Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

Sông nước Tiền Giang

Sông nước Tiền Giang

Chương 1
Trời mới sáng tinh mơ, bác Phó Từ mở cửa bước ra sân, quay nhìn tứ phía, miệng lẩm bẩm:
- Chà! Bữa nay trời mù sương dữ, chả nom thấy gì hết, như thể giòng Tiền giang và hòn Reng không còn nữa.
Thời tiết vào cuối thu lành lạnh. Bác phó bước đi, lưng đeo chiếc túi đựng đồ nghề và một gói cơm nắm để trưa dùng bữa.
Xa xa chiếc cầu nối liền cù lao Reng sang thị xã Cao Lãnh chỉ thấy lờ mờ những khung sắt trên cao, còn phần dưới thì lẫn vào màn sương dầy đặc. Bác Từ tự hỏi không hiểu ban đêm các trụ cầu đã bị nước cuốn đi mất chăng?
Bờ sông vắng ngắt, không một bóng người. Đi được hơn trăm thước, bác nghe như có
những tiếng kêu là lạ, từ mé sông vọng lên. Xưa nay bác vẫn quen với những tiếng cò, vạc, giẽ, bìm bịp, nhưng tiếng này lại khác hẳn.
Bác lắng tai nghe kỹ. Không! Không phải là tiếng cầm thú mà hình như là tiếng… trẻ con khóc. Bác dừng chân quay gót trở lại, lần xuống mé sông để quan sát. Bổng nhiên, trong bụi sậy, bác thấy một con đò nhỏ được cột vào bờ bằng một sợi dây.
“Lạ quá! Hình như một con đò bỏ không!”. Bác nắm dây kéo con đò vào sát bờ và trông thấy dưới đáy một bọc nhỏ.
Bác cúi xuống để nhìn cho rõ thì bỗng tiếng khóc phát ra.
- Trời ơi! Một hài nhi!
Đó là một đứa nhỏ độ 5, 6 tháng, được quấn kỹ càng. Mặt nó đỏ gay vì đã khóc từ lâu, và có lẽ nó đói.
“ Tội nghiệp, bác nói, ai đã đem mày tới đây? ”
Bác vội bồng đứa nhỏ lên tay, ngắm nghía nó một lát rồi rảo bước về nhà.
- Mình ơi! Coi này, anh vừa bắt được đứa nhỏ này trong chiếc đò ở mé sông!
Bác gái tỏ vẻ ngạc nhiên, dơ tay đỡ lấy đứa bé, vừa dở chăn xem vừa hỏi:
- Mình thấy nó ở đâu vậy?
- Ở mé sông, trong một chiếc đò con.
- Đây là một bé gái. Ai lại bỏ nó như vậy?
Bác phó Từ cầm lấy chiếc túi nói:
- Anh phải vội đi kẻo trể giờ, mình ở nhà trong nom đứa trẻ này nhé. Cho nó ăn cháo sữa rồi chiều anh về sẽ tính.
Bác bước ra khỏi nhà, lần theo mé sông, băng qua cầu, rẽ tay mặt và đi một quãng dài nữa thì tới trang trại của Ông Hội Đồng Thái Xuân Hải, là nơi bác làm việc.
Ở đây đang xây cất một ngôi nhà thờ lộng lẫy cho nhà họ Thái, dựng trên những cột bằng gỗ lim, lớn cả người ôm, Bác phó Từ lãnh công việc chạm trổ rất công phu cho các cột này, và các xà gỗ bên trên.
Bác phó rất yêu nghề của mình, bác cảm thấy niềm vui thanh cao mỗi khi, qua những nhát đục do bàn tay khéo léo của bác điều khiển, đã xuất hiện trên mặt gỗ những hình Vân, hình Triện, hình Long, Ly, Quy, Phượng rất nghệ thuật. Bác tự hào nghĩ rằng một phần ngôi nhà thờ này là công trình kiến tạo của bác, và một ngày kia, khi bác đã nằm ngủ yên dưới lòng đất, những hình chạm trổ kia hãy còn sống mãi mãi.
Nhưng bữa nay bác không chăm chú lắm vào công việc. Đầu óc bác còn đang bận suy nghĩ nên mấy lần, bác đập búa trúng ngón tay.
“ Đứa nhỏ này là con cái nhà ai? ” Bác tự hỏi đi hỏi lại, “ Và tại sao người ta lại bỏ nó cách nhà mình chừng một trăm thước mà thôi? Chung quanh chổ đó chẳng có nhà ai khác, vậy bàn tay vô danh nào đã cột con đò ở đó là vô tình hay hữu ý? ”
Trong khi các bạn khác vừa làm việc vừa cười nói vui vẻ, riêng bác Từ vẫn trầm ngâm suy nghĩ để tìm câu giải đáp điều thắc mắc.
Cuối cùng bác tự nhủ: “ Thôi! Rồi ta sẽ tính. Biết đâu giờ này người cha hay người mẹ đứa bé đã chẳng thấy hối hận và đã trở lại mang nó về rồi, Chuyện này cũng thường xảy ra lắm ”
Xế chiều, khi mãn giờ làm việc, bác đi thẳng một mạch về nhà. Sau khi qua cầu và lần theo mé sông, bác thấy con đò vẫn buộc nguyên chổ cũ. Vậy là không có ai đến cả.
Tới nhà, bác vừa đẩy cửa bước vào vừa hỏi:
- Thế nào mình?
Bác Từ gái chỉ đứa nhỏ đang nằm ngủ trong chiếc nôi cũ, đáp:

- Em đã xem kỹ các tả lót của con nhỏ, tất cả đều bằng vải xấu, duy có một chiếc này là trắng đẹp mà thôi. Giữa hai lượt chăn, em thấy mảnh giấy này, mình thử đọc xem.
Bác phó Từ cầm mảnh giấy đọc: “Thủy”.
Bác Từ gái lập lại “Thủy”, tên nghe cũng hay đấy chứ!
Bác Từ quay lại hỏi vợ:
- Bây giờ, chúng ta phải làm gì? Đứa nhỏ này đã bỏ ở gần nhà ta đó.
Bác gái cúi đầu đáp:
- Em thấy cũng tội nghiệp, mình ạ, nhưng vấn đề này cũng hơi khó giải quyết, vì nhà ta đã có hai đứa con gái rồi, và mai mốt có lẽ trời còn cho thêm con khác.
- Tuy nhiên…
- Em thấy bên kia sông, các bà phước dòng “ Mến Thánh giá ” vẫn nuôi những đứa trẻ vô thừa nhận. Mấy tháng trước đây cũng có vài đứa được mang tới.
- Đúng vậy, những đứa trẻ ấy đã được mang tới trại của các bà phước, nhưng đứa này thì lại được bỏ ở gần nhà ta. Như vậy là người ta đã chủ ý mang tới cù lao này đấy chứ.
- Nhưng trại mồ côi còn có nhiều phương tiện hơn nhà mình.
- Đành rằng vậy, nhưng ta có phận sự…
- Vâng, ta có phận sự nuôi các con ruột của ta trước hết đã.
Bác phó Từ lặng thinh không đáp, bác và nốt mấy miếng cơm, rồi bỏ đũa bát tiến ra cái nôi. Lúc ấy, con Hồng và con Hương là hai đứa con gái chừng 3 – 4 tuổi cúa bác, đang đứng cạnh chiếc nôi để xem đứa bé.
Bác gọi nho nhỏ: “ Thủy, Thủy! ”
Đứa nhỏ nhìn bác, như hiểu tên gọi của nó, rồi một nụ cười nở thoáng trên khuôn mặt bầu bĩnh.
“Mai ta sẽ bàn chuyện này với ông Trưởng, để xem ý kiến ông ra sao”
Bác làm đúng như ý định. Sáng hôm sau, khi tới trang trại, bác kiếm ngay ông Trưởng, một vị bô lão mà ai cũng kính nể, và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ông trưởng đáp:
- Ta hiểu vấn đề này rồi. Ta biết rõ anh lắm, anh là người thực thà tốt bụng. Anh yêu nghề nghiệp, thương vợ con. Chắc không phải ngẫu nhiên chiếc đò đã tới đậu ở đó. Anh nên tin ta, chiếc đò được buộc gần nhà anh tức là người ta đã chọn nơi anh để gởi gấm đứa nhỏ. Vậy anh nên giữ lấy nó mà nuôi. Thêm bận rộn lo lắng thật đấy, nhưng lương tâm anh sẽ được yên ổn, anh sẽ làm được một điều phúc đức.
- Nhưng vợ tôi…
- Ừ, vợ anh có lẽ cũng như những phụ nữ khác. Chị ấy tưởng chỉ có thể thương yêu những đứa con ruột của mình mà thôi. Nhưng ta chắc rằng chẳng sớm thì muộn, thế nào chị ấy cũng bị chinh phục bởi nụ cười ngây thơ của con nhỏ.
Như trút được nổi băn khoăn, bác Từ vui vẻ bắt tay vào công việc. Buổi chiều khi về tới nhà, bác đi thẳng tới chiếc nôi, bồng con nhỏ trên tay và tuyên bố với vợ:
- Từ nay con nhỏ này là con của chúng ta.
Và bác đặt tên nó là Hà Thu Thủy.
Chương 2
Thủy đã lớn lên, nhưng lời tiên tri của ông Trưởng không thành sự thực, vì sự phục tòng, bác Từ gái chịu nuôi con từ nhỏ, nhưng bác không thể nào coi nó như con ruột. Và hai năm sau, khi Đào một đứa bé gái ra đời, thì Thủy lại càng bị coi như một kẻ xa lạ. Bốn đứa con gái! Nhiều quá..một đứa là thừa… và sẽ là thừa mãi mãi.
Thủy nhận thấy trong gia đình, chổ đứng của nó nhỏ bé hơn của ba đứa con kia. Nó trở thành lầm lỳ, ít nói ít cười, ánh mắt nó đanh lại. Lớn lên, tính nết nó thành kỳ quặc, khùng khùng, có khi thành tàn nhẫn nữa. Tuy nhiên, một người vẫn thương yêu nó hết mực: bác phó Từ. Đối với cha, Thủy tỏ ra rất ngoan ngoãn, dịu dàng, nghịch ngợm, ranh mãnh, nhưng khổ nổi bác không mấy khi có nhà. Hằng ngày, bác phải đi làm từ lúc tờ mờ sáng, chiều tối mới về vào lúc mặt trời đang lặn xuống giòng Tiền giang.
Lâu dần, con nhỏ thành thói quen, cứ sáng ra là đi khỏi nhà, bữa ăn mới trở về, còn suốt ngày chỉ sống lang thang ngoài đảo nằm lăn trên bãi cỏ, hoặc lấy củi khô chất thành đống rồi nhóm lửa đốt chơi. Những khi trời nóng bức, nước cạn, nó xuống sông lội bì bõm. Rồi lâu dần nó biết bơi lặn như những con nhà thuyền chài. Có lần nước to nó suýt bị chết đuối. Những người thuyền chài vớt được nó cách xa đấy hàng trăm cây số trong khi nó đang bám vào một cành cây và kêu la thất thanh.
- Con điên! Đúng là con điên! Bác Từ gái than vãn. À, bây giờ ta mới hiểu vì sao người ta đã bỏ rơi nó. Chắc là mẹ nó cũng loạn óc như nó chớ gì.
Không, không phải! Đầu óc Thủy không trống rỗng. Trái lại, trong đó biết bao những ý nghĩ, biết bao những giấc mơ đã trôi qua lẫn với những đám mây ảm đạm đượm nổi u sầu.
Lúc chiều tà, khi bác Từ ở trong trại về, nó đến ngồi bên cạnh để thủ thỉ nói chuyện. Cái trang trại tường vôi trắng xóa mà hàng ngày nó ngồi ngắm từ bên này sông, kích thích óc tò mò của nó.
- Ba ơi! Nó thở dài nói: Ước gì ngày nào con được vào trang trại ấy xem thì thích quá!
- Trong ấy nhiều chó dữ lắm, con vào làm sao được.
- Nhưng hằng ngày ba vẫn vào mà.
- Ba khác, ba vào làm việc chứ có phải vào chơi đâu.
- Con cũng muốn được xem ông Hội Đồng thế nào.
- Ít khi ông ở nhà, ông thường đi Lái Thiêu để trong nom xưởng kỹ nghệ của ông.
- À, xưởng Lái Thiêu! Ba thường nói chuyện với con, có phải đẹp lắm không ba?
- Ừ, người ta nói đẹp lắm, nhưng chính mắt ba cũng chưa được trông thấy ra sao.
- Có xa không ba?
- Ngót hai trăm cây số.
- Xa quá ba nhỉ.
Hơn một năm sau, công tác xây nhà thờ đã hoàn tất. Nay bác Từ phải lo công việc đóng các đồ thờ bằng gỗ quý rồi khảm xà cừ. Ngoài ra, còn phải thiết lập một vườn kiểng thật công phu với mọi thứ cây lạ. Công việc phải kéo dài trong nhiều năm.
Bây giờ Thủy đã 12 tuổi. Nó lớn hơn những đứa trẻ khác cùng lứa tuổi, nhưng khổ người mảnh mai như những cây lau tha thướt bên bờ nước. Cù lao Reng đã thành chậc hẹp đối với lòng khao khát của nó. Càng lớn nó càng man rợ thêm, cả ngày sống ngoài đồng ruộng, đến tối mới về nhà cùng lúc với bác phó Từ. Rồi nó quen đến tận cổng trang trại để đón bác.
- Thủy, bác Từ la nó, ba đã dặn con không được tới thị xã lúc chiều tối kia mà. Thế con không sợ mẹ mìn sao?
Thủy cười giòn tan. Nó chẳng sợ mẹ mìn, vì ai thèm bắt cóc một đứa con gái xấu xí như nó. Ở nhà ai cũng chê nó xấu. Để chọc tức nó, biết bao lần các chị nó đã chế riễu mớ tóc rối như tổ quạ và bộ quần áo lam lũ của nó.
Bác phó Từ dắt tay Thủy lững thững đi về. Đây là giờ phút êm đềm nhất trong ngày của con nhỏ. Để kéo dài thêm giờ phút ấy, nó đã dùng đến nhiều mưu mẹo.
Nó tìm cớ này cớ khác để ba Từ phải dừng lại. Một hôm, đứng trên cầu nó chỉ cho ba Từ coi bãi cát đỏ rực dưới ánh mặt trời lặn; một lần khác, những người thuyền chài đang cắm thuyền bên bờ sông để thổi nấu và ngủ đêm, một lần khác nữa, những làn sóng nhấp nhô vẽ lên mặt sông muôn nghìn hình ảnh linh động và rực rỡ. Có lần nó còn kéo bác Từ xuống tận mé sông để coi một tổ chim giẽ.
Hai cha con về tới nhà thì trời đã tối mịt. Con Hồng và con Hương thấy vậy rất ghen tức, nhưng vì có mặt bác Từ, chúng nó không dám nói năng gì cả. Đến khi cơm xong, vào phòng đi ngủ, chúng mới hành con nhỏ.
Vì vậy mà việc gì phải đến đã đến. Một buổi chiều kia, bác phó Từ mang về một cái băng đỏ lượm được ở sân trang trại và bác cho con Thủy để nó cột tóc. Không ngờ một tặng vật nhỏ như thế lại sinh ra to chuyện. Con Hồng con Hương và cả con bé Đào nữa đều sôi lòng ghen tức. Vào tới phòng, chúng vội tấn công Thủy:
- Phải, mày cần cái băng đỏ để trưng cho đẹp, nhưng còn khuya. Mà cái băng đó cũng chẳng đáng ba xu.
- Các chị đã ghen ghét với tôi, vì ba đã cho tôi, phải không?
- Ai thèm ghen ghét? Có liệng đi chúng tao cũng chẳng thèm nhặt. Mà sao từ sáng đến tối, lúc nào mày cũng nói ba Từ kể chuyện này, ba Từ kể chuyện kia vậy? Ba là ba Từ của chúng tao, chớ đâu phải ba của mày?”
Đứng bật dậy trên giường, Thủy nắm chặt hai tay hỏi:
- Các chị nói chi?
- Rằng mày không phải là chị em ruột thịt gì với chúng tao cả. Mười hai năm trước đây, người ta lượm được mày ở chiếc đò ngoài ven sông kia kìa. Thế mày không biết chuyện sao?
Các chị nó biết chuyện này cũng chưa được bao lâu. Hai tháng trước đây, một hôm trong cơn nóng giận, bác Từ gái đã kể hết điều bí mật đó cho mấy đứa con nghe và dặn chúng không được nói lại với ai nhất là với Thủy.
“ Chuyện bịa, chuyện bịa ”, Thủy gân cổ cãi lại.
Con nhỏ thét lên nổi tức giận của nó, nhưng các chị nó nói xa nói gần rằng nó chẳng giống ba, chẳng giống má, và chẳng giống chị em nào khác trong gia đình này cả.
Không chịu nổi nữa, Thủy òa lên khóc.
Nó khóc thút thít suốt đêm, bên cạnh bé Đào nằm cùng giường với nó.
“ Ta là đứa con bị bỏ rơi, nó vừa khóc vừa nhắc lại, không! Nhất định không phải thế, chắc vì ác ý mà họ nói vậy”.
Tuy nhiên, hình như một tiếng nói nhè nhẹ vang lên trong đầu nó bảo với nó rằng lần này các chị nó không nói dối. Nó nhớ lại cả ngàn chi tiết. Đúng là nó chẳng giống Hồng, Hương, Đào từ con mắt, cái mũi, cái miệng, đến cả tính nết và sở thích nữa.
Đêm đó, nó không thể nào chợp mắt được. Khi trời mới tản sáng, nó chùi hai con mắt đỏ ngầu vì nước mắt và rón rén trở dậy. Các chị nó vẫn còn ngủ. Xuống tới bếp, nó trông thấy trên bàn một chiếc đĩa không và biết rằng ba Từ đã mang gói cơm nắm đi làm rồi. Nó vội chạy theo, hy vọng đuổi kịp bác. Như một con điên, nó băng qua cầu, hai chân dẫm đất bị xây xát vì những hòn đá nhọn trên mặt đường. Tới trang trại nó thấy cổng đóng kín, nó ghé mắt nhìn vào trong, những con chó lớn thấy bóng người vội chạy ra sủa um sùm. Sợ quá, nó vội bước lùi lại, đứng nhìn thêm một lúc rồi đành lủi thủi bước đi, lần theo mấy con đường thị xã. Đi chán, nó thấy đầu nhức nhối vì cả đêm trước không ngủ, dạ dầy thì trống rỗng. Thất tha thất thểu, nó lên cầu để trở về, thỉnh thoảng phải dừng lại tựa vào lan can để nghỉ cho đỡ mệt. Về tới khu đồng ruộng trên đảo, nó vấp phải một rễ cây và ngã lăn xuống đất. Đau quá, nó ngồi dậy không nổi và cứ nằm thiêm thiếp một chổ. Mặt trời vẫn cứ từ từ di chuyển từ Đông sang Tây và sắp lặn xuống lòng sông. Thủy hồi tỉnh lại và dần dần mở mắt ra, nhưng nó không buồn đứng dậy để về nhà.
Rồi những ánh sao đã lấp lánh trên nền trời trong khi các ngọn đèn điện bên thị xã cũng lần lượt bật lên.
“ Giờ này chắc ba Từ đã về ”, nó nghĩ vậy, nhưng nó vấn không ngồi dậy, đầu óc nó chìm trong một trạng thái gần như ngủ.
Lúc gần khuya, bác Từ tay cầm một bó đuốc đã tìm thấy nó. Thủy vội chạy ra ôm lấy bác khóc nức nở và kể lể cho bác nghe câu chuyện xảy ra tối hôm qua.
Bác phó giận vợ con lắm, vì đã không kín mồm kín miệng, và bác vỗ về an ủi Thủy:
- Con biết rằng ba vẫn thương con và ba không bao giờ phân biệt giữa bốn đứa cả. Thế con chưa bao giờ đoán biết tất cả chổ đứng mà con đã chiếm trong lòng ba hay sao? Thủy ơi! Tại sao người ta nỡ làm cho con đau khổ như vậy? Nhưng ba nghĩ rằng có lẽ con nên biết rõ sự bí mật ấy thì hơn. Như vậy, nếp sống của con trong gia đình này sẽ dễ dàng hơn. Thôi, Thủy con, lau nước mắt đi và con nên cố quên sự đau khổ này!
Nói xong, bác phó kéo Thủy đi về.
Chương 3
Bác phó Từ đã nói đúng. Khi đã biết rõ điều bí mật về đời mình, Thủy thấy dễ thông cảm hơn với bác Từ gái và các chị nó, đồng thời dễ chấp thuận rằng nó không thể có đầy đủ các quyền lợi như các chị nó. Nhưng, ngược lại, mái nhà này đã không thấy nó ra chào đời thì đối với nó đã trở thành xa lạ. Và cảm thấy khi mình xa lạ trên một mảnh đất nào, người ta không còn thấy gì lưu luyến và muốn rời bỏ nó không sớm thì muộn. Hằng ngày, Thủy vẫn sống lang thang ngoài đảo, nhưng nhiều khi nó đứng trên cầu nhìn xuống dòng sông chảy cuồn cuộn, những chiếc ghe mành lướt qua, thì nó trút ra những tiếng thở dài não ruột. Đau khổ những ngày đầu, nay nó cảm thấy cay đắng và ác cảm với tất cả mọi người.
“ Ta đương trở thành tàn nhẫn, nó tự nghĩ với lòng hối hận, nhưng ta không cưỡng lại nổi. ”
Và, để vơi bớt nỗi hận đời, nó chạy như điên qua những bụi lau, ruộng cỏ trên đảo, hoặc nó nhẩy xuống nước mà bơi rất hăng say cho đến khi mệt nhoài, nó trở lên bờ nằm soài ra trên một phiến đá dưới ánh mặt trời.
Nhiều khi nó leo vào ngồi trong chiếc đò con đã mang nó tới chốn này từ mười hai năm trước. Chiếc đò tuy mỏng manh nhưng vẫn còn chắc chắn vì hằng năm bác phó Từ vẫn kéo lên bờ để sơn phết lại dưới đáy cho khỏi mục. Một hôm Thủy tự nghĩ:
“ Có lẽ con đò này vẫn đợi ta để một ngày nào đó sẽ đưa ta đi nơi khác?”
Điều khám phá này dần dần biến thành một sự thật. Con đò này đang đợi nó, và nó chỉ nghĩ đến chyện đi, đi thật xa.

Một buổi chiều kia, nó đang phơi củi cùng với má và các chị. Thừa lúc không ai để ý, nó lẩn ra mé sông. Con đò vẫn ngoan ngoãn nằm nguyên chổ cũ, cột vào một chiếc cọc trên bờ như một con dê non Thủy tự nghĩ: “ Đúng là nó đang đợi ta ”.
Tuy nhiên, trước khi bước xuống đò, nó còn đứng rất lâu về phía trang trại, nơi ba nó đang làm việc..
Sau một lúc do dự, nó nhất quyết tháo dây buộc ra, nhẩy xuống đò và đẩy ra xa. Mấy hôm trước vì mưa nhiều, nước sông chảy cuồn cuộn, làm ngập kín hết bãi cát và như vuốt ve mớ tóc dài của những cây lau trên bờ sông. Thuận đà, con đò cứ việc trôi theo dòng nước, nhờ Thủy biết cách điều khiển, Khi đã vượt qua mũi hòn đảo, con đò tiến vào dòng sông rộng. Chẳng mấy chốc, chiếc cầu Cao lãnh chỉ còn thấy nhỏ tí ở thật xa, như một mảnh vải căng lên nền trời.
Lúc đó, Thủy có một cảm giác lạ lùng, vừa ân hận vừa thích thú. Nó sẽ trôi về nơi đâu? Nó nghĩ đến ba Từ và trái tim nó thắt lại. Trễ quá rồi, chiếc đò cứ phải trôi xuôi dòng nước, nó không thể kháng lại được.
Nó đi được bao xa rồi? Có lẽ đến năm bảy cây số. Trời lúc đó đã gần tối, nước sông đã xuống màu. Bổng nhiên, khi đến một khúc quanh, chiếc đò bị luồng nước chảy xiết đưa tấp vào bờ. Thủy cố sức lái ra nhưng vô hiệu. Sau khi đụng vào bãi cát, chiếc đò bị mắc cạn trên bờ. Thủy vội nhảy xuống nước rồi vận hết sức bình sinh đẩy con đò ra nhưng không nổi. Nó bèn leo lên một mô đất cao để quan sát tứ phía. Chẳng thấy một mái nhà hay một bóng người nào cả, mà chỉ toàn là ruộng lúa và rừng cây. Ở thật xa, trong bóng hoàng hôn, nó nhận ra lờ mờ chiếc cầu và những mái nhà của thị xã Cao lãnh. Lúc đó chẳng có một con thuyền nào trên mặt sông để nó cầu cứu.
“ Đành vậy, nó tự nghĩ, ta ngủ đây đêm nay, rồi sáng mai sẽ kiếm người đẩy giúp chiếc đò cũng được. ”
Thủy đứng say sưa thưởng thức cảnh trời nước mênh mông trong buổi hoàng hôn. Ở phía chân trời, mây tím đã kéo lên và chạy dài như một giải Trường Sơn. Giữa cảnh vật đìu hiu hoang vắng, Thủy cảm thấy một nổi buồn man mác xâm chiếm tâm hồn của một kẻ lữ thứ không nhà, mà cảnh ngộ thật đúng với hai câu thơ của nữ sĩ Thanh Quan:
 
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
 
Đứng một lúc lâu, Thủy trở xuống đò. Thấy trong người mệt mỏi, nó ngã lưng nằm xuống, rút ra khúc bánh mì đã mang theo để nhấm nháp. Trên nền trời xanh thẳm, các vì sao nối tiếp nhau hiện lên. Nó thấy hình như ở đây trời nhiều sao hơn ở cù lao Reng.
“ Ta đã đi xa quá rồi, nó tự nghĩ, và mai đây ta lại càng đi xa hơn nữa. ”
Vừa ngây ngất vừa mệt mỏi, nó ngủ thiếp đi lúc nào không biết hai tay kê dưới đầu làm gối. Nó mơ thấy cảnh vật cù lao Reng và căn nhà cũ hiện ra trước mắt. Tai nó nghe thấy tiếng ba Từ gọi thống thiết và khuyên lơn nó trở về. Nó vừa khóc vừa nói: “ Thưa ba, con muốn lắm, nhưng con không làm sao được, vì dòng sông vẫn chảy về xuôi. ”
Sáng ra, khi mặt trời đã lên cao, nó mới bừng tỉnh dậy. Nó ngồi lên, dụi mắt, vươn vai như một con mèo xinh xinh sau giấc ngủ trưa.
Nó tính kéo chiếc đò xuống nước. Nhưng ban đêm, nước đã xuống hơn một tấc, nên chiếc đò bây giờ đã cắn chặt vào bãi cát. Kéo mãi không được, nó đi kiếm mấy viên đá tròn, luồn dưới đáy con đò để kéo như nó vẫn thường thấy những bác lái thuyền thường làm mỗi khi bị mắc cạn. Đang loay hoay bỗng nhiên nó dừng tay vì hình như nó nghe thấy tiếng người kêu cứu từ dưới sông vọng lên. Nó vội trèo lên mô đất cao để nhìn qua hàng cau, thì nó thấy một người đang chới với dưới nước cách đó vài chục thước:
- Chết chưa! Một người té sông sắp bị nguy!
Không do dự, nó vội chạy ra nhảy bổ xuống nước, rồi bơi hết sức nhanh để cứu người đó. Khi còn cách nạn nhân vài thước, nó lặn xuống sâu rồi độ 15 giây sau nó nhô lên ở phía sau người đó. Nó dùng một tay bơi còn một tay thò ra đỡ lấy cầm nạn nhân cho ngã người ra sau để mặt nổi lên khỏi mặt nước mà thở.
Lúc đó nạn nhân như đã kiệt sức và hơi mê man, hai tay buông xuôi để mặc cho số mạng. Nạn nhân nặng cân hơn Thủy khá nhiều nên việc cứu cấp rất chật vật. Để giữ cho mặt nạn nhân luôn luôn nổi trên mặt nước, Thủy phải bơi chìm đầu dưới nước, thỉnh thoảng mới ngoi lên để thở một hơi dài. Sau mười lăm phút phấn đấu với dòng nước chảy siết, Thủy đã dìu được nạn nhân vào bờ.
Vừa kiệt sức vừa mất tinh thần, người lạ mặt nằm nhắm mắt thiêm thiếp, ngực vẫn thoi thóp thở. Thủy nhận thấy đó là một thanh niên trạc 17 – 18 tuổi, trông ra vẻ một thư sinh con nhà lịch sự. Việc cứu cấp đã xong xuôi, Thủy cảm thấy bẽn lẽn muốn bỏ đi nơi khác. Nhưng thấy người lạ mặt chưa hồi tỉnh nên nó đành phải lưu lại thêm ít phút xem sao. Nó ngồi tựa vào một gốc cây cách đó vài thước để vừa nghỉ ngơi vừa canh chừng nạn nhân.
Sau một lúc lâu, nhờ có ánh mặt trời ấm áp, người đó tỉnh lại, từ từ ngồi lên trông thấy Thủy vội hỏi nho nhỏ:
- Có phải…cô bé đã cứu tôi? Bữa nay nếu không có cô bé, chắc tôi đã bị chìm sâu dưới đáy dòng Tiền Giang.
Thấy Thủy ngồi co ro dưới bóng cây, thanh niên vội nói:
- Cô bé ra đây ngồi dưới ánh nắng cho đỡ lạnh và quần áo mau khô.
Sau khi ngần ngừ một lát, Thủy làm theo.
- Ban nãy – thanh niên giải thích – tôi trèo lên cái cầu nhỏ đằng kia của những người thả vó, định ngồi câu. Chẳng may một tấm ván mục gẫy bất thần nên tôi bị rơi xuống sông và dòng nước đã cuốn tôi đi. Vì bơi rất kém nên tôi hoảng sợ, chân tay rối loạn, bơi vào bờ không nổi.
Rồi nhìn Thủy, thanh niên hỏi:
- Cô bé là ai mà lội hay quá vậy? Người ta đồn rằng con gái ở vùng này nhát nước lắm kia mà!
- Nước Tiền Giang là bạn rất thân của tôi. Thủy đáp:
- Tên cô bé là gì? Bao nhiêu tuổi?
- Tôi là Thủy, 12 tuổi
- Cô tên Thủy, thảo nào cô bơi giỏi là phải, “ Hậu sinh khả úy ”.
- Cậu nói gì tôi không hiểu?
- Tôi muốn nói rằng cô còn nhỏ tuổi mà đã làm được một việc phi thường.
- Tôi thấy chẳng có gì đáng kể.
- Có chứ, phi thường lắm chứ. Thử hỏi ở địa vị tôi mà thấy ai té sông thì tôi làm được trò trống gì, hay chỉ đứng ngó hoặc quá lắm là kêu người ta đến cứu mà thôi? Thật là vô tích sự.
- Chắc cậu không năng tập luyện.
- Vâng đúng. Có một điều làm tôi thắc mắc là lúc ở dưới sông khi cô bé bơi ra còn cách tôi vài thước thì bổng cô biến mất là tại sao. Lúc đó tôi thấy hoàn toàn tuyệt vọng.
- Cậu không hiểu thật à? Đó là bí quyết trong việc cứu người chết đuối. Nếu mình cứ tiến thẳng đến trước mặt để nạn nhân trông thấy thì, trong lúc hoảng kinh, nạn nhân sẽ túm chặt lấy mình, gỡ ra không nổi, cả hai người sẽ chìm xuống đáy sông, gây ra một vụ chết đuối “cá mập”.
- Úi trời! Khủng khiếp! Hôm nay cô bé đã cho tôi một bài học vô cùng quý giá. Hè này, tôi quyết phải tập bơi cho thật giỏi. không thì xấu hổ chết đi được.
Lúc này thấy mình đã bạo dạn hơn, thanh niên hỏi tiếp:
- Nhà Thủy có ở gần đây không?
- Tôi là kẻ không nhà.
Thanh niên quay lại nhìn Thủy với đôi mắt đầy ngạc nhiên:
- Ủa, thế thì Thủy làm gì ở đây?
- Tôi đi phiêu lưu bằng một chiếc đò con đậu ở sau bụi sậy, cách đây vài chục thước.
- Đi phiêu lưu một mình trên dòng Tiền Giang, thế Thủy không sợ?
- Không!
- Thủy đã cứu mạng tôi, tôi sẽ suốt đời nhớ ơn Thủy và tôi muốn làm một điều gì để Thủy được vui lòng.
Thủy mỉm cười:
- Tôi chỉ muốn cậu giúp tôi đẩy chiếc đò kia xuống nước mà thôi.
- Điều đó quá dễ. Nhưng Thủy muốn đi về đâu?
- Đi xuôi dòng sông.
- Có xa không?
- Xa, xa lắm.
Lúc đó, ánh mắt Thủy có một vẻ dịu dàng pha lẫn vẻ kiêu hãnh và dường như che dấu một điều gì bí ẩn, làm cho chàng thanh niên rất xúc động.
- Thủy đi tận đâu vậy? Về Sadec, Vĩnh Long hay Cái bè, Mỹ Tho?
Thủy ngoảnh mặt đi không đáp, rồi vùng đứng dậy chạy tới chổ để con đò.
- Trời ơi! Với một con đò bé nhỏ thế này mà Thủy dám xông pha trên dòng Tiền Giang sao?
- Cậu mặc tôi, tôi sẽ kéo đò xuống sông một mình cũng được.
Rồi nó nắm lấy chiếc thừng hết sức kéo. Nhưng chiếc đò đã gắn chặt vào cát, không nhúc nhích. Mặc dầu Thủy không muốn nhưng chàng thanh niên vẫn đến giúp sức. Chàng lớn con khỏe mạnh nên, sau vài phút, chiếc đò đã được đẩy phăng xuống nước. Nhưng trước khi Thủy bước vào đò, chàng giữ lại nói:
- Không, Thủy không thể đi như thế trước khi cho tôi biết Thủy từ đâu tới và sẽ đi về đâu. Thế Thủy không coi tôi là một người bạn sao?
Bổng Thủy ôm mặt và òa lên khóc.
Ngạc nhiên, chàng thanh niên nhìn Thủy với vẻ mặt lo lắng. Rồi chàng ngồi vào đò cạnh Thủy.
- Có chuyện chi vậy, Thủy? Sao Thủy không chịu nói? Tuy mới quen biết nhưng Thủy nên coi tôi như người bạn cố tri.
Trước thái độ thành khẩn của chàng thanh niên, Thủy bèn thổ lộ:
- Cậu muốn biết tôi là ai?...Tôi không có cha có mẹ. Bác phó Từ, làm việc ở trang trại của ông Hội đồng Hải ở Cao Lãnh, đã nuôi nấng tôi. Bác đã lượm được tôi một buổi sáng cuối thu trong con đò này và từ chiều qua tôi cùng nó đã từ giã đảo Reng mãi mãi. Còn cậu, cậu là ai?
- Tôi là Thái Xuân Sơn, con cả ông Hội Đồng Hải, năm nay tôi 18 tuổi.
- Chết chửa tôi xin lỗi cậu.
Sơn cả cười:
- Thủy xin lỗi gì?...Xin lỗi đã cứu tôi khỏi xuống chầu Vua Thủy Tề hay sao?
- Ấy không…nhưng tôi không được biết cậu là con ông Hội Đồng.
- Con ông nào đi nữa, mà té sông suýt mất mạng cũng chỉ là một đứa con trai vô tích sự như tất cả những đứa con trai khác mà thôi chứ…Bây giờ Thủy cho tôi biết Thủy định đi đâu bằng chiếc đò này?
- Tôi cũng chẳng rõ nữa.
- Vậy tôi thành thật khuyên Thủy, ở cái tuổi này, chẳng nên phiêu bạt vô bờ bến như thế. Nên trở về nhà là hơn.
- Nhưng về nhà tôi sợ bị la. Mà còn chiếc đò này thì tính sau?
- Tôi sẽ cho người tới mang về đảo cho Thủy.
Nó ngồi im lặng. Một lát sau nó mới quay lại hỏi Sơn:
- Tại sao cậu muốn ngăn cản tôi, không để tôi đi?
- Thế cù lao Reng không có gì đáng lưu luyến hay sao? Thủy không thương mến một người nào hay sao?
- Chẳng ai thương mến tôi cả trừ bác Từ.
- Thế Thủy không thấy khổ tâm khi từ giã bác?
- Có chứ, khổ tâm rất nhiều.
Sơn đã đánh trúng nhược điểm. Thật vậy, nếu Thủy thấy ân hận, đó là vì bỏ đi mà không một lời từ giã bác phó. Nó cúi đầu suy nghĩ. Bổng nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Ban nãy Sơn đã hỏi có thể làm được điều gì cho Thủy. Nhưng chính Thủy không cần chi cả, mà người cần được giúp đỡ là bác phó Từ, vì công việc của bác tại trang trại sắp hết và bác cần có công việc khác để nuôi sống gia đình.
Cúi nhìn những viên sỏi ở mé sông, Thủy thở dài não ruột và quyết định nói với Sơn ý muốn của mình.
- Thưa cậu, nếu cậu có thể nói với ông Hội Đồng cho ba Từ một việc làm ở trên xưởng Lái Thiêu thì tôi rất sung sướng.
- Được, được, Thủy cứ yên tâm, tôi sẽ nói nhưng với một điều kiện là Thủy phải trở về cù lao Reng cơ.
Rồi đôi bạn lên bờ, đi bộ độ vài chục bước thì đến chỗ đậu chiếc xe Honda của Sơn.
- Ngồi sau xe này Thủy có sợ không?
- Tôi chưa ngồi bao giờ, nhưng chắc tôi không sợ.
Và Thủy nói tiếp:
- Tôi chỉ sợ cậu mà thôi.
Sơn bật cười rất giòn và ngồi lên đạp ga. Xe khởi hành như bay, tung bụi mù ở phía sau. Nửa tiếng trôi qua, hai người đã về tới cù lao Reng và Sơn từ giã Thủy để về trang trại.
Chương 4
Thấm thoát đã đến tháng mười mùa gặt đã xong xuôi, nước Tiền Giang lờ đờ chảy để lộ ra những bãi cát dài.
Thủy ngồi bên bờ sông, mắt mơ mộng nhìn về phía trang trại.
“ Hai tháng đã trôi qua nó thở dài lẩm bẩm, mà ta không hề gặp lại cậu ta.”
Nhiều khi Thủy băng qua cầu, đi về phía trang trại để đón bác Từ, với hy vọng gặp lại chàng thanh niên mà Thủy đã cứu thoát chết trên sông Tiền Giang ngày nào.
Hỏi thăm ba Từ thì ba cho biết chỉ nghe phong phanh là cậu Sơn đã trở lên Sàigòn từ hai tháng nay rồi. Thủy buồn rầu nghĩ:
“ Chắc hẳn cậu ấy đã quên ta rồi; ta chỉ là đứa con một gia đình quê mùa…mà cũng chưa được như thế, ta chẳng là con ai cả. Tuy nhiên, hồi đó, cậu ấy đã tỏ ra rất tử tế và coi ta như một người bạn cố tri. Chắc cậu ấy đã quên ta…Và ta lo rằng cậu ấy quên luôn cả vấn đề của ba Từ với ông Hội Đồng”.
Nhưng một buổi chiều kia, khi Thủy lên đầu cầu để đón bác Từ, nó thấy mặt bác lộ vẻ hân hoan.
- Ba có chuyện gì vui quá vậy? Thủy hỏi.

- À, ba… ba… mới gặp được một điều may mắn mà chưa bao giờ ba dám nghĩ tới. Số là bữa nay ông Hội Đồng đã cho gọi ba và bảo cho biết là hồi này công việc ở trang trại đó hoàn tất nên ông đã chọn ba làm quản lý cho xưởng Lái Thiêu của ông. Mới đầu ba tưởng là ông nói chơi cho vui, nhưng đúng là sự thật.
Thủy không đáp, không cho ba Từ hay điều bí mật của nó. Nó cảm thấy rất vui cậu Sơn đã giữ đúng lời hứa và cậu đã không quên con bạn nhỏ này. Nhưng trái tim nó thắt lại khi nghĩ rằng một khi ba Từ lên Lái Thiêu, nó sẽ phải sống một mình ở nhà với bác gái và các chị nó.
- Thưa ba con rất sung sướng được nghe tin này.
- Phải, ba rất vui, và ba cũng rất được yên lòng lên Lái Thiêu, vì ông Hội Đồng sẽ ứng trước cho mấy tháng lương để má và các con chi dùng ở nhà.
Rồi đặt tay lên vai Thủy, bác nói:
- Thủy, con cứ yên tâm ở nhà, trước khi ba đi ba sẽ dặn má và các chị phải thề rằng, sẽ đối xử thật tử tế với con.
Thủy cúi đầu, cắn môi để khỏi bật lên tiếng khóc. Nó không muốn làm giảm niềm vui của ba Từ.
- Con sẽ đợi khi nào ba thu xếp xong, gia đình ta sẽ lên đó. Thủy nói. Lúc ấy thì nó rất tin tưởng rằng nó sẽ có thể chờ đợi được.
Ngày khởi hành đã đến. Bác phó Từ giã vợ con để lên đường, lòng chứa chan hy vọng về một tương lai tốt đẹp.
Tối hôm đó, Thủy trằn trọc mãi không ngủ được, kéo chăn lên kín đầu nó khóc thầm suốt đêm. Sáng hôm sau, khi thức dậy, nó thấy cổ họng khô khan, mí mắt nóng lên. Nó cố làm ra vẻ tự nhiên để các chị nó khỏi chế nhạo sự đau khổ của nó.
Hôm sau nữa là chúa nhật. Thường thường trong ngày đó bác Từ nghĩ việc và dùng cơm ở nhà với vợ con. Bác ngồi đầu bàn cạnh Thủy. Để nghĩ rằng bác vẫn còn ở nhà, nó vẫn bày bát đũa của bác Từ ở chổ cũ trên bàn, như là bác sắp trở về vậy.
Con Hương nhún vai nói với một giọng mỉa mai:
- À phải, bộ mày tưởng rằng làm như vậy là ba sẽ về hả? Còn khuya. Thôi, tốt hơn cô nên nghĩ đến chuyện khác và hà tiện nước mắt đôi chút cho chúng tôi nhờ. Còn khuya mới có ba bên cạnh mày để an ủi mày.
Nghe vậy Thủy tái mặt đi. Nó hiểu rằng những ngày kế tiếp sẽ đánh dấu bằng những chữ thập đen. Nó ngồi lặng một lúc trước bát cơm, để phấn đấu với sự đau khổ. Rồi đột nhiên, nó đứng dậy chạy thẳng ra ngoài đảo, chui vào cái lều bằng cành cây mà nó mới dựng lên mấy ngày trước, để che dấu niềm đau khổ vô biên đang làm tan nát tâm hồn.
Nằm trên đống lá khô, nó đếm những ngày những tháng. Phải ít ra gần hai trăm ngày nữa ba Từ mới trở về để đón gia đình lên Lái Thiêu. Như vậy quá lâu. Một lần nữa, nó lần bước ra chổ buộc con đò.
“ Ra đi! … Ta quyết phải ra đi ”.
Nhưng nó chợt nhớ lại vẻ mặt cậu Sơn, nghe thấy tiếng cậu hỏi: “ Thủy định đi đâu? Rồi Thủy sẽ ra sao? ”. Mắt nó nhìn theo giòng nước Tiền Giang. Nó nhớ lại lần trước, trên con đò này, nó đã định đi thật xa nhưng đã bị mắc cạn. Nên nó phải đành bỏ ý định dùng con đò này để đi phiêu bạt một lần nữa.
Nó lủi thủi ra về, và sau một đêm suy nghĩ, nó quyết chí đi Lái Thiêu tìm ba Từ và lần này nó sẽ dùng đường bộ.
Chương 5
Từ giã cù lao Reng, Thủy không có đến một cắc trong túi. Nó phải nghĩ ngay đến vấn đề kiếm ra một số tiền nhỏ làm lộ phí để đi Lái Thiêu. Qua cầu tới Thị xã Cao Lãnh, nó thơ thẩn bước theo mấy phố đông đúc để tìm cơ hội may mắn.
Đi tới một khu nhà đang xây cất, nó thấy rất đông thợ đang làm việc trong đó có một số phu hồ cùng lứa tuổi của nó đang gồng vôi, gánh cát khuân gạch. Nó bèn mon men đến chổ ông cai thầu đang đứng chỉ huy công việc, để xin một chân phu hồ. Ông cai ngắm nó từ đầu dến chân, thấy nó óc dáng thông minh lanh lẹ thì tỏ vẻ ưng ý. Nhưng đến khi biết nó chỉ xin làm vài ngày thì ông lắc đầu:
- Bác rất tiếc, nếu cháu có thể làm ít nhất trong hai tháng thì bác cho việc ngay, chớ làm vài ngày không bõ, bác phải kiếm người khác. Nó tần ngần cáo từ để đi nơi khác. Qua hết khu đông đúc, nó tiến vào một con đường vắng vẻ hơn, đang vừa đi vừa suy nghĩ, nó chợt thấy một bà đang đứng tựa cửa, hai tay bồng hai đứa nhỏ. Vẻ mặt như trông đợi ai. Nó bèn dừng lại, lưỡng lự một lát rồi đánh bạo lại gần hỏi:
- Thưa bác có việc gì cháu có thể giúp bác được không ạ?
Bà kia vui vẻ đáp:
- Bác đang đợi chị Tư gánh nước, vì nhà hết nước từ hai ngày nay mà chị không tới. Bác một nách hai con nhỏ mọn, không bỏ cho ai được để đi gánh đỡ.
- Bác để cháu gánh giúp. Nhà có thùng không ạ?
- Có thùng đó, nhưng cháu gánh được à?
- Vâng, được.
Bà Lý chủ nhà mừng lắm, dẫn Thủy vào trong lấy thùng, máy nước cách nhà độ năm chục thước. Đã quen với công việc nặng nhọc, nên việc gánh nước đối với Thủy không có gì khó khăn. Trong ngày hôm đó nó đã gánh được đầy bể nước, bà Lý trả cho nó ba trăm đồng. Chồng bà Lý là một hạ sĩ tại ngũ đóng ở nơi xa, nên gia đình cũng eo hẹp. Bà rất muốn giữ Thủy ở lại để giúp đỡ công việc trong nhà, nhưng khổ nỗi bà không đủ đồng tiền để trả công.
Tối hôm đó Thủy nghỉ tạm ở nhà bà Lý. Sau một ngày làm việc vất vả nó đặt mình xuống giường thấy dễ chịu, thoải mái. Lần đầu tiên trong đời nó kiếm được tiền bằng sức cần lao nên nó cảm thấy một niềm vui giản dị và trong sạch. Vài phút sau, nó đã ngủ một giấc thật say với những giấc mơ đẹp. Sáng hôm sau, nó trở dậy thấy trong người khoan khoái và nó khám phá ra rằng sự làm việc chắc có thể giúp nó tránh được những nổi u sầu và những đêm dài trằn trọc.
Những nhà lối xóm cũng bị thiếu nước vì vắng chị Tư, nên bà Lý đã giới thiệu Thủy đến gánh nước dùm. Sau ba ngày làm việc, Thủy đã kiếm được trên một ngàn bạc, đủ số tiền lộ phí để đi Lái Thiêu. Nó bèn từ giã bà Lý để lên đường, hẹn ngày tái ngộ.
Cuộc hành trình bằng xe đò cũng được suông sẻ. Sau khi đổi xe một lần tại Mỹ Tho và một lần tại Sàigòn, Thủy tới Lái Thiêu vào lúc ba giờ chiều. Nó bèn vội vã đi hỏi thăm, và chẳng mấy lúc xe xe đã đưa nó tới xưởng mỹ nghệ của ông Hội Đồng Hải.
Trông thấy Thủy bác Từ rất ngạc nhiên nhưng không giấu được nỗi vui mừng. Bác thấy yên lòng sau khi hỏi tin tức gia đình. Nghe Thủy kể lại nếp sống khó thở ở cù lao Reng trong khi bác vắng nhà, bác Từ đành phải chấp thuận cho Thủy ở Lái Thiêu, chớ không có cách gì hơn nữa.
Ngày ngày bác đi làm, Thủy ở nhà lo cơm nước, đời sống của hai cha con rất được yên vui. Nhất là về mặt tinh thần, Thủy cảm thấy tâm hồn được nhẹ nhõm, tuy nhiên, trong cảnh một chốn đôi nơi, bác Từ thấy nhớ vợ, nhớ con và thường ước mong sớm đến ngày có thể đón gia đình lên đây xum họp. Bác còn phải để dành tiền để sang một căn nhà cho gia đình.
Một hôm, Thủy nhớ lại hồi trước biết bao lần nó đã xin bác Từ cho vào xem trang trại của ông Hội Đồng nhưng không được phép, nên nó hỏi:
- Ba ơi! Bữa nào ba cho con vào xem xưởng mỹ nghệ đi ba.
- Ừ được, bữa nào ba cho con đi.
Hai ngày sau, Thủy được ba nó dắt đi coi xưởng. Nó có cảm tưởng như lạc vào động thiên thai. Những bức sơn mài vĩ đại, những đồ khảm xà cừ, những đồ chạm trổ, ngà voi, những bức tượng, những đồ gốm.v.v… được bày biện trong mấy dãy nhà rộng rãi, không khác gì một khu triễn lãm, hàng ngày rất đông khách vào xem để đặt hàng.
Chiều về, cơm nước xong, có ông hàng xóm qua thăm bác Từ. Sau khi chuyện vãn một hồi, hai người nói đến chuyện xưởng mỹ nghệ. Bác Từ nguyên có căn bản học vấn cũng khá, lại có tâm hồn nghệ sĩ và rất say mê nghệ thuật. Từ ngày bác về làm quản lý xưởng này bác chú tâm nghiên cứu vấn đề nên bác hiểu rất rành rẽ, ông khách hỏi:
- Bác Quản ơi! Tôi nghe danh xưởng mỹ nghệ này từ lâu, mà chưa hiểu hoặt động ra sao. Những đồ mỹ thuật trong xưởng chế tạo là công trình của ai vậy?
- Dạ, thưa bác, đó là công trình của nhiều người lắm. Đây là một sự hợp tác rộng lớn giữa những nhà họa sĩ, điêu khắc, thợ chuyên môn. Xưởng này phát đạt chính là nhờ ở sự hợp tác đó.
- Lý do vì sao, thưa bác?
- Thưa, vấn đề rất dễ hiểu. Trừ một thiểu số đã có tên tuổi, còn phần đông các mỹ thuật gia chỉ giàu về nghệ thuật, nhưng lại ngèo về tiền tài. Nếu họ hành nghề độc lập, như lẽ tự nhiên ai ai cũng ước muốn, thì rất khó đạt được kết quả. Vì một khi phải lo đến việc sinh sống hằng ngày cho bản thân và gia đình thì tài ba rất dễ bị mai một, và có thể đi đến chỗ giải nghệ.
Xưởng của ông Hội Đồng Hải nhờ được trường vốn nên các mỹ thuật gia có thể yên chí phụng sự cho nghệ thuật mà khỏi lo đến vấn đề vật chất hàng ngày. Cho nên xưởng này không khác gì một hợp tác xã sản xuất.
- Thưa bác, đã có những nhà mỹ thuật, sao trong xưởng còn cần thợ chuyên môn?
- Ấy, thưa bác, cần lắm chứ. Tôi nói thí dụ: một bức sơn mài. Trước hết nhà họa sĩ phải sáng tác ra một bức vẽ, bố cục phải vững vàng, nét vẽ phải điêu luyện, tinh vi. Đến khi thực hiện phải giao cho thợ sơn mài, vì công việc làm tốn nhiều thì giờ lắm. Trong khi đó nhà họa sĩ vẫn phải theo dõi và giúp đỡ những khi cần đến, đồng thời lại có thể sáng tác những vấn đề khác. Nếu họa sĩ phải làm cả công việc mài sơn thì còn thời giờ đâu mà sáng tác nữa?
- Thế những đồ mỹ thuật chế tạo ra bán đi đâu, thưa bác?
- Dạ, phần lớn xuất cảng ra ngoại quốc. Đây là một nguồn lợi đáng kể cho quốc gia. Không những thế trong những cuộc triễn lãm quốc tế đồ mỹ thuật Việt Nam rất nổi tiếng, mang phần vinh dự về cho nước nhà.
- Các nước thiếu gì máy móc tinh vi, người ta không chế ra đồ đẹp hay sao?
- Thưa bác, đồ mỹ thuật phải cần đến khối óc sáng tác và bàn tay khéo léo của người, máy móc không làm nổi. Chính vì thế mà đồ của ta mới được yêu chuộng trên trường quốc tế.
- Các đồ mỹ thuật mắc tiền như vậy, sao vẫn có người tiêu thụ, thưa bác?
- Dạ, thưa nó rất quan hệ cho đời sống của con người. Chúng ta nên mừng rằng mặc dầu văn minh vật chất đã lan tràn mạnh, nhưng khi trái tim người ta vẫn rung động trước một bức tranh đẹp, một cuốn sách hay, thì loài người cũng chưa đến nỗi nào. Đó là những giá trị tinh thần có thể làm cho những dân tộc trở nên hiền hòa, đạo đức, bác ái. Loài người phải bảo vệ những giá trị nó.
- Dạ, bữa nay được bác giải thích tường tận, tôi mới hiểu. Xin cảm tạ bác rất nhiều.
Chuyện vãn một hồi nữa, khách cáo từ ra về.
Chương 6
Thủy lên Lái Thiêu thấm thoát đã được hai tháng. Một buổi sáng, đang khi sửa soạn đi làm, bác Từ thấy mặt mày xây xẩm muốn ngã. Thủy sợ quá, vội chạy lại đỡ bác và cố dìu tới giường nằm. Mắt bác nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp.
Thủy cuống quít không biết làm thế nào, chạy đi kiếm lọ dầu gió để thoa cho bác. Bác vẫn nằm lịm, Thủy vừa khóc vừa gọi:
- Ba ơi ba, ba làm sao thế ba?
Một lúc lâu, bác mở mắt, thở mạnh một cái rồi nói yếu ớt:
- Thủy con, ba thấy trong người mệt quá, có lẽ ba sắp chết và ba rất lo lắng cho con.
- Không, thưa ba, con đi kiếm thầy thuốc bây giờ và ba sẽ khỏi ba ạ!
Ba Từ lắc đầu chậm rãi đáp:
- Thủy con, trước khi ba chết, ba phải nói cho con rõ sự bí mật về đời con.
- Ba đã nói hết với con rồi kia mà!
- Chưa…chưa hết… Sau khi mang con về nhà được vài ngày, ở dưới đáy thuyền ba đã thấy…
Bác Từ ngưng lại như bị hụt hơi. Thủy ghé tai gần lại và nhắc:
“ Ba đã thấy …
- Dưới tấm ván… một chiếc… một chiếc…

Thủy cố lắng tai nghe, nhưng không rõ, và tự hỏi không biết có phải bác nói mê. Chắc không phải, vì tuy bác quá yếu sức nhưng rất tỉnh táo. Thủy chăm chú nhìn môi bác để cố đoán những lời bác nói lắp bắp, và nghe hình như là chữ hộp.
- Hộp nào, thưa ba?
- Ở đó… cây đa to… cái hốc.
- Ba muốn nói gì ạ?
- Chiếc hộp… cái hốc… ở đó.
- Ở đó… ở cù lao Reng?
Bác Từ chớp chớp mắt như ý gật đầu, vì môi bác không còn mấp máy được nữa.
Vừa lúc đó, một vị y sĩ tới, do bà hàng xóm mới giúp. Sau khi khám bịnh, vị y-sĩ cho biết không thể cứu chữa được vì bệnh nhân bị đứt mạch máu.
Rồi bác Từ lịm đi, một lát sau bác trút hơi thở cuối cùng.
Vừa bàng hoàng, vừa đau khổ, Thủy nhờ bà hàng xóm đi báo tin cho sở biết. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của nhân viên trong sở, hôm sau bác Từ gái đã lên tới Lái Thiêu, và đám tang được tổ chức chu đáo.
Công chuyện xong xuôi, bác Từ gái trở về cù lao Reng, còn Thủy tạm ở lại để thu xếp mọi việc.
Bác Từ mất đi, Thủy không còn một tí gì trên đời nữa, ngoài tình bạn của cậu Sơn. Nhưng hiện giờ cậu ở đâu, Thủy nào có biết?
Mấy ngày kế tiếp, trong căn nhà tang tóc vắng lạnh, Thủy như bị tinh thần sụp đổ, không hiểu thân phận mình sẽ ra sao.
Thủy nhớ đến lời trối trăng của ba Từ. Cái hốc? Cây đa? Cái hộp? Nó chứa đựng điều gì?
Thủy tự nghĩ hay bây giờ về cù lao Reng. Nhưng khi nhớ đến không khí trong căn nhà cũ và sự đối đãi của bác Từ gái và các chị, nó lại thấy e ngại. Nên nó đành tạm ở lại Lái Thiêu rồi sau này sẽ tính.
Việc đầu tiên của Thủy là kiếm việc làm. Nhờ có người quen giới thiệu, nó được nhận vào phụ giúp cho bà Thảo, nữ quản gia ở nhà bà Phủ Thạch.
Bà Thảo nguyên là người họ xa với bà Phủ, đã làm quản gia trong gia đình này được vài chục năm. Nay bà đã gần sáu mươi tuổi, sức khỏe bắt đầu suy kém, nên bà cần có người phụ giúp.
Buổi đầu vào làm, bà Phủ bảo Thủy:
- Dì Thảo sẽ chỉ dẫn công việc cho con, và con phải giúp đỡ gì trong mọi công chuyện trong nhà. Sau này, khi con đã quen rồi, bà sẽ sai đi đây đó.
Thoạt đầu, dì Thảo lo vấn đề y phục cho Thủy, vì những bộ đồ nó đang mặc trông xuềnh xoàng quá, không xứng với một gia đình sang trọng.
Dì Thảo đối xử với Thủy rất tốt, không khác gì một người mẹ. Và con nhỏ cũng rất quấn quít bà. Trong sự quấn quít này, không phải chỉ có lòng cảm kích mà là một sự yêu thương chân thật, đối với gì Thảo cũng như đối với bác Từ lúc sinh thời, con nhỏ tự thấy nó rất ngoan ngoãn dịu dàng.
Bà Phủ Thạnh làm chủ một dinh cơ lớn, một biệt thư khang trang, những vườn cây ăn trái và vài trăm mẫu ruộng. Nhờ có óc thông minh, tháo vát và sức khỏe bền bỉ, Thủy làm công việc luôn luôn được chu đáo. Từ việc nhỏ lớn hằng ngày trong gia đình, đến việc trông nom vườn trại ruộng nương đều đâu ra đó, việc thâu hoạch ngày mùa cũng không bị mất mát hao hụt. Bà Phủ rất hài lòng, và nhất là dì Thảo không những hài lòng mà còn thấy hãnh diện, vì dì đã có công đào tạo và hướng dẫn Thủy thành một mẫu người hoàn toàn. Kết quả đó một phần lớn là do tình thương mến giữa hai người đồng cảnh ngộ, hợp tính nết, thương nhau như thể ruột thịt.
Trong tương lai, nếu không có gì thay đổi tất nhiên một ngày kia Thủy sẽ nối nghiệp dì Thảo trong nhiệm vụ quản gia cho bà Phủ Thạnh.
Kế bên nhà bà Phủ Thạnh là một gia đình nhà bà Bích Trà, em họ bà Phủ, cũng thuộc giới giàu có, đối với bà Thảo là nơi họ hàng nên cô Mỹ, con bà Bích Trà, thường hay sang chơi với bà Thảo và Thủy.
Tuy công việc hằng ngày rất bận rộn, nhưng Thủy hoat động rất hăng say, và cảm thấy mình yêu đời vì được sống trong một không khí thân mật gia đình với sự thương mến của mọi người chung quanh, nhất là của dì Thảo.
Chương 7
Thủy ở nhà bà Phủ Thạnh thấm thoát đã được hai năm.
Một bữa kia, trong khi vui câu chuyện, nó hỏi dì Thảo:
- Dì ơi, cháu không hiểu sao dì cứ luôn luôn cưng chiều cháu hả dì?
Dì Thảo mỉm cười và để thay thế câu trả lời, dì kể lịch sử của dì cho Thủy nghe:
- Xưa kia, chính dì cũng đã bị đau khổ. Thân mẫu dì, mà dì rất yêu quý, đã mất khi dì còn nhỏ tuổi. Vài năm sau, ba dì đã tục huyền với một thiếu nữ suýt soát với tuổi dì. Chẳng bao lâu, người này đã tỏ ra ghen ghét với lòng thương mà ba vẫn dành cho dì. Đời sống lúc ấy đối với dì thật là khó thở nên một hôm dì đã bỏ nhà ra đi. Dì tới Lái Thiêu này và vào giúp việc cho nhiều gia đình quyền quý trước khi vào làm quản gia cho bà Phủ. Bây giờ thì chắc cháu đã hiểu tại sao dì rất thương mến cháu rồi chứ.
- Vâng, đời của dì cũng gần giống như đời của cháu vậy. Dì cũng đã đau khổ như cháu.
- Phải, như cháu vậy.
Thủy nhìn bà Thảo hỏi:
- Thế bây giờ, dì còn đau khổ nữa không?
Bà quản gia tóc bạc phơ mỉm cười đáp rất dịu dàng:
- Với thời gian, người ta cũng quen dần và chấp nhận cuộc đời như nó đến với ta. Bà Phủ ở đây rất tin cẩn và trọng đãi dì, nếu dì kêu khổ thì dì sẽ là người không biết điều tí nào cả.
Thủy thở dài:
- Có lẽ sau này cháu cũng sẽ thành một nữ quản gia như dì đó.
- Ồ, dì không chúc cho cháu như vậy đâu. Sống độc thân suốt đời không phải lúc nào cũng vui đâu… Thế sau này, cháu không muốn lấy chồng hay sao?
Thủy đỏ mặt cúi đầu, đượm một nét buồn sâu xa.
- Cháu sao vậy? Dì Thảo hỏi, cháu không ưng điều đó sao? Cháu sắp mười lăm mười sáu tuổi, sắp thành một thiếu nữ rồi, thì một ngày kia…
- Thưa dì, ngày đó sẽ không bao giờ tới. Những đứa con gái không cha không mẹ như cháu, thì làm sao mà lấy chồng…Nhất là mặt lại xấu xí như cháu?
- Bậy nào! Ai bảo rằng cháu xấu xí?
Ở cù lao Reng các chị nó thường nhắc là mặt nó chẳng có tý duyên dáng, tay chân thì gầy gò nên con nhỏ cứ yên chí là nó rất xấu xí.
- Thôi đi cháu, dì Thảo nói, cháu làm điệu hay cháu thật tình nghĩ như vậy?
- Thưa dì, cháu nói thật tình mà.
Bà quản gia nhìn Thủy một lúc lâu và hiểu nó không nói dối. Bà bèn đi kiếm lược, bàn chải, kéo và kim gài tóc rối bắt đầu làm bộ tóc cho Thủy. Có đôi bàn tay khéo léo và khiếu thẩm mỹ bà rất rành về nghệ thuật sửa soạn bộ tóc cho thích hợp với khuôn mặt của mỗi người. Sau một hồi lâu chải cắt, uốn, kẹp, bà chìa cho Thủy một chiếc gương và soi. Con nhỏ nhìn trong gương và rất ngạc nhiên trước sự biến đổi của nó nhưng chưa dám tin hẳn?
“ Bộ tóc không phải là tất cả, dì Thảo nói. Nó lại chẳng có nghĩa lý gì nếu nét mặt vẫn giữ vẻ đăm chiêu, khóe mắt vẫn đượm niềm khắc khổ. Thủy! Cháu thử mỉm cười đi… Không, không phải thế…Cháu phải mỉm cười như cháu đang có hạnh phúc sự thật kia. Mà hiện bây giờ cháu không phải là người có hạnh phúc hay sao? Cháu được ăn uống thỏa thích khi đói lòng, cháu được sống trong một biệt thự nguy nga, và luôn luôn có dì ở bên cạnh để làm cho cháu cản thấy rằng, mặc dầu cháu đã gặp phải những điều bất hạnh nay vẫn có người luôn luôn nghĩ đến cháu và thương mến cháu”.
Ngượng ngùng, Thủy cúi đầu, rồi nó từ từ ngẩng lên nhìn dì Thảo. Bây giờ vẻ mặt nó bổng tươi hẳn lên như một đóa hoa mới nở.
- Không cháu đừng có nhìn dì, bà Thảo nói, mà cháu phải nhìn vào trong gương đó.
Tới đây, bỗng Thủy như thấy một phát hiện rất lạ lùng. Trong gương nó thấy không phải hình ảnh của chính nó mà là hình ảnh của một Thủy nào khác, chưa hề quen biết bao giờ. Nó vội quay lại phía sau để bắt gặp người thiếu nữ nào đang đứng sau lưng nó để nhìn qua vai nó vào tấm gương. Nhưng nó đã lầm, khuôn mặt trong gương không phải của ai khác, mà chính là của nó, của một Thủy tươi cười, duyên dáng, đẹp đẽ, phải, rất đẹp.
Trong sự ngỡ ngàng và cảm động, con nhỏ vội ôm chầm lấy dì Thảo và òa khóc vì sung sướng.
Chương 8
Cứ mỗi năm đến kỳ hè hoặc tết Nguyên đán, bà Phủ Thạnh lại lên Đà Lạt để thăm cậu con trai, nhân dịp để nghỉ ngơi và hưởng cái khí hậu mát mẻ của vùng cao nguyên. Nhưng bà thích Đalat nhất là có thể ngồi cả ngày chung quanh chiếu tổ tôm mà không biết mệt.
Bà Phủ có một người con trai duy nhất, cậu Vinh năm nay hai mươi tuổi, vẫn học tại Đalat từ hai năm trước.
Ở mãi Đalat trong mấy năm liên tiếp, cậu Vinh cũng thấy chán, nên vụ hè năm nay cậu được bà Phủ cho phép về Lái Thiêu để thay đổi không khí.
Dì Thảo báo cho Thủy biết chỉ vài ngày nữa bãi trường, cậu Vinh sẽ về.
- Thưa dì, cậu là con bà Phủ ạ?
- Phải, mọi thứ ở nhà đã sẵn sàng để đón cậu, không có gì phải lo, nhưng cháu phải cẩn thận.
- Thưa dì, tại sao ạ?
- Cậu hơi khó tánh. Dì đã thấy cậu ra chào đời, và đã thấy cậu lớn lên. Có lẽ cậu không ác tâm ác tính đâu, nhưng cậu đã quen được bà Phủ nuông chiều. Cậu ta trông bảnh trai đấy, nhưng tính nết không được điều hòa, hay thay đổi bất thường, và có vẻ tôn thờ tiền bạc lắm. Vả lại ở đời này, chắc cháu cũng nhận thấy, tiền bạc vẫn luôn luôn chiếm ưu thế, một ưu thế quá lớn.
- Vậy là cậu ấy sắp về, thưa dì?
- Vài ngày nữa thôi.
- Cháu có phải tuân lời cậu ấy sai bảo không, thưa dì?
- Thì tất nhiên cậu ấy có quyền sai bảo cháu, như bà Phủ vậy. Do đó, những sự ngông cuồng của cậu ta có thể làm cho cháu khó xử. Nên cháu cần phải khôn ngoan lắm để cậu khỏi phật ý.
Thủy cảm thấy hơi lo ngại.
Hai bữa sau, cậu Vinh đã từ Đalat về, Thủy gặp cậu lần đầu tiên trong vườn cảnh, lúc nàng đang tưới những khóm lan mà bà Phủ mới gởi mua từ Đalat về hôm trước.
Thấy Thủy cậu Vinh dừng lại và hỏi với một giọng có vẻ hách dịch:
- Chị là ai? Vào làm đây tự bao giờ?
- Thưa cậu, cháu làm được 3 năm.
- Tên chi?
- Thưa cậu cháu là Thủy.
Cậu ta đứng đó, nhìn Thủy tưới, rồi đột nhiên hỏi với giọng gay gắt:
- Sao đổ lắm nước trên những bông lan vậy? Không biết rằng hoa lan chỉ cần vẩy chút nước cho mát thôi à? Thế mà cũng đòi trông coi vườn cảnh.
Bình nước run rẩy trong tay Thủy, nàng đỏ mặt nói lí nhí:
- Xin cậu bỏ qua, vì cháu chưa được ai chỉ dạy.
Cậu hơi bĩu môi một cái rồi bỏ đi. Thủy đứng lại trong vườn cảnh, vẻ mặt tần ngần buồn bã. Từ ba năm nay, nàng vẫn cố gắng để làm vui lòng tất cả mọi người. Thủy chạy vào kiếm dì Thảo.
“Dì đã cho cháu biết trước, bà Thảo nói, cậu Vinh đã quen được nuông chiều nên không cần để ý đến sự phiền muộn có thể gây cho người khác. Thôi, cháu chẳng nên để tâm những lời nói cảu cậu”.
Đúng vậy, hai ngày sau, cậu Vinh không để ý gì đến Thủy nữa và và nàng cảm thấy tinh thần được nhẹ nhõm.
Độ nửa tháng sau, cậu Vinh đi Saigon về đưa cho bà Thảo hai chiếc sơ mi mới mua để thêu tên trên miệng túi cho cậu. Bà Thảo bữa đó bị cảm phải nằm nghỉ nên Thủy đem áo ra thêu. Khi làm gần xong, cậu Vinh chợt đi vào thấy vậy cầm lấy một chiếc ngắm nghía nói:
- Ờ, thêu được đấy, chị học thêu hồi nào?
- Thưa cậu, cháu cũng học được ít lâu.
- Vậy tiện thể thêu luôn cho cậu mấy chiếc khăn tay.
Ngay lúc đó, một thiếu nữ ở phòng khách đi vào thấy vậy hỏi:
- Áo của anh Vinh đó à? Mua hồi nào thế? Sao không để em thêu cho?
- Phải, áo của anh mới mua từ Saigon về. Tiện ai thêu cũng được, không quan hệ gì mấy. Nhưng chị này thêu cũng hay lắm.
Ánh mắt thiếu nữ hơi cau lại. Rồi hai người cùng đi ra ngoài, mỗi người dắt một chiếc xe máy ra cổng để đi dạo.
Hai người đi khỏi, dì Thảo mới nói cho Thủy biết thiếu nữ vừa rồi là cô Liên, cùng trạc tuổi với Thủy, con bà chủ hiệu kim hoàn Phúc Thịnh ở gần đây. Hai nhà đều giàu có nhất nhì ở Lái Thiêu, đã quen thuộc từ lâu. Bà phủ Thạnh và bà Phúc Thịnh vừa là bạn đi lễ bái, vừa là bạn tổ tôm nên thân lắm. Hai bà đã hứa hẹn với nhau là sau này cậu Vinh và cô Liên lớn lên, hai gia đình sẽ kết nghĩa xui gia. Cô Liên được cái là con gái nhà giàu nhưng lại không xinh lắm.
Từ hôm cậu Vinh ở Đalat về, chẳng mấy ngày là hai người không gặp nhau để đàm thoại, hoặc đi dạo ở vườn cây có nhiều bóng mát và trái chín, hoặc đi du ngoạn bằng xe gắn máy tại Bình Dương, Thủ Đức hay Sai-Gon.
Ít ngày sau đó, bà Phủ sai Thủy lên Bình Dương để thu mấy bát họ. Thu xong vào lúc ba giờ chiều, Thủy ra đón xe đò để về Lái Thiêu. Đợi đến gần nữa tiếng mà không có xe nào về. Hỏi ra mới biết chiều hôm đó, các giới xe đò và xe lam ngừng chạy để hội họp nghiệp đoàn, hầu giải quyết những vấn đề tương quan.
Thủy rất lo lắng vì bà Phủ đã dặn là phải về trước bốn giờ chiều để lo công việc cho bà. Trong khi đang đợi thì chợt nghe một chiếc xe máy chạy tới phía sau hãm thắng đến két một cái. Thủy giật mình quay lại thì nhận ra cậu Vinh.
- Đứng làm gì đấy, Thủy? Cậu hỏi.
- Thưa cậu, cháu lên đây thu tiền họ về cho bà Phủ, cháu đón xe đò để về nhưng chiều nay xe không chạy. Thưa cậu lên chơi trên này hồi nào?
- Cậu lên thăm người bạn, bây giờ về Lái Thiêu. Giờ không có xe đò thì tính sao?
- Thưa, cháu cũng chưa biết tính sao bây giờ, cháu lo quá vì bà đã dặn phải về trước bốn giờ.
- Ờ, thấy cũng tội nghiệp. Nếu chị dám ngồi xe gắn máy thì cậu cho quá giang để về cho kịp kẻo bà mong.
Thủy nhớ lại hồi ở cù lao Reng đã có lần ngồi sau xe Honda của cậu Sơn mà không thấy sợ, nên đáp:
- Thưa cậu, ngồi sau xe thì cháu không sợ, vì mấy năm trước, đã có lần cháu ngồi xe máy rồi. Nhưng cháu cám ơn cậu, vì cháu không dám.
- Đây là trường hợp nhỡ độ đường, có gì mà không dám.
- Thưa cậu, ngộ dọc đường có người quen gặp thấy có điều bất tiện.
- Chị ngại thì thôi, cậu mặc kệ. Thế không sợ ở nhà bà trông đợi à?

- Ấy, cháu chỉ lo điều đó, mà cháu lại mang nhiều tiền của bà Phủ, nữa chớ! Khó quá, không biết làm thế nào cho ổn.
- Thế sao còn nghĩ lẩn thẩn?
Thủy đứng tần ngần trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nàng nghĩ nếu không về được Lái Thiêu mà còn chờ đợi thêm lỡ mất số tiền của bà Phủ thì trách nhiệm to. Sau cùng, nàng chép miệng nói:
- Vâng, thưa cậu cho cháu quá giang vậy, để bà khỏi mong, ở đây lỡ mất tiền của bà thì nguy cho cháu.
- Vậy thì đi.
Nói rồi, cậu Vinh cho nổ máy, Thủy leo lên ngồi sau xe và thở ra nhẹ nhõm như trút được nỗi lo âu.
Chiếc xe bon bon như nuốt quãng đường trường, tóc Thủy bay lất phất trước luồng gió mát thổi vù vù bên tai. Hai người im lặng, không nói nữa lời. Chẳng mấy chốc, xe đã chạy được nửa đường. Bổng một thanh niên cưỡi xe gắn máy ngược chiều phóng tới. Khi nhận ra Vinh, thanh niên bèn cười và ngoắc tay cho Vinh dừng lại.
Thanh niên vòng xe trở lại đậu cạnh xe Vinh và hỏi với một giọng vừa thân mật vừa hóm hỉnh:
- Thế nào, cậu chở người đẹp đi đâu về vậy? Thơ mộng quá!
- Bậy nào, Vinh đáp. Đây là chị phó quản gia của má tôi. Chị đi thu tiền họ trên Bình Dương, rủi xe đò cũng như xe lam chiều nay ngưng chạy. Ngẫu nhiên mình đi qua cho chị quá giang kẻo má mình ở nhà đợi.
- Thôi giải thích dài dòng làm chi, thì cứ cho là thơ mộng đi, có sao?
- Nhưng tính chị ấy nghiêm nghị, nói đùa như vậy chị ấy không thích đâu.
Từ nãy Thủy vẫn giữ thái độ im lặng dửng dưng, vì nàng nghĩ để cậu Vinh cải chính cũng đủ rồi.
Thanh niên bèn hỏi tiếp:
- Thế tôi hỏi cậu: trước vẻ duyên dáng đó, chị ấy ngăn sao được tụi thanh niên rung động? Thế mới rắc rối chứ. Mà ai biết trong lòng cậu ra sao kia chứ? Ai thấy cảnh ngộ này mà chẳng phải thắc mắc.
- Đành vậy, nhưng đây là trường hợp ngẫu nhiên nên không thắc mắc.
- Trường hợp ngẫu nhiên! Ấy thế lại càng thú vị hơn, vì khác nào câu chuyện Bích Câu Kỳ Ngộ?
- Chà, cậu giầu tưởng tượng quá. Cái gì cũng muốn thi vị hóa.
- Thì nhờ vậy, cuộc đời đau khổ nầy mới vui tươi hơn chớ.
- Nhưng tôi có lời can cậu một tí, cậu mà cứ thi vị hóa bữa bãi như thế thì lại càng hay vỡ mộng, cậu sẽ mất cả học hành, làm ăn cho mà coi.
- Gớm, cậu đạo đức quá vậy? Thôi được rồi, câu chuyện của cậu bữa nay tạm gác đó, để hậu hồi phân giải. Bây giờ thì mình quyết định phóng thích cho cậu đó.
Tới đây, hai thanh niên cả cười chia tay, rồi nổ ga cho xe khởi hành mỗi người một ngả.
Vinh than một câu: “Gớm, thằng Đạt em họ cô Liên. Thằng quỷ này bạo mồm bạo miệng quá đi mất. Không dè điều e ngại ban nẫy lại thành sự thật”.
Rồi hai người lại trở về im lặng như trước khi gặp Đạt. Nhưng cuộc đối thoại vừa rồi đã gợi trong tư tưởng của hai người những cảm nghĩ là lạ, khó tả, mà từ trước họ chưa bao giờ nhận thấy. Nên thái độ của họ bây giờ như có vẻ bẽn lẽn, không còn được tự nhiên như trước.
Xe vẫn chạy đều đều, mỗi người thả hồn theo ý nghĩ riêng tư của mình. Nhưng cả hai ý nghĩ đều phức tạp, vừa thấy khó chịu về những lời đoán non đoán già của thanh niên ban nãy, vừa thấy nó cũng hay hay… Và giữa buổi chiều tà, bóng nắng kéo dài trên con đường nhựa đã thưa thớt người đi lại, hai kẻ đồng hành bổng cảm thấy trong lòng ấm áp.
Chương 9
Cuối tháng chín. Nhà bà Bích Trà đang nhộn nhịp sửa soạn lễ cưới linh đình cho cô Bích, người con gái lớn. Ngoài bộ áo cưới lộng lẫy của cô dâu, gia chủ còn phải may hai bộ áo đồng màu cho hai cô phù dâu, trong số đó có cô Liên con bà Phúc Thịnh, chủ tiệm vàng.
Chỉ còn hai ngày nữa là cử hành lễ rước dâu. Chẳng may trong một cuộc rượt xe máy, cô Liên bị té bại xương hông bên trái, thầy thuốc bắt phải nằm một tháng mới đi lại được bình thường. Nguyên do là trên con đường nhựa phẳng lì cô đã thuận đà phóng quá nhanh, tới khúc quanh thắng lại không kịp, xe bị lao vào lề đường và quật cô ngã vật xuống. May chỗ đó là một bãi cỏ khá dày, nếu không thương tích còn có thể nặng hơn.
Vì thế, việc cô Liên đi phù dâu thành lỡ dỡ. Trước cảnh ngộ đó, nhà gái cuống cuồng lên, lo sốt vó vì chưa kiếm được ai thay thế. Vấn đề không phải dễ, vì người đó phải mặc vừa bộ áo phù dâu đã may sẵn, mà ngày thì đã cận. Bàn soạn mãi, bà Thảo đưa ra ý kiến để Thủy đi phù dâu thay thế cô Liên, vì Thủy cũng cùng một khổ người. Bà Phủ Thạnh có ý không tán thành vì bà cho rằng không thể đặt Thủy ngang hàng với cô Liên được.
Nhưng bà Thảo nói nhỏ với bà Bích Trà:
- Nói thiệt tình cho chị nghe, để cháu Thủy đi phù dâu còn nổi bật đẹp đẽ bằng mấy con Liên ấy chớ. Không tin tôi bảo cháu qua bên đó, chị đưa áo nó mặc thử cho mà xem.
Bà Bích Trà vốn dễ tính, không câu nệ như bà Phủ, hơn nữa xưa nay bà vẫn quý mến bà Thảo và Thủy nên nghe theo ngay.
Trước khi đi, bà Thảo đã lôi Thủy ra để trang điểm mặt mày và sửa soạn bộ tóc cho đẹp đẽ.
Khi Thủy mặc thử bộ áo phù dâu bằng kim tuyến màu hồng thì thấy vừa như in và làm tôn hẳn nét mặt với làn da trắng nuốt. Trên áo cài một bông hoa trắng, thêm đôi bông tai bằng ngọc và chiếc kiềng chạm bằng vàng nạm kim cương, chân đi giày thêu kim tuyến, Thủy sửa soạn xong soi vào tấm gương đứng thì nàng không dấu được sự xúc động. Bà Bích Trà, cô Mỹ và bà Thảo đều phải trầm trồ khen ngợi.
- Ồ, cháu Thủy, bà Thảo nói, cháu cứ tự cho rằng cháu xấu xí nữa đi. Dì thấy bộ áo này hợp với cháu nhất, chẳng có cô nào có thể ăn đứt được.
Thủy đi đi lại lại uyển chuyển, rất tự nhiên, chẳng có vẻ gì ngượng nghịu, y như là thường ngày nàng vẫn quen ăn vận lịch sự như thế. Thật không ai có thể nhận ra đây là cô gái tầm thường giúp việc cho nhà bà Phủ Thạnh, mà thấy nàng là một trang tiểu thư con nhà khuê các.
Bà Thảo đang xoay quanh Thủy để sửa soạn một vài lọn tóc thì chợt cửa phòng mở ra làm Thủy giựt mình. Cậu Vinh đi vào.
- Kìa, em Liên, em tới đây hồi nào vậy? Em lành rồi hay sao?
Khi nhận ra là Thủy thì cậu ta sững sờ, kinh ngạc. Cậu đứng ngẩn người ngắm Thủy một lúc lâu, rồi tiến lại gần nàng để nhìn rõ hơn, cậu nói:
- Thật tôi không thể nhận ra là chị Thủy. Không, không thể nào nhận ra.
Nói xong cậu nhìn Thủy một lần nữa, chào bà Bích Trà rồi đi thẳng, không rõ trong đầu óc cậu nghĩ gì…
Bà Bích Trà và cô Mỹ thì lộ ra nét mừng và căn dặn Thủy thế nào ngày mốt cũng phải đi phù dâu, chớ để lỡ hẹn vì bất cứ lý do gì. Rổi bà Bích Trà chạy qua bên bà Phủ để thuyết phục cho bà vui lòng cho phép Thủy đi phù dâu.
Hai ngày sau, lễ cưới cử hành rất linh đình. Chú rể là anh một người bạn của cậu Vinh nên cậu được mời đi phù rể, nhất cậu lại là con nhà gia thế, đẹp trai, sinh viên Đại học.
Sau lễ rước dâu, hai họ họp mặt trong một bữa dạ tiệc đông đảo. Cặp đinh số một của tiệc cưới lẽ dĩ nhiên là đôi tân hôn, vì ai cũng đến để mừng cho hạnh phúc của đôi trẻ.
Nhưng cái đinh số hai thì phải kể ngay đến Thủy. Bữa đó, nàng thật là yêu kiều rực rỡ trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, bộ tóc đã được bàn tay khéo léo của bà Thảo kết cao trên đỉnh đầu, rất thích hợp với khuôn mặt đều đặn, khổ người mảnh mai, dáng đi uyển chuyển, tất cả cộng lại làm cho nàng có một vẻ đẹp cao sang quý phái, không khác gì một nàng công chúa, làm cho mọi người đều phải chú ý.
Cậu Vinh thì luôn luôn chuyện trò với nàng một cách thân mật chớ không còn vẻ gì cách biệt như trước. Trong bàn tiệc, cậu có vẻ hãnh diện ngồi cạnh Thủy và cậu được dịp thủ trọn cái vai phù rể hào hoa phong nhã đúng nghĩa của nó.
Bữa đó, bà Phủ Thạch cũng phải nhìn nhận những nét xinh đẹp quý phái của Thủy. Tuy nhiên, bà vẫn không bỏ được ý nghĩ là nàng xuất thân từ chỗ tầm thường. Nên khi thấy trong bàn tiệc cậu Vinh luôn luôn săn sóc Thủy, gắp thức ăn cho Thủy, chuyện trò rất tâm đầu ý hiệp, thì bà có vẻ khó chịu lộ ra tia nhìn. Và lúc đó bà vẫn nghĩ phải là cô Liên mới xứng đáng lãnh nhận các cử chỉ phong nhã của cậu phù rể con bà…
Chương 10
Trong một bàn tiệc cạnh đó, một bọn thanh niên sau vài tuần rượu ngà ngà đã bước qua giai đoạn đấu hót, rất hào hứng, đúng với câu “tửu nhập ngôn xuất”.
Một cậu đưa ra ý kiến:
- Bây giờ tôi xin đề nghị các bạn thử phê bình xem ai đáng mặt hoa khôi trong tiệc cưới này, trừ cô dâu ra, vì cô dâu và chú rể đã như đũa có đôi chúng ta phải “kính nhi viễn tri”.
Cả bọn đồng thanh:
- Tán thành! Tán thành!
Sau một lúc quan sát với sự kín đáo cần thiết, một cậu lên tiếng:
- Theo thiển ý của tôi, và tôi chắc là toàn thể các bạn hiện diện, hay ít nhất cũng đa số, sẽ đồng ý rằng cô Thủy đáng mặt hoa khôi trong tiệc cưới này.
Một cậu khác chêm vào:
- Không được, không được, hoa khôi của tiệc cưới này chưa đủ. Phải nói là hoa khôi cả vùng Lái Thiêu Bình Dương mới phải.
Một cậu nữa lại cải chính:
- Chưa đủ, chưa đủ, cô Thủy phải là hoa khôi các tỉnh miền Đông này mới xứng đáng. Tôi dám đánh cuộc.
- Cuộc cái gì?
- Nếu tôi bại, tôi sẽ chịu mất cả cái gia tài.
- Gia tài nào? Lớn hay nhỏ?
- Rất lớn, mà ông thân sẽ sang tên cho tôi trong tương lai, chưa biết gần hay xa…
Cả bọn cười phá lên.
- Vì một người đẹp, cậu sẵn sàng hy sinh cả một gia tài rất lớn, kể cậu cũng là người có chí khí đấy chứ!
- Ồ! Đã thấm thía gì. Thế cậu quên ở thế kỷ hai mươi này, cái ông Hoàng nước Anh đã dám hy sinh ngôi báu vì một người đẹp đã có một đời chồng hay sao?
- Chúng mình tán phét từ nãy đã mang lại nhiều chuỗi cười cho buổi tiệc vui mừng hôm nay. Nói về sắc đẹp, đó là vấn đề tương đối và tùy “gu”. Các cậu không thấy trong nhiều cuộc thi hoa hậu, kể cả quốc tế lẫn quốc nội, ban giám khảo đã bị khán giả la ó um sùm, vì người đẹp xứng đáng đội vương miện hoa hậu theo con mắt của công chúng, lại được các ngài giám khảo đánh tụt xuống hàng á hậu hay sao? Vậy bây giờ tụi mình bàn chuyện đứng đắn hơn.
Thanh niên vừa nói vội quay sang một vị thực khách đã đứng tuổi hỏi:
- Thưa bác, từ nãy bác vẫn ngồi nghe tụi em tán dóc và bác chỉ mỉm cười, bây giờ xin bách cho phép chúng em được phỏng vấn chớp nhoáng về vẻ đẹp của người phụ nữ, có được không ạ?
Ông khách cười đáp:
- Trong tiệc cưới hôm nay, nó đánh dấu một ngày thiêng liêng nhất đời của đôi tân hôn, lại tụ hội biết bao nhiêu là người đẹp chung quanh chúng ta mà các chú bàn cãi về vẻ đẹp của người phụ nữ thì là hợp tình, hợp cảnh quá đi rồi. Vậy tôi sẵn sàng đóng góp ý kiến sơ thiển để rộng đường dư luận. Nhưng vì tôi đã được may mắn nghiên cứu về khoa tướng mặt, nên quan điểm của tôi về sắc đẹp có hơi khác các chú.
- Thưa bác khác ở chỗ nào?
- Là ngoài cái vẻ đẹp hoặc sắc sảo, hoặc ngây thơ hoặc nghiêng nước nghiêng thành, vân vân… mà các chú nhận thấy trên diện mạo các cô, cần phải thêm yếu tố “Vượng phu ích tử”.
- Nghĩa là gì ạ?
- Là chồng con được hưởng sự thịnh vượng tốt đẹp. Yếu tố này mới là ưu tiên số một và có tính cách trường cửu.
- Sao vậy, thưa bác?
- Hảo cách đó, tuy nó cũng hiện ra nét mặt của giai nhân, nhưng chính nó lại tiềm tàng bên trong. Sắc đẹp có thể bị phai tàn với thời gian, nhưng yếu tố số một kia lại có tính cách vững bền, và nó chỉ có thể mất đi khi mà người phụ nữ mang nó xuống… tuyền đài…
- Úi trời, bác hạ một câu đó làm chúng em lạnh cả người.
- Thế các chú có đồng ý không?
- Ông anh cả đã dạy thì tất nhiên tụi em phải đồng ý, nhưng chỉ sợ nhiều khi tụi em không kháng nổi những tiếng sét…
- Vậy thì các chú phải hãm bớt những cái thanh niên tính lại, nhất là cái tính hiếu sắc ấy! Các chú có nghe đại danh của Trụ Vương không nhỉ?
- Dạ có, Trụ Vương với Đát Kỷ phải không ạ?
- Đó, đó! Chỉ vì ông “con trời” hiếu sắc ấy quá say mê cái sắc đẹp khuynh thành của nàng Đát Kỷ mà quên khuấy đi, không đòi hỏi ở nàng cái yếu tố “vượng phu ích tử”, đến nổi mắc phải biết bao nhiêu tội ác, sát hại trung thần rồi mất nước. Các chú thấy chưa? Và từ cổ chí kim, từ các vì Vua Chúa, Quốc Trượng, Thủ Tướng, đến các nhà doanh nghiệp tỷ phú đều phải trông cậy vào cái tướng vượng phu ích tử của quý phu nhân cả đấy.
- Thưa bác, thế cô Thủy bác coi thế nào?
- Cô Thủy là cô nào?
- Cái cô phù dâu ngồi kế bên cậu Vinh phù rể ấy. Mái tóc có điểm cái nơ hồng đó.
- À, cô ấy thì bây giờ tôi nhắm mắt cũng nói được tường tận.
- Lạ quá, bác nhắm mắt cũng nói được?
- Phải, bây giờ nhắm nhưng ban nãy đâu có nhắm. Tôi đã quan sát cô ấy từ lúc mới khai tiệc kia rồi, trước cả các chú. Con người như thế ai mà không phải chú ý.
- Chịu bác thật, không ngờ bác lại còn tinh hơn bọn con trai đầy thanh niên tính này.
- Méo mó nghề nghiệp mà lại.
- Vậy thế ý kiến bác ra sao ạ?
- Một thiếu nữ tuyệt tác, cả hai yếu tố đều siêu đẳng. Chú nào tự xét có đủ phúc đức thì nên nạp đơn đi.
Tới đây bỗng ghế xô đẩy báo hiệu tiệc tàn. Mọi người đứng dậy ra về. Tiến sau cặp tân hôn, Vinh và Thủy sóng bước ra cửa, dưới sự chú mục của hàng trăm cặp mắt thán phục. Nhiều thanh niên quen biết ghé tai Vinh nói: “Cậu hên quá!”
Từ lúc đám cưới tới giờ, Thủy không thấy mình là con bé khổ cực ở cù lao Reng nữa. Bỗng nàng quên hết dĩ vãng để tận hưởng những giờ phút hiếm có này.
Trên con đường về nhà, Vinh và Thủy thủng thẳng đếm bước dưới ánh trăng huyền ảo của một đêm thu. Làn gió nhè nhẹ đưa tới mùi thơm phức của những cây dạ hương. Đôi bạn tưởng như họ đang đi vào cõi mộng và ước mong họ cứ như vậy mãi trên con đường vô tận.
Bỗng Vinh cúi nhìn Thủy nói:
- Tôi xin lỗi Thủy trước đây đã đối đãi với Thủy không được nhã nhặn lắm. Từ nay trở đi, Thủy tin là tôi mến Thủy lắm. Trong tiệc cưới hôm nay, Thủy đã tỏ ra xinh đẹp, duyên dáng, dễ thương gấp mười cô Liên.

Thủy ngượng ngùng, bối rối, không biết trả lời làm sao. Vinh nói tiếp:
- Hôm nay tôi rất vui được ngồi bên cạnh Thủy và hiểu rõ Thủy hơn. Thỉnh thoảng chúng mình sẽ cùng đi dạo chơi vùng đồng quê nhé.
Thủy thở dài đáp:
- Thưa Cậu, em không dám nghĩ đến chuyện đó, vì em còn phải lo công việc cho bà Phủ.
- Thủy đừng ngại, má cưng anh lắm, nếu anh xin phép chắc má sẽ cho.
Những phút vui tươi chẳng được đầy gang, hai người đã về tới nhà lúc nào không biết.
Thủy vào chào bà Thảo rồi bỏ áo và đồ trang sức ra. Nàng nhìn chúng một cách luyến tiếc, miệng lẩm bẩm:
- Bây giờ thế là hết… Hình như ta đã sống một giấc mơ đẹp, một giấc mơ quá đẹp.
Và nàng không ngăn được hai giọt lệ chảy từ từ trên má. Nhưng nàng lại nghĩ ngay đến cậu Vinh và lời hứa của cậu sẽ dẫn nàng đi chơi trong vùng quê. Lúc đó đêm đã khuya, nàng mở cửa sổ để nhìn ra ngoài trời. Nàng đứng đó rất lâu để hít thở không khí dịu mát của đêm thu. Nàng cố kéo dài cái ngày hôm nay cho đến lúc phải đi ngủ, nàng tưởng chừng như còn thấy những ánh mắt ngưỡng mộ của mọi người, những cử chỉ hào hoa kèm theo lời nói êm dịu của cậu Vinh.
Rồi nàng lại nghĩ đến thời thơ ấu, đến chiếc đò con đã mang nàng đến cù lao Reng, đến sự bí mật bao trùm nguồn gốc của nàng mà ba Từ đã không trối trăng lại được rõ ràng. Nàng không dám tin vào hiện tại, và cho rằng nàng chỉ là đứa con một gia đình nghèo khó, muốn bỏ rơi nàng vì không đủ sức nuôi một bầy con quá đông.
Cúi xuống, nàng bỗng nhìn thấy bộ quần áo xuềng xoàng đang mặc. Thôi thế là hết, hết bộ áo kim tuyến phù dâu. Sáng mai, những đóa hoa trên bàn tiệc cưới sẽ khô héo, và trong con tim của Thủy những kỷ niệm tươi đẹp cũng sẽ phai tàn…
Nàng lên giường nằm và trước khi chìm vào giấc ngủ cô miên, nàng còn nghĩ đến cậu Vinh, nhớ nụ cười đầy âu yếm của cậu.
Nàng chắp hai tay lại, mắt nhìn qua cửa sổ lên những ánh sao trên trời, nàng lâm râm cầu nguyện Trời Phật cho nàng được sung sướng mãi, sung sướng như ngày hôm nay.
Chương 11
Hồi này cậu Vinh ít đi chơi xe máy, mà cậu mà thường với Thủy đi thăm vườn trái và ruộng nương của nhà. Họ đi từ sáng sớm khi mặt trời mới lấp ló sau rặng cây và bước theo những con đường nhỏ, hai bên đầy cây cối, chen lẫn hoa lá với mầu sắc rực rỡ. Quên bẵng mất cô Liên lúc này đang phải nằm một chỗ vì vết thương té xe, cậu Vinh nay có nhiều cảm tình với Thủy vì nàng vừa khả ái, vừa duyên dáng, vừa đẹp hơn cô Liên.
Trong câu chuyện của hai người, khi nói đến những mẫu ruộng vườn của nhà mà sau này cậu sẽ được thừa hưởng, Thủy nhận thấy cậu Vinh có vẻ khoe khoang tự mãn lắm. Thái độ đó làm cho lòng tự ái của nàng bị tổn thương. Nàng tự thấy mình lại càng nghèo nàn hơn và tự hỏi có phải cậu thật lòng quí mến nàng không? Nàng nhận thấy cậu Sơn giản dị hơn và một phong độ khác. Tuy nhiên, cậu Vinh cũng có nhiều cử chỉ chiều chuộng nàng, nên nàng cũng sẵn sàng tha thứ.
Thấy Thủy có vẻ sung sướng yêu đời do cảm tình của cậu Vinh, một hôm dì Thảo nói:
- Dì cầu chúc cho cháu có hạnh phúc lâu dài, thật lâu dài.
Thủy không hiểu rõ ý nghĩa câu nói đó. Nhưng chẳng bao lâu, nàng nhận thấy bà Phủ có vẻ lạnh nhạt và trừ bà Thảo ra, các người khác trong nhà đều có ý ghen ghét với nàng.
- “Đời là thế đấy cháu Thủy ạ, dì Thảo nói. Ở đất Lái Thiêu này, những bông hồng cũng có gai”.
Nhưng sự ghen ghét của mọi người không thấm vào đâu đối với một sự ghen ghét khác, nó thầm kín hơn nhưng nó cũng ghê rợn hơn, lòng ghen tuông của cô Liên. Đã bình phục vết thương té xe máy cách đây hơn một tháng, cô rất đau khổ khi thấy rằng cậu Vinh hồi này bỏ rơi cô để đi với Thủy. Nhiều khi cậu Vinh đã kể lại sự ghen tuông đó với Thủy nhưng, trong sự ngây thơ, nàng lấy làm vui thích là đã chiếm được cảm tình của cậu Vinh.
“Cháu Thủy, dì Thảo nói, dì hiểu cháu được vui vẻ yêu đời khi gần cậu Vinh, nhưng cháu phải nên coi chừng.”
- Thưa dì, coi chừng điều gì ạ? Cậu ấy đi thăm vườn tược đồng ruộng của nhà là quyền của cậu, cháu đâu dám ngăn cản.
- Đành vậy, nhưng cậu là một thanh niên phóng túng, bất thường, nếu làm theo ý cậu, dì e sẽ gây cho cháu nhiều rắc rối đó.
Thủy cho rằng dì Thảo đã bị đau đớn cuộc đời nên dì không hiểu nổi.
- Thưa dì, có chuyện gì xảy ra được ạ?
- Thì chính cháu đã nói rằng cô Liên ghen tức với cháu mà.
- Vâng ạ, nhưng lỗi đâu ở cháu?
- Phải, nhưng cô Liên là con nhà giàu, có thế lực, mà cháu chỉ là một thường dân thuộc giới thanh bần. Thế cháu tin tưởng rằng cảm tình của một thanh niên như cậu Vinh, được nuôi dưỡng trong sự tôn thờ tiền của, sẽ được lâu dài bền vững hay sao?
Thủy lặng thinh và đi ra chỗ khác.
Vài ngày sau, nàng phải đi chợ để mua sắm những thứ cần thiết trong nhà. Tới một khúc rẽ, nàng chạm trán với Đạt, em họ cô Liên, mà mấy tháng trước đây đã gặp trên đường Bình Dương khi nàng ngồi sau xe cậu Vinh.
- Chào chị.
- Không dám, chào anh.
- Anh Vinh vừa té xe ở gần rạch cách đây không bao xa. Anh bị thương ở chân.
Thủy không tự đặt câu hỏi tại sao Đạt lại không tới thẳng nhà bà Phủ báo tin mà lại báo tin với nàng.
- Trời ơi! Cậu ấy có bị thương nặng lắm không anh?
- Chị lại đây, anh ấy nhờ tôi kêu chị.
Không một phút do dự, Thủy tin rằng cậu Vinh muốn kêu mình, nàng bèn đi theo Đạt tới chỗ tai nạn xảy ra trên bờ rạch. Nơi đó rất vắng vẻ và con rạch thì rộng và sâu.
- Đâu, cậu Vinh đâu? Nàng hỏi có vẻ lo lắng.
- Kia, đằng kia.
Đi một quãng nữa, nàng gặp ngay cô Liên, hình như đang chờ đợi nàng.
Mắt nhìn như có vẻ muốn nuốt sống đối phương. Liên hỏi Thủy một cách trắng trợn:
- Thủy, cứ yên chí, cậu Vinh chẳng hề bị thương gì cả... nhưng ta rất mãn nguyện là em ta đã dẫn mi tới đây. Mình có thể tự do nói chuyện.
- Cô muốn gì?
- Không muốn gì hết; ta chỉ cần biết tại sao mi dám ngồi sau xe cậu Vinh từ Bình Dương về, dám mặc cái áo phù dâu của ta và chiếm chỗ của ta hôm cưới đó?
- Tôi quá giang từ Bình Dương về là vì không có xe đò, còn hôm cưới thì tôi nào chiếm chỗ của cô. Cô bị té xe nên không thể đi phù dâu được. Chính bà Bích Trà và cô Mỹ nhờ tôi đi thay.
- Sao mi dám nhận?
- Tôi nể lời bà.
- Nhưng phải tùy việc, tùy trường hợp.
- Cô muốn nói chi?
- Là mi phải biết thân biết phận của một kẻ giúp việc. Đũa mốc lại đòi trèo mâm son! Thế sau tiệc cưới, mi vẫn đi chơi với cậu Vinh là nghĩa làm sao?
- Vườn ruộng của nhà cậu, cậu đi thăm, tôi cấm cản làm sao được?
- Thế mi tự coi là con nhà danh giá vọng tộc hả? Cậu Vinh có biết rõ gốc tích của mi không?
- Tôi chẳng dấu diếm gì hết. Cậu biết rõ tất cả. Cậu thích đi thăm ruộng vườn, còn tôi thì đi làm phận sự của tôi, chẳng có gì ngăn trở được.
Cô Liên từ trước vẫn muốn tự nén, bỗng nắm chặt hai bàn tay lại, mặt đỏ tía tai vì giận dữ.
- Con nhỏ này ghê gớm thật, dám nhắc lại những lời hỗn xược.
- Cậu Vinh tử tế với tôi thì tôi tử tế lại. Ai có thể bực bội về điều đó ngoài cô ra vì cô ghen tức.
Liên vội nhảy lại chỗ Đạt, từ nãy vẫn đứng ngoài vòng chiến để hai địch thủ đối phó với nhau.
- Đạt, em có nghe thấy những lời ngạo mạn đó không? Nó đã không thèm xin lỗi ta, nó lại còn lên mặt nọ kia.
Liên quay lại nhìn Thủy với đôi mắt đằng sát khí. Bây giờ thì Thủy đã hiểu rằng Liên đã dụ nàng đến bờ rạch vắng vẻ này với một mục đích hắc ám. Nàng nhớ lại những hành vi độc ác của Liên mà dì Thảo đã kể cho nghe. Bỗng nàng không còn nén được cơn tức giận:
- À, phải rồi, các người đã đánh lừa tôi tới đây định thủ tiêu tôi phải không? Tôi từ nơi xa lạ đến, các người biết rằng nếu tôi có bị thanh toán thì chẳng còn ai đoái hoài đến tôi cả. Vậy các người có giỏi thì cứ động vào tôi đi, cả cô và em cô nữa. Tôi sẽ túm chặt lấy các người và không phải chỉ một mình con nhỏ nầy phải nếm nước rạch này đâu nhé. Nhưng tôi nói cho các người biết. Đến như dòng sông Cửu Long mà con này còn có thể bơi qua như chơi, thì hỏi thử coi con rạch này thấm tháp vào đâu?

Thủy vừa nói vừa tiến thẳng lại chỗ Liên đứng. Trước khí thế oai hùng của Thủy, Liên vội lùi lại mấy bước. Thừa thắng xông lên, Thủy nói luôn một hơi:
- Thôi vĩnh biệt cô Liên, chắc cô không còn gì phải nói với tôi. Ngay bây giờ tôi về kiếm cậu Vinh và giữa hai ta, cậu ấy sẽ quyết định.
Nhờ lòng can đảm và nhanh trí, Thủy đã thoát hiểm. Nàng bèn vội chạy về phía chợ để đi về nhà, nhưng khi đã khuất bóng hai địch thủ, nàng bèn ẩn vào sau một bức tường và ôm mặt khóc lên từng hồi.
Về tới nhà, nàng vội kiếm ngay cậu Vinh, nhưng cậu đi vắng. Nàng bèn vào phòng dì Thảo và kể cho dì nghe tấn bi kịch vừa xảy ra.
- Dì ơi, dì hiểu rõ là không phải lỗi cháu. Cháu có làm gì cô Liên đâu mà cô thù hằn cháu như vậy?
- Không, cháu chẳng làm gì nên lỗi, nhưng cháu phải hiểu các cô con nhà trưởng giả ở đây. Cô Liên cho rằng mình bị xúc phạm nên cô muốn trả thù cháu. Dầu sao, cháu cũng phải coi chừng, thua keo này họ sẽ bày keo khác cho mà coi.
- Thưa dì, cháu phải làm sao bây giờ?
- Cháu ơi, dì rất khó nghĩ. Dì chỉ lo những ngày sắp tới sẽ mang lại cho cháu những điều bất hạnh. Vậy cần nhất cháu phải ít gặp cậu Vinh mới được.
- Nếu cậu ấy cứ ra vườn ruộng để cố ý gặp cháu thì cháu ngăn cản làm sao nổi?
- Dì nghĩ có thể được, thí dụ như cháu tỏ ra dửng dưng lãnh đạm thì dần dần cậu ấy sẽ quên cháu.
- Quên cháu...dì muốn cho cậu ấy quên cháu? Vậy dì lại về phe với cô Liên?
Thủy gục đầu vào vai dì Thảo và khóc lên nức nở.
- Dì Thảo ơi, dì đừng khuyên cháu làm điều đó, cháu không thể làm nổi vì nó quá sức cháu.
- Nhưng lại rất cần phải làm, cháu Thủy ạ.
Chương 12
Đêm hôm đó, nàng không thể nào ngủ được. Nàng thấy lại biến cố đã diễn ra trên bờ rạch và lại nghe lại những lời nói của dì Thảo. Ôi! Làm thế nào để đóng kịch lãnh đạm với cậu Vinh một khi gần cậu thì nàng thấy vui? Tại sao nàng phải qui hàng trước cô Liên vì cô nầy giàu có? Sự giầu có ăn nhằm gì với tình cảm?
Tuy nhiên, hôm sau, khi cậu Vinh rủ nàng cùng đi thăm vườn ruộng thì nàng thu hết can đảm để trả lời bữa nay mắc việc. Nhưng cậu Vinh đã hiểu rõ câu chuyện xảy ra hôm qua, cậu nói:
- Thế ra em sợ Liên à? Anh tưởng em can đảm hơn thế chớ?
- Cô Liên giận em lắm.
- Như vậy là em coi mối cảm tình của anh chỉ đáng có thế thôi sao? Thật tình, anh tưởng em khác thế chớ...nhưng có lẽ em còn ghét anh khi mới ở Đà Lạt về đây, anh đã xử sự với em không được nhã nhặn. Em đã quên cái buổi chúng mình ngồi cạnh nhau ở bàn tiệc cưới chị Mỹ và đi cạnh nhau dưới bóng trăng thu huyền ảo trên con đường về nhà và anh muốn nó như vô tận. Anh thì không bao giờ có thể quên được vẻ đẹp cao sang của em trong bộ áo phủ dâu. Thôi em đừng nghĩ gì đến Liên nữa, anh rất thỏa mãn biết rằng cô ấy ghen tức với em.
Sửng sốt, Thủy không biết trả lời làm sao. Nàng thấy cậu Vinh quả thành thật, nên không nỡ khước từ hẳn.
Những ngày sau, trong những buổi đi thăm nom vườn ruộng, Thủy vẫn để Vinh đi cùng, và cố quên những lời đe dọa của cô Liên.
- Cậu Vinh quá tốt với cháu, nàng nói với dì Thảo, cháu tin chắc cậu sẽ bênh vực cháu.
Dì Thảo thở dài đáp:
- Cháu ơi, lúc này cậu Vinh có lẽ chỉ muốn trêu chọc cô Liên... Dì rất buồn mà nói thực với cháu những sự phũ phàng, nhưng dì lo ngại cảm tình mà cậu Vinh nói với cháu không sâu xa như cháu tưởng. Thế cháu không nhận thấy bà Phủ có vẻ khác thái độ với cháu từ vài ngày nay sao?
- Thưa dì, cháu không nhận thấy.
- Như vậy, ý dì muốn nói sao ạ?
Bà quản gia cầm lấy đôi bàn tay Thủy xiết chặt nói:
- Thủy ơi, dì muốn nói là dì rất lo sợ cho cháu. Cho tới hôm nay, bà Phủ chưa muốn hay là chưa dám làm trái ý con bà, nhưng dì cảm thấy rằng bà đã đồng ý với cô Liên nhất quyết làm hại cháu.
- Bà muốn đuổi cháu?
- Dì không hiểu nữa, nhưng cháu nên coi chừng.
Bà Thảo đã không lầm, hạnh phúc của Thủy rất mong manh, quá mong manh.
Thực ra, bà Phủ đã quyết định làm bất cứ cách gì để chia rẽ Thủy với con trai bà. Tuy nhiên, bà rất bằng lòng về công việc Thủy làm, nên trước khi dùng biện pháp mạnh, bà hãy thử dùng một thế nhu đạo, một đòn tâm lý.
Một hôm, cậu Vinh đi vắng, bà Phủ kêu Thủy vào phòng.
- Thủy vô bà bảo đây.
- Thưa bà dạy việc con.
- Đứng đó bà bảo. Từ khi con vào gia đình này chia xẻ công việc với dì Thảo, bà rất bằng lòng, hơn thế nữa, bà rất quý mến con. Nhưng từ ít lâu nay, bà nhận thấy cậu Vinh có rất nhiều cảm tình đối với con, và hình như con cũng đồng tình đồng ý.
- Thưa bà, cậu quả tử tế với con nên con cũng xử tử tế lại để cậu khỏi phật lòng.
- Bà biết, nhưng đối với bà cũng như cô Liên, điều đó không thể chấp nhận được. Bà đã hứa với bà Phúc Thịnh, sau này hai nhà sẽ là sui gia, thì giữa cậu Vinh với cô Liên, không thể nào có người thứ ba nào nữa, con hiểu chưa?
- Thưa bà ý kiến của cậu ấy ra sao ạ?
- Bà chưa biết điều đó, chỉ nên nhớ rằng dù cậu có cảm tình mật thiết với con tới mức nào đi nữa thì cũng chẳng đi tới đâu, mà chỉ thêm ân hận cho con mà thôi.
Chắc con hiểu sao rồi chứ? Nhà ta và nhà bác Phúc Thịnh, ở vùng Lái Thiêu này ai ai cũng biết là chỗ danh gia vọng tộc, thì đôi bên mới có thể kết nghĩa châu trần được. Còn con, dù đẹp đẽ, duyên dáng, khả ái đến mấy thì vẫn chỉ là một kẻ giúp việc, con cái nhà ai, gốc tích thế nào, chẳng ai rõ, thì đời nào bà có thể chấp nhận làm con dâu?
Bà Phủ đã đánh trúng một đòn rất hiểm. Thủy đã bị chạm lòng tự ái đến tột độ. Nàng vẫn tự nghĩ mình không đến nỗi tầm thường như ai, và tin tưởng rằng nàng cũng thuộc vào một gia đình trâm anh thế phiệt. Nhưng sự bí mật về đời nàng vẫn chưa khám phá ra với lời trối trăng tối nghĩa của ba Từ, thì làm thế nào để chứng minh trước mọi người rằng nàng cũng chẳng thua kém gì cô Liên, mà còn có thể hơn về nhiều điểm là đằng khác?
Nếu phải là cô Liên mà dùng cái giọng khinh thị như thế, thì nàng sẵn sàng ăn thua đủ, rồi muốn ra sao thì ra.
Nhưng đây lại là bà Phủ ở cương vị một người mẹ. Thủy rất thương mẹ mình, nên nàng không chút do dự đáp rằng:
- Thưa bà con rất hiểu nỗi lòng của các bà mẹ, như của chính mẹ con, vậy từ ngày hôm nay, xin bà chớ bận tâm, vài bữa nữa con thu xếp xong mọi việc bà đã giao phó, con sẽ xin nghỉ để đi làm nơi khác.
- Nếu như vậy bà cũng rất hài lòng, và bà cũng cám ơn con đã hiểu nỗi khổ tâm của bà.
Như thế là đòn tâm lý của bà Phủ đã mang lại một kết quả mau lẹ không ai có thể ngờ được, và để tránh cho cô Liên khỏi nhúng tay vào tội ác một lần nữa. Vì mấy bữa trước cô đã thảo luận với bà Phủ âm mưu dùng tiền bạc và thế lực để loại hẳn đối phương bằng một biện pháp thật là sâu độc.
Sau đó, Thủy về phòng dì Thảo và kể lại cho dì nghe cuộc đối thoại vừa qua với bà Phủ, rồi nàng gục đầu vào vai dì Thảo khóc nức nở:
- Thôi thế là hết, mọi người đều khinh miệt cháu.
Dì Thảo cố an ủi Thủy:
- Dì rất hiểu nỗi đau khổ của cháu, nhưng đời là thế đó, cháu chẳng nên khóc lóc làm chi. Cháu nên can đảm lên, đừng để tình cảm chi phối mình. Qua mấy năm sống chung với cháu, dì nhận thấy cháu là một mẫu thiếu nữ cốt cách, biết đạo làm người. Nên dì rất tin tưởng rằng sau này cháu sẽ tự tạo được một con đường đi, một lẽ sống, và cháu sẽ được hưởng hạnh phúc, một hạnh phúc lâu dài.
Khi thấy Thủy đã vơi bớt được cơn sầu, dì Thảo hỏi:
- Cháu tính sẽ đi đâu, sau khi nghỉ việc?
- Thưa dì, cháu định trở về cù lao Reng để lo tìm kiếm sự bí mật của chiếc hộp bạc mà ba Từ đã trối trăng lại. Tuy nhiên, hồi tưởng lại cái không khí nặng nề khó thở dưới mái nhà xưa, cháu lại thấy ngại ngùng.
- Phân tách vấn đề, dì nhận thấy cháu như vừa bị một vết thương. Đây chưa phải là một vết thương lòng, vì mối cảm tình của cậu Vinh đối với cháu chưa có gì là sâu đậm mà chẳng có gì đáng tin tưởng, vì bản tính cậu hay thay đổi bất ngờ. Nghịch cảnh vừa qua, làm cho cháu bị chạm lòng tự ái và buồn tủi thân phận mình, chỉ gây cho cháu một vết thương tinh thần mà thôi. Vậy dì thấy hiện giờ cháu cần có một cuộc sống bình dị, thanh thản để khuây khỏa tâm hồn.
- Thưa dì, thế cháu phải làm sao?
- Vì lý do trên, dì thấy hiện giờ cháu chưa nên trở lại cù lao Reng và dấn bước vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm khác.
- Vậy cháu nên đi đâu, thưa dì?
- Dì có người chị em – bà Hiền – mở tiệm sách ở Vũng Tàu. Bà đang cần người trông nom, vậy nếu cháu muốn, dì sẽ giới thiệu cháu ra ngoài đó vừa làm việc, vừa đi dưỡng tính tình. Vũng Tàu có trời cao biển rộng, khí hậu trong lành mát mẻ, là nơi lý tưởng cho cháu để thay đổi cuộc sống và lãng quên những cái ti tiện của con người và cái nghịch cảnh mà cháu vừa trải qua.
- Cháu chưa biết Vũng Tàu bao giờ, nhưng cháu xin tin cậy tất cả ở nơi dì, nếu dì giới thiệu cho cháu với bà Hiền cháu xin ghi ơn suốt đời.
- Ơn với huệ gì, nếu cháu được sung sướng là dì được vui rồi.
Nói tới đây, hai người đi lo công việc, và Thủy cố ý tránh không để cậu Vinh gặp nàng những lúc đi coi vườn ruộng.
Ba hôm sau, Thủy mang một bó hoa ra nghĩa địa để viếng mộ ba Từ trước khi từ giã Lái Thiêu để đi Vũng Tàu. Hôm đó bầu trời ảm đạm, lá vàng rơi sào sạc, không khí nghĩa địa vắng ngắt và buồn thảm như có ý chia sẻ nỗi u sầu của người con gái cô đơn.
Thủy quỳ trước mộ, mặc niệm một lúc lâu. Bỗng nhiên, nàng tưởng chừng như ba Từ sắp hiện ra, nàng bèn lâm râm khấn khứa:
- Ba Từ ơi, từ ba năm nay ba đã bỏ con, đời con đã gặp nhiều đau khổ và từ đây con không hiểu ngày mai sẽ ra sao. Trên đường đời, con có thể tin cậy vào ai? Cậu Sơn chăng? Từ ba năm nay, cậu đã tuyệt vô âm tín, nhưng con nghĩ rằng tình bạn của cậu là chân thật. Con có lầm chăng? Ba cho con biết cậu có giống cậu Vinh không? Chắc không, con không thể tin rằng tiền bạc, danh vọng đối với cậu là trên hết.
Thủy khấn nho nhỏ, thỉnh thoảng dừng lại như để chờ đợi câu trả lời. Cầu nguyện xong, nàng đứng dậy, ngẩng nhìn hai ngôi mộ bên cạnh. Mộ bên phải đề tên Sâm và mộ bên trái đề tên Soạn, với chữ S viết thật lớn.
Bỗng Thủy giựt mình. Lúc đó, đôi mắt nàng chỉ còn nhìn thấy hai chữ S và nghĩ rằng nếu chữ viết lớn như thế, không phải là một sự ngẫu nhiên.
- Sơn, nàng lẩm bẩm, tên Sơn cũng bắt đầu bằng chữ S. Ba Từ ơi, con có thể tin cậy vào người bạn đó chăng?
Lúc này, bác Từ vẫn nằm im trong lòng đất, nhưng đối với Thủy, những chữ cái trên mộ bia đã làm nàng chú ý là câu trả lời. Khi nàng từ giã nghĩa địa, nàng tâm niệm sau này có thể tin cậy vào cậu Sơn.
Trên đường về, nàng bước theo những lối quen thuộc trong vườn cây mà thường ngày nàng vẫn đi qua. Tới một chỗ rẽ, bỗng nàng trông thấy xa xa có hai người ngồi dưới gốc một cây soài. Định thần nhìn kỹ, nàng nhận ra cậu Vinh và cô Liên. Lúc đó, nàng thấy nóng mặt và định đi tới để nói một cách công khai cho hai người biết là mai đây, nàng sẽ đi xa và như thế Liên không còn gì phải tức tối nữa.
Nhưng khi tới gần, nàng lại đổi ý không muốn ra mặt nữa sợ người ta hiểu lầm là nàng còn luyến tiếc một cái gì. Dừng chân sau một bờ giậu gần chỗ hai người ngồi, Thủy lắng tai nghe. Vinh giơ tay chỉ khu vườn ruộng bao la trước mặt và nói với Liên:
- Không bao giờ anh có thể chán mắt khi ngắm cảnh vật này. Anh có ngồi ở đây một lần với Thủy, nàng nói chưa bao giờ trông thấy một cảnh đẹp như thế.
- Lại Thủy! Sao lúc nào anh cũng nói tới cái con làm công ấy? Mặc xác nó. Thế bây giờ anh chưa được yên ổn sao
- Không, anh thấy những hành động và mưu toan của em không tốt. Em không có quyền làm như vậy.
- Nó chỉ là con bé làm công nghèo rớt vô duyên.
- Không, Liên ơi, vô duyên thì không đúng.
- Vậy sao anh không cố giữ nó lại, mà để cho bà cụ phải can thiệp cho nó xin rút lui.

- Em đừng nghĩ thế. Anh khổ tâm về những điều em đã làm và định làm.
- Anh nói chi vậy? Thế một ngày kia, nó lại trở về sống dưới mái nhà của anh hay sao?
- Điều đó thì em yên chí. Em cũng như anh sẽ không bao giờ thấy nàng trở lại nhà má anh nữa. Đối với anh, Thủy đã chết rồi, vì anh là con bà Phủ và nàng chỉ là một người giúp việc. Nhưng kỷ niệm của nàng sẽ lưu lại trong tâm hồn anh, mà không phải em sẽ làm cho nó phai mờ đâu nhé.
Rồi hai người im lặng, Thủy từ từ bước đi, suy nghĩ: Thế ra cậu Vinh cũng biết khổ tâm khi thấy những mưu toan thâm độc của Liên. Nàng đã toan xông tới để vạch mặt kẻ thù, nhưng những lời nói của Vinh làm nàng tê liệt. Cậu đã nghĩ đến nàng, cậu vẫn còn nghĩ nữa...nhưng...
Uể oải, bước đi, hai giọt lệ chảy ròng ròng xuống má, nàng nghẹn ngào trong cổ.
“Phải, đúng vậy, điều mơ ước đã quá cao đối với một kẻ làm công như ta, và cảm tình của cậu Vinh đã không sâu đậm như lòng ta mong ước”.
Chương 13
Dì Thảo tiễn đưa Thủy ra tận bến xe để nàng đi Vũng Tàu. Nghĩ đến lòng mến thương và sự giúp đỡ tận tình của dì, Thủy nói với một giọng đầy xúc động:
- Dì không khác nào một bà mẹ thứ hai của cháu. Cháu sẽ nhớ ơn trọn đời.
- Thôi, cháu cứ yên tâm ra ngoài đó. Dì không bao giờ quên cháu và dì biết ở ngoài đó cháu sẽ được an vui. Trên bước đường đời, bất cứ việc gì xảy đến, cháu cũng nên giữ vững “niềm tin”, dì chắc sau này đời sẽ mang lại cho cháu nguồn hạnh phúc xứng đáng.
Xe từ từ chuyển bánh, Thủy không cầm được giọt lệ lúc chia ly.
Chạy được nửa tiếng, xe đã tiến vào xa lộ Biên Hòa. Bữa đó là một sáng chúa nhật đẹp trời. Trên đường thiên lý, từng loạt xe cộ chạy về hướng Vũng Tàu. Phần đông là những gia đình đi hóng gió ngoài bãi biển. Xe cộ gồm đủ loại xe hơi, xe hai bánh, xe đò chở khách, nhiều xe tư gia phải kê thêm ghế phụ ở băng sau mới đủ chỗ ngồi. Lâu lâu, Thủy lại thấy một chiếc xe đã cũ chạy ì à ì ạch, vì ngoài một đại gia đình gồm từ bà nội tóc bạc phơ đến đứa cháu mới biết ngồi, trên xe còn chất thêm đồ ăn, ghế bố, nước ngọt để dùng trên bãi biển.
Những xe hai bánh đủ “mác” cũng không kém thi đua tốc lực. Nhiều xe cũng chở cả đủ mặt bầu đàn thê tử.
Các đoàn xe chạy nối đuôi nhau qua hết một thị trấn lại tới đồng ruộng hay rừng cao su. Du khách rất chú ý tới Quán Chim, Long Thành, rồi rừng Tràm ở Phước Tuy. Mọi chỗ đều nhiều vẻ quyến rũ nhưng du khách không dừng bước vì còn nóng lòng tới nơi mong đợi. Khi suối Cái và cầu Rạch Hào đã vượt qua thì thành phố Vũng Tàu xuất hiện.
Xe của Thủy chạy thẳng ra Bãi Trước. Đây là lần đầu tiên nàng thấy biển. Nàng có một cảm tưởng khoan khoái kỳ diệu. Khi nàng được hút thở những làn không khí đầu tiên mằn mặn và mát dịu từ bể khơi đưa vào, và khi cảnh tượng trời cao biển rộng hiện ra trước mắt nàng như cả một khoảng tự do vô tận. Bên tai nàng, tiếng sóng rì rào nghe như một nhạc điệu ru hồn, nó át hẳn mọi âm thanh khác và nó làm nàng rung động đến tận đáy tim.
Thủy tới tiệm sách của bà Hiền vào lúc mười giờ sáng. Tiệm ở ngay gần chợ. Sau khi xem thư giới thiệu của bà Thảo, bà Hiền lộ vẻ mừng rỡ nói:
- À, tốt quá, cháu ra đây vừa đúng lúc cửa tiệm của dì đang thiếu người trông nom, nếu có cháu thì dì yên tâm hết sức. Trong thư, chị Thảo rất ca tụng các đức tính của cháu nên dì đặt hết lòng tin cậy vào cháu. Ngược lại, cháu cũng có thể coi dì như dì Thảo vậy.
- Thưa dì, cháu được dì thương mến giao phó công việc, cháu rất cảm động và cháu xin hứa sẽ không làm phụ lòng tin cậy của dì.
- Như vậy tốt lắm, bây giờ cháu mang hành lý vô nhà. Dì dành riêng cho cháu một phòng để ở.
Nói xong bà Hiền dắt Thủy vào nhà:
- Phòng của cháu đây.
- Thưa dì vâng.
Thủy thấy căn phòng thật xinh xắn, đồ đạc gọn ghẽ ngăn nắp, cửa sổ có treo chiếc màn thiên thanh trông ra một vườn hoa nho nhỏ, với những đóa hoa mầu sắc rực rỡ đang ngẩng chào ánh dương buổi sáng. Cảnh vật tựa một bức tranh đầy vẻ thái hòa này mang lại cho Thủy một niềm phấn khởi vô biên.
Từ hôm đó, Thủy nhận công việc tiệm sách. Trước kia ở nhà bà Phủ, nàng đã quen tổ chức công việc, tính toán tiền nong sổ sách, nên đối với tiệm sách này nàng không thấy gì bỡ ngỡ.
Nhờ sự vui vẻ, dịu dàng, khả ái của cô hàng tiệm mỗi ngày thêm đông khách, nhất là những ngày thứ bảy chủ nhật có nhiều du khách, phải mở cửa suốt ngày cho tới khuya.
Bù lại, tiệm đóng cửa ngày thứ hai để Thủy có thời giờ nghỉ ngơi và mua thêm hàng hóa tồn kho. Những ngày đầu tuần vắng khách, Thủy dùng thời giờ xếp đặt cửa hàng và đọc sách cổ kim.
Thỉnh thoảng, những ngày nghỉ, Thủy cùng Lan, một bé gái 12 tuổi, cháu gọi bà Hiền bằng cô, rủ nhau đi thăm thú những thắng cảnh Vũng Tàu.
Mỗi lần đi du ngoạn, Thủy lại cảm thấy tâm hồn rạt rào những xúc động kỳ diệu. Ngắm cảnh chán chê, hai cô cháu lại cùng nhau mê mải lần theo những mỏm đá, những vũng nước để bắt cua bắt cá, nhưng nhiều khi chỉ lượm được một ít vỏ trai vỏ ốc mà họ quý như những đồ châu báu, vì mầu sắc óng ánh hay hình dáng lạ lùng. Từ thuở lọt lòng, Thủy chưa bao giờ được hưởng những thú vui hồn nhiên như thế.
Cứ lần bước đi mãi, hai cô cháu chợt khám phá ra, ẩn hiện sau những mỏn đá quây lại như bức thành bao bọc, một làn nước trong vắt, như pha lê, nằm im lặng như ngủ mà một luồng ánh sáng êm dịu đang soi thấu tận đáy cát.
Để thay đổi tầm mắt, hai cô cháu leo lên những đồi cao để nhìn bao quát xuống một vùng biển bao la hơn. Khi đó, Thủy nhìn thấy một mặt biển phẳng lờ, khác hẳn một mặt biển sâu thẳm và sôi động với sóng vỗ ào ào như khi nàng đứng ngay ở bãi cát gần mặt nước.
Đi tới một mỏm núi xa, nàng thấy cảnh vật lại đổi khác. Hai cô cháu dừng chân đứng lại, dưới luồng gió mạnh từ ngoài khơi thổi vào liên miên không dứt, để theo dõi những con hải điểu tung hoành trên không trung rồi sà xuống mặt nước. Dưới chân núi, sóng dội ầm ầm như thác đổ, Thủy mê mãi nhìn theo những ngọn xoáy kinh hồn, rồi lại ngước nhìn lên một ngôi đền vách trắng đứng trơ trơ trên sườn núi như muốn thi gan cùng tuế nguyệt, rồi mắt nàng lại chuyển qua một cánh buồm thấp thoáng tận chân trời.
Đứng giữa khung cảnh bao la hùng vĩ đó, nàng như bị lạc lõng giữa biên giới của đất liền, của biển cả, của trời cao. Lúc đó, nàng thấy mặt biển như một cánh đồng rộng mênh mông bằng nước, một mặt biển màu tím đã được các thi sĩ ngâm vịnh từ ngàn xưa, một mặt biển oai hùng đang cám dỗ trí mạo hiểm và những giấc mơ chinh phục trùng dương của những con người yếu đuối.
Đi mãi đã mỏi chân, hai cô cháu bèn tìm một bóng mát để nghỉ. Thủy ngồi tựa lưng vào vách đá, đôi mắt lim dim mơ mộng. Đàng xa, một con thuyền nhỏ đang bồng bềnh trên mặt sóng làm nàng liên tưởng đến cảnh ngộ của mình. Nhớ lại quãng đời ở Lái Thiêu, nàng bất giác thấy lòng mình se lại. Lúc đó, nếu có dì Thảo bên cạnh, chắc dì đã khuyên Thủy:
Thôi vương vấn chi hoài chuyện cũ, 
Mặc tình cho sóng gió nỉ non, 
Lòng tơ luống lại bồn chồn, 
Khơi dòng hoài niệm, ngừng tuôn mạch sầu.
Chương 14
Cuộc sống mới, với công việc đều đặn hàng ngày, với lòng thương mến của bà Hiền và của bé Lan, với những thú vui hồn nhiên, đã mang lại cho Thủy sự khuây khỏa và một niềm vui giản dị thanh cao. Dần dần, xóa nhòa trong tâm khảm của cô gái cù lao Reng.
Hai năm trôi qua... Một buổi sáng thứ ba, Thủy đang ngồi tính sổ sách, chợt một ông khách vào tiệm sách để mua hình ảnh. Sau khi lựa trên giá quay mấy tấm hình chụp phong cảnh Vũng Tàu và Long Hải, ông khách tiến đến quầy trả tiền.
Thủy đếm tiền trả lại và khi ngước lên, nàng thấy ông khách nhìn mình một cách chăm chú làm nàng phát ngượng. Ông khách bỗng cất tiếng hỏi:
- Xin lỗi cô, cô có phải là cô Thủy?
Nàng ngơ ngác đáp:
- Thưa vâng, nhưng xin lỗi, ông là ai?
- Tôi là Sơn ở Cao Lãnh.
Nàng giật bắn mình, kêu lên:
- Trời ơi! Cậu Sơn, trông cậu bây giờ khác quá, tôi không thể nào nhận ra.
- Vâng, chính cô Thủy cũng đổi khác nhiều lắm, nhưng vẫn còn giữ những nét đặc biệt mà tôi không thể quên được từ 5 năm nay, nên tôi mới nhận ra Thủy.
Rồi hai người không dấu nổi sự xúc động, không thốt được nên lời, hình như để cố ngăn những tiếng thổn thức nghẹn ngào trong cổ.
Sau một lúc lâu, nỗi xúc cảm đã nguôi nguôi, Thủy mời Sơn ngồi rồi nàng vào nhà trong lấy nước uống, luôn tiện mời bà Hiền ra để giới thiệu. Sau khi chủ khách chào hỏi, bà Hiền lui vào trong để hai người nói chuyện. Sơn bèn lên tiếng trước:
- Chắc Thủy vẫn thắc mắc không hiểu sao từ 5 năm nay tôi tuyệt âm vô tín.
- Vâng, tôi chỉ đoán chừng cậu bận học hành.
- Nếu chỉ bận học hành thì những vụ hè tôi vẫn có thể tìm đến thăm Thủy chứ.
- Cũng có lúc thôi nghĩ hoặc giả cậu đã quên con bé mọi rợ ở cù lao Reng.
- Trời ơi! Mỉa mai tệ! Chỉ khi xuống tuyền đài tôi mới có thể quên được.
- Thật vậy ư, thưa cậu? Thủy cảm động quá. Vậy nếu cậu không quên thì vì lẽ gì ạ?

- Chắc Thủy còn nhớ, năm đó, khi chúng mình chia tay, hôm sau tôi phải lên ngay Sàigòn để sửa soạn thi vào Đại Học Nông Lâm Súc. Sau đó, ba tôi đổi ý kiến và cho tôi qua ngoại quốc để học ngành bác sĩ thú y, cũng tương tự. Tôi vẫn muốn viết thư về cho Thủy, nhưng không rõ địa chỉ thế nào, mà gởi người quen thì cũng không tiện. Nay tôi đã tốt nghiệp trở về được ít ngày. Tôi ra đây vì công việc, nhân tiện nghỉ một vài tuần, sau đó tôi sẽ đi tìm Thủy. Ngờ đâu, không hẹn mà lại gặp Thủy ở đây, thật là Trời kia đã giúp tôi.
Ngưng lại để nhấp ly nước, Sơn hỏi tiếp:
- Còn Thủy thế nào? Có phải từ cù lao Reng, Thủy đã dùng con đò kỷ niệm để phiêu lưu xuôi giòng Tiền Giang, rồi vượt biển tới đổ bộ ở Vũng Tàu này phải không?
Hai người cùng cả cười.
- Cậu khôi hài quá. Chắc là cậu nhớ tới hành động dại dột của Thủy hồi đó chớ gì?
- Không những tôi nhớ mà còn phục nữa. Ấy chính là nhờ cái dại dột đó mà Thủy đã thành vị cứu tinh của tôi. Nếu không thì sao bây giờ tôi có hân hạnh ngồi đây?
- Chuyện Thủy ly kỳ lắm, kể hết cho cậu nghe thì phải mất cả ngày. Thủy chỉ xin tóm tắt.
Khi Thủy kể xong câu chuyện của nàng, Sơn không khỏi bồi hồi tấc dạ, chàng an ủi:
- Tôi thấy trong cái rủi thường có nhiều cái may. Nhưng chính sự đau khổ rèn luyện con người và giúp ta hiểu được chân lý. Thủy cũng ở trong trường hợp đó.
- Thủy không dám nhận là đã hiểu được chân lý, nhưng Thủy rất hiểu tư tưởng của cậu.
Lúc này đã gần 12 giờ trưa, Sơn cáo biệt ra về. Và từ hôm sau, hàng ngày chàng đều mang hoa lại tặng Thủy. Trong những cuộc đàm luận, chàng rất ngạc nhiên thấy Thủy hiểu biết rộng về triết lý người đời. Trong khi đang vui câu chuyện, Sơn nói:
- Chẳng dám dấu gì Thủy, có một điều tôi thấy ân hận là từ hôm gặp lại Thủy ở đây, Thủy vẫn giữ cách xưng hô từ 5 năm trước, nó có vẻ xa lạ quá đi. Vậy tôi muốn xin Thủy một ngôn từ khác được chăng?
- Xin tùy... “anh”.
- Cảm ơn Thủy lắm.
Thấm thoát, một tuần lễ trôi qua. Một hôn Sơn cho biết nhân dịp bế mạc một cuộc hội thảo ở Vũng Tàu, các sinh viên liên viện Đại Học sẽ tổ chức một buổi dạ hội văn nghệ, có mời chàng tới tham dự, vì chàng thuộc thành phần ban giảng huấn Đại Học. Chàng ngỏ lời mời Thủy cùng mình đi dự.
- Thủy rất cám ơn anh, nhưng xin anh miễn cho Thủy không thích tới những nơi đông đúc.
- Chẳng mấy khi tôi có dịp mời Thủy.
- Nhưng tôi không đi được, anh hiểu cho.
- Hay là Thủy sợ rằng mình không xinh đẹp, hoặc không ăn vận sang trọng bằng ai?
- Thế anh không biết cái căn nhà mà trong đó xưa kia tôi được nuôi dưỡng hay sao!
- Điều đó thì có gì là quan trọng.
- Tôi thấy những y phục lộng lẫy và những cử chỉ lịch sự không phải dành cho tôi.
- Trời ơi! Có phải vì thế mà Thủy e ngại thật sao?
Nàng không đáp. Sơn nói tiếp với một giọng tha thiết:
- Từ ngày tôi gặp lại Thủy ở đây, tôi có cảm tưởng rằng Thủy còn dấu tôi một điều gì về đời Thủy. Tôi đã được nghe Thủy kể lại rất dài về cuộc hành trình từ Cao Lãnh lên Lái Thiêu, về cái chết đột ngột của ba Từ, về đời sống ở Vũng Tàu này. Còn đời sống ở Lái Thiêu, Thủy chỉ kể lướt qua, mặc dầu Thủy đã ở đó được ba năm.
Thủy vẫn im lặng. Nhưng Sơn nhận thấy Thủy có vẻ bối rối nên chàng nói nho nhỏ:
- Tôi rất đau khổ khi nghĩ rằng một điều gì bí mật đã ngăn cách chúng ta. Tôi vẫn tưởng rằng Thủy tin cậy ở nơi tôi, nhưng tôi lầm. Tại sao Thủy không muốn đáp lại lời mời của tôi để đi dự buổi văn nghệ đó, nói cho tôi biết đi.
Nàng ngập ngừng một lát, rồi quay đi như có vẻ hổ thẹn, nàng kể lại cho Sơn nghe quãng đời ở Lái Thiêu, chuyện cậu Vinh, chuyện đi phù dâu, tiếp đến sự thất vọng. Nàng nói rất dài như sống lại thời gian ở Lái Thiêu. Khi kể xong nàng bưng mặt khóc.
- Anh Sơn, anh hiểu câu chuyện của tôi rồi. Tôi đã bị đau khổ nên bây giờ tôi không muốn làm gì khác một đứa con gái quê mùa, tầm thường.
- Đối với tôi cũng thế sao?
- Tôi được biết rằng tình bạn không phải là tất cả.
- Đối với cậu Vinh có lẽ đúng, nhưng còn đối với tôi?
- Có lẽ đối với anh cũng vậy, mà anh không hay biết.
- Trời ơi! Thủy làm con tim tôi đau nhói.
Chàng nói xong đứng dậy từ từ ra cửa, vì sợ ở đó không dấu được nỗi hận lòng.
Còn lại một mình, Thủy bỗng cảm thấy nỗi thất vọng tràn ngập tâm hồn, vì nàng đã làm cho Sơn mang hận. Từ trong nhà bước ra, bà Hiền thấy mắt nàng còn ngấn lệ vội hỏi:
- Cháu Thủy, có chuyện chi vậy? Sao cậu Sơn lại bỏ đi?
Nàng bèn thuật lại cuộc đối thoại vừa rồi và kể cả chuyện cậu Vinh ở Lái Thiêu.
- Tội nghiệp, chỉ vì lẽ đó mà cháu từ chối không đi dự dạ hội với cậu Sơn hay sao? Thế cháu không tin rằng cậu sẽ vui sướng và hãnh diện đến bậc nào khi có cháu đi cùng?
- Thưa dì cháu biết, nhưng cháu e ngại quá.
- Dì biết cậu ta rất quí mến cháu, quí mến một cách thật tình. Vậy cháu chẳng nên từ chối.
Nàng không đáp. Suốt cả ngày và một đêm hôm đó, nàng luôn luôn nghĩ đến Sơn, đến sự buồn phiền đã gây cho chàng. Hôm sau, khi chàng tới, nàng ra đón tiếp rất niềm nở.
- Anh Sơn, hôm qua tôi tàn nhẫn quá, anh tha lỗi cho tôi nhá. Bữa nào dạ hội, tôi sẽ đi dự cùng anh.
Chàng rất cảm động đáp:
- Thủy ơi, tôi biết rằng lòng tin cậy của Thủy sẽ trở lại.
Hai hôm sau, buổi văn nghệ được trình diễn trong một phòng rộng lớn trang hoàng lộng lẫy. Ở cuối phòng là một sân khấu, căng nỉ màu huyết dụ. Thủy cảm thấy bỡ ngỡ trong không khí tưng bừng đó, nhưng bên cạnh đã có Sơn nên nàng thấy yên dạ. Chàng nói với một giọng kiêu hãnh:
- Thủy coi kìa, mọi người đều quay nhìn Thủy, em không thấy sung sướng sao? Anh thì rất hãnh diện.
Sơn đã nói đúng. Vẻ đẹp cao quí rất khả ái của Thủy đã làm nhiều người chú ý và nhiều bà, các cô thuộc giới thượng lưu Vũng Tàu cũng mơ ước. Lúc đó, Thủy tưởng mình như đang sống trở lại bữa tiệc cưới ở Lái Thiêu, nàng tự nghĩ:
- Không, ta muốn xóa nhòa các kỷ niệm đó. Sơn không bao giờ giống Vinh.
Đôi bạn đi tới chỗ ngồi đã đành cho hai người.
- Chương trình hôm nay có gì thế anh? Thủy hỏi.
- Anh được biết có phần trình diễn ca nhạc, rồi đến tiệc trà.
Quan khách đã tới đông đủ, nhạc hội bắt đầu khai diễn.
Thủy cảm động quá nên hình như nàng không chăm chú mấy đến các màn trình diễn. Thỉnh thoảng, nàng lại ngước mắt lên nhìn Sơn và thầm nghĩ:
“Có đúng rằng anh không giống cậu Vinh chăng? Giá như hồi trước ta không ở Lái Thiêu, thì có phải bữa nay ta được hoàn toàn sung sướng không?”
Chốc chốc Sơn cũng quay sang nhìn Thủy bằng con mắt thật dịu dàng, âu yếm, làm cho nàng thấy bối rối.
Trên sân khấu, các diễn viên với tài năng điêu luyện đã lôi cuốn khán giả qua những bài ca điệu hát lúc nghiêm trang, lúc hùng hồn, lúc đằm thắm, lúc êm dịu du dương.
Đôi bạn Sơn và Thủy có vẻ thich nhất những bài dân ca, như bài “Hát chèo thuyền” nói lên đời sống cần cù, không quản nguy nan và cái chí bất khuất của người dân Việt qua câu ca dao.
Chồng chài, vợ lưới, con câu.
Lênh đênh biển cả biết đâu bến bờ.
Khi nên tay kiếm tay cờ.
Không nên ta cũng chẳng nhờ cậy ai.
Hoặc như bài “Lý giao duyên” rất đằm thắm, lưu gót người viễn xứ bằng câu:
Tới đây thì ở lại đây.
Bao giờ bén rể xanh cây thì về.
Trong hơn một tiếng đồng hồ, đoàn văn nghệ sinh viên đã làm khán thính giả say mê, thả hồn theo những âm điệu tuyệt vời.
Tiếp theo đó là một tiệc trà. Sơn chạy ra gặp một số bạn quen, khi trở về chỗ cũ thì thấy Thủy đã biến mất. Chàng bèn đi kiếm khắp nơi trong phòng nhưng không thấy. Lo lắng, chàng tiến ra phía vườn, nhìn khắp các lối đi tranh tối tranh sáng. Chẳng thấy Thủy đâu, chàng lại trở vào phòng. Không nghi ngờ gì nữa, chàng đoán rằng Thủy khó ở nên về trước để khỏi phiền cho anh. Chàng bèn hỏi thăm mấy anh sinh viên phụ trách trật tự ngoài cửa.
- Có, có, chúng em có thấy một cô đúng như anh tả, áo hồng, tóc bới cao, vừa ra khỏi đây độ mười lăm phút.
Sơn vội vàng ra xe về tới nhà bà Hiền thì thấy Thủy đang ngồi ở ghế mặt có vẻ nhợt nhạt. Bà Hiền ngồi bên cạnh đang khuyên giải. Sơn tưởng là nàng khó chịu bất ngờ, muốn dấu chàng nên bỏ về một cách vội vàng.
- Thủy, em làm sao vậy?
Nàng không trả lời. Sơn nhìn bà Hiền ra ý dò hỏi nhưng bà lắc đầu tỏ vẻ không biết.
- Thủy, sao đang vui em lại bỏ về? Anh có làm gì cho em phật ý không?
- Không, không.
- Vậy thì tại sao?
Mọi người im lặng. Bà Hiền đứng dậy đi vào nhà. Một ngọn đèn nhỏ soi gian phòng nên Sơn không thấy rõ mặt nàng đang cúi
- Thủy, nói cho anh yên tâm.
- Em xin lỗi anh, đáng lẽ em không nhận đi dự dạ hội với anh mới phải.
- Sao lại lỗi em?
- Phải, lỗi em đã tin vào giấc mơ đẹp đó.
- Dầu sao em vẫn là nàng tiên của lòng anh kia mà.
- Không, anh Sơn, khi em trút bỏ bộ áo dạ hội này ra, em lại trở thành một kẻ tầm thường, mà chẳng một ai, kể cả em, biết từ đâu đến.
- Điều đó thì có quan hệ gì? Em tưởng rằng tình bạn của enh đối với em chỉ ở bộ áo mà thôi sao?
- Anh là giới thượng lưu xã hội, danh vọng có thừa, thiếu gì người ưa chuộng.
- Em nói chi lạ vậy?
- Anh biết em là một đứa con gái mọi rợ, tàn nhẫn.
- Đừng nói vậy em.
Rồi nàng sụt sùi khóc. Sơn ngồi yên lặng. Đợi cho nàng vơi bớt cơn sầu, chàng nói:
- Thủy, anh rất buồn khi thấy em tỏ ra thất vọng như thế. Nhưng tại sao em bỏ ra về, không đợi khi tiệc tàn anh sẽ nói với em một điều.
Nàng nhìn Sơn với đôi mắt dò hỏi:
- Điều gì vậy anh?
- Là ngày mốt anh sẽ về Cao Lãnh để thưa chuyện em với ba anh.
- Chuyện em?
- Anh sẽ xin phép ba anh cho anh được cùng em xây dựng hạnh phúc tương lai. Đó là điều anh muốn nói với em khi tan tiệc.
Thủy tự hỏi không biết có phải nàng đang mơ chăng? Lời Sơn nói có đúng không? Nàng nhìn Sơn rất lâu như vẫn còn nghi ngờ, rồi nàng bật khóc vì sung sướng.
Sau đó, hai người bàn tính công việc trong những ngày sắp tới. Ngày mốt thì Sơn sẽ giã từ Vũng Tàu. Một tuần sau vào ngày thứ sáu, Thủy sẽ khởi hành về Cao Lãnh, Sơn sẽ ra đón nàng ở bến xe vào lúc bốn giờ chiều. Đôi bạn sẽ tới cù lao Reng để thăm ngôi nhà cũ của ba Từ và tìm chiếc hộp bí mật. Bé Lan sẽ tạm thay Thủy để trông nom cửa hàng khi nàng đi vắng.
Thùy Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Áo Hoa Ngày luân chuyển theo nhịp điệu của trời đất. Sài gòn sớm mai mờ hơi sương trong se lạnh mùa noel. Thời gian như muốn tạo một d...