Nhà văn Nguyễn Thành Nhân: Trong dịch thuật, không có nguyên tắc bất di bất dịch
Ngoài những tác phẩm như: Mùa xa nhà, Nhà văn già
và em mọi nhỏ, Vũ điệu buồn của chữ…, nhà văn Nguyễn Thành Nhân còn là dịch giả
của hơn 30 đầu sách. Gần đây, ông vừa giới thiệu 2 dịch phẩm Trở lại cố
hương (Thomas Hardy) và Căn phòng của Jacob (Virginia Woolf) do
NXB Tổng hợp TPHCM ấn hành.
Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với ông về mối liên hệ giữa dịch thuật và sáng tác.
Mong giới thiệu nhiều tác phẩm hay
° Chỉ trong thời gian ngắn nhưng ông đã giới thiệu đến độc
giả nhiều dịch phẩm quan trọng, gần đây nhất là Trở lại cố hương (Thomas Hardy)
và Căn phòng của Jacob (Virginia Woolf). Sự chăm chỉ và bền bỉ này được xuất
phát từ động lực nào?
– Một phần vì những tác phẩm kinh điển có rất nhiều mà
chưa được dịch sang tiếng Việt. Không riêng tôi mà các dịch giả khác cũng vậy,
có dịch cả đời cũng không hết những tác phẩm hay. Tôi nóng lòng mong muốn được
giới thiệu nhiều tác phẩm đến với độc giả Việt Nam. Ngoài ra, trong vòng 2 năm
nay, sở dĩ tác phẩm dịch của tôi được xuất bản nhiều là có sự ủng hộ của NXB Tổng
hợp. Tôi dịch cuốn nào xong, gửi sang cũng đều được NXB đồng ý. Nó có sự cộng
hưởng từ hai bên như vậy.
° Khi dịch sách ông quan tâm đến việc giữ nguyên văn phong của
tác giả hay dịch một cách linh hoạt cho phù hợp với thưởng thức của độc giả?
– Mỗi tác phẩm sẽ có một vấn đề khác nhau và tâm niệm của tôi
là phải chuyển tải đúng tinh thần của tác giả. Mỗi tác giả đều có phong cách
riêng, khi dịch tôi cố gắng giữ văn phong của họ. Nhưng trường hợp văn phong rối
quá thì mình cũng phải gỡ. Có những câu, tôi đọc thì hiểu nhưng dịch qua tiếng
Việt nếu bám sát vào nguyên văn chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người đọc. Lúc
đó, buộc phải mềm hóa nó. Tuy nhiên, số này tỷ lệ không cao. Ngay cả bản thân
người viết cũng vậy, cũng có lúc mình không khống chế được dòng suy tưởng,
thành ra ý tưởng lúc đó mơ hồ, rối rắm. Khi đọc, tôi cố gắng thấu hiểu xem tác
giả muốn nói gì và sau đó diễn đạt lại cho câu văn bớt rối.
Thực ra, một tác giả cũng có văn phong thay đổi chứ không phải
là nhất quán từ đầu. Trường hợp nhà văn lẫy lừng Virginia Woolf cũng vậy, bà
thay đổi văn phong nhiều lắm. Đương nhiên, vẫn có một văn phong chủ đạo nhưng
đi sâu vào chi tiết sẽ thấy những thay đổi và khác biệt. Thành ra với dịch thuật,
không có một nguyên tắc nào bất di bất dịch mà mình phải linh động. Có chỗ mình
phải cắt bớt hoặc thêm vào làm sao cho tròn ý.
° Ông có nghĩ dịch cũng là tham gia vào sáng tạo lần thứ
hai?
– Nó cũng là sáng tạo nhưng chỉ ở một mức độ nào đó thôi,
không đáng để vỗ ngực xưng tên về sự sáng tạo đó. Khi dịch, tôi cố gắng để chuyển
tải càng sát với tinh thần của nguyên tác càng tốt. Sáng tạo ở đây chỉ là về mặt
kỹ thuật, còn ý tưởng vẫn là của tác giả. Bản thân tác phẩm đã hay rồi, chuyện
dịch có hay hay không tùy thuộc vào khả năng của người dịch.
