậy. Toàn thể con người trông chẳng
có cái vẻ gì là đặc sắc, đại để có vẻ rắn rỏi lanh lợi mà thôi, nhưng ta nhìn kỹ,
ta sẽ thấy hai con mắt sáng quắc như sao. Nếu bảo rằng có thể đoán sự thông
minh của con người ta bằng hai con mắt, thì thiếu niên chắc là thông minh lắm.
Hai lưỡng quyền thật cao nó biểu hiệu cho sự nghị lực, sự can đảm; một cái mồm
thật rộng, hai làn môi mỏng dính. Ta trông thấy cặp môi ấy, cái mồm ấy, trên
khuôn mặt lạnh lùng ấy, ta tưởng tượng rằng dễ suốt đời thiếu niên không cười
bao giờ, nhưng nếu có việc đáng cười mà đã làm cho cười được thì ta sẽ thấy một
cái cười cay độc, chua chát, một cái cười hoài nghi về thế sự, về nhân tình.
Ta đừng thấy thế mà đã vội cho là vô duyên đâu, cái duyên của
con người quắc thước là ở chỗ quắc thước. Thiếu niên mặc một bộ áo trắng rất
xoàng, nhưng toàn thể có thể tỏ cho ta biết được con người mặc bộ áo ấy là con
người lịch sự, con người hành động, tuy ngang tàng mà lễ phép, nghiêm nghị mà dễ
dàng.
Chàng đến đây đã ba hôm nay, sáng nào cũng đi xem phong cảnh
mãi đến bữa cơm tối mới về.
Tuy lúc ra vào, có được gặp Bella Như-Nhang luôn, nhưng chàng
cũng chẳng hề để ý đến, chẳng qua theo phép lịch sự, khi nào gặp thì hoặc ngả
mũ, hoặc cúi đầu chào đó mà thôi.
Về phần Bella Như-Nhang tuy là người đã lịch duyệt thế cố chẳng
còn mong mỏi gì về nhân tình nữa, tuy sự từng trải đã đúc cho nàng một quả “tim
sành”, nỗi đoạn trường đã làm cho nàng lạnh lùng như đá, nhưng dẫu sao, cũng vẫn
là đàn bà, mà đã là đàn bà thì không sao thoát khỏi cái khuôn sáo của tạo hóa
được, mà thứ nhất đối với một người đàn bà đẹp thì cái luật thiên nhiên kia lại
càng chặt chẽ lắm.
Xét tâm lý, người đàn bà đẹp, ai cũng tưởng tượng rằng cái sắc
đẹp của mình là trung tâm của vũ trụ, mà mọi sự hành vi của nhân loại
cũng chỉ vì cái sắc khuynh thành ấy mà ra cả. Thì như Bella Như-Nhang kia, lúc
đi sắm đồ ở hãng Charner, lúc đi chơi chợ phiên, lúc đi xem diễn kịch, hàng vạn
con mắt bọn nam nhi chẳng đổ dồn vào mình nàng là gì? Những cái lườm, cái nguýt
của bọn chị em chẳng là những cái tang chứng ghen tị vẻ kiều mị của nàng là gì?
Mà bao nhiêu lũ “con đen” lìa vợ, lìa con, phá gia, phá nghiệp khuân tiền đến
cho nàng tiêu, cũng chẳng là vì một nụ cười của nàng sao?
Bella Như-Nhang xưa nay vẫn yên trí như thế, nay bỗng gặp một
người, chẳng những không thèm để ý đến cái sắc đẹp của mình, chẳng những không
thèm nhìn đến những đồ châu ngọc mình trang sức mà lại hình như không biết mình
ở đấy nữa, thì thế tất nhiên là nàng phải để tâm đến “anh chàng” chẳng thèm để
tâm đến nàng vậy.
Ấy bọn phụ nữ thường hay yêu những người không yêu mình. Oái
oăm thay là ông Tạo-vật!
Những trang sắc nước hương trời đã in sâu vào óc cái tư tưởng: Sắc
bất ba đào dị nịch nhân [2]
Mà nay bỗng gặp một người không chịu say đắm vì mình, lẽ tất
nhiên là phải để tâm đến cái “chỗ” không say đắm ấy.
Lúc Bella Như-Nhang nhìn thiếu niên thì thiếu niên chỉ nhìn
sách. Một lúc lâu, chàng đánh diêm hút thuốc lá rồi móc túi lấy ra một phong
thư mà chàng vừa nhận được lúc ban chiều. Phong thư đóng dấu nhà bưu điện
Nam-vang (Phnompenh) của phòng luật sư gửi cho M. Hoàng-Cương ở Battambang, rồi
sở bưu chính Battambang lại gửi theo đi (réexpédié) Angkor-les-Ruines.
Phnompenh, le 2 août 1930
Thưa ngài,
Theo như ý muốn của ngài, tôi đã cho mời các chủ nợ đến điều
đình, họ đều không bằng lòng cho giả lần mà gay go nhất là nhà Đông-Pháp
Ngân-hàng. Họ đã đầu đơn ra tòa án xin phát mại sản nghiệp của ngài.
Cứ theo giá trước kia thì cái đồn điền 600 mẫu tây đất ấy
cùng các đồ nông khí có thể bán được tới hơn 60.000$. Nhưng nhất đán đem phát mại
trong lúc đồng tiền đang khan này thì vị tất đã có kẻ dám mua tới 20.000$. Mà để
như thế thì sợ tiếng tăm, có điều trở ngại cho sự doanh nghiệp của ngài sau
này. Vậy tôi đã hết sức điều đình với ông Mahomed Chettyar, ông ấy đã thuận mua
tới 25.000$. Trừ 4.000$ là tiền nợ, ông ấy còn phải trả lại ngài 21.000$. Số tiền
ấy chỉ đủ trang trải các món nợ khác và tiền bút giấy mà thôi. Tôi lấy cái bổn
phận là người biện hộ và cái danh dự là bạn của ngài trong sáu năm giời nay mà
khuyên ngài nên bằng lòng đi, vì làm như thế thì ngài sẽ toàn danh dự mà danh dự
trong sạch vị tất đã không phải là cái lợi khí cần dùng nhất cho cuộc tương lai
sau này. Định kiến ngài thể nào xin cho biết ngay.
Một người bạn rất trung thành của ngài:
MAÎTRE TROMEUR
Cái thư “ghê gớm” ấy, Hoàng-Cương xem đi đọc lại chẳng đổi sắc,
trên cái vẻ mặt nghiêm nghị rắn rỏi như tạc vào đá kia, ta không thấy một cái
triệu chứng gì nó biểu lộ cho ta biết được rằng con người mà cái thân thế, cái
sự nghiệp có can dự với bức thư kia đã vì những nỗi éo le ấy mà cảm động. Đối với
những người gan góc ấy thì sự khó khăn, đau đớn vị tất đã làm cho núng chí được
mà đến ngay sự phú quý vinh hoa vị tất đã làm cho động lòng được.
Ở trong cái đời nhục thể này, đã bao kẻ, hễ hơi có một sự gì
buồn – vị tất đã đáng buồn – thì mặt nhăn mày nhó, mà hơi có một sự gì vui – vị
tất đã đáng vui – thì hí ha hí hởn. Những kẻ đó đều là thiếu can đảm, thiếu nghị
lực cả.. Cuộc đời đã là một cuộc phấn đấu mà cái công lệ thiên nhiên là phải tiến
lên mãi thì cơ tồn vong, sự thành bại chẳng qua là những bài học của Hóa-công,
hà cớ gì mà phải quan tâm; cuộc đời đã là một trường huyết chiến thì dẫu khóc
than cũng chẳng ích gì, âu là ta cứ gia công rèn luyện cái bản ngã của
ta cho ngày một cứng cáp, nên chăng thì ta biết với ta, thế chẳng cũng là quá đầy
đủ rồi sao?
Hoàng-Cương vừa nhìn bức thư vừa ngẫm nghĩ. Cái cảnh tượng
tan tành ngày nay đã bắt ký ức của chàng phải quay đầu lại.
Chàng hồi tưởng lại xưa kia, chàng chỉ đem một bầu nhiệt huyết,
một tấm lòng kiên nhẫn rời bỏ quê cha đất tổ là xứ Bắc-kỳ tốt tươi kia mà vào xứ
Cao-mên nóng nực này. Nếu nhất đán có phải trở về chốn cũ thì cũng vẫn một bầu
nhiệt huyết ấy, một tấm lòng kiên nhẫn ấy, nào có thiệt gì đâu, chẳng qua
tay trắng mà đi thì lại tay trắng mà về. Chàng ngẫm nghĩ đến đấy xoa tay
rồi vùng cười xòa.
Tiếng cười chua chát, cay độc, tiếng cười lạnh gáy, ghê mình
khiến cho Bella Như-Nhang nghe tiếng mà phải giật mình, tờ báo đương cầm ở tay
bỗng rời ra; những khách xem sách ở trong phòng đều phải sửng sốt quay đầu nhìn
chàng. Tiếng cười kia có khác chi lưỡi dao cực sắc nó đã đâm toang cái màn yên
tĩnh che phủ phòng xem sách nhà khách sạn Angkor-les-Ruines lúc bấy giờ.
Hoàng-Cương biết mình sơ ý bèn bỏ chỗ ngồi đứng dậy ra
hiên.
Đêm ấy là đêm rằm.
Trên vòm trời trắng toát, gương nga đưa đẩy, tỏa xuống dưới
trần muôn nghìn đạo hào quang, khi mờ khi tỏ, bao phủ những đỉnh lâu đài cao
chót vót, rải rác khắp chốn danh lam thắng tích này. Cây si cổ thụ mấy người ôm
ở đằng trước khách sạn kia (mà có lẽ cũng là ở trước chùa Angkor Wat nữa vì
chùa với khách sạn đối diện nhau) nó rườm rà tha thướt, lù lù như một bức Vạn
lý trường thành đắp ngược chặn lấp phía trời tây không cho chàng thấy
các đỉnh lâu đài điện Angkor Thom và các đỉnh chùa tản mác ở phía ấy.
Không biết vì lẽ gì nhà Viễn-đông Bác-cổ chủ trương việc
trông coi những di tích Đế-Thiên Đế-Thích (Ruines d’Angkor) lại cấm không cho
khách sạn làm nhà gác. Giá thử có một nhà lầu cao ngất thì ta đứng lên đấy, tầm
con mắt có thể bao quát được hết cái đại cương của các đống đá đổ nát mà
người ta gọi là những kiến trúc vĩ đại của nền văn minh Ấn-độ kia. Các di tích ấy
rải rác khắp trong một khu vực hơn mười cây số vuông.
Tiếng cắc-kè kêu ở các kẽ hộc (có thể gọi xứ Cao-mên là xứ cắc-kè
được vì đi đến đâu cũng chỉ nghe tiếng cắc-kè) hòa lẫn với tiếng cây reo, họa
nên những khúc nhạc rất khắc khoải, rất thê thảm riêng cho xứ Cao-mên.
Bóng giăng vằng vặc chiếu xuống, một cảnh bí mật êm đềm như
giục lòng khách…
Hoàng-Cương lần theo bóng giăng vừa đi vừa ngắm cảnh…
Suốt một góc trời tây, lố nhố những đỉnh lâu đài cao
vòi vọi đột khởi ở trong đám rừng cây cối đen sì…
Cái trạng thái ấy đã gây cho vùng Đế-Thiên Đế-Thích một cảnh
tượng hùng vĩ lạ thường.
Nếu ta muốn tưởng tượng cái hùng vĩ của nó, thì tất cả nhà cửa
thành phố Hanoi đem dở ra, chất thành một đống gạch, mới gọi phác ra được đôi
ba phần. Nhưng cách kiến trúc kia còn có vẻ mỹ thuật lộng lẫy biết là bao, mà
những di tích ấy lại chen chúc vào trong những rừng cây bát ngát thi còn có vẻ
mỹ quan hon nhiều.
Hoàng-Cương noi theo một con đường thật rộng, lát toàn những
tấm đá to bằng cái mặt bàn, qua mấy dẫy hành lang, trèo mấy lần thềm đá, mới
lên đến chỗ chính điện cao nhất chùa Angkor Wat.
Chùa này làm toàn bằng đá, nóc đá, vách đá, cột đá, sàn đá chạm
trổ rất cầu kỳ. Hoàng-Cương đứng ở đấy quay đầu nhìn khách sạn
Angkor-les-Ruines thấp lẹt đẹt, nhỏ tí tẹo, đối với chùa này chỉ như một chiếc
thuyền nan đứng cạnh một chiếc tầu bể lớn vậy. Nhưng, trong nhà khách sạn đèn
thắp sáng choang, nó biểu hiệu cho sự sinh hoạt, mà, chùa này thì bốn bề tường
đá, im lặng như tờ, nó bảo cho khách biết rằng: cái di tích hùng vĩ này chỉ còn
là một nơi hoang phế mặc cho gió dập mưa vùi. Bóng nga phản chiếu, bao la sắc
đá trắng nhạt một mầu, trong cái cảnh hùng vĩ lạnh lùng ấy như hiện ra một vẻ
thê lương thảm đạm khiến cho lòng khách giang hồ phải ngậm ngùi về nỗi “sao dời
vật đổi” luống lại ngao ngán cho thân thế nổi chìm.
Này Angkor Wat, nọ Angkor Thom cùng bao nhiêu lâu đài, bao
nhiêu chùa miếu xưa kia lộng lẫy, nguy nga biết là bao mà nay chỉ còn là những
đống đá xanh ngổn ngang chồng chất!
Đế-Thiên, Đế-Thích, xưa kia cổ nhân đã tốn bao công phu, trải
bao thế kỷ mới xây đắp nên ngươi, nay ngươi chỉ còn là một vật kỳ quan bí mật
nó khêu gọi tấm lòng tò mò của khách năm châu.
Song những du tử đến đây, chẳng biết có hiểu thấu cho rằng mỗi
một hòn đá này là một mạng người, mỗi một giọt nước ở hồ kia là một giọt máu
đào không???
Chẳng biết khách có biết cho rằng chốn này xưa cũng là một đế
đô phồn thịnh của một dân tộc, chốn này xưa kia đã nung đúc nên biết bao nhiêu
bực anh hùng cái thế làm vẻ vang cho giống cho nòi, chốn này xưa kia đã trải
qua một thời kỳ khói hương sầm uất, ngày nay chỉ còn lạnh ngắt như tờ không?
Bao nhiêu thảm trạng tranh quyền cướp nước, bao nhiêu “ân ái
éo le” đã làm cho chìm đắm biết bao nhiêu trượng phu hào kiệt, thục nữ
thuyền quyên, mà ngày nay.. ngày nay thì dẫu đến nắm xương tàn ta cũng
không còn trông thấy nữa!!!
Đế-Thiên, Đế-Thích, ngươi là một nguồn học vô tận cho nhà khảo
cổ, một mối tiêu sầu thú vị cho khách năm châu, nhưng đối với ta, ngươi chỉ là
cái tang chứng hiển nhiên của cuộc đời dâu bể, ngươi chỉ là một mối não nùng ai
oán cho cảnh phù du.
Hoàng-Cương nghĩ đến đấy muốn hét lên một tiếng: “Ai ngờ”? Ai
ngờ đâu những công trình lao khổ của mấy mươi triệu con người trong bao nhiêu
thế kỷ, những chí khí vĩ đại oanh liệt của bao nhiêu bực anh hùng, ngày nay chỉ
còn là một đống đá rêu!!!
“Hữu hình tất hữu hoại”, ngán thay! Cái thời gian vô tình kia
đã xây đắp nên thì cái thời gian cay nghiệt kia lại đạp đổ đi, thế thì đời
người thấm thoát, trăm năm nào có ra gì!!!
Ôi! Gương kim cổ rành rành ra đó, khách phù du sao cho khỏi
ngậm ngùi!
Hoàng-Cương hồi tưởng lại xưa kia lúc còn măng sữa cha yêu mẹ
quý, sung sướng biết là bao, nhưng chẳng may thông huyên sớm vội lánh trần, tấm
thân “tầm gửi” nhờ người, đã phải chịu bao nhiêu chiều cay đắng. Cập đến lúc
thân đã lớn, trí đã thành những tưởng đem một bầu nhiệt khí chống chọi với ông
xanh già để chiếm lấy một ghế ngồi trong vũ trụ, cái chí nguyện bình sinh tưởng
chừng như vượt qua muôn trùng sóng gió, giầy đạp chông gai mà bước lên, chứ có
ngờ đâu đến cái quang cảnh ngày nay!
Chàng lại hồi tưởng khi 18 tuổi đầu, lìa phần mộ, lìa quê
hương mà đến xứ này; nào khi doanh nghiệp bôn ba, cái thân thế tang bồng nay
đây mai đó, khi Vọng-các (Bangkok) khi Saigon ; nào lúc trèo đèo lặn suối, mặt
phong trần đã bao phen dãi gió dầm mưa, nay núi Đậu, mai Biển-hồ [3]. Dầu
cực khổ mà chí chẳng chùn, gian nan mà lòng chẳng đổi, bao nhiêu năm giời thân
cò lặn lội, mới gây được một cái cơ nghiệp cỏn con, ngày nay bỗng bị ngọn trào
“kinh tế” nó cuốn hút ra tận bể khơi, tan tành man mác còn có gì đâu!
Chàng càng ngẫm nghĩ lại càng chán nản cho đời, ái ngại cho
thân, nhưng trông thấy những đống đá lù lù trước mặt nó như nhắc nhở lại cuộc
tang thương, nó như vẻ mỉm cười chế nhạo mà bảo rằng:
“ Sao anh không trông tôi đây?”
Phải, bể dâu dù biến đổi, đá kia vẫn đứng trơ trơ: Gan lì,
già sọc có non gì mà sợ cóc chi ai.
Chàng bùi ngùi cho cảnh vật, xót xa cho thân thế luống lại chạnh
niềm nhớ tới người xưa. Ừ mà, tướng quân Marius khi xưa đã bao phen đạp xương tắm
máu, xông pha trong bãi chiến trường, lập nên những đại kỳ công làm vẻ vang cho
xứ La-mã (Rome) [4] đã bao phen nắm cái uy quyền “trấn quốc” ở trong
tay thế mà khi 80 tuổi, tóc đã bạc, lưng đã còng, chân đã mỏi còn phải lênh
đênh cơ khổ lẩn lút xứ người. Tuy vậy mà chí chẳng chùn, gan chẳng núng, sau lại
khôi phục được cơ đồ nghiêng ngửa. Cổ nhân thì mãnh liệt hùng dũng như kia, sao
mình lại yếu đuối hèn nhát thế này. Nghĩ đến đấy, Hoàng-Cương đã thấy phấn khởi
trong lòng, dận mạnh gót chân xuống đá mà nói to lên rằng:
-Vas dire à ton maître que tu as vu Marius s’asseyant sur les
ruines de Carthage, (ngươi hãy về bảo chủ ngươi: có thấy Marius Tướng quân ngồi
trên di tích đổ nát thành Carthage) [5].
Chàng nói vừa dứt lời thì nghe có tiếng người hỏi:
-Thầy Hai nói chi mà coi bộ giận dữ vậy?
Rồi một cái bóng xanh xanh, trắng trắng, thướt tha, phảng phất
như một cái hồn ma mới chui ở dưới đá lên, mà hiện ra trước mặt. Hoàng-Cương định
thần nhìn kỹ thì là Bella Như-Nhang. Chàng đương bàng hoàng chưa kịp giả nhời
thì nàng lại hỏi:
– Có phải thầy Hai đến thăm Đế-Thiên Đế-Thích này cũng có một
mối cảm tưởng như Marius Tướng quân, hồi trốn tránh đến thành Carthage không?
– Thưa cô, tôi đâu dám ví mình với cổ nhân.
– Cổ nhân thì cũng là mình chứ ai, cũng gan ấy, cũng óc ấy,
cũng cùng phải chịu một cái cảnh tình ấy, thì cũng cùng phải đeo một mối cảm
hoài ấy, có khác gì đâu. Phải, Marius tướng quân xưa kia, tỉ cái thân thế mình
khi oanh liệt cũng như thành Carthage lúc cường thịnh, mà lúc thân thế gian
nan, cũng như thành Carthage khi đổ nát. Tướng quân cám cảnh chạnh lòng mà phát
lộ ra lời ấy. Nhung sau khi Marius tướng quân lại hiển hách trở về thành La-mã
chẳng biết còn có nghĩ gì thương đến thành Carthage đổ nát kia không?
– Thưa cô, người là người, vật là vật, sức người há chống chọi
được với búa giời ru? Thành Carthage kia cùng chùa Đế-Thiên Đế-Thích này há chẳng
là phải chịu chung cái công lệ thiên nhiên mà đào thải theo thời gian sao? Cơ
trời đã dĩ nhiên như thế, thì ta dù có thương xót chẳng qua cũng là thương xót
cho cái thân thế phù du, chứ đã tắm bụi trần ở trên mặt đất, há canh cải được
những quy tắc thần bí của Hóa công sao?
Nguyên Bella Như-Nhang từ khi Hoàng-Cương bỏ phòng sách
ra ngoài hiên, nàng tò mò muốn biết con người kỳ lạ ấy bèn theo ra định bụng
lân la làm quen hỏi chuyện. Nhưng khi ra đến nơi, đã không thấy chàng đâu. Nàng
vừa muốn quay về phòng ngủ thi vừng giăng sáng lạn, cảnh vật thanh u như gợi ra
ở trong tấm lòng nàng một mối cảm hoài vô hạn, nàng bèn lần theo bóng giăng mà
đi… cũng ngẫu nhiên mà vào Angkor Wat, cũng ngẫu nhiên mà được nghe câu nói,
xong nàng đã định bụng im đi, nhưng không biết một cái sức mạnh thần bị gì nó
buộc nàng phải hỏi.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, phút chốc đã ra khỏi mấy lần
cung điện.
Gió thổi… những lá cây dừa cao chót vót ngất nghểu ở trước
sân chạm vào nhau kêu sột soạt; những tiếng dế cùng những tiếng của bao nhiêu
con vật vô hình nó ẩn núp ở dưới đất pha lẫn với nhau mà nổi lên một thứ âm hưởng
bi ai thảm khốc như tiếng khóc than rền rĩ của hồn ma, bóng quỷ nó phảng phất ở
đâu đây. Những bông hoa rừng nó chen chúc ở trong kẽ đá xông ra mùi hương
ngào ngạt. Mùi đá, mùi rêu, mùi đất, mùi cây hòa lẫn với nhau mà tỏa ra bầu
giời một thứ hương lạ lùng “khác tục” ; luồng gió mát mẻ thơm tho như cuốn cuộn
hai người vào một cõi bồng lai tịch mịch; gương nga chênh chếch như bao bọc hai
người vào trong vòng hào quang ấm áp...
Cái vẻ mặn mà khả ái của cảnh vật như giời chỉ dành phần
riêng cho khách giang hồ du tử.
Bước xuống đến thềm, Bella Như-Nhang lại hỏi:
– Thầy Hai ôi, đã biết đạo trời là như thế mà sao người ta vẫn
cứ thi nhau sáng tạo, xây đắp lên những “cái” mà đã biết chắc sau này sẽ phải
tan tành, mà đã biết thế sao còn lăn lóc sống chết vì danh lợi là những cái “hư
vô” nhỉ?
– Người ta lúc mới sinh ra đã biết chắc rồi sẽ phải chết, sao
mà vẫn phải sống, mà cho dẫu đến phút cuối cùng vẫn chứa chan những hi vọng
về sự sống. Giá dụ ông Hóa-công khắt khe kia, lúc sinh ra người, lại in ngay
cái “tử kỳ” vào mặt thì cõi đất sẽ không phải là cõi đất ngày nay nữa. Thế giới
ngày nay sở dĩ là thế giới ngày nay là vì con người ta, ai cũng có một “vũ trụ
hy vọng” ở trong lòng. Đã đeo nặng cái hy vọng ấy, lẽ tất nhiên là phải lo hành
động cho đạt những điều sở nguyện. Chẳng qua phép giời là phải “động” luôn.
Kìa, cô trông các tinh tú trên giời, có lúc nào ngừng không? Nếu ngừng lại thì
cái thế giới này sẽ phải diệt vong vậy. Tuy rằng “động” luôn như thế mà vẫn phải
theo một cái khuôn phép, nghìn muôn năm cũng thế mà thôi. Ví dụ nếu các tinh tú
mà “động” ra ngoài khuôn phép, thì vị nọ thế tất nhiên sẽ đụng phải vị kia, mà
đụng nhau thì
Nói đến đấy, hai người nhìn nhau cả cười…
Gương nga vẫn vằng vặc sáng tỏ một góc giời…
Bella Như-Nhang lại nói:
– Nghe thầy nói, như được nghe những lời bàn xác đáng của
một nhà triết lý. Còn tôi thì vừa ngu, lại vừa ít học, thành thử tuy là có óc
mà cũng như không.
– Cô đã đọc qua sách của Plutarque tiên sinh thì sao gọi
là ít học được. Cô đọc đến “Đời Marius Tướng quân” (Vie de Marius) mà
cô còn nhớ câu châm ngôn kia, chắc là lúc đọc đến đoạn ấy cô cũng xúc cảm mà để
tâm suy xét, đã thế sao gọi là ngu được?
– Thầy Hai, cứ nói tốt cho tôi làm gì? Chẳng qua đọc thì nhớ
lõm bõm đó mà thôi, chẳng qua như nước mặt hồ kia, bóng trăng chiếu xuống thấy
mình sáng thì biết rằng sáng đấy thôi, chứ nào có biết tại làm sao mà mình sáng
đâu?
