Lê Đình Kỵ trong lý luận - Phê bình văn học
Giáo sư Lê Đình Kỵ sinh năm Nhâm Tuất 1922 ở một vùng
quê làm nghề dệt vải và buôn bán tơ tằm thuộc xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Trong một đoạn hồi ức đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, ông kể:
“Cha tôi là nông dân, có học qua chữ Nho. Mẹ tôi tảo tần vất vả. Tuổi thơ tôi
khá thiệt thòi vì trong nhà không có sách vở thi thư gì.
Có lẽ vì vậy mà khi vào đời, tính tôi rất dễ dãi, không khuôn phép như con nhà Nho” [1]. Học hết bậc tiểu học ở một ngôi trường nhỏ cách nhà hai cây số, Lê Đình Kỵ ra Huế học trung học ở Trường tư thục Việt Anh và thi đậu tú tài phần thứ nhất tại đây. Sau đó, ông chuyển vào học năm cuối bậc trung học ở trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Năm 1944, sau khi thi đậu tú tài phần thứ hai, Lê Đình Kỵ về lại Quảng Nam, khởi đầu con đường của một nhà giáo từ những lớp dạy tư ở quê nhà.
Học trò của giáo sư Lê Đình Kỵ có lẽ ít người biết được rằng
người thầy giáo hiền lành và có phần rụt rè trước đám đông ấy đã từng là một
người hoạt động xã hội tích cực. Khi Nhật đảo chính Pháp, ông hoạt động trong
phong trào thanh niên Phan Anh ở Quảng Nam. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông tham
gia khởi nghĩa ở Hội An, làm công tác thông tin tuyên truyền, bình dân học vụ
và đã có ba năm phục vụ trong quân ngũ với nhiệm vụ của một cán bộ chỉ huy cấp
tiểu đoàn. Chính trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, vào năm 1949,
ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi xuất ngũ vì lý do sức khỏe, từ năm 1952 đến năm 1954,
ông dạy học ở trường trung học Lê Khiết, một ngôi trường nổi tiếng cuả Liên khu
5 thời chống Pháp. Đầu năm 1955, ông tập kết ra miền Bắc, tiếp tục dạy học ở
trường cấp 3 Nguyễn Trãi, Hà Nội rồi trường cấp 3 Lương Ngọc Quyến, Thái
Nguyên. Từ năm 1958, ông được chuyển về dạy ở Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, lúc này vừa mới thành lập được hai năm. Sau khi đất nước thống nhất,
ông được cử vào giảng bài tại trường Đại học Văn khoa TP. Hồ Chí Minh và đến
năm 1980 thì chuyển hẳn về làm việc tại trường này – nay là trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh – cho đến ngày
nghỉ hưu.
Hơn nửa thế kỷ gắn bó với ngành giáo dục, giáo sư Lê Đình Kỵ
đã góp phần đào tạo hàng ngàn học sinh, sinh viên. Sau khi về hưu, ông vẫn tiếp
tục đến lớp giảng các chuyên đề đại học và sau đại học, đồng thời hướng dẫn
thành công nhiều luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Trong 40 năm miệt mài trước
tác, ông đã hoàn thành và cho công bố 19 công trình nghiên cứu với gần 5000
trang sách. Đó là chưa kể hàng trăm bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí ở Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác. Những đóng góp của ông trên lĩnh
vực văn hóa – giáo dục và các hoạt động xã hội đã được ghi nhận một cách xứng
đáng. Năm 1984 ông được phong học hàm giáo sư mà không qua giai đoạn phó giáo
sư; năm 1988 ông lại được trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân mà không qua
giai đoạn Nhà giáo ưu tú. Bên cạnh những huân chương kháng chiến, tấm huân
chương lao động hạng nhất (1995) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật
(2001) là những bằng chứng cho thấy sự đánh giá cao của xã hội đối với những cống
hiến của ông trên lĩnh vực sư phạm và học thuật.
Có thể nói Lê Đình Kỵ đã xuất hiện với tư cách một nhà khoa học
bắt đầu từ những năm tháng giảng dạy ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Với vốn
chữ Hán và tiếng Pháp được trau dồi trong những năm trước đó, ông bắt đầu học
tiếng Nga để dịch thuật các sách tham khảo về lý luận văn học và văn học xô-viết.
Thế hệ sinh viên đầu những năm 60 hẳn còn nhớ hai công trình mà ông và các đồng
nghiệp đã dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô của V. Serbina và A. Vasenco (NXB Văn học, Hà Nội,
1961); Nguyên lý lý luận văn học của L. Timofeev (NXB Văn hóa – Viện Văn học,
Hà Nội, 1962). Ông là một tấm gương tự học kiên trì và bền bỉ để tự đào tạo
thành một nhà trí thức, một giáo sư đại học. Ông cũng là một trong những người
đầu tiên ở nước ta tham gia xây dựng bộ giáo trình lý luận văn học được sử dụng
ở nhà trường trong điều kiện mà giới nghiên cứu và giảng dạy còn thiếu thốn rất
nhiều tài liệu.
Công trình đầu tiên của Lê Đình Kỵ được xuất bản thành sách
là cuốn Các phương pháp nghệ thuật, tập IV, trong bộ Những nguyên lý về lý luận
văn học, được nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1962. Do tính chất phức tạp của
vấn đề, cuốn sách mỏng chỉ 122 trang này đã gây ra một cuộc tranh luận khá gay
gắt gần suốt một năm ròng trên tạp chí Nghiên cứu văn học lúc đó. Cuộc tranh luận
thu hút cả những nhà nghiên cứu lên tiếng bênh vực ông như Hoàng Xuân Nhị, Đỗ
Huy một bên và những người phê phán ông như Nguyễn Xuân Nam, Nam Mộc, Duy Lập…
cùng một vài người tự xưng là “công nhân” ở một bên khác.
Nhằm khắc phục bệnh công thức sơ lược và ngăn ngừa chủ nghĩa
minh họa, đồng thời đề cao tính đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, Lê Đình Kỵ viết:
“Xuất phát từ thế giới quan như nhau, từ cách nhìn xã hội và tự nhiên như nhau,
nhà văn không phải chỉ có làm cái việc đơn giản là chuyển những nguyên tắc của
thế giới quan vào sáng tác văn nghệ, mà là phải nắm vững loại biệt tính của nghệ
thuật, sử dụng những phương tiện đặc biệt trong việc thể hiện bằng hình tượng
và bằng điển hình hóa những hiện tượng cuộc sống. Nói đến phương pháp nghệ thuật
là nói đến tính độc đáo trong sự cảm thụ và và lĩnh hội thực tại. Hình tượng
văn học không phải là sự minh họa giản đơn cho một lý tưởng nhất định mà là sự
khái quát hóa thực tại…” [2].
Quan niệm này được Đỗ Huy đồng cảm và chia sẻ: “Chúng
ta không thể bác bỏ những phẩm chất thẩm mỹ của đối tượng nghệ thuật, cho nên
chúng ta không thể bác bỏ tính độc đáo của phương pháp sáng tác (…) Nếu không
nhấn mạnh tính độc đáo của phương pháp nghệ thuật thì sẽ xóa ranh giới giữa
phương pháp nghệ thuật và các phương pháp khoa học khác, sẽ đồng nhất phương
pháp nghệ thuật với thế giới quan, với lập trường tư tưởng chung của nghệ sĩ.
Rõ ràng đó là công việc làm máy móc sẽ đưa đến sự tầm thường hóa nghệ thuật”[3].
Điều này hơn hai mươi năm sau, trong một bài viết về sự nghiệp
của Lê Đình Kỵ, Hà Công Tài lại càng thấy rõ hơn: “Khi nói về tính độc đáo của
phương pháp, ông không nhầm lẫn giữa phương pháp và phong cách. Một bên là độc
đáo của nguyên tắc phản ánh, còn một bên là độc đáo của cá tính sáng tạo (…)
Ông không tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp, hay nhấn mạnh tính đặc thù một
cách cô lập, dẫn tới cách hiểu phiến diện, làm cho văn học chỉ là thứ minh họa
giản đơn hay chơi vơi tách rời cuộc sống”[4].
Nhưng vào đương thời, quan niệm đó không thể được những người
chủ trương “coi trọng nguyên tắc” chấp nhận: “Nhấn mạnh tính độc đáo của phương
pháp nghệ thuật sẽ dẫn đến tình trạng người sáng tác không ra công chú ý học
tập phương pháp – những nguyên tắc chung – mà chỉ đi sâu vào phong cách của
mình”[5]. Sở dĩ như vậy là vì văn nghệ sĩ phải phấn đấu noi theo một phương
pháp sáng tác đúng nhất và tốt nhất và điều đó là ưu tiên hàng đầu so với
vấn đề phong cách mà, tuy không ai phủ nhận, vẫn trở thành thứ yếu so với những
nguyên tắc kia.
Tuy nhiên, đó chưa phải là điều khiến cuốn sách đầu tay của
Lê Đình Kỵ bị phê phán nghiệt ngã nhất. Điều mà một số nhà nghiên cứu lúc đó
không thể bỏ qua là việc tác giả Các phương pháp nghệ thuật đã trình bày chủ
nghĩa hiện thực trong mối quan hệ với chủ nghĩa nhân đạo và đặt vấn đề nghiên cứu
ý nghĩa toàn nhân loại của điển hình nghệ thuật. Vấn đề này ngày nay có thể xem
là bình thường, nhưng cách đây 40 năm thì chưa phải đã được sự nhất trí trong học
giới, nhất là khi nó vấp phải quan điểm giai cấp luận đang chi phối nặng nề đời
sống nghiên cứu và phê bình văn học.
Phải đặt trong bối cảnh đó mới hiểu vì sao Nguyễn Xuân Nam viết:
“Chúng tôi cho rằng chỗ yếu nhất trong tập sách, nguồn gốc chính của những thiếu
sót sai lầm là chưa chú ý đúng mức đến tính giai cấp của văn học, đến tác
dụng chỉ đạo của thế giới quan trong toàn bộ quá trình sáng tác”[6]. Và không
phải ngẫu nhiên mà trong bài phê bình cuốn sách của Lê Đình Kỵ, Nam Mộc đã dẫn
tư tưởng Mao Trạch Đông “trong xã hội có giai cấp, tính người phải có tính giai
cấp, không có tính người nào đứng ngoài tính giai cấp cả”[7], trước khi phát biểu ý
kiến của mình: “Do đó khi nghiên cứu, phê bình, muốn phân tích cái hay, cái dở,
cái đúng, cái sai và tác dụng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của một tác phẩm, một
hình tượng, không thể không trực tiếp vận dụng phương pháp phân tích giai cấp,
không thể không trực tiếp thông qua tính giai cấp”[8]. Chính vì vậy mà mặc dù
thừa nhận Lê Đình Kỵ đã viết “những trang lý luận súc tích, có nhiều tìm tòi,
suy nghĩ” (Nguyễn Xuân Nam), các nhà phê bình vẫn cho rằng ông “đã tỏ ra lúng
túng, thiếu sót, thậm chí có lệch lạc, sai lầm ở một số trường hợp” (Nam Mộc),
nhất là đã rơi vào “luận điệu siêu giai cấp” (Nguyễn Xuân Nam) và “duy tâm chủ
quan” (Vũ Ý Nhi).
Trong một hoàn cảnh cực đoan của đời sống văn học, sự phê
phán nặng nề và oan uổng nói trên không thể không làm Lê Đình Kỵ nao núng. Khi
tìm cách tự bảo vệ mình, ông đã phải thừa nhận “những hạn chế” của cuốn sách “về
mặt tư tưởng và nghiệp vụ”; thậm chí bảy năm sau ông còn tự kiểm điểm và rút lại
một ý kiến của S. Petrov về “nội dung toàn nhân loại” của tác phẩm cổ điển mà
ông từng trích dẫn làm cơ sở cho lập luận của mình vì cho rằng nó “đã coi nhẹ
tính giai cấp, xem tính giai cấp chỉ là một cái gì hình thức tạm bợ, không thuộc
bản chất của điển hình văn học”[9].
Tất nhiên, do những quy định của lịch sử, cuốn Các phương
pháp nghệ thuật không thể tránh khỏi hạn chế; nhưng giờ đây, đọc lại nó sau hơn
40 năm, chúng tôi nhìn thấy những hạn chế đó chủ yếu ở những kiến giải có phần
sơ lược và khô cứng của thuyết hình tượng và lý thuyết về phương pháp nghệ thuật
nói chung, chủ nghĩa hiện thực nói riêng, trong lý luận văn học xô-viết lúc đó
mà ảnh hưởng của nó không chỉ chi phối riêng một mình Lê Đình Kỵ. Trong khi đó
thì chính những chỗ nhạy cảm nhất của cuốn sách đã làm phật ý một số nhà nghiên
cứu lại là những chỗ, dù chỉ là những nét còn mong manh, thậm chí chưa định
hình rõ rệt, dự báo cho sự đổi mới trong nghiên cứu và phê bình văn học rồi sẽ
phải trải qua nhiều thăng trầm nữa mới tự thể hiện được chính mình.
Cả hai phương diện đó có lẽ ít nhiều Lê Đình Kỵ đều cảm thấy,
nên ông đã tìm câu trả lời hợp lý nhất đối với học giới là âm thầm và kiên trì
theo đuổi, đào sâu hướng nghiên cứu mà mình đã chọn. Sau này, ông tiếp tục viết
lại, bổ sung, sửa chữa những luận điểm về các phương pháp sáng tác và trào lưu
nghệ thuật, để cho nó vừa có tính chất cập nhật và thỏa đáng hơn, vừa tránh được
những điều tiếng gây bất lợi cho một công trình được sử dụng trong nhà trường.
Mặc dù có những chỗ còn có thể tiếp tục thảo luận như có nên phân biệt chủ
nghĩa lãng mạn tích cực và chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực hay không và phân biệt
như thế nào, mở rộng biên độ của chủ nghĩa hiện thực đến đâu, những chương sách
này của Lê Đình Kỵ chứng tỏ sự lao động công phu và những suy nghĩ nghiêm túc của
một người làm khoa học.
Hẳn nhiên vấn đề chủ nghĩa hiện thực đã có sức cuốn hút mạnh
mẽ giới nghiên cứu một thời. Lê Đình Kỵ đã trình làng không dưới ba lần những
văn bản lý luận về chủ nghĩa hiện thực. Nhưng ông không dừng lại ở đó. Ông muốn
vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực để khảo sát một hiện tượng văn học tiêu
biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Theo lời kể của ông, cái nhan đề Truyện Kiều
và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du đã do nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau.
Nhưng dù không có ba chữ “của Nguyễn Du”, thì vấn đề nhấn mạnh mối quan hệ của
kiệt tác này với những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực vẫn còn nguyên đó. Quả
là một nghịch lý, hướng nghiên cứu mà về sau này có người xem là hiện đại hóa
Truyện Kiều đã giúp Lê Đình Kỵ đạt được những kết quả hết sức thuyết phục trong
một công trình được xem như đỉnh cao trong sự nghiệp trước tác của ông. Công
trình này được khởi thảo từ năm 1965, trong dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn
Du, được xuất bản lần đầu năm 1970 và cho đến nay đã in đến lần thứ tư. Trong lịch
sử nghiên cứu và phê bình văn học ở ta, số công trình có may mắn và vinh dự được
bạn đọc đón nhận như vậy không phải nhiều lắm. Nhiều thế hệ sinh viên đã biết đến
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực như một giảng khóa đặc sắc ở đại học. Nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình đã tìm thấy ở đây không chỉ tư duy khái quát và khả
năng kiến giải của một nhà lý luận mà còn cả sự cảm thụ tinh tế, năng lực phân
tích sắc sảo của một ngòi bút phê bình. Đúng như Nguyễn Lộc, một chuyên gia
hàng đầu về Truyện Kiều, đã nhận định: “Giáo sư Lê Đình Kỵ chuyên giảng dạy lý
luận văn học, đồng thời là một nhà phê bình thơ quen biết. Chính lý luận văn học
đã giúp anh tìm được một hướng tiếp cận Truyện Kiều mới mẻ và khả năng thẩm
thơ, bình thơ giúp anh truyền đạt được cái hay, cái đẹp trong nhiều câu thơ mà
người ta có thể thuộc nhưng không phải ai cũng cảm nhận, thấm thía hết được”[10].
Nhìn Truyện Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ
thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội – lịch
sử nhất định, Lê Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở
tư tưởng – thẩm mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà thơ.
Tác giả cuốn sách đã chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất trong triết
lý về Tài, Mệnh, Tâm của Truyện Kiều. Những trang hay nhất của cuốn sách được
dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn Du, từ Thúy
Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh… Với giọng văn uyển
chuyển và nhuần nhị, những trang sách này có thể xem là một dẫn chứng điển hình
về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện đại có tầm văn
hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã
bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du
trong việc nhìn nhận thế giới và con người. Ông viết: “Sức mạnh của câu thơ Kiều
không hẳn là ở chỗ khám phá ra những hình tượng chưa ai hình dung được, những ý
nghĩ chưa ai ngờ tới, mà là ở cái tình người, tình đời thăm thẳm mà Nguyễn Du
đưa vào cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ của mình, vào một vầng trăng, một dòng suối,
một ngàn dâu, một tiếng chim, một ngọn lá. Đến đá dưới ngòi bút Nguyễn Du cũng
mềm đi trước những đau khổ của con người”[11]. Đằng sau đoạn văn này có cả bề
dày của một quá trình suy ngẫm về văn học. Ai bảo là những gì tác giả viết ra
cách nay gần bốn thập kỷ lại không góp phần soi sáng những vấn đề thời sự của
lý luận và thực tiễn văn học, như vấn đề văn học phản ánh hiện thực, vấn đề đặc
trưng của sáng tạo nghệ thuật?
Mặc dù có “sự dè dặt của tác giả trên những vấn đề vốn hóc
búa” như Nguyễn Lộc đã nhận xét, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực vẫn là một
công trình thể hiện đầy đủ bút lực của một nhà nghiên cứu có uy tín. Cuốn sách
gợi cho ta ý nghĩ rằng có lẽ trong đời mình mỗi nhà nghiên cứu chỉ cần viết nên
một cuốn sách thật đích đáng. Hẳn tác giả cũng nhận ra rằng các công trình khác
của ông, dù có những đóng góp nhất định, vẫn khó lòng vượt qua cuốn sách này.
Và khi mà khoa nghiên cứu văn học ngày càng có thêm nhiều công cụ mới do phong
cách học, thi pháp học, ký hiệu học… cung cấp, thì công trình này vẫn vừa là một
thách đố để các nhà nghiên cứu hôm nay và ngày mai vượt qua, vừa để lại những
khoảng trống cho các thế hệ sau tiếp tục tìm tòi, suy nghĩ trên những vấn đề
không dễ gì có tiếng nói khoa học sau cùng.
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực phương Đông nói chung, chủ nghĩa
hiện thực trong văn học cổ điển Việt Nam nói riêng, cho đến nay, chưa phải đã
được bàn luận thấu đáo. Thời Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở nước ta không phải
không có xu hướng vận dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương Tây
vào việc nghiên cứu những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không
tránh khỏi ít nhiều khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa
hiện thực là cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều: trong một
bản in ở Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988, ông đã không ngần ngại đổi tên cuốn
sách này là Truyện Kiều, đỉnh cao văn học.
Thành ra, không thể phủ nhận là có một độ chênh nhất định
giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực và thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du. Âu
đó cũng là nỗi ám ảnh của một thời. Nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét một
cách thỏa đáng, Lê Đình Kỵ đã “vượt lên cái khung ông tự đặt cho mình”[12]. Và
nói một cách công bằng, lý thuyết chủ nghĩa hiện thực, dù còn có phần đơn giản,
không phải không cung cấp những gợi ý quan trọng cho nhà nghiên cứu khám phá
chiều sâu của nội dung và nghệ thuật Truyện Kiều: “Thành công đáng kể của Lê
Đình Kỵ là ông đã vận dụng nhuần nhuyễn các khái niệm tính cách, cá tính, hoàn
cảnh, chi tiết để phân tích tính thống nhất toàn vẹn, sinh động của các nhân vật
Truyện Kiều. Có thể nói đó là sự nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều theo thi pháp
của chủ nghĩa hiện thực. Đồng thời đối chiếu với thi pháp của chủ nghĩa hiện thực
cũng làm cho nhà nghiên cứu thấy rõ nhiều đặc trưng nghệ thuật riêng của Truyện
Kiều mà ông gọi là “những ràng buộc của mỹ học đương thời…” [13] . Về
sau này Lê Đình Kỵ nói rõ hơn ý mình: “Tôi cố gắng tìm hiểu những tư liệu
lịch sử về thời đại và cuộc đời Nguyễn Du; căn cứ vào chính văn bản và các hình
tượng trong Truyện Kiều để thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại không
chỉ vì phương pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bởi vì thực
ra những gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng ta chỉ có thể
hình dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực trong
giai đoạn sơ kỳ của nó mà thôi” [14].
Với tư cách là một nhà phê bình văn học, ngay từ bài phê bình
đầu tay in trên báo Văn nghệ năm 1959, Lê Đình Kỵ đã chứng tỏ sự quan tâm sâu sắc
đối với công việc của các nhà văn Việt Nam hiện đại. Ông đã có nhiều bài viết kịp
thời về các sáng tác của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,
Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật… Ông
cũng suy nghĩ về sứ mệnh của nhà phê bình qua các bài viết về Đặng Thai Mai, Hải
Triều, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Mặc dù không khỏi bị giới hạn bởi
tính thời sự của thể loại phê bình, các trang viết của Lê Đình Kỵ vẫn lấp lánh
những phát hiện sắc sảo của một tâm hồn mẫn cảm và tinh tế. Những bài phê bình
của ông đã lần lượt được tập hợp trong các cuốn sách Đường vào
thơ (NXB Văn học, 1969), Trên đường văn học (2 tập, NXB Văn học,
1995) và Phê bình – nghiên cứu văn học (NXB Giáo dục, 1998). Chuyên phê bình
thơ, một số bài viết của ông đã trở thành những bài phê bình tiêu biểu được in
lại nhiều lần để làm tài liệu tham khảo trong nhà trường trung học và đại học
như các bài về thơ Hồ Chí Minh, thơ Chế Lan Viên, thơ Xuân Diệu…
Cùng với mối quan tâm dành cho văn học hiện đại, càng về sau,
Lê Đình Kỵ càng mở rộng tầm khảo sát của mình đến văn học quá khứ của dân tộc.
Có thể nói ông là một trong những nhà nghiên cứu đã có công vận dụng lý luận
văn học để soi sáng vào những tác gia và tác phẩm cổ điển mà giá trị tưởng chừng
đã ổn định, không cần gì phải bàn luận thêm. Hay cũng có thể nói ngược lại, từ
việc khảo sát văn học truyền thống, Lê Đình Kỵ đã góp phần làm sáng tỏ quy luật
phát triển của văn học nước nhà. Ngoài Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và thơ chữ
Hán của Nguyễn Du, ông còn có những trang viết công phu về di sản lý luận của
cha ông ta, về Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương và Tú Xương,
Chiêu Anh Các và Đông Kinh Nghĩa Thục, cả về những tác phẩm văn học dân gian
như Mỵ Châu Trọng Thủy, Chử Đồng Tử, Trương Chi…
Thật ra cũng khó mà phân biệt rạch ròi đâu là tính chất
nghiên cứu và đâu là tính chất phê bình trong sự nghiệp trước tác của Lê Đình Kỵ.
Từ những bài phê bình riêng lẻ về Tố Hữu, ông đã tổng hợp và nâng cao thành một
chuyên luận dày dặn với hơn 500 trang do nhà xuất bản Đại học và trung học
chuyên nghiệp ấn hành năm 1979, trong đó giới thiệu các chặng đường sáng tác,
những chủ đề chính và phong cách tư tưởng – nghệ thuật của nhà thơ. Từ những ý
kiến về thơ lãng mạn thời kỳ 1932-1945 được trình bày ở nhiều nơi, Lê Đình Kỵ
đã phát triển thành một khảo luận dày 350 trang có nhan đề Thơ Mới – những bước
thăng trầm do Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh in năm 1988, tái bản năm 1993. Có thể
nói đây là một thành quả mang dấu ấn rõ rệt của thời kỳ đổi mới trong nghiên cứu
và phê bình văn học. Trước vị trí không thể thay thế được của Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân, cuốn Thơ Mới – những bước thăng trầm đã tiếp cận
thơ lãng mạn 1932-1945 từ chỗ đứng của ngày hôm nay, nhìn lại lịch sử vấn đề rất
phức tạp của hiện tượng văn học này mà tìm cách “chiêu tuyết” cho nó.
Là một nhà nghiên cứu theo quan điểm mác-xít, Lê Đình Kỵ luôn
khẳng định bản chất xã hội của văn học, đồng thời rất coi trọng những đặc trưng
của văn học, đề cao sự độc đáo của phong cách và cá tính sáng tạo nơi những bậc
thầy của nghệ thuật ngôn từ trong việc tái hiện đời sống và biểu hiện tâm hồn
con người. Những bài viết của ông về Phong cách trong văn học, Tư duy hình tượng
và ngôn ngữ văn học, Chân lý nghệ thuật, Nghề văn… chứng minh điều đó. Đó cũng
là hướng đi mà ông trung thành trong thực tiễn phê bình.
Nguyễn Văn Hạnh, người từng cộng tác với Lê Đình Kỵ trong việc
biên soạn giáo trình lý luận văn học, có lẽ đã hiểu được thế mạnh ngòi bút của
ông: “Quan tâm đến cả nội dung và hình thức, cả phương diện tư tưởng, nghệ thuật
và ngôn ngữ, cả giá trị nhân văn và thẩm mỹ của văn học, nhưng cũng giống như
nhiều nhà nghiên cứu cùng thế hệ, Lê Đình Kỵ có thiên hướng và cũng có sở trường
hơn về phân tích nội dung ý thức xã hội của văn học. Nhưng đây là nội dung
gắn liền với hình thức, được biểu hiện qua ngôn từ, vần nhịp, giọng điệu, kết cấu,
nội dung mang chất nhân bản, nhân văn, thể hiện một cách sinh động, đặc sắc cuộc
sống và tâm hồn của người nghệ sĩ” [15]. Và trong đời một người viết văn –
sáng tác cũng như nghiên cứu, phê bình – hạnh phúc nhất là tạo được cho mình một
phong cách riêng và phong cách đó lại được đồng nghiệp và bạn đọc thừa nhận:
“Lê Đình Kỵ hầu như chỉ viết về những gì mình thích, chỉ nói về cái hay, cái đẹp
của thơ, của văn chương. Văn phong của anh biểu đạt cách cảm nghĩ của anh, tâm
hồn của anh, sáng sủa, khúc chiết, đồng thời cũng rất uyển chuyển, biến hóa, có
duyên. Đọc Lê Đình Kỵ, lắm khi người ta bị lôi cuốn không chỉ bởi nội dung mà
còn bởi cách trình bày, bởi những ý, những chi tiết thú vị, bởi văn của người
viết. Với sự nhạy cảm và tinh tường quý hiếm ở một nhà nghiên cứu, anh Lê Đình
Kỵ thực sự là một người đồng sáng tạo trong tìm hiểu các giá trị thi ca, các
giá trị văn chương mà anh đã dành nhiều thời gian để suy ngẫm, chiêm nghiệm,
phát hiện ra những vẻ đẹp mới và giới thiệu với mọi người một cách hứng thú và
xúc động” [16].
Nhận xét này cũng gặp gỡ với ý kiến của Nguyễn Lộc, người
đã nhiều năm cùng làm việc với Lê Đình Kỵ ở trường đại học: “Có công trình
nghiên cứu lúc nào cũng cố tỏ ra đạo mạo, tỉnh táo, tự tách mình ra khỏi tác phẩm,
tưởng như thế mới giữ được khách quan “khoa học”. Ở Lê Đình Kỵ, trước hết là phải
sống hết mình với tác phẩm, phải cảm nhận cho được cái hay cái đẹp của nó, rồi
từ đó mới đi vào phân tích, khái quát, diễn giải. Cách làm này quả đã giúp anh
có nhiều phát hiện tinh tế gây ấn tượng mạnh và viết được nhiều trang lôi cuốn,
hấp dẫn. Đọc văn nghiên cứu của Lê Đình Kỵ, nhiều lúc có cảm giác như đọc văn
nghệ thuật được viết ra một cách hứng thú, có cá tính” [17].
Gần 35 năm trước, Vương Trí Nhàn, một trong những
cây bút góp phần tạo nên diện mạo của phê bình Việt Nam đương đại, từng viết về
phong cách phê bình của Lê Đình Kỵ qua tập Đường vào thơ: “Anh nhập được vào
tác giả như một người trong cuộc, để thấy chỗ dễ, chỗ khó. Càng những chỗ mịt mờ
sương khói, thơ lung linh ẩn hiện, như ở giữa cái dễ dàng và dễ dãi, cái say và
cái tỉnh, cái khái niệm và tư tưởng thơ ca…, Lê Đình Kỵ lại càng tỏ ra có sự
tinh tế của một nhà phê bình. Anh vừa theo sát các tác giả trong từng bài thơ,
từng câu thơ, lại vừa chú ý để từ đó mở rộng ra, nâng cao, khái quát. Hơn
một sự phẩm bình cụ thể, người viết muốn truyền đến ta một tình cảm, một cách
nhìn, một lý tưởng thẩm mỹ như anh vẫn nói…” [18]. Mới đây, Vương
Trí Nhàn còn nhắc đến Lê Đình Kỵ khi nhớ lại thuở mới vào nghề: “Khoảng đầu những
năm 60 trên báo chí văn nghệ ở Hà Nội thấy nổi lên một lối viết phê bình mà
trong tầm mắt của một cậu học trò cấp 3 Chu Văn An như tôi, nghe có vẻ rất mới,
khiến tôi mải miết học theo, tất nhiên theo lối học lỏm. Người tôi mê nhất lúc ấy
là Lê Đình Kỵ”[19] .
Kể lại những kỷ niệm về người thầy mà mình chịu ơn, Phạm
Quang Long viết rằng ông đã chọn học ngành Văn một phần vì yêu thích văn phê
bình của Lê Đình Kỵ từ khi còn ở trung học: “Bài viết của thầy Kỵ về thơ Chế
Lan Viên theo trí nhớ của tôi là Những biển cồn hãy đem đến trong thơ thu hút
tôi một cách kỳ lạ. Sự tinh tế trong cảm thụ, những kiến giải sâu sắc của một
tư duy mãnh liệt như thế lần đầu tiên tôi bắt gặp trong sách vở đã gợi bao xúc
động trong tôi” [20].
Nói về phê bình văn học, Lê Đình Kỵ quan niệm: “Chọn phê bình
văn học là phải am hiểu lý luận văn học, phải biết chấp nhận những ý kiến trái
ngược nhau; nhưng trước hết thái độ của người phê bình là vì học thuật và thực
sự cầu thị, hướng tác giả – tác phẩm – công chúng đến Chân Thiện Mỹ và hoàn
toàn vì nghệ thuật. Một tác phẩm (sáng tác, phê bình) ra đời mà không ai đọc
thì có cũng như không. Có người đọc, nhưng mơ hồ không thấy hay dở ở chỗ nào và
vì sao thì cũng thật đáng tiếc cho tác giả cũng như cho bản thân người đọc. Phê
bình có tác dụng bổ khuyết cho khoảng trống này, cố gắng là nhịp cầu nối liền
tác giả, tác phẩm với công chúng, làm cho tác phẩm có giá trị trở lại sống nơi
người đọc, trong chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật của nó”[21].
Khẳng định vai trò của trực giác, trực cảm trong phê bình, đề
cao đóng góp của Hoài Thanh, nhưng Lê Đình Kỵ không muốn lấy một lối phê bình
nào làm khuôn mẫu. Ông nói: “… đi vào phê bình, thẩm định văn học, đòi hỏi đầu
tiên là hiểu văn học đúng với văn học, nhìn nhận mỗi tác phẩm đúng với cái hay
cái dở của nó, mà cái hay cái dở ở đây có muôn vàn sắc độ, thường chỉ có thể
phát hiện, cảm thụ bằng trực giác trực cảm. Khả năng này có được một phần nhờ bẩm
sinh, một phần nhờ trải qua quá trình tiếp xúc với những giá trị văn học chân
chính do hàng trăm ngàn tài năng, thiên tài văn học trong nước và trên thế giới
tạo ra (…) Không có Thi nhân Việt Nam thì Thơ Mới cũng vơi đi một phần giá trị.
Bây giờ không thể dừng lại, dẫm chân tại chỗ với lối phê bình kiểu Hoài Thanh.
Ai đó muốn đem cái hào quang của sáng tác để phủ lấp ý nghĩa của phê bình,
nghiên cứu. Đặt vấn đề hơn thua giữa sáng tác và phê bình để làm gì chứ? Vấn đề
là chất lượng, còn dở thì dù sáng tác hay phê bình cũng đều vô ích như
nhau” [22].
Từ những trang viết của Lê Đình Kỵ toát lên một ý tưởng chủ đạo
này: Để cho phê bình có thể có tác động đến tiến trình văn học và tồn tại được
với thời gian, thì nhà phê bình phải là người đồng hành với người sáng tác và
người đọc trong sự nghiệp xây dựng một nền văn học giàu tính nhân văn và đậm đà
tinh thần dân tộc. Viết phê bình trước hết là để góp phần làm cho văn học đơm
hoa, kết trái và phát triển sinh sắc trong niềm hy vọng chứ không phải truy bức
cho nó lụi tàn đi trong nỗi hoang mang và niềm sợ hãi.
Trong nghiên cứu, phê bình, Lê Đình Kỵ vốn là người thận
trọng khi đánh giá những hiện tượng mới. Ông không bao giờ tán thành những biểu
hiện thái quá và cực đoan trong sáng tác và phê bình. Nhưng mặt khác, ông cũng
chưa lần nào tỏ ra nặng lời dè bỉu làm nản chí những nỗ lực tìm tòi của các thế
hệ đến sau. Có thể tìm thấy ở ông tấm gương của một nhà giáo, một nhà khoa học
luôn thể hiện tính đòi hỏi cao trong công việc, đồng thời một tấm lòng nhân ái,
bao dung đối với lớp trẻ. Những ai từng có dịp làm việc với ông hẳn đều chia sẻ
nhận xét của Nguyễn Văn Hạnh: “Trong giảng dạy cũng như trong nghiên cứu văn học,
anh Lê Đình Kỵ là người có trách nhiệm cao và có chủ kiến rõ ràng. Nhưng vốn là
người hiền lành, độ lượng, anh thích nói về những biểu hiện tích cực của cuộc sống,
biết lắng nghe và chờ đợi, khơi dậy tính chủ động và sáng kiến của học trò, động
viên những thành công bước đầu của những cây bút trẻ. Đương nhiên, có thể có một
thái độ khác, một cách ứng xử khác trong cuộc sống, trong quan hệ với người đời,
mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn, thậm chí quyết liệt hơn. Nhưng kinh nghiệm cho thấy
là trong những lĩnh vực phức tạp và tế nhị như công tác đào tạo, như hoạt động
văn học thì cách tiếp cận của anh Lê Đình Kỵ, cách nghĩ và cách viết của anh
thường tỏ ra hợp tình hợp lý hơn, có hiệu quả hơn”[23].
Chứng kiến và tham gia trực tiếp vào những biến động của đời sống văn học gần nửa thế kỷ qua, Lê Đình Kỵ hẳn cảm nhận sâu sắc những vui buồn nghề nghiệp cũng như ý thức rõ về những thử thách mà người làm lý luận, phê bình phải đối diện. Những trang viết, dù là sáng tác hay nghiên cứu, phê bình, chấp nhận làm chức năng minh họa cho những giá trị nhất thời, thì khó mà tránh khỏi một số phận ngắn ngủi, hẩm hiu. Nhà khoa học không thể không bị quy định bởi một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng đồng thời cũng biết vượt thoát khỏi hoàn cảnh và tác động trở lại hoàn cảnh. Những gì họ viết ra không chỉ là bằng chứng ghi dấu cái thời đại họ sống, mà còn là tấm gương phản ánh bộ mặt tinh thần của người trí thức luôn coi trọng lương tri và lẽ phải, luôn kiên trì với những xác tín khoa học của mình ngay trong điều kiện bất lợi nhất. Vì vậy, giá trị và ý nghĩa của những tài sản tinh thần họ để lại nhiều khi không phải là chân lý vĩnh cửu cho mọi nơi, mọi thời; mà chính là bài học về lương tri và khát vọng tìm chân lý cho những ai tin tưởng vào sự tiến bộ và nỗ lực phấn đấu cho sự tiến bộ trên con đường nghiên cứu khoa học.
Chú thích:
[1] Giáo sư, nhà giáo nhân dân Lê Đình Kỵ (Cát Uyên –
Phan Hoàng thực hiện), Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 211, ngày 01-6-1996, tr.
6.
[2] Lê Đình Kỵ: Các phương pháp nghệ thuật, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1962, tr. 3.
[3] Đỗ Huy: Vấn đề phương pháp nghệ thuật, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 4 – 1963, tr. 76.
[4] Hà Công Tài: Lê Đình Kỵ, in trong sách Tác gia lý luận
phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam 1945 – 1975, tập I, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1986, tr. 219 – 220.
[5] Nguyễn Xuân Nam: Mấy ý kiến về cuốn “Các phương pháp
nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11 – 1962, tr. 12.
[6] Nguyễn Xuân Nam: Mấy ý kiến về cuốn “Các phương pháp
nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11 – 1962, tr. 12.
[7] Nam Mộc: Nhìn lại cuộc trao đổi ý kiến về cuốn “Các
phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ, Tạp chí Văn học, số 5 -1963, tr. 12.
[8] Nam Mộc: Bđd, tr. 13.
[9] Xem Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 469.
[10] Nguyễn Lộc: Đọc lại “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực”, in trong sách Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Hội Nhà
văn TP. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 351.
[11] Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 170.
[12] Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2002, tr. 344.
[13] Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2002, tr. 18.
[14] Lê Đình Kỵ: Cái duyên và cái nghiệp (Nguyễn Hà thực
hiện), Tạp chí Văn học, số 3 – 2000, tr. 11.
[15] Nguyễn Văn Hạnh, Một đời lao động tận tụy và sáng tạo,
in trong sách Lê Đình Kỵ: Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1998, tr. 4.
[16] Nguyễn Văn Hạnh, Sđd, tr. 5.
[17] Nguyễn Lộc, Sđd, tr. 352.
[18] Vương Trí Nhàn, Bước đầu đến với văn học, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội, 1986, tr. 128.
[19] Vương Trí Nhàn: Tỉnh táo nhìn lại mình để tìm cách
đổi khác…, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7 – 2004, tr. 73.
[20] Phạm Quang Long: Thầy Kỵ, in trong sách Để nhớ một
thời: 40 năm khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1996), Hà Nội, 1996,
tr. 60.
[21] Lê Đình Kỵ: Tự học là chính (Nguyễn Tý thực hiện),
Tuần báo Văn Nghệ, số 24, ngày 16-6-2001, tr. 19.
[22] Lê Đình Kỵ: Tự học là chính, Bđd, tr. 19.
[23] Nguyễn Văn Hạnh, Sđd, tr. 5.
19/11/2019
Huỳnh Như Phương
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét