Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

TRƯỚC CẢNH HOANG TÀN ĐẾ-THIÊN ĐẾ-THÍCH

1- Trước cảnh hoang tàn Đế-Thiên Đế-Thích

Trong phòng xem sách tại khách sạn Angkor-les-Ruines, đèn điện thắp sáng choang, những cánh quạt trần tung ra cái không khí mát mẻ, những cậu bồi mẫn cán quần áo sạch sẽ, cử chỉ lễ phép, đã khiến cho khách du quan đến trọ ở đấy không phải phiền lòng về sự bỏ nhà ra thất nghiệp, được thảnh thơi mà xem xét những di tích lâu đài thành quách rải rác khắp chung quanh. Khách sạn này trước kia chỉ có mấy cái nhà gạch đơn sơ, nhưng từ khi chính phủ đặt ra phòng du lịch, nhờ về sự quảng cáo đắc lực mà khách  phong lưu giầu có năm châu đến đây vãn cảnh một ngày một đông ; khách sạn đã phải mở rộng ra: phòng ngủ, phòng ăn, phòng xem sách, phòng tiếp khách, hàng ngang dãy dọc san sát, qui mô rất to tát, xếp đặt rất tối tân.

Hồi ấy về tháng sáu, đang là vụ mưa, nên khách du quan đến đây rất ít, có chăng chỉ một vài viên chức nhà nước nghỉ phép, một vài nhà đại phú hiếu kỳ cùng dăm ba thủy quan thừa lúc tàu đổ bến Saigon tiện thể lên thăm cổ tích mà thôi.

Trong phòng xem sách khách sạn tối hôm ấy chỉ có hơn một chục người vừa Pháp vừa Nam. Ở góc phòng bên trái, một thiếu nữ đang ngồi dựa lưng vào cái ghế xích đu nói chuyện với người hướng đạo (guide). Nàng trạc độ 23, 24, tuổi, ăn mặc rất lịch sự, quần cẩm châu trắng, áo cẩm quít màu da trời. Đôi bông tai, chiếc vòng ngọc và mấy sợi dây chuyền nạm kim cương phản chiếu ánh sáng đèn điện nẩy ra những tia sáng lóe mắt làm cho con người ngồi đó đã xinh lại càng thêm xinh. Một mái tóc cánh phượng đen nháy, một bộ mặt trái xoan nõn nà, một khổ người óng ả, điểm thêm một nụ cười tươi tỉnh: đó là cái biểu hiệu cho vẻ đẹp của đàn bà xứ Nam. Nàng chẳng những kiều mị lạ thường, lại nói năng rất hoạt bát, cử chỉ rất lịch thiệp chẳng có vẻ rụt rè e lệ của người  xứ Bắc. Nhưng đừng thấy thế mà đã vội bảo nàng có vẻ lả lơi tầm thường đâu. Không, nàng có vẻ trang nghiêm, sắc sảo khiến ta trông thấy phải đem lòng kính nể.

Tờ báo La Tribune Indigène ở trên tay ngọc ngà kia đủ tỏ cho ta biết rằng nàng chẳng phải là người vô học mà trông cách phục sức, cách đi đứng, ta có thể đoán được rằng nàng không phải là kẻ mới ra đời vậy.

Nàng chính tên là Bella Như-Nhang, nhưng đám phong lưu công tử đất Saigon lại đặt cho cái huy hiệu “Cô ba Cần-thơ” vì nàng chính quê ở Cần-thơ và lại là con thứ hai [1].  Ai đi qua con đường Legrand de la Liraye ở Saigon, mà chẳng phải dừng chân đứng lại, nhìn tòa nhà ba từng nguy nga ở đầu phố. Trong bảy năm giời lăn lộn với đời, nàng đã dùng cái sóng khuynh thành kia đạp đổ bao nhiêu cơ nghiệp để lấy tiền tậu ngôi nhà lộng lẫy ấy.

Trong cái đội tình nhân của nàng (nói cho đúng những người mê nàng) quan sang có,  điền chủ có, hiệu chủ có, nàng chẳng hề yêu ai, mà thứ nhất đối với những hạng công tử xác thì dẫu xinh xắn như Phan An, tài tình như Tương Như, nàng cũng chẳng thèm để mắt đến bao giờ. Nàng chỉ coi bọn phú quý kia như những cái máy đúc tiền cho nàng, mà hạng công tử xác kia nàng chỉ coi như những vật vô dụng vậy thôi. Một cuộc thí nghiệm rất đau đớn về tình ái xưa kia đã làm cho thui cái mầm  tình ái nó sắp nẩy nở ở trong lòng nàng. Nàng bước chân vào cõi phong tình đã bảy năm giời nay mà tự thân mình chẳng hề vướng víu, nhưng khách tài hoa đã vướng víu vì nàng chẳng phải là ít. Nàng đã làm nghiêng ngửa bao nhiêu cơ đồ, tan nát bao nhiêu gia đình!!

Một vài thí dụ trong nghìn việc đã xẩy ra đủ khiến cho ta biết nàng là hạng người thế nào.

Ông điền chủ họ Nguyễn ở Bạc-Liêu là một trang thiếu niên rất lanh lợi đã đem một tấm tình si yêu nàng. Ông bỏ vợ dại con thơ, bán hết điền sản lên ở Saigon cho được gần gụi nàng. Không đầy một năm giời, cái gia tư hơn mười vạn kia đã thành ra luồng khói: tiêu tán vào trong cuộc đổ bác, cuộc vui chơi cả. Lúc biết ông đã hết tiền, nàng liền cự tuyệt ngay. Ông bèn năn nỉ mà rằng: qua vì em mà ra cái thân thế dường này, nếu em dứt tình cùng qua thì thà rằng qua chết trước mặt em, chứ qua không đành lòng mà xa em đâu. Ông vừa nói vừa rút súng lục ra. Nàng thấy thế cứ điềm tĩnh mà bỏ đi. Hai phát súng lục đinh tai cũng không làm cho nàng quay đầu lại.

Dư luận ở Saigon đã một phen sôi nổi. Tuy pháp luật có can thiệp vào nhưng vì chẳng đủ chứng cớ nên không kết án nàng được. Từ đấy, người ta đặt cho nàng cái biệt hiệu “con cọp cái”. Tuy biết chắc là “con cọp cái” nó ăn thịt người đấy mà bọn phong lưu tài tử cũng vẫn tranh nhau lăn mình vào.

Lại một lần nàng nhận được một bức thư:

Saigon, ngày ….

Cô Ba,

Tôi là học trò kiết mà lại muốn ăn ngon, muốn gái đẹp, muốn có tiền tiêu, nhưng tự xét mình chẳng có một cái tài năng gì để làm cho thỏa được những điều sở nguyện, vậy xin mong ở tấm lòng nghĩa hiệp của cô.

Phạm Bích Ng…

Nàng xem xong, viết giấy hẹn ngày, mời lại chơi nhà.

Đúng hẹn, anh chàng vác cái “mặt dày” lại. Sau một bữa tiệc đủ cả rượu ngon, vật lạ, nàng giữ “cu cậu” ngủ lại một đêm. Sáng dậy nàng cho một tấm giấy một trăm mà bảo rằng:

–  Từ nay thầy đừng có trở lại đây nữa nhé.

Nàng lại cho gọi hết gia nhân đầy tớ đến mà dặn rằng:

–  Hễ từ nay chúng bay thấy người này lại cứ việc đuổi cổ ra, không cần phải hỏi han gì. Phải nhớ lấy nghe không.

Cái bản lĩnh nàng đã như thế thì bọn nam tử trong con mắt nàng chẳng qua là những “bồ nhìn” mà thôi. Mà ngày nay, nàng đã trở nên giàu có, chẳng cần phải lợi dụng bọn si tình nữa, thì cái giá trị của bọn đàn ông đối với nàng, ta chẳng cần phải nói cũng đủ biết là thế nào rồi vậy.

Ngày nay, nàng lại xem chùa Đế-Thiên Đế-Thích, trong khi nàng biết chắc rằng, đương vụ mưa này, ít kẻ đến, cũng là muốn tìm lấy cái thú tịch mịch, để được thư lòng xem xét những dấu vết của một nền văn minh rực rỡ mà nay đã mai một đi, mà có lẽ vì nàng đã chán cảnh ngựa xe huyên náo đất Saigon rồi.

Trong khi nàng đang ngồi nói chuyện với người hướng đạo, thì cái sắc đẹp của nàng đã làm cho bao nhiêu người Pháp ngồi đấy phải ước vọng, mắt nhìn chầm chập mà bàn ra nói vào. Nếu ta để tai nghe thì thấy tiếng xì xào:

–  Morceau de roi (đồ ngự của vua)  –  extra chic (lịch sự quá) – trop sérieuse (đứng đắn quá) – Ce n’est pas à vendre, c’est dommage (Thế mà không đem bán, tiếc nhỉ?)

Những cái nhìn sống sượng ấy, những câu nói vô lễ ấy, chẳng hay nàng có biết không, nhưng xem ra nàng cũng chẳng thèm để ý đến, coi như là bọn họ không có mặt ở trong phòng vậy. Nàng chỉ chăm chú nói chuyện với người hướng đạo để hỏi về lịch sử các di tích mà nàng đã được xem qua. Nhưng nếu ta để tâm xét kỹ thì cuộc hỏi chuyện người hướng đạo khúm núm ở trước mặt nàng chẳng qua là một cái “cớ”, chứ nàng vẫn chú ý nhìn một thiếu niên ngồi tít ở phía đằng đầu phòng, nhưng tiếc thay, thiếu niên cứ cặm cụi xem sách tưởng chừng như không có nàng ngồi đấy. Mà nào anh chàng ta có đẹp đẽ gì cho cam, nhưng nàng sở dĩ nhìn, chẳng phải là nhìn về sự đẹp đẽ của anh chàng.

Thiếu niên người dong dỏng cao, mặt mũi gân guốc, phỏng độ 26, 27 tuổi mà nét mặt trông đã già cằn. Trông da chỗ đen, chỗ trắng, ta có thể đoán ngay chẳng phải lúc sinh là đã thế, có lẽ trong đời dầm mưa dãi nắng nhiều, nên mặt phong trần đã phải nắng sạm mầu dâu vậy. Toàn thể con người trông chẳng có cái vẻ gì là đặc sắc, đại để có vẻ rắn rỏi lanh lợi mà thôi, nhưng ta nhìn kỹ, ta sẽ thấy hai con mắt sáng quắc như sao. Nếu bảo rằng có thể đoán sự thông minh của con người ta bằng hai con mắt, thì thiếu niên chắc là thông minh lắm. Hai lưỡng quyền thật cao nó biểu hiệu cho sự nghị lực, sự can đảm; một cái mồm thật rộng, hai làn môi mỏng dính. Ta trông thấy cặp môi ấy, cái mồm ấy, trên khuôn mặt lạnh lùng ấy, ta tưởng tượng rằng dễ suốt đời thiếu niên không cười bao giờ, nhưng nếu có việc đáng cười mà đã làm cho cười được thì ta sẽ thấy một cái cười cay độc, chua chát, một cái cười hoài nghi về thế sự, về nhân tình.

Ta đừng thấy thế mà đã vội cho là vô duyên đâu, cái duyên của con người quắc thước là ở chỗ quắc thước. Thiếu niên mặc một bộ áo trắng rất xoàng, nhưng toàn thể có thể tỏ cho ta biết được con người mặc bộ áo ấy là con người lịch sự, con người hành động, tuy ngang tàng mà lễ phép, nghiêm nghị mà dễ dàng.

Chàng đến đây đã ba hôm nay, sáng nào cũng đi xem phong cảnh mãi đến bữa cơm tối mới về.

Tuy lúc ra vào, có được gặp Bella Như-Nhang luôn, nhưng chàng cũng chẳng hề để ý đến, chẳng qua theo phép lịch sự, khi nào gặp thì hoặc ngả mũ, hoặc cúi đầu chào đó mà thôi.

Về phần Bella Như-Nhang tuy là người đã lịch duyệt thế cố chẳng còn mong mỏi gì về nhân tình nữa, tuy sự từng trải đã đúc cho nàng một quả “tim sành”, nỗi đoạn trường đã làm cho nàng lạnh lùng như đá, nhưng dẫu sao, cũng vẫn là đàn bà, mà đã là đàn bà thì không sao thoát khỏi cái khuôn sáo của tạo hóa được, mà thứ nhất đối với một người đàn bà đẹp thì cái luật thiên nhiên kia lại càng chặt chẽ lắm.

Xét tâm lý, người đàn bà đẹp, ai cũng tưởng tượng rằng cái sắc đẹp của mình là trung tâm của vũ trụ, mà mọi sự hành vi của nhân  loại cũng chỉ vì cái sắc khuynh thành ấy mà ra cả. Thì như Bella Như-Nhang kia, lúc đi sắm đồ ở hãng Charner, lúc đi chơi chợ phiên, lúc đi xem diễn kịch, hàng vạn con mắt bọn nam nhi chẳng đổ dồn vào mình nàng là gì? Những cái lườm, cái nguýt của bọn chị em chẳng là những cái tang chứng ghen tị vẻ kiều mị của nàng là gì? Mà bao nhiêu lũ “con đen” lìa vợ, lìa con, phá gia, phá nghiệp khuân tiền đến cho nàng tiêu, cũng chẳng là vì một nụ cười của nàng sao?

Bella Như-Nhang xưa nay vẫn yên trí như thế, nay bỗng gặp một người, chẳng những không thèm để ý đến cái sắc đẹp của mình, chẳng những không thèm nhìn đến những đồ châu ngọc mình trang sức mà lại hình như không biết mình ở đấy nữa, thì thế tất nhiên là nàng phải để tâm đến “anh chàng” chẳng thèm để tâm đến nàng vậy.

Ấy bọn phụ nữ thường hay yêu những người không yêu mình. Oái oăm thay là ông Tạo-vật!

Những trang sắc nước hương trời đã in sâu vào óc cái tư tưởng: Sắc bất ba đào dị nịch nhân [2]

Mà nay bỗng gặp một người không chịu say đắm vì mình, lẽ tất nhiên là phải để tâm đến cái “chỗ” không say đắm ấy.

Lúc Bella Như-Nhang nhìn thiếu niên thì thiếu niên chỉ nhìn sách. Một lúc lâu, chàng đánh diêm hút thuốc lá rồi móc túi lấy ra một phong thư mà chàng vừa nhận được lúc ban chiều. Phong thư đóng dấu nhà bưu điện Nam-vang (Phnompenh) của phòng luật sư gửi cho M. Hoàng-Cương ở Battambang, rồi sở bưu chính Battambang lại gửi theo đi (réexpédié) Angkor-les-Ruines.

Phnompenh, le 2 août 1930

Thưa ngài,

Theo như ý muốn của ngài, tôi đã cho mời các chủ nợ đến điều đình, họ đều không bằng lòng cho giả lần mà gay go nhất là nhà Đông-Pháp Ngân-hàng. Họ đã đầu đơn ra tòa án xin phát mại sản nghiệp của ngài.

Cứ theo giá trước kia thì cái đồn điền 600 mẫu tây đất ấy cùng các đồ nông khí có thể bán được tới hơn 60.000$. Nhưng nhất đán đem phát mại trong lúc đồng tiền đang khan này thì vị tất đã có kẻ dám mua tới 20.000$. Mà để như thế thì sợ tiếng tăm, có điều trở ngại cho sự doanh nghiệp của ngài sau này. Vậy tôi đã hết sức điều đình với ông Mahomed Chettyar, ông ấy đã thuận mua tới 25.000$. Trừ 4.000$ là tiền nợ, ông ấy còn phải trả lại ngài 21.000$. Số tiền ấy chỉ đủ trang trải các món nợ khác và tiền bút giấy mà thôi. Tôi lấy cái bổn phận là người biện hộ và cái danh dự là bạn của ngài trong sáu năm giời nay mà khuyên ngài nên bằng lòng đi, vì làm như thế thì ngài sẽ toàn danh dự mà danh dự trong sạch vị tất đã không phải là cái lợi khí cần dùng nhất cho cuộc tương lai sau này. Định kiến ngài thể nào xin cho biết ngay.

Một người bạn rất trung thành của ngài:

MAÎTRE TROMEUR

Cái thư “ghê gớm” ấy, Hoàng-Cương xem đi đọc lại chẳng đổi sắc, trên cái vẻ mặt nghiêm nghị rắn rỏi như tạc vào đá kia, ta không thấy một cái triệu chứng gì nó biểu lộ cho ta biết được rằng con người mà cái thân thế, cái sự nghiệp có can dự với bức thư kia đã vì những nỗi éo le ấy mà cảm động. Đối với những người gan góc ấy thì sự khó khăn, đau đớn vị tất đã làm cho núng chí được mà đến ngay sự phú quý vinh hoa vị tất đã làm cho động lòng được.

Ở trong cái đời nhục thể này, đã bao kẻ, hễ hơi có một sự gì buồn – vị tất đã đáng buồn – thì mặt nhăn mày nhó, mà hơi có một sự gì vui – vị tất đã đáng vui – thì hí ha hí hởn. Những kẻ đó đều là thiếu can đảm, thiếu nghị lực cả.. Cuộc đời đã là một cuộc phấn đấu mà cái công lệ thiên nhiên là phải tiến lên mãi thì cơ tồn vong, sự thành bại chẳng qua là những bài học của Hóa-công, hà cớ gì mà phải quan tâm; cuộc đời đã là một trường huyết chiến thì dẫu khóc than cũng chẳng ích gì, âu là ta cứ gia công rèn luyện cái bản   ngã của ta cho ngày một cứng cáp, nên chăng thì ta biết với ta, thế chẳng cũng là quá đầy đủ rồi sao?

Hoàng-Cương vừa nhìn bức thư vừa ngẫm nghĩ. Cái cảnh tượng tan tành ngày nay đã bắt ký ức của chàng phải quay đầu lại.

Chàng hồi tưởng lại xưa kia, chàng chỉ đem một bầu nhiệt huyết, một tấm lòng kiên nhẫn rời bỏ quê cha đất tổ là xứ Bắc-kỳ tốt tươi kia mà vào xứ Cao-mên nóng nực này. Nếu nhất đán có phải trở về chốn cũ thì cũng vẫn một bầu nhiệt huyết ấy, một tấm lòng kiên  nhẫn ấy, nào có thiệt gì đâu, chẳng qua tay trắng mà đi thì lại tay trắng mà về. Chàng ngẫm  nghĩ đến đấy xoa tay rồi vùng cười xòa.

Tiếng cười chua chát, cay độc, tiếng cười lạnh gáy, ghê mình khiến cho Bella Như-Nhang nghe tiếng mà phải giật mình, tờ báo đương cầm ở tay bỗng rời ra; những khách xem sách ở trong phòng đều phải sửng sốt quay đầu nhìn chàng. Tiếng cười kia có khác chi lưỡi dao cực sắc nó đã đâm toang cái màn yên tĩnh che phủ phòng xem sách nhà khách sạn Angkor-les-Ruines lúc bấy giờ.

Hoàng-Cương biết mình sơ  ý bèn bỏ chỗ ngồi đứng dậy ra hiên.

Đêm ấy là đêm rằm.

Trên vòm trời trắng toát, gương nga đưa đẩy, tỏa xuống dưới trần muôn nghìn đạo hào quang, khi mờ khi tỏ, bao phủ những đỉnh lâu đài cao chót vót, rải rác khắp chốn danh lam thắng tích này. Cây si cổ thụ mấy người ôm ở đằng trước khách sạn kia (mà có lẽ cũng là ở trước chùa Angkor Wat nữa vì chùa với khách sạn đối diện nhau) nó rườm rà tha thướt, lù lù như một bức Vạn lý trường   thành đắp ngược chặn lấp phía trời tây không cho chàng thấy các đỉnh lâu đài điện Angkor Thom và các đỉnh chùa tản mác ở phía ấy.

Không biết vì lẽ gì nhà Viễn-đông Bác-cổ chủ trương việc trông coi những di tích Đế-Thiên Đế-Thích (Ruines d’Angkor) lại cấm không cho khách sạn làm nhà gác. Giá thử có một nhà lầu cao ngất thì ta đứng lên đấy, tầm con mắt có thể bao quát được hết cái đại  cương của các đống đá đổ nát mà người ta gọi là những kiến trúc vĩ đại của nền văn minh Ấn-độ kia. Các di tích ấy rải rác khắp trong một khu vực hơn mười cây số vuông.

Tiếng cắc-kè kêu ở các kẽ hộc (có thể gọi xứ Cao-mên là xứ cắc-kè được vì đi đến đâu cũng chỉ nghe tiếng cắc-kè) hòa lẫn với tiếng cây reo, họa nên những khúc nhạc rất khắc khoải, rất thê thảm riêng cho xứ Cao-mên.

Bóng giăng vằng vặc chiếu xuống, một cảnh bí mật êm đềm như giục lòng khách…

Hoàng-Cương lần theo bóng giăng vừa đi vừa ngắm cảnh…

Suốt một góc trời tây, lố nhố  những đỉnh lâu đài cao vòi vọi đột khởi ở trong đám rừng cây cối đen sì…

Cái trạng thái ấy đã gây cho vùng Đế-Thiên Đế-Thích một cảnh tượng hùng vĩ lạ thường.

Nếu ta muốn tưởng tượng cái hùng vĩ của nó, thì tất cả nhà cửa thành phố Hanoi đem dở ra, chất thành một đống gạch, mới gọi phác ra được đôi ba phần. Nhưng cách kiến trúc kia còn có vẻ mỹ thuật lộng lẫy biết là bao, mà những di tích ấy lại chen chúc vào trong những rừng cây bát ngát thi còn có vẻ mỹ quan hon nhiều.

Hoàng-Cương noi theo một con đường thật rộng, lát toàn những tấm đá to bằng cái mặt bàn, qua mấy dẫy hành lang, trèo mấy lần thềm đá, mới lên đến chỗ chính điện cao nhất chùa Angkor Wat.

Chùa này làm toàn bằng đá, nóc đá, vách đá, cột đá, sàn đá chạm trổ rất cầu kỳ. Hoàng-Cương đứng ở đấy quay đầu nhìn khách sạn Angkor-les-Ruines thấp lẹt đẹt, nhỏ tí tẹo, đối với chùa này chỉ như một chiếc thuyền nan đứng cạnh một chiếc tầu bể lớn vậy. Nhưng, trong nhà khách sạn đèn thắp sáng choang, nó biểu hiệu cho sự sinh hoạt, mà, chùa này thì bốn bề tường đá, im lặng như tờ, nó bảo cho khách biết rằng: cái di tích hùng vĩ này chỉ còn là một nơi hoang phế mặc cho gió dập mưa vùi. Bóng nga phản chiếu, bao la sắc đá trắng nhạt một mầu, trong cái cảnh hùng vĩ lạnh lùng ấy như hiện ra một vẻ thê lương thảm đạm khiến cho lòng khách giang hồ phải ngậm ngùi về nỗi “sao dời vật đổi” luống lại ngao ngán cho thân thế nổi chìm.

Này Angkor Wat, nọ Angkor Thom cùng bao nhiêu lâu đài, bao nhiêu chùa miếu xưa kia lộng lẫy, nguy nga biết là bao mà nay chỉ còn là những đống đá xanh ngổn ngang chồng chất!

Đế-Thiên, Đế-Thích, xưa kia cổ nhân đã tốn bao công phu, trải bao thế kỷ mới xây đắp nên ngươi, nay ngươi chỉ còn là một vật kỳ quan bí mật nó khêu gọi tấm lòng tò mò của khách năm châu.

Song những du tử đến đây, chẳng biết có hiểu thấu cho rằng mỗi một hòn đá này là một mạng người, mỗi một giọt nước ở hồ kia là một giọt máu đào không???

Chẳng biết khách có biết cho rằng chốn này xưa cũng là một đế đô phồn thịnh của một dân tộc, chốn này xưa kia đã nung đúc nên biết bao nhiêu bực anh hùng cái thế làm vẻ vang cho giống cho nòi, chốn này xưa kia đã trải qua một thời kỳ khói hương sầm uất, ngày nay chỉ còn lạnh ngắt như tờ không?

Bao nhiêu thảm trạng tranh quyền cướp nước, bao nhiêu “ân ái éo le” đã làm cho chìm đắm biết bao nhiêu trượng phu hào kiệt, thục  nữ thuyền quyên, mà ngày nay..  ngày nay thì dẫu đến nắm xương tàn ta cũng không còn trông thấy nữa!!!

Đế-Thiên, Đế-Thích, ngươi là một nguồn học vô tận cho nhà khảo  cổ, một mối tiêu sầu thú vị cho khách năm châu, nhưng đối với ta, ngươi chỉ là cái tang chứng hiển nhiên của cuộc đời dâu bể, ngươi chỉ là một mối não nùng ai oán cho cảnh phù du.

Hoàng-Cương nghĩ đến đấy muốn hét lên một tiếng: “Ai ngờ”? Ai ngờ đâu những công trình lao khổ của mấy mươi triệu con người trong bao nhiêu thế kỷ, những chí khí vĩ đại oanh liệt của bao nhiêu bực anh hùng, ngày nay chỉ còn là một đống đá rêu!!!

“Hữu hình tất hữu hoại”, ngán thay! Cái thời gian vô tình kia đã xây đắp nên thì cái thời gian cay  nghiệt kia lại đạp đổ đi, thế thì đời người thấm thoát, trăm năm nào có ra gì!!!

Ôi! Gương kim cổ rành rành ra đó, khách phù du sao cho khỏi ngậm ngùi!

Hoàng-Cương hồi tưởng lại xưa kia lúc còn măng sữa cha yêu mẹ quý, sung sướng biết là bao, nhưng chẳng may thông huyên sớm vội lánh trần, tấm thân “tầm gửi” nhờ người, đã phải chịu bao nhiêu chiều cay đắng. Cập đến lúc thân đã lớn, trí đã thành những tưởng đem một bầu nhiệt khí chống chọi với ông xanh già để chiếm lấy một ghế ngồi trong vũ trụ, cái chí nguyện bình sinh tưởng chừng như vượt qua muôn trùng sóng gió, giầy đạp chông gai mà bước lên, chứ có ngờ đâu đến cái quang cảnh ngày nay!

Chàng lại hồi tưởng khi 18 tuổi đầu, lìa phần mộ, lìa quê hương mà đến xứ này; nào khi doanh nghiệp bôn ba, cái thân thế tang bồng nay đây mai đó, khi Vọng-các (Bangkok) khi Saigon ; nào lúc trèo đèo lặn suối, mặt phong trần đã bao phen dãi gió dầm mưa, nay núi Đậu, mai Biển-hồ [3]. Dầu cực khổ mà chí chẳng chùn, gian nan mà lòng chẳng đổi, bao nhiêu năm giời thân cò lặn lội, mới gây được một cái cơ nghiệp cỏn con, ngày nay bỗng bị ngọn trào “kinh  tế” nó cuốn hút ra tận bể khơi, tan tành man mác còn có gì đâu!

Chàng càng ngẫm nghĩ lại càng chán nản cho đời, ái ngại cho thân, nhưng trông thấy những đống đá lù lù trước mặt nó như nhắc nhở lại cuộc tang thương, nó như vẻ mỉm cười chế nhạo mà bảo rằng:

“ Sao anh không trông tôi đây?”

Phải, bể dâu dù biến đổi, đá kia vẫn đứng trơ trơ: Gan lì, già sọc có non gì mà sợ cóc chi ai.

Chàng bùi ngùi cho cảnh vật, xót xa cho thân thế luống lại chạnh niềm nhớ tới người xưa. Ừ mà, tướng quân Marius khi xưa đã bao phen đạp xương tắm máu, xông pha trong bãi chiến trường, lập nên những đại kỳ công làm vẻ vang cho xứ La-mã (Rome) [4] đã bao phen nắm cái uy quyền “trấn quốc” ở trong tay thế mà khi 80 tuổi, tóc đã bạc, lưng đã còng, chân đã mỏi còn phải lênh đênh cơ khổ lẩn lút xứ người. Tuy vậy mà chí chẳng chùn, gan chẳng núng, sau lại khôi phục được cơ đồ nghiêng ngửa. Cổ nhân thì mãnh liệt hùng dũng như kia, sao mình lại yếu đuối hèn nhát thế này. Nghĩ đến đấy, Hoàng-Cương đã thấy phấn khởi trong lòng, dận mạnh gót chân xuống đá mà nói to lên rằng:

-Vas dire à ton maître que tu as vu Marius s’asseyant sur les ruines de Carthage, (ngươi hãy về bảo chủ ngươi: có thấy Marius Tướng quân ngồi trên di tích đổ nát thành Carthage) [5].

Chàng nói vừa dứt lời thì nghe có tiếng người hỏi:

-Thầy Hai nói chi mà coi bộ giận dữ vậy?

Rồi một cái bóng xanh xanh, trắng trắng, thướt tha, phảng phất như một cái hồn ma mới chui ở dưới đá lên, mà hiện ra trước mặt. Hoàng-Cương định thần nhìn kỹ thì là Bella Như-Nhang. Chàng đương bàng hoàng chưa kịp giả nhời thì nàng lại hỏi:

– Có phải thầy Hai đến thăm Đế-Thiên Đế-Thích này cũng có một mối cảm tưởng như Marius Tướng quân, hồi trốn tránh đến thành Carthage không?

– Thưa cô, tôi đâu dám ví mình với cổ nhân.

– Cổ nhân thì cũng là mình chứ ai, cũng gan ấy, cũng óc ấy, cũng cùng phải chịu một cái cảnh tình ấy, thì cũng cùng phải đeo một mối cảm hoài ấy, có khác gì đâu. Phải, Marius tướng quân xưa kia, tỉ cái thân thế mình khi oanh liệt cũng như thành Carthage lúc cường thịnh, mà lúc thân thế gian nan, cũng như thành Carthage khi đổ nát. Tướng quân cám cảnh chạnh lòng mà phát lộ ra lời ấy. Nhung sau khi Marius tướng quân lại hiển hách trở về thành La-mã chẳng biết còn có nghĩ gì thương đến thành Carthage đổ nát kia không?

– Thưa cô, người là người, vật là vật, sức người há chống chọi được với búa giời ru? Thành Carthage kia cùng chùa Đế-Thiên Đế-Thích này há chẳng là phải chịu chung cái công lệ thiên nhiên mà đào thải theo thời gian sao? Cơ trời đã dĩ nhiên như thế, thì ta dù có thương xót chẳng qua cũng là thương xót cho cái thân thế phù du, chứ đã tắm bụi trần ở trên mặt đất, há canh cải được những quy tắc thần bí của Hóa công sao?

Nguyên Bella Như-Nhang từ khi  Hoàng-Cương bỏ phòng sách ra ngoài hiên, nàng tò mò muốn biết con người kỳ lạ ấy bèn theo ra định bụng lân la làm quen hỏi chuyện. Nhưng khi ra đến nơi, đã không thấy chàng đâu. Nàng vừa muốn quay về phòng ngủ thi vừng giăng sáng lạn, cảnh vật thanh u như gợi ra ở trong tấm lòng nàng một mối cảm hoài vô hạn, nàng bèn lần theo bóng giăng mà đi… cũng ngẫu nhiên mà vào Angkor Wat, cũng ngẫu nhiên mà được nghe câu nói, xong nàng đã định bụng im đi, nhưng không biết một cái sức mạnh thần bị gì nó buộc nàng phải hỏi. 

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, phút chốc đã ra khỏi mấy lần cung điện.

Gió thổi… những lá cây dừa cao chót vót ngất nghểu ở trước sân chạm vào nhau kêu sột soạt; những tiếng dế cùng những tiếng của bao nhiêu con vật vô hình nó ẩn núp ở dưới đất pha lẫn với nhau mà nổi lên một thứ âm hưởng bi ai thảm khốc như tiếng khóc than rền rĩ của hồn ma, bóng quỷ nó phảng phất ở đâu đây. Những bông hoa rừng nó chen chúc ở trong kẽ đá xông ra mùi hương ngào  ngạt. Mùi đá, mùi rêu, mùi đất, mùi cây hòa lẫn với nhau mà tỏa ra bầu giời một thứ hương lạ lùng “khác tục” ; luồng gió mát mẻ thơm tho như cuốn cuộn hai người vào một cõi bồng lai tịch mịch; gương nga chênh chếch như bao bọc hai người vào trong vòng hào quang ấm áp...

Cái vẻ mặn mà khả ái của cảnh vật như giời chỉ dành phần riêng cho khách giang hồ du tử.

Bước xuống đến thềm,  Bella Như-Nhang lại hỏi:

– Thầy Hai ôi, đã biết đạo trời là như thế mà sao người ta vẫn cứ thi nhau sáng tạo, xây đắp lên những “cái” mà đã biết chắc sau này sẽ phải tan tành, mà đã biết thế sao còn lăn lóc sống chết vì danh lợi là những cái “hư vô” nhỉ?

– Người ta lúc mới sinh ra đã biết chắc rồi sẽ phải chết, sao mà vẫn phải sống, mà cho dẫu đến phút cuối cùng vẫn chứa chan những hi  vọng về sự sống. Giá dụ ông Hóa-công khắt khe kia, lúc sinh ra người, lại in ngay cái “tử kỳ” vào mặt thì cõi đất sẽ không phải là cõi đất ngày nay nữa. Thế giới ngày nay sở dĩ là thế giới ngày nay là vì con người ta, ai cũng có một “vũ trụ hy vọng” ở trong lòng. Đã đeo nặng cái hy vọng ấy, lẽ tất nhiên là phải lo hành động cho đạt những điều sở nguyện. Chẳng qua phép giời là phải “động” luôn. Kìa, cô trông các tinh tú trên giời, có lúc nào ngừng không? Nếu ngừng lại thì cái thế giới này sẽ phải diệt vong vậy. Tuy rằng “động” luôn như thế mà vẫn phải theo một cái khuôn phép, nghìn muôn năm cũng thế mà thôi. Ví dụ nếu các tinh tú mà “động” ra ngoài khuôn phép, thì vị nọ thế tất nhiên sẽ đụng phải vị kia, mà đụng nhau thì

Nói đến đấy, hai người nhìn nhau cả cười…

Gương nga vẫn vằng vặc sáng tỏ một góc giời…

Bella Như-Nhang lại nói:

–  Nghe thầy nói, như được nghe những lời bàn xác đáng của một nhà triết lý. Còn tôi thì vừa ngu, lại vừa ít học, thành thử tuy là có óc mà cũng như không.

–  Cô đã đọc qua sách của Plutarque tiên sinh thì sao gọi là ít học được. Cô đọc đến “Đời Marius Tướng quân” (Vie de Marius) mà cô còn nhớ câu châm ngôn kia, chắc là lúc đọc đến đoạn ấy cô cũng xúc cảm mà để tâm suy xét, đã thế sao gọi là ngu được?

– Thầy Hai, cứ nói tốt cho tôi làm gì? Chẳng qua đọc thì nhớ lõm bõm đó mà thôi, chẳng qua như nước mặt hồ kia, bóng trăng chiếu xuống thấy mình sáng thì biết rằng sáng đấy thôi, chứ nào có biết tại làm sao mà mình sáng đâu?

Nàng vừa nói, vừa chỉ tay xuống mặt hồ…

Một làn nước bạc trắng phau, phẳng lờ như một tấm thảm. Lâu lâu một luồng gió thoảng qua làm cho mặt nước lăn tăn biến hóa ra muôn nghìn con rắn trắng đuổi nhau trên mặt sóng…. Dưới đáy nước, một vùng giăng trắng xóa như một cái đĩa bạc…

Nhìn bức tranh tuyệt xảo của hóa công, đứng trước một cảnh  tượng nên thơ của Tạo vật, chạm trán với một vấn đề huyền bí của vũ trụ, hai người bỗng xúc cảm mà đem lòng nghĩ ngợi…

Trầm ngâm một lát lâu, Bella Như-Nhang mới hỏi chàng:

– Tại sao trời lại sinh ra mặt trăng nhỉ? Ừ thì trời sinh ra mặt giời đã đành rằng để cho người ta được sáng sủa làm lụng để nuôi sống, cho cây cỏ hấp thụ lấy khí ấm áp mà sinh chồi nẩy lộc. Ừ thì trời sinh ra ban đêm để nghỉ ngơi, để di dưỡng lấy sức khỏe, lấy tinh thần. Nhưng đã ngủ thì thôi chứ. Cứ chi trời lại còn sinh ra trăng rằm nhỉ? Sao lại sinh ra cái hiện tượng nửa tỏ nửa mờ thế mà sao những cảnh tượng đêm trăng lại êm đềm đẹp đẽ thế này?

Hoàng-Cương nghe nàng nói mà bàng hoàng, không ngờ một người con gái mà lại có cái kỳ tưởng suy xét đến thế, đeo một mối cảm tình nồng nàn đến thế. Câu hỏi khó giả nhời thay! Chàng tự xét cũng không biết Hóa-công đã sinh ra đêm giăng để làm gì?

Hai người vừa đi vừa ngẫm nghĩ, nặng chĩu một tấm lòng thơ, thì vừa lúc ấy, ở trên con đường đá trắng xóa kia, hai vợ chồng người quản lý nhà khách sạn đang dắt nhau vừa đi vừa cười về phía cổng chùa, hình như ông Hóa-công sai đem câu giả nhời có sinh hoạt đến cho hai người, hình như ông Hóa-công muốn đem gói ghém cặp vợ chồng kia vào trong tấm màn “băng” để cho cái khí vị nồng nàn, ấm áp của ái tình nó khỏi tan đi vậy.

Bella Như-Nhang trông thấy thế, nhìn  Hoàng-Cương mà sửng sốt, mà bối rối nhưng chàng vẫn bình tĩnh như thường. Hai người lững thững trở về, khi chàng từ giã nàng để về phòng ngủ, nàng còn dặn với:

– Tôi nghe nói thầy ở Cao-mên lâu năm, thầy lên đây vãn cảnh luôn, thông thuộc vùng này lắm, vậy sớm mai thầy làm ơn đưa tôi đi xem và giảng cho tôi nghe nhé.

Bella Như-Nhang về buồng trằn trọc không sao ngủ được, những cảm tưởng hồi vừa qua bắt thần trí nàng phải suy nghĩ….

Nàng nghĩ đến biết bao kẻ nam nhi xưa kia chỉ một cái liếc mắt, một cái mỉm cười của nàng cũng đủ làm cho phải bó tay chịu trói, mà sao cái anh chàng gặp gỡ này lại gan lỳ thế được? Nàng lại nghĩ đến những di tích nàng đã xem qua, xưa kia, lộng lẫy biết bao mà nay chỉ còn là một đống đá thế thì cuộc phú quý vinh hoa ở trên đời này phỏng có là gì! Nàng lại nghĩ bấy lâu nay, nàng nằm trên đống tiền, nàng đã được hưởng những lạc thú gì? Một vành lược bạc, gẫy tan nhịp gõ, một mảnh quần hồng, hoen ố rượu rơi, thì dấn mình vào cõi yên hoa chẳng qua là “gặp thời thế, thế thì phải thế”, chứ đồng bạc trắng kia, nào đã đem lại cho khách má đào được một chút “chân lạc thú” nào đâu! Nghĩ đến đấy, nàng thấy trong mình lạnh lùng trống trải hình như thiếu thốn một “thứ” gì. Các nhà tiểu thuyết thường nói: “ân ái là nguồn lạc thú mà chốn gia đình là cõi tiểu thần tiên”. Nhưng nhìn quanh mình thì thấy trái hẳn. Biết bao nhiêu bạn gái đã phải chịu trăm chiều cay đắng về nỗi chồng con. Nàng đã biết thế mà chính thân mình khi đào còn tơ, liễu còn yếu cũng đã qua cầu ấy, nên từ bấy đến nay, nàng vẫn giữ mình chẳng để cho vương víu. Còn như nói ân ái là nguồn lạc thú thì đấy, những kẻ bấy lâu nay lăn lóc sống chết vì nàng chẳng là cái gương phản trái lại ư? Nào đã thấy ai tìm được một chút hạnh  phúc gì đâu, hay chỉ mua lấy cái vạ: nghiệp đổ nhà tan. Nàng ngẫm nghĩ đến đấy rồi lại tự hỏi: nhưng ngoài chốn gia đình, ngoài sự ân  ái ra thì trong đời người đàn bà còn có việc gì đáng để tâm nữa không? Nghĩ đến đấy, nàng sửng sốt, bàng hoàng toát mồ hôi…

Ngoài những “cái” ấy ra thì đều là “hư vô”, đều là mộng, đều là “không không” cả. Thế ra từ bấy đến nay nàng đã lăn lóc về những cái “hư vô”, nên sắc có mà hình không! Nàng lại thấy một tiếng gọi ở trong bể lòng nó đột khởi lên, rồi muôn vật hình như bảo nàng phải “yêu” để sống, phải “yêu” để cầu lấy chân lý sự sống, rồi nàng thấy một cái vô hạn buồn rầu (infinie tristesse) nó bao la ở  trong cái vô hạn lạc thú (infini bonheur) hiển hiện ra bởi cái vô  hạn ái tình (infini amour).

Ngọn đèn điện le lói… Nàng nhìn xuống chiếc nhẫn kim cương, chiếc vòng kim cương lóng lánh như sao mà nàng buồn, mà nàng giận, mà nàng mắng:

“Cái ánh sáng khốn nạn của bây đã làm cho ta lóe mắt mà đi sai đường lạc lối, bây có biết không?”

Rồi nàng nhìn qua cửa sổ, những đỉnh chùa Angkor Wat như chỉ rõ cho nàng biết cái “hư vô” của nhục thể, rồi nàng nghĩ: Ừ, đã đành rằng ngoài nguồn tình ái, thì ở đời “sắc, tướng” đều không cả, ừ đã đành rằng bể tình là bể khổ mà ta vẫn phải dấn mình vào mới tìm thấy sự lạc thú, nhưng ta biết yêu ai bây giờ? Ta tìm đâu cho thấy một người đáng yêu để… Nghĩ đến đây thì cái hình ảnh của Hoàng-Cương như hiển hiện ra ở trong thần trí nàng, mà một nguồn sinh  hoạt mới mẻ, thơm tho như theo cái hình ảnh kia đến mà nhập vào thân thể nàng vậy. Rồi, nàng phải tự nhận rằng nàng đã yêu Hoàng-Cương nàng yêu thực, nàng yêu lắm. Có lẽ nàng đã bị “một tiếng sét của ái tình” (le coup de foudre de l’amour) nó đánh phải, nhưng một tiếng sét mới êm đềm thú vị làm sao!

Trong một đời người, mà chưa có một tiếng sét ấy, chưa đủ gọi là một đời người vậy.

Ái tình! Ái tình! nó có phép thần thông rất quảng đại, thuật biến hóa rất nhiệm mầu. Nó làm cho kẻ dại nên khôn, kẻ ngu nên trí, nó khiến cho kẻ đại gian đại ác thành ra đại nhân đại nghĩa. Nó bắt ta phải lo sợ, buồn rầu, nhưng lo mà vẫn vui,  buồn mà vẫn thú.

Nó tức là ngọn thần đăng soi sáng cho ta trong bước đường đời tối tăm này vậy.

Bella Như-Nhang nghĩ đến Hoàng-Cương thì nàng thấy nàng “sống” một cảnh đời mà xưa nay nàng chưa từng “sống”, nàng thấy một cái ánh sáng hy vọng nó đột khởi lên. Nhưng nàng lại lo:

“Không biết cái anh chàng mặt sắt lạnh lùng kia có lòng yêu đến ta chăng? không biết…”

Rồi nàng lại ôn lại trong trí nàng những cách cử chỉ của Hoàng-Cương mà nàng phải áy náy. Nhưng áy náy cũng là áy náy vậy thôi, chứ cũng không sao làm cho bế tắc được nguồn lạc thú bồng  bột ở trong lòng nàng lúc bấy giờ.

Nàng trông bó hoa hồng nó đang phô thắm ở trên mặt bàn như có vẻ ghen tị sự sung sướng của nàng, nhưng quay lưng lại nhìn đến chiếc giường lò xo rộng rãi, chiếc gối trơ trọi lại ra chiều mai mỉa.

Rồi, không biết….không biết tại làm sao nàng bỗng bưng mặt khóc.

Từ xưa đến nay, bao kẻ chết vì nàng, nàng không khóc, bao kẻ điêu đứng vì nàng, nàng không  khóc, ngày nay nàng đi khóc một cái vô hình …mà con người đá ấy đã phải khóc, ắt sự chẳng vừa. Nàng nghĩ đến tấm thân ngọc ngà đem ra làm mồi thơm cho ong bướm, làm cái cạm để bẫy tiền mà nàng tự mình lại “ghê tởm” cho cái thân mình. Ôi! Ví dụ  Hoàng-Cương yêu ta thì ta chỉ đem hiến cho người yêu một tấm thân hoa tàn nhụy rữa này, thì nhục nhằn biết là bao! Nhưng trái tim nóng nó đập thình thịch ở trong ngực nàng hình nlnr nhắc nhở cho nàng biết: ta đây mới là vật đáng kể, còn những bộ phận khác đều là những cái bỏ đi; ta đây thì dầu bể dâu biến đổi cũng vẫn trơ như đá, vững như đồng, chứ những “cái” kia có chống chọi được với thời gian cay nghiệt đâu. Nghĩ đến đấy nàng lại tự nhủ nàng: “Biết đâu Hoàng-Cương chẳng cũng nghĩ như thế”.

Sáng mai, nàng dậy thật sớm, ra công trang điểm cho thiệt đẹp. Nàng đã đẹp lại muốn đẹp thêm, đẹp nữa, để cho ai cũng phải để ý đến. Trong cái rương áo của nàng thôi có thiếu gì mà nàng chọn mãi chẳng được cái nào vừa ý, sau mãi nàng mới mặc tạm cái áo nhiễu trắng.

Nàng nhìn vào gương đứng thấy hiển hiện ra một cô thiếu nữ lộng  lẫy như ngọc, trắng trẻo như ngà mà nàng tự nghĩ: “Nếu về đất Saigon ta chỉ hô lên một tiếng, còn biết bao nhiêu kẻ sẵn lòng chết vì ta, nhưng chẳng biết cái anh chàng họ Hoàng kia có để ý gì đến cái đẹp của ta không?”

Nàng đến phòng ăn, thì còn sớm lắm, chưa ai đến. Nàng bảo bồi dọn chung, để nàng cùng ngồi ăn điểm tâm một bàn với Hoàng-Cương.  Nàng lại cho thu xếp đồ ăn để nàng đem đi ăn buổi trưa vì nàng định đi chơi đến chiều mới về.

Nàng ngồi chờ mãi, đến hơn bẩy giờ,  Hoàng-Cương mới đến, tay cầm cái ống nhòm. Nàng liền vồn vã hỏi:

–  Sao thầy Hai ngủ trưa dữ thế, đem ống nhòm đi để làm gì?

–  Không, tôi dậy đã lâu, nhưng tưởng cũng như mọi ngày cô dậy trưa, nên còn ngồi xem sách mãi. (“À thế ra từ trước đến nay, chàng cũng vẫn để ý đến ta”, nàng nghĩ mà mừng thầm). Hôm nay, tôi định đưa cô lên trên lăng ở đỉnh núi Phnompakhean, đứng đấy có thể trông thấy rõ Biển-hồ (Lac Tonlésap) mà nếu dùng ống nhòm thì lại càng tỏ rõ lắm.

Cái xe hòm rộng rãi mà êm ái đã chờ ở cửa. Mọi ngày nàng đi chơi đâu vẫn cầm lái lấy, nhưng hôm nay nàng thấy tinh thần dường như vơ vẩn, không chú ý được, sợ có điều bất trắc, bèn sai tài xế cầm lái.

Lúc ra đến xe, Hoàng-Cương vừa định trèo lên ngồi đằng trước với bác tài thì nàng vội nắm áo mà bảo rằng:

–  Thầy Hai ngồi dưới này nói chuyện với tôi cho vui. Một người như thầy mà còn e lệ những điều tiểu tiết ấy sao?

–  Đối với tôi thì có hề gì, nhưng sợ có điều bất  tiện cho cô.

–  Bất tiện gì, tôi thân cô, thế cô, một mình trơ trọi ở trên đời này, thầy tính còn ai để tâm gì đến mình mà hòng…

Nàng vừa nói, vừa để ý nhìn Hoàng-Cương xem chàng có ái ngại cho thân thế nàng không, nhưng bộ mặt gân guốc già cằn kia vẫn lạnh lùng như tuyết, nàng thấy thế mà buồn.

Lăng Phnompakhean ở trên một ngọn đồi cao, cách khách sạn độ gần một cây số. Vụt chốc xe đã đến nơi. Đường lên rất dốc, thật khó đi, nàng vừa đi, vừa thở hổn hển, lắm lúc giả đò như muốn ngã, xem anh chàng kia có lại gần đỡ cho nàng không, nhưng anh chàng cứ khom khom rảo bước chẳng để ý gì đến. Nàng thấy thế mà thất vọng, nhưng lại tự nghĩ:   “Ở đời có chí thì nên; dẫu sự tình ái cũng phải có công phu mới có kết quả được, ta đã vội gì mà nản lòng.”

Xứ Cao-mên, tuy về đêm mát mẻ, nhưng ban ngày thì nóng bức lắm. Vì mưa luôn, đất ướt, đường lại trơn, trèo lên rất là vất vả. Bella Như-Nhang lên đến đỉnh, đã mệt thở không ra hơi, mồ hôi ra ướt đầm cả áo. Nàng phải ngồi nghỉ ở trên hòn đá “vết chân bụt.” Vết chân bụt này rộng độ hơn một cái nong. Dưới bàn chân, có trích chữ Cao-mên.  Hoàng-Cương chăm chú đọc. Bella Như-Nhang thấy thế bèn hỏi:

–  Thầy Hai cũng biết chữ Cao-mên à?

–  Có, tôi làm đồn điền, thường hay giao thiệp với người Cao-mên, cũng phải biết.

–  Sao tôi nghe người ta nói thầy là người buôn hán?

–  Có, ngoài vụ lúa thì tôi đi buôn.

– Tôi đi qua Nam-vang (Phnom Penh), Gò-sát (Pursat), Dũng-Sa-nang (Kampong chhnang) thấy các người buôn bán toàn là ‘các chú’ cả. Thế thầy giao thiệp với họ, thầy có biết tiếng họ không?

– Tôi cũng có biết, người Bắc-kỳ tôi, lúc nhỏ thường ai cũng học chữ Hán, nên học tiếng Khách cũng dễ.

–  Thầy biết nhiều thứ tiếng cùng thú nhỉ?

–  Thú gì? tôi chỉ vì biết lắm thứ tiếng mà suýt nữa mất mạng đấy.

Hoàng-Cương nói xong biết mình lỡ lời, vội im di, nhưng Bella Như-Nhang cứ gặng hỏi đầu đuôi mãi, thành thử chàng không muốn nói mà phải nói:

–  Đầu đuôi có gì đâu! Một hôm tôi có việc đến nhà một người bạn ở một xứ đồng rừng kia. Vì mưa không về được, y rủ tôi đến nhà Bang trưởng đánh mã chược. Cái nghề đánh bạc, cô tính ai lại muốn thua bao giờ, tôi ngồi đầu cánh trên lão Bang, đánh “đì” dữ lắm. Lão ta không ù được, lão ta tức. Gia dĩ ‘các chú’ ở xứ này giao thiệp với người ngoài thường hay dùng tiếng Cao-mên, nên lão ta cũng không biết tôi nói được tiếng Khách. Lão ta nói nhiều câu thô bỉ lắm, tôi vẫn làm lơ như không biết, nhưng sau lão ta nói đến câu “Ô nam chay sẩy lắn, (Annam tử khốn nạn) không đừng được, tôi bèn vùng dậy, nắm cổ lão ta mà hỏi:

–  Anh thử đứng với tôi, coi ai nhớn hơn? Sao anh khinh người thế, anh có biết Nhật-bản nó gọi anh là giống gì không?

Lão ta tưởng tôi đánh lão, kêu cứu ầm ỹ, một lũ đầy tớ lão xông ra đánh tôi. Cùng thì phải tính, tôi liền thuận chân đạp lão ta ngã chúi xuống và nhấc cái ghế ngồi, đánh lung tung. Nhưng “mãnh hổ bất như quần hồ” tôi vừa đánh, vừa đỡ, vừa lùi. Lùi ra đến cửa, cửa khóa! đã tưởng mình phải chết thì vừa may, mấy đứa đầy tớ Cao-mên đi theo tôi ở nhà bên cạnh, thấy tiếng ồn ào, liền chạy sang phá cửa, xông vào cứu được tôi ra. Từ đấy, tôi thề không học thêm một thứ tiếng nào nữa.

Bella Như-Nhang nghe chàng kể chuyện đến chỗ nguy hiểm, lòng nàng bồn chồn lo sợ thay cho chàng tưởng chừng như nàng đang mục kích tấn kịch kia vậy. Lúc chàng nói dứt, nàng mới hỏi:

–  Thế thầy có bị vít (thương tích) nào không?

–  Có, cái sẹo ở trên đầu này là một cái tang chứng nguy hiểm cho những người biết lắm thứ tiếng đây.

Hoàng-Cương hồi tưởng đến việc ấy cũng tủm tỉm cười, nhưng Bella Như-Nhang thì mặt có vẻ ái ngại, rồi bỗng nhiên nàng đứng dậy, chạy lại, chẳng nói năng gì, lật mũ chàng ra xem. Thấy cái sẹo to tướng nó rành rành ra đó, nàng rươm rướm nước mắt, rồi nàng lấy tay vuốt mái tóc chàng. Lúc bấy giờ nàng mới biết sự lạc thú của cái khóc, nàng thấy trong mình khoan khoái như một người mẹ vuốt mái tóc đứa con cưng bị ngã, mà lại có vẻ mặn nồng hơn: như một người yêu vuốt mái tóc của người yêu vậy.

Hoàng-Cương thấy nàng cử chỉ sỗ sàng thế, có vẻ bất bình. Chàng có biết đâu cách cử chỉ mà bề ngoài chàng cho là sỗ sàng ấy có ẩn một mối tình yêu vô hạn ở trong.

Bella Như-Nhang dường như biết ý bèn nói chữa:

–  Tôi vừa muốn học tiếng Cao-mên, nhưng ngày nay tôi cũng theo thầy mà không học một thứ tiếng gì nữa. Thầy bảo đứng đây trông thấy Biển-hồ, nào có thấy đâu?

–  Muốn thấy thì phải trèo lên gác sân ở đỉnh lăng kia chứ.

Rồi chàng đưa nàng vào trong lăng.

Lăng này ở đỉnh núi, cao lắm. Nhà Viễn-đông Bác-cổ có làm một cái thang sắt để trèo lên sàn gác. Thành thang nhỏ rất khó đi. Bella Như-Nhang vốn người nhanh nhẹn bạo dạn, xưa nay chẳng biết sợ là gì, nhưng nàng muốn đem nhốt Hoàng-Cương vào trong lưới tình, bèn dùng những bí quyết mà xưa nay nàng đã làm cho chìm đắm bao nhiêu nam tử, nàng làm ra bộ sợ sệt mà rằng:

–  Trời ơi! thang cao thế này, bực nhỏ thế này, tôi trèo làm sao được? Nhưng đã lặn lội lên tới đây, mà không được coi những cảnh đẹp ấy chẳng cũng là uổng lắm sao?

Cái “tiếc”, cái “muốn” của phụ nữ chẳng là đã làm nghiêng đổ bao nhiêu cơ đồ!!!

–  Được, cô bỏ giày ra, cứ mạnh bạo trèo lên, tôi đỡ.

Nàng trèo lên trước, chàng trèo lên sau, thỉnh thoảng lại lấy tay đỡ chân nàng. Đến lưng chừng, Bella Như-Nhang lại giả đò run sợ, không trèo nữa khiến Hoàng-Cương phải tiến lên mấy bực, lấy tay choàng vào lưng nàng, nâng lên.  Bella Như-Nhang thấy một nguồn sinh thú lạ thường ở bàn tay kia nó chạy vào mình nàng, nhưng lên gần đến nơi, nàng nghiệm ra rằng cái bàn tay sắt kia không phải là bàn tay thịt, nó không có cái vẻ rún rẩy ấm áp của ái tình. Nàng thấy thế mà đau điếng người đi, chân không buồn bước nữa, nàng chỉ cầu thầm cho bực thang gẫy ngay xuống, cho được cùng chết với người yêu. Nhưng sự thực là đó ; cái bàn tay sắt nó cứ bám chặt lấy mình nàng mà đưa lên như một pho tượng vậy.

Lên đến đỉnh lăng, nàng buồn bã chẳng thiết gì nhìn cảnh vật nữa, nên khi Hoàng-Cương đưa cái ống nhòm cho nàng, nàng nói:

–  Thầy hãy xem trước đi, tôi còn mệt hoa cả mắt.

Hoàng-Cương liền ra tựa vào lan can lấy ống nhòm nhìn…ngắm…

Nàng thấy chàng đứng lắt la lắt léo ở lưng chừng trời, những muốn chạy lai du cho chàng ngã xuống. Nhưng nghĩ đến đấy, nàng lại thấy đau đớn lạ thường tưởng chừng như cái chết của con người đứng kia tức là cái chết của mình vậy. Nàng lại muốn chạy lại ôm  lấy Hoàng-Cương bế vào lòng mà hỏi:

–  Pho tượng sành! pho tượng sành! lòng ngươi sắt đá chi chi mà không biết ta yêu, ta quý ngươi?

“Pho tượng sành” vẫn đứng sừng sững. Chán thay!

Trên từng mây trắng xanh, con “rồng lửa” phun nhiệt khí bức bối ra vũ trụ.

Cây cối núi non uể oải như ngây ngất ở trong lò.

Bella Như-Nhang thấy lòng mình ngây ngất hơn cảnh vật. Nàng thấy một cái “khó” nó nổi lên ở trong đời nàng. Cái khó ấy là sự chiến đấu với thời gian để giật lấy “quả tim vàng” nó ẩn ở trong cái “ngực sắt” của con người đứng trước mặt.

Hoàng-Cương cứ điềm tĩnh đứng nhìn phong cảnh, một “thế giới cảm giác” nó sôi nổi ở chung quanh chàng, chàng có biết đâu.

Biết những cái “khó” đã là một sự khó. Nhưng “biết rằng khó” tức là cái nguồn nó sinh ra những sức mạnh để làm được những việc khó vậy. Mà ở đời này có khó mới quý, chứ những “cái” ta chỉ dang tay ra là được thì đối với ta chẳng thiết tha quý báu gì.

Bella Như-Nhang nghĩ như thế lòng thấy phấn khởi. Nàng liền chạy lại gần Hoàng-Cương, nghển chân lên, áp má vào má chàng, như muốn nhìn chung cái ống nhòm với chàng. Nàng thấy má bên trái nóng như lửa đốt, thân thể âm ỷ như  than vùi. Nhưng dù có phải cháy thiêu đi, nàng cũng mong được như thế mãi mãi. Khá tiếc thay,  Hoàng-Cương lại vội nhường cái ống nhòm cho nàng, đứng né ra một bên lấy tay chỉ trỏ mà bảo nàng:

–  Kìa, cô Ba trông, Biển-hồ như một tấm thảm bạc trải bên đồng cỏ xanh rì. Kia nhà cửa tỉnh Siemreap như trăm nghìn đứa bé tí hon mặc áo trắng, áo đỏ ngẩng đầu lên nhìn chúng ta. Kìa, những di  tích lâu đài nho nhỏ lố nhố như những thằng lùn nó vây bọc lấy hai anh khổng lồ là chùa Angkor Wat và điện Angkor Thom. Kia cung ông Vua Cùi (Ruines du roi lépreux). Kìa hồ đông Barai, kìa hồ tây Barai, kìa núi Phnom Koulen mà người ta lấy đá để xây những lâu  đài thành quách này. Kìa, núi Dangrek uốn éo như một cánh cung, hai đầu ở Xiêm mà thân cung thì ở Cao-mên. Kìa cô trông bãi tầu hay là chỗ để cho khách năm châu rẽ mây mà đến, cưỡi gió mà về… cô trông: nước mây man mác, rừng núi bao la…

Khốn nạn, những phong cảnh đẹp đẽ như thế, nào nàng có thấy gì đâu. Nàng chỉ thấy trong ống kính trắng trắng xanh xanh, mờ mờ, tối tối. Nàng đã để hết thần trí nghe chàng nói. Nàng xét ra những tiếng nói kia nó cứ từ từ mà gieo xuống, lạnh lùng như hạt sương sa, chẳng có vẻ gì là sốt sắng đằm thắm, có lẽ chàng chỉ muốn vì cảnh vật mà phô bày vẻ đẹp, chứ chẳng có vị gì nàng. Nghĩ đến đấy thì thấy hình như có vật gì nó chẹn lấy họng, thở không được, nàng liền đưa trả cái ống nhòm mà bảo:

–  Tôi xem chán rồi, thôi ta đi chỗ khác.

Lúc xuống thang, nàng đã chán nản, chẳng còn muốn cho Hoàng-Cương đỡ nàng nữa, nhưng Hoàng-Cương cứ tưởng rằng nàng có tính nhát, liền xuống trước giơ tay đỡ lấy chân nàng.

Độc địa thay ông giời già, ông thường hay chơi khăm như thế. Lúc mà ta tưởng: “Thôi đến đây là hết” thì chính là lúc ta thấy những sức mạnh, vô hình, “nó làm cho ta không tự chủ được” lại cuốn cuộn ta đi.

Thang thì hẹp, chỉ vừa một người trèo, mà lại giốc ngược, nên phải xuống giật lùi. Bella Như-Nhang đã ngao ngán, thất vọng, tưởng chừng như cuộc tình duyên đến lúc này là kết liễu, là đoạn tuyệt, mà chính nàng, nàng cũng chẳng còn thiết gì nữa, nàng chỉ cầu cho chóng được xa con người “độc ác” kia thôi. Nhưng khi cái bàn tay sắt kia nắm vào cổ chân nàng, thì ngọn lửa lòng đã sắp tắt như lại bùng lên, nàng muốn xuống thật lâu để kéo dài cái “phút hạnh  phúc” ấy ra vậy.

Ở đời, cuộc rượu vui đến đâu cũng có lúc tan, cuộc cờ đánh mãi rồi cũng tàn, thì xuống mươi lăm bực thang kia chẳng phải là “một thế kỷ” mà một thế kỷ trong con mắt bọn khách tình, cũng còn là ngắn ngủi lắm!

Lúc xuống núi, tuy dễ hơn lúc lên, nhưng vì đường dốc lại trơn, người đi như muốn bổ nhào ra.

Hoàng-Cương liền đưa cái ba-toong đầu bịt sắt cho nàng chống, nhưng nàng lại muốn được hơn nữa….

– Thầy Hai ơi, đường trơn dữ quá, thầy cho tôi vịn vai, không thì té chết.

Chàng chưa kịp giả nhời thì nàng đã dang tay nắm chặt lấy vai chàng. Nàng dựa mình vào chàng, hai mắt lim dim, một luồng điện bí mật như đã thu hết sự sinh hoạt của nàng. Chân nàng chẳng buồn bước, chỉ theo cái nhịp chân của người  bên cạnh mà bước  thôi….

Anh tài xế đứng ở dưới chân núi trông lên thấy cái tình cảnh ấy cũng lấy làm lạ mà tự hỏi:

“Chủ mình xưa nay đối với bọn đàn ông, coi như có rác mà sao đối với nhà thầy này lại ra vẻ quý yêu thế kia”.

Hoàng-Cương lại đưa nàng đi xem điện Angkor Thom, có cái giếng nhỏ chỉ bằng cái nia mà sâu vô kể, ném hòn đá xuống lắng tai nghe mãi mới thấy tiếng động.

Đến cung ông Vua Cùi (Ruines du roi lépreux) thấy ngổn ngang những cung điện đã đổ nát, mà có lắm tòa sụt xuống, đất phủ lấp cả. Nhà Viễn-đông Bác-cổ bây giờ mới đang cho người đào lên và sửa sang lại.

Lúc ấy đã hơn muời một giờ trưa, nàng thấy đói, bảo chàng nghỉ để ăn cơm. Chàng bèn nói:

–  Tôi biết một chỗ ngồi ăn mát lắm mà thú lắm, chúng ta chờ đến đấy sẽ ăn.

Nhà Viễn-đông Bác-cổ có đắp hai con đường vòng chung quanh Đế-Thiên Đế-Thích. Nếu đi khắp hai con đường ấy, có thể thiệp liệp xem hết các nơi được. Di tích Đế-Thiên Đế-Thích rải rác hàng bao nhiêu nơi, chứ có phải chi chùa Angkor Wat và điện Angkor Thom mà thôi đâu. Con đường Vòng Nhớn (grand circuit) thì dài độ 10 cây số, con đường Vòng Nhỏ (petit circuit) dài độ 6 cây số. Hai con đường ấy thông với nhau mà chỗ cung điện Vua Cùi cạnh Angkor Thom chính là chỗ hợp lại của hai con đường ấy.

Xe hơi rẽ sang con đường vòng nhớn, qua nhiều nơi di tích, rồi đến một chỗ mà người Cao-mên gọi là cái “bể tắm của bà Hoàng hậu”.

Bể này vuông độ một mẫu đất xây từng ngăn như hình chữ điền . Ở giữa là nhà thủy tọa nhỏ, có cây. Bốn ô ấy, nước thông ra tháo vào được mà những cái ống thông nước lại là những con voi đá xây rất tỉ mỉ ở dưới thành ngăn. Tháng Giêng, tháng hai thì bể cạn khô, nhưng lúc này vì mưa luôn bể đầy ắp.

Hoàng-Cương đưa Bella Như-Nhang vào nhà thủy tọa, nàng liền bảo tài xế đem thức ăn lại. Nàng lấy cái khăn ăn nhỏ trải ra mặt đất, bầy biện các thức ăn. Trông cái cách nàng cắt bánh, trông cái tay nàng xé thịt, cùng một trăm cách cử chỉ khác rất thường mà ngọn bút không thể tả ra được, ta có thể đoán: Nếu nàng muốn – thì nàng sẽ là một tay nội  trợ rất khéo léo, đáng yêu, vì nàng đã sẵn có lịch duyệt và có biệt tài về khoa trị gia.

Nàng tuy đói mà không ăn được mấy, chỉ những nhìn Hoàng-Cương ăn mà no. Nàng ước gì được tự tay cầm bánh, thịt mà bón cho chàng như một người mẹ cho con ăn.

Nàng tưởng tượng thế mà trong mình sung sướng lạ thường.

Hôm ấy nàng có đem theo một chai rượu chát.  Hoàng-Cương uống vài cốc thấy trong người vui vẻ, chàng trỏ tay vào bể mà bảo nàng:

–  Người Cao-mên nói chuyện với tôi rằng cái bể này nguyên trước kia có một ông vua vì yêu Hoàng hậu mà xây đắp ra để khi trời nóng nực, Hoàng hậu ra đấy tắm táp. (Nàng nghe chàng nói mà ước gì chàng cũng đem cái lòng vua yêu Hoàng hậu mà yêu nàng). Kể cách chơi ấy thì đế vương thực, nhưng ngày nay…

Chàng nói đến đấy thì nàng bèn lấy cái cảm tưởng của nàng lúc bấy giờ mà nói tiếp:

–  …ngày nay nó là cái gương thiên cổ chỉ rõ cho ta biết rằng cuộc vinh hoa phú quý ở trên đời chẳng qua như một giấc mộng hoàng lương, trăm năm còn có gì đâu? Có còn thì là còn tấm lòng vua yêu Hoàng hậu, cùng là tấm lòng Hoàng hậu yêu vua mà thôi.

Nói đến đoạn dưới, nàng dằn từng tiếng mà đôi mắt phượng thì nhìn Hoàng-Cương một cách rất tình tứ như muốn tỏ cho biết nỗi lòng.

Nhưng những hạng người như Hoàng-Cương nào có hiểu một chút gì đâu!

Những hạng ấy là những hạng người rất đáng thương; lúc bé đã sớm mất một người mẹ là người đã lấy cái tình mẫu tử rất ấm áp để khêu gợi lên nguồn cảm giác rất êm đềm nó còn ẩn hình náu bóng trong lòng ta. Cập đến lúc mới lớn lên, liền đã phải lăn lưng ra dành giật với đời; vì sớm trải mùi đời đen bạc, sớm nếm cái thế vị chua cay, lòng dạ thành ra khô khan, cháy xém như một bãi sa mạc, mà một trận mưa xuân lác đác không thể làm cho nẩy nở ra những đồng cỏ xanh rì được.

Chàng nghe nàng nói, nghe cái giọng nói rất thấm thía của nàng mà chàng vẫn thản nhiên, chẳng hề động tâm.

Khốn nạn thay, những con voi đá nó lập lờ ở dưới đáy nước trong veo kia trông thấy vẻ mặt rầu rĩ của nàng lúc bấy giờ cũng dường như cảm động, huống hồ là người!

Mà có lẽ Hoàng-Cương là những hạng người lòng gan dạ sắt xưa nay chưa hề quan tâm đến sự buồn rầu đau đớn của mình nên không thấu những nỗi buồn rầu đau đớn của kẻ khác: có lẽ, chàng chỉ mải nghĩ đến sự lập thân, lập nghiệp chứ chẳng hề bao giờ nghĩ đến sự “yêu đương”. Mà đã không nghĩ đến nó, thì còn biết làm sao được các trạng thái cùng các triệu chứng của nó.

Ôi! đáng tiếc thay! Đáng tiếc thay!

Trời mùa hạ ở xứ Cao-mên như thiêu như đốt, người và vật như nung nấu trong lò.

Những đàn khỉ khát nước chạy ra ở uống ở chung quanh bể. (Ở đấy có lệ cấm bắn các giống cầm thú nên chúng dạn người lắm).

Bella Như-Nhang lấy thịt và bánh còn thừa ném cho chúng. Trước chúng còn sợ hãi chạy tán loạn, sau rồi đổ xô cả lại, tranh nhau, cắn nhau, dành giật nhau…

Nàng bèn trỏ tay vào đàn khỉ mà bảo  Hoàng-Cương rằng:

–  Đấy, thầy Hai coi, người ta cũng như đàn khỉ kia, cấu xé nhau, chém giết nhau cũng chỉ vì miếng ăn, lúc tỉnh ngộ ra thì đã muộn rồi, ngán thay!

–  Tuy thế thì dã man thật, nhưng không thế thì không được, ngôi bá chủ ở trong vũ đài chẳng là chỉ để dành riêng cho những kẻ nhanh chân nhẹ bước sao?

Lúc ăn cơm xong, Hoàng-Cương thấy trong mình nóng bức lạ thường, bèn bảo nàng:

–  Cô cứ ra xe trước chờ tôi, tôi tắm cho mát một chút rồi sẽ ra sau, chứ không nóng bức không chịu nổi.

Vô lễ thay, bất nhã thay!

Nhưng xét cho kỹ ra thì những người vô tình như Hoàng-Cương họ không có phân biệt nam nữ mà chàng coi Bella Như-Nhang cũng như một người bạn trai mà thôi. Nói rằng chàng là kẻ vô giáo dục thì cũng khí quá, nhưng nói rằng chàng thiếu cái “xã giao giáo dục” thì cũng không phải là oan. Một người như thế, không có thể là một kẻ vô giáo dục, nhưng đối với đàn bà mà sỗ sàng như thế thì cũng không tránh khỏi cái tội vô lễ. Có lẽ từ trước đến nay con quái vật “doanh nghiệp” nó đã nuốt hết thời giờ của chàng không còn để cho phút nào nhàn rỗi mà trau dồi lấy phép lịch sự của “xã hội giao tế”

Đối với những hạng ấy thì người cũng như mình, nói là nói, làm là làm, không có sự gì khuất khúc, là biết thớ lợ cả. Kể thì cũng đáng ghét thay mà cũng đáng yêu thay.

Bella Như-Nhang nghe chàng nói thế, chẳng những không giận mà lạ thay, nàng lấy thế làm lo. Ấy thường tình con người ta vẫn thế, ghét nhau thì những cái lỗi bé bằng con muỗi cũng thành ra to như núi, mà đã yêu nhau thì những cái tội to như núi, cũng không trông thấy nữa. Nàng thấy chàng, mồ hôi nhễ nhại lại say rượu, những muốn can không cho tắm, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chỉ lo thầm trong lòng mà chẳng dám nói ra.

Khi Hoàng-Cương tắm xong trở ra, lại đưa nàng đến xem một cung điện, xưa kia chắc là to tát lắm, nhưng nay đã đổ nát hết cả.

Đường đi vào thật dài thật rộng, hai bên hè mỗi bên có đến năm mươi pho tượng đá to bằng ông Hộ-pháp, tay đều ôm mình một con rắn chín đầu, dài dằng dặc.

Bella Như-Nhang trỏ vào những bức tượng ấy mà hỏi:

–  Sao bên này thì ngó ông nào ông nấy mặt mũi tươi tốt quá, mà bên kia thì đều như mếu cả?

–  Ấy, một bên tượng khóc, một bên tượng cười đấy, đại để cũng là những truyện ly kỳ không thể tin được như những truyện nhịn ăn mà mặc, nhịn mặc mà ăn ở chùa chiền ta vậy.

Rồi chàng trông những pho tượng khóc, mỉm cười mà hỏi đùa:

–  Sao ông lại khóc thế hở ông?

Nàng nghe chàng hỏi mà tự nghĩ:“còn một người khóc thầm trong bụng đứng ngay bên cạnh chàng, chàng có biết đâu”.

Hai người còn đi xem xét mấy nơi cổ tích nữa những, đến gần chiều, thì Hoàng-Cương thấy trong mình khó ở, đầu choáng váng, chân tay nặng nề chẳng buồn bước nữa. Bella Như-Nhang thấy chàng hai má đỏ gay, mắt lờ đờ bèn bảo:

Tôi coi bộ thầy Hai mệt lắm, thôi ta về nghỉ, mai sẽ đi nữa.

9 giờ đêm, chuông báo hiệu ăn đã nổi, trong phòng ăn, khách đã đến đủ. Bella Như-Nhang ngồi chờ mãi mà chẳng thấy Hoàng-Cương đến, bèn sai bồi đi gọi. Một lúc lâu người bồi lại bảo rằng:

–  Thầy ấy nóng sốt dữ lắm, nằm ngủ li bì, tôi hỏi mãi mới tỉnh. Thầy ấy nói không muốn ăn cơm.

Nàng thoạt nghe biến sắc, chẳng nề hà gì, vội chạy xuống phòng ngủ hỏi thăm.

Xét tâm lý những kẻ chung tình thì đại phàm, những đàn bà bình nhật, dù nhút nhát đến đâu, đến khi yêu cũng trở nên bạo dạn mà coi thường những điều tiểu tiết. Còn như bọn nam tử dù bình nhật thì mạnh bạo biết bao, cái khí tượng anh hùng tưởng chừng như vào rừng bắt cọp cũng không màng, thế mà khi đứng trước mặt người yêu để tỏ bày tâm sự cũng đều run như cái dẽ mà những tay xưa nay biện thuyết giỏi như Tô, Trương [6] cũng đều ấp úng như cậu học trò nhỏ không thuộc bài đứng trước mặt thầy giáo vậy. Lạ thay, những cái hiện tượng trái ngược, huyền bí có chăng chỉ ông Thần Ái tình mới có thể giảng cho ta hiểu được mà thôi.

Bella Như-Nhang vào đến phòng thấy  Hoàng-Cương nằm mê mệt ở trên giường, sờ đến trán, nóng như lửa đốt. Nàng bèn bảo người quản lý nhà khách sạn gọi giây nói về Siem Reap mời thầy thuốc.

Tỉnh Siem Reap cách Angkor-les-Ruines có sáu cây số, nên một giờ sau một vị y sĩ đến. Xem bệnh xong, ông nói:

–  Thầy ấy cảm cũng nhẹ thôi. Nếu điều dưỡng thì vài ngày có thế khỏi được, nhưng tối nay thế nào cũng lên cơn sốt dữ lắm, vậy cô phải ở đây trông nom cho thấy ấy luôn, nếu có mỏi mệt, phải gọi người khác thay. (Y sĩ cứ tưởng nàng là vợ người bệnh nằm đấy). Lát nữa tôi cho người đem thuốc đến, cứ hai giờ lại đổ cho thầy ấy một thìa.

Hoàng-Cương một là vì đang lúc say rượu mà tắm, hai là trong lòng nhiều mối ưu tư nên thụ bệnh. Chàng nóng sốt cả đêm, lúc mê lúc tỉnh: đến nửa đêm lại thổ, dơ bẩn bắn đầy vào mình Bella, nàng chẳng lấy thế làm gớm. Nàng thức suốt đêm mà chẳng biết mỏi mệt là gì. Ngày nay nàng mới biết đến sự lạc thú: săn sóc cho một người. Nàng chỉ cầu cho bệnh nhân cứ ốm mãi thế để nàng cứ được ngồi ở đầu giường này mà trông coi cho chàng mãi, dẫu chẳng được chàng thương yêu đến, nhưng thế cũng là quá đủ rồi.

Yêu để mà yêu, thương để mà thương mới là tuyệt đích của ái tình. Đó mới là cái biểu hiện của tấm lòng Đức Phật thương chúng sinh, Đức Thiên Chúa yêu con chiên. Còn yêu để cầu người yêu trả, thương để cầu người thương lại, chẳng là còn thấp kém lắm sao, chẳng là một việc cầu “lợi” cho mình sao? Nếu đã vì “lợi” mà có, thì cũng có lúc vì “lợi” mà tan. Nhưng ở buổi đời này, tìm đâu cho thấy được hai người có được quả tim như Bella Như-Nhang. Chẳng biết kẻ bệnh nhân rền rĩ ở trên giường kia có biết hay không. Nhưng biết ra thì càng hay, mà chẳng biết ra thì cũng thôi. Nàng chỉ biết mình yêu chàng chứ có biết tại làm sao mà yêu chàng đây. Tấm lòng yêu nó biểu hiện ra tựa như gió mát, trăng trong thì còn cần gì phải hỏi nó tự đâu mà lại. Mà có một tấm lòng yêu như thế, chẳng cũng là đầy đủ sự thần tiên lạc thú rồi sao? Mà dù kẻ nằm kia sau này mà chẳng yêu nàng nữa, thì nàng có vì lẽ đó mà dứt lòng yêu chàng được chăng?

Biết bao kẻ nói rằng yêu người yêu mà còn muốn dò xét về quá khứ, toan tính về tương lai, như thế sao gọi là yêu được. Yêu là hiện tại, nhìn vào nó mà tin về quá khứ, dựa vào nó mà vững lòng về tương lai. “Một túp lều một tấm lòng” không phải là chỗ thấy biết của loài người máu thịt, mà ta có thể nói rằng Bella Như-Nhang lúc này không phải là người của cõi trần này vậy.

Nàng ngồi nhìn bệnh nhân rền rĩ ở trên giường, tâm can nàng hình như cũng rền rĩ với bệnh nhân. Nàng trông trên bàn thấy một phong thư còn bỏ ngỏ. Nàng cầm lấy, xem gửi cho ai thì chưa đề chỗ ở, (có lẽ bệnh nhân lúc viết xong thư thì vì cơn sốt nó đến mà chưa kịp đề). Nàng lại đặt xuống, đã định không xem, nhưng bức thư bí mật – những thư chưa đề chỗ ở đều bí mật cả – nó cứ nằm lì lì trên bàn như một hòn đá nam châm hút hết thần trí của nàng vào. Địa điểm? Nếu cái thư kia mà có đề địa điểm rồi, thì có lẽ cũng làm cho nàng khỏi phải mang một mối ngờ trong lòng mà tránh được cái xấu: xem thư trộm.

Một phút nghi ngờ nhưng ta có thể nói là một thế kỷ bởi vì trong một cái thời khắc rất ngắn như thế, bao nhiêu là tư tưởng nó đã chớp nhoáng đảo thoáng qua óc mà làm cho lòng phải sôi nổi: Vui đấy, buồn đấy, thất vọng đấy lại có hy vọng ngay đấy. Những cảm giác ấy cứ theo làn tư tưởng mà thay đổi, mà cuộc vấn đáp thầm trong trí nàng nó là những cái khuôn đúc nên những cảm giác ấy.

“Chàng sở dĩ lãnh đạm cùng ta, là vì chàng có vợ rồi? – Không những người làm công ở khách sạn này quen biết chàng đã lâu, đều nói rằng chàng chưa có vợ con gì.

“Hay là chàng đã yêu ai mà thơ kia là thơ viết cho người yêu của chàng? – Không có một tang chứng gì chứng thực rằng chàng đã có “người yêu” rồi, ta xét cách cử chỉ, ngôn ngữ chàng cũng đủ biết.

“Hay ta xét nhầm? – Không, ta xưa nay xét người tinh lắm, không có thể nhầm được.

Hay là…?”

Còn bao nhiêu cái “Hay là” nó nổi lên ở trong trí tưởng tượng của nàng rồi bị bao nhiêu là cái “Không, Không” nó làm cho tiêu tán ngay đi. Nhưng rút cục lại, phong thư bí mật nằm kia vẫn là một vấn đề mà cuộc “vấn đáp ngầm” kia không giải quyết được, rồi một cái sức mạnh vô hình bắt nàng phải lấy mà xem.

Siem Reap Angkor, ngày 13 Août 1930

Kính trình luật sư Tromeur,

Mấy hôm nay, tôi đã nghĩ kỹ rồi. Nếu ông Mohamed Chettyar thuận mua cái đồn điền của tôi 25,000$ thì xin ông nhận lời bán đi mà trang trải công nợ cho tôi. Phải, tôi cũng nghĩ như ông, người ta ở đời quý nhất là danh dự. Danh dự trong sạch có thể làm ra đồng tiền, chứ đồng tiền không có thể làm ra được danh dự trong sạch.

Kính chúc vạn an,

HOÀNG CƯƠNG

Nàng đọc xong bức thơ ngoảnh nhìn kẻ viết thơ kia đang quằn quại trên giường bệnh mà tấm lòng yêu quý lại theo tấm lòng kính phục mà tăng lên – ta có thể nói rằng không có sự kính phục thì không có ái tình bao giờ.

Đêm đã khuya, khí trời lạnh lẽo. Nàng rón rén lại bên giường định lấy chăn đắp lên mình cho  Hoàng-Cương. Chăn lại ở phía trong đầu giường, nàng phải giơ tay qua mình chàng mới với được. Trông thấy bộ mặt khẳng khái kia dẫu ông thần bệnh cũng không làm giảm vẻ nam nhi được, nàng động lòng ái mộ bất giác sẽ đặt làn môi son lên trên trán…Bệnh nhân vẫn mê man chẳng biết gì, nhưng cái hôn – mà ta có thể cho là cái “hôn trộm” kia – thì dẫu đến chết nàng cũng chẳng quên được.

Sáng hôm sau, Hoàng-Cương đã tỉnh, lúc mở mắt ra đã thấy Bella Như-Nhang ngồi đấy mà người bồi thì đang quét dọn. Chàng nói:

–  Kìa cô Ba, sang thăm tôi lúc nào mà tôi không hay, tôi sốt quá, cứ nằm lì ra, chẳng biết gì, thật vô lễ quá.

Anh bồi ton hót:

–  Suốt đêm hôm qua, cô Ba thức săn sóc cho thấy, vì thầy sốt mê man nên chẳng biết, chứ có phải mới đến đâu.

Bella Như-Nhang ngồi im, mặt đỏ gay. Hoàng-Cương bèn ngỏ lời cảm ơn nhưng một cách “cám ơn” điềm đạm của con người biết ơn, của một người bạn thân chứ không phải cái “cám ơn” rất nồng nàn, rất thấm thía của kẻ tình chung. Nàng nghe mà ngao ngán, bèn nói:

–  Thầy nói quá lời chi vậy. Thầy chẳng nề khó nhọc mà đưa tôi đi xem chốn này chốn khác thì trong lúc ốm đau, thầy không có người nhà ở đây, tôi trông nom cho thầy là việc bổn phận, có gì mà ơn với huệ.

Hoàng-Cương thấy đói, bèn đòi ăn. Nàng sai bồi pha một cốc sữa bưng lên. Chàng còn run lẩy bẩy ngồi chưa vững, nàng bèn đứng dậy lấy gối xếp ở sau lưng cho chàng dựa. Uống hết cốc sữa, trong người đã thấy tỉnh táo, chàng bèn nói:

–  Tôi tiếc vì mệt mà hôm nay không đưa cô đi xem núi Koulen và Biển-hồ được. Ở vùng này còn nhiều cảnh đẹp lắm. Năm nào tôi  cũng đến đây xem mà không biết chán. Chốn này cũng dạy ta được lắm bài học hay. Người nào giầu sang, kiêu căng đến đây, trông thấy những thành quách lâu đài kiên cố thế kia mà còn phải đổ nát thì phỏng sự giầu sang đã chắc chắn gì? Cứ nghĩ thế mà lòng kiêu căng cũng dẹp bớt đi. Kẻ thất vọng đến đây thấy những đống đá kia, dẫu trải bao phen mưa gió mà vẫn cứ trơ trơ ra đó thì lòng cũng thấy bớt buồn rầu mà phấn khởi lên.

Nàng nghe chàng nói mà muốn hỏi lại chàng:

– “Còn kẻ này xưa nay rất khinh bỉ ái tình mà đến đây cũng phải đem lòng yêu chàng, chàng có biết chăng?”

Nghĩ bụng thế mà thẹn thùng chẳng dám nói ra.

Hoàng-Cương lại nói:

– Tôi rất tiếc chưa đưa cô đi xem hai cái hồ nhân tạo là Đông Barai (Lac Barai oriental) cùng Tây Barai (Lac Barai occidental). Hồ bên Đông thì rộng bằng hồ Lãng-bạc ngoài Bắc-kỳ của tôi, còn hồ phía Tây thì rộng hơn nhưng bây giờ đất xô xuống gần lấp hết. Nghĩ cho kỹ ra, nếu con người mà cứ ru rú ở nhà chẳng đi đến đâu thì cảnh đời chẳng qua cũng như cảnh đời nhà nông, mà người đòi, tôi tính cũng như bác thợ cầy kia, buổi sáng cứ cắm cúi, nào bừa, nào cuốc, một vũ trụ bao la đẹp đẽ chung quanh mình chẳng nhìn gì đến!

Bella Như-Nhang nghe chàng nói mà chẳng có ý gì muốn đi xem những phong cảnh chàng đã kể. Cái vũ trụ của nàng chẳng là người ngồi trước mặt đấy sao, lọ là còn phải đi tìm ở đâu?

Nàng nghĩ đến bức thơ nàng đã xem trộm, nàng nghĩ đến cảnh éo le của chàng, bỗng phát khởi lên tấm lòng bác ái, nàng muốn cho cái vũ trụ của nàng tươi tốt mà trổ ra bông thơm cỏ lạ, không muốn cho nó phải rầu rĩ với tang thương, bèn nói:

– Tôi coi bộ thấy mấy hôm nay lo nghĩ một việc gì có phải không? Đã chẳng biết nhau thì thôi chứ nếu biết nhau rồi thì cái bổn phận là phải giúp nhau. Hoặc giả thầy có cần tiền…

Nàng nói đến đây, Hoàng-Cương vội gạt đi mà rằng:

– Không, tôi có lo việc gì đâu. Làm thân con người ta, thì việc suy nghĩ là việc thường ngày, hà cố phải lo, mà có lo thì cũng tự mình lo lấy. Tuy cô có bụng tử tế mà nói thế, nhưng tôi xét làm thân nam tử mà phải hệ lụy đến ai, kẻ trí giả rất lấy thế làm nhục. Tôi tuy chẳng ra gì, nhưng tự xưa nay vẫn cố giữ cho mình được thanh thản không phải hàm ân ai. Tiền bạc dẫu nợ nhiều đến đâu, nếu có chí, cũng có ngày trả xong, chứ tôi thiết tưởng một cái ân thì trả biết kiếp nào cho hết. Đã biết là trả không hết thì đừng vướng vào là hơn. Tôi là người buôn bán xưa nay vay mượn người ta cũng nhiều, nhưng những kẻ cho tôi vay cũng là vì lợi, thì không có ân. Tôi đã là người thì đối với tấm lòng quý hóa của cô sao tôi lại không biết cảm khích, vậy tôi xin đa tạ. Còn tiền thì tôi không dám vay, cũng chẳng cần dùng gì mà vay. Những lời tôi nói với cô đây là lấy cái tình thực mà nói, cô đừng phiền nhé.

Nàng thấy chàng nói thế không dám ép nữa, nhưng biết bao nỗi âu sầu, bi ai nó âm ỷ ở trong lòng.

Thuốc sẵn, thầy hay, mà lại có một nữ khán hộ trông nom cho chu đáo như thế, dẫu bệnh gì cũng phải khỏi mà cũng chóng khỏi.

Bốn hôm sau, Hoàng-Cương đã thiệt mạnh, chàng bèn lại buồng Bella Như-Nhang để từ giã vì mai có việc phải về nhà. Lúc mới bước chân đến cửa buồng, nghe có tiếng đàn cầm thánh thót ở trong. Chàng dẫu từ xưa đến nay chẳng có thời giờ nào mà học những món tiêu khiển thanh tao ấy, nhưng thấy tiếng đàn nó não nùng ai oán cũng phải đứng lại nghe.

Tiếng vàng xen tiếng sắt, réo rắt thanh tao như đưa người vào cõi thần tiên mê mộng…Tiếng tơ pha tiếng trúc, rền rĩ nỉ non như đưa người vào chốn sầu thành chất ngất. Nếu kẻ biết nghe đàn thì có thể đoàn là một khúc “hoàng-cầu-phượng” chứ không phải phượng-cầu-hoàng.

Dứt tiếng đàn theo tiếng khóc. Dẫu nó nhỏ như sợi tơ, nhưng cũng có thể tỏ cho chàng biết con người đang khóc kia phải đeo một mối sầu vô hạn. Bella Như-Nhang sở dĩ tủi thân mà khóc chỉ vì cách đối đãi lạnh lùng của Hoàng-Cương trong mấy ngày nay đã làm cho nàng phải tuyệt vọng.

Trước kia, chàng đối với nàng như khách qua đường, chẳng qua gặp đồng bào ở nơi quê người đất khách thì trò chuyện đấy thôi. Dần dần thấy nàng có kiến thức hơn người, cử chỉ lỗi lạc, cũng đem lòng kính nể. Nhưng từ khi ốm đến giờ, thấy nàng xử với mình tử tế quá, chàng cũng rất lấy làm cảm khích. Nên ngày nay, nghe tiếng khóc não nùng kia chàng mới tỉnh ngộ, chàng hiểu…biết…

Biết nàng yêu chàng, nhưng chàng xét ra chàng chẳng yêu nàng một chút nào cả. Thế thì không có thể mang một cái đời hành động tự do trói vào một sợi tơ lòng mà tự mình chẳng muốn mang. Chàng cũng phải cho chàng là thông minh, nhân, trí, nhưng những cái nết ấy có đủ đâu? Phải có một tấm lòng yêu, phải có một tấm lòng tín ngưỡng về ái tình, mà chàng đều không có cả! Chàng tự nghĩ: ở đời quý nhất là tấm lòng; một tấm lòng đã chết thì sống cũng như không, có xác mà không hồn, có ảnh mà không hình. Cái thân thế ta ngày nay cũng vì như kẻ thuyền chài kia, ở nơi biển cả mênh mông, bỗng gặp cơn bão táp, ta có thể nản chí mà buông tay chèo lái được không? Nam nhi chí, nam nhi chí, cái bảo vật vô giá ấy sao ta nỡ hoài! Đã thế thì ta không có thể dối người, dối mình mà coi thường cái đời ta, cái đời nàng được. Nàng đã là người lịch duyệt tài hoa thì cái cách trả ơn cho người tri kỷ là phải nói thực cho nàng, phải nói thực cho nàng biết thân ta còn nhiều trách nhiệm phải gánh vác…Cái thân làm trai này còn nặng nợ non sông…không thể không trả được…

Chàng gõ cửa vào, thấy dung nhan nàng có vẻ tiều tụy, cũng ái ngại bèn nói:

– Tôi trông cô hình như mỏi mệt lắm, hình dung sút kém lắm, cô phải nên tĩnh dưỡng để bảo trọng lấy sức khỏe. Sức khỏe quý lắm, cô nên nhớ lấy lời một người bạn rất trung thành với cô.

Rồi chàng tủm tỉm cười mà nói tiếp:

– Giữ được non xanh đó lo gì không có củi đun. Người ta còn sống một ngày nào, còn có quyền hy vọng ngày ấy. Cái hy vọng ngày nay nó tiêu tán đi thì ngày mai lại có một cái hy vọng khác nổi lên.

Hoàng-Cương nói thế là có ý khuyên nàng quên chàng đi, bảo nàng đổi ý kiến đi. Nhưng quên thù, quên oán, quên nhục, quên vinh, chứ quên người yêu thì quên làm sao? Đổi nhà, đổi đất, đổi ruộng, đổi vườn, chứ đổi lòng là một việc mà kẻ tình chung không sao làm được. Nhưng những quan niệm ấy một người chưa biết sự yêu đương như Hoàng-Cương nào có biết đâu.

Bella Như-Nhang cứ lặng im. Hoàng-Cương nói tiếp:

– Trong khi tôi ốm đau, cô có lòng hạ cố đến, thật tôi rất lấy làm cảm khích. Ngày mai tôi phải về nhà, vậy xin có lời thành thực…

Chàng nói đến đấy thì nàng vội nói:

– Ngày mai thầy về rồi!

Lúc ấy giá có ai rạch máu ra mà thề rằng yêu chàng, chàng cũng không tin bằng câu nói kia vậy. Câu nói kia không phải là câu nói ở cửa miệng, nó là cái vang của trái tim yêu đường đột xuất ra.

– Vâng, mai tôi có việc phải về, có lẽ từ nay, mây ngàn hạc nội biết bao giờ cho được gặp nhau nữa. Vậy tôi xin có mấy lời đa tạ cái thịnh tình cô đã có lòng săn sóc đến tôi. Mà những ngày tôi được gần cô là những ngày sung sướng nhất trong đời lưu lạc của tôi, tôi không bao giờ quên, mà…

Một tiếng khóc vang lên. Bella Như-Nhang tiến lại dang hai cánh tay ngọc ngà ra ôm chặt lấy cổ Hoàng-Cương mà nói:

– Anh Hai, anh Hai, em nói với anh một lời này mà em xin thề rằng từ trước đến nay em chưa hề nói với ai mà có lẽ từ đây em cũng không nói với ai nữa: em yêu anh, anh có biết chăng. Có lẽ cái thân em đã rạc rài, nhưng …

Nghe đến đấy, Hoàng-Cương liền lấy tay bịt miệng nàng không cho nói nữa, mà rằng:

– Em Bella, nếu anh yêu em thì cần gì phải biết đến lai lịch của em, cần gì phải quan tâm về việc quá khứ. Một cái mình ngọc này, một tấm lòng vàng này, chẳng đủ hay sao, nhưng anh xin thú thực với em rằng: tuy anh có quý em, nhưng không yêu em một chút nào cả. Nếu, nhất đán thành vợ thành chồng, em đem một khối chung tình độc nhất vô nhị mà yêu anh, nhưng trong khi sánh vai kề má, em thấy lòng anh lạnh như băng, giá như tuyết, em thấy anh chỉ thương em, quý em mà không yêu em như thế chẳng là đau đớn cho em lắm sao. Nếu anh nghe lời em thì anh sẽ làm khổ cho em sau này vậy. Có lẽ em nói em yêu anh, chẳng cần anh phải yêu trả lại, nhưng còn như anh, trong lúc em đem cái khí vị rất nồng nàn ấm áp của ái tình bao bọc lấy anh, anh tự thấy lòng mình lạnh lẽo khô khan, chẳng cũng là khổ tâm cho anh lắm sao. Gia dĩ thân anh còn lắm nợ nần…anh không thể đem một đời hữu dụng, một tấm lòng son mà khinh suất dùng vào một việc chưa đáng dùng được. Em Bella, em Bella nếu em có thật yêu anh, em nên nghĩ đến chỗ khổ tâm ấy, nên nghĩ đến cái phận sự làm giai của anh.

Ôi! Ích kỷ thay kẻ vô tình!

Mà cũng kỳ quái thay kẻ “trọng-nghiệp vong-tình!”

Họ coi chữ tình như một món hàng vậy, họ nói chuyện về tình ái như ta bàn doanh thương kế lợi vậy. Họ tưởng ở trên đời còn có những việc đáng thiết tha hơn ái tình!

Thảm thay cho họ! mà cũng ái ngại thay cho họ. Nhưng một điều ta có thể tha thứ được là họ biết quý sự thực, dám nói sự thực.

Bell Như-Nhang nghe chàng nói đến đây rú lên một tiếng, mà ngã lăn ra…

Một tuần lễ sau khi về đến nhà, Hoàng-Cương nhận được một bức thơ, một mớ tóc, một cái ngân phiếu 25.000$.

Thư rằng:

Hoàng-lang rất yêu mến của em,

Dẫu chàng chẳng nhận thiếp làm vợ, mà tự thiếp, thiếp coi chàng như một người chồng muôn năm của thiếp vậy. Khi chàng nhận được bức thơ này thì thiếp đã là người thiên cổ, ôm một khối tình chung vô tận xuống chốn thuyền đài. Thiếp xét ra sống ở cõi trần ai, nhục thể này mà không được lòng chàng yêu đến thì chẳng còn lẽ gì đáng sống mà cũng không sống được nữa. Thôi kiếp này, phận chẳng lành, duyên chẳng đẹp, thiếp xin cầu đến kiếp sau. Nhưng trước khi thiếp chết còn mong cho người yêu của thiếp được thư tâm mà lo về sự nghiệp. Vậy gọi là món tiền nhỏ mọn, của ít lòng nhiều, cúi xin chàng đoái thương đến thiếp mà nhận cho để cho thiếp được thỏa hồn nơi chín suối.

Sau xin chàng đừng bi tâm gì về cái chết của thiếp, thiếp thật đã vui sướng mà chết, thật đã vui sướng được hi sinh cái đời vô dụng này cho khỏi bận trí trượng phu vậy. Sau này lúc sự nghiệp đã thành, chàng có mở mớ tóc mây, chạnh lòng nhớ đến thiếp, lại qua thăm Đế-Thiên Đế-Thích, chàng trông thấy đống đá xanh chập chùng mà ái ngại cho “hòn máu đỏ”, than cho một câu: ở chốn này đã có một người quá yêu ta mà chết. Thế là hồn thiếp đã được ngậm cười ở nơi chín suối rồi đấy.

BELLA.

Hoàng-Cương xem xong bức thơ, ruột gan đứt ra từng khúc, chàng phát run cả người như trong khí trời đông gió rét, ai đem chậu tuyết mà đổ vào người chàng vậy. Chàng muốn mọc cánh mà bay ngay về Đế-Thiên Đế-Thích.

Lúc bước lên xe chàng còn có hy vọng: may ra thì nàng chưa chết.

Xe chạy như bay, ném lại những đồng cỏ mênh mông mà cuốn lấy con đường vô tận…

Lúc bước chân lên thềm khách sạn Angkor-les-Ruines, người bồi chạy ra rầu rĩ mà kể cho chàng nghe:

– Thầy đi được ba hôm thì cô Ba đi xem Phnom Bakheng chẳng may trượt chân ngã chết rồi. Thầy tính gieo mình từ trên đỉnh ấy xuống thì còn gì? Khốn nạn, con người đẹp đẽ như thế, lúc người ta khiêng về, tay chân, mình mẩy nát nhừ chỉ còn là một đống thịt đỏ loè! Con người tử tế phúc hậu như thế mà chết một cách thảm thiết như thế, ai mà chẳng phải xót thương.

Người bồi nói xong khóc nức nở. Hoàng-Cương nghe xong câu chuyện choáng váng tê tái cả người như ai đem chiếc búa cái đập lên đầu chàng vậy. Chàng rít lên một tiếng “ta giết nàng” rồi gục xuống, thổ huyết ra lênh láng…

Lúc tỉnh ra, Hoàng-Cương bèn sai người bối đi mua vàng hương rồi bảo đưa ra mộ…

Chàng trông thấy nấm đất còn ướt, những cuốn hương đỏ thắm như máu còn cắm ở trên mà chàng như ngây như dại. Ngoảnh nhìn những lâu đài lố nhố ở chân trời như những cái dấu hỏi to tướng của thời gian hỏi người trần thế mà chàng tự hỏi:«ta sống để làm gì? Có phải xây đắp những tòa lâu đài nguy nga kia cho ông Tạo-vật vô tình sau này đạp đổ đi không?»

Chàng nghĩ đến đấy mà chàng cám cảnh cho cái thân thế mình, luống lại ngậm ngùi cho cái số phận con người bạc mệnh nằm kia. Rồi nỗi thương, tiếc, quý, yêu nó sôi nổi trong chốn bể lòng…Chàng phục xuống mồ khóc không ra tiếng.

Những giọt nước mắt thấm đất kia chẳng là những hạt ngọc vô giá của thần ái-tình đã bao công mài dũa mới có được sao?

Những giọt nước mắt kia chẳng là những giọt máu đào cuồn cuộn ở chốn bể lòng mà tung toé ra sao?

Trời nắng chang chang, bao là sắc lửa một mầu. Bốn bề yên lặng, cảnh tiêu sơ như nặng trĩu một gánh sầu vô hạn….

Trên từng mây xanh biếc, đôi chim trời tung cánh cùng bay mà ở dưới trần, chàng thì từ nay lẻ bạn…

Từ nay, chàng phải đeo một trái tim “dập nát” sống ở đời với bọn người vô tình, lãnh đạm…

Từ nay trong trái tim đầm đìa những máu kia, luôn luôn hiển hiện cái hình ảnh rất yêu mến của Bella cũng như cái tinh thần tàn phá rất khốc liệt của Hóa-công lúc nào cũng in sâu ở di tích đổ nát thành Đế-Thiên Đế-Thích kia vậy.

Chú thích:

[1]Ở Nam kỳ, con trưởng kêu là hai, con thứ là ba

[2] Sắc không sóng gió mà làm chìm đắm được người.

[3]Núi Đậu (monts de Cardamones, Siam) sản ra nhiều đậu khấu Biển-hồ (lac Tonlésap, Cambodge )sản ra rất nhiều cá. Người ta thường mua đậu khấu bán sang Cao-mên và cá khô đem bán sang Siam..

[4]Marius Tướng-quân khi xưa có công đánh đuổi rợ Teutons và rợ Cimbres mấy lần sang xâm-chiếm đất La-mã. Tướng-quân ba lần làm độc-tài (dictateur) ba lần làm Tổng-thống (Consul). Lúc đã ngoại 80 tuổi, vì tranh quyền với Sylla Tướng-quân mà phải vượt bể Địa-trung (Méditerranée) trốn sang thành Carthage (Afrique) là xứ ở Annibal. Sau tướng-quân đem quân về thành La-mã khôi-phục lại được cái địa-vị hiển-hách khi trước.

[5]Lúc Marius Tướng-quân trốn sang Carthage, tuy có sắc lệnh của Sylla Tướng-quân cho truy-tầm để giết đi, nhưng quan Toàn-quyền người La-mã, cai-trị thuộc-địa Carthage (Annibal đã chết, thành Carthage đã phải người La-mã diệt, lấy làm thuộc địa) nghĩ thương tình bèn sai thị-vệ ra đuổi Tướng-quân đi và nói nếu không trốn sang xứ khác thì buộc lòng phải bắt giải về  xứ La-mã. Tướng-quân xót thân chìm nổi mà phát lộ ra câu nói ấy.

[6] Hai tay biện-thuyết đại tài đời Chiến-quốc

2- Một mụn con

Sáu giờ hai mươi phút… Bác sĩ Tùng, tay cắp một cái gói, ở trên xe hơi bước xuống, vội vã lên thềm. Cánh cửa sẽ hé, một khuôn mặt nõn nà thùy mị hiển hiện ra…

– Sao cậu đi làm về trễ thế, em chờ nóng cả ruột.

– Tôi còn ra hàng Đào mua cái này cho mợ, thứ hàng này may áo đẹp lắm. Trắng như mợ mà mặc áo mùi này thì trông nổi lắm.

Bà Bác sĩ Tùng sẽ đưa tay ra cầm lấy gói hàng nhưng chẳng có vẻ gì là sốt sắng, chẳng có vẻ gì là vẻ vui mừng, rất đáng yêu mà rất đáng ghét của một người đàn bà ưa làm đỏm lại được đức lang  quân sẵn lòng vun xới cho cái đức tính dễ thương ấy.

– Em còn bao nhiêu là áo, cậu lại cứ mua thêm mãi rồi để không dùng đến, mục nát có phải phí tiền không?

Bà nói xong thở dài. Bác sĩ có vẻ buồn, nâng niu đỡ vợ ngồi xuống ghế rồi bảo:

– Sao mợ cứ thở dài làm vậy, mà ít lâu nay mợ cứ buồn rũ ra thế. Mỗi lần tôi mua thứ gì cho mợ  trang điểm, mợ cũng không vui là nghĩa làm sao? Thế mợ không muốn trang sức cho đẹp cho tôi yêu mợ à? Thế mợ không yêu tôi sao? Hay tôi đã làm điều gì khiến cho mợ buồn?

– Thiết tưởng chẳng cần phải nói, cậu cũng đã thừa biết bụng em, còn như cái tình cậu đối với em thì em dù ngu dại đến đâu cũng phải biết. Em biết cậu yêu em lắm chứ.

Mối sầu tích lũy bao lâu nay như đã chôn sâu vào tim gan mà một vài câu nói âu yếm của vợ không thổi bay đi được, Bác sĩ bèn nói:

– Thế sao lúc nào mợ cũng buồn? Mợ có biết tôi trông thấy mợ buồn, tôi đau đớn lắm không?

Như không dằn nổi nỗi lòng, Bác sĩ lại nói tiếp:

– Tôi khổ lắm! tôi khổ lắm! Tôi quý mợ, tôi yêu mợ, tôi thấy mợ cứ buồn rầu ủ rũ ra như thế mà không cách gì làm cho mợ vui vẻ với tôi được thật đau xót cho tôi biết là bao! Nếu mợ có yêu tôi được một phần tôi yêu mợ, thì mợ sẽ thấy biết nỗi đau đớn của tôi. Mà lạ sao mỗi lần, tôi đưa mợ đến chơi nhà chú Xuân là mợ lại buồn thêm, là ý nghĩa gì? Chú thím đều yêu quý mợ lắm, nâng niu như trứng như hoa. Cái gia tài mấy mươi vạn đã viết chúc thư để cả cho mợ. Mồi lần mợ đến chơi, chú thím săn đón, giữ cho được mợ ở lại ăn cơm mới bằng lòng. Tôi còn nhớ, năm ngoái mợ yếu, thím ngồi đầu giường trông nom, nâng giấc mợ thâu đêm suốt sáng mà chẳng biết mỏi mệt, tôi thiết tưởng cha mẹ vị tất đã thương con được đến thế. Mà sao, mỗi lần tôi rủ mợ đến thăm chú thím, mợ lại hình như miễn cưỡng mà đi. Hay chú thím đã làm gì mích lòng mợ? Trong tám năm giời nay, vợ chồng ta ăn ở với nhau, không một phút nào tôi không đem hết tấm lòng để yêu mợ, tôi thật dám nói quyết rằng chưa có một người chồng nào cư xử với vợ được như tôi. Tôi thấy mợ buồn, tôi đã tìm hết cách để giải buồn cho mợ, mong một ngày kia cái buồn ấy sẽ vì tấm lòng tôi yêu quý mợ mà tiêu tan đi, nhưng khổ thay mọi cách đều vô hiệu cả. Bấy lâu tôi vẫn cắn răng không dám hỏi duyên cớ vì đâu, nhưng ngày nay chẳng nhẽ thấy mợ cứ một ngày một khô héo đi mà đành khoanh tay ngồi nhìn hay sao? Hoặc giả mợ có điều gì ức uất vì cảnh ngộ mà không nói ra được chăng? hay có điều gì bí mật nó làm cho mợ đau xót âm thầm mà mợ còn dấu tôi, mợ cứ nói thực, tôi xin thề với mợ; nếu phải hi sinh cái đời tôi chăng nữa để lấy lại được sự yên vui cho mợ, tôi cũng vui lòng hi sinh ngay.

Bà Bác sĩ Tùng nghe chồng nói, cảm động, bèn ôm đầu chồng sẽ lấy tay vuốt tóc mà trả lời:

– Em chẳng có điều gì ức uất cả, cậu chẳng làm gì cho em buồn cả. Từ hôm em bắt đầu làm bạn với cậu, cái tối hôm ấy cậu còn nhớ không? Em còn nhớ lắm, em nhớ mãi. Tối hôm ấy cậu thề với em lúc nào cậu cũng sẽ là một người tình nhân rất âu yếm của em, lúc nào cậu cũng sẽ là một người anh cả che chở cho em. Từ bấy đến nay không một phút nào cậu đã xao nhãng cái trách nhiệm ấy, không một phút nào quên lời hứa ấy. Còn về phần em không một phút nào em không cảm ơn ông Nguyệt Lão đã se cho em được làm vợ cậu. Em thiết tưởng được người chồng như cậu, cái hạnh phúc một đời em thế, là đầy đủ lắm. Nhưng vì sao em vẫn buồn, em xin thú thực với cậu, em cũng không biết đích là nó phát sinh ra bởi đâu? Tự bao giờ? Em biết lắm, em biết em buồn thì cậu cũng không vui nào, cậu cũng đau khổ vì em. Em muốn dũ nó đi mà dũ không được. Em nhớ mang máng có lẽ em bắt đầu buồn từ khi cậu đưa em đến thăm người ban học của em là bà Phán Lộc. Em còn nhớ hôm ấy lắm. Hôm ấy, bà Phán Lộc nằm ở trên giường, thằng Minh, con Yến là hai đứa con bà quấn quít ở bên mình. Em còn nhớ thằng Minh nó thấy cậu lại khám bệnh cho mẹ nó, nó bảo:

– Ông Đốc đến xem bệnh cho me tôi đấy à? ông cố chữa cho khỏi ngay «lập tức» đi nhé, rồi tôi cho ông cái súng bắn ruồi của tôi «cừ» lắm cơ, bắn một phát mà chết được những hai con ruồi cơ.

Con Yến nhí nhéo nói thêm:

– Rồi tôi cũng cho ông con «búp bê» to sù của tôi nữa, tôi cho ông ăn cả kẹo nữa.

Cậu có biết cái súng bắn ruồi, miếng kẹo, con búp bê đối với con trẻ là thế nào không? Là vũ trụ, là thế giới của chúng đấy. Thế mà chúng chẳng tiếc, sẵn lòng đem biếu cậu, mong cậu chữa cho me chúng khỏi bệnh. Chúng mới một tí tuổi đầu mà đã hiếu thảo làm sao! Trông mới kháu khỉnh, ngộ nghĩnh dễ thương làm sao! Giọng nói thành thực, thấm thía như rót vào tai đã khêu gợi cái cảm tình mẫu tử nó còn ẩn hình náu bóng ở trong lòng em. Em trông chúng cười, nghe chúng nói, chạnh nghĩ phận mình hiếm hoi mà em ứa nước mắt. Cập đến lúc cậu lại khám bệnh cho bà Phán, chúng nó đứng cạnh, nhìn mẹ, im thin thit, như có ý hồi hộp, băn khoăn, lo sợ. Sau thấy cậu nói chỉ vài hôm nữa là khỏi, chúng mừng quýnh, múa lên:

– À me sắp khỏi rồi, me sắp khỏi rồi.

Rồi chúng nhẩy lên bá cổ cậu mà hôn. Nhưng có phải chúng hôn cậu đâu? Chúng nó hôn, hôn cái người nói mẹ chúng nó sắp khỏi đấy chứ. Chính vì chúng nó yêu mẹ chúng nó mà cám ơn ông thầy thuốc đã chữa khỏi bệnh cho mẹ chúng nó đấy. Nhưng chúng chưa đến tuổi biết dùng những câu cám ơn rườm rà mà vô vị như mình đâu, chúng chỉ hôn để thay lời. Những cái hôn ấy tiêu biểu cho sự biết ơn thành thực nó phát sinh ở trong trái tim băng tuyết của chúng mà ra. Em ngồi trông chúng chạy, nhẩy, đùa, nghịch mà em ngao ngán cho cái phận em. Em thấy thằng Minh nó gọi con Yến lại bảo:

– Me đến mai thì khỏi hẳn đấy ; rồi mẹ đi ra phố hàng Ngang mua lụa may áo cho mày đấy, rồi me đi «Gô đa» mua «cả» một cái tàu bay cho tao đấy. Cái súng bắn ruồi tao định đem cho ông Đốc, me phải mua một cái súng «cháy phá» đền cho tao cơ.

Rồi nó lôi em nó lại, bắt ngồi lên ghế, nó giả tảng làm ông thầy thuốc, cũng bắt mạch, cũng gõ xương, cũng nghe ngực. Không có cái khăn «sà vệt», nó lấy cái khăn bàn to tướng choàng lên lưng em nó, rồi nó áp má vào ngực nghe ngóng, hệt như cậu khám bệnh cho bà Phán Lộc. Nó lại bắt em nó lè lưỡi cho nó xem, rồi nó giơ ngón tay trỏ lên gần mồm nó, khua khuẩy, làm bộ dọa dọa lắp bắp nói gì em chẳng nghe rõ, nhưng chắc câu nói của nó thú vị lắm nên em nó mới cười sằng sặc. Ôi! cái cảnh tượng mới nên thơ!

Ông Hóa-công mới khéo vờn nên bức tranh tuyệt xảo! Em chẳng biết cảnh thần tiên ra thế nào, nhưng cũng thần tiên đến thế là cùng. Từ đấy em lại nhà chú thím trông thấy chú thím già cả, cô đơn, hai ông bà cứ ro ró ngồi nhìn nhau im thin thít nên em thương mà em buồn, em không muốn mục kích cảnh thương tâm ấy, nên em không muốn lại chơi chứ có phải em không biết lòng chú thím thương yêu em đâu. Cái cảnh cô độc không con trong khi tuổi già mới não nùng bi ai quá đỗi! Em đem sánh cái hoàn cảnh vợ chồng bà phán Lộc với cái hoàn cảnh của chú thím thì tuy vợ chồng bà ấy có nghèo hơn nhưng sung sướng hơn chú thím nhiều lắm, gấp mây có những kho tiền vựa thóc như chú thím. Em lại chạnh lòng nghĩ đến cảnh vợ chồng ta lúc trở về già thì sẽ ra làm sao? Có lẽ cũng phải chịu một cảnh hiu quạnh, ai oán như chú thím mà thôi. Vì thế mà em lo, mà em buồn. Nếu giời cho em một đứa con thì dù có bắt phải đem cái gia tài của chú thím để lại cho em mà đổi lấy, em cũng xin vui lòng mà đổi ngay lập tức.

– Chú thím hiếm hoi là số giời đấy chứ.

– Nếu cậu nói thế thì có phải giời bắt chú thím phải khổ sở không?

– Giời cho chú thím giầu có, lại bắt chú thím không con, đó cũng là một lẽ thừa trừ, suy đi bì lại cũng thế thôi.

– Không, không, tiền của mà đem so sánh với con cái làm sao được, một đằng sướng mà «sướng khổ», một đằng khổ mà «khổ sướng». Em thiết nghĩ thà giời bắt nghèo nàn mà cho đông đàn còn sung sướng gấp mấy cho giàu có, mà bắt phải hiếm hoi. Giá vợ chồng mình mà có được một mụn con thì…

– Vợ  chồng mình còn trẻ trung đã lo gì…?

– Cậu bảo không lo à, em với cậu lấy nhau tám năm giời nay, đương lúc khí huyết sung túc mà còn chả sinh đẻ, đến sau mỗi tuổi mỗi già, hòng gì?!

– Có lẽ tại mợ cứ buồn rầu, nên khí huyết suy kém mà ra thế đấy, mợ vui vẻ đi, chẳng chóng thì chầy rồi cũng sẽ được bế con.

– Không có lẽ, trước kia em khỏe mạnh biết bao, vui vẻ biết hao, em mới buồn ít lâu nay đấy chứ, có lẽ tại cậu trước kia chơi bời lắm, mắc bệnh tật mà sinh ra thế chăng. Không phải em trách móc gì cậu đâu, đàn ông lúc trẻ trung ai mà chẳng chơi bời, nhưng nếu có bệnh thì phải chữa cho khỏi đi, cho tuyệt… đi, nếu cậu không chữa cho cậu khỏi được thì cái bằng Y khoa bác sĩ chuyên môn… của cậu dùng để làm gì? ích cho ai?

– Tôi biết chắc bây giờ tôi không có bệnh tật gì cả. Tôi xin lấy cái danh dự một ông thầy thuốc mà thề với mợ như thế.

– Thế tại làm sao em không sinh nở gì? Tại làm sao? Hay là giời bắt em phải hiếm hoi. Cậu có biết em buồn mà chết đi được không. Mỗi khi cậu đi làm vắng, em ở nhà một mình, hết đi, lại đứng, hết đứng, lại ngồi, thui thủi một mình. Cái nhà này rộng rãi quá! sạch sẽ quá! lộng lẫy quá! lạnh lẽo quá! Em muốn cho nó chật hẹp, đơn sơ, bừa bãi, ầm ỹ như nhà bà phán Lộc. Em muốn cho trong nhà này có một đứa trẻ nó đùa nghịch, nó kêu gào, nó vòi quấy, nó đập phá, nó bầy biện đồ chơi bừa bãi ra đây để cho em dỗ dành nó, để cho em nưng niu nó, để cho em hầu hạ nó, để cho em được nghe tiếng kêu gào của nó, để cho em được trông nét mặt hồng hào vui vẻ của nó. Cậu ơi, cái tủ to lớn kia, bộ sa-lông đẹp đẽ này có giúp gì cho sự lạc thú của vợ chồng mình đâu? Trong nhà này phải có một quả tim «nhỏ xíu» nó thương yêu vợ chồng ta cũng như thằng Minh con Yến nó thương yêu mẹ nó thì em mới hết buồn được, em mới biết sống làm vui được. Cậu thấy em buồn rầu, cậu ép em đi nhẩy đầm, ép em học đánh quần, học đánh ping-pong, cậu đưa em đi Đồ-sơn, Tam-đảo, đi vãng cảnh các nơi danh lam thắng tích, em phải chiều lòng cậu mà nghe theo đó thôi, chứ em chẳng thấy gì là thú cá, chẳng biết gì vui cả. Nếu có một mụn con thì dù có phải ngồi một xó mà bồng bế nó, mà tắm rửa cho nó, mà khâu quần, vá áo cho nó, săn sóc hầu hạ nó, dù có phải đói rét em cũng vui lòng mà chịu. Giá dụ ngay lúc này đây, đang lúc cậu ôm em, yêu quý em như thế này, mà có một đứa con cưng của chúng ta nó chạy nhẩy đùa nghịch ở trước mặt, nó bi ba bi bô, gọi em, gọi cậu ; cậu trông thấy nó, cậu yêu nó vì nó là máu mủ của em, cậu yêu em vì em là người mẹ của nó, em lại càng yêu cậu vì nhờ cậu mà em đã được cái sung sướng là mẹ một đứa con kháu khỉnh như thế. Ví được thế, có phải sự lạc thú của vợ chồng ta đã đầy đủ rồi không. Lúc ấy, giá ông giời già độc địa có ném em vào thành sầu, biển thẳm em dám chắc em cũng không biết buồn là gì, mà có lẽ cậu cũng thế. Giá dụ đấng Cao-siêu lại quá thương vợ chồng ta mà cho được hai mụn con, một giai một gái chẳng hạn, em sẽ đặt tên chúng nó là thằng Loan, con Phượng, giá dụ lúc vợ chồng mình đang ngồi trên cái divan này mà thằng Loan con Phương yêu quý của chúng mình nó múa mênh, nhẩy nhót ở chung quanh thì vui sướng biết bao. Giá dụ chúng nó chòng nhau, đánh nhau rồi khóc ầm ỹ, vợ chồng mình vội vã chạy lại can, cậu ôm lấy con Phượng, em bế lấy thằng Loan, rồi chúng mình thi nhau dỗ dành cho chúng nó nin, rồi chúng mình họp nhau lại phân xử cho chúng nó, rồi chúng mình mắng yêu chúng nó, rồi cậu giả vờ làm ra mặt nghiêm nghị giảng luân lý cho chúng nghe. Em dám đoan với cậu, nếu có phải xử những cái kiện thú vị như thế, em sẽ là một vị quan Tòa giỏi, không thiên tư đâu.

Nói đến đấy, bà Bác sĩ thở  dài. Cái thực tế lạnh lẽo bao bọc chung quanh mình bà như đã đánh tan cái mơ màng thần tiên ấm áp nhưng hão huyền mà bà hàng ngày mong ước, bà như có vẻ tiếc rẻ mà nói tiếp:

– Một mụn còn chửa có, lấy đâu được hai mà hòng kiện với cáo, mà hòng ôm Loan bế Phượng!

Bà lại ôm chặt lấy chồng mà rền rĩ:

– Cậu ơi, sao giời lại không cho vợ chồng mình một đứa con để yêu thương nó nhỉ? Sao giời lại bắt vợ chồng mình phải chịu một cảnh hiu quạnh, buồn rầu như thế này nhỉ?

Hai hàng nước mắt nó là hai dòng máu của trái tim những kẻ phải đeo một cái đời cô độc buồn tẻ, một cái đời không hậu vận, không hi vọng cứ cuồn cuộn mà tuôn ra…

Nghe những lời nói ấm áp thấm thía nó phát  lộ ra ở cõi lòng một người từ mẫu, trước cái tính «giản dị» của một người vợ hiền chỉ cầu  nguyện có một mụn con để mà yêu, để cầu lấy vui mà sống, nghe những tiếng gọi của một trái tim trong sạch nó đang sôi nổi về những lẽ chính đáng, êm đềm, thiết tha cho sự sống thần tiên ở đời, đứng trước một người đàn bà chí nhân, chí hiền như thế, Bác sĩ Tùng như thấy mình kém hèn khốn nạn, kém hèn vì không có một cái nguồn đạo đức xán lạn như thế, khốn nạn về cái dĩ vãng ích kỷ chỉ biết có cái thú tục tửu của lòng dục đê hèn. Bác sĩ thấy mình xấu xa dơ dáng không dám nhìn thẳng vào mặt vợ dường như xấu hổ, cái xấu hổ của một kẻ hèn mạt đứng trước một người có những đức tính thanh cao hơn mình. Lương  tâm đang mờ ám, đang say mê như vùng dậy, sáng sủa, sáng sủa bởi cái ánh sáng đạo đức của người vợ hiền nó chiếu vào. Bác sĩ thấy lương tâm cắn rứt, nặng chĩu một tấm lòng hối hận, đau đớn, mà nỗi đau đớn sinh ra bởi những điều hối hận ấy chỉ có một cách là thú hết tội tình mới mong giảm bớt đi được, mới mong xứng đáng được một đôi phần với tấm lòng băng tuyết của con người ngọc ngà ngồi cạnh. Bác sĩ bèn đứng dậy, nắm chặt lấy tay vợ mà nói:

– Em Lan, nghe em nói, anh mới biết, anh là một thằng khốn nạn, không đáng sánh với em một chút nào cả. Em nghe, nghe anh nói cho hết, anh xin thú thực hết tội lỗi cùng em. Anh là một người tình nhân đê hèn, một người cha mạt kiếp. Anh đã đánh lừa một người con gái còn dại dột, dại dột vì đã quá yêu một thằng khốn nạn như anh, anh có con mà anh đã bỏ con, anh không nhìn nhận gì đến…

– À thế ra…

– Yên, em cứ để yên anh nói hết cho em nghe. Trước khi anh chưa sang Tây, còn đang học ở Cao-đẳng, anh có dan díu với một người con gái mà cái địa vị trong xã hội lại thấp hơn cái địa vị của anh; người ấy đã quá nghe lời đường mật đem giao phó một đời trinh bạch cho anh. Cập đến lúc có mang được bốn tháng, anh bỏ, anh bỏ chẳng đoái hoài gì đến nữa, đứa con kia lúc đẻ ra, anh cũng chẳng nhìn nhận, bù đắp gì cả.

– Thế bây giờ mẹ con người ta ở đâu, sống hay chết?.

– Khi anh ở Tây về, nghe bạn bè nói chuyện người ấy đã chết, người ấy vì buồn rầu mà chết, chết vì anh.

– Còn đứa con?

– Đứa con thì lúc ấy chưa chết, nhưng đã chín năm nay anh cũng chẳng biết nó ở đâu, sống hay chết.

– Thế từ bấy đến nay, cậu cũng không dò la tin tức gì về nó cả à?

– Không.

– Thế sao cậu không nói chuyện với em.

– Anh sở dĩ không dám nói là vì anh không muốn đem những việc đê hèn ấy làm cho lạnh nhạt cuộc tình duyên đương đầm ấm của đôi ta.

Bà Bác sĩ Tùng nghe đến đấy giận quá, vùng đứng dậy, người run lẩy bẩy, vẻ thất vọng đau đớn hiện ra nét mặt, bà nói – câu nói như ở trong tâm hồn nó bay ra:

– Cậu! Cậu! Cậu! Cậu nhẫn tâm thật, cậu sánh vai kề má với em trong tám năm giời nay, một việc bí mật ghê gớm như thế không nói cho em biết, mà cậu bảo cậu yêu em! Cậu không dám nói với em là vì cậu không tin lòng em, cậu không tin em là vì cậu không biết rõ em là hạng người thế nào. Cậu đã không tin em, không hiểu em mà cậu dám bảo là cậu yêu em, mà cậu cho cuộc tình duyên đôi ta là đầm ấm. Ôi! Cậu chỉ là một quân nói dối. Cậu dối cậu, cậu dối em. Cậu thấy em buồn, cậu ép em đi xem chớp bóng, đi nhẩy đầm, cậu mua các đồ trang sức cho em. Ôi, cậu không biết em! Em có phải là hạng người chỉ đem cái mặt ra làm trò hề cho hộp phấn thỏi son đâu! Em có phải là hạng người chỉ vác cái mặt nạ trơ trẽn ấy ra làm trò vui cho thiên hạ đâu? Thân em có phải là cái giá áo chỉ để cho người ta treo những lụa Bombay, nhiễu Thượng-hải lên đâu! Em có phải là con «chó đói» của nhà nhẩy đầm, rạp chớp bóng đâu? Thân thể em có phải một thứ «đồ chơi» để cậu đem tô điểm cho thật đẹp rồi cậu ngồi cậu nhìn, cậu ngắm cho hả cái lòng dục đê hèn của cậu đâu? Không, không em chỉ là một người «đàn bà», lấy chồng để yêu chồng, mong có con để yêu con. Em chỉ biết có một việc yêu chồng, yêu con là cái lạc thú đệ nhất ở trên đời mà thôi. Ổi! có lẽ em chỉ là một con ngu ngốc, một con «nhà quê», nhưng giời đã sinh ra như thế, phó cho những đức tính như thế đấy, em biết làm sao…?

Cậu có biết em yêu cậu thế nào không? Em yêu cậu mà em yêu lây đến hết cả «mọi cái» nó dính dấp vào đời cậu, em thương đến cả đứa con «bỏ rơi» kia nó là máu mủ của cậu nữa. Ôi! cậu! cậu! cậu là một con người nhẫn tâm quá! Cậu đem nỗi hàm oan gieo cho người chết, cậu đem nỗi nhục nhằn buộc cho người sống.

Bác sĩ Tùng nghe vợ nói, tưởng chừng như đương đứng trước mặt một vị thần «bác ái» đang lấy tấm lòng bác ái kia mà xử tội mình, mà cảnh tỉnh cho mình, Bác sĩ bèn quỳ xuống, nước mắt ràn rụa, ngửng mặt lên trông vợ mà khẩn cầu:

– Em Lan, xin em yêu anh, thương anh mà tha tội cho anh.

-Tha tội cho cậu à! Em không có quyền. Chỉ có người bạc mệnh cùng   đứa con bơ vơ kia có thể tha thứ cho cậu mà thôi. Ôi! Yêu thương cậu, cậu có lấy cái chân chính ái tình mà yêu thương em đâu? Nhưng em cũng chẳng vì thế mà không yêu thương cậu được. Ngày nào mà em dứt được cái lòng yêu thương cậu là ngày em đã phải từ giã cõi đời này vậy. Nhưng đau đớn, xót xa, thảm khốc như thế này, cậu bảo em sống làm sao được. Em dựa vào nguồn lạc thú gì để sống?! Sống, thấy cậu là một kẻ tội lỗi mà không có cách gì gột rửa cho cậu được, thì phỏng sống làm sao?

Bà nói đến đấy, ruột gan bà như bào như xé, nỗi xót xa đau đớn nó đang sôi nổi ở chốn bể lòng vùng đưa lên chẹn lấy họng, bà muốn nói mà không sao nói được nữa, chỉ ôm chặt lấy chồng mà khóc nức nở. Bác sĩ cũng chỉ khóc mà không biết nói làm sao.

Một lúc lâu, bà lại bảo với chồng:

– Cậu có muốn cho em sống để yêu cậu không?

Bác sĩ chỉ gật đầu mà không nói.

– Thế thì cậu phải cố tìm cho thấy đứa con của cậu. Một cái sức bí mật thiêng liêng, có lẽ là cái hồn anh linh của mẹ nó bảo cho em biết: nó chưa chết đâu, nó bây giờ đang bơ vơ khốn khổ, nó bây giờ đang phải chịu những nỗi nhục nhằn, điêu  đứng mà lòng ích kỷ khốn nạn của cậu đã bắt nó phải mang. Cậu phải cố tìm lấy nó đem về đây cho em nâng niu nó, cho em yêu quý nó, để săn sóc lấy nó, để đùm bọc lấy nó, họa chăng con người bạc mệnh hàm oan ở nơi chín suối kia mới hài lòng mà tha thứ cho cậu được, họa chăng giời mới ngoảnh lại thương đến em mà cho em vui thú với cậu được. Phải có tấm lòng nó thương yêu em thì em mới sống mà thương yêu cậu được, có thế thì em mới sống mà ăn đời ở kiếp với cậu được… Cậu đừng sợ em ghẻ lạnh đâu? Không, không.

Nói đến đấy, bà sẽ nhắm mắt lại, nói tiếp:

– Ngay lúc này, em tưởng chừng như nó đã bước chân vào đây. Nó rách rưới, gầy còm lắm. Em sẽ lấy máu thịt của em bù đắp vào cho nó, em sẽ đem bán hết những vàng, ngọc, kim cương vô vị này mà may mặc cho nó, em sẽ lấy cái tình của mẹ nó yêu nó mà thương lấy nó. Em sẽ cố gầy dựng cho nó một cái tương lai rực rỡ. Em sẽ yên trí nó là đứa con em đẻ ra mà nó cũng sẽ coi em như mẹ đẻ của nó vậy. Cậu oi, cậu yêu em, em yêu cậu, chưa đủ đâu, phải có một cái giây tình-ái thứ ba nó kết chặt giải đồng tâm của đôi ta cho đến lúc đầu bạc răng long. Phải có một đứa con để nó yêu chúng ta cũng như chúng ta đã yêu nhau vậy. Phải có một đứa con để khi chúng ta già yếu nó sẽ lấy cái tình «lúc nào cũng trẻ trung» của nó mà yêu chúng ta. Cái tình vợ chồng yêu nhau cũng có ngày «già» đi, «cỗi» lại chứ cái tình con yêu cha mẹ, cái tình cha mẹ yêu con không bao giờ  «già» đâu cậu ạ. Bây giờ, bây giờ cậu đã hiểu tại làm sao em cầu mong có mụn con chưa?

3- Chỉ vì điếu thuốc lào

Giăng sáng…

Trên cung quế, chị Nguyệt đang uốn éo để phô tươi, phô đẹp với khách trần thì ở dưới vòm giời, ông thần Khoa-Học hình như ghen ghét đã phủ vây chốn đế đô bằng muôn đạo hào quang khiến cho khách Thăng-long không sao có thể biết hết được cái vẻ đẹp của một đêm trăng rằm.

Tôi vừa đi, vừa ngắm cảnh, vừa nghĩ ngợi thì đã đến trước một tòa nhà nguy nga. Trong một gian phòng rất lịch sự, trang hoàng một cách tối tân, tôi đã thấy Trương-Sinh ngồi đấy. Anh em gặp nhau, tay bắt mặt mừng, Trương-Sinh đẩy hộp thuốc lá thơm lại mời tôi hút rồi vồn vã hỏi:

– Chị và cháu có mạnh khỏe không? Sao anh không đưa chị và cháu lại chơi tôi, tôi đến anh hai lần, anh đều đi vắng cả, nên tôi phải viết thư…

– Khi bắt được giấy thì nhà tôi còn bận về quê ăn cưới, thôi để bận khác, anh còn ở đây lâu, chứ đã vào Saigon ngay đâu.

– Tôi định ra ở luôn Bắc-kỳ, nên tôi mới tậu cái nhà này. À thế, chị đi ăn cưới ai ở Hải-phòng?

– Ăn cưới con gái bà Thái-Long lấyTham Trần làm ở Tòa Đốc-lý, anh cũng quen đấy chứ. Nghe đâu cô dâu có mấy gian nhà gạch và mấy nghìn bạc vốn kia đấy. Thế nào, còn anh? Cũng phải mau mau cưới vợ đi, để vợ chồng tôi đến ăn cỗ chứ? Thôi, vừa giầu có, vừa lịch sự như anh, nhòm món nào mà chẳng xong.

Tôi vừa cười, vừa nói, bạn tôi có vẻ ủ rũ mà bảo tôi:

– Tôi à? Tôi quyết không bao giờ lấy vợ, mà tôi chưa hề bao giờ nghĩ đến sự lấy vợ cả.

– Thế anh nhất định ở vậy à? Gần 30 tuổi rồi mà không vợ, tôi chịu cái gan anh. Tôi thì tôi không thể thế được. Tưởng tượng buổi sớm dậy không có một cái nụ cười nó khiến cho mình vui vẻ mà làm việc, thì ở trong đời này, anh tính cái sống còn có ý vị gì nữa?

Bạn tôi nghe tôi nói, mỉm cười một cách chua chát cay độc mà bảo tôi rằng:

– Nghe anh nói thì hình như đàn bà đều là một giống tiên cô ở động Thiên-thai cả. Họ có thể khiến cho chàng Lưu, chàng Nguyễn ngửi thấy mùi nhang xạ mà quên bẵng cái khổ trèo đèo lặn suối đi được. Phải, má phấn, môi son thì thú thật. Nhưng anh có biết cái vật gì nó nấp ở trong những đống thịt trắng trẻo, mũm mĩm ấy không? Những đống thịt kia khiến cho ta khoái trá nhất thời được, thì ta cứ việc hưởng, nó có thể khiến cho ta quên sự đau đớn thì ta cứ việc vui; nhưng nói rằng những đống thịt ấy là cái ý vị cho sự sống thì tôi còn ngờ lắm.

Xưa nay, tôi vẫn tôn quý phái yếu, nay thấy bạn tôi bình phẩm họ một cách quá đáng như vậy, tôi bèn sốt sắng bênh vực.

– Sao anh lại có cái ác cảm với bọn nữ lưu thế?  Họ chính là cái mục đích khiến cho ta sống, mà bắt ta phải sống. Tôi không phải viện những lý thuyết đâu xa, anh hãy quay lại cuộc đời dĩ vãng của anh thì anh sẽ thấy sự thực nó hiển hiện ra mà bênh vực cho phái yếu. Có lẽ bây giờ những của cải của anh đã làm cho lòng dạ anh khô khan, không còn gì là cái khí vị rất nồng nàn mà lại rất đáng yêu của cái tuổi thanh xuân nữa. Nhưng tôi, tôi là một thằng nghèo xác, ngồi nói chuyện với anh đây, tôi thề rằng, tôi đổi ngay cái tòa nhà nguy nga lộng lẫy này, lấy một túp lều tranh và một tấm lòng; mà biết đâu, túp lều tranh kia, tấm lòng kia lại chẳng đem lại cho ta những cái lạc thú mà ta không thể tìm thấy được ở trong tòa nhà nguy nga này. Nghèo như tôi, tôi rất lấy làm ái ngại cho anh mà tôi lại có quyền phàn nàn thay cho một người giầu sang như anh. Anh nhầm, anh nhầm to, anh chỉ xét cái vật chất bề ngoài mà bỏ cái tinh thần rất nhu mì, hy sinh của người đàn bà…

Tôi nói đến đây, bạn tôi vùng đứng dậy nói lấp ngay:

– Anh nói tinh thần à? Cái tinh thần của đàn bà chỉ là cái tinh thần của giống sài lang. Hy sinh à! Lòng hy sinh của con mụ Tú. Giá lúc nẫy, anh nói với tôi: «con gái nhà Thái-Long đã đem đổi mấy gian nhà, mấy nghìn bạc, lại các cả người, để lấy cái tiếng «bà Tham», mà cậu tham Trần đã đem cái bằng tham biện mà «truy» được mấy gian nhà, mấy nghìn bạc thì đúng hơn là anh nói: «cậu tham Trần đã cưới con gái bà Thái-Long». Anh nên biết, đời nay, họ có cưới người đâu? Họ chỉ cưới nhà gạch, cưới hoa hột, cưới tiền tài, cưới cái danh tham biện, cái hàm tri huyện mà thôi. Anh bảo tôi ngoảnh lại cuộc đời dĩ vãng của tôi ư? Tôi càng quay lại chừng nào thì tôi lại càng phải công nhận những lời tôi nói với anh đây là những chân lý bất khả di dịch cả. Phải, khi tôi còn hai mươi tuổi, tôi cũng nghĩ như anh, là tôi cho ở đời này, cái vật mà đáng yêu quý hơn cả là người đàn bà. Tôi cũng nghĩ rằng ở trong cõi đời khổ ải này, mà không có một nụ cười tươi tỉnh thì ta tội gì mà đeo lấy cái khổ. Mà khổ thật! Một giọt nước, một luồng gió, một con sâu, một con muỗi có thể làm cho ta chết được. Ta mới sinh ra, ông Tử-thần đã xô ta sồng sộc xuống chỗ vực sâu hang thẳm, mà mỗi một phút trong đời ta, ta phải dùng hết tinh thần, hết sức mạnh để chống chọi với cái «chết». Khổ chưa! Đấy là những cái hữu hình, còn biết bao nhiêu cái vô hình nói ra khôn xiết. Sống như thế mà không có một cái nguồn an ủi thì sống để làm gì! Phải, trong lúc thiếu thời, tôi cũng ước ao một đêm giăng như đêm nay, ta cùng người yêu, tay cầm tay, để cùng hưởng lấy những cái vui, cái đẹp của tạo vật; dạ một dạ để cùng nếm, cùng trải cái sướng, cái khổ của đời «tục lụy» này, nhưng… nhưng ngày nay những cái ý tưởng ấy tôi cho là những cái mộng tưởng hão huyền, những cái «mê mộng sọt rác» của một thằng bé chưa hiểu việc đời, chưa biết bụng người.

Bạn tôi nói đến đây, có vẻ mệt, ngừng lại, tôi liền hỏi:

– Thế tại làm sao anh lại đổi ý kiến như thế, những ý kiến ấy mới là…

Bạn tôi không để tôi nói dứt vội tiếp:.

– Là những ý kiến của thằng ngu, thằng xuẩn.

Giọng nói của bạn tôi có vẻ quả quyết hình như trong có ẩn một sự bí mật gì, khiến tôi tò mò, muốn biết sự bí mật ấy mà tôi đoán chắc rằng những lúc mà cái nguồn cảm giác ở trong lòng con người ta đã bồng bột lên đến thế, thì thế nào cũng phải phát lộ ra, tôi bèn chẳng cãi lại, tôi chỉ hỏi:

– Thế vì đâu mà anh đổi ý kiến như vậy?

– Vì đâu à? Anh hỏi vì đâu à? Ôi, chỉ vì có một điếu thuốc lào thôi.

Tôi nghe bạn nói, tưng hửng.

– Anh ngạc nhiên à, chỉ vì điếu thuốc lào, hay chỉ vì cái kết quả của điếu thuốc lào thì đúng hơn.

Bạn tôi nói đến đấy, lại nói sang đầu đề khác, khiến tôi chẳng hiểu ra làm sao, nhưng tôi cũng vẫn ngồi im để nghe.

– Anh có nghiện thuốc lào không? Nếu anh có nghiện thì anh mới biết cái khoái của nó. Lúc sáng dậy, tôi hút một điếu thuốc lào thì tôi tưởng tượng như những bộ phận trong người tôi dừng cả lại, nó đưa tôi vào một cõi đời say sưa mê mộng mà vui thú hơn…

Bạn tôi nói đến đấy thì hình như những truyện cũ đã làm cho lòng bạn tôi sôi nổi, bạn tôi bèn đứng dậy đi bách bộ trong phòng rồi nói tiếp:

– Ấy cũng chỉ vì cái thú đó mà khi tôi còn là lưu học sinh trường Bảo-hộ, tuy có lệnh cấm mà sáng nào tôi cũng vẫn hút giấu. Tôi còn nhớ, một sáng, tôi ra chuồng tiêu, thu thu cái điếu giấy, cho thuốc, đánh diêm kéo một hơi dài, say quá, thú quá đến nỗi người giám thị lại gần mà tôi không hay. Tôi còn đang mê man những đỉnh Giáp với non Thần mà tay còn cầm cái điếu, ống diêm.. thì hai cái tát một cái đá đã làm cho tôi phải giật mình tỉnh dậy

Tôi thấy cách đối đãi dã man như thế, thì cái tính tình rất nhẫn nại của cậu học trò ở trong người tôi bỗng tiêu tán đi đâu cả. Lòng tôi sôi nổi, tôi chỉ thấy tôi là người, mà đã là người thì không có thể để cho ai phạm đến danh dự mình một cách tàn nhẫn như thế được, tôi chẳng nghĩ sau nghĩ trước gì, ục luôn cho người giám thị mấy quả, hắn ngã chúi đầu vào tường vỡ cả mặt, máu ra đầm đìa. Thế là tôi bị đuổi mà lại bị cấm thi trong năm năm. Tuy thế mà tôi chẳng buồn, chẳng lo tí nào cả. Ôi, cái tín ngưỡng của ái tình lúc ấy mạnh biết bao nhiêu. Tôi yên trí rằng Vân  Hương thế nào cũng cho cách hành động của tôi là phải mà có thế, thì mới xứng đáng là một người yêu của nàng.

Anh có biết Vân Hương con bà Hàn H… ở đâu phố ta không? Vân Hương mà khi chúng mình còn đi học vẫn gọi đùa là «Hằng Nga» ấy mà. Tôi biết Vân Hương đã hai năm giời, chúng tôi đã bao phen chỉ non thề biển, chỉ chờ tôi thành danh là cùng nhau buộc chặt dãi đồng. Trong lúc chúng tôi đang thương yêu nhau, biết bao lần Vân Hương thỏ thẻ, nhủ tôi rằng:

«-Cậu cố học đi nhé, đỗ bằng Thành-chung, rồi vào Cao-đẳng rồi ra làm ông Tham. Nếu cậu làm được ông Tham thì vợ chồng mình danh giá biết mấy»

Ôi, ngày nay tôi mới biết, Vân Hương yêu tôi, là bởi yêu cái ông Tham trong mộng tưởng của nàng, chứ có yêu gì cái bản ngã của tôi đâu. Lúc tôi đinh ninh, được tin buồn kia, thì thế nào nàng cũng lấy cái ái tình rất đầm ấm mà an ủi tôi, thì, hỡi ôi! Nàng cự tuyệt tôi ngay, mà cự tuyệt bằng một cách rất tàn  nhẫn… nói ra chỉ thêm tủi, thêm nhục cho giống đàn ông đã mê muội vì tình. Tôi nghĩ mà tức, tức thành ra phẫn trí, tôi bỏ nhà vào Saigon làm ăn. Mà trong bước đường đời còn ôm «khố rách», tôi lang thang nay đây mai đó, tôi đã nghiệm ra rằng: «bọn đàn bà đại để cũng là một loại với Vân Hương cả».

Ngày nay, cô nào nói yêu tôi, tôi giả điếc, bà nào nói quý tôi, tôi mỉm cười, anh tính họ thương yêu gì cái «thằng tôi», chẳng qua họ thương tiền, thương bạc của tôi cả. Bây giờ đây, tôi nghe đến những tiếng mà bọn xuẩn cho là những cái tiếng rất thiêng  liêng, rất đẹp đẽ của ái tình, tôi dửng dưng và tôi rất ái ngại thay cho bọn họ. Tôi nói «tôi yêu mình, tôi quý mình» cũng như tôi nói «tôi đi chơi, tôi ăn cơm» chẳng có một chút «tình» gì cả, mà tôi gần một người đàn bà, dù đẹp đến đâu, thì cái cảm giác đối với tôi cũng như là hút một điếu thuốc lào, khi sớm mai vậy thôi.

Tôi nghe bạn tôi nói mà luống bùi ngùi thay cho bạn. Ôi biết ai là người lại kể được câu chuyện «Một nghìn một đêm» để đưa bạn tôi ra khỏi vòng hắc ám ngõ hầu cho thấy được cái ánh sáng ấm áp của ái tình thì may lắm thay.

Nhưng trong buổi «vàng đỏ đen lòng» này, biết tìm đâu cho thấy… cho thấy môt người….

5- Con quay

Tôi là con vợ lẽ, anh tôi là con vợ cả. Anh tôi thì lắm đồ chơi mà tôi thì chẳng có một thứ gì. Nội các thứ đồ chơi của anh tôi, nào ô-tô, nào tầu hỏa, nào búp bê… tôi chẳng ưa thứ nào cả, chỉ thích nhất con quay sừng. Mỗi khi tôi thấy anh tôi quấn giây, rồi xoay mình vươn vai đánh, con quay nó vùn vụt ở trong tay bay ra, quay tít thò lò, tiếng kêu vo vo. Nó chạy, nó lượn, nó mới đậu làm sao.

Tôi ước ao:

«Giá tôi cũng có một con quay sừng như của anh tôi.»

Tôi đương chăm chú nhìn con quay thì ở đằng xa mẹ tôi cũng chăm chú nhìn tôi, mà có lẽ mẹ tôi đoán biết sự mong ước của tôi bởi vì chỉ có người mẹ mới thấy biết những sự bí ẩn ở trong lòng con, chỉ có những người nào thương yêu nhau mới tỏ rõ tâm sự nhau.

Tôi chạy lại vồn vã bảo mẹ tôi rằng:

– Em thích con quay sừng kia quá, Chị Hai mua cho em một con nhé.

– Chị Hai làm gì có tiền, hở em.

Tiếng mẹ tôi nói có vẻ buồn rầu thất vọng: con quay sừng kia chỉ một hào bạc, mà không làm sao kiếm ra để mua cho đứa con cưng được vui lòng!

Tôi nghe mẹ tôi nói, ngoảnh nhìn con quay mà tôi cũng buồn.

Hồi ấy, tôi mới lên chín, còn đi học chữ nho. Một hôm, tôi đi học về, mẹ tôi đưa cho tôi một con quay. Con quay này không phải là con quay sừng, cũng không phải là con quay tiện, nó chỉ là một con quay đẽo, mà lại là một con quay mà mẹ tôi đẽo cho tôi. Tôi đánh nó dẫu không tít, không đậu bằng con quay của anh tôi, nhưng tôi yêu quý nó hơn hết cả các con quay sừng ở trên trần thế.

Tôi có con quay thích quá, lúc nào cũng đánh, ngoài sân, sau vườn, dưới bếp, nhà ngang. Mẹ tôi nhìn tôi đánh quay, thấy tôi vui sướng mà mẹ tôi cũng vui sướng: mẹ tôi vui sướng cái vui sướng của tôi.

Một hôm, ở trong bếp, tôi muốn khoe tài với mẹ tôi, tôi bảo mẹ tôi:

– «Em đánh quay giỏi lắm, để em đánh cho chị Hai coi».

Rồi tôi quấn giây, dang thẳng cánh, bổ một cái thật mạnh, thì ôi thôi! cái giây vướng phải rổ bát, đổ úp xuống, kêu đánh ầm một tiếng, bát đĩa vỡ tung tóe. Tôi tái xanh cả mặt, sợ run lập cập.

Mẹ già tôi đang quét tước ở trên nhà ngang, sồng sộc chạy xuống hỏi:

– Đứa nào đánh vỡ gì?

– Thưa bà, tôi trót nhỡ tay.

Mẹ tôi nói chưa dứt lời thì mẹ già tôi túm lấy đầu dầm xuống, sẵn cái chổi cầm tay, đánh túi bụi.

Thương ôi! mẹ tôi thấy tôi bé nhỏ, không nỡ để mẹ già tôi đánh tôi nên nhận cái lỗi của tôi làm lỗi của mình để chịu đòn thay cho tôi.

Từ đấy, tôi không đánh quay nữa mà tôi thấy ai đánh quay tôi cũng chẳng buồn nhìn.

Nhưng con quay kia mẹ tôi đẽo cho tôi, tôi không đành lòng mà vứt nó đi, tôi giữ, tôi giữ cho đến ngày nay để kỷ niệm cái đời đau đớn và hy sinh của mẹ tôi đối với tôi.

6- Hai hào

Ký-giả thường được nghe rất nhiều lời bình phẩm quá đáng đối với dân làng Bẹp, Ký-giả thiển nghĩ những người bạo mồm như thế toàn là những người chưa biết hút thuốc phiện, hay hút chưa đến thời kỳ «đã biết khoái», hoặc chưa được mục kích cái oai quyền chí thần, chí thánh, chí đại, chí tôn của vị thần Ấn-độ. Vậy Ký-giả xin vì các bạn làng «Cơm đen» kể một chuyện sau đây mà Ký-giả được mục kích mong các bạn làng «Cơm trắng» trước khi nói một câu gì có can thiệp đến việc «hút sách» hẵng nên nhớ lấy câu tục ngữ: «chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm mới nói». Ký-giả lại xin thú thực rằng từ ngày được mục kích tấn bi kịch này, Ký-giả đối với thần «Ấn-độ» chỉ một lòng kính cẩn mà không dám khinh nhờn.

Truyện thực xin kể sau đây:

*

Cậu Nghĩa đi học về đến nhà mếu máo nói với mẹ:

– Mẹ ơi, thày giáo bắt phải mua một quyển «Quốc văn» hai hào, nếu chiều nay không có thì thày đuổi. Mẹ cho con tiền mua nhé.

Cậu Nghĩa vừa nói vừa ôm lấy đầu mẹ hôn lấy hôn để. Bác Cả đương nằm rền rĩ ở trên giường nghe con nói, da mặt đã xanh bỗng nhợt hẳn đi, hai hàng nước mắt không biết tự đâu luôn ra, ướt đầm gò má. Bác muốn nói mà không nói được, chỉ lấy tay vuốt ve con. Cậu Nghĩa thấy mẹ khóc mà không trả lời, cậu tái hẳn người đi. Cậu hiểu, cậu hiểu là nhà cậu nghèo, mẹ cậu ốm không đi chợ, tiền thuốc, tiền gạo còn chưa có, tiền đâu mà mua sách cho cậu được. Cậu bùi ngùi nhưng có vẻ tiếc mà bảo mẹ rằng:

– Thôi thế thì thôi, mẹ nín đi, con ở nhà chơi với mẹ vậy.

Cậu vừa nói vừa lấy tay vuốt mái tóc mẹ, cậu thấy mặt mũi hốc hác, hai mắt quầng đen hõm hẳn xuống, cậu sẽ cúi đầu sát vào tận mặt mẹ cậu mà hỏi:

– Mẹ ốm lắm ư, mẹ đã ăn cơm chưa?

Trong cái óc ngây thơ của cậu, cậu tưởng tượng hễ ốm cứ ăn cơm nhiều là khỏi, mà cậu nghĩ thế vị tất đã không đúng. Những người ốm chẳng là những người rất ít ăn sao? Cậu vội vã chạy xuống bếp xúc bát  cơm nguội, lấy quả cà đem lên, giục mẹ cậu ăn. Bác Cả nể lời cầm lấy bát cơm.

– Mẹ cố ăn đi để đi chợ.

Đi chợ, đi chợ. Hai chữ ấy ở trong óc cậu nó có một cái ý nghĩa khác: mẹ cậu đi chợ búa chẳng là đi mua lấy sự sung túc cho cả nhà cậu ư? Đã gần ba tháng nay, chỉ vì mẹ cậu ốm không đi chợ được mà nhà thành ra túng bấn, bữa đói bữa no. Trước kia, lúc mẹ cậu còn quẫy gánh cháo ra chợ, dẫu chẳng được phong phú lắm, nhưng mỗi lần cậu xin tiền mua giấy bút, sách vở, mẹ cậu vẫn sẵn lòng cho ngay. Mà ngày nay…ngày nay chỉ vì mẹ cậu ốm nằm nhà nên đã ba hôm nay, cậu khẩn khoản xin hai hào mà chưa có.

Bác Cả không ăn được bèn nhường bát cơm cho con ăn. Cậu Nghĩa còn dùng dằng hai ba lần mới cầm lấy mà bảo:

– Mẹ không ăn thì con ăn vậy.

Rồi cậu cởi cái áo dài treo lên mắc tử tế. – Sự cẩn thận ý tứ chẳng là học được trong khi nghèo nàn ru?

Cậu ăn lấy làm ngon miệng quá, khiến cậu phải tự nghĩ: «cơm dẻo thế này, cà dòn thế này mà mẹ mình không ăn thì biết bao giờ cho khỏi được?» Nếu ông lang thì đã nghĩ: «không ăn được thế này, bệnh đã nặng lắm rồi». Nhưng cậu mới 8 tuổi đầu, nào đã biết thế nào là ốm nặng với ốm nhẹ.

Vui thay cái tuổi đồng ấu mà cũng may thay, trong cái tuổi «vàng» ấy, sự buồn rầu nó chỉ như gió thoảng mà thôi.

Bác Cả ngồi nhìn con ăn, thấy con kháu khỉnh, hiếu thảo, thông minh thế kia, nay vì không tiền mua sách mà phải bỏ học thì đáng tiếc, đáng thương biết bao… Bác thấy cái hy vọng một đời bác nó tiêu tan đi mà bác buồn. Bác bấm lưng trong nhà tiền đã sạch trơn. Chẳng còn một vật gì đáng tiền cả, đi vay thì biết vay ai mà thiên hạ có ai cho kẻ nghèo vay bao giờ. Nội trong xóm bác, có nhà cụ Tiên là giầu có, nhưng cụ riết róng lắm, không có vật gì đem cầm thì cụ chẳng cho vay không bao giờ. Bác nghĩ, nghĩ mãi… Sau bác cố bò dậy, mon men xuống bếp còn cái niêu bằng đồng, bác cọ rửa tử tế rồi mang đi.

Cụ Tiên nghe bác kể lễ nỗi nhà cũng có vẻ ái ngại bèn bảo:

– Hôm nọ, bác giai có đem cái nồi ấy sang đây đòi cầm lấy một hào tôi không cầm, nhưng có phải bác cần tiền mua sách cho cháu, thì tôi cũng làm phúc cầm giùm cho, nhưng phải giả lãi năm xu đấy.

Trong khi bác Cả gái, chân nam đá chân xiêu, thất thểu, hổn hển đi như thế, bác Cả giai ở nhà làm gì?

Bác ngồi như cú rũ ở trong buồng tối om om đối diện với ngọn đèn phù dung mờ tỏ mà nước mắt nước mũi chảy ra ròng ròng. Không phải bác cám cảnh nhà nghèo vợ ốm mà khóc đâu. Bác hết thuốc hút đã ba hôm nay rồi. Bác cầm cái hến giơ lên đặt xuống mà bác ngao ngán. Hến không, nhẵn bóng như chùi. Bác sờ đến cóng sái, sái cũng hết. Bác thấy chân tay bác như dập gẫy, trong xương hình như có giòi bọ đục, buồn bã khó chịu; ruột gan bác như đứt ra từng mảnh, đau đớn như ai cầm dao rạch ra vậy. Bác hết đứng lại ngồi, hết nằm lại đứng, lúng túng quay cuồng mãi cũng chẳng nghĩ được kế gì cho ra thuốc, bác chỉ ngáp, bác ngáp mãi… Bác chỉ còn mong ả phù dung đem cái thần tài lại cho bác. Nhưng ác thay, ả phù dung chỉ là một vị hung thần đem người đầy xuống giếng khơi rồi bỏ đó… Bác cầm cái dọc tẩu đưa lên mũi hít khan, hít vã như con chó săn đánh hơi thấy vết cầy cáo vậy. Mùi tẩu thơm tho phảng phất làm cho ruột gan bác bồn chồn như ai đem trăm nghìn cái kim đâm vào, muốn ngủ mà không ngủ được.

Cậu Nghĩa ăn xong, đang hí hoáy rửa bát thì nghe ở cổng có tiếng mẹ gọi. Cậu vội vã chạy ra. Bác Cả gái người đứng cạnh hàng rào run đây đẩy, mặt xanh như tầu lá, nhưng vẻ vui mừng như lộ ra ở hai con mắt bác. Bác đưa cái tay xương bọc lấy ra dúi cho cậu Nghĩa hai hào mà bảo:

– Đây tiền đây, con đem đi mà mua sách nhưng đi mua ngay đi, khéo thầy con biết thì lại lấy mua thuốc phiện mất.

Cậu Nghĩa mừng rỡ, cầm tiền, tất tả chạy vào nhà lấy áo mặc để ra phố. Cậu cũng chẳng nghĩ gì đến mẹ ốm, nhà nghèo, giá để hai hào kia đem mua thuốc thì có lẽ cũng giúp cho sức khỏe mẹ cậu được ít nhiều – nhưng cái tuổi cậu chưa phải cái tuổi ấy…

Cậu hấp tấp quá, chạy bay vào nhà, chẳng may vấp phải bực cửa ngã chúi xuống, hào ván ở trong túi cậu bắn ra kêu đánh keng một tiếng!!!

Bác Cả giai đang phục vị ở trong buồng, hai mắt lim dim. Như con hổ đói đã bẩy ngày nay bỗng thấy tiếng hươu kêu bên cạnh, bác vội chồm dậy. Hai con mắt bác sáng quắc như hai con mắt vọ chăm chú tìm…kiếm… Đồng hào ván trắng hếu nằm tròn xoe giữa nhà. Nhanh như cái cắt, bác nhẩy lại vồ…. Ngay lúc ấy, cậu Nghĩa tuy đau điếng cả người, nhưng thấy bộ dạng bố thế, cậu hiểu…cậu cố gượng quờ tay ra vơ lấy đồng hào cùng một lúc với cái tay «hổ đói» kia. Hai cha con giằng nhau, đồng hào văng ra. Bác trai vội vàng dẫm chân lên. Cậu Nghĩa chồm dậy, chạy lại, du bố ra, cố đẩy chân bố để lôi lấy đồng hào, miệng thì kêu:

– Giả đây! Giả đây!

Bác Cả cứ trơ như đá vững như đồng, tưởng Từ Hải xưa kia thất trận, khí thiêng chung đúc cũng dạn dầy đến thế là cùng. Chân bác như có những bù-long sắt tán chặt xuống đất. Cậu Nghĩa lay bố chẳng chuyển vội khóc òa lên gọi mẹ. Mẹ cậu ở sân nghe tiếng vội chạy vào, trông thấy cái quang cảnh ấy bèn nói với chồng rằng:

– Nhà sao lại tệ thế? Tôi ốm mấy tháng nay, một ngụm thuốc chẳng dám uống, có đồng nào đưa nhà mua thuốc phiện cả, nhưng tiền này là tiền cho con mua sách, tôi nói khó với người ta mãi mới vay được, nhà lại lấy của con, thế nhà định không cho con đi học lấy dăm ba chữ à?

Bác Cả trai vẫn đứng trơ như bụt mọc, vợ nói gì mặc.

Nói chẳng được, bác Cả gái giận, bèn chạy lại níu lấy chồng lôi ra. Bác Cả trai như có quỷ quái gì nhập vào, chẳng nghĩ đến vợ ốm, bác chỉ lo vợ lấy mất hai hào nó là cái «nguồn sống» của bác. Bác sợ… sợ phải đeo dài cái khổ cảnh dở sống, dở chết mà bác đã phải chịu trong ba hôm nay.

Hai hào kia đối với người ta chỉ là hai hào, nhưng đối với bác nó là một phương pháp cải tử hoàn  sinh có thể tìm thấy ở trong mấy điếu thuốc, mấy điếu sái, nay mà để ai cướp mất, chẳng khác cướp sống cái đời bác đi sao. Nhưng thà chết một cách khác, thà chịu đâm, chịu chém, chịu mổ, chịu xẻ mà chết, chứ phải hành hạ như ả phù dung đã hành hạ bác trong ba hôm nay thì bác không sao chịu nổi. Bác bèn dùng hết sức «thần» du vợ một cái thật mạnh, miệng thì quát:

– Ốm thì chết! Chẳng học thì đừng! Ông hút đã!

Bác gái mình yếu như sên, bị đẩy một cái quá mạnh, ngã lăn đùng ra, máu mồm, máu mủi đổ ra lênh láng. Cậu Nghĩa thấy mẹ ngã, vội chạy lại ôm chầm lấy mẹ, kêu lên một tiếng rồi ngất hẳn người đi…

Một lúc sau, người ta chỉ nghe tiếng đàn bà khóc, tiếng trẻ khóc, tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ não nùng ai oán mà tuyệt nhiên chẳng thấy tăm hơi bác Cả giai đâu.

Bác đi đâu…??? Bác đi mua thuốc.

Trong buồng, ngọn đèn dầu vẫn còn le lói… ả phù dung như mỉm miệng cười…

 

Ký-giả viết đến đây, rùng mình sởn gáy, bút cầm ở tay rơi ra, muốn viết mà không sao viết được nữa.

7- Cái xó bếp

Ông mãnh con, cứ bám nhằng nhẵng lấy con đ… ấy thì còn làm ăn gì. Lại đây!…

Thằng Tý, bất cứ lúc nào, nghe thấy tiếng bà to béo, bệ vệ mà cái quyền áp chế của kẻ mạnh cùng cái tập quán xấu xa của xã hội đã bắt nó phải gọi bằng «mẹ» là nó lạnh cả gáy. Nó biết, hễ khi nào bà kia gọi đến nó thì phi phải đánh tất phải chửi. Khổ thêm cho nó nữa, là mỗi lần, nó phải đánh, phải chửi thì y như chị Hai là người yêu quý nhất đời của nó cũng bị đánh, bị chửi lây. Mỗi lần bà kia gọi nó, nó tuy sợ chết đi mà cũng phải lại gần, khoanh tay, thưa:

– Bẩm mẹ bảo gì con?

Người ta bắt buộc nó phải cử chỉ lễ phép, phải nói năng cung kính như thế. Nhưng cái tiếng mẹ, đối với nó, chẳng những không có ý nghĩa gì mà lại gây cho nó lắm cảm giác hãi hùng. Chỉ có cái tiếng «Chị Hai» đối với nó là có vẻ thiết tha. Mỗi lần nó gọi chị Hai, nó thấy trái tim nhỏ xíu của nó hồi hộp, một tia sáng êm đềm, ấm áp ở trong con mắt nó bay ra mà bao phủ, mà ôm ấp lấy cái người nó gọi. Nó yên trí rằng cái tiếng đáng yêu, đáng quý nhất đời là cái tiếng chị Hai, mà cái tiếng mẹ là cái tiếng đáng ghê, đáng sợ nhất. Cái tiếng mẹ đối với nó là biểu hiệu cho sự đòn đánh, ghét bỏ mà cái tiếng chị Hai là hình ảnh của sự yêu thương nồng nàn.

Khối óc non nớt, trái tim trong sạch của nó đã định nghĩa cho hai tiếng gọi kia những tự bao giờ.

Nó lên sáu, người ta cho nó đi học thì nó cũng đi học chứ nào nó có hiểu đi học để làm gì. Nhưng mỗi lần, chị Hai nó bế nó vào lòng, nước mắt ràn rụa bảo nó: «Em cố học đi cho chị Hai nhờ» thì nó thấy nó thích học lắm, chứ nào nó có biết chị Hai yêu quý của nó được nhờ gì về sự học của nó đâu. Nó chỉ biết rằng nó đi học thì thêm một cái cớ cho mẹ già nó nhiếc móc chị Hai nó, mỗi khi mẹ già nó phải bỏ tiền ra mua thoi mực hay chục giấy cho nó. Tuy thế, nó vẫn thích học, mà nó lại học chăm bởi vì nó cảm thấy mỗi lần chị Hai nó thấy nó «kêu như con cuốc mùa hè» là trên vẻ mặt thảm sầu kia lại hiện ra một vẻ vui mừng.

Nó chỉ muốn cho chị Hai nó được vui nên nó càng chăm học. Mỗi lần nó cắp sách về là mỗi lần chị Hai nó đon đả hỏi:

– Em có thuộc bài không. Em viết đã tốt chưa, cụ Đồ có khen em không?

Nó tươi cười mà gật đầu. Cái gật đầu rất có ý nghĩa khiến cho mỗi lần chị Hai nó trông thấy lại tủm  tỉm cười. Mỗi lần nó thấy chị Hai nó tủm tỉm cười, nó những muốn chạy lại ôm chầm lấy chị Hai nó, nhưng con mắt dữ dội của cái bà to béo bệ vệ đứng đằng kia lại làm cho nó sợ hãi thành thử nó cũng chỉ tủm tỉm cười và ngó chị Hai nó một cách rất yêu thương mà không dám lại gần.

Một điều mà nó vẫn không hiểu là tại làm sao chị Hai nó chỉ dám gọi nó là con trong lúc vắng người, còn khi đứng trước mặt cái bà to béo bệ vệ kia thì chỉ kêu nó bằng anh. Người khác gọi nó thế là sự chí thường, chứ chị Hai nó gọi nó thế thì quá lắm. Cái tiếng anh có cái ý nghĩa giả dối, miễn cưỡng đối với nó rất là khó chịu. Nhưng chị Hai nó khéo dùng một cái giọng rất dịu dàng mà gọi nó, nên cái tiếng anh nó cũng không cách biệt cái tiếng con là mấy, cũng không đến nỗi nhạt nhẽo cho lắm. Nó chỉ băn khoăn tự hỏi làm sao chị Hai nó không có quyền gọi nó bằng con nhỉ?

Cứ như ý nó thì lúc nào nó cũng muốn cho chị Hai nó gọi nó bằng con, bởi vì nó xét thấy tiếng gọi kia thường đi đôi với một cái nhìn quyến luyến, một cái hôn âu yếm, một vẻ mặt tươi cười.

Nó chỉ muốn cho chị Hai nó lúc nào cũng gần gũi nó, ôm ấp nó, bế bồng nó để cho nó được vuốt tóc, sờ má, bẹo mũi, để cho lúc nào nó díp mắt, nó được gục đầu vào ngực chị Hai nó mà ngủ.

Giá nó được nằm thon lỏn vào lòng chị Hai nó mà đánh một giấc thì ngon biết chừng nào. Lúc ấy, thì dù ông «ba bị chín quai, mười hai con mắt» có hiện ngay ra, nó cũng chẳng núng, chị Hai nó chỉ khẽ tát cho một cái là phải lộn nhào đi.

Nó chỉ muốn thế, nó chỉ ước ao có thế, mà có lẽ chị Hai nó cũng chỉ ước mong có thế thôi, nhưng cái bà to béo bệ vệ kia nào có muốn thế cho. Bà chỉ muốn cho chị Hai nó làm, làm đầu tắt mặt tối, từ tờ mờ sáng cho đến nửa đêm. Nó thấy chị Hai nó vất vả mà nó thưorng. Nó chỉ mong cho chóng có hai cánh tay to lớn như thằng xe, thằng bếp để làm giúp cho chị Hai nó.

Nó nhìn thấy chị Hai nó đầu bù tóc rối mà nó buồn, nó thấy chị Hai nó phải chửi, phải đánh mà nó muốn khóc, nó muốn kêu giời lên. Nhưng eo ơi, nếu nó kêu giời, nếu nó khóc thì cái bà to béo bệ vệ kia lại túm lấy nó đánh túi bụi mà lại còn đánh thêm chị Hai nó nữa. Nó chỉ biết đứng ngó những cảnh thương tâm ấy mà nuốt nước mắt.

Ôi, nuốt nước mắt! câu nói rất thường kia mà ý nghĩa rất chua cay nó đã hiểu từ  hồi còn măng sữa trong cái tuổi mà trẻ con người ta đang vui cười với con bướm với ông giăng.

Nó thấy cái đời nó và chị Hai nó bị bó buộc, nhục nhằn hơn mẹ con con chó mực, bởi vì mẹ con con chó mực còn được tự do âu yếm nhau. Nó trông thấy con chó mực liếm mình mẫy cho con mà nó thèm, nó ước gì chị Hai nó và nó sẽ biến ra thành con chó, để chị Hai nó được tự do mà nựng nịu nó.

Chị Hai nó phải làm vần vật cả ngày, mà cả ngày mẹ già nó cứ long lên sòng sọc, nên không bao giờ nó được gần chị Hai nó cả.

Chỉ có lúc buổi sáng là lúc cả nhà còn đương ngủ mà chị Hai nó đã phải dậy làm lụng rồi, là nó được tự do âu yếm chị Hai nó mà thôi. Những thời khắc ấy là những thời khắc sung sướng nhất trong đời nó, nên nó chẳng bỏ phí bao giờ.

Giời rét như cắt ruột, nó thấy chị Hai nó dậy là nó cũng bò dậy, chị Hai nó cản nó thế nào, nó cũng không nghe.

– Em ngủ nữa đi cho khỏe, mai còn đi học.

Nó phụng phịu:

– Không, con dậy với chị Hai cơ.

– Chị Hai phải dậy sớm dọn dẹp, em dậy sớm làm gì?

– Em dọn dẹp mấy chị Hai.

– Em bé bỏng đã dọn dẹp gì được. Ngủ đi chóng ngoan.

Nó cũng muốn là đứa con ngoan của chị Hai nó mà nó cũng lại muốn dậy để gần gụi chị Hai nó, nó kiếm cớ:

– Cụ Đồ bảo dậy sớm học chóng thuộc, em dậy em học, em quên chữ nào chị Hai bảo em.

Ở dưới xó bếp, chị Hai nó ngồi đun nước, nó lặng lẽ ngồi một bên. Nó trông ngọn lửa cháy đỏ ối mà nó vui, nó nghe tiếng củi nổ mà nó sướng, nó nhìn bức tường đen kít những khói mà ánh lửa chiếu vào như có vẻ vui cười với nó, nó coi những nồi niêu, xanh chảo treo ở chung quanh như những người bạn rất thân đến mục kích và chứng thực cho sự sung suóng của nó. Nó ngồi chồm chỗm cạnh chị Hai nó mà nó chẳng biết mỏi, biết chán là gì. Chị Hai nó bảo nó học thì nó cũng nghe lời giở sách học, chứ theo ý nó thì cứ ngồi nhìn chị Hai nó, nhìn ngọn lửa còn sướng hơn.

Thỉnh thoảng, nó lại giả vờ hỏi nghĩa, kỳ tình nó đã thuộc làu như cháo.

– «Nhân chi sơ» là gì, hở chị Hai?

– Là người chưng xưa.

– Không phải, không phải, là sờ vú mẹ.

Rồi nó sà vào lòng chị Hai nó, nó vạch yếm, nó sờ vú, cũng có lúc nó giả bộ làm em bé, nó bú tí. Nó nằm thon lỏn vào lòng chị Hai, nó nhắm mắt lại. Nhưng lúc ấy thì nó sung sướng lạ. Nó thấy nó bé lại, nó thấy hơi thở nó ăn theo với hơi thở của chị Hai nó, nó thấy trái tim nó hồi hộp với trái tim chị Hai nó. Mà chị Hai nó thấy nó sung sướng, chị Hai nó cũng sung sướng. Chị Hai nó thấy nó ngoan  ngoãn kháu khỉnh mà trong thần trí bỗng nổi lên một mối hy vọng rực rỡ đầy rẫy những điều ước hẹn tốt đẹp về tương lai… Chị Hai nó cầu mong cho nó chóng nhớn thành người để đạt được những chí nguyện mà chị Hai nó đã kỳ vọng cho nó. Giá có phải rạch máu, xẻ thịt mà bù đắp vào cho nó để nó chóng nhớn, thì chị Hai nó cũng sẵn lòng bù đắp ngay. Mà nó, nếu nó có phải moi ruột, xé gan để cho chị Hai nó được sung sướng, nó cũng vui lòng mà hy sinh ngay.

– Lạy giời phù hộ cho mẹ con tôi..

Thằng Tý nó nghe chị Hai nó khấn như thế, nó tưởng chừng như ông giời – một ông giời của những kẻ khốn khổ – đã bước chân ngay xuống cái xó bếp này dùng phép mầu mà biến ra thành một cảnh bồng lai đầy rẫy những sự lạc thú.

Cái xó bếp ấy là một thế giới thần tiên của mẹ con nó.

Những người lòng dạ khô khan ở nơi lầu son gác tía có bao giờ biết được những cái thú «xó bếp» ấy, cái thú không mất tiền mua, mà dù có tiền, mua cũng không được. Muốn biết nhĩrng cái thú thần  tiên ấy phải có một trái tim trong sạch, phải trải qua một cảnh đau thương như thằng Tý, phải lấy một trái tim yêu thương để hiểu một trái tim yêu thương.

Thằng Tý ngày nay nó đã thành người, nó đã là một người có địa vị ở trong xã hội, nhưng nó vẫn ngậm  ngùi rằng không lúc nào, ở chốn nào mà nó được sung sướng cho bằng khi nó còn ngồi xó bếp với chị Hai nó, bởi vì cái người đã tận tụy một đời vì nó, đã hy sinh một đời cho nó ngày nay đã chôn sâu dưới nấm đất vàng. Hỡi ơi! Cái xó bếp! Nó biết tìm đâu cho thấy một cái xó bếp ấm áp như xưa nữa.

8- Tham cũ và Tham mới

Tôi vừa về đến nhà thì được tin bác tôi cho người xuống gọi lên có việc cần. Tôi lại sấp ngửa thuê xe lên hàng Bồ, vừa đi vừa áy náy không biết có việc gì khẩn cấp mà mưa gió thế này cũng cho xuống gọi. Hay trong nhà có ai ốm đau gì? Tôi bèn giục giã anh xe chạy cho mau.

Đến nhà thì đã thấy hai bác tôi và chị họ tôi ngồi xúm xít ở đấy hình như đang bàn bạc việc gì. Tôi hốt hoảng hỏi:

– Có việc gì cần mà cho gọi cháu thế?

Bác tôi bèn nói:

– Nào có gì đâu, chỉ là việc vui mừng của chị Cúc cháu.

– Chị Cúc đi lấy chồng thì cháu lại được đánh chén chứ sao. Tưởng việc gì làm cháu lo quá.

Tôi vừa cười vừa quay sang chị Cúc tôi mà hỏi đùa:

– Thế nào, tôi phải gọi là bà Tham Lam, hay bà Phớn-phơ đấy?

Chị Cúc tôi (một gái rất tân thời, muốn tự minh kén lấy người bạn trăm năm của mình chứ không phải hạng gái mẹ đặt đâu con ngồi đấy) bèn làm bộ nghiêm nghị mà bảo tôi:

– Chú lúc nào cũng bông lơn, việc chung thân của tôi, chú phải lấy cái lẽ «rất» công bằng mà phán đoán chứ nên tây vị.

– Ô kìa, đầu cua tai ếch ra làm sao mà đã bảo người ta tây với vị.

Bác tôi bèn thuật lại cho tôi nghe rằng ngày hôm nay có hai người mối đến dạm. một người nói cho Tham Nguyễn, một người nói cho Tham Trần. Nhưng vì phân vân chưa biết nhận ai, bỏ ai, vả hai người cùng là bạn với tôi cả, nên muốn hỏi ý kiến tôi.

Gớm! mình, một thằng xưa nay dạy mình chửa xong, nay bỗng chốc được nhắc lên cái địa vị quan Tòa mà cái cân công lý kia chênh hay lệch cũng ở như một lời nói của mình. Sướng chửa?

Tôi còn đang ngẫm nghĩ chưa kịp trả lời thì chị Cúc tôi đã hỏi:

– Thế nào, ai hơn? ai kém? chú phải kể rõ lai lịch cho tôi nghe, cả tinh thần lẫn hình thức để tôi liệu.

Tôi thấy chị tôi có vẻ sốt sắng để kén chọn người tri kỷ thì cái lương tâm quan tòa của tôi bỗng chồm dậy, tôi bèn lên cái giọng «con nhà luật» mà tuyên đọc hồ sơ ;

– Nguyễn Văn, 27 tuổi, chua vợ, tham tá tập sự phủ Thống-sứ lương tháng 56 $, con nhà gia thế, người to lớn, trắng trẻo, tính nết rất vui vẻ.

– Còn Trần Đình, 32 tuổi, góa vợ tham tá hạng ba sở Lục lộ, lương tháng 145 $, con nhà tử tế, người nhỏ bé, không đui què mẻ sứt gì, nhưng mắt khí lác, tính nết rất keo bẩn.

Tôi đọc xong bản lý Iịch, bèn quay sang bác tôi mà thưa rằng:

– Thưa hai bác, hai bác đã cho hỏi đến cháu thì cháu chỉ lấy cái hạnh phúc của chị cháu làm trọng. Hai người tuy cùng chơi với cháu cả, nhưng cháu chẳng yêu ai mà cũng chẳng ghét ai. Cứ như cháu thì hai bác gả chị cháu cho Tham Nguyễn là hơn, hắn người bản lĩnh khá, còn Tham Trần thì bé lắt nhắt, đứng với chị cháu chẳng xứng đôi chút nào cả mà tâm địa lại rất kém.

Bác tôi bèn nói:

– Vẫn biết Tham Nguyễn tính nết khá hơn, nhưng lương Tham Trần lại nhiều gấp ba lương Tham Nguyễn mà hắn lại là ngạch cũ, được thực thụ rồi ; còn Tham Nguyễn hãy còn tập sự, lương ăn theo ngạch mới. Mà thời buổi kinh tế này, đuợc thực thụ cũng chật vật lắm.

Tôi nghe bác tôi nói thì biết bác tôi đã có định kiến từ trước mà xem ra chị Cúc tôi cũng đồng một ý thì dù tôi có nói tốt cho Tham Nguyễn cững là vô ích. Nhưng tôi thấy con người ngọc kia mà sa vào tay đứa tục tử, nghĩ ái ngại, bèn nói:

– Nếu hai hác mà so sánh về tiền tài thì chỉ là một việc mua bán, sao lại gọi là một sự kén chọn được? Mà cháu xem chị Cúc cháu thanh tao thế kia, có phải là lấy đồng tiền mà mua được sao?

Tôi lại quay bảo chị tôi rằng:

– Việc vợ chồng là một việc hệ trọng nhất trong đời người đàn bà, nếu sai lầm thì cái giây ân ái kia sẽ trở thành cái giây oan nghiệt. Nếu chị tin lời em là thằng hay tiêu tiền mà lúc nào cũng túng tiền, thì đồng bạc trắng với quả tim đỏ, hai cái không đi đôi với nhau. Chị nên nghĩ đi nghĩ lại cho chín, kẻo để mối di hận về mai sau mà chị lại trách em đã biết mà không bảo.

Quả đất cứ xoay,… mặc thây nhân thế họ quay cuồng… Ba tháng sau, chị Cúc tôi đã nghiễm nhiên là bà Tham Trần!

Một hôm tôi đi xem chớp bóng, tình cờ gặp cả Tham Nguyễn lẫn vợ chồng Tham Trần. Lúc tôi lại bắt tay Tham Nguyễn, hắn trỏ vợ chồng Tham Trần mà bảo tôi rằng:

– Anh trông: thằng ngây cưỡi con ngựa sắt.

– Nhưng anh có biết duyên cớ làm sao, hắn được cưỡi con ngựa sắt không? Anh có hiểu tại làm sao anh không được cái vinh dự ấy không?

– Chịu.

– Hắn đăng vào ngạch «kỵ mã» trước hồi kinh tế.

– Anh nói thế nào? tôi không hiểu.

– Tại anh sinh sau, đẻ muộn.

– Ô kìa, thế là nghĩa lý gì?

– Nghĩa là hắn Tham Cũ mà anh Tham Mới.

Nguyễn vẫn không hiểu. Tôi bèn gắt mà bảo rằng:

– Ngu lắm, không được cưỡi con ngựa sắt là đáng lắm, còn ân hận gì?

9- Hà-nội ban ngày

Ngõ hàng Ch… cạnh chợ Đ…X… đối với khách qua đường, chỉ là một cái ngõ tồi tàn, trong trăm nghìn cái ngõ tồi tàn khác của thành phố Hanoi. Nhưng nó đối với tôi, có một cái thú riêng: cái thú của những kẻ đi tìm ái tình một cách đơn giản dễ dàng; mà nó đối với một số các bà Thông, cô Ký say mê bài bạc, các cô hàng buôn thua bán lỗ là một cái huyệt để kiếm tiền một cách dễ dàng đơn giản.

Cái nhà hai tầng mốc rêu kia đối với tôi rất là quen mà tôi cũng chẳng lạ gì bà hai B. chủ cái nhà ấy. Mỗi khi bà Hai có thêm được con em nào khá, bà liền cho gọi tôi ngay mà tôi nhớ mang máng rằng: ít khi tôi bỏ phí những dịp may như thế.

Một bưổi trưa, trời thu ảm đạm, con bé cháu gái bà Hai lại bảo tôi:

– Có cảnh mới, đẹp lắm, mời ông lại ngay.

Lúc sắp ra về, nó còn nói thêm:

– Cô tôi quý ông lắm mới giới thiệu cho ông người này đấy.

Phải, tôi là con bò sữa rất dễ bảo, nên cô cháu nó quý tôi. Chính tôi, tôi cũng tự biết: tôi là con bò sữa để cho người ta vắt, người ta nặn, thế mà tôi vẫn sẵn lòng để cho người ta vắt, người ta nặn, là bởi sao? Bởi vì rằng: đứng vào cái địa vị như tôi, tiền bạc của tổ phụ để lại, đã chẳng biết đem kinh doanh những công việc lợi ích; tài trí, sức khỏe đã chẳng biết đem dùng vào những việc đáng dùng mà lại chẳng đem cái thân ra cho người ta vắt, người ta nặn thì còn biết làm cái gì cho qua thì giờ nữa.

Thoạt mới bước chân vào cửa, bà Hai đã chạy ra, đon đả bảo tôi:

– Cảnh này «cừ» lắm, mới nguyên, rõ chỉ có ông là may, bao giờ cũng trước người ta. A mà này, giá đặc biệt đấy nhé.

– Được, nhưng cho xem mặt đã, ở đâu?

– Ở trên gác, cô này cả thẹn lắm, không dám ngồi dưới nhà.

– Thế người đâu, bà có biết không?

Lần nào tôi hỏi bà về lai lịch bông hoa mới, tôi cũng biết chắc là thế nào bà cũng kiếm lời tô điểm để lừa dối tôi mà không biết tại làm sao, lần nào tôi cũng vẫn hỏi.

– Bà ký V… mới dắt lại đây hồi trưa và dặn tôi tìm hộ cho một người thật tử tế. Tôi thiết nghĩ chẳng còn ai «thật» tử tế hơn ông.

Phải, còn ai «thật» tử tế hon tôi, bởi vì còn ai «thật» bò sữa hơn tôi đâu.

Khi tôi bước chân lên thang, bà Hai dặn với:

– Cô ấy ba giờ phải về, ông chong chóng lên nhé (!!!) 

Đó là nhời nói thực. Nhà này chỉ náo nhiệt lúc ban ngày, ban đêm tuyệt không có cô nào lai vãng. Trái lại với cảnh ăn sương thục thụ, cái thì giờ ngang tắt của các cô chỉ là lúc ban ngày. Khi các cô bước chân ra khỏi cái nhà này, nghĩa là sau khi đã làm một việc mà dư luận cùng pháp luật không dung thứ, các cô cần phải về đúng giờ để làm những việc mà xã hội khuyến khích, pháp luật che chở. Phải cơm dẻo, canh ngọt đon đả vui cười khi cậu nó ở sở về, thu va, thu vén, dưới bếp, trên nhà sau khi tan chợ chẳng là những công việc chính đáng mà xã hội cần phải khuyến khích, pháp luật cần phải che chở sao?

Làn nước hồ kia xanh biếc, trông mới đẹp mắt biết bao! Nhưng tại làm sao lại có lớp bùn thối tha ở nơi đáy nhí? Xã hội loài người phải cần có sự giả dối, tôi có dám cãi là không đâu!

Tôi lên gác ; trong bóng tối, một thiếu nữ khăn trắng, áo the, quần lĩnh, thấy tôi, thẹn thò, quay mặt vào tường.

Phải, cô nào cũng e lệ, thẹn thò! E lệ, thẹn thò đến nỗi người ta phải dạy bảo các cô những dáng dấp, nhời nhẽ để giả làm con bò lạc.

Tôi đã biết thế, nên tôi chẳng nể nang gì.

– Này, còn vờ vịt gì, con «dộng» ra chứ, rõ khéo vẽ vời, giấu với diếm, rồi lại chả…

Cô ta lấy tay che mặt.

– Khéo lắm, che mặt là phải lắm.

Tôi giằng tay cô ra. Cô nhắm mắt lại, hai gò má có ngấn nước mắt. Phải, nước mắt hay nước dãi bôi lên cũng thế thôi.

Che mặt mặc, nhắm mắt mặc, nước mắt hay nước dãi mặc, miễn là cô ta trắng trẻo, xinh xắn là được rồi, là tôi bằng lòng tính giá đặc biệt cho bà Hai rồi.

– Em hôn anh đi, hay không biết hôn để anh dạy.

Rồi tôi ngồi ngay lên lòng cô, tôi bá cổ, tôi hôn.

Lạ chưa, người cô bỗng run bắn hẳn lên như phải bệnh sốt rét, cái gì ươn ướt, âm ấm ở má tôi, tôi nhìn kỹ lại thì hai mắt cô đỏ ngầu, đầm đìa những nước mắt, mà lại quái gở chửa! lúc tôi vớ đến «món quà đàn ông» mà tôi đã bỏ tiền ra mua lấy quyền giầy vò thì sữa vọt cả vào mặt tôi.

– Em có con đấy à?

-…..

– Con em được mấy tháng? chồng em làm gì? ở đâu? anh sẽ giữ kín cho em.

– Nhà em mất hồi năm ngoái.

– Sao em có con, em lại đi như thế này?

Câu hỏi vô tình như trăm nghìn mũi kim đâm vào trái tim cô, khiến cô phải mủi lòng, cô ôm đầu khóc nức nở.

Tôi trông cô bấy giờ, rõ ràng là cái hình ảnh của sự đau thương. Tôi biết chắc là cô không giả dối, tôi biết chắc là cô không nén được lòng đau thương mà phải khóc, cái khóc thành thực não nùng của sự thống khổ mà những giọt nước mắt nóng hổi kia lờ lờ như những giọt máu đã rửa sạch cho cô những nỗi nhuốc nhơ, nhục nhằn và đã làm cho tiêu tán cả cái lòng dục đê hèn của tôi lúc bấy giờ. Tôi thấy tôi bồi hồi, cảm động, cảm động trước cái cảnh đau thương thống khổ của người đàn bà. Cái lòng «chó ngựa» của tôi như bay đi mà nhường chỗ cho cái lòng từ bi bác ái nó vẫn sẵn nấp ở trong loài người, tôi bỗng nỗi lòng trắc ẩn – có lẽ là lần đầu – tôi bắt cô ta mặc quần áo vào, rồi móc túi lấy ra năm đồng đưa cho cô ta mà bảo.

– Từ rày em đừng đến đây nữa nhé.

Con Ch., con L. ở ngõ Vạn-thái, đã bi tôi xé quần, bóp cổ khi chúng không chịu hưởng ứng với cái tiếng gọi của xác thịt tôi; con T., con Q. ở Khâm-thiên đã bị tôi quịt tiền sau khi không để cho tôi được mãn nguyện, giá thấy cách cử chỉ của tôi lúc bấy giờ, cũng phải lấy làm ngạc nhiên mà tự hỏi:

– Cái thằng đểu ấy lại có lòng tử tế được đến thế à?

Cô này không nghĩ thế, trước cái cách cử chỉ lạ lùng của tôi, cô còn ngờ là trong giấc mộng, nhưng tôi nhận kỹ ở trên khuôn mặt thảm sầu ngơ ngác kia có hiện ra một vẻ mừng, có khác chi bông hoa kia, sau một trận mưa nặng nề đã được nhô đầu lên để hấp thụ lấy cái khí ấm áp của vầng thái dương chói lọi. Tôi trông cô lúc bấy giờ thật đẹp, vẻ vui, vẻ buồn, nó giao nhau ở trên làn thu ba kia khiến cho tôi bồi hồi ngây ngất, tôi vội vã vớ nắm quần áo ném cho cô mà bảo:

– Cô mặc mau mau vào, xuống ngay đi

Cô mặc quần áo, sửa qua mái tóc, chào tôi rồi xuống thang.Nhưng không biết tại làm sao, đến nửa chừng cô lại quay lên, chạy lại ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở mà bảo:

– Nhà em ỏ  đầu ngõ L..T.. số…, khi nào rỗi mời anh lại chơi.

Khốn khổ thay! giống đàn bà họ chỉ còn biết lấy cái thân của họ để đền bồi cho người ân hay người yêu mà thôi!

Cô nói xong, tất tả xnống thang rồi ù té chạy. Bà Hai gọi thế nào cũng không quay cổ lại.

Giá mọi lần, tụi con buôn của bà Hai có nói với tôi rằng bố hay mẹ chúng đang ngắc ngoải ở trên giường bệnh, tôi cũng mặc. Tôi chỉ biết rằng tôi đã bỏ đồng tiền ra thì chúng phải chiều chuộng tôi đã.

Nhưng lần này, tôi lại tò mò muốn biết.

Khi ở nhà bà Hai ra, tôi đến ngay ngõ L..T..  Nhà này ở đầu dãy, ngoảnh mặt ra đưòng. Ở hồi bên trái, có một đống gạch, tôi đứng nấp ở đó, nhìn vào mà không ai trông thấy được. Tôi ghé mắt nhìn qua cái mành mành đã rách mướp thì chỉ thấy một thằng bé độ năm, sáu tuổi, ngồi đưa võng cho em, mà chẳng thấy cô kia đâu. Hay cô nói dối tôi? Không, cái ảnh phóng đại treo trên tường nó bảo cho tôi biết: cô không có cái đức nói dối của hạng bán hàng trắng. Có lẽ, cô còn đi đâu chưa về.

Đại để, toàn thể gian buồng này, nó tỏ cho tôi biết: chủ nó đương lâm phải cảnh túng thiếu, nhưng cách bầy biện gọn gàng sạch sẽ, cùng một vài vật xưa kia mua cũng nhiều tiền (mà ngày nay, thì bán chẳng ai mua, cho chẳng ai lấy, vứt chẳng ai nhặt) có thể chứng thực rằng: chủ nó mới phải túng thiếu đấy, chứ xưa kia chủ nó cũng có của ăn của để mà bao giờ cũng vẫn là ngừời nết na, ngăn nắp.

Oe oe nhoe nhoe, tiếng khóc the thé như xé tan cái màn yên tĩnh nó che phủ gian phòng lúc bấy giờ. Thằng bé nhớn thấy em khóc, vừa đưa võng vừa ru:

Em ơi, em nhủ cho ngoan,

Môt mai khôn nớn, no toan học hằn.

Cái giọng hát ngọng líu, ngọng lo, rời rạc như ốm đói có lẽ chẳng đủ làm cho em nó vui tai mà nín, nên nó cứ khóc.

Oe oe nhoe nhoe, tiếng khóc thất thanh kia rõ là cái tiếng khóc của đứa trẻ có sài, có đẹn. Thảm nào, anh nó ru mà nó không nín. Nhưng đừng tưởng thế mà anh nó thất vọng đâu. Nó càng khóc, anh nó lại càng hát, càng đu võng khỏe. Nhưng anh nó đói. Ta trông cái bộ mặt nhăn nhó của nó, ta trông cái bụng lép kẹp của nó dưới manh áo vá, ta trông cái dáng đi không muốn nổi của nó, ta nghe cái giọng hát rời rạc của nó, ta cũng có thể biết ngay là nó đói, nó mệt nên nó phải ngồi xệp xuống đất nghỉ, chỉ lấy tay vỗ vỗ vào người em nó mà cái tiếng hát kia thì chỉ còn là cái tiếng thở hắt ra của con lợn người ta chọc tiết lúc sắp hấp hối.

Tiếng oe oe nhoe nhoe với tiếng kẽo kẹt kĩu kịt của cái võng có phải là tiếng vui cười đắc thắng của ông thần bệnh, của con ma đói đang nhẩy múa, để kỷ niệm sự đắc thắng, lúc khải hoàn.

Thằng anh ngồi nghỉ một chút, như đã có sức, bèn đứng dậy, cố bế em lên vai, rồi vừa xoa đít vừa nói một mình – mà nó nói một mình thật, em nó mới độ ba bốn tháng đã biết nghe đâu!

– Em nín đi, rồi tí nữa, mợ đem thuốc về cho em uống, đem bánh về cho anh ăn.

Hi vọng! bao giờ loài người cũng vẫn hy vọng. Cái hy vọng lúc bấy giờ là cơm với thuốc.

Ôi! trông cái cảnh thằng anh bế thằng em trong bầu không khí thảm đạm ấy mà tôi phải não lòng. Rõ ràng thằng đói bế thằng đau, rõ ràng bức ảnh đau thưong của loài người mà ông Tạo-vật cơ cầu đã lấy máu thịt của những đứa hài nhi vô tội kia mà tô điểm nên.

Thưa các bạn, trong những lúc các bạn vui thú ở chốn nhà cao, cửa rộng, chẳng hay các bạn có nghĩ, đến những cảnh thương tâm ấy không?

Hay hoặc giả các bạn phải cần đến những cảnh đau đớn ấy để làm cái thước do sự sung sướng của các bạn.

Hay hoặc giả, ông giời già độc địa phải cần có những cảnh xót thưong ấy để làm tỉ lệ cho những sự sung sướng mà ông đã ban cho các bạn.

Hay hoặc giả, xã hội phải cần có những bức tranh máu thịt ấy để điểm xuyết cho cái bộ mặt khóc cười của xã hội, hay hoặc giả xã hội phải cần có những đứa hài nhi cơ cực ấy để tô điểm cho cái cảnh ngựa xe huyên náo lâu đài nguy nga, càng thêm vẻ nguy nga, huyên náo.

Nếu có phải thế thì các bạn nên mừng rằng Hanoi ban ngày thật đã cho các bạn được thấy những cảnh tượng rất nên thơ, nên mừng.

Thưa các bạn, chẳng biết các bạn trông thấy thế thì các bạn nghĩ ra sao? nhưng tôi, tôi là một thằng đãng tử, xưa nay chỉ biết có cái thú vui cười, coi đàn bà con gái là những món đồ chơi, con trẻ là những vật rất bận bịu, tôi phải mủi lòng trước cái cảnh não nùng ai oán ấy.

Thằng bé tha em ra đến cửa để dòm qua khe xem mẹ đã về chưa, thì vừa lúc ấy, tiếng giầy nghe lẹp kẹp ở phía đằng kia. Nó biết, nó đoán biết là mẹ nó đã về, nó mừng quá rú lên:

– Mẹ đã về rồi, mẹ đã về rồi, em ạ.

Em nó chưa biết nghe mà giá có biết nói thì cũng rú lên một tiếng mừng như nó.

Kẹt, cánh cửa mở, mẹ chúng choàng vào, ôm lấy chúng, bế bổng cả hai đứa vào lòng.

Tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ, ríu ra, riu rít. Tôi trông ba mẹ con cô ôm nhau, yêu nhau, tôi tưởng chừng như thấy cái tình mẫu tử đã biến ra thành người mà bước chân vào gian buồng hẹp hòi, ẩm thấp này vậy. Bầu không khí đang thảm đạm buồn tẻ bỗng có vẻ hoạt động vui cười.

– Mợ mua bánh giò cho em đấy à? Mợ có mua thuốc cho em bé không, hở mợ? tiền đâu mà mợ mua thế, hở mợ?

Câu hỏi vô tình kia khiến cho cô nghĩ đến nỗi niềm mà nhỏ hai hàng nước mắt.

– Sao mợ lại khóc thế, hử mợ?

– Đâu, mợ có khóc đâu, con ăn bánh giò đi.

– Nước mắt kia là gì?

Rồi thằng bé đói đã mềm người cũng chẳng tưởng gì đến ăn, nó vội chạy lại bá lấy cổ mẹ, nó lấy má lau mrớc mắt cho mẹ, rồi nó nũng nịu bảo:

– Mợ nín đi, không em cũng khóc bây giờ, em không ăn bánh giò nữa bây giờ.

– Thôi, mợ nín rồi, con ăn đi, để mợ cho em bú, cho em uống thuốc.

– Thế mợ ăn chưa, hở mợ?

– Ăn rồi.

– Mợ nói dối, mợ chưa ăn, hôm qua cũng thế, còn cơm nguội mợ để cho em ăn cả, mợ lại bảo mợ ăn rồi, mợ chỉ nói dối để nhịn (!!)

Xong, nó làm ra bộ dỗi, quay mặt đi mà nói:

– Mợ không ăn với em, em cũng không ăn đâu.

– Con ăn đi không đói, từ sáng chưa được miếng gì, mợ đã bảo mợ ăn rồi mà. Đấy con coi, không ăn sao có sữa cho em bú, sáng ngày có sữa đâu?

Thằng bé như tin cái lý thuyết ấy, liền bóc bánh ăn. Nó ăn coi bộ ngon lắm. Mẹ nó cho em nó bú, em nó núc lấy núc để cũng ngon lành, vui sướng như nó. Mẹ chúng nó ngồi nhìn chúng nó vui sướng mà mặt mũi cũng hớn hở hình như vui sướng cái vui sướng của chúng nó.

– Còn một cái, mẹ ăn đi.

– Thôi, con ăn cả đi cho thật no, con no là mẹ no rồi.

Phải, muốn cho nó no, muốn cho nó có miếng chín, mà mẹ nó phải đem bán sống cái thân thể ngọc ngà trong sạch cho những con quỷ đói máu, đói thịt như tôi. Tôi trông cô lúc bấy giờ, thật là cái hình ảnh của sự hi sinh, hi sinh một đời băng tuyết thơm tho để lấy một miếng cơm, một ngụm thuốc cho no lòng mát ruột những đứa con yêu quý kia. Tôi thấy cái cảnh ba kẻ yếu ớt kia họ bám víu vào nhau, chia bùi sẻ ngọt cho nhau, an ủi âu yếm lẫn nhau mà tôi choáng váng tê tái. Tôi nghĩ đến cái đời vô dụng, lêu lỏng xưa kia mà tôi thấy tôi bỉ ổi, khốn nạn, đê hèn, chó đểu. Có lẽ tôi biết khinh tôi lần này là lần đầu.

– Thôi,  con ăn xong, con giữ em để mẹ đi chợ đong gạo.

– Mợ đã có tiền đong gạo rồi à?

Câu hỏi tự nhiên kia lại khiến cô phải nghĩ ngợi. Cô nhìn hai con, nhìn bàn thờ chồng rồi cô ngửng đầu lên nhìn ngay vào chỗ cửa sổ tôi đứng nấp, cô nhìn cái thế giới mờ mịt ở trước mặt cô, mà có lẽ ở trong cái thế giới tưởng tượng ấy, cô nhìn thấy cái hình ảnh tôi.

Tôi thấy cái nhìn thùy mị, ấm ấp, sâu xa mà cái ánh sáng trong trẻo thần tiên kia như có cái mãnh lực tiềm nhập vào thân thể tôi, thấm thía tới tim gan tôi, xua đuổi hết những tư tưởng đê hèn của lòng dục vọng khốn nạn đi. Cái nhìn kia như đã cảm hóa được tôi, cảnh tỉnh cho tôi. Tôi thấy tôi bỗng có cái óc sáng suốt biết phân biệt lành, dữ, phải, trái ; tôi thấy trái tim tôi biết hồi hộp về những điều đáng yêu, đáng quý. Tôi ngoảnh lại cuộc đời dĩ vãng của tôi mà tôi bỗng rùng mình… Tôi tự cho tôi là thằng khốn nạn nhất trần gian. Tôi rút cái nhẫn, ví tiền ném vào cửa sổ, rồi tôi bỏ chạy như một thằng điên.

Cái ký ức ấy ngày nay đã xa lắc. Nhưng mỗi lần, tôi nghĩ tới, tôi lại bồi hồi, khiến tôi phải xót xa ngậm ngùi cho biết bao nhiêu cảnh đoạn trường, ai oán, nó cứ theo nhau phô bầy ra ở đất Hanoi giữa ban ngày sáng sủa này mà một mớ bụi mù không sao che lấp đi được.

Tôi viết bài này để tặng người bạn rất quý yêu của tôi ở bên phương trời kia mà lúc nào cũng mong nhớ đến tôi, cũng kỳ vọng cho tôi được thành đạt, cùng là tặng đất Hanoi mà mỗi một hòn gạch, mỗi một nắm cỏ, mỗi một nóc nhà, mỗi một cái bóng mát như đã nhắc nhở cho tôi bao nhiêu cảnh tối tăm đáng buồn, đáng khóc mà nó cũng là cái hình ảnh rực rỡ của bao nhiêu việc làm đáng kính, đáng trọng đã xảy ra ở trên miếng đất này.

10- Cô gái Cồ-là

Những đồn điền phì nhiêu bát ngát đã làm cho bao nhiêu tỉnh thành nước Cao-mên được phồn thịnh sầm uất.

Trừ kinh đô Nam-vang là chỗ thị trường nhờ về sự thương mại mà được phồn thịnh chẳng kể, thì sầm uất nhất, đông đúc nhất, sản ra nhiều thóc gạo nhất là tỉnh Battambang. Người ta đã phải cho xứ Battambang là cái lẫm thóc của nước Cao-mên (le grenier du Cambodge).

Câu nói ấy cũng không phải là ngoa. Khắp tỉnh Battambang đi đến đâu cũng chỉ thấy những ruộng là ruộng. Một, chạp, đồng lúa chín, vàng dọi một màu, bao la bát ngát, hình như ông “Thần nông” đã quá yêu đứa con cưng là xứ Battambang kia mà đem trải cái thảm kim tuyến cho ngồi lên vậy. Suốt từ tháng bảy cho đến tháng chạp là mùa nước lớn khắp các đầu sông ngọn nguồn, hàng đoàn ghe lớn, bé, châu đầu nhau ở các bến để lấy thóc tải đi Chợ-lớn [1] Nếu ta ra Biển-hồ (lac Tonlésap) là chỗ hợp lại của các sông vùng này, ta sẽ thấy một cái trạng thái lạ lùng; trên mặt nước mênh mông xanh biếc, những lũ “kềnh nghê” đen lùi lũi [2], hết tốp này đến tốp khác, cứ lừ lừ mà lội về phía Nam…

Thóc gạo đã làm cho bao nhiêu huyện lỵ tỉnh Battambang thành ra những nơi đô hội đông đúc, phồn thịnh. Nhưng lạ thay, cách tỉnh lỵ độ sáu mươi cây số, có một nơi dân cư cũng đông đúc, sự  buôn bán lại sầm uất hơn mà tuyệt nhiên chung quanh chẳng có một cây lúa nào; gạo ăn người ta phải đi mua tận Battambang đem về. Huyện lỵ ấy là xứ Bo (Pailin).

Bốn bề rừng rậm, núi cao như vây bọc chốn này vào những hàng rào kiên cố khác chi những lũy tre xanh đã bao phủ các làng mạc ở trung châu xứ Bắc-kỳ. Về đêm, lam sơn, chướng khi giết người xông lên mù mịt, những đàn muỗi vòi nhọn, bụng mọng là kho chứa bệnh sốt rét bay ra đen nghịt.

Những nỗi hiểm nghèo ấy đã khiến cho người Cao-mên nghe thấy tiếng “đi Bo” nlnư nghe tuyên án tử hình vậy. Ấy thế mà phố xá hàng quán san sát, kẻ lại người đi tấp nập dường như không để ý gì đến những tay sai đắc lực của ông Thần Chết nó rình ở bên mình. Nếu ta nhìn kỹ khách qua lại trong phố phường, ta không trông thấy cái đầu trọc tếu, cái quần cộc tếch của các chú Chệệt, cũng không thấy cái sarong [3] loang lổ, cái sampot [4] thắt đuôi của người Cao-mên, ta chỉ thấy những sằn-lây [5] sặc sỡ, những áo chẽn cụt tay mùi xanh, mùi đỏ… là thứ y phục riêng của người Cồ-là (Birmans).

Chợ-lớn là cái “tổ” người Khách ở Nam kỳ mà Bo (Pailin) là cái “tổ” người Cồ-là ở Cao-mên. Nhưng Khách-trú họ kéo nhau đến Chợ-lớn để buôn bán, chứ người Cồ-là họ kéo nhau đến chỗ “ma thiêng nước độc” này để làm gì? Mà ở chốn rừng cây kẽ đá này họ lấy kế sinh nhai gì để nuôi sống?

Đồi, núi chập chùng bao phủ xứ Bo này là những mỏ thủy soạn (tục gọi là hột xoàn Xiêm. Xứ Battambang trước kia thuộc quyền cai trị của nước Xiêm) và các ngọc quý đấy. Sở dĩ, người Cồ-là họ chẳng nề quan san, chẳng quản sống chết mà đến đây là vì ngoài việc kiếm những đá thủy soạn nó đã là một mối lợi to, họ lại còn cái hy vọng: một ngày kia, số phận đưa lại, họ sẽ kiếm được một viên ngọc quý nó làm cho họ trở nên giàu to ngay. Những sự may mắn ấy thường đã xẩy ra luôn. Năm 1912, một viên ngọc bán sang Mỹ được hơn 30,000 $. Năm 1915, một viên ngọc bán được hơn 10,000$. Năm 1919 một viên bán sang Londres 50,000$. Còn những viên ngọc bán bạc nghìn thì thường năm vẫn có. Nội thành phố Bo, đi đến đâu cũng chỉ nghe thấy tiếng kẽo kẹt của cái bàn đạp thợ tiện hòa lẫn với tiếng xè xè của cái mặt bàn đá dùng để mài thủy soạn.

Tháng tám năm 1925, xứ Bo đương mải miết về sự tìm ngọc, chẳng có chuyện gì mới, lạ, thì cái tin: “thầy giây thép cũ sắp đi, thầy giây thép mới sắp đến” làm cho người Cồ-là ở đây phải để ý vì ngoài ông Đại-lý người Pháp, quan Chanfaikhand [6] người Cao-mên thì thầy thông giây thép đứng vào cái địa vị thứ ba. Thầy giây thép lại có quan hệ mật thiết với họ hơn, là vì ngày nào họ cũng phải ra giây thép để gửi thư, gửi thủy soạn, gửi điện tín đi các nước mà họ đều không biết chữ Pháp, phải nhờ thầy giây thép đề địa chỉ hoặc xem hộ.

Thầy giây thép mới? Họ muốn biết mặt, họ nóng biết người, thế rồi một hôm họ đã được mãn nguyện. Cái xe bò kĩu kịt, cao lêu đêu đã đưa lại cho họ một chàng thư sinh mặt mũi trắng trẻo ngơ ngác hãi  hùng như chim mất tổ, mà rồi họ phải lạ mắt về cái khăn xếp đen sì, cái áo the xúng xính, cái quần ống sớ trắng tinh cùng cái ô lục soạn cầm ở tay như một cái ba-toong.

Ở chỗ tứ chiếng quần cư này, nào áo Tây, nào áo Khách, nào cà-puông [7] nào sampot đỏ, nào chàng-mạng tím, nào sằn-lây xanh, nào caseng [8] vàng, trăm thứ mùi lòe loẹt sặc sỡ như thế, mà bỗng đem vất một cậu “thư sinh khăn lượt, áo the” vào đây thì có khác gì đương năm 1934 này, ta đem một cô thiếu nữ “cũ rích” nhẫn quần, dép cong, nón quai thao, khăn vành dây ném vào giữa phố hàng Ngang, hàng Đào là chốn vườn hoa tân thời đầy những bóp đầm, ô đầm, đường ngôi lệch, giầy cao gót không. Họ lạ mắt, họ chướng mắt là phải lắm.

Nhưng máy thuyên chuyển quan chức nó vô tình có nghĩ đâu đến cái chỗ “kỳ quan” ấy, nó cứ điềm  tĩnh ném tung ra khắp xứ Đông Pháp những cái hiện tương “phì cười” như thế.

Thầy Thông U… mới đổi ở Bắc kỳ vào Cao-mên được ba tháng, đương làm việc ở nhà Bưu-điện Pnompenh, bỗng được tin phải đổi đi Pailin. Nghe tin, thấy phát lạnh cả người, nhưng trên đường công danh, không thể lùi được. Thầy phải nhắm mắt mà đi, bụng vẫn khấn thầm tiên tổ phù hộ độ trì cho được bình yên vô sự mà về. Ngồi trên cái xe bò nó đưa thầy lên xứ Pailin, thầy còn nghe văng vẳng những lời anh em dặn bảo: phải đề phòng bệnh sốt rét, phải uống cho nhiều quinine, phải tiêm quinoforme, phải uống nước lọc, phải đun cho sôi, phải lọc cho kỹ, phải uống rượu, phải kiêng hoa quả, phải… Ôi hàng trăm cái “phải” như thế nữa, mỗi lần thầy nghĩ đến, thấy rùng mình rợn gáy tưởng chừng như con quỷ “sốt rét” nó chạy xổ đến nắm tóc, xách cổ thầy mà ném cho ông Thần Chết vậy.

Thầy đến xứ Bo, thầy thấy rừng núi chập chùng mà thầy bùi ngùi cho thân thế, lo sợ cho tính mệnh. Một điều nữa buồn thêm cho thầy là không biết một tiếng Cao-mên, một tiếng Cồ-là nào, thành thử có mồm cũng như câm, có tai như điếc, tâm sự u uất ở trong lòng chẳng còn biết than thở với ai. Có anh loong-toong người Cao-mên cũng biết được vài tiếng Annam nhưng chẳng qua chỉ đủ dùng làm thông ngôn trong khi mua tem, bán tem, giữ giấy, giữ má xì xằng mà thôi.

Mỗi khi đứng trước cửa tò vò nhà giây thép nhìn ra, thầy trông thấy làn mây đen kéo đến bao phủ một góc giời, mà thầy bồi hồi ngây ngất, mà thầy lo sợ, mà thầy tự bảo: “Có lẽ ta đến bỏ xác ở xứ người”. Rồi thầy nhìn trong tưởng tượng hình như thấy hai cánh cổng nhà thương Battambang đã mở ra để đón lấy cái thân thể phù thũng, xanh nhợt, vàng ỏng của thầy, rồi nhà Bưu-điện Battambang sẽ phải đánh cái tin ai oán là cái tin thầy chết về Hà-đông cho thân  mẫu thầy. Gia đình thầy biết trông cậy vào ai?! Nghĩ đến đấy, thầy toát mồ hôi trán. Trông thầy lúc bấy giờ, hai mắt lim dim, mặt mũi nhợt nhạt như một người đã chết, tưởng chừng không còn cái sức mạnh gì lôi thầy lại cõi đời này được nữa, thì bỗng chuông máy báo ran, thầy lại sẽ mở mắt từ từ đến ngồi trước bàn máy lóc cóc, lóc cóc… ném tung những tin vui, buồn, sống, chết đi khắp các nơi.

Một tháng, hai tháng… Thầy sống như thế, thầy vẫn sỗng, thầy vẫn phải sống bằng cái bộ mặt ngơ ngác ủ rũ ấy, đeo nặng những tư tưởng lo sợ bi ai ấy cùng cái hy vọng: sắp đến ngày được đổi đi chỗ khác. Cứ cuối tháng thầy gửi các giấy má kế toán về phòng bưu điện Pnompenh, thầy lại kèm thêm cái đơn xin đổi cho quan Chánh.

Những đơn liên tiếp cùng một giọng “bã mía” ấy đã làm cho quan Chánh tòa bưu điện Cao-mên phải bực mình mà tự nghĩ: nếu cuối tháng sau, nó còn xin đổi lôi thôi nữa, ta sẽ viết giấy khiển trách.

Đến cuối giêng năm 1926, ngài dở những giấy kế toán ở Pailin gửi về thì chỉ thấy nào: K.16, K.16 bis, F.23, nào K.29, nào F.22..[9] chẳng thấy cái đơn xin đổi “hàng tháng” kia đâu nữa. Ngài phải lấy làm lạ mà tự nghĩ: “thằng bé đã chịu phép ở yên mà làm phận sự rồi”. Ngài tưởng lầm. Ngài có biết đâu: thằng bé chịu ở yên là vì một lẽ khác, chứ không phải vì phận sự.

Một sự bất ngờ cũng như trăm nghìn sự bất ngờ khác thường xẩy ra ở đời gây nên những việc tày đình mà ta không hề tưởng đến, đã khiến thầy Thông U… chạm trán với Néang Mia, một gái Cồ-là đẹp nhất vùng Bo này. Lần đâu, thoạt nhìn thấy nàng, thầy tưởng chừng như được gặp một cô thiếu  nữ của sông Hương, núi Ngự mà một bà tiên đã dùng gậy thần-xích biến bộ quần áo dài lướt mướt kia ra bộ vũ y rực rỡ này. Phải, cũng khổ mặt bầu  bĩnh ấy, cũng nước da trắng trẻo mịn màng ấy, cũng nụ cười bí mật mà tình tứ, cũng đôi con mắt lóng lánh ấy. Có khác là khác cái áo lụa chẽn mỏng không ống tay mùi hường, cái sằn-lây mùi hoa lý, đôi sà-bai chơn [10] nẹp xanh nẹp đỏ cùng là mái tóc cánh phượng búi ngược xòa ra như một cái tán nhỏ ở trên đầu. Thầy trông thấy con người đẹp đẽ mặn mà ấy trong bộ xiêm áo màu sắc ấy, thầy tưởng tượng như gặp nàng tiên ở chốn giao trì. Thầy đâm mê, đâm yêu rồi đem lòng ước vọng. Rồi mỗi khi cô Néang Mia ra nhà giây thép mua tem, gửi hàng thầy lại chùng chình làm ra chậm trễ, dùng một vài tiếng Cao-mên mới học được, ngỏ lời ghẹo cợt (ở xứ này người Cồ-là giao thiệp với người ngoài thường dùng tiếng Cao-mên). Dẫu những tiếng cộc-lổng mà thầy nói còn chưa đúng giọng, như slanh (yêu) chô-chất (bằng lòng)… chẳng đủ giải hết được bầu tâm sự của thầy, nhưng cô Néang Mia dường như cũng hiểu. Cô nói gì thầy chẳng hiểu, hay cũng hiểu lỏm bỏm, nhưng thầy xem dáng điệu cũng có thể đoán chắc được: cô cũng chẳng ghét thầy mà có lẽ hình như cô cũng mến thầy. Rồi ở tập lịch treo trên tường, mỗi một tờ mà người loong-toong hàng ngày bóc đi, là một lần tư tưởng ủ dột ở trong thần trí thầy nó bay đi, nhường chỗ cho những cảm giác thú vị và nồng nàn của ái tình. Rồi lòng “lo chết”, chỉ “muốn xin đổi” cũng dần dần nguội lạnh đi mà cuối tháng ấy quan Chánh sở Bưu-điện Cao-mên cũng không nhận được lá đơn xin đổi của thầy Thông U… nữa.

Những câu hỏi “ta có phải chết ở chốn này không, có được đổi đi chỗ khác không” ở trong óc thầy cũng bay đi mà nhường chỗ cho những câu hỏi khác: “Nếu cha mẹ Néang Mia bằng lòng gả nàng cho ta, ta có thể đem nàng về Bắc-kỳ được không? Nàng có thuận theo ta về Bắc không? Nàng đã yêu ta, ta đã yêu nàng, có xa nhau được không?” Nghĩ đến nông nỗi phải xa người yêu, nghĩa là phải rời bỏ chốn rừng thiêng nước độc là xứ Bo “giết người” này, thầy Thông U… tê tái trong lòng dường như lúc bước ra đi cái tay ngọc ngà của người yêu đã nắm “ruột gan” thầy mà lôi trở lại. Thầy thấy một làn mây hắc ám, thê lương nó bao bọc lấy tâm hồn thầy, tưởng chừng như thầy bước ra khỏi chốn “chứa đầy những lam sơn chướng khí” này là thầy đã bước chân vào cõi chết: cõi chết của tấm lòng đã không biết sống làm vui. Trước kia thầy sốt sắng mong mỏi được chóng xa xứ Bo này bao nhièu thì ngày nay, thầy lại sốt sắng mong được ở lại bấy nhiêu. Ngày nay, thầy coi cái chết của tâm hồn còn ghê gớm bằng mấy cái chết của xác thịt. Lúc ấy giá con quỷ sốt rét nó hiện ngay lên nhe nanh dơ vuốt mà bảo thầy: “Nếu mày không đi khỏi chốn này, tao sẽ bắt ngay mày đi”, thầy cũng cả quyết mà giả nhời ngay: “Tôi xin chết ở đây”.

Trong khi thầy Thông  U…lòng đang sôi nổi về những tư tưởng ấy thì ngoài phố Bo, người ta cũng sôi nổi lên về cái tin thằng Mang-Seng-Khet, đầy tớ nhà cô Néang Mia mới kiếm được một viên ngọc đá rất quí. Dân Cồ-là cư ngụ ở đấy đều rủ nhau lại nhà thân phụ cô Néang Mia để coi viên ngọc ấy, để ước giá mà có lẽ cũng là để nuôi lấy cái lòng ghen ghét đối với anh đầy tớ may mắn kia. Ấy thói đời trâu buộc vẫn ghét trâu ăn mà kẻ không gặp may vẫn ghét kẻ gặp may.

Trong cái nhà gạch ba gian, bao nhiêu người xúm xít chung quanh viên đá cuội to bằng cái trứng gà – một viên đá vì chưa mài thì chưa thành ngọc được – kẻ bàn ra người nói vào ầm ỹ:

– To nhỉ, nặng đến hơn một trăm carats.

– À, viên hồng bảo thạch, bán được giá lắm đấy.

– Có lẽ bán được 20,000$.

-Không được 20,000$, nhưng thể nào cũng bán được hơn 10,000$ nhưng phải mài khéo lắm mới được giá ấy. Ở đây, không có máy tốt, mài hỏng mất, phải gửi đi Rangoon hay Londres.

– Phải gửi đi Londres hay New York chứ đừng gửi đi Rangoon, ở đấy mài cũng chưa được khéo.

Thằng Mang-Seng-Khet nghe những lời bàn luận ấy mà mừng. Mà cũng đáng mừng thật. Nó sang đây làm đầy tớ nhà Néang Mia đã sáu năm nay, trải bao lao khổ, lương lậu lại ít ỏi, chẳng để dành được một đồng be [11], nay bỗng được cái của “giời cho” hon một vạn ấy, thì đáng mừng biết bao. Nhưng kể nó cũng là gan. Đương nghèo kiết mà phút chốc trở nên giầu có như thế, quá mừng mà không chết, cũng là đáng khen lắm.

Hôm ấy, Néang Mia lại đi đong gạo ở Battambang nên không hay, mấy hôm sau nàng về, thằng Mang-Seng-Khet vội vã nói cho nàng biết.

– Thưa cô, tôi mới kiếm được một viên ngọc đá quý.

– Đáng bao nhiêu?

– Ít ra cũng được vạn bạc.

– Thế thì cô mừng cho mày, mày đã gửi đi mài rồi chứ?

– Chưa, anh em cứ bảo tôi gửi đi ngay, nhưng tôi muốn đợi cô về đưa cho cô xem.Tôi còn gửi cụ, nếu cô muốn xem tôi đi lấy cho cô xem.

Sau nó lại ngập ngừng ấp úng nói tiếp:

– Nếu cô bằng lòng… tôi sẽ đem biếu cô.

– Thế là nghĩa lý gì, tao không hiểu. Bằng lòng cái gì?

– Nếu cô bằng lòng thương…. thương… thương đến … đến tôi, tôi xin đem viên ngọc ấy làm lễ cưới …

– Đồ ăn mày, đồ ăn xin, mày tưởng viên ngọc của mày đã quý lắm sao, vạn bạc của mày đã to lắm đấy! Tao thèm vào, từ rầy mày còn nói láo lếu như thế tao tát vỡ mặt mày ra. Đồ khốn nạn!

Nàng mắng thằng Mang-Seng-Khet, rồi nàng lại nghĩ đến thầy Thông U… Nàng tưởng tượng giá góp hết các hòn đá quý trong thiên hạ lại, nàng cũng không yêu bằng một nụ cười của “anh chàng Bắc kỳ” si  tình mà thực thà kia vậy.

Miệng đời thường nói: tiền là nhất. Nhưng nếu xét kỹ ra, nó có “nhất” là “nhất” với những người cho nó là nhất mà thôi. Ta quẳng rõ nhiều tiền ra có thể “mua được tiên”, có thể mua được ngọc quý chứ vị tất đã mua được một trái tim, vị tất đã khiến nó phải “nóng hổi” vì ta được. Như thế thì tiền vị tất đã quý bằng “trái tim đỏ”, như thế thì, “trái tim đỏ” chỉ có thể lấy “trái tim đỏ” mà đánh đổi được thôi. Trái tim đỏ! người là vật báu vô giá quý nhất ở trong cõi đời này. Mà cũng đáng khen cho thằng gia nô Mang-Seng-Khet kia. Nó có con mắt tinh đời thực. Nó đã nhìn thấy một vật quý hơn hòn ngọc quý của nó.

Thằng Mang-Seng-Khet bị mắng, xấu hổ ôm đầu cút mất, nó đành phải đem viên ngọc đá đóng hộp để gửi đi mài, rồi để bán lấy tiền mà trở về Cồ-là (Birmanie) an hưởng sung sướng cho bỏ cái công trình lao khổ bao nhiêu năm nay, nhưng nó vẫn tiếc không đem viên ngọc “chết” mà đổi lấy viên ngọc “sống” được.

Sáng hôm sau, nhà giây thép Pailin vùa mới mở cửa, nó đã đem cái hộp vào.

– Thưa thầy, thầy gửi giùm cái hộp này cho con.

– Phát tài nhỉ, thầy mừng cho mày. Định gửi đi đâu?

– Thưa thầy, thầy đề cho con đi Londres, cái địa chỉ đây, thầy cứ đề theo như thế. Nhưng gửi cách thế nào chắc chắn nhất thầy bảo con.

– Kể vật nhiều tiền như thế này phải đem về nhà giây thép Battambang gửi theo cách khai giá (valeur déclarée) mới là chắc chắn.

– Xa quá, đương mùa mưa, xe ô-tô hàng sẽ không đi lại được. Đường rừng lầy lội, nguy hiểm, con đâu dám đi bộ. Thôi thầy cứ xem ở đây có cách nào chắc chắn nhất thì thầy gửi cho con.

– Ở đây, không có quyền nhận những vật gửi theo lối khai giá, cách gửi đảm bảo (recommandé) là chắc chắn hơn cả.

– Thế thầy cử gửi như thế cho con cũng được. Ở trong hộp, ai biết là cái gì mà sợ họ ăn cắp, mà đã đảm bảo thì còn mất đi đâu.

Thầy Thông U… đề chỗ ở, biên vào sổ rồi viết biên lai đưa cho thằng Mang-Seng-Khet. Xong rồi, thầy đem cái hộp bỏ vào cái tủ sắt con, kê ở bên tường. Cái tủ này cũng như trăm nghìn cái tủ sắt của các nhà bưu điện nhỏ, ít tiền xuất nhập, nó đều không có ổ khóa chữ, chỉ toàn dùng khóa thường mà thôi.

Mười một giờ. Thầy Thông U… ăn vội ăn vàng rồi sấp ngửa ra phố vào nhà Néang Mia trò truyện cũng như mọi ngày.

Hai giờ rưỡi thầy về, ung dung cầm chìa khóa mở tủ để lấy tem bán cho người ta, thì ôi thôi! cái hộp không cánh đã bay đằng nào? Lục soát, tìm kiếm mãi chẳng thấy đâu, thầy vội vàng bảo loong-loong đi trình ông Đại-lý và ông Phủ. Ông Phủ hôm ấy lại đi việc quan vắng, chỉ một mình ông Đại-lý đến. Ông khám xét nhà cửa, tủ sắt một lượt kỹ càng, rồi ông bèn gọi loong-toong đến hỏi cung. Cung hỏi xong, ông bèn gọi thầy Thông U… lại gần mà sẽ bảo:

– Việc này mờ tối lắm. Tôi xét kỹ càng các cửa ngõ, ngoài sân trong nhà không có một vết tích gì có thể chứng thực rằng: đã có một kẻ gian tiềm nhập vào đây. Mà ban ngày ban mặt, nếu có ai vào thì láng giềng chung quanh tất có kẻ trông thấy. Kẻ ăn trộm này có lẽ là người trong nhà. Mà trong nhà này thì không có ai, chỉ có một mình thầy, mà có lẽ chính là thầy.

– Thế quan lớn ngờ cho tôi ăn cắp giấu đi mà phao lên như thế hay sao?

– Tôi không ngờ mà tôi dám chắc như thế, vì rằng lúc thầy bỏ cái hộp vào tủ khóa lại, người loong-toong tuy có biết nhưng thầy vẫn có mặt ở đây. Nó dù có muốn lấy cũng không lấy được. Tôi đã bảo cái hộp ấy là người trong nhà lấy, mà thằng loong-toong đã không lấy thì còn ai? Thầy không có đầy tớ, vợ con; ở nhà này chỉ có một mình thầy. Tôi sở dĩ mà không bắt giam thầy ngay là vì công việc nhà giây thép khẩn cấp không thể một ngày không có người, hai là tôi nghĩ thương thầy còn trẻ dại. Nếu có phải thầy trót tham mà lấy thì phải giả lại cho người ta. Nếu từ nay đến sáng mai, thầy không hồi tâm lại tôi sẽ phải làm theo bổn phận. Mà nếu làm ra, thầy vừa mất việc, vừa phải tội. Thầy nên nghĩ kỹ kéo hối không kịp.

Ông Đại-lý nói xong rồi về, để hai người lính lại gác cổng không cho thầy Thông U… đi đâu.

Rộng lượng thay ông Đại-lý! Nhưng không lấy thì đào đâu ra mà giả lại cho người ta được.

Một mối ngờ! một mối ngờ mà sức người không làm cho tiêu tán đi được, độc địa thay!

Ăn cắp! mất việc! phải tù! ba tiếng sét đánh liền liền ngay bên tai cũng không làm cho thầy Thông U… kinh hãi bằng. Tâm sự thầy lúc ấy thế nào chẳng cần phải nói ta cũng đủ hiểu. Thầy oan, thầy đau đớn về nỗi oan. Thầy muốn gào thét để tỏ nỗi oan.

Nhưng thầy xét ra cũng vô hiệu. Cứ như lời quan Đại-lý nói thế, các tang chứng đã buộc chết cho thầy không còn cách nào mà gỡ cho khỏi tội được nữa. Thầy tự nhủ: “Nỗi hàm oan này, có chăng chỉ ông giời cùng ta biết mà thôi… mà có lẽ chỉ Néang Mia biết nữa mà thôi: vì nàng biết chắc ta không thể nào đè ép lương tâm mà làm một việc đê hèn như thế được”.

Ôi, lòng tín ngưỡng của ái tình còn mạnh hơn lòng tín ngưỡng của tôn giáo! mà chỉ có những người nào yêu nhau mới biết tin nhau mà thôi.

Thầy Thông U… nghĩ đến Néang Mia lòng đau như cắt, hình như có một sức mạnh bí mật gì bảo cho thầy biết: có lẽ cuộc tình duyên của thầy sẽ vì việc chẳng may này mà tan nát. Thầy lại tưởng tượng đến cảnh éo le não nùng của gia đình thầy: cha đã chết, nhà thì nghèo, mẹ thì già, bốn em còn dại ; nếu nhất đán được cái tin ghê gớm này, nếu nhất đán thầy mất việc không tiền gửi về thì.. Nghĩ đến đấy, thầy tưỏng chừng như mẹ và bốn em cũng cùng phải chịu chung một cảnh xót thương tù ngục sau này của thầy. Thầy thấy ruột gan thầy như xé.

Người ta thường nói: “Những người con hiếu, những người anh hiền mới là những người tình nhân không hai lòng”. Thật đúng lắm.

Trong nhà giây thép, thầy Thông U… như nằm trên đống lửa mà ngoài thì người kéo đến ngóng tin đông như hội. Họ bàn luận, phỏng đoán xôn xao. Nhưng to tiếng nhất là thằng Mang-Seng-Khet. Nó được cái tin ghê gớm ấy nó tưởng chết ngay mà không chết được. Nó lại nghe người ta nói: “Những vật đảm bảo mà nhỡ có thất lạc thì nhà bưu điện chỉ đền cho 25 quan tiền Tây mà thôi”. Nó lại càng thất vọng, mà đã thất vọng thì tất nhiên là nó phải căm, hờn, oán, giận cái người mà đã làm cho nó thất vọng ấy. Nó chạy như bay đến nhà giây thép. Nếu không có hai người lính cản nó lại, có lẽ nó đã xông vào đánh đập thầy Thông U… rồi.

Néang Mia cũng lại coi, thấy thiên hạ họ nghi cho thầy Thông U… ăn cắp nàng tự nghĩ: “Không có lẽ, người yêu của ta lại là một người ăn cắp được, con người như thế không có thể nào làm một việc đê hèn như thế được”. Nàng nghĩ đến đấy muốn kêu to lên cho mọi người biết: “Người yêu của tôi không phải là kẻ ăn cắp, mà không khi nào ăn cắp được.” Nàng thấy Mang-Seng-Khet nó xắn xiêm áo, hoa tay múa chân, gào, thét, chửi, mắng ầm ĩ mà nàng muốn chạy lại tát cho nó mấy cái. Nhưng nàng suy đi xét lại làm như thế đã chẳng ích gì cho người yêu, mà chỉ thêm xấu hỗ cho nàng, nàng bèn nghiêm sắc mặt bảo thằng Mang-Seng-Khet:

– Nào đã biết ai ăn cắp mà mày hàm hồ như thế, còn chờ ông Đại-lý xét xem phải trái ra làm sao đã, mà dù người ta có lấy của mày cũng đã có nhà nước định tội, mày không có phép chưởi người ta như thế. Bước về ngay đi. Đồ khốn nạn chỉ quen láo lếu.

Như một đám mây mà trận gió kéo lại cuốn ngay đi, cơn lôi đình thằng Mang-Seng-Khet bỗng tiêu tán đi đâu mất. Nó bèn ôm đầu lủi thủi trở về như một con chó nép lưng dưới con mắt giận dữ của người chủ. Nhưng dù sao nó cũng không quên việc nhờ người làm đơn để đi kiện thầy Thông U…

Lúc người đến xem đã được hả tấm lòng tò mò, tản về hết như một đàn ruồi thấy có ăn thì bâu đến, lúc no bụng lại kéo nhau đi, nàng bèn cho tiền hai người lính rồi lẻn vào nhà giây thép.

Trông thấy thầy Thông U… nằm gục ở trên giường, nàng thương quá chạy lại bế thầy vào lòng mà hỏi đầu đuôi, nhưng  thầy Thông U… chỉ khóc tấm tức mà không nói được. Lâu lâu thầy mới dùng những tiếng Cao-mên “bập bẹ”, mà ú ớ bảo nàng:

– Tôi không ăn cắp mà tôi sẽ phải tù.. mẹ tôi đói, em tôi rét.

Rồi thầy giơ năm ngón tay lên hình như muốn tỏ cho Néang Mia biết: có năm người sẽ phải điêu đứng khổ sở vì thầy. Nàng nghe thầy nói lại càng ghì chặt lấy thầy, như muốn cho nỗi buồn rầu sôi nổi ở trong lòng thầy nó chuyển bớt sang mình nàng để cùng được chịu nỗi cay đắng của người yêu.

Thầy Thông U… lại nói:

– Thôi thế là tình duyên đôi ta tan nát, mới gặp nhau có ba tháng, đã phải chia lìa, đau ruột quá; tôi thề với mình tôi  không ăn cắp, mình có tin tôi không?

– Dầu ai có cắt cổ tôi đi, tôi cũng nói mình không phải là quân ăn cắp, tôi tin bụng mình lắm.

Rồi nàng lại sợ hai chữ “cắt cổ” tiếng Cao-mên nó khó quá thầy không hiểu, (mà có lẽ thầy cũng chưa học đến) nàng liền nắm tay thầy, giơ lên, cứa cứa vào cổ nàng, để ra hiệu cho thầy biết. Thầy hình như hiểu bèn nói:

– Tang chứng buộc chết cả cho tôi rồi, người yêu có thương tôi cũng chẳng gỡ tội cho tôi được, người yêu đã tin tôi, thế là tôi mừng rồi.

Lạ thay, một anh nửa câm, một chị nửa điếc, họ làm thế nào tỏ tâm sự cho nhau biết được, mà hiểu nhau được, mà yêu nhau được. Giá dụ có người biết tiếng Cao-mên lắng tai nghe thầy Thông U… nói cái tiếng Cao-mên, dở Cao-mên, dở Annam pha Tây, đá Cồ-là ấy thì đến phì cười vỡ bụng, mà cũng không hiểu là thầy muốn nói gì nữa. Nhưng Néang Mia hình như hiểu cả mà nàng nói gì, thầy Thông U… như cũng biết hết. Ấy bọn chung tình họ có cần nói ra miệng đâu, con mắt họ, sắc mặt họ, giọng nói họ, mà thứ nhất luồng điện trong quả tim họ thông ngôn cho họ, tỏ bầy tâm sự giùm họ.

Thần ái tình! Thần ái tình! ngươi thật có những phép thần thông mầu nhiệm lạ thường, chỉ có những kẻ nào thờ người mới hiểu biết mà thôi. Ngươi thật đã làm cho người câm biết nói, người điếc biết nghe. Người không phân biệt màu sắc, không phân biệt giống nòi, rộng thay lòng bác ái của nhà ngươi!

Hai người lẳng lặng một lúc lâu, rồi thầy Thông U… lấy tay chỉ vào mình, chỉ về phía dinh ông Đại-lý, chỉ về phía Bắc rồi đập, đập vào đầu mà khóc to lên, muốn nói mà ấp úng không thành tiếng, mà cũng chẳng biết nói thế nào, (biết tiếng Cao-mên bao nhiêu mà nói). Thầy ra hiệu như thế, dẫu là Thánh cũng vị tất đã hiểu, thế mà Néang Mia hiểu cả, nàng hiểu thầy muốn nói: nếu thầy phải tù, mất việc thì khổ cho nàng, khổ cho mẹ thầy cùng các em thầy.

Nàng hiểu như thế, nàng biết như thế nên tấm lòng thương yêu người con thảo, người anh hiền lại tăng tiến lên cực điểm mà tấm lòng hi sinh cho người yêu, cho gia đình người yêu bỗng nổi lên. Hai con mắt nàng lúc bấy giờ sáng quắc như ngụ một ý quả quyết làm một việc hiểm nghèo gì.

Nàng bèn ôm chặt lấy thầy Thông U… ghé răng vào môi thầy cắn mạnh một cái, rồi vùng đứng dậy ra cửa, như đem hết bao nhiêu ái tình chứa chất ở trong lòng nàng, đem hết linh hồn gửi lại người yêu chỉ lấy một cái xác thịt không ra đi.

Lúc nàng về đến nhà, vội gọi thằng Mang-Seng-Khet xuống bếp bảo:

– Mày đầu đơn kiện chưa?

– Thưa cô, tôi kiện nó rồi, ông Đại-lý nói với tôi thế nào nó cũng phải tù.

– Nói láo nào, mày có tiếc hòn ngọc đá ấy không?

– Sao không tiếc, nhưng may ra còn tìm được.

– Nếu mày tìm được, tao bằng lòng lấy mày làm chồng, mày có cho tao không?

– Tôi đã bảo tôi không tiếc gì cả, chỉ tiếc không lấy được cô mà thôi.

– Nếu thế thì mày ra dinh ông Đại-lý xin rút đơn kiện thầy, Thông U… ra, nói là thầy bỏ quên cái hộp ngọc trong ngăn kéo, nay thầy đã tìm thấy đem trả lại mày rồi. Nếu mày bằng lòng nói thế, tao sẽ lấy mày làm chồng.

– Đã tìm được đâu mà nói thế?

– Không tìm được cũng như tìm được ; tìm được thì khi tao lấy mày rồi tao cũng đem vất đi, mà không tìm được, thì tao cũng là vợ mày. Mày quý hòn ngọc hơn tao à?

– Không không, tôi chỉ sợ cô nói dối, khi rút đơn ra rồi, cô lại lật lọng không lấy tôi.

– Mày trông tao có phải con người lật lọng không. Nếu mày không tin thì ngay bây giờ đây, mày muốn thế nào, tao cũng bằng lòng (!!!!)

Ôi, nghe cái giọng nói thảm thiết của nàng, cái vẻ mặt đau đớn của nàng lúc nói câu ấy, thì cho dẫu đá cũng phải chẩy máu mắt – nếu đá có mắt. Đứa gia nô cục súc kia, dường như cũng biết cảm động, bèn nói:

– Thôi cô nói thế là đủ rồi, là tôi tin cô rồi, để tôi đi ngay lại dinh ông Đại-lý xin rút đơn ra, nhược bằng ông ấy làm khó khăn tôi cũng cố lạy van để ông ấy bỏ việc này đi.

Xứ Bo (Pailin) qua một đêm huyên náo lại yên tĩnh như thường. Ai cũng cứ tưởng là thầy Thông U… đã tìm thấy cái hộp ngọc đưa giả lại thằng Mang-Seng-Khet rồi.

Hòn ngọc? Hòn ngọc? nó ở  đâu? Ai lấy? Ta còn chờ thời gian bảo cho ta biết. Vấn đề bí mật ấy hiện còn chìm đắm trong chỗ tối tăm, nhưng giữa nơi thanh thiên bạch nhật, thằng Mang-Seng-Khet đã nghiễm nhiên là chủ nhân ông “hòn ngọc biết nói” kia, mà từ đấy ta đã được thấy trong đám đông viên chức nhà Bưu-điện, một người cứ lủi thủi đi, lủi thủi về, ai hỏi chẳng buồn nói, gọi chẳng buồn thưa, mặt mày ủ rủ khô héo như một cái thây ma.

Chú thích:

[1] Sông vùng Battambang cứ vụ nước lên, thì những thuyền trọng tải từ 300 tạ đến 40.000 mới vào được.

[2] – Các ghe thường sơn hắc ín.

[3]-[4]-[5] – Đại để là một thứ “váy”

[6] – Quan huyện

[7] – Cà puông: một thứ áo dài khâu kín tà.

[8] – Caseng: khăn quàng cổ.

[9] – Tên riêng giấy má kế toán nhà Bưu-điện

[10] -Một thứ dép như dép Nhật-bản.

[11] – Một thứ tiền trinh trị giá bằng đồng kẽm.

11- Người bạn biển

Nam-vang đi dễ khó về,

Giai đi bạn biển, gái về tào-kê [1]

Xứ Cao-mên phải chăng là đứa con nuông của đức Thượng-đế ở cõi Đông-Pháp, nên ngoài những đồng-điền phì-nhiêu bát-ngát nó đã làm cho ba triệu con người kia không bao giờ phải lo đói kém, Ngài lại còn cho thêm một cái kho cá khổng-lồ và súc-tích: Biển-Hồ (Tonlésap).

Giữa một giải đất liền diện-tích 175,000 cây số vuông, trên một khoảng đồng bằng bao la xanh tốt, mênh mông một làn nước biếc nó là một nguồn lợi thiên-nhiên vô-tận của dân cư xứ này.

Chiếm gần một phần năm mươi trên diện-tích bản-đồ, nó to quá, rộng quá không thể bảo là một cái hồ được, mà nó cũng chưa đủ rộng để cho người ta gọi nó là một cái biển, vì thế mà người ta đặt cho nó cái tên “ nước đôi ”: Biển-Hồ.

Về mùa mưa, Biển-Hồ là cái kho chứa nước vĩ-đại của con Cửu-long-giang. Trong vụ ấy, nước lũ ở các cao-nguyên miền Vân-Nam, Lào, Siam đổ về nhiều quá thành ra mực nước ở sông cao hơn ở Biển-Hồ, lúc ấy thì nước ở sông chẩy về Biển-Hồ.

Trái lại, về mùa tạnh ráo, Biển-Hồ lại là cái túi nước vô-tận của con tràng-giang kia vì lúc ấy mực nước ở Biển-Hồ lại cao hơn ở sông mà nước lại chảy ra sông.

Cái trạng-thái xô đi kéo lại ấy đã khiến cho những miền ở chung quanh Biển-Hồ phải úng-thủy trong mùa mưa mà trở thành những đồng lầy trong vụ nắng. Vì lầy sâu quá vả lại trái thời-tiết, [2] người ta không cày cấy gì được, đành để cho những khoảng đất mênh mông ở ven thành đĩa kia trở nên những khu rừng um tùm, xanh tốt, rậm rạp nó là chỗ trú ẩn rất kín đáo, rất tiện lợi của quân trộm cướp. Nhờ về cái địa-thế hiểm-yếu dễ trốn tránh, dễ lẩn-lút ấy mà một tên ăn cướp thủy rất lợi hại là Ba Tánh tự là Đơn-Hùng-Tín đã làm nên oanh-oanh liệt-liệt trong mấy năm giời. Oanh-liệt đến nỗi người Cao-mên nghe danh là phải khiếp đảm nên họ mới đặt cho y một cái tên rực rỡ: Luông Tín (vua Tín).

Dân cư miền ấy chỉ sinh nhai về nghề đánh cá, sống về cá. Đi đến đâu cũng thấy cá, những cá là cá: cá khô, cá sấy, cá mắm, nước mắm, mắm tôm, mắm ngấu … thôi không còn thiếu một thứ gì.

Làn nước quý hóa kia thật đã gây cho dân-cư vùng này một công-nghệ to-tát phát đạt, mà nền lý-tài xứ Cao-mên sở dĩ được dồi dào cũng nhờ về đó một phần lớn.

Mối thủy-lợi kia đã làm cho bao nhiêu chủ thầu (chính-phủ Bảo-hộ chia Biển-Hồ ra từng lô, ba năm bỏ thầu một lần) được giầu có. Trong bọn đó thì giầu có nhất, thế-lực nhất là Tao-Kê Lau-Mạnh.

Chẳng biết ông rời bỏ đất nước (Trung-Hoa) tự năm nào và khi bước chân sang cõi Đông-Pháp ông đã làm những việc gì, ta chỉ biết rằng về khoảng năm 1920, ông đã chiếm được ngôi bá-chủ trên thương-trường “Cá khô” ở xứ Cao-mên.

Ai đi qua xứ Mottonlé cách huyện lỵ Bac Préa (Battambang) chừng 8 cây số cũng phải dừng chân lại mà ngắm cái trại của ông cắm trên một khoảng đất phẳng phiu trồng toàn lồng-mứt (sapotier). Thoạt mới nhìn người ta tưởng là biệt-thự của một vị hưu-quan nào.

Một dẫy hàng rào toàn duối và xương rồng mà một con sẻ chui không lọt bao bọc lấy một vườn cây cối xanh um. Ở giữa lố nhố hàng hai chục cái nhà sàn lợp ngói, phân nửa đều quay mặt ra sông Sang-Kè.

Đem thân bôn tẩu đồng đất nước người mà gây dựng được cái cơ-sở đồ sộ như thế, ông thật đã lấy làm mãn-nguyện. Không bắt chước những chúng bạn khi đã kiếm được chút đỉnh-chung thì vùi đầu trong cái thú hầu non, á-phiện, ông dẫu đã ngót sáu mươi mà vẫn làm việc. Mỗi lần, nhà-nước gọi bỏ thầu cá ở Biển-Hồ, ông thường thầu hai ba lô một lúc.

Về hạ tuần tháng 5 năm 1930, một buổi trưa mát mẻ, ông đang ngồi tính sổ thì người tài-phú đưa lại cho ông một tên cu-ly Bắc-kỳ đến xin làm bạn biển.

– Anh có biết chài lưới không?

– Thưa Tao-Kê, không.

– Anh có biết bơi, biết lặn không?

– Thưa Tao-Kê, có.

– Tôi coi bộ anh người mảnh dẻ thế kia vị tất đã chịu được khó nhọc.

– Tao-Kê đừng ngại, tôi tuy trông thế này nhưng khỏe mạnh và dai sức lắm. Kham khổ, vất vả thế nào tôi cũng chịu được. Việc chài lưới, tôi sẽ học dần, bây giờ xin Tao-Kê hẵng cho tôi vào việc làm cá.

– Thế anh định vay trước bao nhiêu, anh đưa thân thuế gửi tôi.

Nghe hỏi đến thân thuế, anh ấp úng nói:

– Tôi không vay tiền trước thì tưởng chẳng cần phải gửi thân thuế, xin Tao-Kê cứ cấp lương tháng cho tôi, bao nhiêu tôi cũng xin làm hầu Tao-Kê để học nghề.

Nghề làm cá ở đây rất là vất-vả. Khi đánh cá được nhiều phải làm suốt ngày đêm. Những người bạn biển hầu khắp vì túng bấn phải gửi thân thuế, làm giấy vay tiền trước của chủ rồi làm trừ dần, nên dù kham khổ vất vả đến đâu cũng không thể bỏ được. Hai chữ bạn-biển tức là hình ảnh của sự lam lũ, trói buộc.

Bọn bạn-biển ở nhà Tao-Kê Lau-Mạnh có chừng bốn mươi người vừa Cao-mên, vừa Annam, đàn ông và đàn-bà. Trong bọn đó chỉ duy một mình anh chàng Bắc-kỳ kia là ăn lương tháng, còn đều là khnhom [3] cả.

Anh chàng ở đấy được hơn một tháng, làm việc rất là chăm chỉ, ngôn ngữ cử-chỉ lại có lễ độ tỏ ra là một người đứng đắn nên được Tao-Kê Lau-Mạnh biệt đãi. Vợ Tao-Kê lại là người Nam-kỳ nên thấy người đồng-chủng ngoan-ngoãn cũng thương tình, thường vẫn nói với chồng:

– Thằng Tư (tên người cu-ly) coi bộ nó thực thà, nhanh nhẹn, nếu nó chịu ở lâu với mình, ta sẽ gây dựng cho nó, tội nghiệp.

Cũng vì được chủ yêu, nên bị anh em ghét. Thói đời vẫn như thế. Mà thằng bị ghét nhất vẫn hậm hực với thằng được yêu nhất. Thằng bị ghét nhất là một tên tù Cao-mên mãn-hạn rất táo tợn tên là Nat Sambun. Nó ỷ có sức khỏe nên thường vẫn hay bắt nạt anh Tư mà nó gọi khinh bỉ là “cọc-cạch” theo như cái lối người Nam-kỳ chế riễu người Bắc-kỳ. Anh Tư đối với cách cử-chỉ hung hăng của kẻ kia vẫn giữ một thái-độ điềm nhiên nên nó lại cho anh là nhát, càng bắt nạt già. Nó châm chọc anh thể nào, anh cũng chỉ mỉm cười.

Một hôm có mấy thuyền cá về, bọn Khnhom đương xúm vào, kẻ đánh vẩy, người móc mang tíu tít thì bỗng không biết tại làm sao, thằng Nat Sambun cầm một nắm ruột cá ném vào giữa mặt anh Tư. Anh Tư nhổm dậy toan đánh, nhưng không biết nghĩ sao, lại ngồi xuống, lấy vạt áo lau mặt mà chẳng nói gì. Có lẽ anh nghĩ đã đâm đầu vào làm thân tôi tớ người thì vinh gì mà còn xâu xé nhau để dành hơn kém. Kém hay hơn cũng là cái thân tôi tớ.

Việc ấy ngoài bọn Khnhom ra còn một người nữa trông thấy. Người ấy là Mi-Hây, con gái Tao-Kê Lau-Mạnh.

– Anh Tư, sao thằng Nat Sambun nó hành anh thế mà anh cũng để yên.

– Thưa cô, chẳng để yên thì dành hơn thua với đứa cục-súc ấy làm gì?

– Hừ…

Sau tiếng “hừ”, một nụ cười ái-ngại và khinh-bỉ nở ở trên làn môi.

– Tôi mà là đàn-ông, ai trêu tôi thế, nhất chết thì thôi chứ tôi  chẳng chịu để yên.

– Thưa cô, đánh nhau với nó vị-tất đã can-đảm bằng nhịn nó đi.

– Phải tài đởm như thế nó cũng hơi giông giống hèn nhát.

Rồi an ủi:

– À, mà tôi trông bộ anh yếu ớt thế kia, nhịn nó là phải, là khôn.

Ngày qua lại tháng qua. Cái không-khí khinh bỉ nó cứ nặng chĩu ở trên đầu anh Tư. Nhưng một điều lạ là anh Tư hình như chẳng thèm quan tâm gì đến cả, mặc cho ai muốn nói sao thì nói. Anh sống, sống ở đời mà lòng yêu ghét giận hờn cơ hồ như đã chết. Hay việc đời đã làm cho lòng anh tê-tái ê-chề, nên ngày nay anh không còn biết gì là đau-đớn nữa. Lời phỏng đoán này mà có đúng thì cũng chỉ đúng có một phần, bởi vì mỗi khi anh bị ngược đãi, anh dẫu chẳng nói ra, nhưng ta trông đôi lông mày anh cau lại, ta trông anh mỉm cười, ta cũng biết chắc rằng sóng tình-cảm nó vẫn còn sôi nổi ở trong lòng anh. Có lẽ anh sống ở đời để theo đuổi một cái mục-đích gì mà anh cần phải đặt cái mục-đích ấy trên những sự yêu ghét, giận hờn nhỏ nhen. Anh cần phải giữ hết nghị-lực để theo đuổi cái mục-đích kia cho đến kỳ-cùng nên anh không muốn đem phí vào những việc tranh dành nó chẳng có ý nghĩa gì. Lời phỏng đoán này có lẽ đúng hơn, bởi vì ta trông con mắt anh nhìn, ta trông cái trán cao mà rộng, ta xét ngôn ngữ cử-chỉ của anh, ta có thể nói ngay: Kẻ này không phải là một kẻ hèn nhát.

Albert Londres đã tả người Trung-hoa bằng một câu chua chát: «propre au dehors, sale au dedans».  Anh Tư này thì lại là một cái hiện-tượng trái ngược hẳn. Những

….quốc sĩ xưa nay,

chọn người tri-kỷ ….

Mấy ai đã có con mắt xanh đoán được anh-hùng giữa lúc trần-ai.

*

Có gió cả mới hay cây cứng,

Không đường dài ai biết ngựa hay.

Mi-Hây đương yên-trí cho anh Tư là hèn nhát, đáng khinh-bỉ thì một việc xảy ra khiến nàng phải hối-hận và đem lòng kính-phục.

Một hôm, về khoảng một giờ đêm, trong lúc mọi người đang yên nghỉ thì một bọn cướp chừng độ ba chục người có đủ khí-giới kéo đến. Giời tối đen như mực. Bốn bề đương yên lặng thì bỗng tiếng súng nổ vang, rồi đến tiếng phá cổng ầm ầm. Bọn gia-nhân sợ hãi bỏ trốn cả, mà đến ngay thằng Nat Sambun thường ngày thì “ hùng hổ ” thế mà lúc này cũng chẳng thấy mặt đâu. Tao-Kê Lau-Mạnh tuy có súng, nhưng cái mãnh-lực của cây súng là ở cái tay người dùng, chứ tự nó, nó chẳng có giá-trị gì. Tiếng súng nổ liên tiếp làm cho ông sợ hãi luống cuống, súng có mà cũng chẳng nghĩ gì đến bắn nữa. Thấy mình trơ-trọi, gia-nhân đầy tớ chẳng còn ai, ông bèn vội vàng thu nhặt lấy tiền nong cùng đồ tư trang rồi dắt vợ con mở cửa tìm đường trốn. Ông vừa ra đến sân thì cổng đã bị phá vỡ, một bọn cướp xông vào, đèn đuốc sáng lòe.

– Thằng Lau-Mạnh nó đây rồi, anh em ơi…

Trong cái phút nguy cấp, khắc-khoải mà Tao-Kê Lau-Mạnh chắc là phải chết thì bỗng thấy anh Tư nhanh như cái cắt, chạy đến, giằng lấy súng ở tay ông chĩa vào mấy tên cướp đi đầu mà bắn luôn hai phát. Hai người ngã, bọn cướp hoảng-hồn lùi lại…

Cái phút nhanh chóng mà những cử-chỉ diễn ra loang loáng như chớp nhoáng, cái phút mà không bút nào tả được, cái phút mà ta có thể nói là không phải cái phút của loài người  biết suy nghĩ nữa bởi vì lúc ấy thì từ anh Tư cho chí vợ chồng con cái Tao-Kê Lau-Mạnh, cho chí bọn cướp kia không ai kịp nghĩ nữa: cái phút của bản-năng sai khiến…

Anh Tư thấy bọn cướp lùi, anh bèn thừa dịp ấy dắt vợ chồng con cái Tao-Kê Lau-Mạnh chạy vào ẩn ở trong cái kho thóc gần đấy.

– Xin ông bà cùng cô nằm rạp xuống đất bây giờ trốn cũng không biết trốn đâu, chung quanh nhà cướp nó đã đứng chẹn cả rồi. Xin ông bà cùng cô cứ yên tâm, tôi mà còn sống thì không ai có thể phạm vào mình ông bà và cô được. Ông đưa cái thắt lưng đạn đây cho tôi.

Tay run lật bật, Tao-Kê Lau-Mạnh cởi cái thắt lưng giắt đầy đạn đưa cho anh Tư, rồi ngoan-ngoãn như một cậu bé khi nghe lịnh của thầy giáo, ông nằm rạp xuống đất.

Sau một lúc do dự, bọn cướp lại xông vào. Anh Tư đứng nấp ở trong kho thóc nhờ ánh sáng đèn của chúng, bắn ra không sai một phát nào. Bọn cướp thấy thế không dám tiến vào nữa chỉ đứng đằng xa dùng súng bắn vào.

Mỗi khi tia lửa lòe ra, Mi-Hây lại được thấy cái vẻ mặt quả-quyết, dữ-đội, khắc-khổ của anh Tư. Lúc ấy nàng tưởng chừng như được thấy cái can-đảm hiện thành người. Nàng không thể không đem lòng yêu mến con người đẹp đẽ như kia được. Lúc ấy anh Tư trông đẹp thật, cái đẹp của sự Hùng-dũng Can-đảm.

Phải là một người đã trải một cảnh nguy hiểm như Mi-Hây lúc bấy giờ mới biết yêu, biết kính những cái đáng yêu, đáng kính ấy. Cũng như cái mãnh-lực của tiếng sét nó chỉ biểu lộ ra ở trong chớp nhoáng, những cái đáng yêu, đáng kính của kẻ anh-hùng nó chỉ biểu-lộ ra ở trong lúc nguy-hiểm, trong khi hành-động.

Bọn cướp kia dùng toàn súng hỏa-mai, bắn không được đích lắm mà nạp đạn lại lâu nên không sao địch nổi với khẩu súng hai lòng, sự nạp đạn đã nhanh, người bắn lại giỏi, đã thế lại còn đứng ở trong chỗ kín đáo. Chúng xem tình hình không thể làm gì được bèn tháo cả xuống thuyền khiêng những người chết và bị thương đi.

– Anh Tư bị đạn ở đâu?

– Ở đùi.

– Có gẫy xương không?

– Hình như không.

– Thật chỉ vì vợ chồng tôi mà anh phải cái họa này.

– Bổn phận kẻ ăn cơm chủ thì lúc nguy nan phải hết sức, ông bà chẳng cần phải quan tâm đến tôi. Chỉ xin ông bà ngày mai quan có đến khám thì nói là ông bắn và đừng nói là tôi bị thương.

– Được tôi xin khai như thế, nhưng anh phải đi nhà thương chứ.

– Thôi cứ chữa ở nhà cũng được, vết thương cũng không nặng mấy.

Giọng nói có vẻ khẩn khoản tha thiết, vợ chồng Tao-Kê Lau-Mạnh cũng không ép nữa, nhưng ông bà đem lòng ngờ anh có điều bí mật gì nên muốn giấu mặt.

Mi-Hây đứng nhìn anh Tư nói mà vẻ thương xót lo ngại lộ ra nét mặt. Nàng biết chắc là trong đời anh có một việc bí-mật ghê gớm, nhưng lúc này không phải là lúc để tâm đến những việc ấy, cái việc cần nhất là sức khỏe của anh.

– Thôi ba má để cho anh Tư đi nghỉ, con băng bó cho anh ấy đã. Đem anh Tư vào nằm buồng con.

Rồi cũng chẳng cần chờ ai giả nhời, nàng liền lại đỡ anh Tư đưa vào buồng. Nàng lấy gối nệm của nàng cho anh Tư dùng. Nàng tự tay rửa vết thương và buộc cho anh.

Suốt một tháng ròng, nàng săn sóc cho anh Tư coi như một người anh mà có lẽ còn sốt-sắng hơn một người anh nữa. Những cái trước kia mà nàng cho là hèn nhát đã trở thành ra những cử-chỉ rất cao-thượng của con người “gan góc” đáng yêu, đáng kính. Nàng lại hối-hận rằng trước kia nàng đã nhận lầm mà khinh-bỉ anh nên nàng lại càng hết sức trông nom để xóa nhòa những cái ngờ vực bất-công ấy đi.

Nàng đã có cái quan-niệm đối với anh Tư như thế, nên nàng  nhìn anh bằng một con mắt khác.

Nàng nhận thấy nét mặt phương phi cả quyết kia không phải là nét mặt của kẻ hèn-hạ, nàng nhận thấy cái bàn tay da dẻ nhỏ nhắn kia không phải là cái biểu-hiệu của kẻ từ lúc bé đã phải lam-lũ mà thứ nhất những cử-chỉ ngôn-ngữ có lễ độ kia, kẻ vô học không thể có được.

Một hôm anh đã gần khỏi, anh đang nằm hút thuốc là ở trên giường, mắt anh đăm đăm nhìn làn khói nó tan đi mà có lẽ lòng cũng man mác như khói kia vậy thì bỗng Mi-Hây chạy vào, nàng lại ngồi đầu giường anh sốt-sắng hỏi:

– Anh Tư ơi, sao tôi trông anh mấy bữa đây nhiều buồn bực lắm. Anh buồn gì thế hở anh!

– Không, tôi có buồn gì đâu.

Trầm ngâm một lát, nàng lại hỏi:

– Anh người ở đâu, quê đâu?

– Tôi người Bắc-kỳ, quê Phủ-lý,

– Ông già anh làm gì?

– Làm ruộng.

– Thế anh vào đây tự bao giờ?

– Tôi mới vào được hai tháng.

– Tại làm sao anh lại vào đây?

– Vì nhà tôi nghèo nên mới phải đi kiếm ăn.

– Tôi coi hình như anh biết chữ thì phải.

– Cô tính cơm còn chưa đủ ăn, lấy gì mà học cho biết chữ được.

– Anh nói dối tôi, tôi chắc có việc gì anh giấu tôi, anh nói thực tôi sẽ giữ kín cho anh.

– Thưa cô, tôi có điều gì dám giấu cô đâu. Tôi là con nhà nghèo hèn vô học, chả nhẽ tôi lại bảo với cô tôi là con nhà giầu sang, học-thức được sao?

Anh nói đến đấy thì hình như có việc gì làm cho anh xúc cảm, vẻ thảm sầu vụt hiện lên nét mặt, nhưng lại tiêu tán đi ngay. Tuy vẻ thảm sầu kia chỉ hiện ra trong một loáng, nhưng cũng không sao giấu nổi một người đã lấy con tim mà hiểu anh. Mi-Hây trông anh có vẻ thương xót, thương xót cho một trang nam-nhi anh-tuấn như kia đã gặp một việc gì bất-đắc-chí mà phải đem thân lẩn lút xứ người.

Nàng bất giác nắm chặt lấy tay anh mà bảo:

– Tôi dám chắc là anh có điều gì giấu tôi, tôi dám chắc là ở quê nhà, anh có điều gì bất-đắc-chí nên mới phải lẩn trốn vào đây.  Tôi dám chắc anh không phải là một kẻ quê mùa hèn hạ, có điều gì anh nên nói thực với tôi họa chăng tôi có thể giúp anh được một đôi phần, biết đâu?

– Tôi đã bảo tôi không có điều gì giấu cô mà.

– Anh đừng ngại, anh cứ nói thực với tôi, tôi xin giữ kín cho anh.

– Tôi có điều gì bí-mật đâu mà phải giữ.

– Anh dám thề không?

Một cái yên lặng rất có ý nghĩa đầy những lời thú.

– Tôi có làm gì mà phải thề, xưa nay tôi chẳng thề với ai bao giờ.

– Anh không nói với tôi bởi vì anh không tin tôi, anh không tin tôi nghĩa là anh không quý tôi nhưng dù sao tôi cũng không thể nào ghét bỏ anh được, mà dù sau này anh có thế nào đi chăng nữa, tôi  cũng không vì thế mà khinh-bỉ anh được. Chỉ có anh là đối với tôi không thực-thà thôi.

Giọng nói có vẻ đau-đớn thất-vọng như ở trong tâm-hồn bay ra. Nàng nói xong rưng rưng nước mắt rồi đứng dậy, quay đi.

Anh Tư thấy nàng giận vội nghển mình lên quơ tay lôi nàng lại. Lôi thế nào mạnh quá nàng ngã ngồi ngay vào lòng anh. Mi-Hây cũng chẳng lấy thế làm giận mà nàng cũng chẳng đứng dậy nữa, nàng tấm-tức bảo:

– Anh đã không tin tôi, thì anh giữ tôi lại làm gì?

– Tôi xin thề với cô là trong lúc này tôi không quý ai hon cô cả. Không phải là tôi không tin cô đâu. Chỉ vì đứng vào cái địa-vị tôi bây giờ chưa thể nói ra được. Nhưng tôi xin hứa với cô rằng đến khi nào tôi xét tôi có thể nói được, tôi sẽ nói với cô đầu tiên, thế cô đã hết giận tôi chưa?

Mi-Hây chỉ cúi đầu lấy tay mân-mê cái đệm mà không giả nhời.

– Cô còn giận tôi à?

– Tôi không bao giờ giận anh cả, anh nói hay không là quyền ở nơi anh. Anh dù có xử với tôi thế nào tôi cũng chỉ nhớ rằng anh đã liều mình để cứu một nhà tôi. Dù sao tôi cũng không quên anh.

Nàng nói xong, vùng dậy chạy mất. Cái tiếng “quên” ấy nó có một cái ý nghĩa yêu mến hình như nàng muốn đem giao-phó cái đời nàng cho anh Tư bằng tiếng “quên” ấy. 

Từ đấy hai người đối với nhau đã thân lại càng thêm thân. Trong cõi mộng tưởng, hai lòng đã như một, hai khối óc đã hiểu nhau, hai con tim đã hồi hộp vì nhau nhưng bề ngoài hai người vẫn đều chưa thú với nhau những nỗi niềm chan chứa ở trong lòng.

Từ cõi “mộng” ra chỗ thực-tế chỉ có một bước,còn một bước, một bước rất ngắn. Chờ một cơ-hội, một ngọn gió là ngọn lửa lòng kia sẽ bùng ra mà không còn một cái lực-lượng nào có thể ngăn cản được.

*

Trong lúc ngọn lửa ái-tình đang ngầm ngấm nung nấu ở trong tâm-hồn hai người mà chính hai người cũng chưa tự biết thì bỗng nhận được một bức thư của người em họ Mi-Hây ở Bắc-liêu hẹn đến cuối tháng thì lên chơi.

Hôm ấy, anh Tư đã được thấy một cô thiếu-nữ rất mỹ-miều của xứ Nam.Trong bộ quần áo bombay trắng toát, rõ ràng là một cô con gái thật “ thanh tơ nhỏ chỉ ” (nếu có thể đem bốn chữ kia mà mô tả cái vẻ đẹp của người đàn-bà). Cô người, mảnh dẻ, trông có vẻ ẻo-lả. Nước da trắng xanh rất mịn, mịn đến nỗi ta tưởng chừng như ở trên đời này không còn thứ gì mịn hơn. Hai con mắt đen nháy trông có vẻ lờ đờ, chậm chạp, mỏi mệt. Khổ người thon, chân tay nhỏ nhắn, toàn thể các bộ phận cái gì cũng “ mỏng manh ”. Người xưa đem câu xương mai mình liễu mà ví người đàn-bà có cái đẹp “mỏng manh ” ấy thật đã có con mắt quan sát. Cái đẹp của cô là một cái đẹp thanh tao, mơ màng.

Cái đẹp của Mi-Hây thì lại trái hẳn. Rõ ràng là sức khỏe tươi cười biến ra sắc đẹp ở trong một cô thiếu-nữ đã được hấp-thụ cái khí trời trong trẻo ở một nơi khoáng-đảng, lúc nào cũng lẹ-làng như ngọn gió Biển-Hồ khi buổi sớm mai. Hai cái má phúng-phính hồng-hào trông thật là dễ yêu. Cô đi đứng trông có vẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn. Phải chăng cái quan-niệm về thể-thao đã khiến cho thiếu-niên bây giờ đem lòng yêu  những cái đẹp mạnh mẽ như thế. Người ta thường nói: những người lai bao giờ cũng đem biểu lộ cái hiện-tượng của hai chủng-loại pha nhau lên trên nét mặt. Câu nói ấy cũng có lẽ đúng. Con mắt một mí kia rõ là cái tiêu-biểu riêng của người  Khách mà trong cái miệng cười niềm nở kia thì không thể nói rằng không phải là của người đàn-bà xứ Nam đem lại được. Cái đẹp của Mi-Hây là một cái đẹp thùy-mị phúc-hậu.

Anh Tư đứng nhìn hai cô đùa giỡn với nhau ở dưới cây lồng-mứt mà anh phải tự hỏi: “ Sao lại có những người đẹp đến thế? ”

Rồi anh ôn lại cuộc đời dĩ-vãng của anh, anh cũng phải nhận rằng anh chưa được nhìn thấy những người đẹp như thế. Anh còn đang đắm đuối trong mớ ký-ức thì bỗng nghe tiếng Mi-Hây gọi anh.

– Đây cô Thu là con dì Ba, em má tôi đó… đây anh Tư người hôm nọ đã cứu…

– Thì đã bảo cô đừng nhắc lại chuyện ấy, đó là cái bổn phận của tôi.

– Không, đây là người nhà cả.

Anh Tư muốn đánh trống lảng quay sang Thu hỏi:

– Thưa cô, cô mới ở đâu lên?

– Tôi ở Bắc-liêu lên. Ba, má tôi đi Saigon có biểu tôi cùng đi nhưng tôi về Saigon luôn cũng ngán quá, tôi mới xin phép lên đây chơi với chị Hây tôi.

-Thế thưa cô, hai cụ ở dưới ấy làm gì và cô có mấy anh em chị em.

– Ba má tôi khẩn đồn điền. Ba má tôi chỉ có một mình tôi cũng như dì dượng tôi đây chỉ có một mình chị Hây tôi.

Anh Tư cười nói:

– Thế chắc hai cụ phải cưng cô lắm nhỉ? Cô năm nay bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng mười bảy tuổi như chị Hây tôi.

Hai người cùng mười bẩy cái xuân xanh mơn-mởn, lộng-lẫy, cùng là con một của một gia-đình giầu có, danh giá, cùng một cái tuổi ngây thơ mà trái tim chưa bợn một chút tục-lụy, cùng một cái tuổi nếu đã yêu thì yêu tuyệt-đối chẳng toan tính gì về danh-lợi, về hậu-vận.

Anh Tư đứng nhìn hai chị em cô trò chuyện với nhau thân-mật vui-vẻ mà anh lại sực nghĩ đến trước kia anh cũng là đứa con cưng của một gia-đình danh giá mà ngày nay thì anh có gia-đình anh cũng không dám nhìn nhận đến nữa… Một tiếng thở dài…

– Sao anh thở dài? Em Thu ạ, không biết làm sao anh Tư anh ấy cứ buồn luôn.

– Có lẽ anh ấy nhớ nhà. Anh có nhớ nhà không?

– Thưa cô, con chim kia ngày đi kiếm ăn, đêm còn tìm đường về tổ, làm người há lại không có tấm lòng cố-quốc tha-hương sao? Nhưng đứng vào cái cảnh tôi….

Mi-Hây vội nói:

– Cảnh anh thì làm sao? Anh nhớ nhà thì tôi bảo ba má tôi cho anh vay tiền về thăm nhà, rồi anh lại sang chứ sao mà phải buồn.

Nghe đến chữ “về”, anh Tư sầm mặt lại. Mi-Hây thấy thế, muốn kiếm cách giải buồn cho anh bèn bảo:

– Anh Tư ơi, em Thu tôi chưa được đi xem bắn bao giờ, anh đưa chúng tôi đi nhé…

*

– Chị Hây ơi, con chi mà đen lùi lũi như con quạ vậy?

– Thì con quạ nước …

– Kìa, anh Tư sao không bắn đi?

– Có ăn thịt được đâu mà bắn.

– Thì anh cứ bắn cho tôi một con, tôi xem con quạ nước nó thế nào?

Đoàng. Tiếng súng nổ. Con quạ nước đang vũ cánh bay bỗng rơi xuống mặt nước. Thu mừng quá, nhổm dậy reo lên làm cho chềnh cả xuồng.

– Ấy chết, cô giỡn mạnh thế nhỡ lật thuyền thì khốn.

– Trời ơi, tôi ở trên mặt nước mà tôi cứ tưởng là ở trên mặt đất.

Ba người cùng cầm chèo bơi mau, phút chốc đã đến chỗ con quạ ngã.

– Chà chà, bắn bể cả đầu, máu ra coi ghê quá, tội nghiệp chưa!

Rồi nàng vỗ vai anh Tư mà bảo:

– Anh ác quá.

Mi-Hây liền cãi:

– Tại em bảo anh ấy bắn thì anh ấy bắn chứ có phải tại anh ấy ác đâu.

Nghĩ ngợi, cô Thu bảo chị:

– Thôi, đừng đi bắn nữa chị ạ, em trông nó giẫy dụa em thương quá.

– Thế là cuộc đi săn lại đổi ra một cuộc đi chơi phiếm ở trên mặt Biển-Hồ.

Không có một tí gió. Bầu trời, mặt nước như đứng im. Duy mấy con thuyền đánh cá ở đằng xa lừ lừ bơi.

Vụ đó là vụ mưa. Các miền lân cận đều bị ngập, nhà cửa cây cối như mọc ở trên làn nước.

Thu xưa nay ở nơi thành-thị ít được thấy những cảnh thiên-nhiên, nay bỗng được mục-kích cái cảnh mông-lung phiêu-diêu của trời đất, rất lấy làm vui vẻ. Gặp cái gì cũng hỏi. Nhất nhất anh Tư đều vui vẻ giả nhời. Anh thấy cách cư xử của hai người đối với mình rất là tin yêu, thân mật mà anh tưởng chừng như anh là một người anh giai đưa hai em gái yêu quý đi chơi vậy. Trong lòng anh thấy nhẹ nhàng khoan khoái.

Về phần Mi-Hây thì nàng rất lấy làm khó chịu. Nàng thấy anh đem những cái nhìn đầm ấm nhìn nàng xưa nay, đem những câu nói rất ngọt ngào thường nói với nàng, đi san sẻ cho kẻ khác mà lòng nàng bồn chồn tức tối, dù người ấy là em nàng. Nàng không hiểu tại làm sao nàng lại có những cái cảm giác ấy. Cũng như lúc nẫy nàng đã không hiểu làm sao nàng lại sốt-sắng bênh vực cho anh Tư như thế.

Có lẽ tại nàng yêu rồi sinh ra ghen, hai cái cảm-giác ấy thường đi đôi với nhau. Nhưng nàng đã thật yêu anh Tư chưa? Chính nàng cũng chưa tự biết rằng nàng đã yêu anh Tư. Nàng chỉ muốn cho anh Tư là một vật “ hoàn-toàn ” là của nàng, nàng không hiểu tại làm sao nàng thấy anh Tư buồn, nàng cũng buồn, anh Tư vui, nàng cũng vui. Mà thứ nhất có người nào chê bai anh Tư thì nàng không chịu được. Nàng muốn cho anh Tư sung-sướng, được người ta quý trọng. Nàng muốn cho anh không phải thiếu thốn một thứ gì. Nàng đã hết sức làm cho anh Tư không phải đeo cái đời nhục nhằn vất vả của người bạn biển mà hai thân nàng vì cảm cái ơn anh Tư nên cũng đồng ý với nàng mà coi anh như một người họ hàng chứ không coi như là một kẻ đầy tớ nữa. Một điều mà hai thân nàng phải lấy làm lạ là sau khi anh Tư khỏi vết thương ở đùi, hai cụ ngỏ ý muốn đền ơn cho anh mấy trăm bạc, anh nhất định từ chối nói rằng anh chẳng cần dùng gì đến tiền.

“Không cần dùng đến tiền thì đem thân làm kẻ bạn biển chen vai thích cánh với một đoàn nô-lệ làm gì? ”– Một điều mà hai cụ đã tự hỏi bao nhiêu lần mà vẫn chưa tìm ra nguyên ủy.  Duy Mi-Hây là biết nhưng cũng biết một cách hồ đồ rằng trong đời anh có việc bí-mật nó bắt anh phải giấu mặt mà thôi.

Trong mười ngày Thu ở đây thật đã khiến cho Mi-Hây phải đau đớn ngấm ngầm mà không thể nói ra được. Biết nói làm sao? Những sự đau đớn ngấm ngầm ấy nó chỉ chờ một cơ-hội là phát lộ ra ngoài để bảo cho nàng biết nàng đã yêu anh Tư một cách đặc-biệt mà rồi thì ngục hình, dư-luận, tập-quán, chủng-loại cái gì cũng không đủ mãnh-lực để ngăn cản không cho nàng yêu anh Tư được.

Một cái giây thép của dì dượng nàng ở Bắc-liêu gửi lên gọi em Thu nàng về khiến cho nàng vui sướng bội phần. Nàng thấy nàng vui sướng mà nàng lại tự trách sao nàng lại đối với em nàng một cách tàn tệ như thế.

Hugo tiên-sinh có nói: “… Si on est homme, soyez amour (nếu là người, nên có tình)”.

Nên có tình, nên yêu. Nếu ta đem hỏi Mi-Hây câu ấy thì nàng sẽ chẳng biết giả nhời ra làm sao nhưng cách thức nàng đối với anh Tư, cùng là những cảm-giác nó sôi nổi ở trong lòng nàng lúc bấy giờ cũng đủ giả nhời cho ta biết là nên vậy. Thế cho nên khi ta thấy em nàng về mà nàng lại vui vẻ ta cũng chẳng nên trách. Nàng chỉ là vâng theo cái tiếng gọi của trái tim nàng mà thôi.

*

– Anh Tư, tiện thể cháu Thu về, anh mần ơn ra Nam-Vang đến nhà Tao-Kê Teck lấy hộ mấy nghìn bạc đưa cho cháu Thu để cháu đem về Bắc-liêu nhờ ba má cháu mua dùm cho một cái xà-lúc thay vào chiếc Huỳnh-Lợi mà ông nhà tôi nhận lời bán lại cho người ta rồi. Ông nhà tôi mấy bữa rày, trong người yếu lắm đi không đặng.

Anh Tư nghe nói tái mặt, nhưng anh không viện lẽ gì chánh đáng mà từ chối được nên phải miễn-cưỡng vâng lời. Mi-Hây cũng rất lấy làm khổ sở, khổ sở vì anh Tư cùng đi một chuyến tầu với em Thu của nàng, nhưng nàng chỉ tấm-tức mà không dám nói ra.

Con tàu Vĩnh-phát của Công-ty Bảo-hòa chạy đường Battambang–Saigon có đỗ lại Bacpréa.

Năm giờ chiều, tầu đến bến.

Sau mấy câu chào, mấy lời dặn, anh Tư cùng Thu bước lên tàu. Mi-Hây nhìn theo mà lòng nàng sôi nổi, tâm-hồn nàng như đã cùng theo hai người mà bay lên trên tàu.

– Tôi thuê cái ghế bố này để tối nay cô nằm, chiều mai tàu mới đến Dũng-Sà-Nang (Kompong Chhnang),

– Thế anh nằm đâu?

– Tôi nằm đâu cũng được.

– Không, anh phải thuê một cái ghế nữa thì tôi mới bằng lòng nằm cái ghế này.

– Bọn bồi tàu họ cho thuê hết cả rồi, thôi để tôi thuê cái chiếu tôi nằm cũng được.

– Thôi thế thì anh nằm cái ghế này để tôi nằm chiếu cho.

– Nằm chiếu thì kẻ qua người lại bụi tung lên bẩn thỉu lắm.

– Sao anh đã biết bẩn thế mà anh lại còn nhận nằm chiếu để nhường ghế cho tôi.

– Cô khác, tôi khác. Cô là một người đài các phong lưu thì phải có giường cao chiếu sạch, còn một kẻ bạn biển như tôi thì đâu cũng là…

– Sao anh lại nói thế, người ta có quý là quý ở cái bản-lĩnh mình, chứ quý đâu ở tiền bạc, nhà cửa. Nó là bộ áo khoác ngoài đó thôi.

– Ở đời này có bộ áo khoác ngoài là đủ. Đây cô xem thường tình những người sang trọng chẳng là những người được thiên hạ quý mến mà kẻ nghèo hèn chẳng là bị khinh bỉ đó sao?

– Những kẻ chỉ xét người ở cái bề ngoài như thế thì ta cần chi mà nói chuyện đến họ.

Anh Tư nghe cô nói mà anh phải kính-phục, không ngờ một cô con gái ngây thơ đã có một tấm lòng cao thượng như thế.

Trên dòng sông khúc khuỷu con tàu rẽ nước mà đi, đàn muỗi cứ vo vo theo tàu mà làm cho hành khách không sao dừng tay được. Muỗi, nhũng muỗi là muỗi, con nào con nấy to gần bằng con ruồi. Xứ Bac Préa có lẽ đã sản ra được một thứ muỗi to nhất Đông-Pháp. Người ta ai đã đi qua xứ này đều phải nhớ đàn muỗi kia lắm. Muỗi Bac Préa đã thành tên. Ai nói đến “ muỗi Bắc rè” cũng phải khủng khiếp như nói đến “nước Bo ( Paillin) ” vậy.

Tàu đi qua một khu rừng cây rậm rạp.

– Anh Tư, những con chi mà coi như cá sấu kìa?

– Đó là con ằnsoong [4] tôi chẳng biết người Nam mình gọi là gì? Cá sấu thì to hơn nhiều!

– Thế còn cái chi treo lủng lẳng ở trên cành cây kia.

– Cô không biết sao, đó là thây người chết.

– Trời ơi! thây ma sao người ta không đem chôn lại treo lên thế.

– Vùng này về vụ mưa, nước ngập cả, không có đất mà chôn, người ta phải treo lên như thế. Được ít lâu, cái thây ma sình lên, chảy nước ra, con ằnsoong nó đến há mồm ra hứng những giọt nước kia rỏ xuống.

– Trời ơi, gớm ghiếc quá! Thế sao còn có người dám đến xứ này nhỉ.

– Xứ này tuy thế nhưng cá nhiều, kiếm ăn dễ lắm, làm chi người ta không đến đông. Cô tính những cảnh tượng ấy đã ghê gớm gì. Loài người vì sinh kế chém giết nhau còn chẳng kinh tay thì họ có quan-tâm gì đến những cái nhỏ vặt ấy.

– Anh nói tôi khiếp cả người. Loài người lại tệ đến thế cơ à?

– Cô được cái diễm-phúc sinh vào một gia-đình phong-phú, mỗi một cái ý muốn là một cái lệnh, cô không bao giờ phải thiếu thốn, cô không phải ra giành giật với đời nên cô không biết, giống ănsoong kia nó chỉ ăn cái thây người đã chết mà thôi, chứ loài người thì họ lại “ăn thịt” những người sống hẳn hoi kia đấy. Tôi rất cầu mong cho cô không bao giờ phải mục-kích những cảnh thương tâm đó.

– Nghe anh nói thì hình như anh đã nếm trải nhiều sự đau đớn lắm rồi có phải không? Thảo nào tôi nghe chị Hây tôi nói anh cứ hay buồn.

Anh Tư không giả nhời, Thu vừa muốn hỏi nữa thì hai tiếng: cá nượt – kêu ở đằng đầu tàu làm cho những hành khách ngồi gần đấy chạy sồ cả xuống. Thu cũng chạy xuống xem nhưng chẳng thấy gì.

– Cá nượt là gì, hở anh Tư?

– Cá nượt là một thứ cá gần giống như người ta. Đầu đen không có tóc, thân thể trắng trẻo như một người đàn bà nhưng không có chân mà có đuôi, còn hai cánh tay thì ngắn. Trong những lúc đêm giăng người ta thấy nó đùa giỡn ở ven bãi cát tưởng chừng như trông thấy những người đàn-bà khỏa thân xuống tắm.

– Lạ nhỉ, tiếc quá tôi không trông thấy.

– Ít khi thấy lắm, chính tôi ở đây mấy tháng giời cũng chẳng trông thấy bao giờ. Tôi nghe bọn khnhom đàn-bà ở nhà Tao-Kê Lau-Mạnh cứ rủa nhau là “cá nượt”, hỏi thì họ nói thế cho tôi nghe.

Chín giờ đêm, con tàu Vĩnh-phát đã ra khỏi cửa sông, giong ruổi trên mặt Biển-Hồ mà về phía nam.

*

Mười hai giờ, trong khi mọi người đang yên nghỉ thì bỗng nghe đánh ầm một tiếng, tàu chềnh hẳn đi.

Quang cảnh trên tàu thật là một cái quang cảnh huyên náo, sợ hãi, ríu rít, cha gọi con, vợ gọi chồng, tiếng khóc than hòa lẫn với tiếng kêu gào không bút nào tả cho xiết.

– Cô đứng yên đây, tôi chạy xuống xem cái gì rồi tôi lên ngay lập tức.

Sau một phút khắc khoải, run sợ, bồn chồn, Thu đã thấy anh Tư chạy lên.

– Cô ơi, nguy mất rồi, tàu va phải cái bè gỗ, đã vỡ mũi, nước đổ vào trong tàu nhiều lắm, không sao hàn được nữa.

– Anh Tư ơi, thế thì làm thế nào, ối má ơi!

– Cô đừng sợ, đừng khóc, cô cứ yên tâm, tôi mà còn sống thì không khi nào…

– Anh có biết bơi không?

– Có.

Anh Tư vừa nói dứt thì một lũ người áng chừng không biết bơi đương nhớn nhác chung quanh đấy đổ xô lại bíu lấy anh mà miệng thì năn nỉ:

– Chú cứu tôi với.

Họ bíu lấy anh như một cái hi-vọng cuối cùng. Họ bíu chặt lăm, anh Tư càng giẫy dụa bao nhiêu thì họ lại càng bíu chặt bấy nhiêu. Anh Tư biết nếu anh không gỡ mau ra được thì lát nữa tàu chìm bọn kia cứ níu chặt lấy anh, anh sẽ không bơi được, anh sẽ phải cùng chết với bọn người kia mà chẳng ích gì cho họ.

– Anh Tư ơi, lại đây với em, kìa các người này sao lại bíu lấy anh Tư tôi thế.

Trong lúc bình thường, ai nghe cái tiếng dịu dàng cầu khẩn kia cũng phải cảm động, nhưng cái phút nầy không phải là cái phút của tình-cảm, cái phút này là cái phút của bản-năng chiến đấu với cái chết, chống chọi với cái chết. Có lẽ đến những lúc này bản-tính của loài người mới biểu-lộ ra hết. Trong cái phút này ai cũng chỉ cầu sống, muốn sống mà chẳng nghĩ đến sự sống của kẻ khác.

– Anh Tư ơi, mau lên, tàu chìm đến nơi rồi.

Anh Tư biết nếu chậm trễ thì anh sẽ phải chết, Thu cũng phải chết mà bọn người kia cũng phải chết. Anh biết anh không thể không tàn nhẫn được, anh bèn dùng hết sức mạnh vùng một cái rồi chân đá tay đấm luôn một hồi, mấy người ngã. Anh liền nhẩy choàng ra, bế xốc lấy Thu rồi ù té chạy. Bọn người đuổi theo…

Cái cảnh tàu đắm đã là não-nùng ai-oán, nhưng cái quang cảnh bọn người kia đuổi nhau để cầu sống mới lại càng não-nùng ai-oán hơn. Anh Tư ôm Thu cố chạy… Bọn người cố đuổi…Thấy cánh cửa ở buồng người cầm lái mở, anh vội chạy vào rồi mau tay đóng sập lại, bọn người thấy cái hy vọng cuối cùng của họ biến đi, họ kêu gào rất thảm thiết, họ đấm cửa ầm ầm…

– Cô đứng đấy, chờ tôi!

Anh Tư chỉ nói có thế. Rồi nhanh như chớp anh chạy ra phía cửa đằng kia leo lên nóc tàu vì lúc tàu đỗ bến Bạc Préa anh đã nhận thấy một dẫy phao đè ở trên ấy..

Hai người nhẩy tùm xuống nước …

Gió thổi… Tiếng người kêu khóc, tiếng còi cấp cứu, tiếng sóng vỗ… Rồi chỉ còn tiếng sóng vỗ cùng gió thổi. Làn nước biếc mở ra rồi khép lại. Cái lòng Biển-Hồ man mác kia đã cuốn hút bao nhiêu vật rồi.

*

Dưới vòm trời tối om như mực, trên làn nước đen sì, anh Tư và Thu bám chặt lấy chiếc phao mà bơi. Con sóng vô tình cứ nhô lên tụt xuống

Sự chuyển-vần của vũ-trụ thì vô hạn, sức con người chỉ có chừng.

– Anh Tư ơi, tôi mệt lắm rồi, không bơi được nữa đâu.

– Có phải cô mệt thì cô cứ ôm chặt lấy chiếc phao đừng bơi nữa, để một mình tôi.

– Bây giờ ta bơi về đâu, có gần bờ không hở anh?

– Giời tối như thế này, tôi cũng không biết xa hay gần, ở phương nào, nhưng dễ thường ở phía này.

– Anh có chắc không, chứ suốt đêm ở trên mặt nước thế này thì tôi chịu làm sao nổi.

– Không thế thì biết làm thế nào. Ta cứ bơi cầm chừng nếu không đến bờ được thì sáng thế nào cũng có thuyền đánh cá đến cứu chúng ta.

– Chờ đến sáng thì tôi chết mất, tôi không còn sức đâu, tôi đến chết ở đây thôi.

– Cô đừng nói thế. Cô mà chết thì tôi cùng chẳng sống làm gì. Tôi biết về nói với vợ chồng Tao-Kê Lau-Mạnh làm sao? Cô nên nghĩ đến sự đau đớn của ba má cô khi được tin cô chết, cô nên cố lên đừng thất vọng. Con người ta phải có can đảm chiến đấu cho đến phút cuối cùng. Tôi chắc chúng ta cũng không xa bờ mấy vì tàu mới bắt đầu chạy ra Biển-Hồ độ hai ba giờ mà thôi.

Gió thôi, sóng vỗ hai người cứ bập bềnh trên làn nước. Một lúc lâu, Thu lại hỏi anh Tư:

– Sắp đến bờ chưa hở anh?

– Tối thế này tôi có trông thấy gì đâu.

– Anh Tư ơi, tôi mệt lắm, tôi đuối tay rồi.

– Cô nên cố, cô nên nghĩ đến ba má cô.

– Ba ơi, má ơi, con không được thấy mặt ba má nữa đâu.

– Cô nín đi khóc làm gì vô ích. Khóc thế âu bằng để cái sức ấy giữ gìn lấy thân thể cho hai cụ được thấy mặt. Hai cụ chỉ có một mình cô, cô có mệnh hệ nào thì hai cụ sống làm sao được?

Lời nói của anh Tư làm cho Thu phấn khởi. Nàng lại bơi.

– Thôi cô mệt lắm rồi đừng bơi nữa, cứ bám chặt lấy chiếc phao, mặc tôi.

– Anh Tư ơi, cái ơn cao dầy của anh em lấy gì mà trả được.

– Ơn mấy huệ gì, ta hẳng cố làm sao cho sống đã. Chết chìm ở đây thì Hà Bá lấy hết cả ơn lẫn huệ, còn đâu đến phần tôi.

Thu đương mệt lả cũng phải bật cười.

Đất! chân đụng vào đất, Thu mừng rú lên. Anh Tư chẳng nói gì.

Trong một đời người dễ mấy lần có những cái mừng như thế.

Đất! lúc ấy là sự sống rồi. Được khỏi chết, ai mà không mừng. Thế mà anh Tư cứ điềm nhiên, coi sự sống chết như chẳng có gì là đáng quan tâm. Khi biết chắc là đã đến đất, chắc là thoát chết, Thu sực nghĩ đến cái người đã cứu mình, cái người đã dành cho mình sự sung sướng lúc này, nàng vội chạy lại ôm chầm lấy anh Tư mà bảo:

– Chúng ta khỏi chết rồi, đất rồi.

– Đất rồi thì ta đi lên, ta về nhà chứ sao?

Thế rồi anh sẽ nắm áo Thu mà bảo:

– Cô phải cởi quần áo ra vắt nước đi không nhỡ cảm thì khốn.

Thu phải kính phục trước cái cử-chỉ điềm-tĩnh ấy. Gặp gian nguy không chút bối-rối, sợ hãi, than vãn, được sống sót không một chút mừng lộ ra ngoài, vừa bước chân ra khỏi cửa ông Thần Chết đã nghĩ đến việc sau này ngay, con người ấy phải là một con người sắt, đã từng bao phen chạm trán với cái chết nên ngày nay nó không còn ý nghĩa gì nữa. Đời là một cuộc chiến đấu, cái khí-phách của kẻ làm trai là phải chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng chẳng nao lòng về thành bại.

– Anh Tư, anh Tư, anh đi đâu, anh làm gì đấy?

– Tôi ở đây mà, cô không cởi quần áo ra vắt cho ráo nước đi. Bây giờ mới gần sáng thôi, ta còn phải ngồi ở đây chờ sáng, chứ đêm tối thế này biết đi đâu.

Thu người đã mệt lử, cố gượng cởi quần áo ra vắt, xa xa nghe tiếng cành cây kêu răng rắc.

– Anh Tư làm gì ở đấy lâu thế?

– Tôi bẻ ít cành lá cho cô nằm. Chỗ này tôi chắc là chưa đến đất liền đâu, có lẽ chỉ là một cái cù-lao giữa Biển-Hồ thôi. Mai, chúng mình còn phải ở đây lâu, đợi thuyền.

– Chưa đến đất liền ư anh?

– Đất liền đâu đến chóng thế được, chung quanh Biển-Hồ mùa này ngập nước cả. Thôi cô lại đây mà nằm.

Thu lại, trần truồng lại, nắm quần áo ướt còn cầm ở tay. Nhưng lúc ấy chẳng phải là lúc nghĩ đến những điều thẹn-thò nhỏ nhặt. Phải vào cái cảnh ngộ như Thu mới biết ở đời có lúc ta không còn thì giờ nghĩ đến những sự ấy.

– Trời ơi, quần áo cô vắt còn đầy những nước.

– Anh vắt dùm tôi, tôi mệt, yếu tay quá. Thế anh nằm đâu?

– Được cô mệt cứ nằm đi, mặc tôi. Tôi phải thức chứ, đêm tối, nhỡ ra thì khốn.

– Ở đây còn có cái gì mà sợ.

– Con người ta lúc nào cũng phải phòng sự bất trắc, thứ nhất là cho cô.

Thu đối với anh Tư đã đeo một cái ân nặng, và cái bản-lĩnh của anh đã khiến cho phải kính phục, nay lại thấy những cách đối xử tử-tế thế, tài nào nàng chẳng cảm động, nàng vội ôm chầm lấy anh mà hảo:

– Anh Tư ơi, em sống đến ngày nay là nhờ anh. Em sống thì là vợ anh…

– Cô chỉ nói dại, cô quên rằng tôi là một tên bạn biển rồi sao? Cô ngồi xuống đây cho đỡ mệt.

– Em không quên đâu, em vẫn bảo với anh con người ta quý là ở cái bản-lĩnh của mình, chứ có phải là ở những cái bề ngoài đó đâu. Nếu anh mà không bằng lòng như thế thì xin anh để cho em chết ở đây.

– Bằng lòng thế nào, cô cứ nói lôi thôi mãi, ngồi xuống cho đỡ mệt, đàn muỗi nó kéo đến đây này. Để tôi lấy cành lá xua cho cô ngủ.

– Thôi thế thì em không sống làm gì. Sống mà xa anh thì thà rằng chết.

Thu vùng chạy đi. Anh Tư nắm lại không kịp anh chạy theo… Đêm tối biết Thu chạy đằng nào?

– Em Thu, lại anh bảo đã.

Không giả nhời.

– Em lại đây không nhỡ gặp hùm beo, cá sấu thì khốn.

Anh Tư la to lên như thế để Thu sợ phải chạy lại, nhưng cũng không thấy giả nhời. Anh Tư sợ hãi hét lên:

– Em Thu, em Thu.

Giọng thiết tha đầy những lời hứa nồng nàn.

Vẫn im lặng. Anh Tư đi lang thang, lắng tai nghe.

Tiếng khóc tấm-tức ở đằng mé Biển-Hồ. Anh Tư vội rảo bước đến.

Lúc ấy đã gần rạng đông, trông đã hơi rõ. Anh thấy Thu ôm đầu khóc ở dưới gốc cây, gần mặt nước.

– Sao em Thu lại thế.

Thu không giả nhời chỉ khóc.

– Em nín đi để anh nói cho em nghe. Anh là một kẻ tội tù ở xứ Bắc trốn vào đây, anh không thể đem cái đời khốn khổ của anh mà làm hại một đời an nhàn sung sướng của em được. Biết đâu chốc nữa người sen đầm vẫn rình mò tìm kiếm anh kia chẳng lại xích tay mà đưa đi, em nên biết…

– Em chẳng biết gì hết. Em chỉ biết anh không thương đến em thì em không muốn sống nữa. Anh ơi, sống mà không được gần anh thì sống làm chi cho thêm khổ.

Nàng lại khóc to lên anh Tư lại gần nắm tay bảo:

– Em phải biết em không thể làm vợ một tên tù trốn được?

– Tội tù mặc, em sẽ đem tiền bạc của em mà vận động cho anh được khỏi tội, mà dù có chẳng được đi chăng nữa, em cũng rất lấy làm vinh hạnh được làm vợ một kẻ tù tội như anh. Dù anh có mắc tội giết người phải chết chém đi chăng nữa, em cũng lấy làm sung-sướng được làm vợ một kẻ tử tù như anh.

Rồi nàng lấy tay khẽ vuốt ve anh Tư.

Trước cách cử-chỉ chung tình ấy, anh Tư thấy lòng mình hồi- hộp cảm-động anh liền bế Thu vào lòng mà bảo:

– Anh không ngờ trong bước đường đời khốn đốn, anh lại gặp được một người có tấm lòng quý hóa như em. Cái thân anh ngày nay từ họ hàng cho chí bè bạn ai cũng lẩn trốn, không dám dàn mặt, sợ lụy đến mình. Họ coi anh ghê sợ hơn kẻ cùi hủi, thế mà em chẳng quản gì, em chỉ biết yêu anh, một lòng yêu anh mà chẳng nghĩ gì hậu vận, chẳng sợ làm vợ một đứa tù tội. Anh còn sống ngày nào, anh xin nhớ.

*

Cái tin tàu Vĩnh-phát bị đắm ở giữa Biển-Hồ làm cho Mi-Hây chết ngất đi.

Cái tin anh Tư được thoát nạn làm cho nàng sống lại.

Trong hai ngày trời, Mi-Hây đã được biết hai cái thái cực của tình-cảm: cực đau đớn, cực vui sướng.

Nghe tin anh Tư bị nạn, nàng mới biết cái chết của anh là cái chết của nàng.

Được tin anh Tư thoát nạn, nàng mới hiểu cái sống của anh là cái sống của nàng.

Kẻ kia mà chết đi, thì nàng phải chết, thương mà chết, buồn mà chết.

Lắm kẻ trách đàn bà yêu giai mà chẳng nghĩ gì đến cha mẹ đến danh-dự. Phải, họ quên là phải, đến cái thân họ kia, họ còn chẳng tiếc, họ tiếc gì đến ai. Cái danh-dự của kẻ tình chung chỉ là làm một kẻ tình chung không hai lòng. Họ sống về sự yêu thương của người yêu, nay cái nguồn yêu thương kia đã chết, cái lẽ sống của họ vì đó mà chết theo, thế mà ta cố bắt họ phải sống thì có khác chi quân hung-đồ tàn-bạo kia đem kẻ thù, xẻo mũi, cắt tai, chặt chân, chặt tay mà không giết. Sống như thế là một cái sống đau-đớn, ai-oán kinh-khủng gấp mười cái chết.

Nước Mỹ có văn minh là ở chỗ tìm kiếm những cách làm cho kẻ tử tù được chết một cách không đau đớn.

Người ta đã viện ra bao nhiêu lẽ bắt những kẻ thất vọng vì tình phải sống. Khéo khéo đem xây lâu đài trên vũng bùn, căn cứ vào đâu?

Sống mà thấy trái tim mình đã dập nát cứ dần dần khô cạn đi, héo hắt đi, ôi cái hình ảnh mới ghê gớm! Đó là cái hình ảnh ghê gớm của một cái chết chậm chạp, ai-oán, não-nùng của một kẻ khốn khổ đã bị kẻ thù đem khoét mũi, xẻo tai, chặt chân tay lại còn đem tẩm bổ thuốc thang cho.

Sống thêm một ngày nào là kéo dài cái chết ghê gớm kia ra một ngày ấy.

Mi-Hây đang ngắc-ngoải thì cái giây thép ở Dũng-Sa-Năng đánh về làm cho nàng sống lại. Nàng rú lên một tiếng mừng cũng như Thu lúc được thấy đất.

Con tàu Paul Blanchet mới áp mạn, bọn thủy thủ vừa mới bắc cầu xong thì đã thấy một cô con gái xinh tươi, mặc áo cà-puong [5] du bọn họ ra mà sấn xuống.

– Anh Tư!

– Em Hây!

Mi-Hây chạy lại ôm chầm lấy anh Tư, gục đầu vào vai anh, khóc nức nở chẳng nói một tiếng gì. Lúc ấy nàng đã quên hết, quên rằng em Thu nàng đứng đó, quên rằng bọn hành khách đang xúm-xít nhìn nàng, nàng chỉ biết người yêu của nàng đã sống sót về đây. Nàng chẳng trông thấy chi hết, nàng chỉ thấy anh Tư yêu quý của nàng mà thôi.

Khi cái ái-tình tuyệt-đối của một cô gái ngây thơ nó đã phát-lộ ra thì không còn có một cái trợ-lực nào ngăn cản nổi. Cái sức mạnh của nó là chỗ không toan tính. Giầu nghèo, sang hèn, xấu đẹp, tập quán, dư luận, quá khứ, tương lai, mọi cái đều không có giá-trị gì nữa. Yêu là tất cả.

*

Người ta có thể san sẻ một khối tình được không? Ái-tình có thể bắt ta hy-sinh, chứ không bao giờ dung thứ sự san sẻ. Nếu vì cái hạnh phúc của người yêu, ta có thể hy-sinh tính-mệnh, tài-sản, danh-dự cho đến khối tình ta được, nhưng đứng nhìn người yêu đem tấm lòng âu yếm ta đi âu yếm một kẻ khác thì là một điều trên cái sức mạnh của ta.

Anh Tư đứng vào cái địa vị rất khốn khổ là thấy hai người yêu anh đau đớn vì minh mà tự mình không còn cách gì chữa những vết thương kia được.

Hai người cũng đem một tấm lòng trong sạch yêu anh, dẫu cảnh-ngộ, trường-hợp có khác, nhưng hai ngọn lửa lòng kia đều đã bốc lên cõi tuyệt-đích của ái-tình. Xưa nay anh đã trải bao nhiêu nỗi gian nan mà lòng anh chẳng hề nao núng, ngày nay anh thấy anh phải mềm lòng trước sự đau thương của hai trái tim ngây thơ kia.

Cái phút đau đớn nhất trong đời anh có lẽ là cái phút não-nùng mà Mi-Hây biết anh đã đính-ước cùng Thu vậy. Anh thấy nàng ngất đi mà anh tưởng chừng như trái tim anh đã vỡ ra. Anh trông thấy Thu khóc, anh cũng khóc chẳng biết xử trí ra làm sao.

Anh xét anh không thể bắt hai người phải sống một cái đời nửa sống nửa chết như thế được, không thể để cho hai gia-đình phải khốn-đốn vì anh được. Biết bao lần Thu khóc lóc bảo anh rằng Thu sẽ chết để cho anh đành lòng mà sum họp với Mi-Hây. Nhưng anh có thể quên Thu được không, anh có thể để như thế được không? Anh là một tên trọng-tù người ta đang tìm kiếm, chẳng chóng thì chầy, cái tông-tích anh sẽ bại lộ, lúc ấy thì sao? Anh có thể lạm dụng cái không biết của người mà làm một việc đê-hèn như thế được không. Anh có thể ngồi nhìn hai bông hoa kia phải héo-hắt vì anh được không? Không không. Danh-dự anh nó bảo anh không thể thế được. Anh đã đưa hai người vào một con đường cùng thì bổn phận anh phải tìm cho hai người một lối ra…

Một đêm, những cây cối vùng Biển-Hồ đã được trông thấy một thiếu-niên vừa đi vừa khóc ở trên con đường độc đạo từ Bac Préa đi Battambang. Chàng vừa đi vừa quay cổ lại nhìn cái trại của Tao-Kê Lau-Mạnh. Rồi chàng lại khóc. Rồi chàng lại đi. Rồi chàng lại quay cổ lại.

Cái thơ  anh Tư để lại làm cho Mi-Hây và Thu chết điếng.

Hai em yêu quý của anh.

Anh là một tên tội tù ở xứ Bắc trốn tránh vào đây. Hai em đã chẳng nề sang hèn rủ lòng thương đến, anh thật cảm kích không cùng. Nhưng anh xét anh không thể đem cái đời cơ-khổ của anh mà làm nhỡ cái đời chứa chan những hi-vọng tốt đẹp của các em được. Nếu hai em có thực yêu anh thì xin quên anh đi. Từ nay phương trời cách biệt, anh dẫu chẳng bao giờ được gặp mặt hai em nữa, nhưng cái hình ảnh yêu quý của hai em lúc nào cũng luôn luôn ở bên mình anh… Sống thì anh xin giữ cho nguyên vẹn ở trong trái tim anh mà chết thì anh đem theo.

Các em ơi, các em quên anh đi, đó là lời cầu khẩn cuối cùng của anh đó, xin các em chớ vì anh mà bỏ phí một đời hạnh phúc.

Trong khi anh lên thác xuống ghềnh lăn lóc ở nơi chân trời mà được tin hai em sung sướng thế là anh sung sướng rồi.

Thu và Hây xem xong ôm nhau khóc thảm thiết. Anh Tư đi, đem cái lẽ sống của hai người đi. Hai người trước kia không thể cùng gặp nhau trên con đường tình-ái thì nay lại gặp nhau ở trên con đường đau thương..

Mà từ đấy, nước non cây cối ở Biển-Hồ đã được nghe tiếng rền-rĩ của hai trái tim thất vọng nó dần dần khô héo đi

Chú thích:

[1] – Chủ hiệu khách.

[2] – Người Cao-mên gieo mạ về khoảng tháng 5, tháng 6. Lúc ấy lại là vụ mưa, thành thử những miền chung quanh Biển-Hồ bị ngập nước, người ta không cày cấy gì được.

[3] – Đầy-tớ có nợ của chủ. Nó cũng gần một nghĩa với chữ nô-lệ.

[4] – Giống như con Kỳ-đà mà to hơn. Nó thường ở trên mặt sông mà sống bằng những giống vật chết trôi, nổi ở mặt nước.

[5] – Một thứ áo cũng như áo dài ta nhưng khâu kín tà như áo đầm. Đàn-bà Khách lai ở Cao-mên thường mặc.

Lê Văn Trương

Theo http://vietnamthuquan.eu/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lỡ một kiếp người

Lỡ một kiếp người Lỡ một kiếp người Anh ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, ...