Nàng vừa nói, vừa chỉ tay xuống mặt hồ…
Một làn nước bạc trắng phau, phẳng lờ như một tấm thảm. Lâu
lâu một luồng gió thoảng qua làm cho mặt nước lăn tăn biến hóa ra muôn nghìn
con rắn trắng đuổi nhau trên mặt sóng…. Dưới đáy nước, một vùng giăng trắng xóa
như một cái đĩa bạc…
Nhìn bức tranh tuyệt xảo của hóa công, đứng trước một cảnh
tượng nên thơ của Tạo vật, chạm trán với một vấn đề huyền bí của vũ trụ, hai
người bỗng xúc cảm mà đem lòng nghĩ ngợi…
Trầm ngâm một lát lâu, Bella Như-Nhang mới hỏi chàng:
– Tại sao trời lại sinh ra mặt trăng nhỉ? Ừ thì trời sinh ra
mặt giời đã đành rằng để cho người ta được sáng sủa làm lụng để nuôi sống, cho
cây cỏ hấp thụ lấy khí ấm áp mà sinh chồi nẩy lộc. Ừ thì trời sinh ra ban đêm để
nghỉ ngơi, để di dưỡng lấy sức khỏe, lấy tinh thần. Nhưng đã ngủ thì thôi chứ.
Cứ chi trời lại còn sinh ra trăng rằm nhỉ? Sao lại sinh ra cái hiện tượng nửa tỏ
nửa mờ thế mà sao những cảnh tượng đêm trăng lại êm đềm đẹp đẽ thế này?
Hoàng-Cương nghe nàng nói mà bàng hoàng, không ngờ một người
con gái mà lại có cái kỳ tưởng suy xét đến thế, đeo một mối cảm tình nồng nàn đến
thế. Câu hỏi khó giả nhời thay! Chàng tự xét cũng không biết Hóa-công đã sinh
ra đêm giăng để làm gì?
Hai người vừa đi vừa ngẫm nghĩ, nặng chĩu một tấm lòng thơ,
thì vừa lúc ấy, ở trên con đường đá trắng xóa kia, hai vợ chồng người quản lý
nhà khách sạn đang dắt nhau vừa đi vừa cười về phía cổng chùa, hình như ông
Hóa-công sai đem câu giả nhời có sinh hoạt đến cho hai người, hình như ông
Hóa-công muốn đem gói ghém cặp vợ chồng kia vào trong tấm màn “băng” để cho cái
khí vị nồng nàn, ấm áp của ái tình nó khỏi tan đi vậy.
Bella Như-Nhang trông thấy thế, nhìn Hoàng-Cương mà sửng
sốt, mà bối rối nhưng chàng vẫn bình tĩnh như thường. Hai người lững thững trở
về, khi chàng từ giã nàng để về phòng ngủ, nàng còn dặn với:
– Tôi nghe nói thầy ở Cao-mên lâu năm, thầy lên đây vãn cảnh
luôn, thông thuộc vùng này lắm, vậy sớm mai thầy làm ơn đưa tôi đi xem và giảng
cho tôi nghe nhé.
Bella Như-Nhang về buồng trằn trọc không sao ngủ được, những
cảm tưởng hồi vừa qua bắt thần trí nàng phải suy nghĩ….
Nàng nghĩ đến biết bao kẻ nam nhi xưa kia chỉ một cái liếc mắt,
một cái mỉm cười của nàng cũng đủ làm cho phải bó tay chịu trói, mà sao cái anh
chàng gặp gỡ này lại gan lỳ thế được? Nàng lại nghĩ đến những di tích nàng đã
xem qua, xưa kia, lộng lẫy biết bao mà nay chỉ còn là một đống đá thế thì cuộc
phú quý vinh hoa ở trên đời này phỏng có là gì! Nàng lại nghĩ bấy lâu nay, nàng
nằm trên đống tiền, nàng đã được hưởng những lạc thú gì? Một vành lược bạc, gẫy
tan nhịp gõ, một mảnh quần hồng, hoen ố rượu rơi, thì dấn mình vào cõi yên hoa
chẳng qua là “gặp thời thế, thế thì phải thế”, chứ đồng bạc trắng kia, nào đã
đem lại cho khách má đào được một chút “chân lạc thú” nào đâu! Nghĩ đến đấy,
nàng thấy trong mình lạnh lùng trống trải hình như thiếu thốn một “thứ” gì. Các
nhà tiểu thuyết thường nói: “ân ái là nguồn lạc thú mà chốn gia đình là cõi tiểu
thần tiên”. Nhưng nhìn quanh mình thì thấy trái hẳn. Biết bao nhiêu bạn gái đã
phải chịu trăm chiều cay đắng về nỗi chồng con. Nàng đã biết thế mà chính thân
mình khi đào còn tơ, liễu còn yếu cũng đã qua cầu ấy, nên từ bấy đến nay, nàng
vẫn giữ mình chẳng để cho vương víu. Còn như nói ân ái là nguồn lạc thú thì đấy,
những kẻ bấy lâu nay lăn lóc sống chết vì nàng chẳng là cái gương phản trái lại
ư? Nào đã thấy ai tìm được một chút hạnh phúc gì đâu, hay chỉ mua lấy cái
vạ: nghiệp đổ nhà tan. Nàng ngẫm nghĩ đến đấy rồi lại tự hỏi: nhưng ngoài chốn
gia đình, ngoài sự ân ái ra thì trong đời người đàn bà còn có việc gì
đáng để tâm nữa không? Nghĩ đến đấy, nàng sửng sốt, bàng hoàng toát mồ hôi…
Ngoài những “cái” ấy ra thì đều là “hư vô”, đều là mộng, đều
là “không không” cả. Thế ra từ bấy đến nay nàng đã lăn lóc về những cái “hư
vô”, nên sắc có mà hình không! Nàng lại thấy một tiếng gọi ở trong bể lòng nó đột
khởi lên, rồi muôn vật hình như bảo nàng phải “yêu” để sống, phải “yêu” để cầu
lấy chân lý sự sống, rồi nàng thấy một cái vô hạn buồn rầu (infinie tristesse)
nó bao la ở trong cái vô hạn lạc thú (infini bonheur) hiển hiện ra bởi
cái vô hạn ái tình (infini amour).
Ngọn đèn điện le lói… Nàng nhìn xuống chiếc nhẫn kim cương,
chiếc vòng kim cương lóng lánh như sao mà nàng buồn, mà nàng giận, mà nàng mắng:
“Cái ánh sáng khốn nạn của bây đã làm cho ta lóe mắt mà đi
sai đường lạc lối, bây có biết không?”
Rồi nàng nhìn qua cửa sổ, những đỉnh chùa Angkor Wat như chỉ
rõ cho nàng biết cái “hư vô” của nhục thể, rồi nàng nghĩ: Ừ, đã đành rằng ngoài
nguồn tình ái, thì ở đời “sắc, tướng” đều không cả, ừ đã đành rằng bể tình là bể
khổ mà ta vẫn phải dấn mình vào mới tìm thấy sự lạc thú, nhưng ta biết yêu ai
bây giờ? Ta tìm đâu cho thấy một người đáng yêu để… Nghĩ đến đây thì cái hình ảnh
của Hoàng-Cương như hiển hiện ra ở trong thần trí nàng, mà một nguồn sinh
hoạt mới mẻ, thơm tho như theo cái hình ảnh kia đến mà nhập vào thân thể nàng vậy.
Rồi, nàng phải tự nhận rằng nàng đã yêu Hoàng-Cương nàng yêu thực, nàng yêu lắm.
Có lẽ nàng đã bị “một tiếng sét của ái tình” (le coup de foudre de l’amour) nó
đánh phải, nhưng một tiếng sét mới êm đềm thú vị làm sao!
Trong một đời người, mà chưa có một tiếng sét ấy, chưa đủ gọi
là một đời người vậy.
Ái tình! Ái tình! nó có phép thần thông rất quảng đại, thuật
biến hóa rất nhiệm mầu. Nó làm cho kẻ dại nên khôn, kẻ ngu nên trí, nó khiến
cho kẻ đại gian đại ác thành ra đại nhân đại nghĩa. Nó bắt ta phải lo sợ, buồn
rầu, nhưng lo mà vẫn vui, buồn mà vẫn thú.
Nó tức là ngọn thần đăng soi sáng cho ta trong bước đường đời
tối tăm này vậy.
Bella Như-Nhang nghĩ đến Hoàng-Cương thì nàng thấy nàng “sống”
một cảnh đời mà xưa nay nàng chưa từng “sống”, nàng thấy một cái ánh sáng hy vọng
nó đột khởi lên. Nhưng nàng lại lo:
“Không biết cái anh chàng mặt sắt lạnh lùng kia có lòng yêu đến
ta chăng? không biết…”
Rồi nàng lại ôn lại trong trí nàng những cách cử chỉ của
Hoàng-Cương mà nàng phải áy náy. Nhưng áy náy cũng là áy náy vậy thôi, chứ cũng
không sao làm cho bế tắc được nguồn lạc thú bồng bột ở trong lòng nàng
lúc bấy giờ.
Nàng trông bó hoa hồng nó đang phô thắm ở trên mặt bàn như có
vẻ ghen tị sự sung sướng của nàng, nhưng quay lưng lại nhìn đến chiếc giường lò
xo rộng rãi, chiếc gối trơ trọi lại ra chiều mai mỉa.
Rồi, không biết….không biết tại làm sao nàng bỗng bưng mặt
khóc.
Từ xưa đến nay, bao kẻ chết vì nàng, nàng không khóc, bao kẻ
điêu đứng vì nàng, nàng không khóc, ngày nay nàng đi khóc một cái vô hình
…mà con người đá ấy đã phải khóc, ắt sự chẳng vừa. Nàng nghĩ đến tấm thân ngọc
ngà đem ra làm mồi thơm cho ong bướm, làm cái cạm để bẫy tiền mà nàng tự mình lại
“ghê tởm” cho cái thân mình. Ôi! Ví dụ Hoàng-Cương yêu ta thì ta chỉ đem
hiến cho người yêu một tấm thân hoa tàn nhụy rữa này, thì nhục nhằn biết là
bao! Nhưng trái tim nóng nó đập thình thịch ở trong ngực nàng hình nlnr nhắc nhở
cho nàng biết: ta đây mới là vật đáng kể, còn những bộ phận khác đều là những
cái bỏ đi; ta đây thì dầu bể dâu biến đổi cũng vẫn trơ như đá, vững như đồng,
chứ những “cái” kia có chống chọi được với thời gian cay nghiệt đâu. Nghĩ đến đấy
nàng lại tự nhủ nàng: “Biết đâu Hoàng-Cương chẳng cũng nghĩ như thế”.
Sáng mai, nàng dậy thật sớm, ra công trang điểm cho thiệt đẹp.
Nàng đã đẹp lại muốn đẹp thêm, đẹp nữa, để cho ai cũng phải để ý đến. Trong cái
rương áo của nàng thôi có thiếu gì mà nàng chọn mãi chẳng được cái nào vừa ý,
sau mãi nàng mới mặc tạm cái áo nhiễu trắng.
Nàng nhìn vào gương đứng thấy hiển hiện ra một cô thiếu nữ lộng
lẫy như ngọc, trắng trẻo như ngà mà nàng tự nghĩ: “Nếu về đất Saigon ta chỉ hô
lên một tiếng, còn biết bao nhiêu kẻ sẵn lòng chết vì ta, nhưng chẳng biết cái
anh chàng họ Hoàng kia có để ý gì đến cái đẹp của ta không?”
Nàng đến phòng ăn, thì còn sớm lắm, chưa ai đến. Nàng bảo bồi
dọn chung, để nàng cùng ngồi ăn điểm tâm một bàn với Hoàng-Cương. Nàng lại
cho thu xếp đồ ăn để nàng đem đi ăn buổi trưa vì nàng định đi chơi đến chiều mới
về.
Nàng ngồi chờ mãi, đến hơn bẩy giờ, Hoàng-Cương mới đến,
tay cầm cái ống nhòm. Nàng liền vồn vã hỏi:
– Sao thầy Hai ngủ trưa dữ thế, đem ống nhòm đi để làm
gì?
– Không, tôi dậy đã lâu, nhưng tưởng cũng như mọi ngày
cô dậy trưa, nên còn ngồi xem sách mãi. (“À thế ra từ trước đến nay, chàng cũng
vẫn để ý đến ta”, nàng nghĩ mà mừng thầm). Hôm nay, tôi định đưa cô lên trên
lăng ở đỉnh núi Phnompakhean, đứng đấy có thể trông thấy rõ Biển-hồ (Lac
Tonlésap) mà nếu dùng ống nhòm thì lại càng tỏ rõ lắm.
Cái xe hòm rộng rãi mà êm ái đã chờ ở cửa. Mọi ngày nàng đi
chơi đâu vẫn cầm lái lấy, nhưng hôm nay nàng thấy tinh thần dường như vơ vẩn,
không chú ý được, sợ có điều bất trắc, bèn sai tài xế cầm lái.
Lúc ra đến xe, Hoàng-Cương vừa định trèo lên ngồi đằng trước
với bác tài thì nàng vội nắm áo mà bảo rằng:
– Thầy Hai ngồi dưới này nói chuyện với tôi cho vui. Một
người như thầy mà còn e lệ những điều tiểu tiết ấy sao?
– Đối với tôi thì có hề gì, nhưng sợ có điều bất
tiện cho cô.
– Bất tiện gì, tôi thân cô, thế cô, một mình trơ trọi ở
trên đời này, thầy tính còn ai để tâm gì đến mình mà hòng…
Nàng vừa nói, vừa để ý nhìn Hoàng-Cương xem chàng có ái ngại
cho thân thế nàng không, nhưng bộ mặt gân guốc già cằn kia vẫn lạnh lùng như
tuyết, nàng thấy thế mà buồn.
Lăng Phnompakhean ở trên một ngọn đồi cao, cách khách sạn độ
gần một cây số. Vụt chốc xe đã đến nơi. Đường lên rất dốc, thật khó đi, nàng vừa
đi, vừa thở hổn hển, lắm lúc giả đò như muốn ngã, xem anh chàng kia có lại gần
đỡ cho nàng không, nhưng anh chàng cứ khom khom rảo bước chẳng để ý gì đến.
Nàng thấy thế mà thất vọng, nhưng lại tự nghĩ: “Ở đời có chí thì nên; dẫu
sự tình ái cũng phải có công phu mới có kết quả được, ta đã vội gì mà nản
lòng.”
Xứ Cao-mên, tuy về đêm mát mẻ, nhưng ban ngày thì nóng bức lắm.
Vì mưa luôn, đất ướt, đường lại trơn, trèo lên rất là vất vả. Bella Như-Nhang
lên đến đỉnh, đã mệt thở không ra hơi, mồ hôi ra ướt đầm cả áo. Nàng phải ngồi
nghỉ ở trên hòn đá “vết chân bụt.” Vết chân bụt này rộng độ hơn một cái nong.
Dưới bàn chân, có trích chữ Cao-mên. Hoàng-Cương chăm chú đọc. Bella
Như-Nhang thấy thế bèn hỏi:
– Thầy Hai cũng biết chữ Cao-mên à?
– Có, tôi làm đồn điền, thường hay giao thiệp với người
Cao-mên, cũng phải biết.
– Sao tôi nghe người ta nói thầy là người buôn hán?
– Có, ngoài vụ lúa thì tôi đi buôn.
– Tôi đi qua Nam-vang (Phnom Penh), Gò-sát (Pursat),
Dũng-Sa-nang (Kampong chhnang) thấy các người buôn bán toàn là ‘các chú’ cả. Thế
thầy giao thiệp với họ, thầy có biết tiếng họ không?
– Tôi cũng có biết, người Bắc-kỳ tôi, lúc nhỏ thường ai cũng
học chữ Hán, nên học tiếng Khách cũng dễ.
– Thầy biết nhiều thứ tiếng cùng thú nhỉ?
– Thú gì? tôi chỉ vì biết lắm thứ tiếng mà suýt nữa mất
mạng đấy.
Hoàng-Cương nói xong biết mình lỡ lời, vội im di, nhưng Bella
Như-Nhang cứ gặng hỏi đầu đuôi mãi, thành thử chàng không muốn nói mà phải nói:
– Đầu đuôi có gì đâu! Một hôm tôi có việc đến nhà một
người bạn ở một xứ đồng rừng kia. Vì mưa không về được, y rủ tôi đến nhà Bang
trưởng đánh mã chược. Cái nghề đánh bạc, cô tính ai lại muốn thua bao giờ, tôi
ngồi đầu cánh trên lão Bang, đánh “đì” dữ lắm. Lão ta không ù được, lão ta tức.
Gia dĩ ‘các chú’ ở xứ này giao thiệp với người ngoài thường hay dùng tiếng
Cao-mên, nên lão ta cũng không biết tôi nói được tiếng Khách. Lão ta nói nhiều
câu thô bỉ lắm, tôi vẫn làm lơ như không biết, nhưng sau lão ta nói đến câu “Ô
nam chay sẩy lắn, (Annam tử khốn nạn) không đừng được, tôi bèn vùng dậy, nắm cổ
lão ta mà hỏi:
– Anh thử đứng với tôi, coi ai nhớn hơn? Sao anh khinh
người thế, anh có biết Nhật-bản nó gọi anh là giống gì không?
Lão ta tưởng tôi đánh lão, kêu cứu ầm ỹ, một lũ đầy tớ lão
xông ra đánh tôi. Cùng thì phải tính, tôi liền thuận chân đạp lão ta ngã chúi
xuống và nhấc cái ghế ngồi, đánh lung tung. Nhưng “mãnh hổ bất như quần hồ” tôi
vừa đánh, vừa đỡ, vừa lùi. Lùi ra đến cửa, cửa khóa! đã tưởng mình phải chết
thì vừa may, mấy đứa đầy tớ Cao-mên đi theo tôi ở nhà bên cạnh, thấy tiếng ồn
ào, liền chạy sang phá cửa, xông vào cứu được tôi ra. Từ đấy, tôi thề không học
thêm một thứ tiếng nào nữa.
Bella Như-Nhang nghe chàng kể chuyện đến chỗ nguy hiểm, lòng
nàng bồn chồn lo sợ thay cho chàng tưởng chừng như nàng đang mục kích tấn kịch
kia vậy. Lúc chàng nói dứt, nàng mới hỏi:
– Thế thầy có bị vít (thương tích) nào không?
– Có, cái sẹo ở trên đầu này là một cái tang chứng nguy
hiểm cho những người biết lắm thứ tiếng đây.
Hoàng-Cương hồi tưởng đến việc ấy cũng tủm tỉm cười, nhưng
Bella Như-Nhang thì mặt có vẻ ái ngại, rồi bỗng nhiên nàng đứng dậy, chạy lại,
chẳng nói năng gì, lật mũ chàng ra xem. Thấy cái sẹo to tướng nó rành rành ra
đó, nàng rươm rướm nước mắt, rồi nàng lấy tay vuốt mái tóc chàng. Lúc bấy giờ
nàng mới biết sự lạc thú của cái khóc, nàng thấy trong mình khoan khoái như một
người mẹ vuốt mái tóc đứa con cưng bị ngã, mà lại có vẻ mặn nồng hơn: như một
người yêu vuốt mái tóc của người yêu vậy.
Hoàng-Cương thấy nàng cử chỉ sỗ sàng thế, có vẻ bất bình.
Chàng có biết đâu cách cử chỉ mà bề ngoài chàng cho là sỗ sàng ấy có ẩn một mối
tình yêu vô hạn ở trong.
Bella Như-Nhang dường như biết ý bèn nói chữa:
– Tôi vừa muốn học tiếng Cao-mên, nhưng ngày nay tôi
cũng theo thầy mà không học một thứ tiếng gì nữa. Thầy bảo đứng đây trông thấy
Biển-hồ, nào có thấy đâu?
– Muốn thấy thì phải trèo lên gác sân ở đỉnh lăng kia
chứ.
Rồi chàng đưa nàng vào trong lăng.
Lăng này ở đỉnh núi, cao lắm. Nhà Viễn-đông Bác-cổ có làm một
cái thang sắt để trèo lên sàn gác. Thành thang nhỏ rất khó đi. Bella Như-Nhang
vốn người nhanh nhẹn bạo dạn, xưa nay chẳng biết sợ là gì, nhưng nàng muốn đem
nhốt Hoàng-Cương vào trong lưới tình, bèn dùng những bí quyết mà xưa nay nàng
đã làm cho chìm đắm bao nhiêu nam tử, nàng làm ra bộ sợ sệt mà rằng:
– Trời ơi! thang cao thế này, bực nhỏ thế này, tôi trèo
làm sao được? Nhưng đã lặn lội lên tới đây, mà không được coi những cảnh đẹp ấy
chẳng cũng là uổng lắm sao?
Cái “tiếc”, cái “muốn” của phụ nữ chẳng là đã làm nghiêng đổ
bao nhiêu cơ đồ!!!
– Được, cô bỏ giày ra, cứ mạnh bạo trèo lên, tôi đỡ.
Nàng trèo lên trước, chàng trèo lên sau, thỉnh thoảng lại lấy
tay đỡ chân nàng. Đến lưng chừng, Bella Như-Nhang lại giả đò run sợ, không trèo
nữa khiến Hoàng-Cương phải tiến lên mấy bực, lấy tay choàng vào lưng nàng, nâng
lên. Bella Như-Nhang thấy một nguồn sinh thú lạ thường ở bàn tay kia nó
chạy vào mình nàng, nhưng lên gần đến nơi, nàng nghiệm ra rằng cái bàn tay sắt
kia không phải là bàn tay thịt, nó không có cái vẻ rún rẩy ấm áp của ái tình.
Nàng thấy thế mà đau điếng người đi, chân không buồn bước nữa, nàng chỉ cầu thầm
cho bực thang gẫy ngay xuống, cho được cùng chết với người yêu. Nhưng sự thực
là đó ; cái bàn tay sắt nó cứ bám chặt lấy mình nàng mà đưa lên như một pho tượng
vậy.
Lên đến đỉnh lăng, nàng buồn bã chẳng thiết gì nhìn cảnh vật
nữa, nên khi Hoàng-Cương đưa cái ống nhòm cho nàng, nàng nói:
– Thầy hãy xem trước đi, tôi còn mệt hoa cả mắt.
Hoàng-Cương liền ra tựa vào lan can lấy ống nhòm nhìn…ngắm…
Nàng thấy chàng đứng lắt la lắt léo ở lưng chừng trời, những
muốn chạy lai du cho chàng ngã xuống. Nhưng nghĩ đến đấy, nàng lại thấy đau đớn
lạ thường tưởng chừng như cái chết của con người đứng kia tức là cái chết của
mình vậy. Nàng lại muốn chạy lại ôm lấy Hoàng-Cương bế vào lòng mà hỏi:
– Pho tượng sành! pho tượng sành! lòng ngươi sắt đá chi
chi mà không biết ta yêu, ta quý ngươi?
“Pho tượng sành” vẫn đứng sừng sững. Chán thay!
Trên từng mây trắng xanh, con “rồng lửa” phun nhiệt khí bức bối
ra vũ trụ.
Cây cối núi non uể oải như ngây ngất ở trong lò.
Bella Như-Nhang thấy lòng mình ngây ngất hơn cảnh vật. Nàng
thấy một cái “khó” nó nổi lên ở trong đời nàng. Cái khó ấy là sự chiến đấu với
thời gian để giật lấy “quả tim vàng” nó ẩn ở trong cái “ngực sắt” của con người
đứng trước mặt.
Hoàng-Cương cứ điềm tĩnh đứng nhìn phong cảnh, một “thế giới
cảm giác” nó sôi nổi ở chung quanh chàng, chàng có biết đâu.
Biết những cái “khó” đã là một sự khó. Nhưng “biết rằng khó”
tức là cái nguồn nó sinh ra những sức mạnh để làm được những việc khó vậy. Mà ở
đời này có khó mới quý, chứ những “cái” ta chỉ dang tay ra là được thì đối với
ta chẳng thiết tha quý báu gì.
Bella Như-Nhang nghĩ như thế lòng thấy phấn khởi. Nàng liền
chạy lại gần Hoàng-Cương, nghển chân lên, áp má vào má chàng, như muốn nhìn
chung cái ống nhòm với chàng. Nàng thấy má bên trái nóng như lửa đốt, thân thể
âm ỷ như than vùi. Nhưng dù có phải cháy thiêu đi, nàng cũng mong được
như thế mãi mãi. Khá tiếc thay, Hoàng-Cương lại vội nhường cái ống nhòm
cho nàng, đứng né ra một bên lấy tay chỉ trỏ mà bảo nàng:
– Kìa, cô Ba trông, Biển-hồ như một tấm thảm bạc trải
bên đồng cỏ xanh rì. Kia nhà cửa tỉnh Siemreap như trăm nghìn đứa bé tí hon mặc
áo trắng, áo đỏ ngẩng đầu lên nhìn chúng ta. Kìa, những di tích lâu đài
nho nhỏ lố nhố như những thằng lùn nó vây bọc lấy hai anh khổng lồ là chùa
Angkor Wat và điện Angkor Thom. Kia cung ông Vua Cùi (Ruines du roi lépreux).
Kìa hồ đông Barai, kìa hồ tây Barai, kìa núi Phnom Koulen mà người ta lấy đá để
xây những lâu đài thành quách này. Kìa, núi Dangrek uốn éo như một cánh
cung, hai đầu ở Xiêm mà thân cung thì ở Cao-mên. Kìa cô trông bãi tầu hay là chỗ
để cho khách năm châu rẽ mây mà đến, cưỡi gió mà về… cô trông: nước mây man
mác, rừng núi bao la…
Khốn nạn, những phong cảnh đẹp đẽ như thế, nào nàng có thấy
gì đâu. Nàng chỉ thấy trong ống kính trắng trắng xanh xanh, mờ mờ, tối tối.
Nàng đã để hết thần trí nghe chàng nói. Nàng xét ra những tiếng nói kia nó cứ từ
từ mà gieo xuống, lạnh lùng như hạt sương sa, chẳng có vẻ gì là sốt sắng đằm thắm,
có lẽ chàng chỉ muốn vì cảnh vật mà phô bày vẻ đẹp, chứ chẳng có vị gì nàng.
Nghĩ đến đấy thì thấy hình như có vật gì nó chẹn lấy họng, thở không được, nàng
liền đưa trả cái ống nhòm mà bảo:
– Tôi xem chán rồi, thôi ta đi chỗ khác.
Lúc xuống thang, nàng đã chán nản, chẳng còn muốn cho
Hoàng-Cương đỡ nàng nữa, nhưng Hoàng-Cương cứ tưởng rằng nàng có tính nhát, liền
xuống trước giơ tay đỡ lấy chân nàng.
Độc địa thay ông giời già, ông thường hay chơi khăm như thế.
Lúc mà ta tưởng: “Thôi đến đây là hết” thì chính là lúc ta thấy những sức mạnh,
vô hình, “nó làm cho ta không tự chủ được” lại cuốn cuộn ta đi.
Thang thì hẹp, chỉ vừa một người trèo, mà lại giốc ngược, nên
phải xuống giật lùi. Bella Như-Nhang đã ngao ngán, thất vọng, tưởng chừng như
cuộc tình duyên đến lúc này là kết liễu, là đoạn tuyệt, mà chính nàng, nàng
cũng chẳng còn thiết gì nữa, nàng chỉ cầu cho chóng được xa con người “độc ác”
kia thôi. Nhưng khi cái bàn tay sắt kia nắm vào cổ chân nàng, thì ngọn lửa lòng
đã sắp tắt như lại bùng lên, nàng muốn xuống thật lâu để kéo dài cái “phút hạnh
phúc” ấy ra vậy.
Ở đời, cuộc rượu vui đến đâu cũng có lúc tan, cuộc cờ đánh
mãi rồi cũng tàn, thì xuống mươi lăm bực thang kia chẳng phải là “một thế kỷ”
mà một thế kỷ trong con mắt bọn khách tình, cũng còn là ngắn ngủi lắm!
Lúc xuống núi, tuy dễ hơn lúc lên, nhưng vì đường dốc lại
trơn, người đi như muốn bổ nhào ra.
Hoàng-Cương liền đưa cái ba-toong đầu bịt sắt cho nàng chống,
nhưng nàng lại muốn được hơn nữa….
– Thầy Hai ơi, đường trơn dữ quá, thầy cho tôi vịn vai, không
thì té chết.
Chàng chưa kịp giả nhời thì nàng đã dang tay nắm chặt lấy vai
chàng. Nàng dựa mình vào chàng, hai mắt lim dim, một luồng điện bí mật như đã
thu hết sự sinh hoạt của nàng. Chân nàng chẳng buồn bước, chỉ theo cái nhịp
chân của người bên cạnh mà bước thôi….
Anh tài xế đứng ở dưới chân núi trông lên thấy cái tình cảnh ấy
cũng lấy làm lạ mà tự hỏi:
“Chủ mình xưa nay đối với bọn đàn ông, coi như có rác mà sao
đối với nhà thầy này lại ra vẻ quý yêu thế kia”.
Hoàng-Cương lại đưa nàng đi xem điện Angkor Thom, có cái giếng
nhỏ chỉ bằng cái nia mà sâu vô kể, ném hòn đá xuống lắng tai nghe mãi mới thấy
tiếng động.
Đến cung ông Vua Cùi (Ruines du roi lépreux) thấy ngổn ngang
những cung điện đã đổ nát, mà có lắm tòa sụt xuống, đất phủ lấp cả. Nhà Viễn-đông
Bác-cổ bây giờ mới đang cho người đào lên và sửa sang lại.
Lúc ấy đã hơn muời một giờ trưa, nàng thấy đói, bảo chàng nghỉ
để ăn cơm. Chàng bèn nói:
– Tôi biết một chỗ ngồi ăn mát lắm mà thú lắm, chúng ta
chờ đến đấy sẽ ăn.
Nhà Viễn-đông Bác-cổ có đắp hai con đường vòng chung quanh Đế-Thiên
Đế-Thích. Nếu đi khắp hai con đường ấy, có thể thiệp liệp xem hết các nơi được.
Di tích Đế-Thiên Đế-Thích rải rác hàng bao nhiêu nơi, chứ có phải chi chùa
Angkor Wat và điện Angkor Thom mà thôi đâu. Con đường Vòng Nhớn (grand circuit)
thì dài độ 10 cây số, con đường Vòng Nhỏ (petit circuit) dài độ 6 cây số. Hai
con đường ấy thông với nhau mà chỗ cung điện Vua Cùi cạnh Angkor Thom chính là
chỗ hợp lại của hai con đường ấy.
Xe hơi rẽ sang con đường vòng nhớn, qua nhiều nơi di tích, rồi
đến một chỗ mà người Cao-mên gọi là cái “bể tắm của bà Hoàng hậu”.
Bể này vuông độ một mẫu đất xây từng ngăn như hình chữ điền . Ở giữa là nhà thủy tọa nhỏ, có
cây. Bốn ô ấy, nước thông ra tháo vào được mà những cái ống thông nước lại là
những con voi đá xây rất tỉ mỉ ở dưới thành ngăn. Tháng Giêng, tháng hai thì bể
cạn khô, nhưng lúc này vì mưa luôn bể đầy ắp.
Hoàng-Cương đưa Bella Như-Nhang vào nhà thủy tọa, nàng liền bảo
tài xế đem thức ăn lại. Nàng lấy cái khăn ăn nhỏ trải ra mặt đất, bầy biện các
thức ăn. Trông cái cách nàng cắt bánh, trông cái tay nàng xé thịt, cùng một
trăm cách cử chỉ khác rất thường mà ngọn bút không thể tả ra được, ta có thể
đoán: Nếu nàng muốn – thì nàng sẽ là một tay nội trợ rất khéo léo, đáng
yêu, vì nàng đã sẵn có lịch duyệt và có biệt tài về khoa trị gia.
Nàng tuy đói mà không ăn được mấy, chỉ những nhìn Hoàng-Cương
ăn mà no. Nàng ước gì được tự tay cầm bánh, thịt mà bón cho chàng như một người
mẹ cho con ăn.
Nàng tưởng tượng thế mà trong mình sung sướng lạ thường.
Hôm ấy nàng có đem theo một chai rượu chát. Hoàng-Cương
uống vài cốc thấy trong người vui vẻ, chàng trỏ tay vào bể mà bảo nàng:
– Người Cao-mên nói chuyện với tôi rằng cái bể này
nguyên trước kia có một ông vua vì yêu Hoàng hậu mà xây đắp ra để khi trời nóng
nực, Hoàng hậu ra đấy tắm táp. (Nàng nghe chàng nói mà ước gì chàng cũng đem
cái lòng vua yêu Hoàng hậu mà yêu nàng). Kể cách chơi ấy thì đế vương thực,
nhưng ngày nay…
Chàng nói đến đấy thì nàng bèn lấy cái cảm tưởng của nàng lúc
bấy giờ mà nói tiếp:
– …ngày nay nó là cái gương thiên cổ chỉ rõ cho ta biết
rằng cuộc vinh hoa phú quý ở trên đời chẳng qua như một giấc mộng hoàng lương,
trăm năm còn có gì đâu? Có còn thì là còn tấm lòng vua yêu Hoàng hậu, cùng là tấm
lòng Hoàng hậu yêu vua mà thôi.
Nói đến đoạn dưới, nàng dằn từng tiếng mà đôi mắt phượng thì
nhìn Hoàng-Cương một cách rất tình tứ như muốn tỏ cho biết nỗi lòng.
Nhưng những hạng người như Hoàng-Cương nào có hiểu một chút
gì đâu!
Những hạng ấy là những hạng người rất đáng thương; lúc bé đã
sớm mất một người mẹ là người đã lấy cái tình mẫu tử rất ấm áp để khêu gợi lên
nguồn cảm giác rất êm đềm nó còn ẩn hình náu bóng trong lòng ta. Cập đến lúc mới
lớn lên, liền đã phải lăn lưng ra dành giật với đời; vì sớm trải mùi đời đen bạc,
sớm nếm cái thế vị chua cay, lòng dạ thành ra khô khan, cháy xém như một bãi sa
mạc, mà một trận mưa xuân lác đác không thể làm cho nẩy nở ra những đồng cỏ
xanh rì được.
Chàng nghe nàng nói, nghe cái giọng nói rất thấm thía của
nàng mà chàng vẫn thản nhiên, chẳng hề động tâm.
Khốn nạn thay, những con voi đá nó lập lờ ở dưới đáy nước
trong veo kia trông thấy vẻ mặt rầu rĩ của nàng lúc bấy giờ cũng dường như cảm
động, huống hồ là người!
Mà có lẽ Hoàng-Cương là những hạng người lòng gan dạ sắt xưa
nay chưa hề quan tâm đến sự buồn rầu đau đớn của mình nên không thấu những nỗi
buồn rầu đau đớn của kẻ khác: có lẽ, chàng chỉ mải nghĩ đến sự lập thân, lập
nghiệp chứ chẳng hề bao giờ nghĩ đến sự “yêu đương”. Mà đã không nghĩ đến nó,
thì còn biết làm sao được các trạng thái cùng các triệu chứng của nó.
Ôi! đáng tiếc thay! Đáng tiếc thay!
Trời mùa hạ ở xứ Cao-mên như thiêu như đốt, người và vật như
nung nấu trong lò.
Những đàn khỉ khát nước chạy ra ở uống ở chung quanh bể. (Ở đấy
có lệ cấm bắn các giống cầm thú nên chúng dạn người lắm).
Bella Như-Nhang lấy thịt và bánh còn thừa ném cho chúng. Trước
chúng còn sợ hãi chạy tán loạn, sau rồi đổ xô cả lại, tranh nhau, cắn nhau,
dành giật nhau…
Nàng bèn trỏ tay vào đàn khỉ mà bảo Hoàng-Cương rằng:
– Đấy, thầy Hai coi, người ta cũng như đàn khỉ kia, cấu
xé nhau, chém giết nhau cũng chỉ vì miếng ăn, lúc tỉnh ngộ ra thì đã muộn rồi,
ngán thay!
– Tuy thế thì dã man thật, nhưng không thế thì không được,
ngôi bá chủ ở trong vũ đài chẳng là chỉ để dành riêng cho những kẻ nhanh chân
nhẹ bước sao?
Lúc ăn cơm xong, Hoàng-Cương thấy trong mình nóng bức lạ thường,
bèn bảo nàng:
– Cô cứ ra xe trước chờ tôi, tôi tắm cho mát một chút rồi
sẽ ra sau, chứ không nóng bức không chịu nổi.
Vô lễ thay, bất nhã thay!
Nhưng xét cho kỹ ra thì những người vô tình như Hoàng-Cương họ
không có phân biệt nam nữ mà chàng coi Bella Như-Nhang cũng như một người bạn
trai mà thôi. Nói rằng chàng là kẻ vô giáo dục thì cũng khí quá, nhưng nói rằng
chàng thiếu cái “xã giao giáo dục” thì cũng không phải là oan. Một người như thế,
không có thể là một kẻ vô giáo dục, nhưng đối với đàn bà mà sỗ sàng như thế thì
cũng không tránh khỏi cái tội vô lễ. Có lẽ từ trước đến nay con quái vật “doanh
nghiệp” nó đã nuốt hết thời giờ của chàng không còn để cho phút nào nhàn rỗi mà
trau dồi lấy phép lịch sự của “xã hội giao tế”
Đối với những hạng ấy thì người cũng như mình, nói là nói,
làm là làm, không có sự gì khuất khúc, là biết thớ lợ cả. Kể thì cũng đáng ghét
thay mà cũng đáng yêu thay.
Bella Như-Nhang nghe chàng nói thế, chẳng những không giận mà
lạ thay, nàng lấy thế làm lo. Ấy thường tình con người ta vẫn thế, ghét nhau
thì những cái lỗi bé bằng con muỗi cũng thành ra to như núi, mà đã yêu nhau thì
những cái tội to như núi, cũng không trông thấy nữa. Nàng thấy chàng, mồ hôi nhễ
nhại lại say rượu, những muốn can không cho tắm, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chỉ lo
thầm trong lòng mà chẳng dám nói ra.
Khi Hoàng-Cương tắm xong trở ra, lại đưa nàng đến xem một
cung điện, xưa kia chắc là to tát lắm, nhưng nay đã đổ nát hết cả.
Đường đi vào thật dài thật rộng, hai bên hè mỗi bên có đến
năm mươi pho tượng đá to bằng ông Hộ-pháp, tay đều ôm mình một con rắn chín đầu,
dài dằng dặc.
Bella Như-Nhang trỏ vào những bức tượng ấy mà hỏi:
– Sao bên này thì ngó ông nào ông nấy mặt mũi tươi tốt
quá, mà bên kia thì đều như mếu cả?
– Ấy, một bên tượng khóc, một bên tượng cười đấy, đại để
cũng là những truyện ly kỳ không thể tin được như những truyện nhịn ăn mà mặc,
nhịn mặc mà ăn ở chùa chiền ta vậy.
Rồi chàng trông những pho tượng khóc, mỉm cười mà hỏi đùa:
– Sao ông lại khóc thế hở ông?
Nàng nghe chàng hỏi mà tự nghĩ:“còn một người khóc thầm trong
bụng đứng ngay bên cạnh chàng, chàng có biết đâu”.
Hai người còn đi xem xét mấy nơi cổ tích nữa những, đến gần
chiều, thì Hoàng-Cương thấy trong mình khó ở, đầu choáng váng, chân tay nặng nề
chẳng buồn bước nữa. Bella Như-Nhang thấy chàng hai má đỏ gay, mắt lờ đờ bèn bảo:
Tôi coi bộ thầy Hai mệt lắm, thôi ta về nghỉ, mai sẽ đi nữa.
9 giờ đêm, chuông báo hiệu ăn đã nổi, trong phòng ăn, khách
đã đến đủ. Bella Như-Nhang ngồi chờ mãi mà chẳng thấy Hoàng-Cương đến, bèn sai
bồi đi gọi. Một lúc lâu người bồi lại bảo rằng:
– Thầy ấy nóng sốt dữ lắm, nằm ngủ li bì, tôi hỏi mãi mới
tỉnh. Thầy ấy nói không muốn ăn cơm.
Nàng thoạt nghe biến sắc, chẳng nề hà gì, vội chạy xuống
phòng ngủ hỏi thăm.
Xét tâm lý những kẻ chung tình thì đại phàm, những đàn bà
bình nhật, dù nhút nhát đến đâu, đến khi yêu cũng trở nên bạo dạn mà coi thường
những điều tiểu tiết. Còn như bọn nam tử dù bình nhật thì mạnh bạo biết bao,
cái khí tượng anh hùng tưởng chừng như vào rừng bắt cọp cũng không màng, thế mà
khi đứng trước mặt người yêu để tỏ bày tâm sự cũng đều run như cái dẽ mà những
tay xưa nay biện thuyết giỏi như Tô, Trương [6] cũng đều ấp úng như cậu
học trò nhỏ không thuộc bài đứng trước mặt thầy giáo vậy. Lạ thay, những cái hiện
tượng trái ngược, huyền bí có chăng chỉ ông Thần Ái tình mới có thể giảng cho
ta hiểu được mà thôi.
Bella Như-Nhang vào đến phòng thấy Hoàng-Cương nằm mê mệt
ở trên giường, sờ đến trán, nóng như lửa đốt. Nàng bèn bảo người quản lý nhà
khách sạn gọi giây nói về Siem Reap mời thầy thuốc.
Tỉnh Siem Reap cách Angkor-les-Ruines có sáu cây số, nên một
giờ sau một vị y sĩ đến. Xem bệnh xong, ông nói:
– Thầy ấy cảm cũng nhẹ thôi. Nếu điều dưỡng thì vài
ngày có thế khỏi được, nhưng tối nay thế nào cũng lên cơn sốt dữ lắm, vậy cô phải
ở đây trông nom cho thấy ấy luôn, nếu có mỏi mệt, phải gọi người khác thay. (Y
sĩ cứ tưởng nàng là vợ người bệnh nằm đấy). Lát nữa tôi cho người đem thuốc đến,
cứ hai giờ lại đổ cho thầy ấy một thìa.
Hoàng-Cương một là vì đang lúc say rượu mà tắm, hai là trong
lòng nhiều mối ưu tư nên thụ bệnh. Chàng nóng sốt cả đêm, lúc mê lúc tỉnh: đến
nửa đêm lại thổ, dơ bẩn bắn đầy vào mình Bella, nàng chẳng lấy thế làm gớm.
Nàng thức suốt đêm mà chẳng biết mỏi mệt là gì. Ngày nay nàng mới biết đến sự lạc
thú: săn sóc cho một người. Nàng chỉ cầu cho bệnh nhân cứ ốm mãi thế để nàng cứ
được ngồi ở đầu giường này mà trông coi cho chàng mãi, dẫu chẳng được chàng
thương yêu đến, nhưng thế cũng là quá đủ rồi.
Yêu để mà yêu, thương để mà thương mới là tuyệt đích của ái
tình. Đó mới là cái biểu hiện của tấm lòng Đức Phật thương chúng sinh, Đức
Thiên Chúa yêu con chiên. Còn yêu để cầu người yêu trả, thương để cầu người
thương lại, chẳng là còn thấp kém lắm sao, chẳng là một việc cầu “lợi” cho mình
sao? Nếu đã vì “lợi” mà có, thì cũng có lúc vì “lợi” mà tan. Nhưng ở buổi đời
này, tìm đâu cho thấy được hai người có được quả tim như Bella Như-Nhang. Chẳng
biết kẻ bệnh nhân rền rĩ ở trên giường kia có biết hay không. Nhưng biết ra thì
càng hay, mà chẳng biết ra thì cũng thôi. Nàng chỉ biết mình yêu chàng chứ có
biết tại làm sao mà yêu chàng đây. Tấm lòng yêu nó biểu hiện ra tựa như gió
mát, trăng trong thì còn cần gì phải hỏi nó tự đâu mà lại. Mà có một tấm lòng
yêu như thế, chẳng cũng là đầy đủ sự thần tiên lạc thú rồi sao? Mà dù kẻ nằm
kia sau này mà chẳng yêu nàng nữa, thì nàng có vì lẽ đó mà dứt lòng yêu chàng
được chăng?
Biết bao kẻ nói rằng yêu người yêu mà còn muốn dò xét về quá
khứ, toan tính về tương lai, như thế sao gọi là yêu được. Yêu là hiện tại, nhìn
vào nó mà tin về quá khứ, dựa vào nó mà vững lòng về tương lai. “Một túp lều một
tấm lòng” không phải là chỗ thấy biết của loài người máu thịt, mà ta có thể nói
rằng Bella Như-Nhang lúc này không phải là người của cõi trần này vậy.
Nàng ngồi nhìn bệnh nhân rền rĩ ở trên giường, tâm can nàng
hình như cũng rền rĩ với bệnh nhân. Nàng trông trên bàn thấy một phong thư còn
bỏ ngỏ. Nàng cầm lấy, xem gửi cho ai thì chưa đề chỗ ở, (có lẽ bệnh nhân lúc viết
xong thư thì vì cơn sốt nó đến mà chưa kịp đề). Nàng lại đặt xuống, đã định
không xem, nhưng bức thư bí mật – những thư chưa đề chỗ ở đều bí mật cả – nó cứ
nằm lì lì trên bàn như một hòn đá nam châm hút hết thần trí của nàng vào. Địa
điểm? Nếu cái thư kia mà có đề địa điểm rồi, thì có lẽ cũng làm cho nàng khỏi
phải mang một mối ngờ trong lòng mà tránh được cái xấu: xem thư trộm.
Một phút nghi ngờ nhưng ta có thể nói là một thế kỷ bởi vì
trong một cái thời khắc rất ngắn như thế, bao nhiêu là tư tưởng nó đã chớp
nhoáng đảo thoáng qua óc mà làm cho lòng phải sôi nổi: Vui đấy, buồn đấy, thất
vọng đấy lại có hy vọng ngay đấy. Những cảm giác ấy cứ theo làn tư tưởng mà
thay đổi, mà cuộc vấn đáp thầm trong trí nàng nó là những cái khuôn đúc nên những
cảm giác ấy.
“Chàng sở dĩ lãnh đạm cùng ta, là vì chàng có vợ rồi? – Không
những người làm công ở khách sạn này quen biết chàng đã lâu, đều nói rằng chàng
chưa có vợ con gì.
“Hay là chàng đã yêu ai mà thơ kia là thơ viết cho người yêu
của chàng? – Không có một tang chứng gì chứng thực rằng chàng đã có “người yêu”
rồi, ta xét cách cử chỉ, ngôn ngữ chàng cũng đủ biết.
“Hay ta xét nhầm? – Không, ta xưa nay xét người tinh lắm,
không có thể nhầm được.
Hay là…?”
Còn bao nhiêu cái “Hay là” nó nổi lên ở trong trí tưởng tượng
của nàng rồi bị bao nhiêu là cái “Không, Không” nó làm cho tiêu tán ngay đi.
Nhưng rút cục lại, phong thư bí mật nằm kia vẫn là một vấn đề mà cuộc “vấn đáp
ngầm” kia không giải quyết được, rồi một cái sức mạnh vô hình bắt nàng phải lấy
mà xem.
Siem Reap Angkor, ngày 13 Août 1930
Kính trình luật sư Tromeur,
Mấy hôm nay, tôi đã nghĩ kỹ rồi. Nếu ông Mohamed Chettyar thuận
mua cái đồn điền của tôi 25,000$ thì xin ông nhận lời bán đi mà trang trải công
nợ cho tôi. Phải, tôi cũng nghĩ như ông, người ta ở đời quý nhất là danh dự.
Danh dự trong sạch có thể làm ra đồng tiền, chứ đồng tiền không có thể làm ra
được danh dự trong sạch.
Kính chúc vạn an,
HOÀNG CƯƠNG
Nàng đọc xong bức thơ ngoảnh nhìn kẻ viết thơ kia đang quằn
quại trên giường bệnh mà tấm lòng yêu quý lại theo tấm lòng kính phục mà tăng
lên – ta có thể nói rằng không có sự kính phục thì không có ái tình bao giờ.
Đêm đã khuya, khí trời lạnh lẽo. Nàng rón rén lại bên giường
định lấy chăn đắp lên mình cho Hoàng-Cương. Chăn lại ở phía trong đầu giường,
nàng phải giơ tay qua mình chàng mới với được. Trông thấy bộ mặt khẳng khái kia
dẫu ông thần bệnh cũng không làm giảm vẻ nam nhi được, nàng động lòng ái mộ bất
giác sẽ đặt làn môi son lên trên trán…Bệnh nhân vẫn mê man chẳng biết gì, nhưng
cái hôn – mà ta có thể cho là cái “hôn trộm” kia – thì dẫu đến chết nàng cũng
chẳng quên được.
Sáng hôm sau, Hoàng-Cương đã tỉnh, lúc mở mắt ra đã thấy
Bella Như-Nhang ngồi đấy mà người bồi thì đang quét dọn. Chàng nói:
– Kìa cô Ba, sang thăm tôi lúc nào mà tôi không hay,
tôi sốt quá, cứ nằm lì ra, chẳng biết gì, thật vô lễ quá.
Anh bồi ton hót:
– Suốt đêm hôm qua, cô Ba thức săn sóc cho thấy, vì thầy
sốt mê man nên chẳng biết, chứ có phải mới đến đâu.
Bella Như-Nhang ngồi im, mặt đỏ gay. Hoàng-Cương bèn ngỏ lời
cảm ơn nhưng một cách “cám ơn” điềm đạm của con người biết ơn, của một người bạn
thân chứ không phải cái “cám ơn” rất nồng nàn, rất thấm thía của kẻ tình chung.
Nàng nghe mà ngao ngán, bèn nói:
– Thầy nói quá lời chi vậy. Thầy chẳng nề khó nhọc mà
đưa tôi đi xem chốn này chốn khác thì trong lúc ốm đau, thầy không có người nhà
ở đây, tôi trông nom cho thầy là việc bổn phận, có gì mà ơn với huệ.
Hoàng-Cương thấy đói, bèn đòi ăn. Nàng sai bồi pha một cốc sữa
bưng lên. Chàng còn run lẩy bẩy ngồi chưa vững, nàng bèn đứng dậy lấy gối xếp ở
sau lưng cho chàng dựa. Uống hết cốc sữa, trong người đã thấy tỉnh táo, chàng
bèn nói:
– Tôi tiếc vì mệt mà hôm nay không đưa cô đi xem núi
Koulen và Biển-hồ được. Ở vùng này còn nhiều cảnh đẹp lắm. Năm nào tôi
cũng đến đây xem mà không biết chán. Chốn này cũng dạy ta được lắm bài học hay.