Sẽ viết về đề tài hậu chiến
° Ngoài dịch, ông còn được biết đến là một nhà văn. Đây có phải
là lợi thế của ông khi dịch sách?
– Tôi nghĩ rằng, dịch hay hay dở phụ thuộc không nhỏ vào văn
phong của người dịch. Văn phong của tác giả thì không bàn rồi, nhưng nếu người
dịch cũng là người viết sẽ mang đến nhiều thuận lợi. Vì tôi có thể linh động
trong quá trình dịch. Khi người dịch là người viết, vốn từ sẽ phong phú hơn, dịch
sát nghĩa theo từ điển thì chính xác nhưng hiệu quả không cao, mình có thể sử dụng
những từ khác đồng nghĩa và gợi hơn.
° Ở chiều hướng ngược lại, dịch thuật mang lại điều gì lớn
cho ông trong công việc sáng tác?
– Nó có 2 mặt, lợi và hại. Cái lợi ở đây là mình học hỏi được
nhiều thủ pháp nhưng cái hại cũng là học quá nhiều thủ pháp khiến mình bị rối,
không biết nên sử dụng chiêu nào. Giống như một người học võ, nhiều chiêu quá
cuối cùng không biết đâu mới là chiêu ruột của mình. Muốn luyện thành thục một
chiêu nào đó cần phải có thời gian. Và thủ pháp trong văn chương cũng vậy. Muốn
sử dụng thủ pháp nào đó phải viết đi viết lại, thậm chí viết cuốn này chưa
thành công thì phải viết thêm cuốn khác. Ngay như Virginia Woolf, bà là mẹ đẻ của
thủ pháp dòng ý thức nhưng đâu phải viết là thành công liền được.
° Có ý kiến cho rằng, đỉnh cao của Nguyễn Thành Nhân là Mùa
xa nhà. Ông nghĩ sao về ý kiến này?
– Cho đến bây giờ, đó đúng là đỉnh cao của tôi, vì sau này,
tôi chỉ ra mắt truyện ngắn, tản văn nên về mặt thể loại thì nó hơn rồi. Về mặt
cấu trúc, ý tưởng cũng hơn. Nhưng thực sự, giờ nhắc đến Mùa xa nhà, tôi
cũng chán rồi, giống như mình không có gì khác ngoài nó. Tôi vẫn muốn viết một
cái gì đó hơn cuốn trước và vẫn đang cố gắng.
° Trở về từ chiến trường K, ở một khía cạnh nào đó có thể xem
đây là trải nghiệm quý giá. Nhưng thực tế, ông mới chỉ viết tiểu thuyết Mùa xa
nhà; liệu trong tương lai, ông có trở lại với đề tài này nữa không?
– Với tôi, viết được Mùa xa nhà là đủ rồi. Tôi
không muốn viết thêm tác phẩm nào nữa dính dáng đến chiến trường K. Dĩ nhiên,
tác phẩm là góc nhìn của tôi, những người đã từng tham chiến, họ sẽ có những
góc nhìn khác nhau. Đối với tôi, những gì cần nói, tôi đã nói hết trong Mùa
xa nhà, còn cảm nhận như thế nào là ở độc giả, mình không thể chi phối được. Điều
này vượt ngoài khả năng, tầm kiểm soát của tác giả. Nếu vài chục năm nữa mà vẫn
có người nhớ đến thì tôi cảm ơn cuộc đời rất nhiều, còn không thì thôi.
Hướng sắp tới của tôi là viết về đề tài hậu chiến, cũng là về
những người lính nhưng không phải ở chiến trường K mà trong cuộc sống xã hội.
3/11/2019
Quỳnh Yên
Nguồn: SGGP
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét