Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

Lỡ một kiếp người

Lỡ một kiếp người

Lỡ một kiếp người

Anh ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, tưởng có đám đánh nhau. Anh ta nắm vai tôi, nắm tay tôi, lắc-lắc mãi, dường như để được tin chắc rằng người anh gặp là tôi, chính tôi. Rồi anh nói, rồi anh hỏi, khiến tôi chẳng còn biết đằng nào mà đáp nữa:

— Thế nào? Anh vẫn ở Hanoi đấy chứ? Anh chắc không rời Hanoi được. Vì tôi nhớ mang máng, anh đã viết ở đâu rằng: Hanoi là người vợ tào-khang của các nhà nghệ-sĩ, muốn đi đâu thi đi, muốn lăng  băng thế nào thì lăng băng, rồi cũng có lúc phải quay về với cái gái sề. À ! Độ này anh có viết được nhiều không? Tôi vẫn đọc anh luôn đấy. Thì anh bảo ở trên ấy, ngoài sự đọc sách, còn thú-vui gì nữa. À, mà sao mấy lần anh hẹn lên, rồi chẳng thấy lên. Tôi cứ đợi anh mãi để cùng vào rừng săn-bắn. Mà chắc anh, còn vui với Hanoi nhớ gì đến tôi !

Tôi để cho cái luồng sóng tình-cảm vồ-vập của ông bạn xa-cách lâu ngày ấy qua đi, cho tiếng thở-dài qua đi, cái tiếng thở dài của con người mà bề ngcài sốc-nổi dấu một tấm lòng giầu tình-cảm, rồi thủng-thẳng đáp:

— Vâng, tôi bận, nhưng tôi không quên anh đâu. Tôi vẫn nhớ những buổi sải ngựa trên đồn điền anh, những cuộc săn vòng quanh miền Lâm - Thao, cũng như vẫn nhớ cái tình bạn khăng khít giữa chúng ta. Nhưng, như lời anh vừa nói đó: Hanoi là một người vợ tào-khang, không những không bỏ được nó, đến rời nó, cũng khó thay. Những công việc, những thói quen, những giây liên-lạc về tình cảm nó ràng buộc ta lỏng mà chặt lắm đấy, anh Thái ạ.

Anh Vương-hữu-Thái nhìn tôi rồi gật gật, như tin ở lời nói của tôi, tin ở cái tình bạn của tôi đối với anh, dẫu tháng, năm xa cách cũng vẫn như ngày còn cùng học một lớp, cùng ngồi một ghế.

— Nhưng, thế nào trước Tết anh cũng phải lên với tôi một tháng.

Tôi khẽ lắc đầu:

— Không thể hẹn trước với anh được.

Sang năm, sang năm nữa, hay ngày mai, thì giờ cũng như những điều dự định của tôi, không có gì chắc trước được. Có điều nếu có dịp xa Hà-thành được, là tôi sẽ lên đồn điền anh ngay.

— Anh tha thiết Hanoi đến thế kia ư? Hay lại bị phu-nhân giữ cẳng?

Tôi cười:

— Các bà nó nhà tôi ấy à? Tha hồ ! Tôi muốn ở, muốn đi, mặc sức. Các bà ấy lại mong cho tôi đi là khác, bởi các bà ấy đã có chứng cớ rằng mỗi lần đi vắng lâu là một lần về để yêu các bà ấy hơn lên. À, thế nào? Nghe nói năm ngoái anh đã tục-huyền rồi phải không ?

Anh Thái gật đầu, rồi lắc đầu, hai cử chỉ liền nhau ấy lộ ra một cái gì như ngao ngán:

— Có, cũng như không. Lần trước, ly dị lần này séparation de corps (1).

Tôi ngạc nhiên:

— Sao lần này cũng lại thế nhỉ? Tôi tưởng một người như anh thừa những điều kiện để có được một người vợ. Có lẽ số anh vất vả. Và tôi chắc phần lỗi không phải là về anh, vì tôi cứ xem như lần trước anh đối với chị ấy thế nào thì anh không phải là người không biết chiều vợ.

Anh Thái, lần thứ hai trong buổi gặp tôi ấy, buông tiếng thở dài, và trong tiếng thở dài lần này, tôi cảm thấy hàm chứa một buồn nản, một chán chường mênh-mang.

— Tại cả hai bên. Buồn lắm, anh ạ,

 

Nghe tiếng thở dài ấy, và thứ nhất là ngắm đôi mắt, đôi mắt tuy sắc và long lanh sáng, nhưng nhiều lúc lờ đờ như bọc trong một tấm màn âm thầm, tôi biết bạn tôi buồn lắm. Tôi biết, trong tấm thân cao lớn, hùng-dũng, trong dáng-điệu, cử chỉ sảng khoái, khẳng khái, của con người kẻ cả ấy, có ngầm chứa một tâm sự gì đây.

Là bạn, tôi cùng chia cái buồn mà tôi cảm thấy rằng bạn tôi đang mang nặng bên lòng. Là kẻ luôn luôn đi tìm một chân lý nhân đạo trong lòng người, luôn luôn cố đào sâu vào tình đời, tôi  ‘‘ngửi’’ thấy một cái kho tình cảm đầy. Tôi nhất định không bỏ lỡ một dịp để biết thêm một tấm lòng với tất cả những cái sâu thẳm-, thấm thía của nó.

Tôi liền chỉ bộ râu lún phún đen trên mép và giòng tóc mai rậm dài của anh Thái, rồi cười:

— Tại râu, tóc anh lúc nào cũng như lông gấu thế kia, chả trách các mợ không chịu được. Thôi, vào hiệu hớt tóc ‘‘bạt’’ nó đi, rồi chúng ta đi chén, rồi chúng ta xuống xóm. Đã lâu lắm, chúng ta chưa cảm khái với nhau lần nào. Hôm nay, tôi quyết ‘‘bắt’’ anh cho tôi một đêm. Điều đó, chắc anh không từ chối, vì tôi biết anh không có họ hàng thân thích gì ở Hanoi. Mà bạn, thì không ai thân bằng tôi. Anh vẫn thưòrng nói thế.

Rồi, không để anh kịp nói ra rằng nhận lời hay không, tôi kéo anh đi về phía một hiệu thợ cạo gần đấy. Và tôi nói, giọng cương quyết:

— Và thứ nhất là anh phải để yên cái portefeuille (cái ví) của anh đêm tay, cũng như để yên nó những ngày anh còn ở Hanoi. Vì tôi nhất định  ‘‘bắt’’ anh trong những ngày anh chưa lên đồn điền. Anh nên biết rằng tôi tuy là nhà văn, nhưng trước kia tôi cũng là điền chủ, là thầu khoán như anh.

Anh Vương hữu Thái ngần ngừ một lúc rồi:

- Đêm nay thì xin vâng. Nhưng đêm nay, tôi đã  ‘‘sí-chỗ’’ rồi, anh phải chiều tôi.

Tôi cười:

— Thế ư? Nếu thế thì còn gì bằng! Nhưng ở đâu thế?

— Khâm-Thiên,

— Có khá không?

— Ngất lắm. 137 ấy mà!

Tôi gật gật đầu:

— À, tôi biết rồi. Chị Tuyết-Anh. Người thì khá đấy, nhưng không biết lòng ruột thế nào. Anh Thái cười, cái cười sắc và xâu:

— Lòng ruột nó ấy à? Lòng ruột nó ở trong cái này này!

Vừa nói, anh vừa lấy tay vỗ vỗ vào túi áo trên, đựng cái ví da dầy cộp.

Cái vẻ ‘‘tăng-phủ tú’’; trong lời nói, trong cử chỉ ấy, khiến tôi đồ chừng rằng: anh bạn tôi đã đau đớn nhiều đây, cho nên bây giờ mới nói những câu nói mới nghe như khinh người rẻ của ấy. Chứ thực ra, cái khuôn mặt nở nang, lồ-lộ, cái giọng nói bô bô, bộc lộ cái phần thẳng thắn, của một tâm hồn, không phải một con người khinh bạc mà có được. Chẳng qua người này ăn chua nuốt cay đã nhiều, cho nên trong tiếng nói mới thoảng cái dư vị tranh-ớt của thế- tình đấy thôi.

 

Anh ta đặt cái dọc-tẩu rgang ngực, mắt lim-dim như dõi - theo những hình-ảnh mơ-hồ nhẩy múa trong làn khói thuốc một lúc rồi:

— Lắm lúc, tôi cũng muốn nghiện quách. Anh tính, một mình trên một cái đồn  điền vẳng vẻ, giữa rừng, lắm lúc mưa lũ nó chút xuống hàng tháng, lành đến như bụt cũng muốn phát điên lên vì buồn.

Vân, một đào nương ngồi bên tôi, hỏi ngay :

— Thế chị ấy đâu?

Thái đáp :

— Anh chưa có vợ.

Vân nhìn Tuyết- Anh, lúc ấy đang luồn ngón tay vào mái tóc Thái, rồi nói bằng một cái giọng riễu cợt:

— Chắc là vì có chị tôi đây, cho nên anh

mới nói thế. Anh mà lại chưa có vợ !

 Tuyết-Anh nghiêm sắc mặt:

— Đừng nói thế em. Anh Thái là người lớn, chị chắc anh ấy không nói dối. Mà một khi đã yêu nhau, thì chưa có vợ, hay có vợ rồi, điều ấy có nghĩa gì ! Với lại anh Thái đã gắn bó trăm năm tơ tóc gì với chúng mình mà bảo anh ấy cần phải nói dối. Đây này, điều này tôi nói thật: chẳng qua anh ấy thích tôi, tôi thích anh ấy, gặp mặt thì cũng vui, rồi lại mỗi người một ngã, thế thôi.

Thái gật đầu:

— Mình nói thế mà đúng đấy. Chúng ta

gặp nhau lúc nào, hẵng biết lúc ấy. Thích nhau thì gần nhau, thẳng thắn mà cùng vui, có việc thì chia tay. Miễn là đừng có dối nhau, đừng có hứa hão để rồi trông thấy nhau mà thêm thẹn.

Vàn nói sen vào:

— Như thế, không gọi là tình yêu được. Thái thẳng thẳng buông:

— Cô đầu với quan-viên, làm gì có tình yêu.

— Thế thì chán chết!

— Thế mà người ta vẫn sống đấy. Người ta vẫn làm cô đầu, vẫn làm quan-viên đấy !

Vân nhìn tôi bằng một cái nhìn tình tứ:

— Em thì giá gặp được người nào yêu em, thành thực yêu em, là em cũng yêu ngay, yêu thành thực!

Tôi nói đùa:

— Gặp người như anh, chẳng hạn?

Vân phát vào đùi tôi:

— Cái anh này! Chỉ được cái vơ vào !  

Tôi cười:

— Ấy, vơ vào chưa biết có nên chuyện gì không, chứ lại ruỗi ra như anh chị đây ấy à?

Thì còn ‘‘ngẫu’’ gì nữa!

Thái quàng một tay quanh lưng Tuyết-Anh.

— Ấy thế mà chúng tôi yêu nhau đáo-để, Nghĩa là không lần nào gặp nhau mà chúng

tôi không vui. Có phải thế không, mình?

Anh Thái vừa nói, vừa kéo Tuyết-Anh ngã xuống lòng mình, áp má nàng vào má mình. Tuyết- Anh khẽ nhắm đôi mắt nhung, như sung sướng nhận cái cử-chỉ yêu đương. Một lúc lâu, nàng từ từ ngồi dậy, nhìn Thái bằng một cái nhìn tha thiết:

— Lắm lúc gần mình, tôi cũng thấy yêu mình đáo để.

Thái cười:

— Thế nghĩa là xa thì lại thấy không yêu nữa, chứ gì?

Tuyết-Anh trầm-ngâm một lúc rồi gật đầu:

— Có lẽ thế.

Thấy lời nói thẳng thắn ấy ở miệng một người kỹ nữ, tôi không thể không khen nàng.

— Chị thế mà thành thực đấy. Cái thành thực hiếm có ở trong làng son phấn, - Xin lỗi chị. - Kẻ khác thì đã giẫy nẩy lên, và nói trái lại.

Thái vỗ vào vai Tuyết-Anh, rồi cũng nói:

— Không, tôi biết, em Tuyết - Anh là người vừa biết điều, vừa không thớ-lợ, cho nên tôi rất quý. — Ấy nói thế, không phải để  ‘‘chú’’ lên râu đâu đấy nhé

Tuyết-Anh lừ mắt:

— Thì ai đã làm gì mà chưa chi đã vội chẹn

họng!

Thái rấm-rẳn:

— Ấy tôi cứ nói trước đi thế thì vừa.

Im lặng một lác, rồi Tuyết-Anh vùng ngồi giậy, nói bằng một giọng tha-thiết;

— Này, lắm lúc tôi thấy tôi yêu anh ấy đáo-để, yêu ghê yêu gớm.

— Thế có bao giờ mình nghĩ đến sự lấy anh không?

Tuyết-Anh ngẫm- nghĩ một lúc, không trả lời ngay. Tôi liền bảo nàng:

— Cái tiếng lòng mà lâu chưa bật ra như thế, thì tình yêu cũng khả nghi lắm!

Tuyết-Anh ngửng phắt đầu lên:

— Không, yêu thì nhiều lúc em yêu lắm, nhưng chưa bao giờ em nghĩ đến sự lấy anh ấy.

Thái ngẩng nhìn Tuyết-Anh rồi hỏi:

— Tại sao?

Không ngần ngừ, Tuyết-Anh trả lời:

— Lựa là anh còn phải hỏi em câu ấy?

Tôi nghe cái giọng nói của nàng trầm - lặng như một giòng nước chảy dưới chân cầu, nó mang-máng một hơi buồn của sự đành lòng, như con nước đành lòng với sự chẫy-chôi. Tôi thấy cái dung nhan hoa phấn của nàng như mơ hồ sau một tấm màn âm thầm chi đó vừa buông rủ xuống, như bóng hoàng hôn vừa buông rủ xuống cánh đồng cuối xuân. Lòng tôi ngùi-ngùi ; cái ngùi-ngùi của một tấm lòng trước một sự thật buồn thảm.

Phải, một cô gái giang hồ, mà lại là cô gái giang hồ biết điều như Tuyết-Anh có bao giờ lại đi dại dột mà nghĩ tới, mà nói đến sự kết fóc xe tơ với một người hơn nàng ở tất cả các phương diện. Tiền bạc, danh vọng, cái gì ở anh Thái cũng không cho Tuyết Anh nghĩ đến sự ghép liền đời nàng với đời anh.

Vì, ít ra, trong cái đoạn đời buôn phấn bán hương của nàng, đã hơn một lần nàng trao thân gửi phận, trong hi vọng, với một vài trang anh tuấn nào đó tới lui nhà nàng, để rồi mà buồn tủi, mà xót xa lúc vỡ mộng.

Thế cho nên bây giờ, nàng rút cái quân bài cuối cùng của canh bạc đời nàng: cứ phóng tâm. Cứ biết cái phút hiện-tại.

Trông cặp mắt to và sáng, cái trán cao, cái cằm nở của Tuyết-Anh, tôi nghĩ thầm: Người đàn bà này, ít ra cũng có một vài cái thực của tâm hồn đây. Và tâm hồn này cũng có một vài điểm đẹp đẽ đây.

Tôi tuy không tin ở tướng số, ở sự giầu,

nghèo, sang, hèn định sẵn từ đâu, nhưng tôi cũng biết trông diện mạo mà đoán được tính tình. Cái con người:

Khuôn giănq đầy đặn, nét ngài nở nang này, tất không đến nỗi có những cái thấp hèn của những cái đầu mặt giơi, tai chuột.

— Anh hỏi chứ! Vì, biết đâu...

Anh Thái nói lửng một câu thế, rồi với chiếc tiêm chấm vào hộp thuốc.

 

Tôi nắm tay anh Thái, hỏi bằng một giọng rất thân thiết:

— Anh có còn nghĩ đến sự lấy vợ nữa không?

Anh tiêm thuốc, hút luôn một hồi ba điếu rồi chậm rãi:

— Tôi mất cái ‘‘vĩ’’ở những người đàn bà mà ta gọi là  ‘‘tử-tế’’ rồi. Tôi đâm sợ những con gái nhà  ‘‘lương-gia’’. Họ tầm thường lắm. Họ chỉ có cái ham muốn những sự hưởng thụ làm sẵn. Cũng có người khi bước chân về nhà chồng là mang về nhà chồng cái lòng mong muốn làm vợ, làm mẹ, làm những người vợ, người mẹ mẫu mực đấy. Mà những người như thế, rất hiếm, rất khó gặp. Anh tính, một người bận rộn như tôi, cần phải kinh doanh, nay đó mai đây như tôi, còn có thì giờ đâu mà theo đuổi những cuộc tình duyên năm lừa bẩy lọc. Thế mà anh bảo không mất thì giờ, không lừa lọc, không thử thách, không trải qua những trường hợp, những phút nghiêng ngửa nó lột trần lòng con người ta ra, nó gọi rõ mặt, chỉ đúng tên, thì biết ai là người hay, ai là kẻ dở; Những tin đi, mối lại, láo hết! Chính mình, mình phải làm mối cho mình. Ấy chỉ vì tôi để người ta làm mối cho tôi hai lần, cho nên hai lần, tôi lấy vợ mà bây giờ vẫn không vợ!

— Anh không nên bi quan quá thế. Con gái nhà lương- gia chán người tử tế, chẳng qua anh không may nên chưa gặp đấy thôi.

Thái lắc đầu, chán chường:

— Rất có thể có người khá. Rất có thể tôi lầm. Nhưng, biết làm thế nào! Những ý nghĩ ấy nó đã ăn sâu vào tim - óc tôi, có lẽ đó là một thành kiến không hay, nhưng nó đã mọc rễ chắc trong lòng tôi rồi. Chịu ! Chịu ! Con ông giời, cháu bà giời, cũng xin chịu!

— Lấy vợ, cứ gì phải lương-gia, tử đệ. Miễn người có lòng là được...

Anh Thái lại lắc đầu:

— Ấy thế mà vợ cái, con cột, lại cử phải

chọn ở trong đám con nhà tử tế. Nói thế,

không phải là hẹp nghĩ, là hủ lậu đâu. Chỉ có những thiếu nữ con nhà nền nếp, mới có thể là bông hoa tinh khiết trong nhà, mới có đủ  đức tính để làm một người mẹ hiền, sinh con đẻ cái, nuôi con, giậy con nên người. Anh có thấy mấy người trong chốn hoa nghuyệt giở về mà có được những đức tính ấy đâu? Lấy về nó không cắm sừng cho ta ngay là phúc!

 Tuyết-Anh bĩu môi rồi cười nhạt;

— Cũng tùy chứ. Ai cũng như thế cả hay sao.

Thái cười xòa:

— À em khác. Với lại tôi có nói em đâu!

Tuyết-Anh vặn :

— Khác là khác thế rào?

— Khác là không bao giờ em cắm sừng cho anh cả !

— Tại sao anh biết?

Thái cười, hóm hỉnh:

— Tại không bao giờ em lấy anh. Tại không bao giờ anh lấy em. Tại không bao giờ chúng ta lấy nhau.  Thế thì còn cắm sừng vào chỗ nào nữa. Hỏi nữa thôi?

Tuyết-Anh phát vào vai Thái:

— Nói thế mà nghe được!

— Thế thì nói thế nào, em bảo anh nói đi?

Cái vui vẻ phù du thoáng qua, rồi tan rụrg, để câu chuyện lại tiếp tục trong một bầu không khí đượm buồn.

— Vợ cái con cột phải tìm trong đám con nhà tử tế, mà con nhà tử tế, lại khó mà hiểu được mình, được cái chân giá trị thằng đàn ông của mình, để cùng vui với mình, rung lên một điệu với mình, để cùng đi cho hết con đường đời. Hiểu được mình, vì đã so-sánh bao nhiêu đàn ông khác, cùng rung với mình trong nhiều trường hợp tình cảm sôi nổi, chỉ có gái giang hồ, mà gái giang hồ, — xin lỗi em — lại thiếu cái đức tính của người vợ, người mẹ.

Tuyết-Anh cười nhạt;

— Thế thì có giời chiều được ‘‘ông’’

Thái gật đầu:

— Khó nghĩ thật. Bởi thế cho nên anh đã tìm ra được một cách giản dị hơn cả.

—?!

—... là từ nay trở đi, sẽ không bao giờ lấy vợ nữa!

Vân, từ nẫy đến giờ vẫn ngỗi nghe, bấy giờ mới lên tiếng:

— Thế thì đời buồn lắm. Buồn lắm!

— Em thì biết gì! Đời còn có rượu, có thuốc phiện, có các em. Ăn chơi!

Thái reo lên như thế, rồi vơ lấy cái dọc tẩu, tiêm, hút một chập.

Rồi, bỗng anh ngồi nhỏm giậy, đưa mắt nhìn khắp gian nhà một lượt, rồi nhìn chúng tôi:

- Một cái lò ấm áp, một người vợ trẻ đẹp, những đứa con kháu-khỉnh, ngoan-ngoãn, ai là không muốn? Nhưng, những cái ấy, nhiều khi mua bằng giá rất đắt. Mà cái giá đắt nhất là sự làm hèn cái thằng người của ta đi. À, cái gì, chứ cái ấy thì không, không. Nhất là sống cô độc suốt đời. Chứ phải uốn mình để chiều những cái con khỉ con tườu, thì đây chịu.

— Nếu anh cứ nghĩ thế, nếu anh không chịu nhượng bộ một chút, thì không bao giờ anh yên bề gia thất. Mà bề trong không yên, anh cũng không thề để hết tâm vào sự nghiệp kinh doanh được.

-Tôi đã nhượng bộ nhiều rồi. Bây giờ, tôi thấy những sự nhượng bộ ấy không đưa đến cái gì cả.

Rồi, giọng anh cảm-khái lên:

— Và, bây giờ, tôi chỉ say về công việc. Chí tôi có nhiều hoài bão, mà nếu không đạt được, thì không bao giờ tôi yên dạ để tính đến việc vợ, con kia khác.

Tôi để yên anh hút thuốc phiện một lúc, rồi hỏi:

— Nhưng, thực ra, cứ sống như thế, nhiều Iúc anh cũng thấy lạnh lòng chứ?

Anh nhìn lên trần nhà, cái nhìn mơ-hồ:

— Có lẽ không! Có lẽ tôi rập tắt hẳn được cái ham muốn ái ân ngùn ngụt đốt lòng tôi. Tôi cũng không biết rằng như thế là đáng vui hay là đáng buồn. Tôi chỉ biết rằng tôi thấy lòng tôi thanh thản hơn trước, tính việc sáng hơn trước.

— Cái thanh thản ấy, không khéo là cái thứ thanh thản tự diệt., cái thanh thản chết của một đạo sĩ. Mà anh thì không phải là một đạo sĩ vùi mình ở trong am vắng được. Đời anh là đời vật lộn, anh còn gặp nhiều nỗi khó khan, còn phải trải nhiều cơn vất vả, gian lao. Anh phải cần được an ủi mà cái nguồn an ủi độc nhất của người đàn ông họat động chỉ có ở người tình nhân, ở người vợ, ở người đàn bà tâm đầu ý hợp. Anh chưa gặp đó thôi, mà anh chưa gặp, vì anh chưa chịu để hết tâm cơ tìm kiếm. Của giời, mà nhất là của quý — thì người đàn bà tâm đầu ý hợp chả là của quý là gì – có bao giờ tự dưng rơi xuống cho ta đâu? Anh đừng nên ngã lòng.

— Không, tôi không ngã lòng. Tôi đành lòng với định mệnh...

— Đành lòng cũng không phải là thái độ thích đáng của kẻ đi chinh phục cuộc đời. Đời ta, là ở tay ta, ở trí ta, ở lòng ta. Ta phải làm lấy đời ta.

— Thì đấy, tôi đã tự tay tôi, tự trí tôi, tự lòng tôi, mà làm cho tôi một cuộc đời có thể gọi được là rực-rỡ...

Tôi dơ tay, ngắt lời:

— Mặc dầu, đời anh vẫn thiếu, mà thiếu cái phần chính nhất. Những kẻ đề xướng cái chủ nghĩa độc thân, chẳng qua là bất lực, là vô tài, ốc chưa mang nổi mình ốc, phải tự tước đi những bổn phận và luôn đó, tước cả cái phần hạnh-phúc của đời mình.

Thái nói, giọng phản đối:

— Xưa nay, những bậc danh-nhân không

vợ cũng nhiều.

Tôi cười nhạt:

__ Thế anh có là danh-nhân đâu? Anh đã hy sinh những gì? Anh đã làm được cái gì lớn lao, để khả dĩ bắt chước danh nhân mà không vợ? Hay anh cũng chỉ như tôi, như trăm nghìn người dân khác?

Thái lặng im một lúc rồi vùng nói:

— Đây này, bây giờ tôi chỉ quan niệm về đàn bà về phương diện vật chất. Tôi cho rằng đàn bà chỉ có thể ngang hàng với ta ở cái phần đó thôi. Lẽ tất nhiên, một cô gái con nhà lương thiện, không thể cùng chung với tôi cái quan niệm ấy, như vậy, tôi không đợi gì ở bọn họ. Tôi cũng lại không thể chung sống hàng ngày với đàn bà được. Tôi chỉ có thể dâng cho họ cái xác thịt của tôi.

— Thế anh muốn gì?

— Tôi chỉ muốn có một cái nhà ở Hà-nội, nó cũng là một thứ tổ ấm áp — vì có lò sưởi điện! Cái nhà ấy, tôi sẽ trang hoàng, bầy biện một cách mà nhà văn các anh gọi là nên thơ, hay là gì gì cũng được. Rồi tôi sẽ mời một mợ xinh xinh — như em Tuyết-Anh đây chẳng hạn, về ở cái nhà ấy. Rồi tháng tháng, tôi đem về, hay gửi về một số tiền, tùy sự bằng long của cả hai bên, giá cả phải chăng, thuận mua vừa bán. Rồi tuần lễ, nửa tháng, năm ngày ba ngày, tôi về Hanoi, tôi đến. Đấy, như thế đấy, em Tuyết-Anh có bằng lòng thì nhận lời đi. Giá cả tùy em định lấy, sao cho phải chẳng.

— Có họa ông là bố người ta. Ai chứ đây xin lạy ông cả nón.

Thái cười hềnh hệch ;

— Chơi thì chơi, thôi thì thôi. Tùy. Điều ấy, anh không bắt ép

— Ép cũng chẳng được.

— Đã đành!

Anh Thái về đồn điền đã hơn ba tháng. Buổi gặp gỡ, với những điều anh nói với tôi đêm ấy nhòa dần trong trí tôi. Rồi công việc hàng ngày đem đến sự quên lãng, tôi cũng không còn nhớ rằng tôi đã hẹn anh, nếu có thể, trước Tết năm ấy, lên săn bắn với anh một tuần.

Mà nhớ thế nào được, nhớ để làm gì, câu chuyện với một người bạn gặp trong một đêm, nếu không có cơ hội gì xẩy ra đáng ghi nhớ !

Thì cái cơ hội đáng ghi nhớ ấy đã đến với tôi, một buổi chiều.

Một buổi chiều, tôi đi chơi về, thấy thằng nhỏ nhà tôi đưa ra một cái danh thiếp. Tôi đọc ngay thấy ba chữ:

Vương hữu Thái

Điền-chủ

Tôi lại thấy mấy hàng chữ ở mặt sau:

‘‘Anh Văn,

Chờ mãi, có việc phải đi, 6 giờ lại, đón anh đi ăn bữa cơm đầu tiên với  ‘‘vợ chồng’’ đệ.

Ký tên.

Tôi thật là xa cái sự Thái lấy vợ trăm dậm!

Thái lấy vợ! Lấy bao giờ? Lấy ai? Mà sao không cho tôi biết để đi mừng bạn? Mà sao lại bữa cơm đầu tiên? Mà sao hai chữ vợ chồng lại vòng dấu ngoặc?

Từng ấy câu hỏi đang múa lộn trong đầu tôi, thì Thái đánh ô tô đến.

— Thế nào? Cưới bao giờ thế? Sao không cho biết sớm?

Thái tươi-cười:

— Cưới ngày hôm nay!

— Hôm nay??

Thái gật đầu.

— Chị ấy người Hanoi hay sao?

Thái lại gật.

— Mes félicitations, alors ! Nhưng chị ấy …con ông bà nào thế?

Thái nở một nụ cười bí mật:

— Đừng hỏi... Chốc nữa sẽ biết.

Thái vặn ô tô đưa tôi đi một loáng tới phố Quan Thánh, rồi đỗ trước một tòa nhà hai tầng, nho nhỏ, xinh xinh, có hoa ti-gôn trước cửa, có lệ liễu buông tơ bên cửa sổ. Rõ ra bề ngoài của một cái tổ ấm con con.

Thái đưa tôi vào trong cái ‘‘tổ ấm’’ xinh xinh ấy.

Tôi thấy... Tôi thấy gì?

Tôi thấy một thiếu phụ ra đón tôi.

Thiếu phụ ấy là... Tuyết-Anh.

Tôi chưa hết ngạc nhiên, thì nàng đã tươi

cười, cúi đầu chào tôi:

— Thưa bác, lẽ ra em cùng đi với nhà em lại đón bác, nhưng vì nhà mới dọn, phải trông cho chúng nó bầy biện cho nó khỏi trướng mắt một chút.

Tôi phải đáp suôi:

— Đáng lẽ phải đến mừng anh chị sớm kia

đấy, nhưng vì mãi đến chiều nay, anh ấy

mới cho biết tin mừng.

— Ấy, chúng em cũng vừa mới dọn đến nhà

mới xong đấy.

 - Và bữa cơm chúng tôi mời anh đây, là

bữa cơm gia-đình đầu tiên của chúng tôi đấy.

Tôi cười:

— Thế thì hân hạnh quá nhỉ! Nhưng tiếc quá, tôi không được biết sớm, chẳng có gì

mừng hai... bác được. Thôi để...

Thái gạt ngay:

— Ồ, anh với tôi, có phải người xa lạ ở đâu mà phải mừng với miệc gì.  Anh đến chơi với chúng tôi, tức là anh mừng cho chúng tôi rồi, mà sự mừng ấy mới quí.

Phút ngạc nhiên qua. Trong khi sắp định một thái độ đối với Tuyết - Anh, từ nay đã là vợ bạn tôi, tôi chú ý nhìn nàng, vẫn thấy cái ‘‘khuôn giăng đầy đặn, nét ngài nở nang’’ ấy, nhưng một cái gì khác đã thay mần sắc từ y-phục, cử chỉ, cho đến tiếng nói nụ cười của người đào nuơng bữa trước.

Có lẽ cái gì ấy là cái phép nhiệm mầu của tưởng tượng. Tuyết-Anh vẫn là Tuyết- Anh.

Nhưng, với tôi, từ nay Tuyết-Anh là vợ anh Vương hữu Thái, bạn tôi.

— Anh chị ở tòa nhà này vừa xinh. Thực là một cái tổ uyên-ương.

Tôi vừa nói, vừa đưa tay khoát một cử chỉ bao quát khắp gian phòng, trên bộ sa-lông có lò-so, trên những đồng hồ, quạt máy, tranh sơn, tượng bán thân, nghĩa là đủ những đồ đạc tiện lợi tân thời và mỹ thuật quí giá.

Ánh đèn điện sáng trưng, làm nổi hẳn lên mầu đồng ám khói của gỗ, mầu trắng xanh của xứ, màu ngà của tượng nặn, màu sặc-sỡ của tranh ảnh, và, đậm hơn, mặn mà hơn, cái màu của má hồng môi thắm.

Tôi cười bảo Thái:

— Anh thực là một người sành. Nhà cửa trang hoàng cực nhã. Lại thêm một vị nữ chủ nhân như chị tôi đây ra vào thướt tha như một nàng tiên.

Tuyết-Anh ngắt lời:

— Thôi, anh đừng nịnh em quá, e không xứng. Các anh, nhà văn, cái gì cũng tô điểm thêm.

— Không, tôi nói thực. Trông chị ra vào trong căn phòng này, tôi có cảm tưởng là bước vào một cái động tiên. Tôi mừng cho cái hạnh phúc của anh chị, và nhất là của anh đấy.

Anh Thái điềm nhiên:

— Hãy biết được lúc nào hay lúc ấy.

Nhân một lúc, Tuyết-Anh vào trong nhà sai bảo đầy tớ, Thái bảo riêng tôi:

— Ấy cho nó về đây cho nó yên việc. Mình nghĩ: nó xem ra bụng dạ cũng không đến nỗi bẩn lắm, mà lần nào về Hà-nội, không đến với nó thì hình như nó cũng làm sao ấy, âu bằng tính cách thế này cho nó ổn.

— Nhưng anh định lấy làm vợ hẳn, hay làm tình nhân, hay làm gái bao tháng?

— Không hẳn ra hạng nào cả. Chỉ biết rằng tôi với hắn đã ký kết bằng sự ưng thuận của hai tấm lòng, một tờ giao kèo trong tinh thần: mỗi tháng tôi cho hắn trăm bạc tiền ăn, trăm bạc tiền mặc, trăm bạc tiêu pha vặt vãnh. Tiền nhà, tiền thằng bếp, con sen, tôi chịu. Cái điều kiện duy nhất tôi buộc hắn, là ở với tôi ngày nào, phải một niềm đoan chính trung thành ngày ấy. Ngày nào mà hắn chán tôi, hay tôi chán hắn, thì cứ việc bảo thẳng cho nhau biết không cần phải dấu diếm. Như thế tôi tưởng minh bạch đấy chứ?

— Minh bạch thì có minh bạch. Nhưng tôi nghe nó thế nào ấy.

Thái hỏi dồn:

— Sao? Sao lại thế nào?

— Như thế, tôi thấy ở trong chả có chút tình nghĩa nào.

Thái vỗ vai tôi:

— Sao anh gàn thế. Đã bảo tôi không cần đến tình nghĩa nữa mà! Tôi đã biết thế nào là tình, là nghĩa rồi mà. Bây giờ, tôi chỉ cần có một sự bằng lòng phải chẳng.

Rồi ank chắp hai tay sau đít đi đi lại lại quanh phòng, miệng nói liên miên như người bị chiếm hồn bởi những ý nghĩ mê sảng:

— Tình là gì? Nghĩa là gì? Một người con gái, chưa quen biết ta và ta cũng chưa quen biết, hay có biết nhau cũng chỉ là thoáng trông mặt, biết họ tên, còn nhất thiết tâm tính một tí gì ta cũng không biết, nhất đán những lễ nghi đem ghép đời người ấy với đời ta. Người ấy không yêu ta, mà đến với ta như thế, có khác gì bán mình cho ta không ! Bán mình một cách công khai, bán mình cho pháo đỏ, lợn quay, cho tiền dẫn cưới, cho ô-tô đón dâu, cho cái địa vị ta, tài sản ta. Người ấy bán mình, mà không chịu là bán mình. Người ấy lại có quyền hạch xách ta, nhăn mặt khi ta thở khói thuốc lá, mặt xưng mày xỉa khi ta đi chơi đêm. Thế mà người ấy lại không tự nhận là bán mình, tiếm quyền mà không biết rằng tiếm quyền, không yêu thương ta mà tại đòi ta yêu, ta thương, như thế là ăn cắp tình cảm của ta. Ấy vậy mà luật pháp che chở, dư luận kính nể. Mà ta không yêu mà vẫn phải chung sống. À, đã không nghĩ thấu những lý lẽ đó thì thôi, biết rõ, không thể chịu yêu trước tình thế ấy được..

 Tôi ngắt cái tràng ngụy biện, đang nở như hoa cà hoa cải ấy bằng một tiếng cười ròn và nói chặn:

— Thế nghĩa là anh sắp sửa ca tụng Tuyết-Anh?

— Tôi không ca tụng. Trước, sau, tôi chỉ coi Tuyết-Anh là một gái giang-hồ, nghĩa là nó nôm là một con đĩ. Tôi đến hát nhà hắn, mất tiền. Tôi đem hắn về đây, tôi cũng mất tiền. Hắn cho tôi những phút khoái lạc hả hê, thì tôi đem đến cho hắn những điều  kiện sinh sống dễ dàng, sung túc. Chúng tôi còn ở với nhau ngày nào, sự trao đổi ấy vẫn còn. Chán nhau, thì xa nhau, thì chia rẽ. Giản-dị lắm.

 Giữa lúc tôi toan cất tiếng phản đối, thì

Tuyết-Anh bước vào. Hình như nàng đã thóang nghe thấy những điều chúng tôi nói với nhau, cho nên vừa bước vào là nàng nói ngay:

— Ấy thế mà rồi chúng em nên vợ, nên

chồng chưa biết chừng đấy.

Tôi cuời:

— Thì thế nào nữa mới là vợ chồng! Vợ chồng thì cũng đến ăn ở với nhau như anh chị thế này thôi chứ gì?

Tuyểt-Anh khẽ lắc đầu. Trong cái lắc đầu ấy, tôi thấy như hàm chứa một ngao ngán bâng khuâng.

— Tuy thế, nhưng cũng khác.

Rồi nàng nhìn Thái cười cái cười cố làm ra hồn nhiên:

— Khác một tị, có phải không mình?

Tôi thấy đôi lông mày Thái như hơi nhíu lại một chút.

Nhưng sự đó chỉ thoáng qua như một cái bóng nhạt. Thái lại tuơi ngay nét mặt:

— Thôi, không nói truyện đường trường dông dài. Tôi mời anh đến ăn bữa cơm gia đình đầu tiên của chúng tôi. Đến giờ rồi, thôi, ta sang buồng ăn.

Những ngày Thái về Hanoi, anh khôngquên đến chơi tôi, vì tôi là bạn thân của anh, vì tôi thỉnh thoảng làm vui anh bằng một vài câu chuyện lý thú, và có lẽ thứ nhất, vì cái mối tình oái oăm - có thể gọi được là tình không?— giữa Thái và Tuyết-Anh.

Tôi, trước sau, vẫn không biểu đồng tình cái tấn kịch ân ái ấy, hay nói cho đúng, không cho nó cái vẻ quan-trọng của những mối liên lạc tình  cảm chặt chẽ. Tôi chỉ coi là một trò du hí, một con đú đởn, dửng mỡ của những nguời mà trái tim ‘‘thất nghiệp’’ trong tình ái không biết làm gì cho qua cái trống rỗng, làm giăng làm gió ra thế mà thôi. Rồi cái trò du hí ấy có lúc cũng phải hạ màn, chẳng mấy lúc mà hạ màn.

Tôi tuy vì lễ độ xã giao không nói ra miệng, nhưng anh Thái ngầm hiểu, bởi mặc dầu lần nào anh cũng dặn tôi thỉnh thoảng đến thăm Tuyết Anh, và hễ có việc gì cần mà anh chậm về, thì thông tin ngay cho anh biết, nhưng tôi chỉ lại cái ‘‘sào-huyệt’’ » ân ái ấy, khi nào anh Thái về tìm tôi.

À, tôi phải giữ tiếng, phải phòng xa chứ. Tuyết-Anh trẻ, đẹp, thứ nhất lại xuất thân ở một chốn mà trước kia, ai cũng có thể đũa bỡn được, cả tôi nữa, nếu tôi muốn.

Anh Thái hình như hơi khô khổ về cái chỗ tôi không coi Tuyết-Anh như vợ một người bạn, nghĩa là như chị gái của tôi. Tuy bề ngoài, vẫn một điều, hai điều, chị chị em em, nhưng nghe kỹ thì dường như ở trong tiếng đàn vẫn có vài chỗ ngang cung vậy.

Thì biết làm sao được ! Chính Thái cũng không coi Tuyết-Anh là vợ mình, thì tôi, tôi nhận Tuyết Anh là vợ Thái sao được.

— Con bé dạo này ngoan đáo để, anh ạ.

Mình nghĩ lắm lúc cũng thương thương.

— Thế thì anh chính thức lấy đi rồi đem chị ấy lên đồn điền có được không. Tội gì cứ làm cái lối giở giăng giở đèn như thế?

Thái lắc đầu, khăng khăng:

— Lấy thế nào được. Thương là thương vậy, chứ của một đồng, giả một nén sao được. Cái gì, ta cũng phải xử theo giá của nó mới được chứ!

Cũng có lần, anh đến tôi với một bộ mặt hầm hầm:

— Con khốn nạn. Nó khốn nạn quá! Tôi phải tống nó ra khỏi mới được.

Tôi vội hỏi:

— Làm sao? Chị ấy làm cái gì mà anh giận dữ thế?

Anh Thái nói như quát vào tai tôi:

— Làm cái gì? Nó làm cái gì? Anh còn hỏi làm gì? Nó chỉ đáng đá vào đít, tống ra khỏi cửa.

— Thì đầu đuôi thế nào mới được chứ?

Thái ngồi bệt xuống ghế, giơ hai tay lên trời;

— Còn thế nào nữa! Tôi đã dặn nó từ tuần trước, chiều thứ bẩy này phải chờ tôi về rồi cùng ăn cơm, thế mà nó nhất định ăn cơm trước. Hỏi, nó lại nhăn răng ra cười, kêu: ‘‘em xấu đói lắm’’. Thế thì anh bảo thánh cũng không đừng tức được.

Tôi bật cười:

— Thánh và anh không nhịn cái tức được, nhưng tôi, tôi thấy rằng cái cớ ấy chẳng đáng khiến cho anh có cái vẻ mặt hung thần thế kia.

Rồi tôi cầm chiếc gương dí vào mũi anh;

— Đây, anh thử coi cái diện mạo của anh xem, đối với một người đàn bà mà anh nói là anh không yêu, và do một cớ nhỏ mọn như thế, lầm lầm sát khí thế kia, có đáng hay không?

Thài liếc qua chiếc gương, nín lặng một lúc rồi nói:

— Ừ, kể mình cũng khí quá nóng.

— Lại còn khí quá. Phải nói rằng vô lối mới đúng.

Thái thấy mình hơi lố bịch, nói lảng ra truyện săn bắn, săn biếc.

Lại một lần nữa, anh đến chơi tôi giữa cơn mưa gió với một bộ mặt rầu rầu.

Anh bảo tôi:

— Này, anh ạ, lúc nãy nằm bên con bé, tôi thấy nó ngủ một giấc ngủ lành hiền, hình như phó mặc cả thân thể lẫn linh hồn cho tôi, tôi thấy lòng cũng nao nao làm sao ấy.

— Thế chắc anh yêu thật rồi chứ gì?

Thái lắc đầu, vẻ mặt băn khoăn.

— Cũng không hẳn ra yêu. Nhưng tôi thấy lòng như bất nhẫn thế nào ấy. Kể nó cũng có nhiều điểm tốt. Chỉ ghét cái nhiều lúc nó ngang cành bứa, đến khó giậy.

— Thì... không phải là vợ anh hẳn, cần gì phải giậy dỗ cho nó tốn công nhọc sức

— Cũng phải giậy chứ. Để cho mỗi khi gần nó, mình khỏi phải gặp những cái khó chịu.  

— Tôi tưởng anh đã đành lòng với Định Mệnh, đành lòng với Cuộc Đời, thì những cái nhỏ nhặt, cần gì anh phải để ý đến, cần gì phải bận tâm đến, mua lấy những cái rắc rối vào mình, vô  ích.

Thái lặng im nghe tôi nói một lúc rồi đứng

giậy:

— Tâm hồn con người ta, có lắm cái phiền phức lắm. Anh là nhà văn, chắc anh hiểu rõ tôi hơn ai hết.

Anh nói rồi buồn bã ra về.

Phải, tôi hiểu rõ anh, tôi hiểu cái tâm hồn phiền tạp của anh. Tôi hiểu rằng anh chỉ định ‘‘bao’’ một người gái giang hồ làm một thứ đồ chơi tiêu khiển. Tôi hiểu rằng người con gái giang hồ ấy có một tâm hồn — ai mà chẳng có một tâm hồn — Tuy không được cao quí, không được trong trắng như ai, nhưng nhiều khi cũng có một vài cái dễ thương nó phát biểu ra trước mắt anh mà len lén đi vào lòng anh. Rồi nó bám chắc ở đấy, gây nên một thắc mắc, cảm thương pha lẫn với hối hận.

Phải, tôi hiểu, tôi biết, con người không phải là gỗ đá, một đêm nằm một năm ở, huống hồ quen hơi bén tiếng bấy lâu.

Thứ nhất Tuyết-Anh lại là một người con gái dễ thương, lại nhiều khi biết thành thực, dù có lúc cái thành thực ấy có phần tráo trợn những cái tráo trợn nó đánh thẳng vào tâm hồn người ta.

Và tôi lại biết rằng Thái cũng nhận thấy cái phần hương nhụy còn xót lại trong đóa hoa rụng ấy, nhận thấy để quí, để yêu, và để chua xót thay. Vì, xung quanh cái tinh khiết gạn lọc ấy, chàng lại nhìn thấy đầy rẫy những bùa lấm, nó vấy khắp bông cánh rã rời.

Vì thế nên lòng anh bị căng xé bởi hai thứ tình cảm tương phản cho đến một ngày kia, tất anh phải chênh dạ về một bên.

Cái cuộc phối hợp khác thường của đôi trai gái không ra vợ chồng, không ra nhân ngãi ấy cứ cọc cạch kéo mãi, thấm thoát đã được một năm.

Trong cái thời gian ấy, chắc bao nhiêu vui buồn đã xẩy đến trong cái tòa nhà xinh xinh ẩn giữa những chòm lệ liễu, những bông ti-gôn. Mà sự chung đụng ấy không biết để giáp lại hai tấm lòng, hay để giãn ra hai số kiếp.

Bẵng đi đến hai tháng, không thấy Thái lại chơi, tôi đã toan viết thư lên hỏi, thì một hôm, Tuyết-Anh đến thăm tôi.

‘‘ — Nàng đến, tất có việc gì bất thường đây.’’

Tôi nghĩ bụng thế, vì từ ngày lấy Thái đến giờ, chỉ có một lần nàng cùng đi với Thái đến thăm tôi mà thôi.

Thấy nàng, tôi chào rồi hỏi ngay:

— Chị đến chơi em, tất có việc gì cần đấy chứ? Anh ấy có làm sao không?

Tuyết-Anh đáp, tiếng nói như người nuốt than trong cổ:

— Cần…nhưng cũng không cấp lắm. Có điều em đến đây để từ giã anh đây.

Tôi ngạc nhiên:

— Ơ hay? Chị sắp đi đâu vậy? Hay chị lên đồn  điền với anh ấy?

Tôi hỏi là hỏi thế thôi, chứ tôi biết trước rằng câu giả lời của nàng sẽ trái lại. Vì tôi trông nàng ủ rột như một cây sầu đông về chiều hôm.

Trên cái khuôn mặt đầy hơn dạo tôi gặp nàng mấy tháng trước nhiều, như in rõ bao nhiêu dấu vết của những cuộc xung đột của các tình cảm, bao nhiêu dấu vết của gắng gỏi hóa ra chán chường, của hăm hở hóa ra thối chí.

Trông quầng mắt hõm thâm ấy, đôi con mắt lừ đừ ấy, ta thấy như in rõ lên một câu:

— Người đàn bà này đã khóc nhiều rồi đây.

Nàng cất cái giọng buồn rầu như cái giọng của một người tu hành, chẳng may cảnh ngộ bắt phải phá giới quay về vòng tục.

— Em không bao giờ lên đồn điền anh Thái nửa. Em đến để phiền anh giúp em một việc

có lẽ là lần đầu mà là lần cuối cùng.

— Việc gì thế chị? Lành hay dữ?

Nàng đáp chậm rãi:

— Không lành cũng không dữ. Nhưng một việc quan trọng, em nhờ anh viết hộ em một bức thư cho anh Thái.

Tôi linh cảm thấy một sự biến cố chi đây.

— Chị định viết gì cho anh ấy?

Tuyết-Anh ngồi xuống chiếc ghế tôi vừa kéo mời nàng, rồi ngước cặp mắt đượm buồn nhìn tôi:

— Trước hết, em đến xin anh một chút tình thương, và mong anh lấy lòng rộng hiểu mà tha tội trước đi cho em,

Tôi băn khoăn, nói vội:

— Thì bao giờ tôi chả quí mến anh chị. Có điều gì chị cần mà tôi có thể giúp chị được, tôi xin vui lòng giúp ngay.

Tuyết-Anh ngập ngừng một lúc, đưa mắt trông quanh phòng. Tôi hiểu ý, nói ngay:

— Nhà tôi rất tự nhiên, có một mình tôi, chị đừng ngại gì ai nghe thấy điều bí-mật – nếu quả cái điều chị sắp nói với tôi là một bí mật. Và nếu cần, tôi cam đoan sẽ giữ kín cho chị.

— Không, không lấy gì làm bí mật lắm. Tôi lại đây chỉ cốt nhờ anh viết cho nhà tôi một bức thư, để...

— Chị cứ nói. Chị có thể tin tôi, tin cái danh dự làm người của tôi như con chiên xưng tội trước ông cố — nếu quả chị đã phạm tội gì?

Tuyết-Anh ngập ngừng một giây, rồi:

— Không, em không phạm tội gì hết. Em chỉ nhờ anh viết thư nhắc lại cho anh Thái cái điều trước kia chúng tôi giao ước với nhau. Hễ khi nào chán nhau, cứ việc nói thẳng. Em tin rằng anh ấy sẽ giữ lời hứa mà trả lại sự tự do cho em!

Tôi trố mắt nhìn Tuyết-Anh:

— Chị định bỏ anh ấy?

Tuyết-Anh trả lời gọn lỏn ;

— Vâng!

— Thế chị không yêu anh ấy hay sao?

— Có, em vẫn yêu anh ấy. Nhưng em cảm thấy rằng anh ấy không yêu em, anh ấy chỉ coi em như một thứ đồ chơi mà thôi. Trước kia, em vì...tiền mà ăn ở với anh ấy, em coi cái thái độ của anh ấy đối với em là thường, thế nào cũng được, miễn cứ tháng tháng anh ấy cho em đúng số tiền đã định. Nhưng, dần dần, em thấy yêu anh ấy, em thấy cần phải có anh ấy, đời em mới đáng sống, thì em thấy cái đồng tiền anh ấy đưa cho em không phải bằng một bàn tay yêu đương mà bằng một bàn tay của ông chủ trả tiền công cho người làm, em thấy tủi lắm. Em không thể sống cái đời  ‘‘gái bao’’ như thế nữa. Em thấy nó dơ bẩn lắm.

— Thế sao chị không ngỏ cái tình của chị ra cho anh ấy biết lòng chị?

— Có, em đã nói nhiều lần, và lần nào anh ấy cũng chỉ cười mà không nói gì. Cho đến tuần trước đây, em quỳ xuống chân anh ấy, em xin anh ấy đừng tháng tháng trả tiền em nữa, mà cứ coi em như một đứa tôi mọi, cho được ở gần hầu hạ. Thì anh ấy chỉ lắc đầu cười, và bảo là em điên, nếu có cần phải lêa nhà thương Vôi thì anh ấy cho tiền đi.

— Anh ấy nói đùa biết đâu!

— Không, anh ấy nói thật, anh ấy không có nói đùa bao giờ, em biết tính  anh ấy như thế ; và em đã nói cho anh ấy biết rằng nếu anh ấy không xét cho lòng em. Nếu anh ấy coi thường lời em nói, thì sẽ có sự không hay xẩy tới giữa chúng ta. Anh ấy vẫn không coi vào đâu cả.

Tôi gắng khuyên nàng:

— Chị đã  có lòng yêu anh ấy như thế,cố gắng công một lần nữa có được không? Cố kiên nhẫn ít lâu nữa có được không!

Tuyết-Anh lắc đầu:

— Em đã gắng công nhiều lắm, đã kiên tâm nhiều lắm rồi. Bây giờ, em thấy rằng sự gắng

công, sự kiên nhẫn của em gặp một cái núi đá.

Tôi cố thêm:

— Thì chị... biết anh đã được bao lâu mà đã vội đứng núi này, trông núi nọ.

Tuyết-Anh cau mày:

— Không, không phải em có trông mong gì cây cao lá dài hơn đâu. Em xin thề với anh rằng nếu lúc này mà em có nghĩ đến một người đàn ông nào thì em chết, không còn sống thêm lấy một ngày nào nữa.

— Thế thì sao chị không cố thêm, cố thêm một chút nữa thôi? Ở đời, chỉ có sự cố gắng cuối cùng, phút cuối cùng là đáng kể.

Tuyết-Anh lắc đầu một cách tuyệt-vọng:

— Em đã làm hết sức một người đàn bà có thể làm rồi. Nhưng em không thể cố gắng được với lòng em, vì lòng em luôn luôn gào thét rằng: Còn sống ngày nào như thế là sống trong sự bẩn thỉu, trong sự nhục nhã.

— Nếu quả chị yêu anh ấy thì chị há lại không chịu được một vài điều khó chịu mà chị phóng đại lên, cho là nhục nhã đó hay sao! Yêu, ta phải biết chịu đựng chứ!

— Em chịu đựng như thế, đủ lắm rồi. Anh Thái anh ấy không biết lòng cho em thì thôi.

Tôi cười gằn:

— Thế thì chị yêu anh ấy được bao nhiêu!

Tuyết-Anh nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong cái nhìn ấy, tôi thấy đầy vẽ trách móc. Duờng như nó bảo tôi rằng:

— Sao anh lại nói thế? Anh nói thế tức là anh cười giữa một đám tang đó.

Tôi tự nhủ: Nguời đàn bà này đã yêu đây, và đã linh cảm thấy rằng mình phải vươn tay lên để với một cái gì không bao giờ với tới, nhưng người ấy bây giờ đã ôm hận mà rụt tay về, đành lòng thu tay lại. Cái đành lòng ấy là một cái gì bình thản lạnh như một tảng băng, không trận gió nào làm cho dăn nếp được nữa.

Tôi liền thở dài, sau một khắc yên lặng:

— Vâng, thì tôi xin viết. Nhưng chị muốn viết những gì cho anh ấy?

Tuyết-Anh đứng dậy, bước đến bên tôi, rồi nắm chặt lấy tay tôi, như van Iơn,như cầu khẩn:

— Anh làm ơn viết cho anh ấy rằng: Em nhắc lại cái điều kiện trước, là bây giờ em chán anh ấy rồi, xin anh ấy về nhận lấy nhà cửa, đồ đạc. Em đợi anh ấy ba ngày. Thế thôi. Xin anh làm ơn viết ngay cho em đi.

Tôi ép lòng đi làm cái công việc không hứng khởi một chút nào ấy.

Tuyết-Anh đứng ngay đầu bàn giấy, trông tôi viết. Nàng mỉm cười, nửa buồn bã, nửa hóm hỉnh:

— Ấy, xin anh viết đúng như những điều em vừa dặn anh đấy. Em không viết được nhưng em đọc được, anh đừng để em phải bắt anh viết lại đấy.

Nàng cầm bức thư tôi viết xong, đọc lại cẩn thận, niêm kín, rồi bảo tôi:

— Cám ơn anh và xin lỗi anh, vì em đã làm phiền rộn, mất cả giấc ngủ trưa của anh.

— Có gì mà phiền rộn. Nhưng rồi chị đi đâu?

— Em cũng chưa biết rồi em sẽ đi đâu. Có điều em sẽ đi xa lắm.

Rồi nàng thở dài một tiếng ảo não, nó như rút hết những cái buồn thảm đen tối trong tâm hồn nàng, mà trút sang hồn tôi.

— Cũng là một kiếp người. Số cả!

  Năm hôm sau, khi tôi vừa viết xong một cuốn truyện dài, đang không biết làm cái gì, chơi cái gì trong những ngày nghỉ, cho rãn cái khối trí lự đã phải bắt ép làm việc suốt … một tuần ròng, thì anh Thái đẩy cửa bước vào.

Anh bước vào với một bộ mặt buồn thiu.

Cái buồn ấy do cái gì, tôi đã biết rồi, vì tôi cũng có dự phần — ngoài cái ý muốn của tôi—trong cài công việc gây ra nó.

Anh thấy tôi, hỏi ngay:

— Con Tuyết-Anh nó nhờ anh viết thơ cho tôi phải không?

Tôi gật.

— Sao anh lại viết cho nó?

— Thì chị ấy không nhờ tôi, cũng rất có thể nhờ người khác. Cái sự tôi viết hộ thư, nào có nghĩa gì! Cái có nghĩa, ấy là cái lòng chị ấy yêu anh và thất vọng về anh. Tôi đã hết sức khuyên can chị ấy, nhưng không ăn thua gì. Tôi đã làm hết những điều một thằng bạn phải làm. Nhưng chị ấy vẫn khăng khăng một mực thì làm thế nào được!

Rồi, không để anh kịp hỏi, tôi thuật cho anh tất cả những điều đã xẩy ra năm hôm trước.

Anh chăm chú nghe và trong lúc nghe, tôi thấy hình như thỉnh thoảng anh thở mạnh.

Nghe đoạn, anh cười nhạt:

— Mặc xác nó! Anh còn khuyên can nó làm gì cho phí nhời.

Rồi anh nhún vai, chép miệng:

— Thế cũng xong I

Tôi để cho anh lặng yên, đi đi lại lại mấy chục lượt quanh phòng, rồi mới hỏi:

— Thế tiếp được thư rồi, anh đã xử trí ra sao đối với chị ấy?

Thái nói một hơi:

— Khó gì! Nó đã muốn thế thì tôi cho nó được như ý. Tôi trả lại sự tự do cho nó. Tôi lại cho nó tất cả đồ đạc, và cho nó thêm năm trăm đồng nữa. Chẳng gì nó cũng mang tiếng với chị em là đi ‘‘lấy’’ chồng. Âu là mình cũng  ‘‘bồi thường danh giá’’ cho nó một chút.

— Thế lúc chia tay ra làm sao?

— Vui lắm! Chúng tôi, trước khi chia tay, còn hôn nhau một cách rất là đằm thắm. Nàng chúc cho tôi ở lại mạnh khỏe, tôi chúc cho nàng ra đi may mắn. Thật là  ‘‘lai khứ minh bạch’’!

Lòng tôi ngùi ngùi:

— Dù sao, chị ấy cũng yêu anh. Và cũng đau khổ.

Thái cười một cái cười hoài nghi:

— Liệu vết thương có rỉ nước được trong

một tuần lễ không?

Anh nói xong cái câu chua chát ấy, ra đứng trước cửa sổ, lấy tay gõ vào cửa kính một bài đàn, gỗ nhè nhẹ để đủ một mình nghe những nhịp lý thú. Rồi anh cất tiếng ngâm hai câu thơ:

Đãi làm chi nữa cát pha,

Vàng chìm trong đám bụi hoa của đời!

(Đặng đình Hồng)

Ngâm xong, Thái chép miệng:

— Thôi, cát lại trở về bãi cát.

Rồi anh cất tiếng hát vang cái điệu hát tây:

‘‘Rita, tu pars sans un regret,

 ‘‘Mais moi, je ne peux t'oublier.

‘‘Toi, ta voles vers d’autres fleurs,

‘‘Mais moi, je reste avec les pleurs.

‘‘Si tu m'as laissé un baiser,

‘‘S’ en voleront tous mes tracas.

‘‘ Mais non, tu partis sans me parler,

‘‘ Au moins, ne m’oublies pas’’.[2]

Hai con ngựa lộc cộc đi bước một trên con đường đất gồ ghề, thong dong buông vó đều đều, ung dung như những người cưỡi trên lưng nó.

Con đường dưới vó ngựa đều một sắc đỏ của mầu son non, hai bên bờ cỏ xanh xanh.

Xung quanh, những đồi sơn, những nương sắn, liên-chi hồ-điệp chạy vòng thành một cái khung bán nguyệt cho những giẫy nhà sàn mái sám nối nhau thành hàng, ở giữa, nổi bật lên giữa những ngọn đồi xanh, cái mái nâu của một tòa nhà gạch bao quát dòm khắp cõi như một lâu đài cổ.

Theo lối dốc, chúng tôi đánh ngựa lên trại.

Hai con ngựa như ngửi thấy mùi cỏ trong tàu. từ nước một chuyển sang nước kiện, rồi dần dần, bốn cặp vó như bay trên sỏi.

Anh Thái vừa ra doi, vừa bảo tôi:

— Cái thú phóng ngựa lưng đèo, kể cũng là một sự tiêu khiển có thú vị.

Tôi cười:

— Giá có một nữ lang nữa cùng phóng ngựa bên mình anh thì hẳn cái thú vị ấy lại càng tăng thêm nữa.

Cái nét mặt đang tươi vui của anh bỗng sa sầm ngay xuống. Tôi biết tôi vừa nói lỡ lời, liền tìm cách chữa bằng sự hỏi cái nọ, hỏi cái kia, trong khi hai con ngựa leo dốc về trại. Nhưng anh Thái chỉ trả lời gióng một.

Tôi biết tôi vừa làm một việc ngốc nghếch, chạm tới cái vết thương chưa hàn dịt trong lòng bạn tôi.

Thì ra tôi lên đồn điền chơi với bạn để cho bạn khuây nỗi buồn thảm trong lòng, — tôi biết Thái buồn vì sự cùng Tuyết-Anh chia rẽ lắm lắm — mà thành ra lại khơi thêm nguồn đau của bạn.

Tôi đang áy náy trong tâm như thế thì hai con ngựa đã lên tới sơn traag. Anh Thái vừa xuống ngựa, vừa bảo tôi:

— Anh lên đây để vui chơi với tôi mà mấy hôm nay, hình như chính anh lại buồn hơn tôi. Có lẽ tôi lại phải an ủi anh.

Tôi cười:

— Không phải đâu. Có lẽ vì mấy hôm nay, dong ngựa và đi bắn đêm luôn nên trong người hơi mệt đấy thôi.

— Thì anh cứ nói là anh buồn cái buồn của tôi có được không? Bọn ta là những người nghĩ thế nào, cảm thế nào, nói ra thế ấy, cần gì phải dấu diếm, che đậy? Tôi thì tôi thú thực với anh rằng tôi yêu con bé ấy, tôi muốn làm lại cuộc đời cho nó, làm lại cuộc đời cho tôi. Nhưng nó không hiểu, cũng vì nó không có lòng ruột. Mình định để thời gian làm việc, định cho ngày tháng tôi lại cái lòng han rỉ của nó, mà ra mình đã đi làm một việc ngu ngốc. Có cốt thì mới đắp nên hình được.

Anh nắm tay tôi, giắt lên thềm nhà:

— Bây giờ, tôi mới thú thực với anh rằng chính giữa cái lúc tôi đang trang hoàng nhà cửa để về đón nó lên thì đùng một cái, nó viết cho tôi cái thư ấy. Thật là cả một lâu đài đồ sụp. Rồi chốc nữa, tôi sẽ chỉ cho anh những ‘‘di tích’’ cuộc đổ nát cái lâu đài mộng ấy. Nào buồng ngủ, nào phòng ăn, nào chăn màn, nào giường đệm, cái gì cũng mới nguyên, sẵn sàng để đón  ‘‘tân nhân’’. Thế mà  ‘‘tân-nhân’’ tếch mất. Kể cũng đáng ngán.

Anh nói ngán mà miệng anh hát vang lên, chân anh đập mạnh xuống thềm gạch.

— Cái buồn của anh thật là một cái buồn ầm ỹ !

Anh cười đáp:

— Chả ầm ỹ thì khỏe ti tỉ à, Ích gì !

 Chúng tôi bước vào phòng khách. Bỗng anh

Thái đứng dừng lại, ngạc nhiên nhìn. Anh vừa thấy trên ghế sa lông, một cái va-li và một cái dù che của đàn bà.

— Ai? Ai?

Bỗng Thái giật mình, nhìn tôi:

— Nó! Valise của nó!

— Ai? Ai thế?

Thái vừa bước đến bên bàn, đưa tay cầm lấy chiếc valise thì cửa buồng trong sịch mở. Tuyết-Anh chạy bổ ra, mắt đỏ hoe:

— Anh! Anh!

Nàng chạy lại, ôm chầm lấy Thái:

— Anh! Anh! Anh thương lấy em. Lạy anh. Em xin làm đứa ở, hầu hạ anh suốt đời.

Rồi, qua màn lệ:

— Anh bỏ em mà anh còn đối với em như thế thì em là giống chó cũng phải cảm phục. Thôi, lạy anh, anh đánh em, chửi em, giết em đi. Em thề chết cũng không bỏ anh.

Chú thích:

Chú thích :

(1) ly thân

[2] Rita, em ra đi mà không hối tiếc,

 “Nhưng anh lại không thể quên em.

‘‘ Em đang bay đến những bông hoa khác,

“Nhưng anh còn lại đây với những giọt nước mắt.

‘‘ Nếu em để lại cho em một nụ hôn,

'thì em sẽ đánh cắp mọi lo lắng của anh.

‘‘ Nhưng không, em đã bỏ đi mà không nói với anh lời nào,

"Nhưng ít nhất là đừng bao giờ quên tôi."

Xương Bao Nhiêu Ngấn

 

(Thiếu 3 trang đầu)

 

Người, mang lấy tên ấy, đã là một tên lính với hết nghĩa của nó.

Người, con cái của ái tình.

Người, then-chốt mọi cuộc tình ái.

Đời người bao nhiêu biến cố, bao nhiêu nguy nan, bao nhiêu bội phản. Hôm nay vừa từ một biệt thự bước ra, ngự trên chiếc ô tô kiểu cuối cùng ; mai đã từ một túp lều, rau rẩy bước ra với một xích sắt trên tay ra nhà lao.

Hôm nay còn ngồi trên đế vương phú quý, ngày tháng là cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm; mai đã khăn gói gió đưa, lẩn bao nhiêu người, tránh bao nhiêu chỗ.

Hôm nay tính không hết người thân, trên gác, dưới nhà, hàng xóm, bạn bè khắp bốn phương giời, nơi nào cũng lác đác vài ba người thân tín; mai, chỉ một cuộc khủng hoảng nhỏ của kinh tế, chỉ một tai biến nhẹ của kiếp người, thân bằng cố hữa đều bị quét sạch.

Kể sự tan nát của một người trong lúc bại vong thì vô cùng. Nhưng vẫn còn có chỗ ‘‘khả thủ’’, khi con cái của Vệ-nữ chưa làm chủ cuộc nhẩy.

Tan vỡ đã là một cái gì khổ cực cho kiếp người, một cái gì ai oán cho người.

Tan vỡ, lại tan vỡ bởi con cái thần Vệ-nữ, phải là một cái gì thê thảm lắm, kinh khiếp lắm, chết chóc lắm.

Đời người có thể bị thua thiệt, nguy nan, bội phản, cảnh tan hoang cũng chưa tan hoang bằng bị vợ phản.

Một phú gia địch quốc lát sàn bằng vàng đỏ, lát tường bằng ngọc bích, nhất đán bị  ‘‘phá sản’’, hai bàn tay trắng đi cầu cứu những nơi xưa kia được mình cấp đỡ, đợi hàng nửa ngày ở cửa một cố nhân để chỉ mong được vài đồng tiền, dăm bát gạo, cảnh cũng chưa cực nhục, đau đớn bằng cảnh người bị vợ phản.

Hỏi một ông già sáu, bẩy mươi tuổi đầu: ‘‘Sự đau đớn nhất đời của cụ là gì?’’ Ông già vẫn không giả nhời được.

Giản hoặc cụ có viện những sinh, lão, bệnh, tử, mà bảo là đau đớn thì thần thái cụ vẫn chẳng biến chút nào.

Không, tôi muốn biết, sự đau đớn nó lật đổ cả trời đất, quật ta như ta quật năm lần, bẩy lượt con nhái, rót dầu sôi vào hồn ta, cưa chân, chặt tay ta, châm kim vào đồng tử ta, sát muối vào lòng ta.

Không, tôi muốn biết cái đau đớn nó nhào ta như nhào bột, nó quăng ta từ chín từng mây đánh thõm xuống vực sâu không biết bao nhiên thước, nó làm cho ta tối tăm mặt mũi, chân tay lỏng lẻo, không cử động được.

Tôi chắc không ai trả lời được, khi chưa bị một lần vợ phản.

 

Cho nên, khi hỏi thăm anh chị xem độ này Thắng làm ăn có khá không, thấy anh chỉ lắc đầu một cách ngao ngán:

— Vợ đã phản, còn làm với ăn gì!

Là tôi vội vàng thu xếp ‘‘ hành trang’’ tìm về quê Thắng ngay.

Tôi tìm Thắng, cốt ý để chia buồn và để biết thêm về đàn bà.

Tôi tìm Thắng vì Thắng với tôi, hai thằng bạn với nhau từ lúc còn đánh  ‘‘tả sài’’ ở trường huyện.

Tôi tìm Thắng vì Thắng là bạn từ nhỏ là người gan góc dám xông pha với tôi trong bao nhiêu cuộc buôn Iậu, dám liều chung vốn với các vụ thầu chín mất một còn.

Nhưng những điều ấy chưa hẳn phải là cớ mạnh nhất để tôi tìm Thắng.

Cái  “nguyên động lực’’ của cuộc “viễn du’’ này là vì tôi biết Hằng, vợ Thắng.

Hằng, người con gái phương Đông một trăm phần trăm, ít nói, ít cười, ít “chợ phiên”, “Kéc mét’’, ít “Gô đa’’, ‘‘bombay’’, mà là người vợ phản chồng! Người chồng ấy lại là Thắng!

Thế này thì có giời hiểu. Hãy đốt hết các chuyện “liệt-nữ’’đi!

Anh Thắng bị vợ phản, cái cớ chính nó “bẩy” tôi bỏ Hanoi mất một tháng, “lặn ngòi ngoi nước” đi tìm bạn, vào tận Faifoo tìm bạn.

Để được nghe một “tình sử éo le”

Sau khi đi hết Hanoi, hỏi cho chắc chắn địa chỉ Thắng, tôi ra ga lấy vé vào Tourane.

Ghé thăm vài người bạn ở Tourane để nhân thể hỏi tin tức Thắng, ai nấy đều trả lời: Không biết. Lạ, Thắng về đây, tỉnh chỉ vỏn vẹn vài phố, sao người ta lại bảo không gặp? Gia dĩ xưa nay Thắng vốn quảng giao, đến ngay tỉnh Hanoi là nơi  “Năm cha ba mẹ’’ người đông như kiến cỏ, Thắng cũng còn quen khắp mặt nữa là...

Chính Hải, một công chức tiếng tăm ở Tourane phải bảo tôi:

— Hay anh nhầm? Nếu Thắng về đây, tất nhiên chúng tôi đã gặp.

Nhầm, điều đó thì không thể. Đi một cuộc hành trình non nghìn cây số để tìm một cái ‘‘mỏ’’, tôi bao giờ có vô ý, không tra hỏi kỹ càng.

Tôi nhớ lại một loạt các tin lượm lặt được Bà ngoại Thắng bảo anh vừa gửi thư ra; em Thắng làm giây thép bảo vừa gửi quần áo rét vào cho Thắng; nhất Thọai, người bạn nối khố của Thắng, nói vừa ở chơi với Thắng cách một tuần.

Thế thì không thể nào tôi nhầm được. Bao nhiêu người đã nói cùng một lời; Thắng ở Faifoo.

Nếu tôi không tìm thấy Thắng thì uổng công quá. Chả lẽ, tôi đã cầm trong tay bao nhiêu tin mách. Cho đến khi Hải hỏi tôi:

— Anh thử về Faifoo xem?

Tôi mới biết là mình đã đuổi đánh cái bóng con ma Nồi Trõ. Thắng ở Faifoo, lại lui về tận làng T.V., mà tôi lại đi dò dẫm ở Tourane thì thật tôi đã lo xa quá, lo một cách buồn cười.

Thì ra lòng mong gặp Thắng đã cướp mất trong tôi một ít sáng láng, đã gán cho tôi cài câu ‘‘Tính quẩn lo quanh’’

Tìm người, thứ nhất người ấy lại là Thắng, không phải dễ. Câu:  ‘‘Tìm em như thể tìm chim”, lúc này tôi mới thấy đúng vô cùng.

Thành phố Tourane đẹp hơn trước hay không, tôi chẳng  “ngó ngàng” đến. Tôi còn có việc cần hơn, tôi còn có chỗ cần “ thám hiểm” hơn.

Từ Tourane vào Faifoo có ba mươi cây số. Ba mươi cây số trên ô tô mà cũng chậm. Thật là kỳ quái. Phong cảnh dọc đường không bị con máy “khổng lồ” nuốt như các nhà tiểu thuyết vẫn tả, nhưng bị lòng sôi lên vì mong gặp bạn của tôi “ngoạm” chửng đi.

Lúc tiễn tôi ra xe, anh Hải dặn mãi:

— Không mấy khi vô đây, nhớ xem cầu Nhật, anh ạ!

Thế mà xe tây kéo tôi qua cầu, tôi cũng chẳng buồn đỗ xuống để “quan sát” để đọc vài chục giòng chữ nho cho biết “sự tích” ra làm sao?

Tôi không đủ kiên nhẫn, thứ kiên nhẫn dềnh dàng làm mất thì giờ một cách vô ích.

 

Tôi đã ở trong địa phận làng T. V. Trẻ con theo tôi, sì-sào:

— Ông Tây hỏi nhà ông Hương Lành.

Đến đây, tôi mới rõ: Thắng về nhà người cai trông nom công việc thầu cho anh là Lành, con ông Hương. Trẻ con đưa tôi đến cổng. Tôi chưa kịp lên tiếng đã có một người đàn bà đon đả chạy ra:

— Thưa thầy hỏi thầy Thắng?

— Phải,

Người đàn bà hấp tấp:

— Thầy Thắng ra Bắc hôm qua.

Lưu Bị ngồi đối ẩm với Tào Tháo, nghe tiếng sét đánh rơi thìa thế nào, tôi không biết, chứ tôi, nghe nói Thắng ra Bắc, tôi lạnh cả người. Thôi thế là xong, tìm tòi vào đến đây để được nghe một câu nó chọc thủng cái màng “mong ước”, có dập tắt mớ lửa “gặp gỡ”, nó rồi đánh ào vào gáy một gáo nước, để cho toàn thân tự nhiên như rơi đánh thõm xuống một vực thẳm.

Thắng, cái  “đinh” cuộc “vui” đã rơi.

Tôi châng hẩng như người bị mất cắp:

— Ông ấy ra hồi nào, hở bà?

Tôi hỏi để chẳng làm gì, hỏi để được nghe thêm cái câu nó sắc như lưỡi dao lướt trên da thịt tôi:

— Thầy Thắng ra Bắc hôm qua.

Các ngài, đã lần nào các ngài cất công từ xứ này qua xứ kia, mang trong lòng một ước muốn gặp bạn mà rồi khi đến, bạn vừa đi khỏi?

Phải là người khách viễn phương tìm đến với Đạm-Tiên không gặp, mới có thể nói được câu:

— “Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn,

 Bình trầm hoa triết dĩ đa thời”.

Tôi, tôi khác người khách viễn phương ở chỗ  không đi tìm đàn bà, mà là đi “nghe chuyện đàn bà.

Người khách viễn phương, vì muốn gặp má đào, vô duyên mà phải than câu:

— “Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

Thời đà trâm gẫy, bình rơi bao giờ!”

Chứ tôi, tôi vô duyên thì thật “oan ức” quá. Người khách viễn phương vì mình, lỡ làng đã đành. Tôi vì mình, và cũng vì muốn cung cho các ngài một ít tài liệu “đàn bà”, về “ái tình”, không được như ý muốn, thật đáng giận.

Đã tưởng phen này vác “cuốc” đi, đem được “ vàng”, về, ai ngờ mất cả chì lẫn chài. Thì giờ mất, không phải là điều đáng hận lắm, nhưng mất một dịp để làm giầu cho kinh nghiện là chỗ không thể không cau mặt đuợc.

Thấy tôi tần ngần, người đàn bà nói tiếp:

— Giá thầy về hôm qua thì gặp thầy Thắng,

Hôm qua, hôm qua, đời tôi đã bao nhiêu lần “giá hôm qua”, tôi đã hiểu giá trị của một bước chân, của một ngày chậm, của một phút vội vàng, cho nên tôi đọc thấy trên mặt mụ này một cái gì như tiêng tiếc.

Biết không thể làm gì hơn được, không thể làm gì “cứu” lại “tình thế”, tôi hỏi thêm một câu để chẳng hỏi gì:

— Thầy Thắng về đây từ bao giờ?

— Thưa thầy, từ năm ngóai.

— Ở luôn đây?

— Dạ.

Nghĩa là tôi đã hỏi hai câu để được nghe hai câu nó không ăn nhập gì vào sự tôi mong gặp Thắng cả.

Không biết làm thế nào nữa, tôi viết lại mấy

chữ cho Thắng.

Tôi loay hoay tìm chỗ viết, ghếch chân vào một bụi tre, toan nguệch ngoạc trên đùi thì có tiếng oang oang từ trong vọng ra:

— Ai đấy? Ai hỏi đấy?

Mụ ta chưa kịp đáp, tôi đã ngẩng lên.

— Thầy!

Cai Lành vội vàng chạy ra với tôi. Tay dằng chiếc valise, miệng nói léo xéo:

— Thầy vô hồi nào?

Rồi quay sang vợ:

— Sao mình không mời thầy vô nhà?

Mụ vợ nhìn chồng một cái nhìn như muốn hỏi: “ Sao lại mời vô?” Cai Lành hiểu ý, bảo

vợ:

— Thầy đây là bạn của thầy Thắng, năm trước tôi có làm với thầy.

Nguyên khi Thắng chung phần trong cái việc thầu bè với tôi, anh có để cai Lành trông nom thợ cho nên y biết tôi. Cai Lành sốt sắng mời tôi vào nhà, gọi con đun nước ầm ỹ.

Tôi vừà bước vào nhà đã thấy cả một căn phòng sang trọng. Tôi biết ngay đây là nơi ở của Thắng. Vẫn cái bản đồ “ngũ xứ” do Thắng vẽ, vẫn con dao găm, vẫn chiếc valise gấp, vẫn chiếc ảnh “Sois homme” cắt trong tạp chí “ En Avant” của nhóm Cứu Thế Quân (Armée du Salut) bên Pháp.

Tôi ngắm mãi bức ảnh “Sois homme” của Thắng, quên cả người cạnh tôi là cai Lành

đang cố hỏi:

— Thưa thầy, để tôi cho đi mời thầy Thắng.

Nghe nói cho đi mời Thắng, tôi ngạc nhiên quay lại:

— Mời làm sao được, thầy ấy ra Bắc kia mà?

Cai Lành tủm tỉm nhìn vợ:

— Thưa thầy không, thầy đánh cờ với ông con bên vườn.

Tôi như đang khát được một trái cam, mặt bỗng bầng tươi, chân tay khoan khoái, mắt sáng hẳn ra:

— Đâu? Cho mời ngay, bảo tôi đã về!

Cai Lành liếc mắt cho vợ đi, rồi khúm núm xin lỗi tôi:

— Thầy xá cho, vì thấy Thắng dặn không tiếp ai cả, ai hỏi cũng bảo ra Bắc rồi.

Tôi hiểu rồi, tôi hiểu cái cớ ra Bắc của Thắng rồi. Đem cái thân đau khổ vô đây, còn muốn ai làm phiền rộn mình nữa. Tiếp súc với người không ích lợi gì cho lòng mình khi đau khổ là một điều không nên làm, chắc Thắng cũng nghĩ thế nên dặn mọi người rằng mình đã từ bỏ nơi này rồi.

Thật may cho tôi và cũng may cho tất cả các ngài nữa. Vì nếu cai Lành không chạy vội ra, biết tôi mà mời vào cho gặp Thắng, thì có lẽ các ngài và tôi, chúng ta đều không được biết đoạn tình sử éo le của Thắng và lòng dạ đàn bà.

Đêm hôm ấy, trước ánh đèn dầu lạc, Thắng kể thiên “ thảm sử” của mình bằng cái giọng đầy nước mắt:

— Năm ấy, tôi mười bẩy tuổi. Tôi học trường Bưởi, còn một năm nữa thi  “diplôme” và trọ nhà cụ Cửu, phố Cửu Nam. Cụ Cửu là một nhà buôn phẩm lớn, cửa hàng tuy trông sơ sài, nhưng chuyên bán buôn. Mỗi tháng xuất nhập năm ba vạn hàng. Cụ Cửu là bạn cũ của thầy tôi, chỉ vì cụ buôn bán đứng đắn với các hãng buôn lớn ở đây mà sau được Cửu phẫm.

Cụ Cửu có hai người con: một giai, một gái. Hằng là con gái đầu lòng, kém tôi hai tuổi. Em Hằng học lớp nhất trường Sinh Từ.

 Cụ Cửu là chỗ bạn thân của thầy tôi, nên coi tôi như con. Có lẽ thuở ấy, nhân tâm không đến nỗi bất cố, cho nên sự tôi ở nhà cụ Cửu, sự Hằng, con gái cụ săn sóc tôi, cả nhà không ai để ý cả.

Hằng đối với tôi bấy giờ như một đứa em gái. Hằng săn sóc tôi từng ly, từng tí. Tôi còn nhớ một hôm thợ là đem giả quần áo, sơ mi tôi đứt một khuy, Hằng sai con sen đi mua chiếc khác đính vào cho tôi. Sự “thân tình” ấy, cả nhà đều biết.

Tôi đến, tôi và Túc — em gái Hằng — cùng ngồi bàn học thì nàng cũng ngồi khâu hay xem truyện bên cạnh.

Gia đình cụ Cửu là gia đình cổ, mọi người sống với nhau một cách chân thật lắm. Không khí lúc nào cũng dịu dàng như không khí tòa thánh. Mỗi một khuôn mặt là một lời chúc tụng dài về phúc hạnh. Cụ Cửu bà luôn luôn xếp bằng tròn trên xập với quả trầu, với túi tràng hạt. Cụ Cửu ông nhàn nhã trong chiếc áo nhiễu tam giang, lúc nào cũng thản nhiên như người vừa ngủ dậy. Nhà duy có cậu ký, cháu cụ Cửu bà là hơi nhanh trai một tý, Túc, em Hằng, có lẽ là con của giòng máu hiền từ, nên mặt mũi khôi ngô, không cấc-lấc như phần nhiều trẻ khác. Còn Hằng thì như anh đã biết, tôi không cần phải nói nhiều. Chỉ biết nàng là người điềm đạm, thùy mị, cử chỉ đoan trang. Cứ cái đức hạnh ấy, người cũng phải đẹp ra rồi.

Hồi ấy, bạn học đứa nào cũng thì thào nói ra, nói vào rằng tôi ở rể nhà cụ Cửu. Thật ra mình có biết gì,

Vì ở trong một gia đình cổ lỗ nên mọi người, ai nấy đều sống một cách hiền lành, không có những cử chỉ sỗ sàng. Cả nhà, duy có ba nguời con trai: cậu ký, - anh họ Hằng, - Túc, - em Hằng, - và tôi.

Ba chúng tôi chơi với nhau thân lắm. Cậu Ký tuy không đi bọc nữa, nhưng vì hiếu học, tối tối vẫn lên xem sách ở bàn tôi, chỗ nào không hiểu, cậu ấy hỏi. Vì có chỗ  “cần dùng” nhau như thế, nên không có chuyện đặt điều cho nhau.

Một hôm, tôi vừa đi học về, Hằng chạy đến nói như mách với tôi:

— Anh chẳng về sớm mà xem, ông Phán vừa lại đây...

Tôi không hiểu ông Phán nào, hỏi ngay:

— Ông Phán nào hở cô?

Hằng đỏ mặt:

— Ông Phán Chung ở Cầu gỗ, bà ấy chơi họ với me em ấy mà?

Tôi “à” một tiếng, như người vừa nhớ ra một điều gì nghĩ mãi chưa ra:

— Ông Phán Chung vẫn lại chơi với cụ đấy thôi.

Hằng hơi nghiêm nghiêm:

— Cả bà Phán cũng lại.

Tôi cũng vẫn chưa hiểu điều “quan-hệ” Hằng muốn nói với tôi, nên nhắc một cách hờ hững:

— Cả bà Phán cũng lại...

Nói rồi, tôi lảng ra bàn xếp cập, Hằng thấy thế cũng thôi không nói nữa.

Ăn cơm xong, Tảo — tên cậu ký — gọi tôi ra ban công, nói nhỏ vào tai:

— Hôm nay, ông Phán Chung lại nói chuyện với ông tôi để xin cô Hằng cho cậu cả đấy.

À, thì ra ban nãy Hằng chạy vội đến mách với tôi cái tin ấy mà tôi không biết. Tôi đã vô tình làm cho Hằng phải bẽ, tôi đã vô tình với người tôi vẫn chịu ơn săn sóc quần áo, giầy mũ, xếp hộ sách vở bầy la liệt trên bàn mỗi khi tôi đi khỏi rồi.

Tôi thấy cần phải chạy đi tìm Hằng, tìm để cầu xin nàng tha cho cái lỗi “chưa kịp nghe, đã liến thoắng”. Tôi chạy xuống nhà dưới, nàng đang cân phẫm cho khách. Tôi lại chỗ quầy, nhìn Hằng bằng con mắt ái ngại bảo:

— Xong, cô Hằng lên tôi nhờ một tí.

Tôi đã nói với anh rằng tôi ở nhà cụ Cửu cũng như nhà tôi. Mặc dầu cô Hằng là con gái, nhưng cụ Cửu coi tôi như con, vì là chỗ bạn thân của thầy tôi, nên tôi không phải e dè gì cả. Tôi chuyện trò với cụ Cửu, với Hằng, với cậu ký Tảo một cách tự nhiên. Không phải tại tôi kèm Túc học đâu anh ạ, anh còn lạ gì nhà nền nếp nữa, có bao giờ họ nghĩ đến những chuyện “mất dạy” như bây giờ...

Hằng khẽ gật đầu:

— Vâng.

Một lát sau Hằng lên, lên với vẽ mặt sỉu đi:

— Anh hỏi gì em?

Tôi hớn hở :

— Nãy có phải cô bảo ông Phán Chung lại chơi với cụ phải không?

Hằng nói như không để ý đến câu hỏi của tôi:

— Vâng, ông Phán vừa lại chơi.

Tôi thoáng nhận thấy trên mặt Hằng, một vẻ giận dỗi, cái thứ giận dỗi ‘‘chốc lát’’ của các cô gái mười lăm, mười sáu trước mặt người yêu. Tôi hỏi gặng ngay:

— Ông Phán lại chơi có việc gì thế hở cô?

Hằng lạnh lùng:

— Không có việc gì, anh ạ.

Tôi biết Hằng giận tôi, sự biết ấy khiến tôi bừng nghĩ ra một điều: Sao Hằng lại giận tôi? Sao Hằng giận tôi chỉ vì cớ tôi không nghe chuyện người ta đến hỏi nàng?

Thế là tôi biết rồi, ít ra Hằng cũng mến tôi. Mà anh tính không mến tôi làm sao được, tôi, một cậu học trò  goan ngoãn ở trọ nhà nàng, sớm tối lúc nào cũng cạnh nàng, lại được cha nàng coi như con, lại được em nàng gọi là anh, lại được cậu ký kêu là cậu. Nhất là lại học trường  ‘‘Cô-le’’ (collège = đại học), sắp sửa ra làm Ông giáo.

Tối hôm ấy, tôi ngồi học mãi chín giờ không thấy Hằng lên. Tôi đoán được tại sao Hằng không làm cái việc ‘‘dự thính’’ mọi ngày nữa rồi. Tôi phải nhờ Túc xuống gọi nàng để tôi nhờ đóng hộ vài quyển vở.

Hằng lên với bộ mặt lạnh như tiền. Nàng lẳng lặng tìm dao rọc giấy, lẳng lặng đóng, không nói nửa lời. Khác hẳn với mọi ngày, có lúc tôi phải xin, Hằng mới không chuyện nữa. Tôi hiểu, tôi hiểu Hằng giận tôi, tôi hiểu Hằng đã đặt cho tôi một chỗ ngồi trong trái tim nàng.

Bao nhiêu ý tưởng về yêu đương bỗng đến sáo lộn thần trí, tôi thấy lòng rạo rực, rạo rực một nguồn khoái cảm đê mê không biết từ đâu lại.

Bỗng tôi vừa ngẩng, một tia mắt sói sang tôi, tôi thấy cả một oán hận ở khuôn mặt gằm-gằm của Hằng:

—Ông Phán Chung lại chơi có việc gì thế Hằng?

Tôi không gọi ‘‘cô Hằng’’ như mọi khi, tôi gọi  ‘‘Hằng’’ không thôi là muốn tỏ cho nàng biết tôi đã hơi cáu đấy, cho nàng sợ tôi giận, giả nhời ngay.

Quả nhiên Hằng không chù chừ nữa, nàng đáp:

— Ông Phán Chung lại ăn hỏi...

Rồi nàng im bặt, rồi nàng cúi gằm xuống rồi nàng dụi mắt.

Túc chẳng biết gì. Y còn nhỏ cũng có, vả những câu chuyện trao đổi giữa tôi với Hằng là thường, nên y cũng không để ý.

Duy tôi, lúc ấy tôi như bị căng ra bởi một sức mạnh ghê gớm nào, đầu bỗng nặng như không cất nổi lên, trống ngực đập liên tiếp.

Cái hình ảnh Hằng cúi gằm trước bàn học của tôi, không bao giờ tôi quên được. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ đến cái tối đầu tiên cuộc tình duyên chớm nở của tôi, tôi chỉ muốn kêu lên cho hết cả loài người đều nghe thấy: Ai ngờ...

Cả một thế giới tình cảm giao động trong lòng ngực tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm tưởng như sắp tắt thở. Được chứng kiến sự ngỏ tình của mối tình đầu, lòng người con trai nào chẳng cồn cào, chẳng thấy rung lên những sợi lòng nõn nà như tơ non.

Tôi muốn hỏi thêm Hằng một câu nữa, hỏi không phải để biết thêm, nhưng để nàng được vui vẻ vì tôi để ý đến nàng:

— Ông Phán Chung ở Cầu gỗ phải không?

Hằng khẽ ngẩng, nhìn cái nhìn dịu dàng mọi khi:

— Vâng.

Tôi muốn hỏi nữa, hỏi cho biết cụ Cửu đã định đoạt thế nào hôn nhân của Hằng, nhưng tôi lại không dám, vì có Túc ngồi cạnh. Tôi chỉ thông cảm với nàng bằng những cái nhìn cầu khẩn, bằng vẻ mặt băn khoăn. Hằng hiểu ý, hiểu cái ý thắc mắc của lòng tôi. Nàng giả nhời tôi bằng cái thở dài trước khi đứng dậy:

— Thôi, em xuống đây anh ạ.

Rồi muốn ngầm bảo cho tôi biết nàng không ưng thuận lời cầu hôn của ông Phán Chung, Hằng dặn em trước khi xuống thang:

— Mai, em Túc đi xe đạp đến mời bà Phán lại mua họ hộ chị nhé!

Tôi cảm biết Hằng đã yêu tôi. Càng cảm biết hơn, khi Hằng trao cho tôi những cái nhìn như cầu cứu. Tôi, tôi bỗng thấy quặn đau, cái đau của kẻ phấp phỏng sợ mất một cái gì. Từ hôm sau trở đi, lúc nào Hằng cũng ủ rũ, thất sắc như người thiếu máu. Còn tôi, tôi thẫn thờ như kẻ lạc hồn.

Đứng trước sự đe dọa của tình ái, Hằng và tôi như kẻ hàng thần, không biết đối xử thế nào cho phải. Khí giới để bảo vệ của nàng chỉ là nước mắt. Nàng khóc mỗi khi cụ Cửu bà hỏi:

— Thế con có bằng lòng không? Cụ Phán cũng là chỗ danh giá, phúc đức. Con về làm dâu nhà ấy thì thầy mẹ được yên lòng,

Hằng, mỗi khi bị hỏi cái câu hỏi giết lòng, chỉ nghẹn ngào:

— Con muốn ở nhà với thầy me.

Rồi theo luôn những tiếng khóc nức nở, Cụ Cửu bà không biết nỗi lòng của con, đồ là con gái ai chả thế, hỏi đến việc chồng con, y như khóc mếu ngay. Cụ không biết là phải, cụ biết thế nào được, vì tình yêu của con cụ chỉ ngấm ngầm trong lòng như rễ cây chìm dưới đất.

Nội nhà, duy có tôi biết tâm sự của Hằng, nhưng biết để mà khổ thêm, biết để mà bối rối thêm. Biết, tôi vẫn không làm gì cứu nàng ra khỏi tình thế, chẳng những không cứu nàng ra khỏi tình thế, tôi còn làm cho nàng khổ sở thêm về cái bộ mặt  ‘‘sầu thảm’’ của tôi.

Nhiều lần Hằng tìm dịp để được nói chuyện với tôi, nhưng hễ gặp mặt nhau là nàng khóc, còn tôi chỉ nói được độc một câu:

— Để anh liệu.

Liệu, tôi đã liệu thế nào, tôi đã ‘‘thu xếp’’gì để chiếm nàng, để dằng nàng ra khỏi tay ông Phán Chung. Nói với thầy mẹ tôi hỏi nàng, điều đó tôi không dám rồi, vì tôi đang đi bọc. Bắt chước như một vài người yêu nhau tha thiết, liền một mất một còn, nói với ông Phán rằng Hằng đã yêu tôi, tôi lại không dám nữa. Đưa nàng đi trốn, điều này quả không bao giờ tôi dám nghĩ đến vì nghĩ được thế, tôi đã chẳng là tôi, tôi đã chẳng để cho người tôi yêu phải mặt ủ, mày chau từ trước đến giờ.

Là kẻ yêu, tôi không dám chường mặt ra với mọi cản trở, mọi ngang trái. Tôi đành chịu âm thầm với nỗi khổ của mình.

Nhưng tôi đã nói với anh nhiều lần, con người ta có số cả. Nhiều kẻ trong đời không phải nỗ lực một lần nào mà vẫn được hưởng đủ, được có đủ. Một hôm, đang ngồi học, Hằng chạy sầm đến chỗ tôi, hớn hở:

— Me em giả lại trầu cau ông bà Phán rồi. Vì cậu Tính chim chuột ghen tuông thế nào, bị người ta đâm, phải xe đi nhà thương.

Được người yêu báo cho cái tin ‘‘chết hụt’’ ấy, tôi sướng điên lên:

— May quá, thế thì may quá!

Anh tính thế tôi có ‘‘ngốc’’ không, cả một cuộc tình duyên xây trên một cái may, một cái may vu vơ. Có lẽ vì tôi ‘’đần’’ thế, cho nên tôi mới có cái hận như ngày hôm nay.

Thoát ‘‘mất’’ nàng lần ấy rồi, tôi cố học để thi đỗ. Vì tôi chỉ có một hy vọng: đỗ rồi, thầy mẹ tôi sẽ hỏi Hằng cho tôi. Như anh đã biết, tôi không phải thằng hèn. Truớc đây xông pha với anh, bao nhiêu lần suýt bị nhà đoan tóm, bao nhiêu lần suýt ngã gục trên ngựa vì bị cướp chẹn ‘‘hàng’’. Thế mà sao với đàn bà, tôi đần độn thế, tôi hèn nhát thế? Như người ta, tôi rất có thể nói với thầy mẹ tôi hỏi nàng. Vì ít ra nhà tôi với nhà nàng không chênh lệch nhau mấy. Đằng này không, tôi cứ để cho thời gian trôi đi. Tôi như kẻ bị cái dọt bọc, đau đành chịu nằm rên, không có can đảm để cho thầy thuốc đưa lưỡi dao trích vào,

Nhưng ở đời có người phải chiến mới thắng thì cũng có người không mất nửa giọt mồ hôi mà cũng thắng. Tôi không tìm thiên phương bách kế để được nàng thì số phận đã tìm hộ cho tôi.

Bởi một sự tình cờ, hôm thầy tôi ra ăn giỗ, trong lúc đối ẩm, thầy tôi nói với cụ Cửu:

— Thôi cháu nhờ vả cụ đây nhiều lắm. Sau này nhờ giời cháu đỗ đạt, tôi sẽ xin cô Hằng để cho cháu đền ơn hai cụ.

Cụ Cửu, phần là bạn từ thuở hàn vi của thầy tôi, phần chắc thấy tôi cũng ngoan ngoãn nên đáp ngay:

— Vâng, cụ có lòng thương cháu, chúng tôi xin ký cả hai tay.

Đấy anh ‘‘xem, tốt số hơn bố giầu’’, cái phần tốt đẹp nhất trong đời tôi, cũng do tình cờ mà ra. Thầy tôi nói thế, cụ Cửu đáp thế. Thế là sau ba năm, chúng tôi lấy nhau.

 

Chẳng cần phải tả, anh cũng thừa hiểu sự sung sướng của chúng tôi. Hằng yêu tôi mà lấy tôi, tôi yêu Hằng mà lấy Hằng. Cuộc tình ái càng mặn nồng, khi chúng tôi lại là con nhà giầu, được cha mẹ chiều chuộng.

Tôi đỗ rồi đi làm. Đi làm gần một năm làm lễ thành hôn với nàng. Cuộc đời không có gì khó khăn cả. Cha mẹ vợ tôi dành cho chúng tôi một cái nhà hai từng để ở. Sống trong sự dư dật, bên người vợ ngoan ngoãn, dịu dàng, tôi tuởng đời là hoa gấm. Không bị chật vật về đồng tiền, không bị khốn khổ về mưu sinh, tôi đã sống trong cái ‘‘thiên đường hạ giới’’ ấy một cách cực kỳ sung sướng.

Hằng là người vợ hiền, điều đó không ai chối cãi được. Thầy mẹ tôi bằng lòng nàng lắm. Thầy tôi, mỗi bận ra chơi, nàng đều hầu hạ một cách chu đáo. Đến chị tôi là người khó tính cũng phải khen:

— Mợ ấy thật là đảm đang, phúc hậu.

Vốn buôn bán quen, nhà tôi trông coi cửa nhà rất chu đáo. Trong họ ngoài làng, ai đến nhà tôi một lần cũng phải khen:

— Mợ Phán thật là người quán xuyến.

Anh còn lạ gì, Hằng tuy là con nhà giầu nhưng làm ăn quen, thành thử thông thạo mọi công việc. Vả muốn được họ hàng khen thì có khó gì Người vợ đảm đang theo ý họ là người biết dọn mâm rượu cho tươm, lau bát dĩa cho bóng, nhà cửa trang hoàng cho gọn mắt. Thế thôi. Và thêm vào sự thù tạc dăm ba lời mời mọc ân cần. Thế là đủ, đủ đuợc họ hàng cấp cho cái bằng ‘’quán xuyến’’.

Nhà sẵn, tiền sẵn, kẻ hầu người hạ sẵn, gia dĩ những người lai vãng nhà tôi lại là những người chỉ mong nhờ vả, trách gì họ chả khen vợ tôi, khen cái hạnh phúc bề ngoài của chúng tôi. Mà theo họ, có một gia đình như vợ chồng tôi là có hạnh phúc rồi, Đến chính tôi, hồi ấy tôi cũng chẳng biết gì hơn họ. Nghĩa là tôi cũng sung sướng với những thứ  ‘‘thiên hạ’’ chúc tụng cho tôi.

Tôi hưởng cái hạnh phúc do tiền bạc ấy gây ra được hai năm thì một hôm, Hằng ‘‘than thở’’ với tôi:

— Chúng mình, mãi không có con, mình nhỉ..

Trong câu nói của vợ tôi, tôi thấy cả một thèm muốn: có đứa con. Rồi thì từ đấy, mỗi khi tôi đi làm về, tôi thấy vợ tôi ngồi thừ như người lo lắng, mặt đăm chiêu,

Tôi bắt đầu lo lắng cái lo lắng của vợ tôi. Chính thầy mẹ tôi cũng lo lắng như chúng tôi. Thầy tôi giục tôi nhiều lần, bảo đem nhà tôi đi khám bệnh xem vì cớ gì muộn màn. Tôi tuy có lo, song vốn là kẻ lười sống, tôi chẳng để ý gì mấy đến việc ấy. Nhiều lần, Hằng rủ tôi đi chùa Hương để nàng cầu tự, song tôi cứ tìm cớ để từ chối.

Một hôm, cụ Cửu bà cho mời chúng tôi lên để cụ hỏi có chút việc. Cụ ngỏ ý muốn nhờ nhà tôi trông hàng hộ trong nhữrg ngày cụ đi lễ vắng. Lẽ tất nhiên tôi ưng thuận. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu không biết có phải Hằng ‘‘ngã’’ từ ngày trông hàng hộ mẹ hay không? Chắc anh còn nhớ, cũng ở nhà ông bà nhạc tôi, có cậu ký Tảo hơn tôi vài tuổi, chưa vợ, là cháu họ xa, làm công với cụ Cửu gần mười năm rồi.

Khi tôi còn trọ học, ký Tảo rất tử tế với tôi, và Hằng cũng rất tử tế với ký Tảo. Trước con mắt tôi hồi ấy, ký Tảo không hề có ý gì khác cả. Anh ta hiền lành và thực thà lắm. Trông lại có vẻ khờ khạo là khác.

Nhà tôi trông hàng được ngót hai mươi hôm thì về. Trong những ngày Hằng ở nhà cụ Cửu, thỉnh thoảng tôi mới lại. Phần vì độ ấy mới học đánh tổ tôm, mê cũng có; phần tôi lại luôn, sợ cụ Cửu cho là không rời vợ nửa bước cũng có.

Khốn nạn, thì tôi đã nói với anh, thời ấy vợ chồng yêu nhau có được ‘‘công-khai’’ như bây giờ đâu! Ở nhà quê, chồng ăn nằm với vợ phải lẩn trốn như kẻ đi hái dưa trộm, chỉ sợ nhỡ người ta trông thấy thì xấu hổ.

Cho nên mặc dầu vợ chồng lấy nhau đã hai ba năm, tôi vẫn phải‘‘cẩn thận’’, không dám ‘‘tự do hoành hành’’ truớc mặt bố mẹ vợ.

Sự chểnh mảng lại nhà nàng không biết có phải là cớ để sau này tôi phải hối hận không? Anh ơi! Con người ta nhiều lúc khổ sở đau đớn quá, chỉ muốn kêu lên một tiếng cho nó vỡ tan trái đất. Vợ tôi, từ ngày đi trông hàng hộ mẹ về, người sút hẳn đi. Tôi thường bắt gặp nàng thở dài. Tưởng nàng phiền não vì cớ muộn mằn, tôi đã phải khuyên Iơn:

— Rồi chúng mình sẽ có con. Mợ chả thấy nhiều người lấy nhau bảy tám năm mới đẻ con so là gì?

Nghe tôi nói, Hằng nhăn nhó như người bị trói bức bối, chỉ muốn dằng cho đứt ra, nàng chỉ đáp một,cách nhạt nhẽo:

— Vâng.

Gia đình tôi từ đấy mất vui, lúc nào tôi cũng thấy Hằng đăm đăm. Vẻ mặt sáng sủa, nụ cười tươi tắn, nhường như tắt hẳn.

Hằng cử chỉ chậm chạp, bước đi nặng nề, tiếng nói khó khăn, tôi ngờ nàng đau đớn quá, vì tủi thân về cái sự hiếm hoi của nàng.

Một hôm chị tôi ra chơi, đem theo bốn đứa cháu kháu khỉnh, đứa nào cũng béo mập mạp. Chị tôi vô tình reo cái ‘‘ tủi’’ cho vợ tôi.

Hằng buồn vì muộn sinh nở cũng có, lại xấu hổ cũng có, bởi lẽ lấy chồng hai ba năm không con, ngày xưa các cụ cho là thiếu đức.

Đời tôi may đủ, may từ học hành, đỗ đạt, may từ lấy vợ...duy còn cái may có con, không biết có được không?

Thấy Hằng buồn, tôi bắt đầu săn sóc đến nàng. Tôi đưa Hằng đi chơi những nơi quen biết, dự các cuộc vui cho khuây khỏa. Càng đến các bạn hữu, càng phải nghe những lời hỏi thăm:

— Hai bác được mấy cháu?

Hay là:

— Bác kể cũng hơi muộn.

Người mình thiếu hẳn sự tế nhị trong cách thăm hỏi nhau. Nhiều khi chúc bạn là nhắc nhở bạn nghĩ đến chỗ kém cỏi của mình. Mỗi lần đi chơi về, Hằng lại bứt rứt:

— Thôi, chả đi đâu nữa, cậu ạ.

 

Từ khi thôi không đến chơi các bạn hữu nữa, Hằng năng về nhà luôn. Tôi đoán chừng vì muốn khuây khỏa, nên, thỉnh thoảng nàng về bán hàng hộ cụ Cửu. Có điều này bây giờ tôi mới nhận ra, sau ngày Hằng trông hàng cho cụ Cửu đi lễ, mỗi lần tôi đến, ký Tảo như muốn tránh mặt tôi. Hắn không niềm nở với tôi như trước.

Hằng mỗi khi về nhà, uể oải như người mệt nhọc, mắt lừ đừ nhìn tôi những cái nhìn lắm lét, khiến tôi có lần đã phải bảo:

— Mợ như người bị ma làm.

Cho đến bây giờ, tôi mới biết con ma ấy tên nó là gì, nó ảm ảnh nhà tôi từ lúc nào.

Ai có thể ngờ được đời tình ái của chúng tôi lại kết cục một cách thê thảm như thế này! Nhà tôi bị tràng nhạc hơn một năm thì mất.

Trời ơi! Trên đời, nếu quả có một thứ đau đớn nó làm cho xác thịt rực lên, linh hồn ‘‘chết giấc’’ đi, thứ ấy không phải là cái chết đâu. Anh ơi! Anh không bao giờ có thể ngờ lúc khâm liệm cho nhà tôi khi tìm chuỗi hột đeo cho nàng, tôi lại có thể thấy cả một tập mười mấy cái thư để dưới cái hộp ‘‘bít quy’’, dưới một tờ giấy phủ.

Hằng có ngoại tình! Trời, ai có thể ngờ được, ai có thể ngờ một người đoan trang, thùy mị như Hằng đi lừa dối chồng, thứ nhất người chồng ấy lại là tôi? Dưới mỗi lá thư, có chữ ký hình chữ T ngòng nghèo.

Cho đến khi đến xem sổ sách nhạc gia tôi, tôi mới biết thư ấy do ký Tảo viết. Đã chết chưa anh? Hằng đã ngoại tình với ký Tảo! Thì ra những lúc Hằng đăm chiêu lo lắng là những lúc nàng sợ hãi về tội lỗi của mình.

Tôi không hiểu sao Hằng lại có thể dan díu với ký Tảo, một kẻ kém tôi cả trăm phần.

Sao trước kia nàng không yêu ký Tảo, ai ngăn cấm nàng?

Anh thử tưởng tượng lúc tôi thấy tập thư, tôi ra thế nào. Tôi đọc, rồi tôi òa khóc. Tôi áp mặt vào thi thể nhà tôi, không phải để nấc lên những tiếc thương, mà là nhả ra những hận. Tôi đã toan bỏ vào túi cho Hằng cả ngần ấy bức thư nữa, song sự báo thù ấy nó ghê gớm quá. Dù  sao, tôi cũng không nỡ tâm để cái tang chứng tội ác ấy nó tan rữa ra cùng với xương thịt nhà tôi.

Chỉ Tại Con Chuột

THẠCH trở lại với một gói kẹo ‘‘dragées’’[1] và một con ‘‘poupée’’:

— Đây, quà chú Tuấn đây, con ‘‘cúp-bê’’ này đặt nó xuống thì nó nhắm mắt, nâng nó dậy nó lại mở mắt ra.

Và lấy ngón tay lồng vào cái giây buộc gói:

— Còn đây là kẹo  ‘‘cu-lơ’’  để chú Tuấn ngậm, khỏi ngủ nhè.

Thanh ôm con vào lòng, vỗ vỗ vào đùi:

— Bác Thạch mua quà cho con đấy, con xin bác đi.

Tuấn chạy lại, ôm chầm đầu gối Thạch:

— Con xin bác.

Và ôm con ‘‘cúp-bê’’ định chạy về mợ, Thanh chỉ tay:

— Con không cảm ơn bác à?

Tuấn thẹn đỏ mặt, quay lại:

— Tuấn cảm ơn bác ạ.

Thạch cười khanh khách, nhại:

— Thạch không dám Tuấn ạ!

Thanh nhếch mép cười:

— Thạch không dám Hoàn Nương ạ thì mới đúng.

Thạch vội cãi ngay:

— Gớm, chị làm như em si tình lắm. Chả Hoàn Nương thì đừng! Không có chú Tuấn…

Thanh cầm mũ con, nắn lại;

— Phải, không có chú Tuấn thì cứ mà Tương Tư lệ...

Rồi chụp vào đầu con:

— Nhỉ chú Tuấn nhỉ!

Bỗng như chợt nhớ ra điều gì, Thanh chạy lại phía tủ, lấy ra chiếc áo len:

— Chú Tuấn độ này phát tài tệ! Chị Hoàn mùa rét năm nay đan cho chú những ba áo len. Tha hồ diện.

Và đưa cho Thạch xem:

— Đây anh coi, Hoàn Nương của anh quả là tay thủ công vào bực nhất. Chị ấy biết đến lắm kiểu. Tôi đang bảo chị ấy đan cho anh một cái ‘‘pull over’’ giống như của nhà tôi ấy.

Thạch nhanh nhẩu:

— Thế để em mua len.

Thanh giơ tay như để ngăn:

— Xin anh, thế thì chị ấy lại không đan cho đâu. Để tôi mua biếu anh.

— Thế để em đưa áo mẫu,

— Lại càng không đan lắm. Hôm nào khởi công, anh phải lại ‘‘chầu chực’’ đây cho nàng lấy kích thước.

— Chết, sao tiện!

— Tiện là tiện thế nào? Yêu nhau mà lại không chịu để cho nhau quàng cái giây vào người à?

Thạch thủng thẳng:

— Em chỉ sợ không được cái hân hạnh ấy thôi.

Thanh gọi Hân đang chữa đàn trên gác:

— Mình ơi! Xuống mà nghe anh ấy ‘‘hân hạnh’’, mình ạ.

Thạch gọi theo, vừa để đánh trống lấp:

— Anh Hânl Chị ấy đang chế tôi ở dưới này đây này. Descends! Xong chưa? Đàn địch cả ngày.

Hân nói vọng xuống:

— Không chữa, chốc chị Hoàn đến lấy gì mà đánh? Làm thợ không công cũng không xong thì khổ thật.

 

Thạch đi đi lại lại trong phòng, ngắm những bức tranh của Hân:

— Chẳng trách chị ấy mê anh là phải. Gớm, vẽ cảnh chùa buổi hoàng hôn tuyệt thật!  Trông thật là âm u.

Hân vừa chải đầu, vừa đáp:

— Chuyện, thế còn mình, vẽ đâu mà chị Hoàn cũng mê như điếu đổ.

Thạch cười nửa miệng:

— Tôi thì ai mê, có họa mê người ta thì có.

— Chả mê mà ngày nào cũng hỏi thăm nhau. Rõ đến ghét, họ lại còn giấu mình cơ đấy. Giấu ta, ta cũng  liệu bài giấu cho. Đã thế, lần sau ai hỏi gì cứ giả nhời ‘‘ không biết’’ là xong.

Thanh trong buồng ra với con, vừa đi vừa kéo cổ áo cho con:

— Gớm, mình ác nghiệt với anh ấy làm gì? Cùng bạn đàn ông cả, giúp anh ấy khi này, khi khác anh ấy giúp giả...

Thạch nhìn Hân, làm bộ ngạc nhiên:

— Gớm, chưa chi chị đã vu oan. Em làm gì mà chị bảo giúp giả. Giúp để chị cắt tai đi ấy à?

Thanh cười khẩy:

— Cắt tai để chị Hoàn chị ấy bắt đền, có mà chết.

Rồi quay nhìn chồng:

— Có phải không mình?

Hân chối đây đẩy:

— Thôi, tôi không biết, mặc mình ‘‘vấn đáp’’ với anh ấy. Tôi chả lôi thôi vào đấy, rồi lại đầu chả phải, phải tai.

Thạch lấy mũ cho Hân rồi giục:

— Đi thôi chứ chị?

— Đi đâu, còn đợi chứ!

Thạch ngạc nhiên:

— Đợi ai?

— Chị Hoàn.

Thạch mừng, mặt hớn hở:

— Cả chị Hoàn cũng đi?

— Hẳn rồi, tôi mới là mời chị Hoàn chứ ai mời các thầy!

Từ lúc nghe có Hoàn cùng đi, thỉnh thoảng Thạch lại ra cửa ngóng. Hai vợ chồng Hân bấn nhau, để khi Thạch quay lại, lại hỏi:

— Anh chị chế gì em đấy?

— Chế gì đâu, bình phẩm bức vẽ  ‘‘Vọng Phu’’ của nhà tôi đấy chứ!

Thạch mỉm cười:

— Thôi, em biết rồi, anh chị chế em vọng

mỹ nhân đấy.

Và nhìn sang bạn:

— Cũng chả gì mình em, năm kia cũng khối người vọng mỹ nhân.

Hân nhìn vợ, cười.

Hoàn lộng lẫy trong chiếc áo fianelle mầu mỡ gà, với chiếc ‘‘cáp’’nhung đen, bước vào:

— Chết! Em đến chậm làm anh chị phải đợi, xin lỗi anh chị nhé!

Thanh đỡ  ‘‘sắc’’ cho Hoàn:

— Thế không xin lỗi anh Thạch à?

Hoàn mỉm cười, cười cái cười của kẻ sắp bước vào cuộc tình ái, sắp trao duyên:

— À, xin lỗi chú Tuấn, tí nữa quên.

Thanh nhắc bạn:

— Xin lỗi anh Thạch cơ mà, sao lại vơ lấy chú Tuấn?

Thẹn đỏ mặt, Hoàn lảng:

— Thôi, đi anh chị ạ. Hôm nay anh chị phải mua cho em mươi thước vải Lào đấy. Hội chợ năm nay to hơn mọi năm đấy, anh chị ạ.

Thanh bảo chồng:

— Em mua biếu chị Hoàn mười thước vải

Lào; còn mình, mình mua biếu anh Thạch mười thước vải Xiêm...

Hân nhìn bạn, nhìn Hoàn, cười một nụ cười ý nhị.

 

Hân cặm cụi hơn tháng nay để vẽ bức tranh làm quà mừng cưới cho Thạch. Hôm nào Thanh cũng giục chồng:

— Mình sắp xong chưa ? Còn một tuần nữa

thôi đấy!

— Sắp xong rồi, giá chú Tuấn không phá đám thì hoàn thành lâu rồi,

Tuấn nghe cậu nói, chạy lại lung lay giá vẽ:

— Tuấn phá đám cận đâu!

Thanh vội vàng ôm con ra:

— Chết! Cậu đánh chú Tuấn bây giờ đây này. Hỏng, cô Hoàn bắt đền chú đấy.

Hân nhìn con, mắt gườm gườm:

— Cô Hoàn cô ấy đánh cho đấy, cô ấy không cho đi ăn cưới nữa đâu.

Tuấn úp mặt vào lòng mợ:

— Đã có mợ cho đi.

Hân bỏ hộp sơn, chạy lại cù vào nách con:

— Phá đám, phá đám này!

Một tiếng gõ, Hoàn đẩy cửa vào.

— Chết chửa, bây giờ anh còn vẽ à, hại mắt chết! Thật là vì em, anh chị vất vả lây.

Thanh nhìn bạn một cái nhìn hân hoan:

— Gớm, chị sắp ở riêng có khác, bắt chước ở đâu được cái giọng khách sáo đấy?

— Thật đấy chị ạ, em chỉ sợ anh chị mệt, hôm này mất vui đi.

— Chị không lo, vẽ cỏ một bức tặng anh chị mà mệt thì có họa người giấy. Năm ngoái, nhà tôi biếu cô Thi bộ thủy-mạc cũng còn chả mệt nữa là.

Hân nhìn vợ, cười:

— Mợ nhớ lâu thế.

— Mới năm ngoái, mình bảo làm gì mà lâu. Cô Thi bây giờ về nhà chồng, thỉnh thoảng nhớ ‘‘tri kỷ’’, cứ ngắm bức vẽ mà đỡ nhớ đấy, chị Hoàn nhỉ?

— Vâng, có lẽ thế,

Hân đỗ ét săng, vừa rửa tay vừa nói:

— Chị em có khác, hợp nhau gớm. Nghệ sĩ như tôi với anh Thạch là cứ phải gửi lòng mình đi bốn phương.

Thanh nhìn bạn, cười rồi gật gật đầu:

— Nhưng đừng gửi vào Saigon, xa quá không nhận được, mình ạ.

Hân cười ồ:

— Mình nhớ dai quá nhỉ.

Rồi nói như người phân vua:

— Lại chuyện Saigon, nghỉ hè năm ngoái cô Bảy Sadec, vợ một viên sĩ qnan, vì mộ tiếng tôi, gửi ra hai trăm đồng mua một bức vẽ… thế mà nhà tôi cứ chê mãi. Rõ thật khổ.

Hoàn nói đỡ:

— Nghệ sĩ có nhiều lòng, nghệ thuật mới cao được.

Hân bắt lấy cơ hội:

— Đấy, mình xem, chị Hoàn cũng bảo thế đấy.

Thanh tươi cười, vừa rót nước vừa đáp:

— Để lát nữa hỏi anh Thạch xem có đúng không.

Nghe nói đến bạn, Hân vội vàng bảo vợ:

— À, hay mình cho thằng bếp lại mời anh Thạch lại sơi cơm, nhân thể có cả chị Hoàn nữa đi. Thôi chỗ anh em thân, cần gì. Bảo nó rẽ qua hàng Buồm mua thêm ít lạp xưởng, vài quả trứng muối.

Thanh vui vẻ, xuống nhà dưới bảo bếp đi mời Thạch và sửa soạn mâm.

 

Hảo đặt tách cà phê:

— Anh chị định hưởng kỳ trăng mật ở đâu đây?

Thạch còn lưỡng lự, Thanh đã nói;

— Hay về đồn điền chị?

Hoàn đưa mắt nhìn bạn, như có ý bảo không nên. Thanh hiểu ý, nói chữa:

— Trên đồn điền không vui mấy.

Rồi hỏi thêm:

— Anh định đưa chị đi đâu?

— Có lẽ đi Đế Thiên Đế Thích, chị ạ!

Thanh nhặt hạt cơm dính áo con:

— Sao bảo anh định đưa chị đi Huế?

— Huế thì nên thơ lắm, nhưng em muốn đưa Hoàn đi Đế Thiên Đế Thích để được thấy cảnh hung vĩ của vũ trụ. Qua các nơi sầm uất như Saigon để được thấy đời trong cuộc mưu sinh. Người đàn bà, em cho chỉ nhận thấy cái giá của chồng mình, khi nào va chạm với sự sống. Em muốn Hoàn được thấy cuộc vật lộn của đá với thời gian. Đứng trước những tòa lâu đài bây giờ chỉ còn là đống đá chồng chất lên nhau, người ta mới nhận thấy chân nghĩa cuộc đời. Mọi vật đều đi qua như làn gió thoảng, duy chỉ tình yêu còn lại, còn lại mãi mãi trong giời đất, trong lòng nhau.

Hân ngắt lời bạn:

— Cho nên ban nãy tôi bảo nhà tôi: nghệ sĩ là cái giống gửi lòng đi bốn phương là thế. Nhà tôi không hiểu... lại chế tôi..

Thanh bỏ thêm miếng đường vào cốc cho Thạch và chồng:

— Vì chậm hiểu cho nên; chẳng bao giờ chúng tôi được là nghệ sĩ cả.

Hoàn chêm vào:

— Nếu là nghệ sĩ, chúng tôi là những nghệ sĩ cho bếp nước, cho gia đình.

Hân quấy tách nước:

— Càng phúc hạnh cho chúng tôi, khi đã có một nghệ sĩ trong gia đình, chúng tôi tha hồ làm nghệ sĩ bốn phương.

Hoàn nhìn vị hôn phu một cái nhìn kính phục. Không khí thân mật của gian phòng như có sức sưởi ấm lòng họ. Ngoài giời, gió đỗ ào ào mà thế mà mặt ai nấy đều hồng hồng. Họ nóng ran tình bằng hữu cũng như nóng ran tình yêu.

 

Ba năm sau.

Thạch và Hoàn đã có một con.

Một hôm, hai vợ chồng đang ngồi ăn cơm, bỗng có con chuột chạy qua.

Hoàn buông đũa vội bảo chồng:

— Con chuột nó chui vào gầm tủ sách kìa cậu kìa!

Thạch nhìn vợ, rồi cười như chế:

— Mắt mợ tinh nhỉ, ai bảo mợ nó chui vào gầm tủ?

Hoàn đứng dậy lại chỗ tủ:

— Chả nó chui vào đây là gì?

— Rõ thật mợ quáng !

Rồi chỉ vào chân tủ ‘‘buffet’’:

— Nó chui vào đây này!

Hoàn nhất định không chịu. Nàng nhất định nó chui vào chân tủ sách chứ không phải tủ ‘‘buffet’’.

Thạch hơi cáu gắt :

— Mợ đến ương, đã không nhìn rõ, còn cứ cãi.

Hoàn cũng hơi tức:

— Sao cậu lại bảo tôi ương, nó chạy vào chân tủ sách thì tôi bảo thế, sao cậu hôm nay khó tính thế?

— Khó tính là thế nào, mợ không trông cho rõ, mợ lại còn cãi.

— Thì tôi cãi cậu đâu, nó chui vào đấy, tôi đừng bảo đấy à?

Thạch hơi dằn tiếng:

— Mợ có quyền bảo nó chui vào đấy, nhưng sự thực, nó có chui vào đấy đâu?

— Thì tôi trông thấy thế, tôi đừng bảo thế à!

— Mợ lại cứ bảo trông thấy thế. Trông thấy thế là sai chứ sao?

Hoàn gần muốn khóc ;

— Sao hôm nay cậu gắt thế? Tôi bảo tôi trông thấy thế, tôi nói thế, cậu cũng bẻ.

Thạch buông tay đánh thõng xuống:

— Ô hay, sao mợ lại bảo tôi bẻ mợ, tội bẻ mợ để làm gì?

— Cậu bẻ rõ ràng, cậu lại còn bảo không bẻ. Cậu không bẻ, sao nó chạy vào tủ sách, cậu lại bảo tủ ‘‘buffet’’.

Thạch lắc đầu lia lịa:

— Thế này thì chết thật, thế này thì đến vỡ đầu mất, đời nhà ai vợ con ngang như cua,

Hoàn sửng sốt:

— Kìa cậu, sao cậu lại bảo tôi ngang như cua?

— Không ngang mà mợ cãi thế.

— Tôi cãi đâu, tôi nói đúng chứ.

— Mợ thì suốt đời lúc nào chả đúng. Mợ tinh thế sao hôm nọ lại mất cắp?

Hoàn cho là chồng kể xấu, uất, khóc. Thạch cáu hơn, ném cái bát xuống đất:

— Này khóc này, khóc thì cho khóc luôn thể.

Lần đầu tiên hai vợ chồng xô xát nhau. Hoàn không ngờ chồng lại đập phá ‘‘đồ đạc’’ một cách ‘‘phũ phàng’’ như thế, nàng khóc ầm lên. Nàng rêu rao, kể lể, trách giời, oán đất. Thạch tức điên ruột, cầm đôi đũa quăng ra cửa sổ. Hoàn tru tréo lên. Nàng lăn ra ôm lấy Thạch. Thạch dằng tay, thủng thỉnh lên gác.

 

Thạch đang ngồi thừ trên ghế thì Hân bổ vào:

— Cái gì thế anh? Sao lại lôi thôi thế? Pourquoi ça?[3]

— Không, có gì đâu?

— Sao anh lôi thôi  ‘‘elle’’?

— Lôi thôi gì đâu?

— Sao ‘‘elle’’ bảo anh bắt bẻ gì, rồi cáu bát đũa cơ mà?

— ‘‘ Elle’’ngang lắm anh ạ. Đã chẳng biết gì thì chớ, cứ cãi như thánh.

— Ô hay, anh còn lạ gì. Đàn bà họ cãi vì họ không biết gì. Biết, họ đã không cãi. Chúng ta phải rộng hiểu chỗ ấy mới được. Thế ‘‘ elle’’ cãi gì?

— Nào cãi gì đâu, có con chuột nó chạy vào chân tủ ‘‘buffet’’, ‘‘elle’’ cứ nhất định cãi nó chạy vào chân tủ sách, thế là vợ chồng cãi nhau.

Hân vỗ tay cười rầm:

— Chết thật, ông bà làm vợ chồng tôi hết vía, tưởng có việc gì quan trọng. Chuyện trẻ con thế, thảm nào hỏi, chị ấy không chịu nói.

— Rồi ‘‘elle’’ bù lu bù loa, khóc rầm rĩ lên.

Nghĩ một lúc, Thạch đập đập tay vào trán:

— Ương đâu lại có cái thứ ương thế nữa. Cãi là cãi lấy được.

Hân ôm chập hai tay bạn :

— Gớm, lại anh nữa. Đàn bà họ hay nũng lắm, anh còn lạ gì. Để họ tủi vỉ kém một tị là họ giây cà ra giây muống ngay. Họ là chúa hay trạnh lòng.

Thôi để tôi về bảo nhà tôi lại đằng cụ đón chị về đi. Các cụ không biết, tưởng việc gì to tát, các cụ phiền lòng.

 

Hoàn vặn khóa cửa vào, mặt tiu nguỷu:

— Chị.

Thanh vội chạy ra giắt tay bạn chỉ ghế:

— Ngồi đây, ở đây ăn cơm với Tuấn nhé. Cháu Học đâu?

Hoàn nói một cách chán nản:

— Trên bà cháu.

Thanh gợt tóc lên cho Hoàn:

— Khổ lắm, cãi anh ấy làm gì? Nhà tôi về nói chuyện hai ông bà xích mích nhau chỉ vì con chuột thôi phải không?

Hoàn gật đầu? rồi oà khóc:

— Nhà em lại mắng em là ương, lại kể xấu em.

Thanh giật mình:

— Kể xấu chị?

— Vâng

Hoàn nức nở, Thanh dỗ mãi nàng mới thốt được mấy tiếng:

— Kể chuyện em mất cắp bữa trước, rồi đập bát đĩa...

— Không, anh ấy quyết không thế đâu, có lẽ trong lúc bực bội, anh ấy giận dỗi thế thôi. Chị ở đây ăn cơm với tôi, rồi lát nữa tôi cũng lại đằng cụ với chị.

Vợ chồng Thanh và Hoàn ăn cơm xong thì Thạch vào. Thấy chồng đến không hỏi mình, Hoàn cực thân, khóc thút thít.

Cảm động, Thạch lại vuốt tóc vợ, hôn lên má, rồi dỗ:

— Thôi nín đi, thế sao mình cứ cãi lấy được?

Được chồng vuốt ve, Hoàn nín bặt, nàng áp

mặt vào đùi chồng.

Hân và vợ cười nói oang oang:

— Có thế mà ông bà cũng giận nhau.

Thạch và Hoàn hòa nhau ở nhà Hân rồi đưa nhau về. Chiều hôm ấy, ngồi ăn cơm, hỉ hả, Thạch bảo vợ:

— Rõ thật chúng mình cũng nhũng chuyện lắm, chỉ có việc con chuột chạy qua, hai vợ chồng tí nữa giận nhau. Giá không có anh chị Hân, có lẽ chưa biết bao giờ …

Hoàn cười như có ý xấu hổ:

— Ừ nhỉ, thật em rõ lố. Chỉ có con chuột chạy qua, hai vợ chồng tí nữa giận nhau.

— Nó chạy qua, nó chui vào tủ ‘‘buffet’’ thì mặc nó có được không? Mình lại cứ đi cãi nó chui vào tủ sách.

Hoàn cãi ngay;

— Ấy, nó chui vào tủ sách đấy chứ. Nó chui

vảo tủ ‘‘ buffet’’  thì còn nói chuyện gì nữa.

Thạch trừng trừng nhìn vợ:

— Chui vào tủ ‘‘buffet’’ chứ lị, nếu nó chui vào tủ sách, anh đã chả nói mình.

— Khổ lắm, mình cứ cãi em mãi, chính mắt em trông thấy nó chui vào tủ sách mà lị.

Thanh đập đánh thình vào mâm:

— Ô hay, ra mợ ương thật thôi. Tôi đã bảo là nó chui vào tủ buffet. Tôi trông thấy rõ ràng. Bảo mợ, mợ chả nghe. Mợ cứ cãi, cãi lấy được, người đâu mà ương thế?

Hoàn lại gần muốn khóc:

— Em ương đâu mà mình bảo em ương? Em bảo mình là em thấy nó chui vào tủ sách thì em bảo là tủ sách, Mình cứ bắt chết em nó chui vào buffet. Em không thấy nó chui vào buffet thì nói thế nào được?

— Thế mình mới ương!

— Thế mình lại bảo em ương.

— Không ương mà lại cãi?

— Em cãi bao giờ, em bảo mình mãi rằng em thấy thế nào, em nói thế, mình cứ bảo em cãi. Không chịu nổi nữa, Thạch đập cái bát vỡ tung tóe:

— Đồ ngu! Thế mà lại cứ cãi là không cãi thì có chết người không cơ chứ!

 Hoàn thất sắc, khóc oà.

Thạch lại thịnh nộ:

— Người đâu lại có người ngu thế thì thôi. Đã bảo chỉ có con chuột nó chạy, nó chui vào tủ buffet thì kệ nó, việc gì đến mình mà cũng lôi thôi cãi cọ với chồng, để đến nỗi vợ chồng xô xát. Bảo không nghe, lại còn già mồm.

Bị chồng mắng già mồm, Hoàn khóc già hơn. Thạch sốt tiết, đứng dậy lấy mũ đi.

Hai tháng sau.

Hân lại phải đi xứ một lần nữa. Vợ chồng Thạch hòa hợp nhau. Bữa cơm hòa giải có cả vợ chồng Hân.

Thanh dừng đũa, nói sang bạn:

— Chị Hoàn, xong bữa cơm hôm nay, cho kê hẳn cái buffet ra chỗ khác cho nó mất tích đi. Hai lần rồi, hai lần vì nó sừng sững, nó đứng ở đấy cho nên dính dớp mãi.

Và bảo Hân:

— Và cậu giúp anh Thạch một tay, xích cái tủ sách ra chỗ kia, đầy cu cậu đấy, phạt cho hai mươi bốn giờ, vì cu cậu mà hai bác tí nữa giận nhau.

Hân cười nở nang:

— Giận nhau rồi lại sắp giận nhau.

Thạch nhìn vợ, tủm tỉm:

— Này anh chị nói, nhà tôi lại sắp cãi bây giờ đấy.

Hoàn mặt đỏ ửng:

— Chả cãi mình nữa. Mình hay cáu lắm, Nói mình cứ bảo là em cãi, chịu thôi.

Thạch cười mát:

— À, thế ra bây giờ mình đã biết không nên cãi anh rồi hử.

Rồi quay sang vợ chồng Hân:

— Anh chị tính, đàn bà nhiều người không hiểu. Cãi chồng để làm gì? Mình cãi chồng để lấy phải mà chồng mình ghét thì sao bằng mình không cãi mà chồng yêu có hơn không?

 Hân nói để đưa câu chnyện về ngả khác:

— Nhà này rồi cũng nên nuôi một con mèo, cho nó làm cỏ bớt cái giống tí tắt ấy đi. Chúa hại quần áo.

Thạch hiểu ý bạn:

— Và chỉ tổ gây chuyện ‘‘con chuột’’cho gia đình.

Rồi nhìn vợ, cười mỉm. Hoàn cúi đầu, liếc mắt cho vợ chồng Hân như có ý bảo: ‘‘Nhà tôi đáo để lắm’’.

 

Chú thích:

[2] dragées = là một loại kẹo bọc đường nhiều màu, trong có để chocolat hoặc hạt hạnh nhân)

[2] cu lơ =(couleur =màu)

[3] Pourquoi ça = Tại sao vậy?

Già kén

CUỘC hội họp hôm ấy có năm người.

Đăng, nhà văn luôn luôn với cái điếu cầy trên môi, lúc nào cũng như trầm tư mặc tưởng:

— Các anh cứ kết tội đàn bà, làm như họ là một quái vật gieo tai họa cho các anh không bằng. Đàn bà, người nào cũng có thể là thần, nếu ta biết dẫn dắt họ. Mà buông trôi thả lỏng thì danh gia tử đệ đấy, rồi cũng hóa ra nặc nô cả. Tôi, xưa nay tôi vẫn không chịu cái lối mạt xát phụ nữ tân-thời và ca tụng đàn bà cổ xưa. Tân hay cựu, họ đều là đàn bà cả, khi thằng chồng nhân cách chỉ đáng một đồng hào thì không bao giờ vợ nó giá có đáng một đồng bạc. Hãy dạy cho người đàn ông biết là thằng kỵ mã tốt, đàn bà rồi đều là ngựa hay cả.

Thân, tham tá hậu bổ, một lần bỏ vợ:

— ‘‘Une part de vérité’’[1]. Nhưng tôi, tôi vẫn cho đàn bà có nhiều đức tính tốt hơn các mợ bây giờ. Lấy các bà tân thời, mình có cảm tưởng mình bị làm chồng không phải được làm chồng. Các bà ấy đòi mình đủ thứ, trái lại, các bà ấy chẳng giả cho mình chút gì cả. Lấy chồng, các bà ấy kê ra đủ một trăm cái đơn: đơn ô-tô, biệt thự, quần là, áo lượt. Các bà ấy dán đầy người mình. Vô phúc, một cái nào bong ra là một chút tình kém đi. Thà cứ tìm cái đám những ái nữ cụ Chánh, cụ Hàn, cụ Cửu, thế mà lại dễ cư xử...

Lộc, giáo sư tư thục, góa vợ:

— Không nên cực-đoan quá. Vị tất phía phụ nữ ‘‘cựu thời’’ đã hoàn toàn là những bực vợ hiền, dâu thảo. Nhiều bà ở nhà quê hai sương một nắng, đầu tắt mặt tối không sao, lúc lấy chồng, nhớ bổng lộc của chồng đâm ra ăn bơ làm biếng. Rồi đua đòi tổ tôm, tài bàn, si ma, nhà hát, rốt cuộc nhiều bà lại phá phách hơn những tiểu thư lãng mạn tân thời.

Oánh, người bạn nhiều tuổi nhất trong bọn, nhưng bao giờ cũng ít nhời:

— Số cả, may hơn khôn.

Hai ba người hùa theo:

— Phải đấy, bác Oánh tôi lý luận (!) thế mà đúng. May hơn khôn, tốt số hơn bố giầu.

Tân nói một cách dắn giỏi:

— Sao lại may hơn khôn, sao lại tốt số? Ở đời, khôn còn chết nữa là dại. Lọc lõi còn có khi kêu giời trách đất rầm lên, huống hồ nhắm mắt thì có ngày xuống hố. Tôi cho ở đời, khôngcó cái gì đến với mình một cách dễ dàng, giời cho mình một cách dễ dàng. Giời cho mình mắt mũi, tay chân không phải là không dùng vào cái việc kén vợ, các anh nhé. Tôi cứ nói thế này, các anh hiểu: Anh đi mua quít, nếu quả sần sùi anh cũng lấy, anh sẽ bị múi khô không một giọt nước. Da nó xanh quá, tất nhiên chua, vàng quá cầm thấy nục tất nhiên bị thối. Giời cho anh có tay, sao anh không cầm nó lên, có mắt, sao anh không xét  ‘‘bộ-điệu’’ nó. Nếu anh mất công một chút, đời nào anh bị thất ý. Số mệnh là cái gì, chỉ là sự để ý chọn lựa, thế thôi.

Một câu hỏi rạch vào:

— Thế ngộ bề ngoài nó tốt, bề trong nó xấu thì sao?

— Chết thật, các toa [2] hồ đồ thật. Chữ thánh hiền để đâu. Hữu ư trung, hình ư ngoại. Người làm sao, chiêm bao làm vậy. Có thằng nào mắt thư hùng mà tử tế thủy chung, mắt trắng rã, môi thâm sì mà có nhân, có nghĩa? Các cụ đã sống hộ mình, các cụ đã lập thành formule [3] cho mình, cứ đấy mà theo, không sai bao giờ cả. Nào tôi hỏi các anh, có bao giờ ‘‘grande base plus petite base, multipliée par hauteur, divisée par deux’’(4) mà trệu cái hình  ‘‘trapège’’ (5) không nào? Đời cũng thế, cứ trông mặt mà bắt hình dong. Tôi cho không gì hơn là kén chọn.  Muốn được vợ tề gia nội trợ, phải kén, kén cho thật kỹ.

— Lấy vợ mà anh lại đọc một đóng formule ra. Anh làm những hình chữ nhật, tam giác, tứ giác cả. Có để ý kén chọn cũng có hơn, điều đó ai cũng biết, nhưng cũng còn nhờ ở rủi may cả. Anh chọn nó tốt, ngộ về nhà anh, nó tác yêu tác quái ra thì sao ?

Đăng nhìn các bạn một cái nhìn nó như có ý bảo : ‘‘Các anh xét đời chỉ ở ngọn’’. Chàng giõng giạc :

— Khổ lắm, các anh lý luận mãi cuộc sống. Cuộc đời nó chẳng phải thế này hay thế nào cả. Đây này, muốn được sung sướng, muốn có vợ hiền con thảo, muốn cho ánh sáng vào nhà mình, hãy mở hết các cửa ra. Nhà không có lấy một cái cửa, lại cứ đi kêu tối om om thì kêu làm gì cho mệt xác. Linh tại ngã, bất linh tại ngã. Vợ hiền à, con thảo à, cái gì, cái gì cũng ở lòng này ra cả, cũng ở cánh tay này ra cả. Khi lòng mà tối như đêm, dầy như đất thì đừng có hòng... Phải sao chịu vậy âm thầm là nghĩa thế.

Cả bọn đồng thanh:

— Chúng ta có hai nngười để chúng ta theo: anh Đăng và anh Tân. Một anh thì kén chọn, một anh thì nhờ ở sự rèn luyện của mình.

Bỗng một tiếng reo ra như ống lệnh :

— Đàn bà kể cũng đã ‘‘pho’’ (6) các anh ạ, họ bắt được chúng mình  ‘‘nghĩ ngợi ‘’ về họ nhiều gớm nhỉ.

— Đàn bà, nguồn sống của trần gian.

— Và cũng là nguồn chết của các ngài bị cắm sừng.

— Và cũng là con cái quỷ  ‘‘Satan’’.

— Nhưng cũng có thể là nàng tiên hạ giới,

 

Tân nằm đọc sách ở divan thì Thúy vào :

— Ngủ kìa, chết thật, anh Tân.

Tân ngồi nhỏm dậy:

— Xin lỗi, ngủ đâu, đang đọc.

Thủy giật phắt lấy sách, xem bìa:

— Ê, đọc cái của nợ này thì chỉ có mà vỡ đầu.  ‘‘Le couple’’  đây mà.

Rồi ném xuống bàn:

— Thôi đi lên Ngọc Hà mua ít hoa đi.

Tân nhặt quyển sách, giở giở để tìm số trang vừa đọc:

— Đi đâu bây giờ, hai giờ hãy đi.

Tân lại giật lần nữa:

— Khổ quá, đọc làm gì cho vỡ đầu. Thôi dậy mặc quần áo đưa em đi, đi !

Tân gắt yêu:

— Thúy quấy anh lắm nhé, thong thả tí nữa nào.

Thúy, mặt tiu nghỉu:

— Thôi, em về vậy.

Tân tát yêu vào má:

— Về thì anh sẻo tai,

Thúy lại giục:

— Thế mặc quần áo đưa em đi, đi.

Muốn chiều người yêu, bất đắc dĩ phải bỏ giấc ngủ trưa, Tân buộc lòng phải đưa Thúy lên Ngọc Hà.

— Đi xe đạp hay đi tầu điện nào?

— Đi bộ.

— Chiều năm giờ anh phải lại trường. Hôm nay, anh có một giờ Algèbre.  

— Anh nghỉ

— Chết, nghỉ thế nào được?

Thúy sụng sịu:

— Nhưng, em đợi anh ở nhà cơ.

Tân ngần ngừ, rồi thở nhẹ:

— Cũng được.

Tân đạp một mạch đã trở về. Trông thấy tập bài học trò bỏ vung trên divan, Tân không bằng lòng:

— Chérie,[7] anh đã bảo chérie muốn nghịch gì thì nghịch, nhưng bài vở của học trò, chérie đừng mó vào của chúng nó. Chết thật, lại phê bừa vào thế này nữa à?

Vừa nói, vừa nhặt đống giấy, sóng sóng vào nhau:

— Lần sau, xin chérie đừng sờ vào cái đống hàng  ‘‘quốc cấm’’ này đấy nhé !

Thúy không nói gì, lấy mùi soa lau mắt, nghẹn ngào :

— Lần sau Thúy sợ, có lẽ Thúy sợ đến già. Rồi vùng vằng định về.

Tân lại phải cười ha hả:

— Em, gớm quấy thiu cả thịt. Tôi thì đánh đòn bây giờ đấy.  ‘‘À genoux!’’[8]

Thúy lườm ngoắt:

— Em học anh đấy à mà  ‘‘à genoux’’?

Tân cười đấu dịu:

— Thì anh cũng nói chơi.

Thúy vẫn phụng phịu:

— Anh nói chơi với học trò anh, chứ với em à?

Tân nói thật to để phá không khí:

— Allons!(9) Thúy hạch anh đấy phải không? Anh đã phải nghĩ đưa Thúy đi chơi, Thúy còn bẻ hành, bẻ tỏi mãi.

Thúy nguôi nguôi, lấy ‘‘túc’’ xoa lại lần phấn hồng, rồi lê lê chân hát :

Mais, hélas ! lorsque l’âge vous glace,

Nos beaux jours ne reviennent jamais.[10]

Tân nhìn Thúy, lắc đầu:

— Đến chết với chérie thôi !

 

Thúy bắt Tân đi bộ để có dịp qua hàng Ngang, hàng Đào xem hàng. Hàng nào Thúy cũng vào, xem thứ gì Thúy cũng chê. Tân nhiều lúc ngượng qúa, đã phải nói nhỏ:

—  Faut pas, je t’en prie. (11)

Nhưng là thiếu nữ tân thời trăm phần trăm, Thúy làm thế nào khác được. Ra khỏi hiệu, Tân mắng yêu:

— Em đến lạ, vào hiệu người ta, chẳng mua gì, lại còn chê bai đủ thử, không nên.

Thúy nguây nguẩy :

— Em có quyền.

Tân ngọt ngào:

— Thế ngộ họ cũng có quyền?

— Thì họ làm gì em?

— Thì họ sẽ bảo em bất lịch sự.

Thúy há hốc mồm nhìn Tân:

— Tân, điên à? Người ta chê hàng lại bảo người ta bất lịch sự.

- Nhỡ họ nói?

— Thì Thúy mắng vào mặt họ.

— Đã đành, nhưng mình đi chơi chứ có phải đi cãi nhau đâu?

— Nhưng nếu họ nói lôi thôi...

— Thì vì thế, anh bảo Thúy đừng chê bai hàng của họ.

Thúy đã nhịn, nhưng đi được một quãng, như chợt nhớ ra điều gì, bỗng Thúy sầm mặt, quay hỏi Tân một cách gay gắt:

— À, em biết rồi, thảm nào Tân cự mãi em. Có phải ban nãy em chê ở cửa hiệu cái cô mặc áo  ‘‘si-ca-la-men’’ đấy không? À, em biết rồi.

Thế là Thúy vùng vùng vằng vằng gọi xe, nhất định về. Ở ngoài đường, Tân không dám nói to, sợ người ta để ý đến nên chỉ khẽ đáp:

— Không phải, trong hiệu khách trú đấy chứ.

Tân buộc lòng phải đổ trong hiện thách trú là vì không còn biết nói gì hơn nữa. Phân trần sợ Thúy không nghe, càng làm rầm lên.

 

Mua hoa, Thúy đã không biết giá, lại ăn nói hóm hỉnh, làm cho bà cụ hàng hoa bực mình:

— Gớm, cô ăn với nói. Đây chúng tôi, các bà lên mua đã nhiều, chưa thấy ai ăn nói đỏng đảnh như cô.

Tân tím mặt, phần giận Thúy, phần xấu hổ vì lời nói của người bán hàng:

— Thôi cụ, nói làm gì quá lời.

Bà cụ vẫn tấm tức:

— Đấy ông xem, cô ấy chê mãi, tôi có nói gì đâu, vì tôi cũng biết các cô con nhà giầu khó tính lắm. Nhưng cô ấy lại bảo:  ‘‘vài cái hoa tèo bán lấy hai hào mà đong gạo’’ thì ông bảo ai là người nhịn được !

Tân vội ngắt:

— Thôi xin cụ, em tôi trẻ người non dạ, cụ ạ. Thấy Tân nhã nhặn biết điều, bà cụ phân trần :

— Có các cô mới nhớn lên, chưa biết người biết của đấy thôi. Nhà chúng tôi tiếng bán bàng, nhưng cũng không đến nỗi đớn mạt gì. Hôm nào thong thả, mời ông vào xem tranh của cháu.

Thấy bà cụ ăn nói khoát đạt, mặt mũi phúc hậu, ra dáng con người sang trọng, Tân bèn hỏi :

— Thưa cụ, ông Cả vẽ tranh?

Bà cự dịu ngay mặt :

— Vâng.

Rồi bà cụ nói tiếp:

— Chắc các ông biết cháu. Hòm nọ quan đốc lý cũng xuống mua tranh.

Tân ra dáng nghĩ ngợi, bà cụ nói ngay:

— Cháu Mỹ Thanh, ấy mà.

—  À, thưa cụ ông Mỹ Thanh con biết tiếng lâu lắm đấy ạ. Hồi con ở Pháp, ông cũng có gửi tranh sang bầy bên ấy. Con còn nhớ bức  ‘‘Mẹ ru con’’ được ông  thủ tướng mua hai nghìn đồng.

Bà cụ cướp lời:

— Vâng, chính phải đấy ạ.

— Ông Mỹ Thanh thì con đã biết tiếng, kể

bây giờ người Annam, ông là bậc danh họa vào bực nhất đấy ạ.

Bà cụ sung sướng được người ta khen con, quên cả sự vừa xẩy ra, cố mời Tân và Thúy vào chơi với Mỹ Thanh.

Tân muốn vào lắm, muốn vào để được dịp làm quen với một nhà danh học của đất nước, nhưng sợ Thúy ngượng nên chàng đành từ chối;

— Thôi chiều rồi, cụ cho con đến khi khác, con sẽ xin lên hầu cụ và ông Mỹ Thanh.

Rồi trước khi đi, Tân còn nói lại với bà cụ:

— Em con nhỏ tuổi, có điều gì sơ xuất, xin cụ xá cho.

Bà cụ cười hể hả,

Đi được một quãng, Tân bảo Thúy:

— Đấy em xem, thiên hạ biết thế nào mà kể? Trông bà cụ ăn mặc sồ sề thế mà là mẹ nhà danh họa nước Việt Nam đấy nhở, lại giàu có bạc vạn nữa cơ đấy, vì nguyên cái năm ông Mỹ Thanh bầy tranh ở Pháp đã bán được ba bốn vạn đồng rồi. Lại mấy năm về đây nữa. Tranh của ông Mỹ Thanh bán cả sang Mỹ nữa. Cho nên anh vẫn khuyên em không nên khinh người rẻ của.

Thúy được dịp nổ bùng ra:

— Anh thật vô lý, tự nhiên đi van xin cái con mẹ mặt méo như cái chũm cau. Em làm gì mà anh phải lạy lục xin lỗi nó? Đi với anh, lắm lúc bực mình.

Tân cười nhạt:

— Anh không thễ chiều em những điều trái lòng được. Người ta già cả thế, em gọi người ta là ‘‘ nó’’, thế em trẻ hơn người ta hàng ba bốn

chục tuổi, người ta gọi em là gì? Không nên thế em ạ. Nếu anh chiều em trong những hành vi sai lạc của em, tức là anh không yêu em đâu. Yêu nhau, ta phải mong sửa đổi cho nhau.

Thúy cáu, phần bẽ mặt, phần tức Tân không

bênh vực được mình, trề môi nhún vai:

— Đi chơi với anh, lúc nào anh cũng như người giảng thập điều.

Tân biết không nên nói gì nữa, thôi. Thúy mặt sị xuống như lúc còn đi học phải quỳ, vừa đi vừa lảm nhảm:

— Tân thật lạ, con mẹ nó ăn nói thế mà để yên. Lại còn nghe nó kể lôi thôi. Em chỉ muốn xông lại tát cho nó một cái đổ đồng quang con mắt cho nó câm họng.

 

Biết Thúy có những tính nết của kẻ mất dạy, Tân vẫn yêu. Chàng tin rằng nhờ ở sự kiên nhẫn và đức độ của chàng, chàng sẽ cảm hóa được Thúy. Thúy là một gái của các cuộc vui chốc lát, sống cho những mầu áo, kiểu giầy. Đầu óc là cả một trang giấy trẻ nguệch ngoạc, không một đường ngang gẫy gọn, không được một đường dọc thẳng tắp.

Con đầu lòng một ông Phán hưu trí, học hành dở dang, Thúy đàn đúm chơi bời với bọn con trai thiếu tư cách.

Bởi một sự tình cờ, Tân quen Thúy. Vì biết cái chỗ gia đình giáo dục của Thúy, nên Tân lúc nào cũng tìm cách tu sửa tâm tình người yêu.

Chẳng may thân cây đã bị mọt rỗng, lòng ruột Thúy như củ khoai hà, không thể nào ‘‘chửa chạy’’ được.

Thúy yêu Tân vì Tân giầu, vì Tân sang trọng. Lương tháng hai trăm bạc, lại là du học sinh trở về, lại con nhà giầu, lại chưa vợ. Yêu Tân để bám vào cái bám của Tân, yêu Tân để xin Tân từng chục một may mặc, sắm sửa cho ngất để diện Bô-đa với vài ba cô trẻ trung nữa. Tân không bao giờ để ý đến chỗ Thúy  ‘‘làm tiền’’ mình, vì là người rộng rãi và lịch sự, không bao giờ Tân để người yêu phải hỏi.

Tiền của Tân, Thúy tha hồ tiêu, tiêu hết thôi, Tân không giữ một đồng nào cả. Cho nên dan díu với Tân, dù bị khó chịu vì nỗi Tân hay  ‘‘bắt đeo tràng hạt’’ nhưng Thúy vẫn không dám bỏ chàng, vì lẽ Thúy coi chàng là con bò sữa.

Một người trong sạch như Tân, bao giờ chịu hạ mình để suy xét về việc ấy. Vốn tính rộng rãi, Tân không biết sự chứa cái túi mình bao giờ. Anh em, bè bạn ai túng thiếu vay thì Tân cho vay ngay, xin Tân cấp đỡ ngay.

Một mình với số lương hơn hai trăm bạc, Tân sống dư dật, phong lưu như ông hoàng con.

Dan díu với Thúy, Tân tìm hết cách để cải hóa Thúy. Tân giảng dạy lừng li từng tí, bảo ban kẽ tóc chân răng, Thúy không bao giờ nghe. Trái lại, Thúy còn coi Tân là hủ. Giá không có đồng tiền của Tân nó có lỗ nó xâu Thúy vào thì Thúy cũng bỏ ‘‘rơi’’ Tân rồi.

Bề ngoài, các bạn hữu ai cũng khen cặp Tân-Thúy tốt đôi. Nhưng chỉ Tân là kẻ ở trong chăn mới biết chăn có rận. Nhiều lúc Thúy vì cảm lòng tử tế của Tân đối với mình, bỏ đi được một vài tính xấu, nhưng rồi lại đâu đóng đấy.

Dan díu với Tân được hơn một năm thì Tân thấy nhạt Thúy. Chàng phát tởm về cái nhân cách hèn kém của Thúy.

Là kẻ thiếu giáo dục, phải sống bên người đàn ông mẫu mực, Thúy thấy khổ, thấy tức thở. Khổ, tức thở mà vẫn phải lăn đầu vào vì Tân không thể là chồng Thúy, nhưng rất có thể là người nhân tình thân ái nhất. Vì một lẽ rất giản dị: Tân sang trọng, giầu có, lại có nhà riêng, tha hồ cho Thúy phá phách.

Nhưng Tân không thể kham mãi cái giống trỏng lỏn ấy, chàng đã bắt đầu chán và chớm ý tưởng bỏ Thúy. Mặc dầu ý tưởng chớm nở trong đầu, Tân vẫn chưa đủ can đảm nhẫn tâm cự tuyệt hẳn.

Thành thử Thúy cứ lai vãng, Tân cứ bắt buộc phải tiếp. Mãi cho đến một hôm, cụ Phủ thân mẫu Tân lên chơi ở một tháng, Tân mới được dịp  ‘‘dứt tình’’ với Thúy.

 

Cụ Huyện có mình Tân, nhưng không như các bà mẹ khác, ép uổng con trong việc dựng vợ gả chồng. Mặc dầu năm nay Tân ba mươi tuổi rồi mà khi nói đến việc lấy vợ, cụ Huyện cũng vẫn ôn tồn :

— Con phải lấy vợ cho me nhờ chứ, cho me chóng có cháu bế chứ?

Lần nào Tân cũng khất:

— Me cho con còn kén. Thời buổi này, được người tử tế khó lắm me ạ, các cô ở tỉnh thành phần nhiều long lao, ăn nói chả ra làm sao. Các cô ở nhà quê thì cục mịch qúa. Sau này con xuất chính hay mở phòng luật sư, họ cáng đáng việc tề gia, xã hội cho con thế nào được. Gia dĩ con lại đã ba mươi tuổi rồi. Lấy những cô mười tám, đôi mươi thì cứ hỉ mũi chưa sạch, còn biết làm ăn gì, Mà hai mươi nhăm, hai mươi bẩy thì tuổi ấy chưa chồng, hắn cũng  ‘’ghê gớm’’ lắm,

Nghe con nói, cụ Huyện chỉ thở dài:

— Con nói thế vô cùng, vợ chồng là cái duyên số, có phúc có phần. Nó ở nhà người ta là rắn là rết, nó về nhà mình, nó là Tiên là Phật. Vô phúc ra thì nhà người là phấn là hương, về nhà mình nó là gươm là đao. Bao nhiêu ông cả bà lớn, chả kén dâu kén rể đấy ư? Rốt cục nhà mình mà kém âm đức thì mọi thứ đều kém cả. Năm nay con ba mươi tuổi đầu rồi, còn đợi đến bao giờ nữa? Chuyến này, mẹ ra chơi với con, nhân thể nhắc con đám cụ bô Hường, cô ấy năm nay đỗ rồi đấy. Nếu con bằng lòng thì để mẹ hỏi vậy.

— Con chưa muốn lấy vợ vội. Me xem người Tây, ngoài ba mươi người ta mới lấy vợ. Vả lại lấy người nào con không biết tâm tính, nết ăn ở thì con không dám lấy. Con thấy nhiều cặp vợ chồng rồi, ăn ở với nhau chả ra làm sao, rồi thiên hạ người ta cười cho.

— Sao con lại cứ nói người Tây, bốn mươi mới lấy vợ. Me chả biết người Tây đâu, me chỉ biết con. Con còn chưa thành gia thất ngày nào thì me còn buồn ngày ấy.

Tân thấy mẹ băn khoăn về việc vợ con cho mình, có ý thương mẹ, nói lảng sang chnyện khác. Chàng hỏi chuyện ruộng nương, việc làng việc nước để cho mẹ khuây khỏa đi.

Cụ Huyện thấy con không chịu lấy vợ, cụ khổ lắm. Cụ sợ nhất người ngoài không biết, rất có thể đổ cụ ác nghiệt nên không ai chịu làm dâu nhà cụ. Họ đã bàn ra tán vào:

— Cậu ấy đỗ Trạng nguyên (?), cụ Huyện lại giầu có, thế mà chả ma nào nó lấy, chắc hẳn

có thế nào đây.

Có kẻ độc ác lại phao cho chàng cái tiếng đào mỏ :

— Chắc ông Trạng chưa có đám nào giầu sụ chút của cho nên chưa chấm đám nào đấy chứ gì?

Thôi thì đủ điều ong tiếng ve, thôi thì đủ mọi thứ đồn đại. Cụ Huyện mặc người ta to nhỏ mà Tân cũng mặc thien hạ bàn tán.

Chàng cứ kén, kén cho được người ý hợp tâm đầu,

 

Hôm đi xem cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ tự lập Đông Dương, Tân làm quen với một cô giáo. Nga, tên cô giáo, là con một cụ huấn đạo hưu trí, Tân quen cô vì anh cô là bạn thuộc hạ cụ Huyện ngày xưa.

Tân đang viết nốt bài báo cho tờ ‘‘Epingles Françaises’’ thì Nga vào.

Tân hớn hở đứng dậy đón người yêu:

— Hôm nay trông em đẹp quá, đẹp hơn mọi hôm nhiều. Đấy anh đã bảo mà, em mặc màu này hợp màu da mà lại.

Nga cười một nụ cười kín đáo :

— Thì em đã theo ý anh.

Tân hôn người yêu và nói một cách say đắm:

— Anh mong mãi em, Vừa mới viết đấy. Thôi để mai anh viết, bây giờ chúng ta hãy đi chơi đã. Anh đưa em lên Trúc Bạch nhé, hay lên Bô-đa mua ít truyện vậy.

Nga nghiêng đầu vào vai Tân:

— Không, em chả muổn đi đâu. Ở đây chơi với anh một lát rồi về.

— Anh tưởng đi chơi hơn chứ. Hôm nay anh ở nhà từ sáng đến giờ rồi, Chỉ đợi em đến, đưa em đi chơi một lúc hóng gió đấy thôi.

— Em không muốn đi, anh ạ.

Tân chiều người yêu, đón ngay:

— Thôi, em không muốn đi thì thôi, có lẽ hôm nay em mệt phải không?

Nga gật đầu:

— Vâng, em hơi mệt.

Rồi trầm ngâm một lúc, Nga hỏi:

— Em nghe nói cụ vừa ở chơi với anh phải không?

Tân sốt sắng:

— À, cảm ơn em, me anh về rồi, me anh ở trên này chơi với anh gần một tháng.

Nga xuýt xoa:

— Hoài của, em không được chào cụ,

Tân sung sướng, hôn như mưa lên má Nga:

— Em chu-đáo quá. Để hôm nào me lên,

anh sẽ cho mời em lại chơi.

 

Nga bắt đầu hỏi Tân về công việc riêng:

— Sao anh không mở phòng luật sư, lại dạy học hở anh?

— Vì anh chưa muốn.

Nga tần ngần:

— Sao anh lại chưa muốn, anh mở phòng luật sư em thiết tưởng tốt hơn đi dạy học chứ?

Tân hơi ngạc nhiên:

— Sao em lại bảo mở phòng trạng sư hơn đi dạy học? Hơn thế nào, chérie, nói anh nghe.

Nga sốt sắng đáp ngay:

— Hơn hẳn chứ anh, mở phòng luật sư tháng còn có năm bảy trăm, một nghìn, chứ đi dạy học vài trăm một tháng thì bao giờ có được. Vả lại, giáo sư bao giờ bằng trạng sư. Anh có thể làm trạng sư, sao lại không làm?

— Nhưng anh thấy dạy học cần hơn cãi kiện, em tính sao? Anh làm việc là kể cái thích của nghề,  có kể cái lợi đâu, Kể lợi thì trạng sư cũng chưa lợi bằng chủ sòng bạc. Tháng tháng có hàng vạn chứ không hàng nghìn đâu. Em có học, sao em nghĩ thiển cận thế?

Nga hơi đỏ mặt:

— Không phải em nghĩ thế đâu, anh ạ. Thiên hạ đều nghĩ thế cả. Xã hội cứ kể thứ bực mà lên. Ông Ký. Ông Phán. Ông Tham, Ông Huyện, Ông Phủ, cho đến Thượng Thư. Tổng Đốc. Tùy theo chức tước mà được tôn kính. Anh đi dạy học thì chỉ có học trò anh quý anh thôi. Xã hội biết anh là ai? Anh thử mở phòng luật sư xem. Từ quan đến dân, ai ai không biết tiếng anh. Anh đi đến đâu, thiên hạ  chẳng phải kính phục. Đằng này là ông giáo, giỏi lắm thì đến học trò trường khác nó biết tên là cùng, mà biết thì làm gì? Giá có vào Khai Trí, Tiến-Đức, cái danh ông Trạng chắc đắc thể hơn ông giáo.

Thấy người yêu hiểu chức nghiệp một cách Vụ lợi như thế, Tân liền giảng giải:

— Xét người, em nên xét nhân cách của người ta. Sao em lại bắc họ lên đồng cân chức nghiệp? Một người chức nghiệp cao, không phải là không thể có một nhân cách hèn kém. Em yêu anh là yêu cái thằng người trần của anh với tất cả cái bản thể cao đẹp. Chỉ thế, em cũng đã được sung sướng rồi. Là vợ, em cần có một người chồng cốt cách hơn là người chồng có danh vị. Anh tưởng chỉ những người đàn bà thấp kém mới nhìn cái danh trạng sư là to thôi. Còn em, ít ra em cũng có cái học đủ để hiểu một vài nghĩa lý ở đời, sao em cũng nhầm lẫn như người ta? Anh lấy làm lạ có người lấy chồng, không lo lắng về tính tình của chồng mình có khá không? nhân cách có cao không? lại đi lo về một vài điều vụn vặt vô  nghĩa lý trong cách trang biện nhà cửa. Thật là tối tăm quá lắm. Anh mong sau này anh sẽ có một tờ báo, một trường học chuyên về việc giáo dục thiếu nữ thành những người vợ hiểu hết cái nghĩa thiêng liêng của kẻ làm vợ. Như em vừa nói, đàn bà coi trọng danh tước của đàn ông, thảo nào nhiều bà, nhiều cô đã bán rẽ thân thể để mua lấy cái tiếng được quen ông này, ông khác.

Nga trạnh lòng, tưởng Tân nói mình nên cải ngay:

— Không phải em nghĩ thế đâu, nhưng sự phán xét của đời thế, mình phải theo đời chứ.

— Theo đời phán xét thì chỉ có mà lăn xuống hố. Đời căn cứ vào bề ngoài mà xét người, đời hẳn phải nhầm. Bề ngoài là một thứ gì mua được, kiếm được. Chứ bề trong là thứ có tiền trăm bạc nghìn không thể mua lấy cho mình. Cho nên đời đánh giá người ở bề ngoài là đời nhầm lắm. Chả trách có người cố đầy ải con, tiền các bạc bù, đem vào cửa ông Trạng, ông Đốc để mượn lấy cái áo khoác, ướp lấy cái hơi quan. Để đi đến đâu cũng cô Trạng nó, cô Đốc nó, cô Phủ nó  ‘‘chưng diện’’ với bà con. Còn cái thằng chồng nó là thứ cần nhất cho đời con mình thì họ không cần: dở cũng được, hèn cũng được. Thật chán quá, em mà cũng hiểu nhầm như thế thì anh buồn lắm.

— Em thì bao giờ em lại hiểu nhầm thế. Nhưng ở đời có danh giá cũng có hơn chứ.

Tân thấy cần phải nói để tỉnh thức người yêu:

— Danh giá! Danh giá có ăn nhập gì với đời sống tinh thần của vợ chồng đâu? Theo ý anh, hôn nhân phải đặt trên ái tình thì mới có hạnh phúc. Ngoài ra, vì lợi lộc, vì danh tiếng, cuộc tình ái nào rồi cũng kết cục một cách thê thảm cả.

Nga yên không nói nữa, nhưng trong bụng cho Tân là gàn. Nàng thấy không kham nổi cái ông ‘‘nho tây’’ này. Nàng đến với Tân là đến với một ông trạng sư, không phải đến với một ông giáo. Bây giờ lại chính cái ông giáo ấy vật đổ ông trạng sư của nàng thì nàng còn hy vọng gì nữa.

Từ đó thưa dần, nàng ít lại với Tân. Tân hiểu ý, cũng chẳng thư từ mời mọc nữa Tân thấy chán ghét đàn bà. Tân thấy họ như kẻ đi trong sa mạc thèm một ngụm nước. Thấy chàng, họ xúm lại. Nhưng khi thấy rõ chàng chỉ là thằng người trần thôi, không có danh vị gì khoác vào, họ lảng cả.

Tân sống với một vài cô, thấy tâm tính họ na ná nhau cả, đâm nản. Chàng nhất định cứ sống một mình cho đến khi tìm được một bạn lòng.

 

Tìm được một bạn lòng để mà kết tóc xe tơ, ôi, nó mới khó làm sao! Càng khó hơn, khi người bạn lòng ấy, chàng lại tìm ở trong các cuộc gặp gỡ phù phiếm.

Ít lâu nay, Tân không đi đâu cả. Chàng cắt bớt các giây liên lạc với những cô chỉ coi chàng là ông Trạng, ông Nghè. Lúc này, chàng lại vui với sách vở, vui với người trong truyện, vui với những bài báo chàng viết để đả đảo khoái lạc chủ nghĩa.

Những Thérèse Duyên, Simone  Xuyến độ này cũng không thấy lại. Các thiên kim tiểu thư biết chàng là người không bôn danh tẩu lợi, cũng dần dần bỏ chàng.

Tân định sống một mình, mặc dầu phải sống đến bốn năm mươi, nếu không có một nngười đàn bà được như chàng muốn.

Nhưng ý định là một việc, mà giời bắt lại là một việc. Một người đàn bà chẳng biết ở đâu lại đã nhập vào đời chàng một cách thình lình. Người đàn bà ấy không đẹp lắm, không giỏi giang gì, không sang trọng gì, không con giòng cháu giõi gì.

Cùng dẫy nhà Tân ở, có một người vẫn đan áo và mạng thuê. Cô ta tên là Duyên, năm nay độ hai mươi. Trông Duyên không đẹp lắm, nhưng đúng như tên, rất có duyên.

Một hôm, Tân gọi thằng bếp bảo đưa mạng vài lỗ thủng ở bộ quần áo rét. Bếp đem sang nhà cô Duyên:

— Cô mạng cho cậu tôi, vài hôm cậu tôi lấy. Sắp trở rét rồi. Cô mạng khéo vào đấy.

Dnyên cười một nụ cười hồn nhiên:

— Cậu anh thiếu gì quần áo mà phải vội thế?

— Cậu tôi chỉ có bộ này với bộ nữa thôi. Nhớ đấy cô nhớ. Ba hôm nữa, tôi sang lấy đấy !

Lúc ra về, thằng bếp còn nói cố một câu:

— Cô mạng đẹp, tôi sẽ nói với cậu tôi thưởng cho cô.

Duyên thẹn líu cả lưỡi:

— Rõ khéo chửa..

 

Có tiếng gõ cửa. Tân gọi bếp ra mở. Sì sào ngoài cửa một lát, bếp đem nắm giấy bạc vào với cái bút máy :

— Thưa cậu, cô Duyên mạng quần áo cho cậu, thấy trong áo cậu có tiền và bút máy, nên đem sang giả.

Tân cầm tiền, chàng nhớ ra để quên đã lâu lắm, có lẽ từ năm ngoái. Phải rồi, cả cái bút máy nửa. Từ khi mất bút, chàng tiếc mãi, tiếc vì cái bút ấy là di vật của một người bạn đã quá cố. Bây giờ được thấy của, thấy đồ quý giá, Tân mừng lắm, chàng hỏi bếp :

— Thế cô ấy đâu ? Sao không mời cô ấy vào chơi?

— Thưa cậu, cô ấy ở cách nhà ta vài nhà. Con mời, cô ấy thẹn, không dám vào ạ.

— Nhà cô ấy có ai không?

— Thưa cậu, có bà mẹ và cô ta.

— Thế mày chạy mời bà cụ sang đây.

Bếp đi, một lúc, rồi trở về với một bà cụ trạc độ năm mươi, da dẻ còn hồng hào lắm. Tân ngắm bà cụ, thấy không phải người lam lũ, bèn hỏi một cách kính cẩn:

— Thưa cụ, cô gì… bên nhà vừa cho lại chúng tôi hơn hai chục với cái bút máy đấy có phải không?

Bà cụ đáp, tiếng còn trong lanh lảnh:

— Thưa ông vâng, thấy cháu nó lộn lần túi trong, nó reo lên có tiền, rồi nó đem giả.

— Quý hóa quá, thời buổi này, ít người thực thà lắm.

— Thưa ông, các ông cho việc làm đã là quý, đâu còn dám tham lam.

— Thôi được, cụ sơi nước đi, rồi lại nhà. Để tôi bảo các anh em, ai có quần áo cần mạng, tôi sẽ nhận cho cô ấy.

Rồi thuận miệng hỏi:

— Nhưng cô ấy mạng có khéo không ?

— Bẩm thưa ông, kể cũng tạm thôi ạ. Gọi là kín chỗ.

 

Tân cầm chục bạc đưa cho Duyên:

— Tôi xin cô vui lòng cầm lấy. Tôi giả công cô đây.

Duyên cúi gằm mặt:

— Chết, ông cho cháu nhiều thế? Cháu chỉ xin ông một đồng thôi.

— Không, tôi biếu cô đấy, hôm nọ cô giả lại tôi những hai mươi mấy đồng cơ mà !

— Thưa ông, đấy là tiền của ông

— Đã đành, nhưng cô có lòng tốt, cô giả lại, người khác người ta lấy thì thôi chứ gì !

— Chết, sao ông lại bảo lấy thì thôi? Lấy thì phải tội chết. Phải đi xưng tội.

Nghe nói đi xưng tội, Tân hỏi ngay :

— Cô người bên giáo.

— Thưa ông vâng.

Cái vẻ mặt ngây thơ của Duyên làm Tân trạnh tưởng đến bao nhiêu thiếu nữ chàng đã gặp, và chàng cũng đã thất vọng. Chàng để ý nhìn từ đầu chí cuối Duyên, không có một mầu sặc sỡ nào cả. Chiếc áo nhiễu tây, cái quần thâm, chiếc khăn sa tanh đen, thế thôi, khác hẳn những nhân tình của Tân trước. Má phinh phính, hồng cái hồng của thứ da thịt còn nguyên thớ chứ không phải cái hồng nhân tạo của son, phấn, của màu hồ.

Bỗng chàng thấy thương cô thiếu nữ con nhà nghèo. Giá được ăn mặc chải chuốt như các cô kia, có lẽ lại còn mỹ miều hơn. Nghĩ thế thôi, nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoảng đến với chàng rồi lại bay biến đi.

Bằng một giọng êm nhẹ, Tân bảo Duyên:

— Các bè bạn tôi, ai có quần áo thủng, tôi sẽ nhờ cô mạng hộ.

Duyên đáp một cách ấp úng:

— Cháu cảm ơn ông.

Rồi Duyên xin phép về.

Ngay buổi chiều hôm ấy, Tân bảo bếp đem sang một đống những sơ-mi đứt khuy để Duyên đính hộ.

Lúc Duyên đem giả, Tân bảo ngay:

— Từ nay, cứ mỗi tuần lễ cô giúp cho tôi một ngày, mỗi tháng tôi xin đưa đỡ cô hai chục bạc. Tôi có một mình ở đây, thành thử quần áo nhiều khi sốc sếch chẳng ra làm sao, ra ngoài lắm lúc xấu hổ.

 

Xác thịt! Mày là hiện thân con những lão chủ nợ, mày đòi cho được kẻ thiếu tiền mày ! Mày chống gậy sắt đến tận nhà, tận cửa, bắt kẻ có nợ phải trả cho bằng hết. Chỉ một phút thôi, xác thịt ơi, mày đã biến cô trinh nữ ra một người liễu chán hoa chê ! Mày giục người ta như giục tà, trói người ta bỏ vào rọ, rồi lăn xuống hồ, không cho kêu van. Mày mở đôi cánh cửa cho người ta trông thấy bao nhiêu những đường cong ngà ngọc, bao nhiêu những má phấn môi son, bao nhiêu những thớ thịt ngon lành, để rồi khi mày khép lại thì ôi thôi, cả một trời xụp đổ.

Duyên đã hiến thân cho Tân trong một đêm ân ái. Không vì tiền, không vì danh giá, Duyên đã cho Tân cái trái đào của tuổi xuân.

Hai tháng sau, Duyên đến với một bộ mặt cắt không còn hột máu :

— Lạy anh, anh cứu em với, em đã có mang.

Một tiếng sét giáng xuống đầu Tân. Tân tối sầm mặt mũi, nhưng cố làm bộ thản nhiên:

— Em có mang thì lấy anh chứ sau.

Miệng nói thế nhưng lòng thấy loạn lên. Lấy

thế nào được hở trời? Lòng thương với tình yêu, hai thứ khác nhau nhiều lắm.

 

Tân không bao giờ lấy Duyên cả. Lấy thế nào được? Hôn nhân xây trên lòng thương thì dễ xụp lắm.

Tân thuê riêng cho Duyên một căn nhà. Thỉnh thoảng Tân lại thăm.

Rồi một năm qua, rồi hai năm, rồi ba năm, rồi bảy năm.

Bảy năm, Tân đã lại thăm Duyên mấy nghìn lần, và Duyên đã trả ơn Tân bằng năm thằng bé suýt soát nhau.

Một hôm, nhìn lũ con bằng đầu nhau đùa nghịch ngoài sân, đứa xe bò, đứa cầm sẻng, đứa vác cuốc. Tân thấy nổi lên tấm lòng kẻ làm cha, chàng bèn ‘‘xách’’ Duyên ra Đốc-lý làm phép cưới.

Chú thích:

[1] Une part de vérité = một phần sự thật

[2] toa =toi = anh, chị

[3] formule= công thức hay hình thức

(4) grande base plus petite base, multipliée par hauteur, divisée par deux = Cơ sở lớn hay cơ sở nhỏ hơn, nhân với chiều cao rồi chia hai.

[5] trapège = Thám hiểm

[6] pho = faut = cũng nên

[7] chérie (chéri ) cưng, em (anh yêu)

[8] À genoux = quỳ gối

[9] Allons = Thôi đi nào,

(10) Mais, hélas ! lorsque l’âge vous glace, Nos beaux jours ne reviennent jamais = Nhưng! đến khi tuổi đã lúc đóng băng bạn, Thì những ngày tốt đẹp của chúng ta không bao giờ trở lại.

[11]  Faut pas, je t’en prie = Đừng, anh xin em

 

Hai Mối Tình

PHONG nhác thấy Hoằng bước vào phòng, vội đứng phắt dậy, đâm sổ ra:

— Kìa, anh ! Gớm, về từ bao mà bây giờ mới lại? Đợi mãi ! Lần nào cũng hứa, mà lần nào cũng hão !

Hoằng nắm chặt hai tay bạn:

— Thì lần này không hão nữa. Bằng lòng chưa?

Phong giựt tay ra, vỗ lên vai Hoằng:

— Chưa bằng lòng! Hãy còn giận !.

Hoằng cười:

— Hãy còn giận à? Nếu vậy, ‘‘mỗ’’ lại đi, đi đến sang năm!

Vừa nói, Hoằng vừa làm bộ quay mình bước ra cửa. Phong nắm ngay lấy hai âu vai bạn, vặn phắt mình bạn lại:

— Này, có mà chết bây giờ ! Đi mà được với  ‘‘lão gia’’ à !

Chàng lôi sềnh sệch Hoằng vào giữa phòng nắm hai cánh tay áo bạn, sốc lên, rồi ấn xuống như người dọi một cái cọc xuống đất.

— Trong gian phòng này, tính mệnh ngươi ở trong tay ta!

Phong nheo mép sau câu nói đặc tuồng ấy, rồi cười, rồi lại đổi phắt nét mặt ra một vẻ nghiêm nghị, cái thử nghiêm nghị có càng ‘‘tuồng’’ hơn nữa.

Rồi anh hướng vào những người ngồi ở sa lông, vừa ngừng giở câu chuyện, giơ hai bàn tay lật ngửa ra:

— Thưa các chị! Thưa các anh! Xin giới thiệu anh Vũ-đình-Hoằng, một điền chủ Yên Báy, một con gấu, một thằng người rừng...

Hoằng cười, ngắt:

— Nhưng có điều anh quên chưa giới thiệu với các ngài và các bà đây là con gấu ấy, thằng người rừng ấy lại là bạn thân nhất của anh, từ ngày chúng ta còn để chỏm!

Chàng cúi đầu một cái dài. Những cái đầu trên sa lông, trên chiếc đi văng cũng cúi xuống một lượt.

Hoằng bắt tay ba người thanh nlên, rồi:

— Các ngài và các bà, xin lượng thứ cho cái vui mừng khí... ầm ĩ của đôi bạn vắng mặt đã lâu,

Một thanh niên nhã nhặn:

— Chúng tôi rất thèm muốn cái ầm ĩ của tình bạn ấy. Xin ngài cứ tự nhiên cho!

Phong bô bô:

— Thôi! Xin các ngài hãy dẹp cách xưng hô... các ngài ấy lại. Cả ‘‘các bà’’ nữa. Bạn trai, bạn gái, bạn cả!

Quay sang Hoằng:

— Thế nào? Anh vẫn mạnh đấy chứ?

— Thì anh cứ trông tôi đây.

Phong trông Hoằng. Và Phong thấy cái hình vóc cao lớn của bạn nổi bật lên giữa khoảng sáng trắng của đèn điện như một pho tượng. Mà pho tượng ấy là một pho tượng đồng với nước da nắng tráng màu than. Và linh hoạt với đôi mắt dọi những cái nhìn như tia sáng. Anh vỗ vào lưng bạn:

— Quả thực là một thằng người rừng!

— Nhưng thằng người rừng ấy xin nhắc thằng người  “văn minh” cái phận sự của chủ nhân đối với khách.

Kèm theo câu nói ấy, Hoằng nghiên đầu hai lượt, đưa một cái nhìn và một nụ cười lịch thiệp khắp hàng khách ngồi chơi.

Phong vội đon đả:

— Ấy chết, quên mất. Anh Huân, anh Viễn, chị Mai, anh Đoàn, chị Thanh, chị Lý...

Đến đấy, Phong ngừng lại một giây, đoạn anh giơ tay chỉ một thiếu nữ ngồi ở đầu trong đi văng:

—... Và đây, chị Minh-Thu, một nữ-sĩ, kiêm nữ thi-sĩ, kiêm âm-nhạc-gia nữa.

Rồi anh kéo Hoằng lại ngồi xuống chiếc ghế bỏ không, gần bên chỗ Minh Thu ngồi, thân mật:

— Chốc nữa, chị ấy sẽ cho anh nghe thơ này, đàn này, hát này. Những thứ ấy hẳn là phải êm tai hơn những tiếng cọp báo gầm thét ở rừng trên ấy.

Anh lại nhìn Minh-Thu, rồi nhìn Hoằng, miệng chúm chím một cách... bí mật:

— Chị ạ, cái thằng ‘‘lộc-ngộc” này, tiếng

thế cái tai nó lại có phần tế nhị hơn tai chúng em đấy.

Hoằng biết tính bạn, vội giơ tay như để ngăng bạn lại trên một cái đà giốc mà chàng biết rằng sự quá khen của bạn có thể đưa mình tới chỗ lố bịch:

— Ấy thưa … anh Phong đang chụp ảnh phóng đại đấy ạ.

Phong gườm gườm ngó Hoằng:

— À, ra dân miền ngược khó chơi. Mình yêu, ra họ làm cao. Ấy cũng tôn hắn lên thế đấy chứ, biết gì! biết gì! Chốc nữa, chị Minh-Thu có ngâm thơ, có đánh đàn, là ngâm thơ, đánh đàn cho chúng tôi nghe thôi đấy nhé! Chứ hắn thì biết thi ca, đàn địch là cái quái gì!

 Hoằng giơ tay phân bua:

— Có các ngài biết cho đấy nhé. Nói chưa dứt câu đã nuốt lời ngay đấy nhé. Ấy thế mà còn bảo ai là “cuội”!

Anh thò tay vào túi:

— Tiểu đệ đang sống lương thiện ở Bắc Giang, hắn tống cho một cái trát, làm loạn cả lòng lên. Thành ra tiếp được thơ, đệ đâm bổ ngay về,  “ghệt” chưa kịp thay.

Phong đế ngay:

— Chướng mắt thật. Nhưng thôi, các anh, các chị cũng miễn chấp cho ông bạn “sắng đá” của tôi. Ông ấy thì chỉ quanh năm sống với súng, với ngựa, bắn đêm, bắn ngày, còn có thì giờ đâu mà nghĩ đến y phục nữa.

Bấy giờ, mọi người mới nhận kỹ cái quần bằng dạ mỏng, cái áo ka ki vàng xanh, và đôi ủng da màu gụ. Từng ấy thứ phục sức in nên những nét hoàn toàn phản trái với nếp là của âu phục đúng thời trang, với màu sặc sỡ của ca-vát, bóng nhoáng của giầy nhữrg người trẻ tuổi ngồi đấy. Và trong nét mặt, trong tiếng nói, trong cử chỉ của Hoằng, dẫu đầy hoan hỉ, dẫu rất dịu dàng, dẫu vồ vập, cũng vẫn phảng phất cái náu hình, tự nhiên mà náu hình của một con hổ giữa cái nhâng nháo của một dân làng.

— Trông anh Hoằng mặc thế mà lại hay đấy. Em trông chả thấy chướng mắt tí nào cả.

Người nói câu ấy là Lý.

— Thế còn chị Minh-Thu? Ý chị thế nào?

Minh-Thu tủm tỉm, bắn một mũi tên:

— Em thì em thấy rằng bộ quần áo nhà binh trong một khách thính là vết sơn loang trên một bức họa.

Phong hỏi đột ngột:

— Thế nghĩa là chị ghét cách ăn mặc của bạn tôi chứ gì?

— Đâu có dám thế. Em phát biểu một ý kiến thành thực đó thôi.

Phong nhoẻn một cái cười riễu cợt:

— Thế thì đâu cũng vào đấy. Này chị ạ, coi chừng kẻo ghét của nào, giời trao của ấy đấy.

Đôi má Minh Thu bỗng ửng lên. Nàng lườm Phong, lặng thinh.

Nhưng lúc ấy, Hoằng rút ở túi ra một phong thư:

— Các anh, các chị, xin hãy khoan nghe hắn nói dóc, đệ xin đọc cái ‘‘tác phẩm’’ về lối văn thư tín của ông bạn tôi đây. Ông ấy nói nhời rồi lại nuốt nhời như bỡn. Vậy mà ông ấy còn bảo người khác là “bố Cuội”kia đấy.

Mọi người chú ý. Phong bước lại, toan giật bức thư, nhưng Hoằng đã giơ tay nắm lấy ve áo, cản đẩy ra một bên. Rồi chàng lên tiếng đọc:

Hanoi, 5 Novembre 1942

Anh Hoằng Cuội,

Gọi anh là Cuội, không phải để anh lên nằm trên cung giăng đâu đấy nhé, Mà trên cái đồn điền những giang cùng mía của anh thì cũng chẳng khác đếch gì cung giăng. Lạnh lẽo lắm, anh ơi!

Ra anh nhất định là Cuội thực, cho nên đã bao lần anh hẹn về chơi, mà rút cục láo toét cả! Anh nhất định làm giống Cuội, được, nhưng Cuội thì có ả Hằng, mà Hằng Nga của anh đâu? Có phải mấy cô thổ, chân tầy ống bương, mấy cô mán bóng đầu trên cái đồn điền ở Yên-báy, đìu hiu hơn cung giăng ấy chăng?

Về ngay! Về ngay! Bỏ hết các việc đấy đã, về ngay tôi, chiều thứ bảy này. Cái điều mà “Cuội” mong mỏi, mà  “Cuội” không tìm thấy ở đâu thì nay rồi sẽ được như ý Cuội, thỏa lòng Cuội. Về ngay, đúng chiều thứ bảy.

Bất kính thư,

PHONG

Tái bút...

Hoằng đọc đến đấy, bỗng ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh phòng, dường như có vẻ ngơ ngác.

— “Tái bút”, rồi sao? Đọc nốt đi chứ, anh!

Hoằng không đáp lời Lý hỏi vội. Chàng nhìn Phong:

— Chết, quên khuấy đi mất. Em Nga đâu không thấy? Gặp bạn, vui quá quên cả em, bậy quá!

Phong nói ngay:

— Ồi dà, con bé hư lắm. Cứ chiều chiều là lên hồ đua thuyền. Đêm nay có giăng, chưa biết lúc này nó đã chịu về chưa? Thể thao, tôi rất thích, nhưng thích là thích những môn hoạt động kia, ten-nít (tennis), phốt-ban (football), đánh “ bốc (boxe)” kia. Bơi thuyền, ngồi lì hàng giờ trên mặt nước, chán chán là. Mà lại nguy hiểm là khác. Ấy con bé, tôi đã đe dọa nhiều bận mà nó cử coi thường!

Lý bĩu môi:

— Chị Nga chị ấy bơi giỏi lắm, chị ấy can đảm lắm, đâu có như anh, chưa xuống đến ria hồ đã rúm người lại!

Phong lắc đầu:

— Can đảm thế là liều, là ngốc. Chả chơi. Thiếu gì cách tiêu khiển!

Lý quay hỏi Hoằng:

— Còn anh thì anh cho sự bơi thuyền thế nào?

— Tôi rất thích. Đó là môn thể thao hoàn bị nhất. Ở trên ấy, tôi vẫn lấy sự thả thuyền cho nó trôi hàng năm bảy cây số trên sông Nhị Hà, rồi chèo ngược giòng nước, đua sức với con sóng làm thích.

— Thế thì con em tôi nó lại có người để nói chuyện rồi.

Minh-Thu, từ nẫy đến giờ vẫn im lặng, lúc ấy mới lên tiếng:

— Nhưng ta hãy trở lại câu chuyện lúc nẫy, Ông Hoằng đọc cái  “tác phẩm” đặc biệt về thư tín ấy, đến chỗ Tái bút thì câu chuyện lạc đề. Xin ông cho nghe nốt.

Hoằng đáp vắn tắt:

— Cũng không có gì đáng đọc cả.

— Thì ông cứ đọc nốt, cho cái tác phẩm ấy

đủ đầu đuôi.

Hoằng còn lưỡng lự thì Phorg đã choang choang:

— Ồ, có gì đâu! Em Nga nó đã lâu không gặp, nó nhớ anh ấy, nó kèm thêm lời mời anh ấy về chơi, thế thôi… À,mà chúng ta đã là bạn cả, thì mới gặp với quen biết lâu ngày có khác gì, sao chị Minh-Thu lại cứ gọi anh Hoằng bằng “ông” mãi thế? Thôi, từ rầy xin miễn dùng tiếng “ông”.

Minh-Thu lặng im.

Hoằng nhìn Minh-Thu, bâng khuâng.

 Chàng tự nghĩ không hiểu tại nguyên cớ gì mà vừa rồi chàng lại lưỡng lự không đọc mấy giòng tái bút mà Nga đã viết tranh thay anh nàng.

Có lẽ vì những giòng ấy chứa những lời thân mật quá chăng?

Thì Nga khác nào em gái chàng? Chàng cùng học với anh nàng một lớp, với nàng một trường, từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc chàng khôn lớn và ra đời, mới chia tay. Tuy bốn năm năm xa cách, chàng cùng anh em Phong vẫn có thư đi thư về luôn luôn, nhưng lúc chia tay, Nga mới mười ba, mười bốn.

Chàng vẫn nghĩ đến, nhớ đến một cô bé xinh xinh, hóm hỉnh, luôn luôn trêu ghẹo chàng. Cái hình ảnh ấy, cho đến bấy giờ vẫn là cái hình ảnh một cô bé hóm hỉnh, xinh xinh. Nhưng, từ bây giờ giở đi, cái hình ảnh ấy lại không là một cô bé xinh xinh nữa.

Hoằng cảm thấy đó là một điều rất mơ hồ mà cũng rất tế vi. Chàng cảm thấy thế trong khi mắt chàng nhìn Minh Thu chằm chặp.

Chàng nhìn cái sắc đẹp, phải nói là một cái sắc đẹp mềm yếu, rồi không hiểu cớ sao, chàng lại nghĩ:

— Có lẽ Nga cũng cùng trạc tuổi Minh-Thu.

 

Nga lao mình vào phòng khách như một luồng gió, chưa thấy rõ người đã nghe rõ tiếng:

— Bonjour la compagnie!

Bỗng nàng ngừng hẳn lại, đứng sững:

— A, kìa! Anh Hoằng! Anh đã về đấy à?

 Giọng nói thân mật lùa một hơi ấm vào lòng Hoằng. Anh đứng phắt ngay dậy:

- Em!

Nga đã bước thêm mấy bước, nhưng đến lúc gần tới trước mặt Hoằng, nàng lại đứng dừng. Rồi nàng đứng im.

Nhưng chỉ vài giây, nàng đã ung dung bước lại phía Hoằng:

— Anh đến lúc nào thế? Chắc anh đến đã lâu lắm rồi?

— Anh vừa nhắc đến em xong. Đang nói chuyện về em. Thế nào? Bơi thuyền có vui không?

Nga đáp rất nhanh:

— Vui lắm. Giăng đẹp lắm. Em cứ muốn bơi mãi, bơi hết đêm. Giá anh về sớm, cùng bơi thì thích quá, À, anh có thích bơi thuyền không đã chứ?

Hoằng tươi cười:

— Anh thích bơi thuyền lắm. Và nhất là về đây, được bơi thuyền với em thì anh không mong gì hơn. Nhưng xin nói trước, anh bơi kém lắm đấy.

Nga chẩu mỏ:

— Anh cứ nói thế chứ! Em biết, anh bơi khá lắm kia mà. Anh chả thường nói trong thư cái lối bơi thuyền ngược giòng sông là gì?

— Nhưng bơi ở sông khác, ở hồ khác.

— Ồ! Bơi ở sông có sống, còn khó hơn bơi ở hồ nhiều. Em chỉ ao ước được bơi thuyền trên mặt sông, lúc nước chảy xiết xem sao.

Nàng quay nhìn Phong:

— À, rồi chuyến này anh Hoằng về trên ấy, chúng ta theo anh ấy lên bơi thuyền nhé, anh nhé!

Phong chau mày:

— Cái con bé này! Gặp anh, chẳng hỏi xem anh làm ăn ra sao? Sức khỏe thế nào? Chỉ cứ bơi thuyền với lại bơi thuyền!

Nga như vùng tỉnh:

— Ừ nhỉ, thế mà em quên khuất đi mất, Anh Hoằng ! Có phát tài không ? Anh có mạnh không ?

Hoằng tủm tỉm:

— Nhờ giời, anh đủ tiền mua đạn bắn hươu. Và anh...

Hoằng chưa kịp giả lời câu hỏi thứ hai, Nga đã liến thoắng:

— Lần này, anh về ở lâu dưới này với chúng em đấy chứ?

— Còn tùy xem...

— Không, không tùy gì cả. Anh phải ở Hà nội ít ra là một tháng. Rồi khi anh lên đồn điền, chúng em sẽ theo anh lên.

Những câu hỏi liên thanh của Nga làm cho Hoằng nhớ tới cô bạn gái mà chàng coi như em bé năm nào. Nhưng chàng nhận thấy rằng cô em bé ấy bây giờ đã khác trước nhiều. Cô em bé ấy bây giờ đã có một tấm thân mà những nét người đã vẽ rõ, đã có đôi má hồng đầy nhựa huyết của tuổi thanh niên.

Tuy đứng trước mặt Hoằng, Nga vẫn tươi cười, liến thoắng, nhưng Hoằng cảm thấy rằng chàng không thể kéo Nga vào lòng, đặt một cái hôn lên trán như nàng quả thực là em gái nữa.

 

— À, anh đã nghe chị Minh-Thu đàn chưa?

Hoằng khẽ lắc đầu, nhìn Minh-Thu

— Ồ, sao các anh không bắt chị ấy dạo mấy khúc?

— Nhưng ai hát mới được chứ?

— Chị Thanh, chị Mai.

Thanh vội nói ngay:

— Em hôm nay khan giọng lắm, không hát được.

— Còn em thì giọng khàn khàn, hát để cho anh ấy cười tất cả ban âm nhạc của Hà thành ấy à?

Hoằng nhũn nhặn:

— Chị cứ nhún mình quá thế. Chị cứ hát cho chúng em nghe đi, ít nhất cũng gây cho em được một ít cảm giác mới.

Nga ngắt lời ngay :

— Không, chị Minh-Thu đàn, phải em ca mới được. Giọng chị Mai ồ-ồ như giọng ông lão, nghe làm quái gì !

Viễn nhạo:

— Gớm chửa! Hợm mình chửa !

 Nga cất cao đầu lên:

— Thế có đúng không đã nào?

— Kể thì sự thực như thế. Nhưng ít nhất ta cũng phải giữ chút lễ độ với chị Mai chứ!

Nga ngước mắt lên:

— Anh nói cái gì? Nói dối, phỉnh phờ là có lễ độ phải không? Tôi không chịu thứ lễ độ ấy. Tôi, tôi cứ sự thực tôi nói. Thực thà là lễ độ thứ nhất.

— Nhưng cũng nhiều khi sự thực lại là sự khoe khoang,

Nga thản nhiên:

— À, nói đúng với cái giá của mình, có bị người gọi là khoe khoang cũng chẳng sao. Có hơn người cái gì thì mới khoe khoang cái ấy được chứ. Như tôi hát, hẳn là hay hơn chị Mai, tôi có quyền khoe cái tiếng hát của tôi, vì nó hay thật. Còn như anh Viễn mà khoe cái tài làm thơ, thì người ta gọi là... thôi không nói nữa!

Viễn, một người mà thơ đã nổi tiếng là ‘‘thối’’ nhất Hà thành, toét miệng cười:

— Người ta gọi là gì, chị cứ nói.

— Thôi, chả nói, nói lại có người mếch lòng,

— Không. Không có ai mếch lòng cả. Chị cứ nói. Chị phải nói.

Nga buông xõng :

— Thưa ông, người ta gọi là nói khoác ạ ! Mọi người đều cười. Người cười to nhất lại là Viễn.

Hoằng tai ngược hỏi Nga:

— Thế cô hát hay đến thế kia à? Nào, thế em gái của anh hát đi một bài cho anh nghe. Lâu lắm, anh chưa được nghe tiếng hát hay.

— Khoan đã. Em đi thay áo đã.

Hoằng giữ lại:

— Thôi. Mặc thế được rồi, đẹp lắm rồi.

Mà Nga đẹp thực. Nàng đẹp cái đẹp lồ lộ, gọn gàng trong phục sức thể thao của nàng. Và nhất là nàng đẹp ở cái tươi nở mạnh mẽ của tuổi sấp sỉ hai mươi, đầy sinh khí.

Nàng ngước mắt nhìn Hoằng, nhoẻn một nụ cười rất trẻ con:

— Thế à? Em đẹp thật à? Thế mà em cứ tưởng rằng em xấu đấy !

Nói xong, nàng cười khanh khách và chạy vào trong.

 

Phong lắc đầu:

— Đấy, anh xem, nó vẫn cứ như trẻ con ấy.

Nói liến thoắng, mà gặp đâu nói đấy. Gía cứ chấp nhất lời nói của nó thì không ai đừng giận được.

Vừa nói, Phong vừa nhìn Viễn. Y đáp ngay:

— Ai mà giận cô ấy được. Ai mà giận con họa mi lúc nào cũng hót ấy được.

— Cũng là tại các anh, các chị chiều nó, nuông nó, nó càng được thể.

Minh-Thu, từ nẫy vẫn ngồi yên, bây giờ mới lên tiếng:

— Tuy thế, chị Nga lại có nhiều chỗ tốt hơn nhiều bạn gái. Cái gì chứ cái thẳng thắn của lòng, chúng ta đây đều phải thua kém chị ấy.

Viễn hóm hỉnh:

— Thế nghĩa là chị Minh-Thu thú nhận ngầm rằng lòng chị ấy không ngay thẳng. Minh-Thu giả miếng ngay:

— Nếu cái tài làm thơ của ngài cũng ngang với cái tài chơi chữ bắt bẻ của ngài nhỉ!

— Thì cũng có thế nào mới biết bắt bẻ chứ. Dễ ai cũng bắt bẻ được đấy,

Phong đàn giải:

— Thôi, nói phiếm mãi. Hôm nay đông cả các anh em chị em, lại có anh bạn tôi mới về chơi, trong khi chờ em Nga nó thay áo xong, xin chị Minh  Thu  cho nghe một vài bài thơ mới làm nào.

Minh-Thu khẽ lắc đầu:

— Hôm nay xin dâng mấy bài đàn thôi. Còn thơ thì xin thú thực là kém lắm, xin để bao giờ đáng đọc mới dám đọc.

— Chị dạo này cũng khách sáo. Anh em, chị em thân cả. Hay thì ta cùng thưởng thức, không hay thì ta thành thực nhận là không hay, góp ý kiến, quan niệm lại để cố tìm cái hay. Hay chị cho chúng tôi là những cái tai tục tử, không biết nghe thơ đấy?

— Đâu dám thế. Nhưng vì em thành thực nhận rằng còn nhiều khuyết điểm lắm, không dám làm mất thì giờ các anh, các chị.

Hoằng nói ngay:

Cái tuyệt đích có bao giờ người ta cầm nắm được đâu. Vì biết thế nào là tuyệt đích, là hoàn toàn? Tạo hóa vốn ghét cái tròn kia mà. Loài người tới được đâu hay đấy. Thi ca cũng vậy. Miễn là trong lúc nhà thơ có chân tình, chân cảm phát ra lời thơ, ấy là đã có được cái tuyệt đích trong cái phạm vi tình cảm ấy.

Phong ngắt:

— Thơ của chị Minh-Thu thì thực là chân tình, chân cảm.

Minh-Thu đang lắng nghe Hoằng nói, thấy Phong ngắt lời chàng, liền bảo ngay:

— Anh thì Iúc nào cũng chân tình, chân cảm. Làm như thơ chỉ là tình, là cảm. Thơ còn cần nhiều cái khác nữa, mà cần nhất là cái phần nghệ thuật. Để yên anh Hoằng nói, biết đâu không thêm được cho chúng ta một vài điều chỉ giáo hay.

Hoằng vội khiêm tốn đáp:

— Không, tôi cũng hiểu lõm bõm về nghề thơ mà thôi. Nhưng tôi được cái giời cho biết nghe và biết thưởng thức một vài bài thơ hay. Cứ như chỗ tôi biết, thì nghệ thuật gì cũng do nguồn lòng mà ra cả. Lòng có đầy, có giầu, có thực, thì mới phát tiết ra được những cái gì phong phú, sôi nổi. Nghệ thuật, theo nghĩa rộng là tất cả, mà theo nghĩa hẹp, chỉ là những phương tiện để khai thông cái going tình cảm mà thôi.

Minh-Thu gật đầu ra ý biểu đồng tình:

— Em không nói ra được như thế, nhưng em cũng mơ hồ cảm thấy rằng thơ là như thế.

Có điều từ sự cảm biết của lòng đến sự sáng tác, con đường còn dài lắm, mà em thì đã bước được mấy bước đâu. Chẳng qua một vài lúc ngẫu hứng, ngâm nga lằng xằng thế thôi.

Phong dai dẳng:

— Thôi, chị đừng nhún mình quá độ mãi thế. Chị đã đồng ý với anh Hoằng trong cái quan niệm về thơ, tức là chị đã gặp … tri kỷ chứ gì? Thế thì xưa nay, có thi gia nào giấu tài trước người tri kỷ bao giờ! Thôi, chị đọc đi, đọc một vài bài đi. Không cho chúng tôi nghe thì thôi, cho tri kỷ nghe vậy.

Minh-Thu ửng sắc mặt, lừ lừ nhìn Phong:

— Đã nói thế, nhất định không đọc nữa.

Rồi nàng cười, định xóa câu chuyện:

— Với lại các anh có nghe đâu!

Cả bọn nhao nhao:

— Không, chúng em nghe, chúng em xin nghe. Có cái thằng Phong nó nói thế, chứ chúng em đây, ai chả muốn nghe hở chị!

Viễn thêm:

— Mà nếu chị không cho chúng em nghe, chúng em xin bịt cả tai lại. Đây này!

Vừa nói, Viễn vừa đưa hai ngón tay chỏ lên bịt lấy lỗ tai.

Hoằng cười:

— Thôi, các anh ấy đã khẩn khoản thế, chị đọc đi, cho em cũng được nghe lỏm.

Minh-Thu cố đè cái ngượng nghịu, thành ra sự cố gắng thêm vào sự e thẹn, làm cho nàng càng đỏ bừng thêm nét mặt:

— Không. Quả thực thơ em không đáng đọc. Vả lại, đọc thơ tức là dâng cái tinh hoa của lòng mình, thì phải gặp lúc lòng thanh sảng, lâng lâng, hơi thơ tức là hơi lòng, mới thực.Miễn cưỡng thì còn thú gì nữa.

Phong bẻ ngay:

— Ồ, sao chị bây giờ kiểu cách quá thế?

— Không phải em kiểu cách. Lòng em như thế.

— Lòng chị làm sao?

— Lòng em lúc này không thấy muốn, không thấy thèm, không thấy cần phải đọc thơ, nếu bắt buộc phải đọc, thơ sẽ chẳng ra gì. Anh nên biết rằng có nhiều người viết chữ rất tốt, giọng hát rất hay, thế mà nếu không do lúc tự lòng mình thích mà viết, mà hát, y nhiên là chữ mất cả gân, là tiếng hát mất cả giọng. Đó cũng là một chỗ yếu của linh hồn. Nhưng linh hồn tế nhị nào mà chẳng có chỗ yếu? Vả cái tinh ngập ngừng, bẽn lẽn ấy lại hợp với bản tính của đàn bà, con gái chúng em.

— Thế em là con trai đấy hẳn?

Nga ở nhà trong bước ra, đem cả một trời tươi sáng vào căn phòng.

 

Hoằng đưa mắt ngắm đôi bạn. Mỗi người một vẻ. Nga với mái tóc chải hất ngược lên, xòe ra hai bên như cánh cung lệch, với đôi mắt long lanh, với cặp môi ngon ngọt, là tất cả cái phản trái của Minh-Thu. Nhìn nàng, rồi nhìn những sợi tóc buông lơi lả hai mé đầu rẽ lệch của Minh-Thu, và đôi mắt thăng thẳng có những cái nhìn như xa xôi, và cái miệng thanh tú, chàng có cái cảm-tưởng như ai đem đặt mùa xuân bên mùa thu.

Chỉ duy có một điều là giống nhau: cả hai cùng đẹp, và cái đẹp nào cũng có thể làm đắm hồn người.

Hoằng tự dưng có cái ý tưởng tìm cái hơn của người này, cái kém của người kia. Nhưng chàng không tìm ra.

Với lại Nga đã liến thoắng:

— Ngâm thơ chứ có phải đi xứ đâu mà khó khăn lắm thế. Các anh cứ bắt chị ấy phải ngâm cho được một bài, nếu không thì quyết

không tha.

Minh-Thu cười:

— Được rồi, thì đọc chứ sao. Nhưng nếu đọc thơ gì cũng được chứ?

— Được I

Hoằng cũng nói:

— Vâng, tùy chị cho nghe bài nào cũng là quí.

Minh-Thu chum chím nhìn Nga, rồi nhìn Hoằng:

— Những bài khác, quả thực em quên mất tất cả, thôi thì em xin dâng mấy câu này vậy.

— Vâng, chị đọc đi,

Minh-Thu vỗ vỗ vào cánh tay Nga, rồi đọc:

— ‘‘Người đâu dơ dáng dại hình,

Mở mồm nói chuyện chỉ rình nói điêu.

Đi thì ghế đổ bàn xiêu

 Có chiều đỏng đảnh, có chiều lăng băng!’’

— Thưa thơ vịnh chị Nga, đúng đấy ạ! Những tiếng cười xen vào với những tiếng ‘‘Hay!’’ vang ầm,

Nga béo mạnh cánh tay Minh-Thu rồi bĩu môi:

— Thơ thế mà khen hay. Thực xứng đáng đặt bên thơ anh Viễn!

Viễn cười tít:

— Hân hạnh!

 

Người ta nghe đọc thơ, nghe đào hát, người ta uống nước, ăn bánh ngọt, rồi người ta ra về.

Minh-Thu ra về sau chị em. Lúc từ biệt, Hoằng nhìn nàng giây lâu, rồi ôn tồn nói:

— Hôm nay, tôi rất lấy làm may mắn được nghe lời thơ, tiếng hát của cô. Tôi ước ao lại được gặp cô, hôm nào, để nói chuyện... về thơ.

— Thì em đến đây luôn.

Hoằng tiếp, giọng nồng thắm hơn:

— Nhưng... thưa cô, như thế biết đâu những hôm tôi đến, cô lại chả không đến được. Mà việc đời biết thế nào trước được, mỗi một bước có thể đưa đi một con đường khác. Cho nên, trước khi lên ngược, tôi ước ao được gặp cô một buổi nào đó, để được nghe nhiều điều có ích về văn thơ, âm nhạc.

Minh-Thu tủm-tỉm:

— Em thì biết được bao nhiêu.

Nàng tần ngần, luỡng lự mấy giây, rồi e-ấp:

— Nhà em ở Quan Thánh số nhà 68. Vâng, lúc nào thư thả, mời anh... với anh Phong và chị Nga lên chơi.

Lúc Hoằng nói chuyện với Minh-Thu, chàng nhận thấy nét mặt Nga cứ bần thần ra. Nhưng đến khi Minh-Thu đã đi rồi, chàng thấy Nga lại tươi cười, lại liến thoắng lại hỏi, lại nói:

— Chuyến này, anh phải ở Hà-nội lâu, rất lâu mới được. Rồi anh phải lên hồ Tây bơi ‘‘yatch’’ với em đấy.

Nàng ngừng một lúc, rồi bỗng nắm lấy tay Hoằng;

— À, anh xem chị Minh-Thu thế nào? Khá

đấy chứ?

— Kể bề ngoài thì khá đấy. Ăn nói dịu dàng, câu chuyện vừa có duyên, vừa tỏ ra con người có kiến thức. Nhưng không biết lòng dạ ra làm sao?

Nga sốt sắng:

— À, lòng dạ khá lắm. Chị ấy đối với ai cũng tốt. Chị ấy chơi với em rất thân. Ấy, hễ cứ vắng nhau độ ba hôm không gặp mặt là nhớ sôi lên, không chịu được.

Phong vừa vào nhà trong, bước ra ngay:

— Thế nào, ông mãnh! Chuyến này ở Hà Nội lâu chứ?

— Xem đã!

— Còn xem cái gì? Ở đây, rồi lấy vợ, rồi sống cái đời tươi đẹp của kinh thành. Tội gì vùi mình ở xó rừng, phí cả một đời niên thiếu.

Hoằng cười:

— Nhưng lấy ai mới được chứ? Ai người ta lấy mình?

— Thiên hạ thiếu gì người ! Chỉ sợ mình không để ý tìm tòi đấy thôi.

 — Tìm! Anh bảo tìm ở đâu! Đàn bà thì khối ra đấy, nhưng chọn được một người ý hợp tâm đầu với mình không phải là dễ.

— Ấy thế mà có đấy, ở gần nách anh đấy. Mà anh vừa gặp đấy!

— Ai thế?

— Hãy đợi! Hãy đợi! Người hay lắm kia!

 Hoằng tủm tỉm:

— Thì đệ cũng đã đoán ra là ai rồi.

 Phong gật đầu:

— Thế nào? Khá đấy chứ?

— Kể thì hay đấy. Nhưng biết rằng rồi ra có nên công chuyện gì hay không?

— À nên hay không nên là tự mình chứ.

Hoằng vừa mấp máy môi toan nói thêm một câu nữa thì sực trông thấy Nga, thấy nét mặt Nga, chàng lại ngậm miệng nín bặt.

 

Nga từ nãy đến giờ ngồi tì má trên bàn tay, mắt đăm đăm nhìn ánh sáng đèn điện. Nghĩa là nàng không nhìn gì cả.

Trái với lúc mới gặp Hoằng, nàng vui vẻ, nhí nhảnh bao nhiêu, thì bây giờ nàng bần thần, lặng lẽ bấy nhiêu. Tâm trí nàng như để đâu đâu, tại nàng như không nghe thấy những điều hai người đang trò chuyện.

Tự dưng, Hoằng cũng lặng im. Chàng thấy như trong không khí có một hơi buồn nó lan khắp phòng, nó bọc lấy chàng, mà thấm vào lòng chàng một nỗi ngán ngẩm vẩn vơ.

Chàng muốn cất tiếng nói để xua đuổi cái ngán ngẫm vẩn vơ ấy đi, nhưng cặp môi hồ mấy mấy lại thôi. Biết nói cái gì ?

Vì Hoằng thấy ngao ngán vẩn vơ mà cũng chẳng biết ngao ngán vẩn vơ vì đâu?

Vì Hoằng thấy Nga bỗng dưng có vẻ buồn, chàng cố tìm cái nguyên cớ của nỗi buồn mà chàng cảm thấy rẳng nó cũng vẩn vơ như nỗi lòng chàng, nhưng cố tìm mà chẳng thấy.

Một lúc, bỗng Nga ngửng phắt đầu lên. Một nụ cười tươi nở trên môi nàng:

— Anh Hoằng tài đoán đấy. Anh em sở dĩ viết bức thư cần kíp gọi anh về như có việc cấp bách ấy, là có ý định đem anh lại với chị Minh-Thu đấy.

Rồi nàng bước đến bên Hoằng ;

— Thế nào? Anh xem chị Minh-Thu em có

xứng đáng làm vợ anh không?

Hoằng lắc lắc đầu:

— Đâu mà đã vội vàng quá thê. Lấy một người vợ, nghĩa là ghép cái đời người ta vào với đời mình, đâu phải là một chuyện dễ dàng, Anh xem bức thư của anh Phong, cái bức thư kỳ khôi anh vừa đọc lúc nãy, và nhất là trong những bức thư trước, thấy anh Phong tha thiết đến sự hôn nhân của anh, anh rất cảm kích. Và anh cũng đã linh cảm thấy rằng anh Phong gọi anh về ngay, tất anh đã  ‘‘dòm’’ món nào cho anh đây. Kể ra cô chị em họ của em người cũng khá đấy, nói có duyên đấy, câu chuyện không đến nỗi rỗng đấy. Nhưng anh chỉ mới biết thế thôi. Anh đã biết tính tình, chí hướng, tâm hồn cô ta thế nào? Lỡ một cái, khổ cả một đời anh, khổ cả đời cô ta nữa.

Nga nhất quyết:

— Không, em xin cam đoan với anh rằng chị Minh-Thu là người rất khá, rất xứng đáng với anh. Em xin làm hết các cách để cho anh được gần chị ấy luôn luôn. Anh sẽ thấy quả là hòn ngọc quý.

Hoằng cảm động đáp:

— Đa tạ cái lòng tốt của em gái anh. Nhưng hiện thời, anh thực chưa có ý tưởng gì về Minh-Thu cả.

Mặt Nga bỗng hớn hở:

—Thật thế chứ?

Hoằng có vẻ quả quyết:

— Anh thành thực với em gái của anh rằng lòng anh như thế.

—Thế sao vừa rồi, em xem ra anh... ân cần với chị ấy thế?

Hoằng chần chừ một khắc rồi đáp:

— À... vì lẽ xã giao. Chứ Minh-Thu với anh thì cũng như cô Lý, cô Thanh, cô Mai, có khác gì đâu.

Hoằng nói vậy, mà rồi chàng cảm thấy rằng mình nói dối. Vì, sự thực, nói đến Minh-Thu là chàng cũng thấy lòng đôi chút vấn vương.

Chàng thấy mình không được thực thà trong ý tình mà hối hận. Nhưng chàng cũng lại mừng,—chẳng biết vì đâu mà mừng — rằng sự nói dối ấy đã đem lại nét hồng tươi trên mặt Nga.

Phong thì đâu có hiểu đến cái chỗ u- uẩn của lòng bạn ấy. Anh bô-bô:

— À, thôi, chú nó cứ bưng mắt trẻ con làm gì thế! Có Nga nó chưa biết gì, nó không nhìn thấy cái chỗ người ta luyến nhau mà không biết, hay biết mà không thú nhận đó thôi. Sự thực nó sờ sờ ra đấy. Chứ lại bảo rằng coi Minh-Thu cũng như coi chị Thanh, chị Mai, chị Lý, thì chặt đầu, anh cũng không chịu.

Mặt Nga đang hớn hở bỗng sa sầm ngay xuống. Nhưng chỉ một giây, nàng lại tươi cười, lại vồn vã:

— Nếu thế thì là một điều đáng mừng lắm.

Phong gật:

— Chứ sao!

Hoằng đã nhận thấy nét biến đổi trên mặt Nga. Chàng thấy lòng hoang mang. Chàng thấy một cái gì như đè nặng lên thần trí chàng, làm cho chàng khó thở,.Chàng đứng giậy:

— Thôi, xin phép anh và em, về qua nhà.

Vừa nói, chàng vừa nhìn Nga, thấy mặt nàng lại xịu xuống.

Nga chưa kịp nói gì thì Phong đã choang choang:

— Ồ, đâu mà vội thế! Anh em xa nhau bốn năm năm, lại không gác chân nhau nằm ngủ một đêm mà nói chuyện được hay sao?

Hoằng phân trần:

— Phải về qua nhà. Đến Hà nội là lại luôn anh, chưa kịp về nhà. Mấy năm nay không gặp mặt thầy tôi, cha con xa nhau, chỉ thỉnh thoảng thư từ thôi. Giờ phải về mới được.

— Thì hãy ngồi chơi lúc nữa! Mới có mười một giờ hơn. Mười hai giờ hãy về.

— Thôi, xin để đến mai. Thầy đệ không ưa thức khuya, về muộn sợ người thức giấc.

Nga cũng lạnh lùng nói:

— Anh ấy đã nhất định về thì để anh ấy về, giữ làm gì, không khéo anh ấy lại giận cho.

Hoằng đi đến bên ghế Nga ngồi, ôm lấy đầu Nga, cúi đặt cái hôn của người anh giai lên trán nàng:

— Anh bao giờ dám giận em gái. Em gái chả giận anh đã là may cho anh lắm rồi.

Phong đưa Hoằng ra đến cửa, cầm tay bạn, ân cần:

— Trưa mai, anh lại xơi cơm với đệ nhé!

— Xin để đến chiều. Bữa trưa đệ phải ở nhà hầu cơm ông cụ. Cha con xa cách đã lâu ngày.

— A, thế nào, anh với ông cụ đã hòa nhau rồi đấy chứ?

Hoằng thở dài:

— Cũng vẫn cứ bằng mặt nhưng chẳng bằng lòng. Mình là con, biết làm thế nào? Nhưng gì chứ ép duyên thì đệ đành cam mang tiếng là bất hiếu.

— Thì ông cụ chỉ mong có dâu và chóng có cháu bế chứ có đếm xỉa đâu đến tình với ái. Đối với các cụ, hôn nhân trước đã, ái tình đến sau. Từ bao nhiêu đời đến nay vẫn thế, làm thế nào được?

Rồi thân mật bảo Hoằng:

— Anh cứ để yên, tôi làm mối cho anh lấy Minh-Thu là mọi việc gia đình ổn thỏa cả.

Hoằng cười:

— Nhưng cái điều ổn thỏa cần hơn hết là lòng mình trước đã.

Tiễn Hoằng xong, trở vào, Phong bảo Nga:

— Chúng ta phải cố làm cho hai người yêu nhau. Minh-Thu mà lấy Hoằng, vừa tốt đôi, vừa mẹ và các em nàng có người che chở. Mà đời Hoằng cũng đỡ quạnh hiu.

 

Ở nhà Phong bước ra, Hoằng đi loanh quanh mấy phố, không định về nhà, cũng không biết vào đâu.

Lúc ấy, phố xá đã vắng người đi lại. Những chiếc bóng đèn chùm kín nửa trên, hắt xuống mặt đường nhựa, ánh lửa lờ mờ. Những mặt nhà ẩn trong bóng những chỗ giở tối, giở sáng, những nóc đen chìm trong bóng đêm, Hoằng trông mới đìu hiu làm sao!

 Đã bốn năm, anh xa Hà Thành. Nay, anh thấy một HàThành ủ - ê trong bóng đêm và bóng của chiến tranh. Nhiều lúc, anh đi dưới những gốc cây, bóng lá che đen, mà có cái cảm tưởng như đi ở miền quanh đồn điền trên rừng.

Vẻ lặng lẽ của thành phố, mầu bí mật của các ngõ ngách cho anh cái cảm tuởng của một người lạc  bước. Và nó cho luôn anh cái cảm tuởng một người lẻ loi.

Phải, anh thấy anh lẻ loi, lẻ loi cả ngoài đời lẫn trong lòng.

Bốn, năm năm ru rú trên một đồn điền, anh đã biết cái lẻ loi là cái gì rồi. Nhưng không lúc nào, anh thấy anh ‘‘một mình’’ quả như thế.

Có lẽ vì cái cảnh hội hợp đầm ấm trong căn phòng sáng sủa lúc nãy đã gieo vào lòng chàng một nhớ tiếc bâng khuâng lúc bước chân ra. Rồi cái cảnh ban đêm, phố vắng lại làm cho lòng nhớ tiếc ấy chuyển thành lòng buồn rầu.

Chàng nghĩ thầm: Lúc này, giá có một người vợ khoác tay mình cùng đi chơi trong bóng tối, thì cái bóng âm thầm, tranh tối tranh sáng này sẽ kín đáo cho những lữ khách của yêu đương biết mấy!

Bấy giờ, chàng mới nhớ tới Minh-Thu. Và chàng lấy làm lạ: Tại sao đến lúc ấy, chàng mới nhớ tới con người mà chàng phải tự thú rằng đến trước mặt người ấy, lòng chàng quả đã có phút sao xuyến.

Nhưng nhớ đến Minh-Thu, chàng lại thấy cái hình ảnh Nga hiện rõ ra trong tâm trí chàng. Một cái hình ảnh lúc tươi cười, lúc lừ- lừ nhìn chàng như trách móc.

Chàng tự xét mình, xoát tại những cử chỉ, nhớ lại những lời mình đã nói trong nhà bạn, thấy chẳng có gì là đángtrách cả. Chàng lẩm bẩm:

— Hay là Nga có ý tình gì với mình chăng?

Rồi chàng lắc đầu, giơ tay như để phân bua với mình:

— Nhưrg mà mình có làm gì đâu! Thì đã hẳn là chàng không làm gì. Nhưng cái nó đến cho lòng chàng, nó vẫn cứ đến, mặc dầu chàng chẳng làm gì cả.

Mặc dầu chàng không muốn, hai cái hình ảnh của hai thiếu nữ xinh đẹp vẫn đến làm rộn lòng chàng thanh niên đi một mình trong đêm khuya, chúng theo chàrg trong mỗi bước, trong mỗi cử chỉ. Rồi chàng nói, chàng nói bằng cái tiếng nói yên lặng mà hùng biện, vang trong tấm lòng nhớ nhung vẩn vơ.

Phong về Hà Nội đã hơn một tháng rồi. Chàng vẫn chưa nghĩ đến sự lên đồn điền.

Trong cái khoảng thời gian ấy, chàng chỉ có hai việc: đến chơi nhà Minh-Thu và đến chơi nhà Nga.

Lần thứ nhất đến chơi nhà Minh-Thu, thấy cái cảnh thanh bạch nhưng cần mẫn của gia đình nàng, chàng thấy bồi hồi cảm động, và nhất là câu chuyện có ý vị của Minh-Thu lại như rót cái vị ngọt vào tâm hồn của một kẻ đã từng quen sống trong cái chua cay của đời vật lộn. Chàng thấy lòng chàng như được nghỉ ngơi bên con người thùy mị, dịu dàng. Ra về, chàng có cái cảm tưởng lưu luyến cái gia đình êm ấm của nàng, và mẹ nàng, và các em nàng.

Và chàng linh cảm thấy rằng một cái gì đã dính vào đời chàng mà từ nay, chàng khó lòng rời ra được một cách thản nhiên.

Nhưng đến lúc Hoằng đến nhà Phong thì chỉ một nụ cười, một câu nói với cái giọng trong trẻo của Nga là bao nhiêu những cái gì dính vào tâm trí Hoằng, cả cái quá khứ nữa, vụt tiêu tan.

Cùng Nga cười cợt, cùng Nga đua thuyền, đánh quần, đi xe đạp về những miền nhà quê, chàng lại thấy lòng mình tưng bừng lên, trẻ thơ lại.

Những lúc ấy, chàng quên hẳn Minh-Thu, hay có nhớ đến cũng chỉ như nhớ một kỷ niệm mờ nhạt trong quá khứ.

Thế rồi ra về, chàng thấy một hối hận thắt bóp lòng chàng. Và chàng nhớ, nhớ một cánh hoang mang cả hai người bạn gái ấy. Chàng trộn lẫn cả hình dáng, cử chỉ, tiếng nói của người nọ sang người kia. Tình trạng ấy gây nên một mối băn khoăn, thắc mắc có nhiều cái rất lý thú, nhưng cũng có nhiều khi rất khổ lòng.

Hoằng thấy mình như vật vờ giữa hai con đường, và nhiều lúc biết rằng mình dối lòng

mình mà vẫn cứ phải sống thế.

Lại khốn nỗi, chàng không tìm thấy ở Nga hay ở Minh-Thu một tính xấu nào rõ rệt để cho lòng mình có cớ mà nghiêng về một bên.

À, một vài thói quen, một vài cái tật lặt vặt thì có đáng kể gì!

Lần nào đến Minh-Thu chàng cũng được nghe một lời Minh-Thu nhắc nhở đến Nga, hoặc khen ngợi một việc làm tốt đẹp.

 Mà hễ gặp Nga là y nhiên Nga hỏi săn, hỏi đón về đức tính của Minh-Thu, và hớn hở khi thấy Hoằng tỏ ý khen Minh-Thu điều gì, và băn khoăn khi chàng chớm có một ý nghĩ bất mãn về Minh-Thu.

Duy chỉ đôi khi, trong những phút yên lặng, chàng thấy thoáng qua một gợn tư lương trên vầng trán trắng ngần của Nga hay trong đôi mắt thăm thẳm của Minh-Thu.

 

Một buổi sáng chủ nhật, sau bữa cơm trưa ở nhà Phong, cả bọn bàn cách tiêu khiển buổi chiều hôm ấy.

Nga đề nghị ngay:

— Họa đàn.

Hoằng biết nàng đề nghị như thế là vì cuộc tiêu khiển ấy hợp với cái sở thích của Minh-Thu. Và cũng là một dịp để cho Minh Thu trổ tài.

Mọi người cùng tán thành:

— Phải đấy. Đã non một tuần nay, chưa được nghe đàn chị Minh-Thu.

Nhưng Minh-Thu gạt ngay:

— Thôi, không họa đào. Đàn ca mãi cũng nhàm. Hôm nay chiều giời mát mẻ, chúng ta lên Hồ Tây bơi thuyền, thú hơn.

Nga lắc đầu quầy quầy:

— Không. Bơi thuyền mãi cũng chán. Nghĩ cái gì khác cho nó đổi món.

— Hay đi xem chớp bóng?

Phong gạt ngay:

— Hủ chết! Anh Hoằng nghĩ xem có cái hay hơn không?

— Thì cũng chỉ một là ở nhà nói chuyện, họa đàn, hai là lên hồ chơi mát. Chứ chả lẽ đi coi đá bóng!

— Nhưng hai đàng, cũng phải chọn một chứ.

Hoằng băn khoăn, không biết nên đi hay nên ở nhà. Ở nhà thì hợp với sở thích của Minh-Thu. Mà đi thì sẽ làm hài lòng Nga.

A, thì vẫn biết rằng có làm gì một vài cái thích vặt ấy. Nhưng kẻ có lòng với nhau, đón ý nhau từng cái nhỏ nhặt mà đi.

 Khốn thay, chàng muốn chiều Minh-Thu, chàng lại muốn được lòng cả Nga. Bởi thế, chàng mới không biết chọn bên nào, đừng bên nào.

— Hay ta hòa đàn xong rồi lên hồ cũng vừa.

— Ồ, như thế giở giang ra. Giữa cuộc vui mà ra đi thì còn thú gì nữa. Mà như thế lên hồ cũng muộn quá.

Phong đề nghị:

— Hay là ta làm cái lối bấu phiếu xem đa số thiên về bên nào?

Viễn họa theo ngay:

— Phải đó. Ta thử bầy cái trò ‘’ bảo cử”

chơi mà lại thú đấy.

Cả bọn biểu đồng tình:

— Phải đấy. Bây giờ ta chia ra làm hai phe ra ứng cử. Một bên là chị Minh-Thu, một bên là chị Nga. Chúng ta bầu phiếu kín, xem  ‘‘quốc dân’’tín nhiệm về ai. Hễ Minh' Thu mà được đã số tía-nhiệm hơn thì hòa đàn. Mà Nga được hơn số phiếu thì đi bơi thuyền.

— Hay đó! Hay đó!

Cả bọn cùng xúm nhau lại cắt giấy chia cho từng người, gọt bút chì.

— Nhưng lấy gì làm hòm đầu phiếu? Nga nhìn quanh quẩn, rồi chạy ra mắc áo:

— Đây rồi! Hãy mượn tạm cái  ‘‘thủ cấp’’

anh Hoằng!

Nàng lấy cái mũ dạ của Hoằng, đặt ngửa lên giữa bàn.

Hoằng mân mê bút chì, băn khoăn không biết viết tên ai.

Cái trò chơi ấy, tuy thực ra không có nghĩa gì, nhưng Hoằng cho đó là một việc đòi một quyết định quan trọng. Vì nó là khởi điểm cho biết bao nhiêu việc quan trọng về sau.

Là người thận trọng cách ăn ở, thận trọng ngay từ trong ý tình mà đi, Hoằng thấy trước khi hạ một chữ tên vào cái mảnh giấy cỏn con này, chàng cần phải suy nghĩ nhiều. Viết tên Minh-Thu hay viết tên Nga?

Thì viết tên ai mà chẳng được ! Chàng đã nghĩ thế, nhưng nó vẫn làm sao ấy.

Cái việc làm tuy giản dị, không ai biết đến ấy, với chàng, nặng giá bằng một lời thề. Tuy không ai biết, nhưng giời biết, nhưng chàng biết.

Nếu sau này mà chàng ăn ở trái với cái đà lòng lúc này!

Cứ nghĩ viễn vông thế mà chàng thấy ngại ngùng.

-Kìa anh Hoằng, bỏ phiếu đi chứ! Xong cả rồi.

Hoằng chợt tỉnh, anh liền cầm mảnh giấy trong tay, nghí ngoáy đầu bút chì, rồi gấp, ném vào ‘‘hòm đầu phiếu’’.

— Cử tri đến đủ rồi!

Viễn nhặt những tờ phiếu, mở ra đọc:

— Nga... Minh-Thu... Minh-Thu... Nga… Minh-Thu... Nga.. Nga... Minh-Thu...

Hoằng bỗng thấy trống ngực đánh, bồi

hồi. Chỉ còn một phiếu nữa thôi.

— Ơ, sao lại có phiếu trắng thế này!

Mọi người nhao-nhao:

— Sao lại phiếu trắng?

— Ai lại bỏ phiếu trắng thế?

Nga nhìn Hoằng, rồi nói ngay:

— Biết ai? Đã là đầu phiếu kín, sao lại còn hỏi ai?

— Tuy thế, cũng nên biết rõ tại làm sao lại có người bầu phiếu trắng?

Lý hỏi:

— Hay là trong bọn ta, có người không muốn dự cuộc vui nữa?

— Ai mà lại muốn tách ra khỏi đoàn thế?

— Hoăc giả có nguyên cớ gì khác chăng?

Phải, có một nguyên cớ. Và cái nguyên cớ ấy, trong bọn, không phải chỉ một người biết.

Lao nhao một lúc, rồi Phong lên tiếng át mọi người:

— Hai bên bằng phiếu, Vậy thế bây giờ làm cách nào để định đoạt?

— Khó gì! Bây giờ ta làm cái lối rút thăm.

— Phải đó, thế mà nghĩ không ra. Thật là dung dị!

Thật là dung dị, phải một cuộc tiểu khiển có khó gì đâu.

Nhưng đời đâu phải là tiêu khiển tất cả. Và đời đâu có dung dị như cuộc rút thăm ngày hôm ấy.

Viễn lấy ngay hai cái phiếu, một cái tên Minh-Thu và một cái tên Nga, vê tròn lại ném vào mũ. Y sóc sóc một lúc, rồi đưa đến trước mặt Hoằng.

Không biết cái cử chỉ của y là vô tình hay cố ý. Chỉ biết rằng Hoằng từ chối:

— Sao lại tôi? Khách mạnh không lấn chủ. Rồi sợ Viễn cố gặng, anh bưng luôn ngay chiếc mũ, chìa đưa cho Phong.

— Nga!

Sự tình cờ đã định.

 

Chiếc yatch, buồm căng gió, lướt veo veo trên mặt nước hồ lăn tăn. Hoằng để trùng giây buồm  cho chiếc du thuyền tự do theo gió ra giữa hồ. Ngồi bên chàng, Minh-Thu thỉnh

thoảng lại thõng tay xuống mặt hồ, để cho

làn nước đẩy cái cổ tay trắnng nõn trôi trôi ra sau.

Cách thuyền của hai người chừng hơn một trăm thước, Nga một mình một chiếc yatch, đang bắt giây lèo cho yatch Iuợn vòng tròn, cánh buồm nghiêng hẳn về một bên. Xa xa, Viễn và Lý cũng đang mặc cho cánh buồm uống gió.

Bỗng từ chiếc yatch của Nga bay lại một giọng hát véo von, cả Hoằng lẫn Minh-Thu cùng lắng tai.

Tiếng hát của Nga mỗi lúc một lên cao, một réo rắt:

‘‘Ngồi dưới bóng buồm bay phấp phới,

 Lắng tai nghe như cởi tấm lòng.

Nhặt khoan giọng hát ngư ông,

Gió chiều càng thổi, tiếng đồng càng cao,

Nàng mới hỏi: Trời sao sáng tỏ?

Nọ chị Hằng lấp ló trong mây.

Rằng: Sao sáng khắp đó đây,

Từ làn bọt bể đến cây giữa rừng.

Lòng đây cũng bừng bừng sáng rọi,

Hỏi Căn nguyên đó bởi cớ sao?

Có cây sóng gió rì rào,

Khiến cho đây cũng nao nao tâm thần.

Hay là bởi lòng trần còn vướng,

Nên người vui, cảnh tưởng đều vui?

Hỡi chàng! Quê quán xa xôi,

Quê chàng vắng thiếp, có vui chăng chàng?

(Rút ‘‘Premier regret’’  của Lamartine. Bản dịch của Nam-Vân).

Tiếng hát trong, cao, lúc trầm, lúc bổng, gợi mối xao xuyến trong lòng Hoằng. Chàng đưa mắt mơ hồ về phía Nga. Lúc ấy, nàng đã thôi hát, đang dong thuyền về phía Petit Đồ Sơn.

— Trời ơi! Sao hôm hay giọng hát của em Nga nghe não nùng đến thế nhỉ?

Minh-Thu nín lặng.

Hoằng ngây người ra một lúc lâu, như quên hẳn rằng có Minh-Thu ngồi ở bên cạnh.

Đến lúc nàng cựa mình, chàng mới vùng tỉnh, quay lại.

Nét mặt Minh-Thu vẫn thản nhiên. Nhưng dấu vết một cái buồn chạy qua hãy còn rớt lại trên khóe mắt.

— Minh-Thu nghĩ gì thế?

Minh-Thu lắc đầu:

— Minh-Thu có nghĩ gì đâu!

— Nhưng hình như Minh-Thu buồn?

Minh-Thu lại lắc đầu:

— Minh-Thu có nghĩ gì đâu! Minh Thu có buồn gì đâu! Minh-Thu vui lắm,

Giọng nói như hơi gió thu thổi qua quán

chiều,

— Không, Minh-Thu có buồn. Tôi biết.

Minh-Thu vùng cười sằng sặc:

— Anh Hoằng đến hay. Cứ gán cho người ta

những tình cảm không có. Người ta vui thì cứ bảo người ta buồn, tức cười chưa.

Hoằng không cười. Anh cúi đầu bần thần. Chiếc yatch không ai giữ giây lèo, cứ thuận gió ra tít tận giữa hồ

Bỗng đâu cơn gió xoay chiều thổi lật cánh buồm, quay nghiên hẳn chiếc thuyền.

Minh-Thu đang lúc mải mê nghĩ những đâu, giật mình kêu rú lên một tiếng: ‘‘Ối chao!’’ Nàng chới với mấy cái, rồi lăn ùm xuống hồ.

Hoằng không để ý, đến lúc nhìn thấy, vội vàng choài mình ra nắm lấy áo Minh-Thu. Không ngờ vì thế, chiếc yatch nhẹ tênh hẳn một bên nên đồ lật nghiêng, hất nốt chàng xuống hồ.

Hoằng vội ôm ngang ngực Minh-Thu, cất đầu nàng lên khỏi mặt nước.

Lúc ấy, Minh-Thu đã uống phải vài ngụm nước, đang nhăn mặt, đập tay đập chàn ùm-ùm. Hoằng luồn một tay đỡ dưới ngực nàng

miệng luôn luôn:

— Em đừng sợ. Đừng cuống. Cứ để yên anh dìu vào bờ.

Minh-Thu chỉ gọi là võ vẽ biết bơi, giữ mình cho nổi được trên mặt nước đã là may rồi, Hoằng phải bơi cho cả hai người.

Lúc ấy, Hoằng thấy mặt hồ sao mà rộng thế, bờ hồ sao mà xa thế! À, ra khi người ta ngôi trên mặt nước với khi người ta ngâm mình dưới nước trông lên bờ, gần xa khác nhau nhiều.

Thấy mình là một gánh nặng cho Hoằng, Minh-Thu cũng đập chân, quờ tay. Nhưng nàng không bơi không khá, nàng bơi, Hoằng lại càng khó nhọc thêm, hết sức mới giữ cho nàng khỏi chìm lỉm.

Hồi lâu, thấy Hoằng thở mạnh, Minh-Thu khẽ bảo chàng:

— Thôi, anh buông em ra mà bơi vào bờ.

Hoằng nhìn nàng, lắc đầu:

— Chết thì cùng chết!

 

Hoằng đã gần thất vọng thì một cánh buồm trắng từ xa phăng phăng lướt tới.

Nga đứng thẳng trên yatch, gan ruột tơi bời như điên cuồng. Nàng dẫm mạnh xuống thuyền, cơ hồ muốn đạp tan đáy thuyền ra.

Chiếc thuyền lướt veo veo trên nước. Nàng vẫn thấy nó chậm như rùa. Chốc chốc, nàng chỉ lo hai cái hình đang vật lộn với nước kia chìm xuống, mất hút.

May sao, lúc nàng gần tới là lúc Hoằng vừa mệt lả.

— Cố lên! Anh chị cố lên! Em đến đây.

Tiếng gọi của bạn giữa cơn nguy cấp có cái sức mạnh của một liều thuốc hồi sinh.

Hoằng phấn chấn hẳn ngay lên, Chàng gắng, chàng gắng cái sức cuối cùng, thì vừa may, lúc chàng kiệt sức, chiếc yatch của Nga vừa luớt tới.

Nga ngoằng giây lèo cho chiếc thuyền lượn một vòng bán nguyệt, ghé từ từ đến bên hai người.

— Em cố... vịn chắc...

Hoằng vừa thở, vừa cố dìu Minh-Thu cho nàng bám lấy chiếc yatch,

Nga rối rít:

— Anh đỡ cho chị ấy chèo lên,

Hcằng làm theo, và miệg anh luôn luôn

— Ấy khéo em đứng... sang bên kia... không thuyền ụp.

Cố mãi, cố mãi, và nhờ có Nga giúp sức, Hoằng mới đun được Minh-Thu lên thuyền. Đoạn, chàng nằm ngửa, làm  ‘‘planche’’ trên mặt nước, rang cả chân tay ra mà thở.

 Nga nhìn chàng, chứa chan tình thương sót:

— Anh cũng lên đi. Coi anh mệt lắm rồi.

Hoằng thở mấy cái, rồi lại lật sấp mình xuống, Chàng bám lấy đằng sau lái:

— Em đừng lo... Thế này... được rồi. Em cứ đỡ chị Minh-Thu... Chị ấy mệt lắm...

Nga đỡ Minh-Thu nằm xuống thuyền, rồi bẻ lái về phía bờ.

Lúc ấy, trên mặt hồ, những cánh buồm trắng tới tấp kéo ra cứu ứng

 

Ba hôm sau, Hoằng đến thăm Minh-Thu, thấy nàng đã bình phục như thường, chỉ còn hơi xanh:

— Chị phải mặc ấm vào, kẻo nhỡ lạnh phổi.

— Em có sao đâu. Em vừa định lại anh, rồi cùng đến đằng Nga.

— Chết, chị phải ở nhà tĩnh dưỡng cho lại hẳn mới được chứ!

— Không, em có việc gì đâu! Gớm, anh cứ làm cho to chuyện. Một cuộc tắm nước lạnh bất đắc dĩ, và bất-đắc-dĩ uống mấy ngụm nước có nghĩa gì!

Hoằng cười:

— Bây giờ chị nói thế, chứ hôm ấy ở dưới hồ, hẳn là có nghĩa lắm!

Minh-Thu tủm tỉm:

— À, cái ấy thì đã hẳn. Nếu anh không cố gắng, và nếu Nga không ra cứu mau thì kể cũng nguy thật.

Nàng lấy thuốc lá mời Hoằng, rồi tiếp:

— Vì thế, em vừa sắp lại anh để cảm ơn cứu sống của anh, và rồi lại Nga một thể.

Hoằng xua xua tay:

— Ồ, vẽ! Đã là chỗ bạn thân, sao Minh-Thu lại còn khách sáo thế?

— Lẽ phải như thế chứ. Với lại em cũng có một chuyện cần phải nói với anh.

— Chuyện gì thế?

Minh-Thu tủm tỉm:

— Chuyện tâm sự.

Hoằng bỗng thấy long hồi hộp:

— Gì thế? Chị nói đi.

Minh-Thu gật đầu một cái:

— Thì hãy khoan, đi đâu mà vội?

Nàng không vội, nhưng chàng vội, chàng nóng nghe lắm. Một câu chuyện tâm sự nàng đã đem chuyện tâm sự ra mà nói với chàng, thì trong lòng nàng, hẳn chàng đã cò một địa vị thân mật đến bực nào!

À, thì ra từ trước đến giờ, nàng đã có biệt nhỡn đối với Hoằng, nàng hẳn đã có nhiều lúc muốn ngỏ một nỗi lòng u- ẩn gì đó với chàng mà chỉ vì chưa có dịp.

Hoằng mát rợi lòng, hân hoan đợi.

Sau một cái nhìn như gửi cả linh hồn, Minh-Thu chầm chậm lên tiếng:

— Anh ạ, ít lâu nay em nhận thấy một điều mà có lẽ anh vì lơ đãng, không để ý. Là em Nga đã yêu anh. Nó yêu anh lắm mà không dám nói ra.

Hoằng giơ tay phác một cử chỉ phản đối, nhưng Minh-Thu vẫn không ngừng:

— Không, em nói thật. Nga yêu anh lắm lắm, một mối tình thầm kín, có lẽ chớm nở từ ngày nó còn cùng với anh đi học. Vậy mà anh — phải nói là ngốc thật, — đã chẳng nhìn thấy cái gì cả.

— Không có lẽ !

— Thật mà ! Em lầm thế nào được. Một điều quan hệ như thế, trước khi nói với anh, em phải xét nghiệm rõ ràng rồi mới dám nói chứ. Chả tin, anh thử tìm cách gợi lòng Nga mà xem

Thì HcẳHoằng biết thế lắm rồi. Nhưng chàng vẫn cố bảo thầm chàng rằng như thế là không đúng. Chàng vẫn cố nuôi  một cái ảo tưởng để được tự do bước lên con đường đi vào lòng Minh-Thu.

Nhưng bây giờ, cái ảo tưởng ấy tan rồi, tan ngay trong câu nói của Minh-Thu.

Tự dưng, chàng thấy lòng buồn rười rượi:

— Thế ư? Câu chuyện tâm sự của chị chỉ có thế thôi ư?

— Vâng, chỉ có thế.

Hoằng nhìn Minh-Thu, nín lặng.

 

Hoằng ở lì nhà đến hơn một tuần lễ. Chàng thấy lòng se sắt, mệt mỏi, chẳng buồn đi đến đâu.

Nhưng một hôm, ánh sáng tưng bừng của một ngày tươi đẹp lôi chàng ra khỏi nhà.

Chàng đi loanh quanh mấy phố, rồi ngẫu nhiên đi tới phố Duvillier, phố nhà Phong ở. Thế là chàng bước vào nhà bạn.

Phong đi vắng Nga thấy chàng, đon đả chạy ra:

— Anh! Anh! Sao mấy hôm nay anh đi đâu mà không lại?

— Anh đi... ann đi... à anh mệt !

Nga rối rít:

— Sao? Anh mệt làm sao? Có nặng không? Thế sao không cho em biết?

— Anh mệt, nhưng anh khỏi rồi!

Nga nhìn Hoằng giây lát, rồi vùng nói:

— Không, anh nói dối em rồi. Anh chẳng đi đâu, anh cũng chẳng đau ốm gì cả.

Hoằng cười:

— Thế ra anh quả là cuội thật à?

Bỗng Nga không cười. Nàng nhìn Hoằng chăm chăm rồi đột ngột :

— Anh đã lại chị Minh-Thu chưa?

Hoằng ngần ngừ giây lát, rồi gật.

Nga nín lặng một lúc, rồi vùng nói:

— Anh… anh Hoằng. Em báo cho anh một tin mừng nhé, một tin mừng cho anh.

— Anh thì còn làm gì có tin mừng nửa?

Nga cười ròn rã:

— Thế mà có tin mừng đấy,

—?!

— Đây này: Chị Minh-Thu chị ấy yêu anh mà anh không biết đấy!

Hoằng choáng váng một lúc lâu:

— Bậy nào?

Nga quả quyết:

— Thật mà! Em có bao giờ nói dối đâu, nhất là lại nói dối  với anh. Em đã bảo chị ấy yêu anh là chị ấy yêu anh thật mà.

Rồi sốt sắng:

— Anh mà lấy chị ấy thì thực là tốt đôi. Nhất là chị ấy lại vừa mang ơn anh cứu sống. Chị ấy sẽ coi anh là ông giời của chị ấy.

 

Ở nhà Nga buớc ra, Hoằng thấy không biết nên khóc hay nên cười. Yêu? Thì chàng đã được yêu, được yêu nhiền quá. Chàng đã được những hai người yêu chàng.

Nhưng còn chàng? Chàng đã yêu người nào chưa? Chàng đã yêu đủ cái yêu, yêu hết cái yêu đối với một người nào chưa?

Lê Văn Trương

Theo http://vietnamthuquan.eu/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lỡ một kiếp người

Lỡ một kiếp người Lỡ một kiếp người Anh ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, ...