Người nào giầu sang, kiêu căng đến đây, trông thấy những thành quách lâu đài
kiên cố thế kia mà còn phải đổ nát thì phỏng sự giầu sang đã chắc chắn gì? Cứ
nghĩ thế mà lòng kiêu căng cũng dẹp bớt đi. Kẻ thất vọng đến đây thấy những đống
đá kia, dẫu trải bao phen mưa gió mà vẫn cứ trơ trơ ra đó thì lòng cũng thấy bớt
buồn rầu mà phấn khởi lên.
Nàng nghe chàng nói mà muốn hỏi lại chàng:
– “Còn kẻ này xưa nay rất khinh bỉ ái tình mà đến đây cũng phải
đem lòng yêu chàng, chàng có biết chăng?”
Nghĩ bụng thế mà thẹn thùng chẳng dám nói ra.
Hoàng-Cương lại nói:
– Tôi rất tiếc chưa đưa cô đi xem hai cái hồ nhân tạo là Đông
Barai (Lac Barai oriental) cùng Tây Barai (Lac Barai occidental). Hồ bên Đông
thì rộng bằng hồ Lãng-bạc ngoài Bắc-kỳ của tôi, còn hồ phía Tây thì rộng hơn
nhưng bây giờ đất xô xuống gần lấp hết. Nghĩ cho kỹ ra, nếu con người mà cứ ru
rú ở nhà chẳng đi đến đâu thì cảnh đời chẳng qua cũng như cảnh đời nhà nông, mà
người đòi, tôi tính cũng như bác thợ cầy kia, buổi sáng cứ cắm cúi, nào bừa,
nào cuốc, một vũ trụ bao la đẹp đẽ chung quanh mình chẳng nhìn gì đến!
Bella Như-Nhang nghe chàng nói mà chẳng có ý gì muốn đi xem
những phong cảnh chàng đã kể. Cái vũ trụ của nàng chẳng là người ngồi trước mặt
đấy sao, lọ là còn phải đi tìm ở đâu?
Nàng nghĩ đến bức thơ nàng đã xem trộm, nàng nghĩ đến cảnh éo
le của chàng, bỗng phát khởi lên tấm lòng bác ái, nàng muốn cho cái vũ trụ của
nàng tươi tốt mà trổ ra bông thơm cỏ lạ, không muốn cho nó phải rầu rĩ với tang
thương, bèn nói:
– Tôi coi bộ thấy mấy hôm nay lo nghĩ một việc gì có phải
không? Đã chẳng biết nhau thì thôi chứ nếu biết nhau rồi thì cái bổn phận là phải
giúp nhau. Hoặc giả thầy có cần tiền…
Nàng nói đến đây, Hoàng-Cương vội gạt đi mà rằng:
– Không, tôi có lo việc gì đâu. Làm thân con người ta, thì việc
suy nghĩ là việc thường ngày, hà cố phải lo, mà có lo thì cũng tự mình lo lấy.
Tuy cô có bụng tử tế mà nói thế, nhưng tôi xét làm thân nam tử mà phải hệ lụy đến
ai, kẻ trí giả rất lấy thế làm nhục. Tôi tuy chẳng ra gì, nhưng tự xưa nay vẫn
cố giữ cho mình được thanh thản không phải hàm ân ai. Tiền bạc dẫu nợ nhiều đến
đâu, nếu có chí, cũng có ngày trả xong, chứ tôi thiết tưởng một cái ân thì trả
biết kiếp nào cho hết. Đã biết là trả không hết thì đừng vướng vào là hơn. Tôi
là người buôn bán xưa nay vay mượn người ta cũng nhiều, nhưng những kẻ cho tôi
vay cũng là vì lợi, thì không có ân. Tôi đã là người thì đối với tấm lòng quý
hóa của cô sao tôi lại không biết cảm khích, vậy tôi xin đa tạ. Còn tiền thì
tôi không dám vay, cũng chẳng cần dùng gì mà vay. Những lời tôi nói với cô đây
là lấy cái tình thực mà nói, cô đừng phiền nhé.
Nàng thấy chàng nói thế không dám ép nữa, nhưng biết bao nỗi
âu sầu, bi ai nó âm ỷ ở trong lòng.
Thuốc sẵn, thầy hay, mà lại có một nữ khán hộ trông nom cho
chu đáo như thế, dẫu bệnh gì cũng phải khỏi mà cũng chóng khỏi.
Bốn hôm sau, Hoàng-Cương đã thiệt mạnh, chàng bèn lại buồng
Bella Như-Nhang để từ giã vì mai có việc phải về nhà. Lúc mới bước chân đến cửa
buồng, nghe có tiếng đàn cầm thánh thót ở trong. Chàng dẫu từ xưa đến nay chẳng
có thời giờ nào mà học những món tiêu khiển thanh tao ấy, nhưng thấy tiếng đàn
nó não nùng ai oán cũng phải đứng lại nghe.
Tiếng vàng xen tiếng sắt, réo rắt thanh tao như đưa người vào
cõi thần tiên mê mộng…Tiếng tơ pha tiếng trúc, rền rĩ nỉ non như đưa người vào
chốn sầu thành chất ngất. Nếu kẻ biết nghe đàn thì có thể đoàn là một khúc
“hoàng-cầu-phượng” chứ không phải phượng-cầu-hoàng.
Dứt tiếng đàn theo tiếng khóc. Dẫu nó nhỏ như sợi tơ, nhưng
cũng có thể tỏ cho chàng biết con người đang khóc kia phải đeo một mối sầu vô hạn.
Bella Như-Nhang sở dĩ tủi thân mà khóc chỉ vì cách đối đãi lạnh lùng của
Hoàng-Cương trong mấy ngày nay đã làm cho nàng phải tuyệt vọng.
Trước kia, chàng đối với nàng như khách qua đường, chẳng qua
gặp đồng bào ở nơi quê người đất khách thì trò chuyện đấy thôi. Dần dần thấy
nàng có kiến thức hơn người, cử chỉ lỗi lạc, cũng đem lòng kính nể. Nhưng từ
khi ốm đến giờ, thấy nàng xử với mình tử tế quá, chàng cũng rất lấy làm cảm
khích. Nên ngày nay, nghe tiếng khóc não nùng kia chàng mới tỉnh ngộ, chàng hiểu…biết…
Biết nàng yêu chàng, nhưng chàng xét ra chàng chẳng yêu nàng
một chút nào cả. Thế thì không có thể mang một cái đời hành động tự do trói vào
một sợi tơ lòng mà tự mình chẳng muốn mang. Chàng cũng phải cho chàng là thông
minh, nhân, trí, nhưng những cái nết ấy có đủ đâu? Phải có một tấm lòng yêu, phải
có một tấm lòng tín ngưỡng về ái tình, mà chàng đều không có cả! Chàng tự nghĩ:
ở đời quý nhất là tấm lòng; một tấm lòng đã chết thì sống cũng như không, có
xác mà không hồn, có ảnh mà không hình. Cái thân thế ta ngày nay cũng vì như kẻ
thuyền chài kia, ở nơi biển cả mênh mông, bỗng gặp cơn bão táp, ta có thể nản
chí mà buông tay chèo lái được không? Nam nhi chí, nam nhi chí, cái bảo vật vô
giá ấy sao ta nỡ hoài! Đã thế thì ta không có thể dối người, dối mình mà coi
thường cái đời ta, cái đời nàng được. Nàng đã là người lịch duyệt tài hoa thì
cái cách trả ơn cho người tri kỷ là phải nói thực cho nàng, phải nói thực cho
nàng biết thân ta còn nhiều trách nhiệm phải gánh vác…Cái thân làm trai này còn
nặng nợ non sông…không thể không trả được…
Chàng gõ cửa vào, thấy dung nhan nàng có vẻ tiều tụy, cũng ái
ngại bèn nói:
– Tôi trông cô hình như mỏi mệt lắm, hình dung sút kém lắm,
cô phải nên tĩnh dưỡng để bảo trọng lấy sức khỏe. Sức khỏe quý lắm, cô nên nhớ
lấy lời một người bạn rất trung thành với cô.
Rồi chàng tủm tỉm cười mà nói tiếp:
– Giữ được non xanh đó lo gì không có củi đun. Người ta còn sống
một ngày nào, còn có quyền hy vọng ngày ấy. Cái hy vọng ngày nay nó tiêu tán đi
thì ngày mai lại có một cái hy vọng khác nổi lên.
Hoàng-Cương nói thế là có ý khuyên nàng quên chàng đi, bảo
nàng đổi ý kiến đi. Nhưng quên thù, quên oán, quên nhục, quên vinh, chứ quên
người yêu thì quên làm sao? Đổi nhà, đổi đất, đổi ruộng, đổi vườn, chứ đổi lòng
là một việc mà kẻ tình chung không sao làm được. Nhưng những quan niệm ấy một
người chưa biết sự yêu đương như Hoàng-Cương nào có biết đâu.
Bella Như-Nhang cứ lặng im. Hoàng-Cương nói tiếp:
– Trong khi tôi ốm đau, cô có lòng hạ cố đến, thật tôi rất lấy
làm cảm khích. Ngày mai tôi phải về nhà, vậy xin có lời thành thực…
Chàng nói đến đấy thì nàng vội nói:
– Ngày mai thầy về rồi!
Lúc ấy giá có ai rạch máu ra mà thề rằng yêu chàng, chàng
cũng không tin bằng câu nói kia vậy. Câu nói kia không phải là câu nói ở cửa miệng,
nó là cái vang của trái tim yêu đường đột xuất ra.
– Vâng, mai tôi có việc phải về, có lẽ từ nay, mây ngàn hạc nội
biết bao giờ cho được gặp nhau nữa. Vậy tôi xin có mấy lời đa tạ cái thịnh tình
cô đã có lòng săn sóc đến tôi. Mà những ngày tôi được gần cô là những ngày sung
sướng nhất trong đời lưu lạc của tôi, tôi không bao giờ quên, mà…
Một tiếng khóc vang lên. Bella Như-Nhang tiến lại dang hai
cánh tay ngọc ngà ra ôm chặt lấy cổ Hoàng-Cương mà nói:
– Anh Hai, anh Hai, em nói với anh một lời này mà em xin thề
rằng từ trước đến nay em chưa hề nói với ai mà có lẽ từ đây em cũng không nói với
ai nữa: em yêu anh, anh có biết chăng. Có lẽ cái thân em đã rạc rài, nhưng …
Nghe đến đấy, Hoàng-Cương liền lấy tay bịt miệng nàng không
cho nói nữa, mà rằng:
– Em Bella, nếu anh yêu em thì cần gì phải biết đến lai lịch
của em, cần gì phải quan tâm về việc quá khứ. Một cái mình ngọc này, một tấm
lòng vàng này, chẳng đủ hay sao, nhưng anh xin thú thực với em rằng: tuy anh có
quý em, nhưng không yêu em một chút nào cả. Nếu, nhất đán thành vợ thành chồng,
em đem một khối chung tình độc nhất vô nhị mà yêu anh, nhưng trong khi sánh vai
kề má, em thấy lòng anh lạnh như băng, giá như tuyết, em thấy anh chỉ thương
em, quý em mà không yêu em như thế chẳng là đau đớn cho em lắm sao. Nếu anh
nghe lời em thì anh sẽ làm khổ cho em sau này vậy. Có lẽ em nói em yêu anh, chẳng
cần anh phải yêu trả lại, nhưng còn như anh, trong lúc em đem cái khí vị rất nồng
nàn ấm áp của ái tình bao bọc lấy anh, anh tự thấy lòng mình lạnh lẽo khô khan,
chẳng cũng là khổ tâm cho anh lắm sao. Gia dĩ thân anh còn lắm nợ nần…anh không
thể đem một đời hữu dụng, một tấm lòng son mà khinh suất dùng vào một việc chưa
đáng dùng được. Em Bella, em Bella nếu em có thật yêu anh, em nên nghĩ đến chỗ
khổ tâm ấy, nên nghĩ đến cái phận sự làm giai của anh.
Ôi! Ích kỷ thay kẻ vô tình!
Mà cũng kỳ quái thay kẻ “trọng-nghiệp vong-tình!”
Họ coi chữ tình như một món hàng vậy, họ nói chuyện về tình
ái như ta bàn doanh thương kế lợi vậy. Họ tưởng ở trên đời còn có những việc
đáng thiết tha hơn ái tình!
Thảm thay cho họ! mà cũng ái ngại thay cho họ. Nhưng một điều
ta có thể tha thứ được là họ biết quý sự thực, dám nói sự thực.
Bell Như-Nhang nghe chàng nói đến đây rú lên một tiếng, mà
ngã lăn ra…
Một tuần lễ sau khi về đến nhà, Hoàng-Cương nhận được một bức
thơ, một mớ tóc, một cái ngân phiếu 25.000$.
Thư rằng:
Hoàng-lang rất yêu mến của em,
Dẫu chàng chẳng nhận thiếp làm vợ, mà tự thiếp, thiếp coi
chàng như một người chồng muôn năm của thiếp vậy. Khi chàng nhận được bức thơ
này thì thiếp đã là người thiên cổ, ôm một khối tình chung vô tận xuống chốn
thuyền đài. Thiếp xét ra sống ở cõi trần ai, nhục thể này mà không được lòng
chàng yêu đến thì chẳng còn lẽ gì đáng sống mà cũng không sống được nữa. Thôi
kiếp này, phận chẳng lành, duyên chẳng đẹp, thiếp xin cầu đến kiếp sau. Nhưng
trước khi thiếp chết còn mong cho người yêu của thiếp được thư tâm mà lo về sự
nghiệp. Vậy gọi là món tiền nhỏ mọn, của ít lòng nhiều, cúi xin chàng đoái
thương đến thiếp mà nhận cho để cho thiếp được thỏa hồn nơi chín suối.
Sau xin chàng đừng bi tâm gì về cái chết của thiếp, thiếp thật
đã vui sướng mà chết, thật đã vui sướng được hi sinh cái đời vô dụng này cho khỏi
bận trí trượng phu vậy. Sau này lúc sự nghiệp đã thành, chàng có mở mớ tóc mây,
chạnh lòng nhớ đến thiếp, lại qua thăm Đế-Thiên Đế-Thích, chàng trông thấy đống
đá xanh chập chùng mà ái ngại cho “hòn máu đỏ”, than cho một câu: ở chốn này đã
có một người quá yêu ta mà chết. Thế là hồn thiếp đã được ngậm cười ở nơi chín
suối rồi đấy.
BELLA.
Hoàng-Cương xem xong bức thơ, ruột gan đứt ra từng khúc,
chàng phát run cả người như trong khí trời đông gió rét, ai đem chậu tuyết mà đổ
vào người chàng vậy. Chàng muốn mọc cánh mà bay ngay về Đế-Thiên Đế-Thích.
Lúc bước lên xe chàng còn có hy vọng: may ra thì nàng chưa chết.
Xe chạy như bay, ném lại những đồng cỏ mênh mông mà cuốn lấy
con đường vô tận…
Lúc bước chân lên thềm khách sạn Angkor-les-Ruines, người bồi
chạy ra rầu rĩ mà kể cho chàng nghe:
– Thầy đi được ba hôm thì cô Ba đi xem Phnom Bakheng chẳng
may trượt chân ngã chết rồi. Thầy tính gieo mình từ trên đỉnh ấy xuống thì còn
gì? Khốn nạn, con người đẹp đẽ như thế, lúc người ta khiêng về, tay chân, mình
mẩy nát nhừ chỉ còn là một đống thịt đỏ loè! Con người tử tế phúc hậu như thế
mà chết một cách thảm thiết như thế, ai mà chẳng phải xót thương.
Người bồi nói xong khóc nức nở. Hoàng-Cương nghe xong câu
chuyện choáng váng tê tái cả người như ai đem chiếc búa cái đập lên đầu chàng vậy.
Chàng rít lên một tiếng “ta giết nàng” rồi gục xuống, thổ huyết ra lênh láng…
Lúc tỉnh ra, Hoàng-Cương bèn sai người bối đi mua vàng hương
rồi bảo đưa ra mộ…
Chàng trông thấy nấm đất còn ướt, những cuốn hương đỏ thắm
như máu còn cắm ở trên mà chàng như ngây như dại. Ngoảnh nhìn những lâu đài lố
nhố ở chân trời như những cái dấu hỏi to tướng của thời gian hỏi người
trần thế mà chàng tự hỏi:«ta sống để làm gì? Có phải xây đắp những tòa lâu đài
nguy nga kia cho ông Tạo-vật vô tình sau này đạp đổ đi không?»
Chàng nghĩ đến đấy mà chàng cám cảnh cho cái thân thế mình,
luống lại ngậm ngùi cho cái số phận con người bạc mệnh nằm kia. Rồi nỗi thương,
tiếc, quý, yêu nó sôi nổi trong chốn bể lòng…Chàng phục xuống mồ khóc không ra
tiếng.
Những giọt nước mắt thấm đất kia chẳng là những hạt ngọc vô
giá của thần ái-tình đã bao công mài dũa mới có được sao?
Những giọt nước mắt kia chẳng là những giọt máu đào cuồn cuộn
ở chốn bể lòng mà tung toé ra sao?
Trời nắng chang chang, bao là sắc lửa một mầu. Bốn bề yên lặng,
cảnh tiêu sơ như nặng trĩu một gánh sầu vô hạn….
Trên từng mây xanh biếc, đôi chim trời tung cánh cùng bay mà ở
dưới trần, chàng thì từ nay lẻ bạn…
Từ nay, chàng phải đeo một trái tim “dập nát” sống ở đời với
bọn người vô tình, lãnh đạm…
Từ nay trong trái tim đầm đìa những máu kia, luôn luôn hiển
hiện cái hình ảnh rất yêu mến của Bella cũng như cái tinh thần tàn phá rất khốc
liệt của Hóa-công lúc nào cũng in sâu ở di tích đổ nát thành Đế-Thiên Đế-Thích
kia vậy.
Chú thích:
[1] Ở Nam kỳ, con trưởng kêu là hai, con thứ là ba
[2] Sắc không sóng gió mà làm chìm đắm được người.
[3] Núi Đậu (monts de Cardamones, Siam) sản ra nhiều đậu khấu
Biển-hồ (lac Tonlésap, Cambodge )sản ra rất nhiều cá. Người ta thường mua đậu
khấu bán sang Cao-mên và cá khô đem bán sang Siam..
[4] Marius Tướng-quân khi xưa có công đánh đuổi rợ Teutons và
rợ Cimbres mấy lần sang xâm-chiếm đất La-mã. Tướng-quân ba lần làm độc-tài
(dictateur) ba lần làm Tổng-thống (Consul). Lúc đã ngoại 80 tuổi, vì tranh quyền
với Sylla Tướng-quân mà phải vượt bể Địa-trung (Méditerranée) trốn sang thành
Carthage (Afrique) là xứ ở Annibal. Sau tướng-quân đem quân về thành La-mã
khôi-phục lại được cái địa-vị hiển-hách khi trước.
[5] Lúc Marius Tướng-quân trốn sang Carthage, tuy có sắc lệnh
của Sylla Tướng-quân cho truy-tầm để giết đi, nhưng quan Toàn-quyền người
La-mã, cai-trị thuộc-địa Carthage (Annibal đã chết, thành Carthage đã phải người
La-mã diệt, lấy làm thuộc địa) nghĩ thương tình bèn sai thị-vệ ra đuổi Tướng-quân
đi và nói nếu không trốn sang xứ khác thì buộc lòng phải bắt giải về xứ
La-mã. Tướng-quân xót thân chìm nổi mà phát lộ ra câu nói ấy.
[6] Hai tay biện-thuyết đại tài đời Chiến-quốc
2- Một mụn con
Sáu giờ hai mươi phút… Bác sĩ Tùng, tay cắp một cái gói, ở
trên xe hơi bước xuống, vội vã lên thềm. Cánh cửa sẽ hé, một khuôn mặt nõn nà
thùy mị hiển hiện ra…
– Sao cậu đi làm về trễ thế, em chờ nóng cả ruột.
– Tôi còn ra hàng Đào mua cái này cho mợ, thứ hàng này may áo
đẹp lắm. Trắng như mợ mà mặc áo mùi này thì trông nổi lắm.
Bà Bác sĩ Tùng sẽ đưa tay ra cầm lấy gói hàng nhưng chẳng có
vẻ gì là sốt sắng, chẳng có vẻ gì là vẻ vui mừng, rất đáng yêu mà rất đáng ghét
của một người đàn bà ưa làm đỏm lại được đức lang quân sẵn lòng vun xới
cho cái đức tính dễ thương ấy.
– Em còn bao nhiêu là áo, cậu lại cứ mua thêm mãi rồi để
không dùng đến, mục nát có phải phí tiền không?
Bà nói xong thở dài. Bác sĩ có vẻ buồn, nâng niu đỡ vợ ngồi
xuống ghế rồi bảo:
– Sao mợ cứ thở dài làm vậy, mà ít lâu nay mợ cứ buồn rũ ra
thế. Mỗi lần tôi mua thứ gì cho mợ trang điểm, mợ cũng không vui là nghĩa
làm sao? Thế mợ không muốn trang sức cho đẹp cho tôi yêu mợ à? Thế mợ không yêu
tôi sao? Hay tôi đã làm điều gì khiến cho mợ buồn?
– Thiết tưởng chẳng cần phải nói, cậu cũng đã thừa biết bụng
em, còn như cái tình cậu đối với em thì em dù ngu dại đến đâu cũng phải biết.
Em biết cậu yêu em lắm chứ.
Mối sầu tích lũy bao lâu nay như đã chôn sâu vào tim gan mà một
vài câu nói âu yếm của vợ không thổi bay đi được, Bác sĩ bèn nói:
– Thế sao lúc nào mợ cũng buồn? Mợ có biết tôi trông thấy mợ
buồn, tôi đau đớn lắm không?
Như không dằn nổi nỗi lòng, Bác sĩ lại nói tiếp:
– Tôi khổ lắm! tôi khổ lắm! Tôi quý mợ, tôi yêu mợ, tôi thấy
mợ cứ buồn rầu ủ rũ ra như thế mà không cách gì làm cho mợ vui vẻ với tôi được
thật đau xót cho tôi biết là bao! Nếu mợ có yêu tôi được một phần tôi yêu mợ,
thì mợ sẽ thấy biết nỗi đau đớn của tôi. Mà lạ sao mỗi lần, tôi đưa mợ đến chơi
nhà chú Xuân là mợ lại buồn thêm, là ý nghĩa gì? Chú thím đều yêu quý mợ lắm,
nâng niu như trứng như hoa. Cái gia tài mấy mươi vạn đã viết chúc thư để cả cho
mợ. Mồi lần mợ đến chơi, chú thím săn đón, giữ cho được mợ ở lại ăn cơm mới bằng
lòng. Tôi còn nhớ, năm ngoái mợ yếu, thím ngồi đầu giường trông nom, nâng giấc
mợ thâu đêm suốt sáng mà chẳng biết mỏi mệt, tôi thiết tưởng cha mẹ vị tất đã
thương con được đến thế. Mà sao, mỗi lần tôi rủ mợ đến thăm chú thím, mợ lại
hình như miễn cưỡng mà đi. Hay chú thím đã làm gì mích lòng mợ? Trong tám năm
giời nay, vợ chồng ta ăn ở với nhau, không một phút nào tôi không đem hết tấm
lòng để yêu mợ, tôi thật dám nói quyết rằng chưa có một người chồng nào cư xử với
vợ được như tôi. Tôi thấy mợ buồn, tôi đã tìm hết cách để giải buồn cho mợ,
mong một ngày kia cái buồn ấy sẽ vì tấm lòng tôi yêu quý mợ mà tiêu tan đi,
nhưng khổ thay mọi cách đều vô hiệu cả. Bấy lâu tôi vẫn cắn răng không dám hỏi
duyên cớ vì đâu, nhưng ngày nay chẳng nhẽ thấy mợ cứ một ngày một khô héo đi mà
đành khoanh tay ngồi nhìn hay sao? Hoặc giả mợ có điều gì ức uất vì cảnh ngộ mà
không nói ra được chăng? hay có điều gì bí mật nó làm cho mợ đau xót âm thầm mà
mợ còn dấu tôi, mợ cứ nói thực, tôi xin thề với mợ; nếu phải hi sinh cái đời
tôi chăng nữa để lấy lại được sự yên vui cho mợ, tôi cũng vui lòng hi sinh
ngay.
Bà Bác sĩ Tùng nghe chồng nói, cảm động, bèn ôm đầu chồng sẽ
lấy tay vuốt tóc mà trả lời:
– Em chẳng có điều gì ức uất cả, cậu chẳng làm gì cho em buồn
cả. Từ hôm em bắt đầu làm bạn với cậu, cái tối hôm ấy cậu còn nhớ không? Em còn
nhớ lắm, em nhớ mãi. Tối hôm ấy cậu thề với em lúc nào cậu cũng sẽ là một người
tình nhân rất âu yếm của em, lúc nào cậu cũng sẽ là một người anh cả che chở
cho em. Từ bấy đến nay không một phút nào cậu đã xao nhãng cái trách nhiệm ấy,
không một phút nào quên lời hứa ấy. Còn về phần em không một phút nào em không
cảm ơn ông Nguyệt Lão đã se cho em được làm vợ cậu. Em thiết tưởng được người
chồng như cậu, cái hạnh phúc một đời em thế, là đầy đủ lắm. Nhưng vì sao em vẫn
buồn, em xin thú thực với cậu, em cũng không biết đích là nó phát sinh ra bởi
đâu? Tự bao giờ? Em biết lắm, em biết em buồn thì cậu cũng không vui nào, cậu
cũng đau khổ vì em. Em muốn dũ nó đi mà dũ không được. Em nhớ mang máng có lẽ
em bắt đầu buồn từ khi cậu đưa em đến thăm người ban học của em là bà Phán Lộc.
Em còn nhớ hôm ấy lắm. Hôm ấy, bà Phán Lộc nằm ở trên giường, thằng Minh, con Yến
là hai đứa con bà quấn quít ở bên mình. Em còn nhớ thằng Minh nó thấy cậu lại
khám bệnh cho mẹ nó, nó bảo:
– Ông Đốc đến xem bệnh cho me tôi đấy à? ông cố chữa cho khỏi
ngay «lập tức» đi nhé, rồi tôi cho ông cái súng bắn ruồi của tôi «cừ» lắm cơ, bắn
một phát mà chết được những hai con ruồi cơ.
Con Yến nhí nhéo nói thêm:
– Rồi tôi cũng cho ông con «búp bê» to sù của tôi nữa, tôi
cho ông ăn cả kẹo nữa.
Cậu có biết cái súng bắn ruồi, miếng kẹo, con búp bê đối với
con trẻ là thế nào không? Là vũ trụ, là thế giới của chúng đấy. Thế mà chúng chẳng
tiếc, sẵn lòng đem biếu cậu, mong cậu chữa cho me chúng khỏi bệnh. Chúng mới một
tí tuổi đầu mà đã hiếu thảo làm sao! Trông mới kháu khỉnh, ngộ nghĩnh dễ thương
làm sao! Giọng nói thành thực, thấm thía như rót vào tai đã khêu gợi cái cảm
tình mẫu tử nó còn ẩn hình náu bóng ở trong lòng em. Em trông chúng cười, nghe
chúng nói, chạnh nghĩ phận mình hiếm hoi mà em ứa nước mắt. Cập đến lúc cậu lại
khám bệnh cho bà Phán, chúng nó đứng cạnh, nhìn mẹ, im thin thit, như có ý hồi
hộp, băn khoăn, lo sợ. Sau thấy cậu nói chỉ vài hôm nữa là khỏi, chúng mừng
quýnh, múa lên:
– À me sắp khỏi rồi, me sắp khỏi rồi.
Rồi chúng nhẩy lên bá cổ cậu mà hôn. Nhưng có phải chúng hôn
cậu đâu? Chúng nó hôn, hôn cái người nói mẹ chúng nó sắp khỏi đấy chứ. Chính vì
chúng nó yêu mẹ chúng nó mà cám ơn ông thầy thuốc đã chữa khỏi bệnh cho mẹ
chúng nó đấy. Nhưng chúng chưa đến tuổi biết dùng những câu cám ơn rườm rà mà
vô vị như mình đâu, chúng chỉ hôn để thay lời. Những cái hôn ấy tiêu biểu cho sự
biết ơn thành thực nó phát sinh ở trong trái tim băng tuyết của chúng mà ra. Em
ngồi trông chúng chạy, nhẩy, đùa, nghịch mà em ngao ngán cho cái phận em. Em thấy
thằng Minh nó gọi con Yến lại bảo:
– Me đến mai thì khỏi hẳn đấy ; rồi mẹ đi ra phố hàng Ngang
mua lụa may áo cho mày đấy, rồi me đi «Gô đa» mua «cả» một cái tàu bay cho tao
đấy. Cái súng bắn ruồi tao định đem cho ông Đốc, me phải mua một cái súng «cháy
phá» đền cho tao cơ.
Rồi nó lôi em nó lại, bắt ngồi lên ghế, nó giả tảng làm ông
thầy thuốc, cũng bắt mạch, cũng gõ xương, cũng nghe ngực. Không có cái khăn «sà
vệt», nó lấy cái khăn bàn to tướng choàng lên lưng em nó, rồi nó áp má vào ngực
nghe ngóng, hệt như cậu khám bệnh cho bà Phán Lộc. Nó lại bắt em nó lè lưỡi cho
nó xem, rồi nó giơ ngón tay trỏ lên gần mồm nó, khua khuẩy, làm bộ dọa dọa lắp
bắp nói gì em chẳng nghe rõ, nhưng chắc câu nói của nó thú vị lắm nên em nó mới
cười sằng sặc. Ôi! cái cảnh tượng mới nên thơ!
Ông Hóa-công mới khéo vờn nên bức tranh tuyệt xảo! Em chẳng
biết cảnh thần tiên ra thế nào, nhưng cũng thần tiên đến thế là cùng. Từ đấy em
lại nhà chú thím trông thấy chú thím già cả, cô đơn, hai ông bà cứ ro ró ngồi
nhìn nhau im thin thít nên em thương mà em buồn, em không muốn mục kích cảnh
thương tâm ấy, nên em không muốn lại chơi chứ có phải em không biết lòng chú
thím thương yêu em đâu. Cái cảnh cô độc không con trong khi tuổi già mới não
nùng bi ai quá đỗi! Em đem sánh cái hoàn cảnh vợ chồng bà phán Lộc với cái hoàn
cảnh của chú thím thì tuy vợ chồng bà ấy có nghèo hơn nhưng sung sướng hơn chú
thím nhiều lắm, gấp mây có những kho tiền vựa thóc như chú thím. Em lại chạnh
lòng nghĩ đến cảnh vợ chồng ta lúc trở về già thì sẽ ra làm sao? Có lẽ cũng phải
chịu một cảnh hiu quạnh, ai oán như chú thím mà thôi. Vì thế mà em lo, mà em buồn.
Nếu giời cho em một đứa con thì dù có bắt phải đem cái gia tài của chú thím để
lại cho em mà đổi lấy, em cũng xin vui lòng mà đổi ngay lập tức.
– Chú thím hiếm hoi là số giời đấy chứ.
– Nếu cậu nói thế thì có phải giời bắt chú thím phải khổ sở
không?
– Giời cho chú thím giầu có, lại bắt chú thím không con, đó
cũng là một lẽ thừa trừ, suy đi bì lại cũng thế thôi.
– Không, không, tiền của mà đem so sánh với con cái làm sao
được, một đằng sướng mà «sướng khổ», một đằng khổ mà «khổ sướng». Em thiết nghĩ
thà giời bắt nghèo nàn mà cho đông đàn còn sung sướng gấp mấy cho giàu có, mà bắt
phải hiếm hoi. Giá vợ chồng mình mà có được một mụn con thì…
– Vợ chồng mình còn trẻ trung đã lo gì…?
– Cậu bảo không lo à, em với cậu lấy nhau tám năm giời nay,
đương lúc khí huyết sung túc mà còn chả sinh đẻ, đến sau mỗi tuổi mỗi già, hòng
gì?!
– Có lẽ tại mợ cứ buồn rầu, nên khí huyết suy kém mà ra thế đấy,
mợ vui vẻ đi, chẳng chóng thì chầy rồi cũng sẽ được bế con.
– Không có lẽ, trước kia em khỏe mạnh biết bao, vui vẻ biết
hao, em mới buồn ít lâu nay đấy chứ, có lẽ tại cậu trước kia chơi bời lắm, mắc
bệnh tật mà sinh ra thế chăng. Không phải em trách móc gì cậu đâu, đàn ông lúc
trẻ trung ai mà chẳng chơi bời, nhưng nếu có bệnh thì phải chữa cho khỏi đi,
cho tuyệt… đi, nếu cậu không chữa cho cậu khỏi được thì cái bằng Y khoa bác sĩ
chuyên môn… của cậu dùng để làm gì? ích cho ai?
– Tôi biết chắc bây giờ tôi không có bệnh tật gì cả. Tôi xin
lấy cái danh dự một ông thầy thuốc mà thề với mợ như thế.
– Thế tại làm sao em không sinh nở gì? Tại làm sao? Hay là giời
bắt em phải hiếm hoi. Cậu có biết em buồn mà chết đi được không. Mỗi khi cậu đi
làm vắng, em ở nhà một mình, hết đi, lại đứng, hết đứng, lại ngồi, thui thủi một
mình. Cái nhà này rộng rãi quá! sạch sẽ quá! lộng lẫy quá! lạnh lẽo quá! Em muốn
cho nó chật hẹp, đơn sơ, bừa bãi, ầm ỹ như nhà bà phán Lộc. Em muốn cho trong
nhà này có một đứa trẻ nó đùa nghịch, nó kêu gào, nó vòi quấy, nó đập phá, nó bầy
biện đồ chơi bừa bãi ra đây để cho em dỗ dành nó, để cho em nưng niu nó, để cho
em hầu hạ nó, để cho em được nghe tiếng kêu gào của nó, để cho em được trông
nét mặt hồng hào vui vẻ của nó. Cậu ơi, cái tủ to lớn kia, bộ sa-lông đẹp đẽ
này có giúp gì cho sự lạc thú của vợ chồng mình đâu? Trong nhà này phải có một
quả tim «nhỏ xíu» nó thương yêu vợ chồng ta cũng như thằng Minh con Yến nó
thương yêu mẹ nó thì em mới hết buồn được, em mới biết sống làm vui được. Cậu
thấy em buồn rầu, cậu ép em đi nhẩy đầm, ép em học đánh quần, học đánh
ping-pong, cậu đưa em đi Đồ-sơn, Tam-đảo, đi vãng cảnh các nơi danh lam thắng
tích, em phải chiều lòng cậu mà nghe theo đó thôi, chứ em chẳng thấy gì là thú
cá, chẳng biết gì vui cả. Nếu có một mụn con thì dù có phải ngồi một xó mà bồng
bế nó, mà tắm rửa cho nó, mà khâu quần, vá áo cho nó, săn sóc hầu hạ nó, dù có
phải đói rét em cũng vui lòng mà chịu. Giá dụ ngay lúc này đây, đang lúc cậu ôm
em, yêu quý em như thế này, mà có một đứa con cưng của chúng ta nó chạy nhẩy
đùa nghịch ở trước mặt, nó bi ba bi bô, gọi em, gọi cậu ; cậu trông thấy nó, cậu
yêu nó vì nó là máu mủ của em, cậu yêu em vì em là người mẹ của nó, em lại càng
yêu cậu vì nhờ cậu mà em đã được cái sung sướng là mẹ một đứa con kháu khỉnh
như thế. Ví được thế, có phải sự lạc thú của vợ chồng ta đã đầy đủ rồi không.
Lúc ấy, giá ông giời già độc địa có ném em vào thành sầu, biển thẳm em dám chắc
em cũng không biết buồn là gì, mà có lẽ cậu cũng thế. Giá dụ đấng Cao-siêu lại
quá thương vợ chồng ta mà cho được hai mụn con, một giai một gái chẳng hạn, em
sẽ đặt tên chúng nó là thằng Loan, con Phượng, giá dụ lúc vợ chồng mình đang ngồi
trên cái divan này mà thằng Loan con Phương yêu quý của chúng mình nó múa mênh,
nhẩy nhót ở chung quanh thì vui sướng biết bao. Giá dụ chúng nó chòng nhau,
đánh nhau rồi khóc ầm ỹ, vợ chồng mình vội vã chạy lại can, cậu ôm lấy con Phượng,
em bế lấy thằng Loan, rồi chúng mình thi nhau dỗ dành cho chúng nó nin, rồi
chúng mình họp nhau lại phân xử cho chúng nó, rồi chúng mình mắng yêu chúng nó,
rồi cậu giả vờ làm ra mặt nghiêm nghị giảng luân lý cho chúng nghe. Em dám đoan
với cậu, nếu có phải xử những cái kiện thú vị như thế, em sẽ là một vị quan Tòa
giỏi, không thiên tư đâu.
Nói đến đấy, bà Bác sĩ thở dài. Cái thực tế lạnh lẽo
bao bọc chung quanh mình bà như đã đánh tan cái mơ màng thần tiên ấm áp nhưng
hão huyền mà bà hàng ngày mong ước, bà như có vẻ tiếc rẻ mà nói tiếp:
– Một mụn còn chửa có, lấy đâu được hai mà hòng kiện với cáo,
mà hòng ôm Loan bế Phượng!
Bà lại ôm chặt lấy chồng mà rền rĩ:
– Cậu ơi, sao giời lại không cho vợ chồng mình một đứa con để
yêu thương nó nhỉ? Sao giời lại bắt vợ chồng mình phải chịu một cảnh hiu quạnh,
buồn rầu như thế này nhỉ?
Hai hàng nước mắt nó là hai dòng máu của trái tim những kẻ phải
đeo một cái đời cô độc buồn tẻ, một cái đời không hậu vận, không hi vọng cứ cuồn
cuộn mà tuôn ra…
Nghe những lời nói ấm áp thấm thía nó phát lộ ra ở cõi
lòng một người từ mẫu, trước cái tính «giản dị» của một người vợ hiền chỉ cầu
nguyện có một mụn con để mà yêu, để cầu lấy vui mà sống, nghe những tiếng gọi của
một trái tim trong sạch nó đang sôi nổi về những lẽ chính đáng, êm đềm, thiết
tha cho sự sống thần tiên ở đời, đứng trước một người đàn bà chí nhân, chí hiền
như thế, Bác sĩ Tùng như thấy mình kém hèn khốn nạn, kém hèn vì không có một
cái nguồn đạo đức xán lạn như thế, khốn nạn về cái dĩ vãng ích kỷ chỉ biết có
cái thú tục tửu của lòng dục đê hèn. Bác sĩ thấy mình xấu xa dơ dáng không dám
nhìn thẳng vào mặt vợ dường như xấu hổ, cái xấu hổ của một kẻ hèn mạt đứng trước
một người có những đức tính thanh cao hơn mình. Lương tâm đang mờ ám,
đang say mê như vùng dậy, sáng sủa, sáng sủa bởi cái ánh sáng đạo đức của người
vợ hiền nó chiếu vào. Bác sĩ thấy lương tâm cắn rứt, nặng chĩu một tấm lòng hối
hận, đau đớn, mà nỗi đau đớn sinh ra bởi những điều hối hận ấy chỉ có một cách
là thú hết tội tình mới mong giảm bớt đi được, mới mong xứng đáng được một đôi
phần với tấm lòng băng tuyết của con người ngọc ngà ngồi cạnh. Bác sĩ bèn đứng
dậy, nắm chặt lấy tay vợ mà nói:
– Em Lan, nghe em nói, anh mới biết, anh là một thằng khốn nạn,
không đáng sánh với em một chút nào cả. Em nghe, nghe anh nói cho hết, anh xin
thú thực hết tội lỗi cùng em. Anh là một người tình nhân đê hèn, một người cha
mạt kiếp. Anh đã đánh lừa một người con gái còn dại dột, dại dột vì đã quá yêu
một thằng khốn nạn như anh, anh có con mà anh đã bỏ con, anh không nhìn nhận gì
đến…
– À thế ra…
– Yên, em cứ để yên anh nói hết cho em nghe. Trước khi anh
chưa sang Tây, còn đang học ở Cao-đẳng, anh có dan díu với một người con gái mà
cái địa vị trong xã hội lại thấp hơn cái địa vị của anh; người ấy đã quá nghe lời
đường mật đem giao phó một đời trinh bạch cho anh. Cập đến lúc có mang được bốn
tháng, anh bỏ, anh bỏ chẳng đoái hoài gì đến nữa, đứa con kia lúc đẻ ra, anh
cũng chẳng nhìn nhận, bù đắp gì cả.
– Thế bây giờ mẹ con người ta ở đâu, sống hay chết?.
– Khi anh ở Tây về, nghe bạn bè nói chuyện người ấy đã chết,
người ấy vì buồn rầu mà chết, chết vì anh.
– Còn đứa con?
– Đứa con thì lúc ấy chưa chết, nhưng đã chín năm nay anh
cũng chẳng biết nó ở đâu, sống hay chết.
– Thế từ bấy đến nay, cậu cũng không dò la tin tức gì về nó cả
à?
– Không.
– Thế sao cậu không nói chuyện với em.
– Anh sở dĩ không dám nói là vì anh không muốn đem những việc
đê hèn ấy làm cho lạnh nhạt cuộc tình duyên đương đầm ấm của đôi ta.
Bà Bác sĩ Tùng nghe đến đấy giận quá, vùng đứng dậy, người
run lẩy bẩy, vẻ thất vọng đau đớn hiện ra nét mặt, bà nói – câu nói như ở trong
tâm hồn nó bay ra:
– Cậu! Cậu! Cậu! Cậu nhẫn tâm thật, cậu sánh vai kề má với em
trong tám năm giời nay, một việc bí mật ghê gớm như thế không nói cho em biết,
mà cậu bảo cậu yêu em! Cậu không dám nói với em là vì cậu không tin lòng em, cậu
không tin em là vì cậu không biết rõ em là hạng người thế nào. Cậu đã không tin
em, không hiểu em mà cậu dám bảo là cậu yêu em, mà cậu cho cuộc tình duyên đôi
ta là đầm ấm. Ôi! Cậu chỉ là một quân nói dối. Cậu dối cậu, cậu dối em. Cậu thấy
em buồn, cậu ép em đi xem chớp bóng, đi nhẩy đầm, cậu mua các đồ trang sức cho
em. Ôi, cậu không biết em! Em có phải là hạng người chỉ đem cái mặt ra làm trò
hề cho hộp phấn thỏi son đâu! Em có phải là hạng người chỉ vác cái mặt nạ trơ
trẽn ấy ra làm trò vui cho thiên hạ đâu? Thân em có phải là cái giá áo chỉ để
cho người ta treo những lụa Bombay, nhiễu Thượng-hải lên đâu! Em có phải là con
«chó đói» của nhà nhẩy đầm, rạp chớp bóng đâu? Thân thể em có phải một thứ «đồ
chơi» để cậu đem tô điểm cho thật đẹp rồi cậu ngồi cậu nhìn, cậu ngắm cho hả
cái lòng dục đê hèn của cậu đâu? Không, không em chỉ là một người «đàn bà», lấy
chồng để yêu chồng, mong có con để yêu con. Em chỉ biết có một việc yêu chồng,
yêu con là cái lạc thú đệ nhất ở trên đời mà thôi. Ổi! có lẽ em chỉ là một con
ngu ngốc, một con «nhà quê», nhưng giời đã sinh ra như thế, phó cho những đức
tính như thế đấy, em biết làm sao…?
Cậu có biết em yêu cậu thế nào không? Em yêu cậu mà em yêu
lây đến hết cả «mọi cái» nó dính dấp vào đời cậu, em thương đến cả đứa con «bỏ
rơi» kia nó là máu mủ của cậu nữa. Ôi! cậu! cậu! cậu là một con người nhẫn tâm
quá! Cậu đem nỗi hàm oan gieo cho người chết, cậu đem nỗi nhục nhằn buộc cho
người sống.
Bác sĩ Tùng nghe vợ nói, tưởng chừng như đương đứng trước mặt
một vị thần «bác ái» đang lấy tấm lòng bác ái kia mà xử tội mình, mà cảnh tỉnh
cho mình, Bác sĩ bèn quỳ xuống, nước mắt ràn rụa, ngửng mặt lên trông vợ mà khẩn
cầu:
– Em Lan, xin em yêu anh, thương anh mà tha tội cho anh.
-Tha tội cho cậu à! Em không có quyền. Chỉ có người bạc mệnh
cùng đứa con bơ vơ kia có thể tha thứ cho cậu mà thôi. Ôi! Yêu
thương cậu, cậu có lấy cái chân chính ái tình mà yêu thương em đâu? Nhưng em
cũng chẳng vì thế mà không yêu thương cậu được. Ngày nào mà em dứt được cái
lòng yêu thương cậu là ngày em đã phải từ giã cõi đời này vậy. Nhưng đau đớn,
xót xa, thảm khốc như thế này, cậu bảo em sống làm sao được. Em dựa vào nguồn lạc
thú gì để sống?! Sống, thấy cậu là một kẻ tội lỗi mà không có cách gì gột rửa
cho cậu được, thì phỏng sống làm sao?
Bà nói đến đấy, ruột gan bà như bào như xé, nỗi xót xa đau đớn
nó đang sôi nổi ở chốn bể lòng vùng đưa lên chẹn lấy họng, bà muốn nói mà không
sao nói được nữa, chỉ ôm chặt lấy chồng mà khóc nức nở. Bác sĩ cũng chỉ khóc mà
không biết nói làm sao.
Một lúc lâu, bà lại bảo với chồng:
– Cậu có muốn cho em sống để yêu cậu không?
Bác sĩ chỉ gật đầu mà không nói.
– Thế thì cậu phải cố tìm cho thấy đứa con của cậu. Một cái sức
bí mật thiêng liêng, có lẽ là cái hồn anh linh của mẹ nó bảo cho em biết: nó
chưa chết đâu, nó bây giờ đang bơ vơ khốn khổ, nó bây giờ đang phải chịu những
nỗi nhục nhằn, điêu đứng mà lòng ích kỷ khốn nạn của cậu đã bắt nó phải
mang. Cậu phải cố tìm lấy nó đem về đây cho em nâng niu nó, cho em yêu quý nó,
để săn sóc lấy nó, để đùm bọc lấy nó, họa chăng con người bạc mệnh hàm oan ở
nơi chín suối kia mới hài lòng mà tha thứ cho cậu được, họa chăng giời mới ngoảnh
lại thương đến em mà cho em vui thú với cậu được. Phải có tấm lòng nó thương
yêu em thì em mới sống mà thương yêu cậu được, có thế thì em mới sống mà ăn đời
ở kiếp với cậu được… Cậu đừng sợ em ghẻ lạnh đâu? Không, không.
Nói đến đấy, bà sẽ nhắm mắt lại, nói tiếp:
– Ngay lúc này, em tưởng chừng như nó đã bước chân vào đây.
Nó rách rưới, gầy còm lắm. Em sẽ lấy máu thịt của em bù đắp vào cho nó, em sẽ
đem bán hết những vàng, ngọc, kim cương vô vị này mà may mặc cho nó, em sẽ lấy
cái tình của mẹ nó yêu nó mà thương lấy nó. Em sẽ cố gầy dựng cho nó một cái
tương lai rực rỡ. Em sẽ yên trí nó là đứa con em đẻ ra mà nó cũng sẽ coi em như
mẹ đẻ của nó vậy. Cậu oi, cậu yêu em, em yêu cậu, chưa đủ đâu, phải có một cái
giây tình-ái thứ ba nó kết chặt giải đồng tâm của đôi ta cho đến lúc đầu bạc
răng long. Phải có một đứa con để nó yêu chúng ta cũng như chúng ta đã yêu nhau
vậy. Phải có một đứa con để khi chúng ta già yếu nó sẽ lấy cái tình «lúc nào
cũng trẻ trung» của nó mà yêu chúng ta. Cái tình vợ chồng yêu nhau cũng có ngày
«già» đi, «cỗi» lại chứ cái tình con yêu cha mẹ, cái tình cha mẹ yêu con không
bao giờ «già» đâu cậu ạ. Bây giờ, bây giờ cậu đã hiểu tại làm sao em cầu
mong có mụn con chưa?
3- Chỉ vì điếu thuốc lào
Giăng sáng…
Trên cung quế, chị Nguyệt đang uốn éo để phô tươi, phô đẹp với
khách trần thì ở dưới vòm giời, ông thần Khoa-Học hình như ghen ghét đã phủ vây
chốn đế đô bằng muôn đạo hào quang khiến cho khách Thăng-long không sao có thể
biết hết được cái vẻ đẹp của một đêm trăng rằm.
Tôi vừa đi, vừa ngắm cảnh, vừa nghĩ ngợi thì đã đến trước một
tòa nhà nguy nga. Trong một gian phòng rất lịch sự, trang hoàng một cách tối
tân, tôi đã thấy Trương-Sinh ngồi đấy. Anh em gặp nhau, tay bắt mặt mừng,
Trương-Sinh đẩy hộp thuốc lá thơm lại mời tôi hút rồi vồn vã hỏi:
– Chị và cháu có mạnh khỏe không? Sao anh không đưa chị và
cháu lại chơi tôi, tôi đến anh hai lần, anh đều đi vắng cả, nên tôi phải viết
thư…
– Khi bắt được giấy thì nhà tôi còn bận về quê ăn cưới, thôi
để bận khác, anh còn ở đây lâu, chứ đã vào Saigon ngay đâu.
– Tôi định ra ở luôn Bắc-kỳ, nên tôi mới tậu cái nhà này. À
thế, chị đi ăn cưới ai ở Hải-phòng?
– Ăn cưới con gái bà Thái-Long lấyTham Trần làm ở Tòa Đốc-lý,
anh cũng quen đấy chứ. Nghe đâu cô dâu có mấy gian nhà gạch và mấy nghìn bạc vốn
kia đấy. Thế nào, còn anh? Cũng phải mau mau cưới vợ đi, để vợ chồng tôi đến ăn
cỗ chứ? Thôi, vừa giầu có, vừa lịch sự như anh, nhòm món nào mà chẳng xong.
Tôi vừa cười, vừa nói, bạn tôi có vẻ ủ rũ mà bảo tôi:
– Tôi à? Tôi quyết không bao giờ lấy vợ, mà tôi chưa hề bao
giờ nghĩ đến sự lấy vợ cả.
– Thế anh nhất định ở vậy à? Gần 30 tuổi rồi mà không vợ, tôi
chịu cái gan anh. Tôi thì tôi không thể thế được. Tưởng tượng buổi sớm dậy
không có một cái nụ cười nó khiến cho mình vui vẻ mà làm việc, thì ở trong đời
này, anh tính cái sống còn có ý vị gì nữa?
Bạn tôi nghe tôi nói, mỉm cười một cách chua chát cay độc mà
bảo tôi rằng:
– Nghe anh nói thì hình như đàn bà đều là một giống tiên cô ở
động Thiên-thai cả. Họ có thể khiến cho chàng Lưu, chàng Nguyễn ngửi thấy mùi
nhang xạ mà quên bẵng cái khổ trèo đèo lặn suối đi được. Phải, má phấn, môi son
thì thú thật. Nhưng anh có biết cái vật gì nó nấp ở trong những đống thịt trắng
trẻo, mũm mĩm ấy không? Những đống thịt kia khiến cho ta khoái trá nhất thời được,
thì ta cứ việc hưởng, nó có thể khiến cho ta quên sự đau đớn thì ta cứ việc
vui; nhưng nói rằng những đống thịt ấy là cái ý vị cho sự sống thì tôi còn ngờ
lắm.
Xưa nay, tôi vẫn tôn quý phái yếu, nay thấy bạn tôi bình phẩm
họ một cách quá đáng như vậy, tôi bèn sốt sắng bênh vực.
– Sao anh lại có cái ác cảm với bọn nữ lưu thế? Họ
chính là cái mục đích khiến cho ta sống, mà bắt ta phải sống. Tôi không phải viện
những lý thuyết đâu xa, anh hãy quay lại cuộc đời dĩ vãng của anh thì anh sẽ thấy
sự thực nó hiển hiện ra mà bênh vực cho phái yếu. Có lẽ bây giờ những của cải của
anh đã làm cho lòng dạ anh khô khan, không còn gì là cái khí vị rất nồng nàn mà
lại rất đáng yêu của cái tuổi thanh xuân nữa. Nhưng tôi, tôi là một thằng nghèo
xác, ngồi nói chuyện với anh đây, tôi thề rằng, tôi đổi ngay cái tòa nhà nguy
nga lộng lẫy này, lấy một túp lều tranh và một tấm lòng; mà biết đâu, túp lều
tranh kia, tấm lòng kia lại chẳng đem lại cho ta những cái lạc thú mà ta không
thể tìm thấy được ở trong tòa nhà nguy nga này. Nghèo như tôi, tôi rất lấy làm
ái ngại cho anh mà tôi lại có quyền phàn nàn thay cho một người giầu sang như
anh. Anh nhầm, anh nhầm to, anh chỉ xét cái vật chất bề ngoài mà bỏ cái tinh thần
rất nhu mì, hy sinh của người đàn bà…
Tôi nói đến đây, bạn tôi vùng đứng dậy nói lấp ngay:
– Anh nói tinh thần à? Cái tinh thần của đàn bà chỉ là cái
tinh thần của giống sài lang. Hy sinh à! Lòng hy sinh của con mụ Tú. Giá lúc nẫy,
anh nói với tôi: «con gái nhà Thái-Long đã đem đổi mấy gian nhà, mấy nghìn bạc,
lại các cả người, để lấy cái tiếng «bà Tham», mà cậu tham Trần đã đem cái bằng
tham biện mà «truy» được mấy gian nhà, mấy nghìn bạc thì đúng hơn là anh nói:
«cậu tham Trần đã cưới con gái bà Thái-Long». Anh nên biết, đời nay, họ có cưới
người đâu? Họ chỉ cưới nhà gạch, cưới hoa hột, cưới tiền tài, cưới cái danh
tham biện, cái hàm tri huyện mà thôi. Anh bảo tôi ngoảnh lại cuộc đời dĩ vãng của
tôi ư? Tôi càng quay lại chừng nào thì tôi lại càng phải công nhận những lời
tôi nói với anh đây là những chân lý bất khả di dịch cả. Phải, khi tôi còn hai
mươi tuổi, tôi cũng nghĩ như anh, là tôi cho ở đời này, cái vật mà đáng yêu quý
hơn cả là người đàn bà. Tôi cũng nghĩ rằng ở trong cõi đời khổ ải này, mà không
có một nụ cười tươi tỉnh thì ta tội gì mà đeo lấy cái khổ. Mà khổ thật! Một giọt
nước, một luồng gió, một con sâu, một con muỗi có thể làm cho ta chết được. Ta
mới sinh ra, ông Tử-thần đã xô ta sồng sộc xuống chỗ vực sâu hang thẳm, mà mỗi
một phút trong đời ta, ta phải dùng hết tinh thần, hết sức mạnh để chống chọi với
cái «chết». Khổ chưa! Đấy là những cái hữu hình, còn biết bao nhiêu cái vô hình
nói ra khôn xiết. Sống như thế mà không có một cái nguồn an ủi thì sống để làm
gì! Phải, trong lúc thiếu thời, tôi cũng ước ao một đêm giăng như đêm nay, ta
cùng người yêu, tay cầm tay, để cùng hưởng lấy những cái vui, cái đẹp của tạo vật;
dạ một dạ để cùng nếm, cùng trải cái sướng, cái khổ của đời «tục lụy» này,
nhưng… nhưng ngày nay những cái ý tưởng ấy tôi cho là những cái mộng tưởng hão
huyền, những cái «mê mộng sọt rác» của một thằng bé chưa hiểu việc đời, chưa biết
bụng người.
Bạn tôi nói đến đây, có vẻ mệt, ngừng lại, tôi liền hỏi:
– Thế tại làm sao anh lại đổi ý kiến như thế, những ý kiến ấy
mới là…
Bạn tôi không để tôi nói dứt vội tiếp:.
– Là những ý kiến của thằng ngu, thằng xuẩn.
Giọng nói của bạn tôi có vẻ quả quyết hình như trong có ẩn một
sự bí mật gì, khiến tôi tò mò, muốn biết sự bí mật ấy mà tôi đoán chắc rằng những
lúc mà cái nguồn cảm giác ở trong lòng con người ta đã bồng bột lên đến thế,
thì thế nào cũng phải phát lộ ra, tôi bèn chẳng cãi lại, tôi chỉ hỏi:
– Thế vì đâu mà anh đổi ý kiến như vậy?
– Vì đâu à? Anh hỏi vì đâu à? Ôi, chỉ vì có một điếu thuốc
lào thôi.
Tôi nghe bạn nói, tưng hửng.
– Anh ngạc nhiên à, chỉ vì điếu thuốc lào, hay chỉ vì cái kết
quả của điếu thuốc lào thì đúng hơn.
Bạn tôi nói đến đấy, lại nói sang đầu đề khác, khiến tôi chẳng
hiểu ra làm sao, nhưng tôi cũng vẫn ngồi im để nghe.
– Anh có nghiện thuốc lào không? Nếu anh có nghiện thì anh mới
biết cái khoái của nó. Lúc sáng dậy, tôi hút một điếu thuốc lào thì tôi tưởng
tượng như những bộ phận trong người tôi dừng cả lại, nó đưa tôi vào một cõi đời
say sưa mê mộng mà vui thú hơn…
Bạn tôi nói đến đấy thì hình như những truyện cũ đã làm cho
lòng bạn tôi sôi nổi, bạn tôi bèn đứng dậy đi bách bộ trong phòng rồi nói tiếp:
– Ấy cũng chỉ vì cái thú đó mà khi tôi còn là lưu học sinh
trường Bảo-hộ, tuy có lệnh cấm mà sáng nào tôi cũng vẫn hút giấu. Tôi còn nhớ,
một sáng, tôi ra chuồng tiêu, thu thu cái điếu giấy, cho thuốc, đánh diêm kéo một
hơi dài, say quá, thú quá đến nỗi người giám thị lại gần mà tôi không hay. Tôi
còn đang mê man những đỉnh Giáp với non Thần mà tay còn cầm cái điếu, ống
diêm.. thì hai cái tát một cái đá đã làm cho tôi phải giật mình tỉnh dậy
Tôi thấy cách đối đãi dã man như thế, thì cái tính tình rất
nhẫn nại của cậu học trò ở trong người tôi bỗng tiêu tán đi đâu cả. Lòng tôi
sôi nổi, tôi chỉ thấy tôi là người, mà đã là người thì không có thể để cho ai
phạm đến danh dự mình một cách tàn nhẫn như thế được, tôi chẳng nghĩ sau nghĩ
trước gì, ục luôn cho người giám thị mấy quả, hắn ngã chúi đầu vào tường vỡ cả
mặt, máu ra đầm đìa. Thế là tôi bị đuổi mà lại bị cấm thi trong năm năm. Tuy thế
mà tôi chẳng buồn, chẳng lo tí nào cả. Ôi, cái tín ngưỡng của ái tình lúc ấy mạnh
biết bao nhiêu. Tôi yên trí rằng Vân Hương thế nào cũng cho cách hành động
của tôi là phải mà có thế, thì mới xứng đáng là một người yêu của nàng.
Anh có biết Vân Hương con bà Hàn H… ở đâu phố ta không? Vân
Hương mà khi chúng mình còn đi học vẫn gọi đùa là «Hằng Nga» ấy mà. Tôi biết
Vân Hương đã hai năm giời, chúng tôi đã bao phen chỉ non thề biển, chỉ chờ tôi
thành danh là cùng nhau buộc chặt dãi đồng. Trong lúc chúng tôi đang thương yêu
nhau, biết bao lần Vân Hương thỏ thẻ, nhủ tôi rằng:
«-Cậu cố học đi nhé, đỗ bằng Thành-chung, rồi vào Cao-đẳng rồi
ra làm ông Tham. Nếu cậu làm được ông Tham thì vợ chồng mình danh giá biết mấy»
Ôi, ngày nay tôi mới biết, Vân Hương yêu tôi, là bởi yêu cái
ông Tham trong mộng tưởng của nàng, chứ có yêu gì cái bản ngã của tôi đâu. Lúc
tôi đinh ninh, được tin buồn kia, thì thế nào nàng cũng lấy cái ái tình rất đầm
ấm mà an ủi tôi, thì, hỡi ôi! Nàng cự tuyệt tôi ngay, mà cự tuyệt bằng một cách
rất tàn nhẫn… nói ra chỉ thêm tủi, thêm nhục cho giống đàn ông đã mê muội
vì tình. Tôi nghĩ mà tức, tức thành ra phẫn trí, tôi bỏ nhà vào Saigon làm ăn.
Mà trong bước đường đời còn ôm «khố rách», tôi lang thang nay đây mai đó, tôi
đã nghiệm ra rằng: «bọn đàn bà đại để cũng là một loại với Vân Hương cả».
Ngày nay, cô nào nói yêu tôi, tôi giả điếc, bà nào nói quý
tôi, tôi mỉm cười, anh tính họ thương yêu gì cái «thằng tôi», chẳng qua họ
thương tiền, thương bạc của tôi cả. Bây giờ đây, tôi nghe đến những tiếng mà bọn
xuẩn cho là những cái tiếng rất thiêng liêng, rất đẹp đẽ của ái tình, tôi
dửng dưng và tôi rất ái ngại thay cho bọn họ. Tôi nói «tôi yêu mình, tôi quý
mình» cũng như tôi nói «tôi đi chơi, tôi ăn cơm» chẳng có một chút «tình» gì cả,
mà tôi gần một người đàn bà, dù đẹp đến đâu, thì cái cảm giác đối với tôi cũng
như là hút một điếu thuốc lào, khi sớm mai vậy thôi.
Tôi nghe bạn tôi nói mà luống bùi ngùi thay cho bạn. Ôi biết
ai là người lại kể được câu chuyện «Một nghìn một đêm» để đưa bạn tôi ra khỏi
vòng hắc ám ngõ hầu cho thấy được cái ánh sáng ấm áp của ái tình thì may lắm
thay.
Nhưng trong buổi «vàng đỏ đen lòng» này, biết tìm đâu cho thấy…
cho thấy môt người….
4- Cánh tay đứa trẻ
Canh đã khuya, hạt mưa gieo tí-tách, Hà Nội đang chìm đắm
trong một cảnh buồn rầu thảm đạm.
Phố xá đã vắng tanh. Lơ thơ một vài cái xe, áo tơi cánh gà
bưng kín mít, ghếch càng lên bờ hè mà anh xe thì co ro ngồi ẩn mưa ở dưới hiên.
Vài con mèo nó cắn nhau ở trước cửa một nhà kia gào lên những tiếng «mao… o»
lanh lảnh ghê mình.
… Trong cái buồng giấy rất lịch sự trang hoàng theo lối mới,
dưới cái ánh sáng le lói của ngọn đèn điện, Bùi-Nguyên đang cắm cúi viết một bức
thơ. Chắc bức thơ kia có lắm điều khó nói, nên thỉnh thoảng chàng lại cau đôi
lông mày, cắn móng tay, nghĩ ngợi…
Sau nửa giờ đồng hồ nghí ngoáy, vất vả, bức thư đã viết xong,
chàng ném bút xuống bàn, xoa tay có vẻ khoan khoái, nhẹ nhàng như đã cất được một
gánh nặng. Chàng châm thuốc hút rồi cầm bức thơ đọc lại.
Hanoi, le 14 juin 1934
Thưa chú,
Khi chú nhận được bức thơ này, thì cháu đã ra người thiên cổ,
chắc chú phải cho cháu là một kẻ hèn nhát không chịu nổi nỗi đau đớn ở trên đời
mà phải quyên sinh. Cháu xin thú thực với chú rằng cháu không có cái can đảm
chịu được những nỗi chênh lệch, éo le ở đời. Cháu không thể khoanh tay giương mắt
ngồi nhìn cái cơ nghiệp của cha ông vì cháu buôn thua bán lỗ, vì cháu bất tài
mà phải sa vào tay kẻ khác, cháu không thể đan tâm mục kích cái cảnh tượng tan
tành của gia đình cháu được. Cháu tưởng đến ngày một ngày hai đây, bọn khách nợ
tham lam và tục tằn họ sẽ đến đây mà xây xé, tranh giành với nhau những đồ đạc
nó là những người bạn trong cái cuộc đời êm ấm xưa kia của cháu, cháu tưởng đến
cái vẻ mặt buồn rầu ngơ ngác của vợ con cháu trong cái cảnh tan nát ấy mà cháu
không thể nào sống được nữa. Cháu biết rằng, cháu chết đi thì để nỗi xót
thương, thiếu thốn cho vợ con cháu, nhưng nghĩ rằng chú là người rất thương yêu
cháu, chắc là sau khi cháu chết, chú sẽ đem tấm lòng giời bể kia mà đùm bọc lấy
vợ con cháu, nên cháu cũng đành lòng mà nhắm mắt.
Chú ôi, «con chim lúc chết kêu thương», xin chú nghĩ đến cái
tiếng gọi cuối cùng của cháu lúc sắp từ giã cõi đời này mà tha hết cả tội lỗi
cho cháu cùng là che chở cho vợ con cháu, cho chúng nó khỏi bơ vơ thì cái ơn
cao dày ấy dẫu kiếp này không giả được, kiếp sau cháu cũng xin thác sinh làm
thân trâu ngựa để đền bồi.
Trăm lạy chú
BÙI-NGUYÊN
Bùi-Nguyên đọc xong bức thơ, vất điếu thuốc lá, mở ngăn kéo lấy
ra một con dao cạo.
Trông thấy lưỡi dao sáng quắc, lạnh lẽo kia nó sắp đưa chàng
về nơi chín suối, chàng chẳng có vẻ gì rụt rè ghê sợ mà lại cám ơn nó sắp rũ sạch
cho chàng những nỗi đau thương nhục nhằn. Chàng lấy ngón tay cái vuốt khẽ lưỡi
dao, xem nó có thiệt bén không. Rồi chàng giơ cổ tay trái lên, tháo cái đồng
hồ tay ra. Chàng lại đứng dậy lấy chìa khóa đóng hết các cửa lại. Chàng khóa cửa
xong, về ngồi ghế, xếp ba bức thơ gửi cho chú, cho vợ, cho quan Tòa vào ngăn
kéo rồi cởi cái áo ngoài ra, vén cánh tay áo sơ mi lên, lấy ngón tay giữa bên
phải tìm cái mạch máu cái, chú ý như một vị nguyên soái đang tìm địa thế để triệt
hạ quân thù ở trên bức bản đồ vậy.
Trông chàng lúc bấy giờ vẻ mặt nghiêm trang, cả quyết, cử chỉ
điềm đạm, chậm chạp, ta tưởng ngay đến một vị y sĩ đang đem hết cái trí thông
minh suy xét để xem mạch cho một người bệnh, chúng ta không thể ngờ rằng con
người kia đang đi tìm cái chết, đang đi kiếm cái huyệt hiểm yếu để cầu lấy một
cái chết chắc chắn, ta không thể ngờ rằng kẻ kia đang kiếm cách để làm cho bao
nhiêu máu nóng trong người sẽ trào ra hết, khiến cho cái thân thể mạnh mẽ hồng
hào kia sẽ trở nên một cái thây ma lạnh lẽo xám xịt.
Tử huyệt đã tìm được rồi. Bùi-Nguyên lấy ngòi bút đánh dấu mực
vào cho nhớ.
Chỉ chờ một nhát dao mạnh và nhanh là cái mạch máu kia sẽ đứt
phăng ra, chàng sẽ ngồi nhìn sự sống nó từ từ rời bỏ thân thể chàng…
Các cửa đã đóng kín không còn ai có thể đến bắt chàng sống được
nữa.
Năm phút… mười phút…
Chàng sẽ ngã lăn ra. Thế là thoát nợ!
Bùi-Nguyên nghĩ đến đấy mỉm cười, một cái cười lạnh lẽo, ghê
sợ của ông Thần Chết. Chàng liếc nhìn chung quanh buồng như muốn cùng các đồ vật
kia vĩnh biệt. Chàng cầm lưỡi dao sáng loáng giơ lên, lạnh lùng đều đặn như một
cái máy, mắt nhìn vào dấu mực ở cổ tay.
Trông chàng lúc bấy giờ điềm tĩnh cả quyết cơ hồ như không
còn cái sức mạnh gì có thể bắt chàng sống được nữa thì bỗng cái đồng hồ quả lắc
ở buồng bên cạnh đánh 12 tiếng: mười hai tiếng đều đặn, thánh thót, khắc
khoải, trong bầu không khí yên lặng như những tiếng gọi của trái tim vợ con
chàng gọi chàng. Tiếng chuông ngân ra như có vẻ khóc than, rền rĩ bắt chàng phải
lùi cái chết lại một lúc mà nghĩ đến cái cảnh thảm sầu đau đớn của vợ con chàng
sau khi chàng chết. Chàng lấy tay khoa khoa như muốn xua đuổi những cái hình ảnh
ghê gớm, đau thương, những cái tư tưởng ai oán, não nùng ấy đi để cho chàng được
thảnh thơi mà chết. Chàng khoa tay mạnh quá thế nào đụng phải bức ảnh của vợ
con để ở góc bàn, rơi xuống sàn đánh độp một tiếng. Chàng giật nẩy mình, cái giật
mình của một kẻ đang làm một việc gì bí mật trong chỗ kín đáo mà bỗng có tiếng
động. Không biết tại làm sao – có lẽ cái bản năng nó sai khiến – chàng vội vàng
nghiêng mình lấy tay nhặt lên, rồi chàng nhìn….
Vẻ mặt xinh xắn, tươi tỉnh của vợ con chàng lồ lộ ra ở trên ảnh
khiến chàng phải sửng sốt, đau đớn. Chàng tự xét mình không đủ can đảm ngồi
nhìn những cái vẻ mặt yêu mến, xinh xắn, tươi tỉnh kia nó phải buồn rầu, nhăn
nhó sau khi mõ tòa đến tịch biên cơ nghiệp chàng. Chàng tưởng tượng đến phải mục
kích những nỗi thiếu thốn nghèo nàn mà sau này vợ con chàng phải chịu mà chàng
ghê sợ. Nhất định là chàng phải chết.
Nhưng nghĩ rằng trong bao nhiêu năm giời, vợ con chàng đã đem
hết một tấm lòng yêu chàng, khiến cho cái đời chàng trong cái thời hạn ấy thật
đã được hoàn toàn sung sướng, chàng lại muốn trông thấy mặt một lần cuối cùng nữa.
Chàng dở bức thư viết cho vợ lúc mười giờ (nghĩa là một giờ
sau khi cả quyết tự tử) ra đọc lại xem nó đã đủ để an ủi vợ chàng sau khi chàng
chết chưa.
Chàng đọc xong bức thư, lấy chìa khóa sẽ mở cửa rồi vào buồng
vợ.
Ngọn đèn Philips xanh mười lăm nến như muốn đem bọc hết cả đồ
đạc vào trong một luồng hào quang ấm áp, êm đềm. Bùi-Nguyên sẽ rón rén đến cạnh
giường mở tấm màn tuyn, mùi hương thơm tho ở trong thoang thoảng bay ra.
Trên cái nệm phủ drap trắng, người thiếu phụ đang thiêm thiếp
một giấc hòe nhẹ nhàng, thú vị. Cái coóc-sè mùi hường mỏng và ngắn như bó lấy một
khổ người óng ả hồng hào, để lộ ra những bộ phận nõn nà, mũm mĩm mà một nhà
điêu khắc đại tài cũng phải chịu rằng không đủ cái hoa tay khéo léo để nặn
nên những cái tuyệt mỹ như thế. Cái hơi thở đều đặn làm cho cử động cái ngực nở
mà phồng. Dưới cái riềm đăng-ten lỗ chỗ, lộ ra những mảnh thịt trắng ngần. Cái
món “quà của đàn ông” tròn nùng nục, tức tối rằng đã bị giam hãm, như muốn nhô
đầu ra để phản đối sự câu thúc quá chặt chẽ kia. Một vài sợi tóc mây đen nháy
xõa ra ở trên mặt như muốn làm tăng cái vẻ đẹp của cặp má mịn màng chẳng chút
phấn dồi. Làn môi đỏ thắm chẳng chút son tô ở trên cái khuôn mặt bầu bĩnh nõn
nà ấy như gọi ai ghé môi vào để hưởng lấy những cái hôn nồng nàn, say sưa, mơ
màng…
Bùi-Nguyên đứng nhìn cái tòa ngọc thiên nhiên ấy, trông cái sắc
đẹp biến thành người mà toàn thể nửa hở, nửa kín như thúc giục tấm lòng thờ cái
đẹp, yêu cái đẹp mà chẳng động tâm. Có lẽ cái lòng cả quyết muốn bước vào cửa
ông Thần Chết đã giết sống cái lòng mỹ cảm của chàng chăng? Trên cái vẻ mặt lạnh
lùng khắc khổ kia, trước cái cử chỉ điềm tĩnh ấy, ta không thấy một cái triệu
chứng gì nó tỏ cho ta biết rằng con người đứng kia đã xúc động.
Về khuya, giời hơi lạnh, Bùi-Nguyên sẽ lấy cái chăn gấm mỏng
phủ lên bụng cho vợ, thở dài một tiếng rồi quay sang buồng con.
Thoạt mở màn, chàng đã được thấy một cảnh tượng rất ngộ
nghĩnh nên thơ. Thằng Tý tròn trĩnh, bầu bĩnh như một con búp bê nằm ngửa tênh
hênh gác chân lên một con voi bằng cao-su to gần gấp đôi nó (dễ thường tối nào
nó cũng phải cho con voi ngủ chung thì mới được ngon giấc). Trên cái khuôn mặt
bánh dầy, đôi má hây hây đỏ phảng phất như trái đào. Dưới đôi lông mày, cặp mắt
ti hí như bà mụ đang dạy nhìn những cảnh thần tiên mơ mộng ở tận đâu đâu.
Đôi bàn chân nhỏ nhắn, xinh xẻo, thanh tao như giời sinh ra chẳng phải là để giẫm
lên chông gai, bùn lầy ở trên cõi đời nhục thể này. Hai cánh tay mềm mại, tròn
nùng nục như chỉ để ôm lấy cổ những người quí yêu mà ghì vào ngực. Toàn thể các
bộ phận đại để còn là trong cái thời kỳ phôi thai, nhưng nếu giời để cho sống
làm người, hay ăn chóng nhớn, thi chứa chan biết bao nhiêu là hy vọng.
Thằng Tý nó nằm chếch về một bên giường, tay co tay duỗi, tóc
thì bơ phờ, trông thấy «ghét» làm sao! «Ghét» đến nỗi ta phải mắng yêu ngay một
câu: «Thằng em chó». Mà «chó» tệ. Toàn thể, cái gì trông cũng ngây thơ, dễ
thương lắm.
Ai cũng phải nhận rằng cái cảnh tượng một vị giai nhân đang
say giấc nồng là đẹp, nhưng kể ra thì một đứa bé nằm ngủ– mà một đứa bé như thằng
Tý – còn có vẻ thần tiên hơn nhiều.
Bùi-Nguyên tưởng tượng sắp phải từ giã đứa con kháu khỉnh
ngoan ngoãn như thế kia mà lòng chàng bồn chồn, sôi nổi. Chàng sẽ ngồi ghé xuống
giường rồi cúi đầu hôn con. Có lẽ lúc ấy thằng Tý nó đang mê một giấc đánh nhau
với ông Ộp, ông Ngáo gì đó mà khi cái hôn âu yếm kia vừa đặt lên gò má lại
trúng ngay với cái thời kỳ trong mộng, nó liền giang hai cánh tay yếu ớt ra ghì
chặt lấy cổ Bùi-Nguyên mà hét to:
– Thày đánh chết nó đi cho Tý nhé!
Rồi hình như nó đã được ẩn dưới một cái sức mạnh rất có hiệu
lực của một người cha yêu nó mà che chở cho nó, cái giọng sợ hãi hớt hải đã
tiêu tán đi mà nhường chỗ cho cái giọng vui vẻ đắc chí, đắc chí với kẻ thù vô
hình rằng: “Tao đã gần thầy tao, thì mày liệu hồn”. Nó lại như có vẻ khiêu
khích ú ớ nói:
– Mày dám lại đây thì thày tao đánh mày chết.
Rồi như muốn thực hành ngay cái lời dọa của nó khi nó đã chắc
dạ có thầy nó ở bên cạnh, nó co chân đá một cái. Khổ cho con voi vô tội, bị đá,
kêu đánh «bịch» một tiếng. Có lẽ giấc mộng của thằng Tý đến đấy là hết, nên nó
lại ngủ, cứ ôm cổ thầy nó mà ngủ.
Bùi-Nguyên thấy hai cánh tay bé hỏng của nó ghì chặt lấy cổ
chàng như muốn đem da thịt nó mà nhập làm một với da thịt chàng: chàng thấy
cái hơi thở thơm tho của nó như một luồng gió ở trên cung tiên đưa xuống đánh
tan những nỗi u sầu, thảm khốc, chứa chất ở trong lòng chàng. Nhưng câu nói rất
ngây thơ của thằng Tý trong khi nằm mê khiến cho chàng nghĩ đến cái chết mà ghê
sợ, không phải là ghê sợ vì phải chết, ghê sợ rằng khi chết rồi thì lấy ai làm
cái bình phong đón lấy những nỗi đau thương, những sự khó khăn để che chở cho đứa
con còn măng sữa kia, trên bước đường đời chông gai gió bụi này. Chàng tự hỏi
chàng có quyền bắt đứa con kia phải bơ vơ, khốn khổ, đau xót, nhục nhằn về cái
chết của chàng không? Nghĩ đến đây, mồ hôi đổ ra như tắm.
Bùi-Nguyên sẽ lấy tay gỡ cánh tay con ra. Cái cánh tay
yếu ớt mà mạnh mẽ làm sao!
Chàng sẽ đứng dậy, hai mắt đăm đăm nhìn con. Rồi hai giọt nước
mắt mà ta có thể nói rằng hai giọt máu mắt đầu tiên trong đời chàng dần dần nổi
lên ở khóe mắt, rồi lại từ từ rơi xuống gò má. Chàng sẽ lấy tay gạt nước mắt,
cúi đầu hôn con, rồi trở về buồng giấy, cầm ba bức thư tuyệt mệnh xé nhỏ, ném
vào sọt giấy…
Ngoài đường, mấy bác phu xe vẫn co ro ẩn dưới mái hiên mà hạt
mưa gieo trên nóc nhà vẫn đều đặn tí tách như không quan tâm gì đến sự đổi thay
của lòng người.
5- Con quay
Tôi là con vợ lẽ, anh tôi là con vợ cả. Anh tôi thì lắm đồ
chơi mà tôi thì chẳng có một thứ gì. Nội các thứ đồ chơi của anh tôi, nào ô-tô,
nào tầu hỏa, nào búp bê… tôi chẳng ưa thứ nào cả, chỉ thích nhất con quay sừng.
Mỗi khi tôi thấy anh tôi quấn giây, rồi xoay mình vươn vai đánh, con quay nó
vùn vụt ở trong tay bay ra, quay tít thò lò, tiếng kêu vo vo. Nó chạy, nó lượn,
nó mới đậu làm sao.
Tôi ước ao:
«Giá tôi cũng có một con quay sừng như của anh tôi.»
Tôi đương chăm chú nhìn con quay thì ở đằng xa mẹ tôi cũng
chăm chú nhìn tôi, mà có lẽ mẹ tôi đoán biết sự mong ước của tôi bởi vì chỉ có
người mẹ mới thấy biết những sự bí ẩn ở trong lòng con, chỉ có những người nào
thương yêu nhau mới tỏ rõ tâm sự nhau.
Tôi chạy lại vồn vã bảo mẹ tôi rằng:
– Em thích con quay sừng kia quá, Chị Hai mua cho em một con
nhé.
– Chị Hai làm gì có tiền, hở em.
Tiếng mẹ tôi nói có vẻ buồn rầu thất vọng: con quay sừng kia
chỉ một hào bạc, mà không làm sao kiếm ra để mua cho đứa con cưng được vui
lòng!
Tôi nghe mẹ tôi nói, ngoảnh nhìn con quay mà tôi cũng buồn.
Hồi ấy, tôi mới lên chín, còn đi học chữ nho. Một hôm, tôi đi
học về, mẹ tôi đưa cho tôi một con quay. Con quay này không phải là con quay sừng,
cũng không phải là con quay tiện, nó chỉ là một con quay đẽo, mà lại là một con
quay mà mẹ tôi đẽo cho tôi. Tôi đánh nó dẫu không tít, không đậu bằng con quay
của anh tôi, nhưng tôi yêu quý nó hơn hết cả các con quay sừng ở trên trần thế.
Tôi có con quay thích quá, lúc nào cũng đánh, ngoài sân, sau
vườn, dưới bếp, nhà ngang. Mẹ tôi nhìn tôi đánh quay, thấy tôi vui sướng mà mẹ
tôi cũng vui sướng: mẹ tôi vui sướng cái vui sướng của tôi.
Một hôm, ở trong bếp, tôi muốn khoe tài với mẹ tôi, tôi bảo mẹ
tôi:
– «Em đánh quay giỏi lắm, để em đánh cho chị Hai coi».
Rồi tôi quấn giây, dang thẳng cánh, bổ một cái thật mạnh, thì
ôi thôi! cái giây vướng phải rổ bát, đổ úp xuống, kêu đánh ầm một tiếng, bát
đĩa vỡ tung tóe. Tôi tái xanh cả mặt, sợ run lập cập.
Mẹ già tôi đang quét tước ở trên nhà ngang, sồng sộc chạy xuống
hỏi:
– Đứa nào đánh vỡ gì?
– Thưa bà, tôi trót nhỡ tay.
Mẹ tôi nói chưa dứt lời thì mẹ già tôi túm lấy đầu dầm xuống,
sẵn cái chổi cầm tay, đánh túi bụi.
Thương ôi! mẹ tôi thấy tôi bé nhỏ, không nỡ để mẹ già tôi
đánh tôi nên nhận cái lỗi của tôi làm lỗi của mình để chịu đòn thay cho tôi.
Từ đấy, tôi không đánh quay nữa mà tôi thấy ai đánh quay tôi
cũng chẳng buồn nhìn.
Nhưng con quay kia mẹ tôi đẽo cho tôi, tôi không đành lòng mà
vứt nó đi, tôi giữ, tôi giữ cho đến ngày nay để kỷ niệm cái đời đau đớn và hy
sinh của mẹ tôi đối với tôi.
6- Hai hào
Ký-giả thường được nghe rất nhiều lời bình phẩm quá đáng đối
với dân làng Bẹp, Ký-giả thiển nghĩ những người bạo mồm như thế toàn là những
người chưa biết hút thuốc phiện, hay hút chưa đến thời kỳ «đã biết khoái», hoặc
chưa được mục kích cái oai quyền chí thần, chí thánh, chí đại, chí tôn của vị
thần Ấn-độ. Vậy Ký-giả xin vì các bạn làng «Cơm đen» kể một chuyện sau đây mà
Ký-giả được mục kích mong các bạn làng «Cơm trắng» trước khi nói một câu gì có
can thiệp đến việc «hút sách» hẵng nên nhớ lấy câu tục ngữ: «chó ba khoanh mới
nằm, người ba lăm mới nói». Ký-giả lại xin thú thực rằng từ ngày được mục kích
tấn bi kịch này, Ký-giả đối với thần «Ấn-độ» chỉ một lòng kính cẩn mà không dám
khinh nhờn.
Truyện thực xin kể sau đây:
Cậu Nghĩa đi học về đến nhà mếu máo nói với mẹ:
– Mẹ ơi, thày giáo bắt phải mua một quyển «Quốc văn» hai hào,
nếu chiều nay không có thì thày đuổi. Mẹ cho con tiền mua nhé.
Cậu Nghĩa vừa nói vừa ôm lấy đầu mẹ hôn lấy hôn để. Bác Cả
đương nằm rền rĩ ở trên giường nghe con nói, da mặt đã xanh bỗng nhợt hẳn đi,
hai hàng nước mắt không biết tự đâu luôn ra, ướt đầm gò má. Bác muốn nói mà
không nói được, chỉ lấy tay vuốt ve con. Cậu Nghĩa thấy mẹ khóc mà không trả lời,
cậu tái hẳn người đi. Cậu hiểu, cậu hiểu là nhà cậu nghèo, mẹ cậu ốm không đi
chợ, tiền thuốc, tiền gạo còn chưa có, tiền đâu mà mua sách cho cậu được. Cậu
bùi ngùi nhưng có vẻ tiếc mà bảo mẹ rằng:
– Thôi thế thì thôi, mẹ nín đi, con ở nhà chơi với mẹ vậy.
Cậu vừa nói vừa lấy tay vuốt mái tóc mẹ, cậu thấy mặt mũi hốc
hác, hai mắt quầng đen hõm hẳn xuống, cậu sẽ cúi đầu sát vào tận mặt mẹ cậu mà
hỏi:
– Mẹ ốm lắm ư, mẹ đã ăn cơm chưa?
Trong cái óc ngây thơ của cậu, cậu tưởng tượng hễ ốm cứ ăn
cơm nhiều là khỏi, mà cậu nghĩ thế vị tất đã không đúng. Những người ốm chẳng
là những người rất ít ăn sao? Cậu vội vã chạy xuống bếp xúc bát cơm nguội,
lấy quả cà đem lên, giục mẹ cậu ăn. Bác Cả nể lời cầm lấy bát cơm.
– Mẹ cố ăn đi để đi chợ.
Đi chợ, đi chợ. Hai chữ ấy ở trong óc cậu nó có một cái ý
nghĩa khác: mẹ cậu đi chợ búa chẳng là đi mua lấy sự sung túc cho cả nhà cậu ư?
Đã gần ba tháng nay, chỉ vì mẹ cậu ốm không đi chợ được mà nhà thành ra túng bấn,
bữa đói bữa no. Trước kia, lúc mẹ cậu còn quẫy gánh cháo ra chợ, dẫu chẳng được
phong phú lắm, nhưng mỗi lần cậu xin tiền mua giấy bút, sách vở, mẹ cậu vẫn sẵn
lòng cho ngay. Mà ngày nay…ngày nay chỉ vì mẹ cậu ốm nằm nhà nên đã ba hôm nay,
cậu khẩn khoản xin hai hào mà chưa có.
Bác Cả không ăn được bèn nhường bát cơm cho con ăn. Cậu Nghĩa
còn dùng dằng hai ba lần mới cầm lấy mà bảo:
– Mẹ không ăn thì con ăn vậy.
Rồi cậu cởi cái áo dài treo lên mắc tử tế. – Sự cẩn thận ý tứ
chẳng là học được trong khi nghèo nàn ru?
Cậu ăn lấy làm ngon miệng quá, khiến cậu phải tự nghĩ: «cơm dẻo
thế này, cà dòn thế này mà mẹ mình không ăn thì biết bao giờ cho khỏi được?» Nếu
ông lang thì đã nghĩ: «không ăn được thế này, bệnh đã nặng lắm rồi». Nhưng cậu
mới 8 tuổi đầu, nào đã biết thế nào là ốm nặng với ốm nhẹ.
Vui thay cái tuổi đồng ấu mà cũng may thay, trong cái tuổi
«vàng» ấy, sự buồn rầu nó chỉ như gió thoảng mà thôi.
Bác Cả ngồi nhìn con ăn, thấy con kháu khỉnh, hiếu thảo,
thông minh thế kia, nay vì không tiền mua sách mà phải bỏ học thì đáng tiếc,
đáng thương biết bao… Bác thấy cái hy vọng một đời bác nó tiêu tan đi mà bác buồn.
Bác bấm lưng trong nhà tiền đã sạch trơn. Chẳng còn một vật gì đáng tiền cả, đi
vay thì biết vay ai mà thiên hạ có ai cho kẻ nghèo vay bao giờ. Nội trong xóm
bác, có nhà cụ Tiên là giầu có, nhưng cụ riết róng lắm, không có vật gì đem cầm
thì cụ chẳng cho vay không bao giờ. Bác nghĩ, nghĩ mãi… Sau bác cố bò dậy, mon
men xuống bếp còn cái niêu bằng đồng, bác cọ rửa tử tế rồi mang đi.
Cụ Tiên nghe bác kể lễ nỗi nhà cũng có vẻ ái ngại bèn bảo:
– Hôm nọ, bác giai có đem cái nồi ấy sang đây đòi cầm lấy một
hào tôi không cầm, nhưng có phải bác cần tiền mua sách cho cháu, thì tôi cũng
làm phúc cầm giùm cho, nhưng phải giả lãi năm xu đấy.
Trong khi bác Cả gái, chân nam đá chân xiêu, thất thểu, hổn hển
đi như thế, bác Cả giai ở nhà làm gì?
Bác ngồi như cú rũ ở trong buồng tối om om đối diện với ngọn
đèn phù dung mờ tỏ mà nước mắt nước mũi chảy ra ròng ròng. Không phải bác cám cảnh
nhà nghèo vợ ốm mà khóc đâu. Bác hết thuốc hút đã ba hôm nay rồi. Bác cầm cái hến
giơ lên đặt xuống mà bác ngao ngán. Hến không, nhẵn bóng như chùi. Bác sờ đến
cóng sái, sái cũng hết. Bác thấy chân tay bác như dập gẫy, trong xương hình như
có giòi bọ đục, buồn bã khó chịu; ruột gan bác như đứt ra từng mảnh, đau đớn
như ai cầm dao rạch ra vậy. Bác hết đứng lại ngồi, hết nằm lại đứng, lúng túng
quay cuồng mãi cũng chẳng nghĩ được kế gì cho ra thuốc, bác chỉ ngáp, bác ngáp
mãi… Bác chỉ còn mong ả phù dung đem cái thần tài lại cho bác. Nhưng ác thay, ả
phù dung chỉ là một vị hung thần đem người đầy xuống giếng khơi rồi bỏ đó… Bác
cầm cái dọc tẩu đưa lên mũi hít khan, hít vã như con chó săn đánh hơi thấy vết
cầy cáo vậy. Mùi tẩu thơm tho phảng phất làm cho ruột gan bác bồn chồn như ai
đem trăm nghìn cái kim đâm vào, muốn ngủ mà không ngủ được.
Cậu Nghĩa ăn xong, đang hí hoáy rửa bát thì nghe ở cổng có tiếng
mẹ gọi. Cậu vội vã chạy ra. Bác Cả gái người đứng cạnh hàng rào run đây đẩy, mặt
xanh như tầu lá, nhưng vẻ vui mừng như lộ ra ở hai con mắt bác. Bác đưa cái tay
xương bọc lấy ra dúi cho cậu Nghĩa hai hào mà bảo:
– Đây tiền đây, con đem đi mà mua sách nhưng đi mua ngay đi,
khéo thầy con biết thì lại lấy mua thuốc phiện mất.
Cậu Nghĩa mừng rỡ, cầm tiền, tất tả chạy vào nhà lấy áo mặc để
ra phố. Cậu cũng chẳng nghĩ gì đến mẹ ốm, nhà nghèo, giá để hai hào kia đem mua
thuốc thì có lẽ cũng giúp cho sức khỏe mẹ cậu được ít nhiều – nhưng cái tuổi cậu
chưa phải cái tuổi ấy…
Cậu hấp tấp quá, chạy bay vào nhà, chẳng may vấp phải bực cửa
ngã chúi xuống, hào ván ở trong túi cậu bắn ra kêu đánh keng một tiếng!!!
Bác Cả giai đang phục vị ở trong buồng, hai mắt lim dim. Như
con hổ đói đã bẩy ngày nay bỗng thấy tiếng hươu kêu bên cạnh, bác vội chồm dậy.
Hai con mắt bác sáng quắc như hai con mắt vọ chăm chú tìm…kiếm… Đồng hào ván trắng
hếu nằm tròn xoe giữa nhà. Nhanh như cái cắt, bác nhẩy lại vồ…. Ngay lúc ấy, cậu
Nghĩa tuy đau điếng cả người, nhưng thấy bộ dạng bố thế, cậu hiểu…cậu cố gượng
quờ tay ra vơ lấy đồng hào cùng một lúc với cái tay «hổ đói» kia. Hai cha con
giằng nhau, đồng hào văng ra. Bác trai vội vàng dẫm chân lên. Cậu Nghĩa chồm dậy,
chạy lại, du bố ra, cố đẩy chân bố để lôi lấy đồng hào, miệng thì kêu:
– Giả đây! Giả đây!
Bác Cả cứ trơ như đá vững như đồng, tưởng Từ Hải xưa kia thất
trận, khí thiêng chung đúc cũng dạn dầy đến thế là cùng. Chân bác như có những
bù-long sắt tán chặt xuống đất. Cậu Nghĩa lay bố chẳng chuyển vội khóc òa lên gọi
mẹ. Mẹ cậu ở sân nghe tiếng vội chạy vào, trông thấy cái quang cảnh ấy bèn nói
với chồng rằng:
– Nhà sao lại tệ thế? Tôi ốm mấy tháng nay, một ngụm thuốc chẳng
dám uống, có đồng nào đưa nhà mua thuốc phiện cả, nhưng tiền này là tiền cho
con mua sách, tôi nói khó với người ta mãi mới vay được, nhà lại lấy của con,
thế nhà định không cho con đi học lấy dăm ba chữ à?
Bác Cả trai vẫn đứng trơ như bụt mọc, vợ nói gì mặc.
Nói chẳng được, bác Cả gái giận, bèn chạy lại níu lấy chồng
lôi ra. Bác Cả trai như có quỷ quái gì nhập vào, chẳng nghĩ đến vợ ốm, bác chỉ
lo vợ lấy mất hai hào nó là cái «nguồn sống» của bác. Bác sợ… sợ phải đeo dài
cái khổ cảnh dở sống, dở chết mà bác đã phải chịu trong ba hôm nay.
Hai hào kia đối với người ta chỉ là hai hào, nhưng đối với
bác nó là một phương pháp cải tử hoàn sinh có thể tìm thấy ở trong mấy điếu
thuốc, mấy điếu sái, nay mà để ai cướp mất, chẳng khác cướp sống cái đời bác đi
sao. Nhưng thà chết một cách khác, thà chịu đâm, chịu chém, chịu mổ, chịu xẻ mà
chết, chứ phải hành hạ như ả phù dung đã hành hạ bác trong ba hôm nay thì bác
không sao chịu nổi. Bác bèn dùng hết sức «thần» du vợ một cái thật mạnh, miệng
thì quát:
– Ốm thì chết! Chẳng học thì đừng! Ông hút đã!
Bác gái mình yếu như sên, bị đẩy một cái quá mạnh, ngã lăn
đùng ra, máu mồm, máu mủi đổ ra lênh láng. Cậu Nghĩa thấy mẹ ngã, vội chạy lại
ôm chầm lấy mẹ, kêu lên một tiếng rồi ngất hẳn người đi…
Một lúc sau, người ta chỉ nghe tiếng đàn bà khóc, tiếng trẻ
khóc, tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ não nùng ai oán mà tuyệt nhiên chẳng thấy
tăm hơi bác Cả giai đâu.
Bác đi đâu…??? Bác đi mua thuốc.
Trong buồng, ngọn đèn dầu vẫn còn le lói… ả phù dung như mỉm
miệng cười…
Ký-giả viết đến đây, rùng mình sởn gáy, bút cầm ở tay rơi ra,
muốn viết mà không sao viết được nữa.
7- Cái xó bếp
Ông mãnh con, cứ bám nhằng nhẵng lấy con đ… ấy thì còn làm ăn
gì. Lại đây!…
Thằng Tý, bất cứ lúc nào, nghe thấy tiếng bà to béo, bệ vệ mà
cái quyền áp chế của kẻ mạnh cùng cái tập quán xấu xa của xã hội đã bắt nó phải
gọi bằng «mẹ» là nó lạnh cả gáy. Nó biết, hễ khi nào bà kia gọi đến nó thì phi
phải đánh tất phải chửi. Khổ thêm cho nó nữa, là mỗi lần, nó phải đánh, phải chửi
thì y như chị Hai là người yêu quý nhất đời của nó cũng bị đánh, bị chửi lây. Mỗi
lần bà kia gọi nó, nó tuy sợ chết đi mà cũng phải lại gần, khoanh tay, thưa:
– Bẩm mẹ bảo gì con?
Người ta bắt buộc nó phải cử chỉ lễ phép, phải nói năng cung
kính như thế. Nhưng cái tiếng mẹ, đối với nó, chẳng những không có ý nghĩa gì
mà lại gây cho nó lắm cảm giác hãi hùng. Chỉ có cái tiếng «Chị Hai» đối với nó
là có vẻ thiết tha. Mỗi lần nó gọi chị Hai, nó thấy trái tim nhỏ xíu của nó hồi
hộp, một tia sáng êm đềm, ấm áp ở trong con mắt nó bay ra mà bao phủ, mà ôm ấp
lấy cái người nó gọi. Nó yên trí rằng cái tiếng đáng yêu, đáng quý nhất đời là
cái tiếng chị Hai, mà cái tiếng mẹ là cái tiếng đáng ghê, đáng sợ nhất. Cái tiếng
mẹ đối với nó là biểu hiệu cho sự đòn đánh, ghét bỏ mà cái tiếng chị Hai là
hình ảnh của sự yêu thương nồng nàn.
Khối óc non nớt, trái tim trong sạch của nó đã định nghĩa cho
hai tiếng gọi kia những tự bao giờ.
Nó lên sáu, người ta cho nó đi học thì nó cũng đi học chứ nào
nó có hiểu đi học để làm gì. Nhưng mỗi lần, chị Hai nó bế nó vào lòng, nước mắt
ràn rụa bảo nó: «Em cố học đi cho chị Hai nhờ» thì nó thấy nó thích học lắm, chứ
nào nó có biết chị Hai yêu quý của nó được nhờ gì về sự học của nó đâu. Nó chỉ
biết rằng nó đi học thì thêm một cái cớ cho mẹ già nó nhiếc móc chị Hai nó, mỗi
khi mẹ già nó phải bỏ tiền ra mua thoi mực hay chục giấy cho nó. Tuy thế, nó vẫn
thích học, mà nó lại học chăm bởi vì nó cảm thấy mỗi lần chị Hai nó thấy nó
«kêu như con cuốc mùa hè» là trên vẻ mặt thảm sầu kia lại hiện ra một vẻ vui mừng.
Nó chỉ muốn cho chị Hai nó được vui nên nó càng chăm học. Mỗi
lần nó cắp sách về là mỗi lần chị Hai nó đon đả hỏi:
– Em có thuộc bài không. Em viết đã tốt chưa, cụ Đồ có khen
em không?
Nó tươi cười mà gật đầu. Cái gật đầu rất có ý nghĩa khiến cho
mỗi lần chị Hai nó trông thấy lại tủm tỉm cười. Mỗi lần nó thấy chị Hai
nó tủm tỉm cười, nó những muốn chạy lại ôm chầm lấy chị Hai nó, nhưng con mắt dữ
dội của cái bà to béo bệ vệ đứng đằng kia lại làm cho nó sợ hãi thành thử nó
cũng chỉ tủm tỉm cười và ngó chị Hai nó một cách rất yêu thương mà không dám lại
gần.
Một điều mà nó vẫn không hiểu là tại làm sao chị Hai nó chỉ
dám gọi nó là con trong lúc vắng người, còn khi đứng trước mặt cái bà to béo bệ
vệ kia thì chỉ kêu nó bằng anh. Người khác gọi nó thế là sự chí thường, chứ chị
Hai nó gọi nó thế thì quá lắm. Cái tiếng anh có cái ý nghĩa giả dối, miễn cưỡng
đối với nó rất là khó chịu. Nhưng chị Hai nó khéo dùng một cái giọng rất dịu
dàng mà gọi nó, nên cái tiếng anh nó cũng không cách biệt cái tiếng con là mấy,
cũng không đến nỗi nhạt nhẽo cho lắm. Nó chỉ băn khoăn tự hỏi làm sao chị Hai
nó không có quyền gọi nó bằng con nhỉ?
Cứ như ý nó thì lúc nào nó cũng muốn cho chị Hai nó gọi nó bằng
con, bởi vì nó xét thấy tiếng gọi kia thường đi đôi với một cái nhìn quyến luyến,
một cái hôn âu yếm, một vẻ mặt tươi cười.
Nó chỉ muốn cho chị Hai nó lúc nào cũng gần gũi nó, ôm ấp nó,
bế bồng nó để cho nó được vuốt tóc, sờ má, bẹo mũi, để cho lúc nào nó díp mắt,
nó được gục đầu vào ngực chị Hai nó mà ngủ.
Canh đã khuya, hạt mưa gieo tí-tách, Hà Nội đang chìm đắm trong một cảnh buồn rầu thảm đạm.
Phố xá đã vắng tanh. Lơ thơ một vài cái xe, áo tơi cánh gà bưng kín mít, ghếch càng lên bờ hè mà anh xe thì co ro ngồi ẩn mưa ở dưới hiên. Vài con mèo nó cắn nhau ở trước cửa một nhà kia gào lên những tiếng «mao… o» lanh lảnh ghê mình.
… Trong cái buồng giấy rất lịch sự trang hoàng theo lối mới, dưới cái ánh sáng le lói của ngọn đèn điện, Bùi-Nguyên đang cắm cúi viết một bức thơ. Chắc bức thơ kia có lắm điều khó nói, nên thỉnh thoảng chàng lại cau đôi lông mày, cắn móng tay, nghĩ ngợi…
Sau nửa giờ đồng hồ nghí ngoáy, vất vả, bức thư đã viết xong, chàng ném bút xuống bàn, xoa tay có vẻ khoan khoái, nhẹ nhàng như đã cất được một gánh nặng. Chàng châm thuốc hút rồi cầm bức thơ đọc lại.
Hanoi, le 14 juin 1934
Thưa chú,
Khi chú nhận được bức thơ này, thì cháu đã ra người thiên cổ, chắc chú phải cho cháu là một kẻ hèn nhát không chịu nổi nỗi đau đớn ở trên đời mà phải quyên sinh. Cháu xin thú thực với chú rằng cháu không có cái can đảm chịu được những nỗi chênh lệch, éo le ở đời. Cháu không thể khoanh tay giương mắt ngồi nhìn cái cơ nghiệp của cha ông vì cháu buôn thua bán lỗ, vì cháu bất tài mà phải sa vào tay kẻ khác, cháu không thể đan tâm mục kích cái cảnh tượng tan tành của gia đình cháu được. Cháu tưởng đến ngày một ngày hai đây, bọn khách nợ tham lam và tục tằn họ sẽ đến đây mà xây xé, tranh giành với nhau những đồ đạc nó là những người bạn trong cái cuộc đời êm ấm xưa kia của cháu, cháu tưởng đến cái vẻ mặt buồn rầu ngơ ngác của vợ con cháu trong cái cảnh tan nát ấy mà cháu không thể nào sống được nữa. Cháu biết rằng, cháu chết đi thì để nỗi xót thương, thiếu thốn cho vợ con cháu, nhưng nghĩ rằng chú là người rất thương yêu cháu, chắc là sau khi cháu chết, chú sẽ đem tấm lòng giời bể kia mà đùm bọc lấy vợ con cháu, nên cháu cũng đành lòng mà nhắm mắt.
Chú ôi, «con chim lúc chết kêu thương», xin chú nghĩ đến cái tiếng gọi cuối cùng của cháu lúc sắp từ giã cõi đời này mà tha hết cả tội lỗi cho cháu cùng là che chở cho vợ con cháu, cho chúng nó khỏi bơ vơ thì cái ơn cao dày ấy dẫu kiếp này không giả được, kiếp sau cháu cũng xin thác sinh làm thân trâu ngựa để đền bồi.
Trăm lạy chú
BÙI-NGUYÊN
Bùi-Nguyên đọc xong bức thơ, vất điếu thuốc lá, mở ngăn kéo lấy ra một con dao cạo.
Trông thấy lưỡi dao sáng quắc, lạnh lẽo kia nó sắp đưa chàng về nơi chín suối, chàng chẳng có vẻ gì rụt rè ghê sợ mà lại cám ơn nó sắp rũ sạch cho chàng những nỗi đau thương nhục nhằn. Chàng lấy ngón tay cái vuốt khẽ lưỡi dao, xem nó có thiệt bén không. Rồi chàng giơ cổ tay trái lên, tháo cái đồng hồ tay ra. Chàng lại đứng dậy lấy chìa khóa đóng hết các cửa lại. Chàng khóa cửa xong, về ngồi ghế, xếp ba bức thơ gửi cho chú, cho vợ, cho quan Tòa vào ngăn kéo rồi cởi cái áo ngoài ra, vén cánh tay áo sơ mi lên, lấy ngón tay giữa bên phải tìm cái mạch máu cái, chú ý như một vị nguyên soái đang tìm địa thế để triệt hạ quân thù ở trên bức bản đồ vậy.
Trông chàng lúc bấy giờ vẻ mặt nghiêm trang, cả quyết, cử chỉ điềm đạm, chậm chạp, ta tưởng ngay đến một vị y sĩ đang đem hết cái trí thông minh suy xét để xem mạch cho một người bệnh, chúng ta không thể ngờ rằng con người kia đang đi tìm cái chết, đang đi kiếm cái huyệt hiểm yếu để cầu lấy một cái chết chắc chắn, ta không thể ngờ rằng kẻ kia đang kiếm cách để làm cho bao nhiêu máu nóng trong người sẽ trào ra hết, khiến cho cái thân thể mạnh mẽ hồng hào kia sẽ trở nên một cái thây ma lạnh lẽo xám xịt.
Tử huyệt đã tìm được rồi. Bùi-Nguyên lấy ngòi bút đánh dấu mực vào cho nhớ.
Chỉ chờ một nhát dao mạnh và nhanh là cái mạch máu kia sẽ đứt phăng ra, chàng sẽ ngồi nhìn sự sống nó từ từ rời bỏ thân thể chàng…
Các cửa đã đóng kín không còn ai có thể đến bắt chàng sống được nữa.
Năm phút… mười phút…
Chàng sẽ ngã lăn ra. Thế là thoát nợ!
Bùi-Nguyên nghĩ đến đấy mỉm cười, một cái cười lạnh lẽo, ghê sợ của ông Thần Chết. Chàng liếc nhìn chung quanh buồng như muốn cùng các đồ vật kia vĩnh biệt. Chàng cầm lưỡi dao sáng loáng giơ lên, lạnh lùng đều đặn như một cái máy, mắt nhìn vào dấu mực ở cổ tay.
Trông chàng lúc bấy giờ điềm tĩnh cả quyết cơ hồ như không còn cái sức mạnh gì có thể bắt chàng sống được nữa thì bỗng cái đồng hồ quả lắc ở buồng bên cạnh đánh 12 tiếng: mười hai tiếng đều đặn, thánh thót, khắc khoải, trong bầu không khí yên lặng như những tiếng gọi của trái tim vợ con chàng gọi chàng. Tiếng chuông ngân ra như có vẻ khóc than, rền rĩ bắt chàng phải lùi cái chết lại một lúc mà nghĩ đến cái cảnh thảm sầu đau đớn của vợ con chàng sau khi chàng chết. Chàng lấy tay khoa khoa như muốn xua đuổi những cái hình ảnh ghê gớm, đau thương, những cái tư tưởng ai oán, não nùng ấy đi để cho chàng được thảnh thơi mà chết. Chàng khoa tay mạnh quá thế nào đụng phải bức ảnh của vợ con để ở góc bàn, rơi xuống sàn đánh độp một tiếng. Chàng giật nẩy mình, cái giật mình của một kẻ đang làm một việc gì bí mật trong chỗ kín đáo mà bỗng có tiếng động. Không biết tại làm sao – có lẽ cái bản năng nó sai khiến – chàng vội vàng nghiêng mình lấy tay nhặt lên, rồi chàng nhìn….
Vẻ mặt xinh xắn, tươi tỉnh của vợ con chàng lồ lộ ra ở trên ảnh khiến chàng phải sửng sốt, đau đớn. Chàng tự xét mình không đủ can đảm ngồi nhìn những cái vẻ mặt yêu mến, xinh xắn, tươi tỉnh kia nó phải buồn rầu, nhăn nhó sau khi mõ tòa đến tịch biên cơ nghiệp chàng. Chàng tưởng tượng đến phải mục kích những nỗi thiếu thốn nghèo nàn mà sau này vợ con chàng phải chịu mà chàng ghê sợ. Nhất định là chàng phải chết.
Nhưng nghĩ rằng trong bao nhiêu năm giời, vợ con chàng đã đem hết một tấm lòng yêu chàng, khiến cho cái đời chàng trong cái thời hạn ấy thật đã được hoàn toàn sung sướng, chàng lại muốn trông thấy mặt một lần cuối cùng nữa.
Chàng dở bức thư viết cho vợ lúc mười giờ (nghĩa là một giờ sau khi cả quyết tự tử) ra đọc lại xem nó đã đủ để an ủi vợ chàng sau khi chàng chết chưa.
Chàng đọc xong bức thư, lấy chìa khóa sẽ mở cửa rồi vào buồng vợ.
Ngọn đèn Philips xanh mười lăm nến như muốn đem bọc hết cả đồ đạc vào trong một luồng hào quang ấm áp, êm đềm. Bùi-Nguyên sẽ rón rén đến cạnh giường mở tấm màn tuyn, mùi hương thơm tho ở trong thoang thoảng bay ra.
Trên cái nệm phủ drap trắng, người thiếu phụ đang thiêm thiếp một giấc hòe nhẹ nhàng, thú vị. Cái coóc-sè mùi hường mỏng và ngắn như bó lấy một khổ người óng ả hồng hào, để lộ ra những bộ phận nõn nà, mũm mĩm mà một nhà điêu khắc đại tài cũng phải chịu rằng không đủ cái hoa tay khéo léo để nặn nên những cái tuyệt mỹ như thế. Cái hơi thở đều đặn làm cho cử động cái ngực nở mà phồng. Dưới cái riềm đăng-ten lỗ chỗ, lộ ra những mảnh thịt trắng ngần. Cái món “quà của đàn ông” tròn nùng nục, tức tối rằng đã bị giam hãm, như muốn nhô đầu ra để phản đối sự câu thúc quá chặt chẽ kia. Một vài sợi tóc mây đen nháy xõa ra ở trên mặt như muốn làm tăng cái vẻ đẹp của cặp má mịn màng chẳng chút phấn dồi. Làn môi đỏ thắm chẳng chút son tô ở trên cái khuôn mặt bầu bĩnh nõn nà ấy như gọi ai ghé môi vào để hưởng lấy những cái hôn nồng nàn, say sưa, mơ màng…
Bùi-Nguyên đứng nhìn cái tòa ngọc thiên nhiên ấy, trông cái sắc đẹp biến thành người mà toàn thể nửa hở, nửa kín như thúc giục tấm lòng thờ cái đẹp, yêu cái đẹp mà chẳng động tâm. Có lẽ cái lòng cả quyết muốn bước vào cửa ông Thần Chết đã giết sống cái lòng mỹ cảm của chàng chăng? Trên cái vẻ mặt lạnh lùng khắc khổ kia, trước cái cử chỉ điềm tĩnh ấy, ta không thấy một cái triệu chứng gì nó tỏ cho ta biết rằng con người đứng kia đã xúc động.
Về khuya, giời hơi lạnh, Bùi-Nguyên sẽ lấy cái chăn gấm mỏng phủ lên bụng cho vợ, thở dài một tiếng rồi quay sang buồng con.
Thoạt mở màn, chàng đã được thấy một cảnh tượng rất ngộ nghĩnh nên thơ. Thằng Tý tròn trĩnh, bầu bĩnh như một con búp bê nằm ngửa tênh hênh gác chân lên một con voi bằng cao-su to gần gấp đôi nó (dễ thường tối nào nó cũng phải cho con voi ngủ chung thì mới được ngon giấc). Trên cái khuôn mặt bánh dầy, đôi má hây hây đỏ phảng phất như trái đào. Dưới đôi lông mày, cặp mắt ti hí như bà mụ đang dạy nhìn những cảnh thần tiên mơ mộng ở tận đâu đâu. Đôi bàn chân nhỏ nhắn, xinh xẻo, thanh tao như giời sinh ra chẳng phải là để giẫm lên chông gai, bùn lầy ở trên cõi đời nhục thể này. Hai cánh tay mềm mại, tròn nùng nục như chỉ để ôm lấy cổ những người quí yêu mà ghì vào ngực. Toàn thể các bộ phận đại để còn là trong cái thời kỳ phôi thai, nhưng nếu giời để cho sống làm người, hay ăn chóng nhớn, thi chứa chan biết bao nhiêu là hy vọng.
Thằng Tý nó nằm chếch về một bên giường, tay co tay duỗi, tóc thì bơ phờ, trông thấy «ghét» làm sao! «Ghét» đến nỗi ta phải mắng yêu ngay một câu: «Thằng em chó». Mà «chó» tệ. Toàn thể, cái gì trông cũng ngây thơ, dễ thương lắm.
Ai cũng phải nhận rằng cái cảnh tượng một vị giai nhân đang say giấc nồng là đẹp, nhưng kể ra thì một đứa bé nằm ngủ– mà một đứa bé như thằng Tý – còn có vẻ thần tiên hơn nhiều.
Bùi-Nguyên tưởng tượng sắp phải từ giã đứa con kháu khỉnh ngoan ngoãn như thế kia mà lòng chàng bồn chồn, sôi nổi. Chàng sẽ ngồi ghé xuống giường rồi cúi đầu hôn con. Có lẽ lúc ấy thằng Tý nó đang mê một giấc đánh nhau với ông Ộp, ông Ngáo gì đó mà khi cái hôn âu yếm kia vừa đặt lên gò má lại trúng ngay với cái thời kỳ trong mộng, nó liền giang hai cánh tay yếu ớt ra ghì chặt lấy cổ Bùi-Nguyên mà hét to:
– Thày đánh chết nó đi cho Tý nhé!
Rồi hình như nó đã được ẩn dưới một cái sức mạnh rất có hiệu lực của một người cha yêu nó mà che chở cho nó, cái giọng sợ hãi hớt hải đã tiêu tán đi mà nhường chỗ cho cái giọng vui vẻ đắc chí, đắc chí với kẻ thù vô hình rằng: “Tao đã gần thầy tao, thì mày liệu hồn”. Nó lại như có vẻ khiêu khích ú ớ nói:
– Mày dám lại đây thì thày tao đánh mày chết.
Rồi như muốn thực hành ngay cái lời dọa của nó khi nó đã chắc dạ có thầy nó ở bên cạnh, nó co chân đá một cái. Khổ cho con voi vô tội, bị đá, kêu đánh «bịch» một tiếng. Có lẽ giấc mộng của thằng Tý đến đấy là hết, nên nó lại ngủ, cứ ôm cổ thầy nó mà ngủ.
Bùi-Nguyên thấy hai cánh tay bé hỏng của nó ghì chặt lấy cổ chàng như muốn đem da thịt nó mà nhập làm một với da thịt chàng: chàng thấy cái hơi thở thơm tho của nó như một luồng gió ở trên cung tiên đưa xuống đánh tan những nỗi u sầu, thảm khốc, chứa chất ở trong lòng chàng. Nhưng câu nói rất ngây thơ của thằng Tý trong khi nằm mê khiến cho chàng nghĩ đến cái chết mà ghê sợ, không phải là ghê sợ vì phải chết, ghê sợ rằng khi chết rồi thì lấy ai làm cái bình phong đón lấy những nỗi đau thương, những sự khó khăn để che chở cho đứa con còn măng sữa kia, trên bước đường đời chông gai gió bụi này. Chàng tự hỏi chàng có quyền bắt đứa con kia phải bơ vơ, khốn khổ, đau xót, nhục nhằn về cái chết của chàng không? Nghĩ đến đây, mồ hôi đổ ra như tắm.
Bùi-Nguyên sẽ lấy tay gỡ cánh tay con ra. Cái cánh tay yếu ớt mà mạnh mẽ làm sao!
Chàng sẽ đứng dậy, hai mắt đăm đăm nhìn con. Rồi hai giọt nước mắt mà ta có thể nói rằng hai giọt máu mắt đầu tiên trong đời chàng dần dần nổi lên ở khóe mắt, rồi lại từ từ rơi xuống gò má. Chàng sẽ lấy tay gạt nước mắt, cúi đầu hôn con, rồi trở về buồng giấy, cầm ba bức thư tuyệt mệnh xé nhỏ, ném vào sọt giấy…
Ngoài đường, mấy bác phu xe vẫn co ro ẩn dưới mái hiên mà hạt mưa gieo trên nóc nhà vẫn đều đặn tí tách như không quan tâm gì đến sự đổi thay của lòng người.
5- Con quay
Tôi là con vợ lẽ, anh tôi là con vợ cả. Anh tôi thì lắm đồ chơi mà tôi thì chẳng có một thứ gì. Nội các thứ đồ chơi của anh tôi, nào ô-tô, nào tầu hỏa, nào búp bê… tôi chẳng ưa thứ nào cả, chỉ thích nhất con quay sừng. Mỗi khi tôi thấy anh tôi quấn giây, rồi xoay mình vươn vai đánh, con quay nó vùn vụt ở trong tay bay ra, quay tít thò lò, tiếng kêu vo vo. Nó chạy, nó lượn, nó mới đậu làm sao.
Tôi ước ao:
«Giá tôi cũng có một con quay sừng như của anh tôi.»
Tôi đương chăm chú nhìn con quay thì ở đằng xa mẹ tôi cũng chăm chú nhìn tôi, mà có lẽ mẹ tôi đoán biết sự mong ước của tôi bởi vì chỉ có người mẹ mới thấy biết những sự bí ẩn ở trong lòng con, chỉ có những người nào thương yêu nhau mới tỏ rõ tâm sự nhau.
Tôi chạy lại vồn vã bảo mẹ tôi rằng:
– Em thích con quay sừng kia quá, Chị Hai mua cho em một con nhé.
– Chị Hai làm gì có tiền, hở em.
Tiếng mẹ tôi nói có vẻ buồn rầu thất vọng: con quay sừng kia chỉ một hào bạc, mà không làm sao kiếm ra để mua cho đứa con cưng được vui lòng!
Tôi nghe mẹ tôi nói, ngoảnh nhìn con quay mà tôi cũng buồn.
Hồi ấy, tôi mới lên chín, còn đi học chữ nho. Một hôm, tôi đi học về, mẹ tôi đưa cho tôi một con quay. Con quay này không phải là con quay sừng, cũng không phải là con quay tiện, nó chỉ là một con quay đẽo, mà lại là một con quay mà mẹ tôi đẽo cho tôi. Tôi đánh nó dẫu không tít, không đậu bằng con quay của anh tôi, nhưng tôi yêu quý nó hơn hết cả các con quay sừng ở trên trần thế.
Tôi có con quay thích quá, lúc nào cũng đánh, ngoài sân, sau vườn, dưới bếp, nhà ngang. Mẹ tôi nhìn tôi đánh quay, thấy tôi vui sướng mà mẹ tôi cũng vui sướng: mẹ tôi vui sướng cái vui sướng của tôi.
Một hôm, ở trong bếp, tôi muốn khoe tài với mẹ tôi, tôi bảo mẹ tôi:
– «Em đánh quay giỏi lắm, để em đánh cho chị Hai coi».
Rồi tôi quấn giây, dang thẳng cánh, bổ một cái thật mạnh, thì ôi thôi! cái giây vướng phải rổ bát, đổ úp xuống, kêu đánh ầm một tiếng, bát đĩa vỡ tung tóe. Tôi tái xanh cả mặt, sợ run lập cập.
Mẹ già tôi đang quét tước ở trên nhà ngang, sồng sộc chạy xuống hỏi:
– Đứa nào đánh vỡ gì?
– Thưa bà, tôi trót nhỡ tay.
Mẹ tôi nói chưa dứt lời thì mẹ già tôi túm lấy đầu dầm xuống, sẵn cái chổi cầm tay, đánh túi bụi.
Thương ôi! mẹ tôi thấy tôi bé nhỏ, không nỡ để mẹ già tôi đánh tôi nên nhận cái lỗi của tôi làm lỗi của mình để chịu đòn thay cho tôi.
Từ đấy, tôi không đánh quay nữa mà tôi thấy ai đánh quay tôi cũng chẳng buồn nhìn.
Nhưng con quay kia mẹ tôi đẽo cho tôi, tôi không đành lòng mà vứt nó đi, tôi giữ, tôi giữ cho đến ngày nay để kỷ niệm cái đời đau đớn và hy sinh của mẹ tôi đối với tôi.
6- Hai hào
Ký-giả thường được nghe rất nhiều lời bình phẩm quá đáng đối với dân làng Bẹp, Ký-giả thiển nghĩ những người bạo mồm như thế toàn là những người chưa biết hút thuốc phiện, hay hút chưa đến thời kỳ «đã biết khoái», hoặc chưa được mục kích cái oai quyền chí thần, chí thánh, chí đại, chí tôn của vị thần Ấn-độ. Vậy Ký-giả xin vì các bạn làng «Cơm đen» kể một chuyện sau đây mà Ký-giả được mục kích mong các bạn làng «Cơm trắng» trước khi nói một câu gì có can thiệp đến việc «hút sách» hẵng nên nhớ lấy câu tục ngữ: «chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm mới nói». Ký-giả lại xin thú thực rằng từ ngày được mục kích tấn bi kịch này, Ký-giả đối với thần «Ấn-độ» chỉ một lòng kính cẩn mà không dám khinh nhờn.
Truyện thực xin kể sau đây:
Cậu Nghĩa đi học về đến nhà mếu máo nói với mẹ:
– Mẹ ơi, thày giáo bắt phải mua một quyển «Quốc văn» hai hào, nếu chiều nay không có thì thày đuổi. Mẹ cho con tiền mua nhé.
Cậu Nghĩa vừa nói vừa ôm lấy đầu mẹ hôn lấy hôn để. Bác Cả đương nằm rền rĩ ở trên giường nghe con nói, da mặt đã xanh bỗng nhợt hẳn đi, hai hàng nước mắt không biết tự đâu luôn ra, ướt đầm gò má. Bác muốn nói mà không nói được, chỉ lấy tay vuốt ve con. Cậu Nghĩa thấy mẹ khóc mà không trả lời, cậu tái hẳn người đi. Cậu hiểu, cậu hiểu là nhà cậu nghèo, mẹ cậu ốm không đi chợ, tiền thuốc, tiền gạo còn chưa có, tiền đâu mà mua sách cho cậu được. Cậu bùi ngùi nhưng có vẻ tiếc mà bảo mẹ rằng:
– Thôi thế thì thôi, mẹ nín đi, con ở nhà chơi với mẹ vậy.
Cậu vừa nói vừa lấy tay vuốt mái tóc mẹ, cậu thấy mặt mũi hốc hác, hai mắt quầng đen hõm hẳn xuống, cậu sẽ cúi đầu sát vào tận mặt mẹ cậu mà hỏi:
– Mẹ ốm lắm ư, mẹ đã ăn cơm chưa?
Trong cái óc ngây thơ của cậu, cậu tưởng tượng hễ ốm cứ ăn cơm nhiều là khỏi, mà cậu nghĩ thế vị tất đã không đúng. Những người ốm chẳng là những người rất ít ăn sao? Cậu vội vã chạy xuống bếp xúc bát cơm nguội, lấy quả cà đem lên, giục mẹ cậu ăn. Bác Cả nể lời cầm lấy bát cơm.
– Mẹ cố ăn đi để đi chợ.
Đi chợ, đi chợ. Hai chữ ấy ở trong óc cậu nó có một cái ý nghĩa khác: mẹ cậu đi chợ búa chẳng là đi mua lấy sự sung túc cho cả nhà cậu ư? Đã gần ba tháng nay, chỉ vì mẹ cậu ốm không đi chợ được mà nhà thành ra túng bấn, bữa đói bữa no. Trước kia, lúc mẹ cậu còn quẫy gánh cháo ra chợ, dẫu chẳng được phong phú lắm, nhưng mỗi lần cậu xin tiền mua giấy bút, sách vở, mẹ cậu vẫn sẵn lòng cho ngay. Mà ngày nay…ngày nay chỉ vì mẹ cậu ốm nằm nhà nên đã ba hôm nay, cậu khẩn khoản xin hai hào mà chưa có.
Bác Cả không ăn được bèn nhường bát cơm cho con ăn. Cậu Nghĩa còn dùng dằng hai ba lần mới cầm lấy mà bảo:
– Mẹ không ăn thì con ăn vậy.
Rồi cậu cởi cái áo dài treo lên mắc tử tế. – Sự cẩn thận ý tứ chẳng là học được trong khi nghèo nàn ru?
Cậu ăn lấy làm ngon miệng quá, khiến cậu phải tự nghĩ: «cơm dẻo thế này, cà dòn thế này mà mẹ mình không ăn thì biết bao giờ cho khỏi được?» Nếu ông lang thì đã nghĩ: «không ăn được thế này, bệnh đã nặng lắm rồi». Nhưng cậu mới 8 tuổi đầu, nào đã biết thế nào là ốm nặng với ốm nhẹ.
Vui thay cái tuổi đồng ấu mà cũng may thay, trong cái tuổi «vàng» ấy, sự buồn rầu nó chỉ như gió thoảng mà thôi.
Bác Cả ngồi nhìn con ăn, thấy con kháu khỉnh, hiếu thảo, thông minh thế kia, nay vì không tiền mua sách mà phải bỏ học thì đáng tiếc, đáng thương biết bao… Bác thấy cái hy vọng một đời bác nó tiêu tan đi mà bác buồn. Bác bấm lưng trong nhà tiền đã sạch trơn. Chẳng còn một vật gì đáng tiền cả, đi vay thì biết vay ai mà thiên hạ có ai cho kẻ nghèo vay bao giờ. Nội trong xóm bác, có nhà cụ Tiên là giầu có, nhưng cụ riết róng lắm, không có vật gì đem cầm thì cụ chẳng cho vay không bao giờ. Bác nghĩ, nghĩ mãi… Sau bác cố bò dậy, mon men xuống bếp còn cái niêu bằng đồng, bác cọ rửa tử tế rồi mang đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét