Truyện ngắn Nguyễn Tuân
1. Bữa Rượu Máu
Phía tây thành B. trên một nền đất rộng đổ sát vào chân thành
cho lầu gạch ngoài thành được thêm vững chãi, lũ cây chuối mật tha hồ mặc sức
mà mọc. Nó um tùm, tàu lá rộng và không bị gió đánh rách, che kín cả bóng mặt
trời. Trên áng cỏ bốn mùa ẩm ướt, loài nấm dại sinh nở hết sức bừa bộn.
Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm
không có vết chân người.
Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định
tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống
trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua
ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa Ngân đổ lên vườn chuối một khúc nhạc
suông nghe buồn thỉu buồn thiu.
Vườn chuối phía tây thành sớm nay quang đãng khác mọi ngày.
Trên mặt cỏ ngổn ngang nhựa thẫm màu. Nhựa ấy bị không khí làm se lại, kết nên
thành những khối keo quyện chặt lấy bùi cỏ gà.
Cùng một buổi chiều ấy, mấy người vợ lính cơ đứng trong luống
bãi dâu trồng ở dưới chân thành, sát ngay với bờ hào được nghe tiếng người hát
trên ngọn thành, ở trên đầu họ, đúng ngay chỗ vườn chuối im lìm của mọi ngày.
Tiếng người trên mặt ngọn thành cũ hát rằng:
"Trời nổi cơn lốc
"Cảnh càng u sầu
"Tiếng loa vừa dậy
"Hồi chiêng mớm mau
"Ta hoa thanh quất
"Cỏ xanh đổi màu
"Sống không thù nhau
"Chết không oán nhau
"Thừa chịu lệnh cả
"Dám nghĩ thế nào
"Người ngồi cho vững
"Cho ngọt nhát dao
"Hỡi hồn!
"Hỡi quỷ không đầu!"
Người ở trên mặt thành hát đến đâu thì tiếng những thân cây
chuối đổ xuống mặt đấy tường thành lại kêu roạt roạt đến đấy. Bọn người đàn bà
hái dâu ngừng tay bứt lá, nghiêng đầu lắng nghe kỹ. Cái bài hát năm mươi tư chữ
nghe như bài sai của thầy phù thủy, đã hát đi hát lại đến mấy lần. Cứ xong mỗi
câu thì lại có một tiếng roạt. Chỉ có cây chuối bị chặt mạnh mình lìa hẳn gốc,
đổ vật xuống mặt đất thì mới kêu roạt roạt như vậy thôi. Nhưng mà ai chặt chuối?
Không phải hẳn là cấm địa, nhưng góc thành sau kho lúa kia cũng là một miếng đất
cấm, ai dám vượt phép quan vào đấy mà hát, mà phá vườn. Có chăng là làm loạn.
Những người vợ lính cơ, quen sống trong không khí loạn lìa,
chiều nay và đêm nay bàn tán mãi về cái tiếng hát trên vườn chuối mặt tường
thành. Chồng họ cũng lấy làm lạ và tự nhủ ngày mai vào trại sẽ hỏi chuyện cho
rõ.
Buổi sáng hôm sau, bọn vợ lính cơ, thêm được ít người tò mò nữa
kéo đến vườn dâu ngoài thành, vẫn nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt thành, với
những câu hát rõ mồn một:
" Ta hoa thanh quất
" Cỏ xanh đổi màu
" Sống không thù nhau
" Chết không oán nhau...
Khi nghỉ ngơi, lúc họ mang chuyện đó về nhà thì những người
lính cơ đều ra vẻ cảm động sợ hãi và cắt nghĩa:
- Ông Bát Lê sắp làm việc đấy.
-???
- Ông lớn sắp đem mười mấy người ra chém. Và tiếng người hát
trên mặt thành là tiếng ông Bát Lê đang tập múa thanh quất ở vườn chuối đấy.
- Múa thanh quất? Ở vườn chuối? Sao lại hát những câu ghê thế?
Và ông Bát Lê vốn chém người đã nổi tiếng, còn phải tập với tành gì nữa?
- U mày không hiểu. Lâu nay ông Bát không phải khai đao vì
Ông Lớn thấy già yếu muốn cho nghỉ tay. Mỗi lần có án trảm, ông Bát chỉ phải ra
pháp trường cho có mặt thôi. Còn công việc thì đã có người khác đỡ tay. Nhưng vẫn
cứ được tiền thưởng. Ðã đến gần một năm nay ông Bát không cầu đến thanh quất.
Không hiểu tại sao, lần này Ông Lớn lại cho gọi ông Bát ra cho kỳ được và xem
chừng như ngài săn sóc đến cái vụ xử trảm này nhiều lắm.
Lui vào tư thất, quan Tổng đốc sung chức Ðổng lý Quân vụ,
nhác thấy lão Lê đang co tay úp lên mang tai nhìn vào đám vàng son lộng lẫy nhà
riêng mình, ngài liền quở:
-Ê! bữa nay, chú đi đâu? Ta cho thằng Cửu nó sang gọi mấy lần
đều thấy đóng cửa.
- Bẩm lạy Ông lớn, ít lâu nay con về nhà quê. Giá như ngày
trước, có khi nào con dám đi xa, sớm tối lúc nào cũng phải ở trong nội thành,
phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây. Ông Lớn thương
phận già nua cho con được nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Ðược tin
Ông Lớn cho đòi, con vội vã vào hầu, xin Ông Lớn tha tội. Con chờ lệnh Ông Lớn
truyền xuống.
- Thôi, cho đứng dậy.
Quan Đổng lý Quân vụ ngả mình trên ghế bành vàng và son, hất
hàm hỏi tên bát phẩm đầy tớ già đang co ro người bên chiếc cột:
- Liệu bây giờ chém còn mát tay nữa không?
- Dạ.
- Dạ sao? Chú có biết ta sắp cho xuống cái lệnh chi không?
- Dạ.
- Có mười hai tên tử tù sắp phải hành hình. Quan Công sứ muốn
được thị kiến lúc bọn hắm chịu án trảm. Ngươi chém thế nào cho gọn thì chém, hễ
chém một đầu đến hai nhát thì không những ta truất tiền thưởng mà người còn bị
quở nữa. Chém cho thực ngọt.
- Dạ.
- Tiền thưởng này chính của Quan Công sứ cho. Ta muốn giữ phần
cho người nên ta cho gọi vào mà lĩnh lấy việc này, gọi là kiếm một chút bổng để
dưỡng tuổi già. Chú phải biết khi nhận lấy muời hai tên tử tù là chú phải làm
việc cho đầy đủ. Chớ để phiền đến ta. Ta đã trót khoe khoang cái tài chém
"treo ngành" của chú với quan Công sứ. Chú nghĩ thế nào?
- Dạ, bẩm Ông Lớn đã thương đến phận tôi tớ chúng con xin hết
sức tuân theo. Nhưng bây giờ con già yếu lắm, không biết có còn làm được việc
như hồi xưa nữa không. Vả chăng gần một năm nay không cầm đến mã tấu con e có
điều hơi lạc mất đường đao.
- Ta đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Chú còn đủ thời giờ để tập lại
lối chém treo ngành. Nếu cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền lại
cho một ngườii nào được thì một lần cuối cùng này nữa, chú cũng nên cho một vị
quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém của một người đầy tớ hầu cận ta là như thế
nào.
- Dạ, bẩm Ông lớn...
- Chú đừng nhiều lời. Ðây này, ta cho chú mượn thanh quất của
ta mà làm việc. Sẵn có vườn chuối ở sau kho lúa, cho phép chú lên đó mà tập. Có
ai ngăn cản, cứ đưa cái tín bài này ra cho họ nom rõ.
Quan Ðổng lý Quân vụ rút khỏi ống bút trên bàn một lá thẻ đỏ,
viết mấy chữ thảo vào mặt thẻ sơn trắng, trao cho Bát Lê.
Thế là từ hôm ấy Bát Lê lĩnh thanh quất của quan Tổng đốc leo
lên tường thành, xông xáo trong vườn chuối, hết sức tự do, hết sức tàn nhẫn,
chém ngang thân loài thực vật, trước khi chém vào cổ mười hai tên tù đang nằm đợi
ngày cuối cùng.
Vườn chuối trên mặt thành vốn mọc không có hàng lối nhất định.
Ông Bát phẩm Lê phải chọn lựa mãi mới được mấy dẫy chuối mọc theo hàng lối thẳng
thắn. Y soạc cẳng, lấy bước chân đo những quãng trống từ một gốc chuối này đến
một gốc chuối khác. Tiến lên, lùi xuống, đo ngang, đo dọc tự cho là tạm tạm được,
y bèn nhẹ nhàng phát hết những tàu lá chuối rườm rà. Ðấy là cái khu dọn dẹp sẵn
để nhân lấy sự thí nghiệm sau hết của một thanh quất bị bỏ quên đã lâu ngày.
Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ
càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém
không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để
mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, y nhảy nhót trong vườn
chuối, đưa lưỡi gươm qua bên phải lại múa lưỡi gươm qua bên trái, thanh gươm
hai lưỡi gọn gàng, nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu lớp
sương đêm. Mảnh khăn vuông vải trắng bịt tóc Bát Lê đã đẫm ướt và nhựa chuối
chát thấm vào đất, gặp ánh nắng sớm, đã xuống màu dần dần.
Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc, nhẩy nhót
như một kẻ điên cuồng. Cứ mỗi một cây chuối gẫy gục xuống cỏ đánh roạt một cái
thì Bát Lê lại cất tiếng hát:
" Sống không thù nhau
" Chết không oán nhau
Câu hát được những tiếng cây chuối đổ chấm câu cho và đã vẳng
từ trên mặt thành xuống mặt một bãi dâu ở chân thành...
Tập như thế cho thuần tay hết một buổi sớm và một buổi chiều.
Bát Lê sớm ngày hôm sau lại trở lại vười chuối đã rầu cả lá, đã khô cả vết
thương. Y hồi hộp chống gươm xuống mặt đất ẩm ngổn ngang sự tàn phá, như một võ
sinh sắp trổ tài ở võ trường với sự phân vân, lo ngại của phút biểu diễn. Rồi
Bát Lê trịnh trọng tiến vào cái khu vườn chuối đã dọn từ hôm trước để nhận lấy
lưỡi gươm thí nghiệm cuối cùng của một cuộc tập chém. Y đứng vào giữa hai dãy
chuối, tay phải cầm ngang thanh quất.
Y lùi lại ba bước, lấy hơi thở cho đều, vừa hát to câu:
" Tiếng loa vừa dậy "
vừa tiến mạnh lên, thuận tay chém vào cây chuối đầu tiên dãy
bên phải. Ðà gươm mạnh từ cao soải xuống theo một chiều chếch, tưởng gặp đến gỗ
cứng cũng lướt qua. Thế mà thanh quất chỉ ngập vào chiều sâu thân cây độ chín
phần mười. Lưỡi thanh quất bị ngừng ở cái cữ ấy, rồi lại được lấy ra khỏi thân
cây chảy mủ. Vừa giật lưỡi thanh quất khỏi thân cây đang từ từ gục xuống, vừa
hát một câu nữa:
"Hồi chiêng mớm mau"
Bát Lę lại tiến thęm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu
dãy bên trái. Bái Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai.
Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân hình người quỳ chịu tội. Thế rồi
vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải. Bát Lê đã hát hết mười bốn câu,
và đánh gục mười bốn cây chuối. Bát Lê quay mình lại, ngắm các công trình phá
hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫy còn
dính vào phần gốc bởi một lần bẹ giập nát.
Bát Lê mỉm cười, gỡ cái khăn chùm trên đầu, lau lưỡi gươm vào
đấy, vuông vải lại dẫm thêm chất nhựa xám.
Thế là xong một cuộc tập chém lối treo ngành. Và Bát Lê cũng
vui vẻ trong lòng đợi ngày nhật tù. Ði từ bề cao nền cỏ xuống chân thành, qua
những bậc cấp thúc vào lòng đất. Bát Lê chốc chốc lại dừng bước lại và ưỡn mình
về phía sau, ngắm cánh tay khẳng kheo mình đang lăm lăm cầm lưỡi gươm.
Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý Quân vụ một buổi chiều thu quyết
đã đổi màu. Mọi khi, ở đấy chỉ có bê, bò được thả lỏng cúi cổ ngốn áng cỏ tươi
bên cạnh một tốp lính hiền lành, tay cầm lưỡi liềm cắt cỏ về cho ngựa quan ăn.
Bây giờ ở đấy, người dựng lên một cái nhà rạp cỏ tàn, cỏ quạt, cỏ cờ ngũ hành.
Trước nhà rạp người ta chôn sẵn mười hai cái cọc tre bị vồ gỗ đập mạnh xuống
toét cả đầu. Và đánh đai lấy khu nhà rạp rộng độ một mẫu, mấy trăm lính mặc áo
có dấu, có nẹp đã tề chỉnh tuốt gươm trần để thị uy.
Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đấy thì sáng hơn là nền trời.
Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái lạ. Những bức tranh mây
chó màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt.
Mọi người chờ đợi một cái gì.
Từ phía nhà ngục, mười hai con người chậm chạp tiến tới giữa
hai tốp lính áp giải. Bãi cỏ im lìm đến nỗi tiếng gông lũ tù giây va vào nhau
theo một nhịp bước rụt dè nghe cứ rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu định
liệu bước đi cho cỗ đòn đám.
Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn chỗ cọc tre và
trong một lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Lũ tử tù bị trói giật
cánh khuỷu, quỳ gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch
nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông,
nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân
lúc quỳ phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như
thế, tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi đao thả mạng xuống cái cổ
căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người họ.
Trông xa, họ có cái cứng thản nhiên của những tượng đá tạc hình người Chiêm
thành quỳ trước sân đền thờ vua Lý.
Tiếng nhạc bát âm thổi bài Lưu thủy trường gần mãi lại. Rồi
trong một giây phút mọi người lắng rő tiếng sênh tiền. Ai nấy nín thở. Trông ra
cờ quạt kín cả nền trời và lính tráng kín cả mặt cỏ. Bụi cát bay mů như lúc có
cuộc hŕnh quân. quan Công sứ mặc đồ binh phục trắng có ngù kim tuyến đi ngang
hàng cùng quan Tổng đốc. Hai quan đầu tỉnh - một người đi ghệt, một người đi ủng
- đều gò bước đi cho nó ăn nhập với cái long trọng của pháp trường. Những tên
lính tỉnh gầy ốm che sát vào người hai Ông Lớn mọi thứ tàn vàng, tán lía, lọng
xanh.
Cái đầu chúng không dám phạm thượng cúi gầm xuống mặt đất,
nhìn cánh cỏ may chọc thủng ống quần mình.
Trong nhà rạp, các quan an vị. Ông thông ngôn người Nam kỳ đứng
khoanh tay đằng sau quan Lưu trú Pháp. Quan Tổng đốc nói trước:
- Những người sắp bị hành hình kia là dư đảng giặc Bãi Sậy.
Ty chức rất mong rằng đấy là những kẻ phiến loạn cuối cùng. Và nhờ hồng phúc của
Quan Lớn, cuộc trị an ở xứ này chóng định.
Bát Lę cầm gươm tiến đến trước nhà rạp, vòng tay thu lưỡi
gươm lại, vài một vái, cúi mặt đứng im. Quan Tổng đốc nhớm mình khỏi mặt ghế
bành:
- Xin phép Quan Lớn cho ty chức được trình với Quan Lớn một
tên đầy tớ trung thành. Hắn là đao phủ thủ tại pháp trường hôm nay.
- Có phải cái người mà Quan Lớn nói là có tŕi chém đầu người
chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lằn da cổ đó không?
- Dạ. Mấy hôm nay hắn hạ thủ trong một hơi những mười hai cái
đầu. Bây giờ để xin ra lệnh khai đao.
Quan Công sứ gật. Viên giám trảm và Bát Lê đều lùi ra ngoài rất
mau.
Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Rứt mỗi hồi
chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li!
Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát những
câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp các quan chỉ nghe thấy cái âm lơ lớ
rờn rợn. Quan Công sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và múa
hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục đến đấy. Những tia
máu phun kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một
chếc thủ cấp nào rụng xuống.
Bát Lê làm xong công việc, không nghỉ ngơi chạy tuốt vào đứng
trước nhà rạp. Bấy giờ quan Công sứ mới nhìn kỹ. Y mặc áo dài trắng, một dải
giây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng của y không có một
giọt máu phun tới, quan Công sứ gật gù hỏi quan Tổng đốc để nhớ lấy tên họ một
người đao phủ có lối chém treo ngành rất ngọt. Ngài thưởng cho Bát Lê mấy cọc bạc
đồng bà lão.
Lúc quan Lưu trú gần cầm mũ cáo từ về tòa Sứ, quan Tổng lý
quân vụ còn ân cần buộc ông thông ngôn Nam kỳ dịch cho đủ câu này:
- Bẩm Quan Lớn, chém treo ngành như thế này là phải lựa vào
những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhộn nhạo
quá, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chỗ đôi cây tre đực dài
ra, cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Ðại để nó
cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc
ngang như người ta róc mắt mía.
Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn
dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một
trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc
cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút cát, bụi
lên, xoay vòng quanh đám tử thi.
Bấy giờ vào khoảng giữa giờ Thân.
2. Những Chiếc Ấm Đất.
Bóng nắng gần tới đỉnh đầu. Sư cụ chùa Đồi Mai thủng thẳng trở
về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu lờ, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng
con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:
- Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.
- Vậy chú vẫn đóng cửa chùa đó à? Chú ra mở mau không có người
ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ:
sáng sớm tụng kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối
đến, lúc nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương họ kêu đấy.
Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bảy tuổi
xúng xính trong chiếc áo dài thâm, chân xéo lấm, tay bưng cái khay tiến vào
tăng xá, vái sư cụ:
- Bạch cụ, thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu
xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.
Nhà sư già đã quen với những việc biếu và xin mượn này ở dưới
cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm
áp thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành thôi.
- Thế cháu đựng nước bằng cái gì?
- Dạ có người nhà quẩy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.
- Ai di đà phật? Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy
nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa
tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa
hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.
- Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.
Sư cụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.
- Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm
nay rồi không? Gần mười năm. Uống trà tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước
giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy
cháu xem là như thế nào. Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa
đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ.
Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác
tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ
Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia,
liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
- Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống
trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang chờ nước về.
Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ
rút trong tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt,
nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:
- Chú chạy mau ra vườn, bẻ mấy cành lá đào.
Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:
- ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi
nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.
Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi
nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường
những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng
đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát. Ví buổi trưa hè này là một
đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt
sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại
trần.
ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi,
làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất. Giống như vệt khói nhờ, nắng vờn
qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng
chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già nheo nheo cặp mắt,
nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi
chuyển động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi
mạnh, nhiều cơn, đã đem cả mảnh bụi trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo.
Nhà sư nghĩ đến cụ Sáu, thở dài tỏ ý tiếc cho một kiếp chúng sinh còn vướng mãi
vòng nghiệp chướng.
Cụ Sáu vốn đi lại với chùa đây kể ra đã lâu. Từ trước cái hồi
nhà sư già tới trụ trì. Mấy pho tượng Phật Tam thế bằng gỗ mít đặt ở trên bệ và
mấy pho Kinh in giấy đại thừa là của cụ Sáu cúng đấy. Cái chuông treo ở trên
nhà phương trượng cũng là của ông cụ Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa. Và mỗi
lần nhà chùa lập phả khuyến thì ông cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai ở xa làng
mạc biệt lập trên một khu đồi nên cũng ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Thỉnh
thoảng trong bọn khách đến chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Tháng một
lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt,
nhà sư cũng chân thành tặng khách một rò lan Chu Mặc. Thường thường mỗi lần gặp
gỡ, thể nào hai ông già cũng kéo nhau ra cái giếng nước mà chuyện vãn rất lâu.
Nhà sư ít nhời, trầm tĩnh ngắm bóng cụ Sáu trong lòng đáy giếng sâu. Cái bóng
nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trên phiến gương nước giếng mát lạnh:
chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt xuống,
tiếng kêu bì bõm. Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn mịn rêu xanh, chỉ ngón
tay xuống lòng giếng sâu thẳm gần hai con sào mà nói: "Chùa nhà ta có cái
giếng này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa
nhà đây. Tôi sở dĩ không nghĩ đến việc đi đâu xa được, cũng là vì không đem
theo được nước giếng này đi để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thề
này: "Là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi sẽ lập tức cho không người nào muốn
xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc
mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy
lại tụ. Địa thế chùa này, xem ra còn dụng võ được...". Chừng như sợ cụ Sáu
bàn rộng tới những chuyện không nên trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc của
đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng sang chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai
quả lắm. Rồi kéo cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất
đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mươi năm nay, bao giờ uống nước
trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay
nhà chùa.
Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận việc nhiều nên đã mấy tuần trăng
rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ cứ nhìn mấy chậu
Mặc lan rò trổ hoa mà tặc lưỡi. Cùng bất đắc dĩ phải ngắt cắm vào lọ con vậy. Dạo
này cụ Sáu chỉ cho người nhà xuống xin nước giếng thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng
ngắm hai thầy trò người con ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà
sư già thở dài cùng sư bác chờ đấy: "Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái
phong vị trà tàu, đam mê đến nhiều khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng
thành một ông sư tại gia. Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp
ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà
tàu. Nhưng một ngày kia, nếu không có trà tàu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu
này sẽ còn khổ đến bực nào. Phật dạy rằng hễ muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại
dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn, sau đây lại chẳng có một phần
to nước mắt của một ông già năng lên chùa nhà xin nước ngọt về để uống trà tàu.
Mô Phật!".
Ông cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm.
Người khách lạ vừa kể cho chủ nhân nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén
vào lợi chiếc đĩa cổ vài ba lần, người khách kể:
"Ngày xưa, có một người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất
cái là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn
chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi
và cố làm thế nào cho giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì thì hắn mới xin. Có
một lần hắn gõ gậy vào đến lớp giữa một nhà phú hộ kia, giữa lúc chủ nhà cùng một
vài quý khách đang ngồi dùng bữa trà sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm,
và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để
xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người đang
khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được
nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi người ăn mày đã đứng tuổi
không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay là
canh cặn, hay là hơn nữa, hắn lại muốn đòi xôi gấc, như kiểu người trong phương
ngôn. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn
"uống trà tàu với!". Mọi người tưởng hắn dở người. Nhưng tại sao
không nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà
nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn
nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm.
Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát
than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa định xược với bọn
họ đến lúc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ,
tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc
này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một
chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi
đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhà: "Là thân phận một kẻ ăn
mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương xuống, thực kẻ ty tiện này
không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn
mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa được lấy gì làm khoái hoạt lắm". Hắn
lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn,
hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị, rồi xách nón, vái lạy chủ nhân và quan
khách, cắp gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến.
Nhưng buổi chiều hôm ấy, cả nhà đều lấy làm kinh sợ người ăn mày vì, ở lọ trà
đánh đổ vung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu".
Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ
đùi khách, kêu to lên:
- Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi dám mời
anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần
nhiều lại toàn là ấm song ấm quý.
- Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm
cái việc uống một tuần nước đấy thôi. Chứ cụ tính làm gì ra những thứ người lạ ấy.
Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.
- Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày
này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế
và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn
cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một
ấm trà thứ hai nữa chứ. Chẳng nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với
nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải rộng miệng
vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:
- Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà.
"Thứ nhất Thế Đức gan gà; - thứ nhì Lưu Bội; - thứ ba Mạnh Thần". Cái
Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới
dùng nên cũng chưa có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò
bay vào sát mặt khách:
- Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng
không? Tàu, họ gọi là kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim
hỏa đấy.
- Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi
không?
- Lại "ngư nhãn, giải nhãn" chứ gì. Cứ nhìn tăm nước
to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa, và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước
sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười, uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu
tiễn khách ra cổng với một câu:
- Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm
tôi như một người bạn cũ. Mỗi lần gặp nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.
Năm ấy nước sông Nhĩ Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn
trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả lạ. Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn
ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi bị cuốn phăng đi. Lúc
nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảnh giấy hồng điều đôi câu đối dán cửa
vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời, quất con ngựa rong
chơi ngoài ngõ liễu
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước
trước hiên mai*.
Năm sau, quãng đê hàn khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một
lần nữa. Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu
đối giấy hồng điều, gió mưa đã làm bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ
kín dòng chữ bằng những vạch bùn ngang dày dặn.
Ông khách năm nọ - cái người kể câu chuyện ăn mày sành uống
trà tàu - đi làm ăn xa đã mấy năm, nhân về qua vùng đấy, nhớ nhời dặn của cụ
Sáu, đã tìm tới để uống lại với ông già một ấm trà tàu nữa. Nhưng người khách hỏi
nhà ông đến, người khách đã bùi ngùi thấy người ta bảo cho biết rằng nhà cụ Sáu
đã bán rồi. Thấy hỏi thăm tha thiết, người vùng ấy mách thêm cho ông khách:
"Có muốn tìm cố Sáu thì ông cứ xuống Chợ Huyện. Cứ đón đúng những phiên chợ
xép vào ngày tám thì thế nào cũng gặp. Chúng tôi chỉ biết có thế thôi".
Phải, bây giờ ông cụ Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy
bữa cơm cũng khó, chứ đừng nói đến chuyện uống trà. Thỉnh thoảng có xin được
người nào quen một vài ấm, cụ lấy làm quý lắm: gói giấy giắt kỹ trong mình, đợi
lúc nào vắng vẻ một mình mới đem ra pha uống. Vẫn còn quen cái thói phong lưu,
nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít nhị
đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ.
Những buổi có phiên chợ, cụ Sáu ngồi ghé vào nhờ gian hàng tấm
của người cùng làng, bày ra trên mặt đất có đến một chục chiếc ấm mà ngày trước,
giá có giồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chửa chắc cụ đã bán cho một chiếc.
Có một điều mà ai cũng lấy làm lạ, là cụ bán lũ ấm đất làm hai lớp. Mấy kỳ đầu,
cụ bán toàn thân ấm và bán rất rẻ. Còn nắp ấm cụ để dành lại. Có lần vui miệng,
cụ ghé sát vào tai người bà con: "Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi,
chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa vặn sao? Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm,
mới là lúc nên bán giá đắt. Đó mới là cao kiến".
Cụ Sáu cười hề hề, rồi vội quay ra nói chuyện với bạn hàng
đang mân mê những cái thân ấm đất đủ màu, cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na,
hình quả vả, quả sung, quả hồng. Cụ đang bảo một ông khách:
- Thế nào tôi cũng tìm được nắp cho ông. Cứ phiên sau lại đây
thế nào cũng có nắp. Không, đúng ấm tàu đấy mà. Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống
mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm
đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó
vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu./.
3. Thả Thơ
Cái buồn thường không mấy khi xẩy đến một cách đơn chiếc. Cụ
Phủ bà vừa mất vào quãng đầu xuân, cỏ xanh chưa đủ che kín mặt nấm mộ mới, thì
cuối xuân năm ấy, cậu Chiêu lại cũng qua đời. Vì những luật lệ về luân lý gia
đình vẫn còn ứng dụng được dưới suối vàng thì bên kia cõi đời này, linh hồn cậu
Chiêu chí hiếu đang được yên tĩnh để hầu dưới gối một linh hồn chí từ. Và trên
trần, có một gia đình đang lúng túng vì sự hiu quạnh. Bây giờ cụ Phủ ông đã lâm
vào cái cảnh gà sống nuôi con một. Nguyên cụ Phủ được hai người con: cậu Chiêu
không may sớm cướp công sinh thành, để lại cho cha một người em gái bồ côi mẹ,
đã đứng tuổi mà chưa có dịp nào xuất giá. Trời đất ôi, trên mấy gốc tre cằn
không đủ gây thành một bụi ấm, trận gió thanh bạch ngày ngày cứ lào rào thổi
mãi.
Cụ Phủ ông là một người mà học lực và chính tích chấp được cả
bạn đồng liêu một thời; cô Tú là một thiếu nữ con quan mà cái tài làm thơ phú
theo một gia sáo vững vàng, mà cái hạnh về môn nữ công đủ làm vinh dự cho một
gia phong. Nhưng ông Giời thích thừa trừ đã buộc ông Phủ phải nghèo và cô Tú phải
xấu. Và những lúc này, người ta không mấy ai nói đến tài và hạnh và thường chỉ
hay nhắc đến chữ phận và chữ duyên.
Tiếng trống phủ trên lầu canh cứ điểm đều những tiếng vô vị
vào một tư thất lạnh lẽo. Gian nhà giữa cụ Phủ Ông đã thâu canh dài làm bạn với
thánh hiền bên án sách leo lét ngọn đèn; trái nhà phía tây, cô Tú âm thầm ngồi
vấn chuyện với bóng in trên lá màn vải xô. Có những đêm mưa to gió lớn làm nhòe
những tiếng trống phủ cầm canh, cô Tú rời phòng mình, qua gian giữa gây một lư
trầm cho cha. ở gian giữa tư thất liền có tiếng ngâm thơ:
Cứ đốt lò hương cho tới sáng,
Thử xem mưa gió tới bao giờ1.
Nhưng có một đêm rất gần đây, tiếng trống phủ thành hết quấy
quả canh dài cụ Phủ và cô Tú nữa. Người cha đã cáo quan về vườn rồi. ở một xứ
quê buồn tẻ kia, bây giờ có một ông đồ già ngồi dạy trẻ và một cô con gái ngày
ngày ngồi trong nhà gỡ một ống tơ vàng hay là chạy ra vườn bứt ít lá dâu nó
cũng già cỗi theo cái cảnh người. Bây giờ muốn nói đến cụ Phủ già đã cáo lão về
hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm.
Cụ Nghè Móm thường dạy học vào buổi sớm. Cô Tú săn sóc mọi việc
trong nhà cũng vào buổi sớm.
Buổi chiều đến cô Tú đi chợ, làm cơm và mua luôn cả đồ ăn thức
dùng cho buổi sớm hôm sau nữa. Cụ Nghè Móm ở nhà nhàn rỗi dùng thời giờ vào việc
sao một lá số, gieo một quẻ bói hay là kê một đơn thuốc cho người làng. Có một
buổi chiều, một người bạn đồng song cùng ở vùng ấy, nhân bị trời mưa dầm giữ lại
nhà cụ Nghè Móm, đã nói với chủ nhân:
- Dăm ba tên học trò nhép này, lấy gì làm đủ sống. Trà tàu,
rượu cúc, cây cảnh và hình như bác vẫn chưa bỏ được cái chứng thắp nến bạch lạp
để đọc Đường thi sách thạch bản thì phải, lâu nay có đi đâu xa không?
Cụ Nghè Móm cười. Người bạn già rịt mồi thuốc chặt xuống nõ
điếu, tiếp:
- Tôi có một chuyện này muốn nói với bác từ lâu lắm, nhưng chỉ
sợ bác chê là cô lậu.
Cụ Nghè Móm ngừng tay mài hòn son trong đĩa, chăm chăm nhìn bạn.
- Bây giờ tổ chức những cuộc chơi thả thơ, ý bác nghĩ thế
nào?
- Cũng khó lắm. Hồi tôi còn tại chức, có lúc thì tôi đánh thơ
ở nhà, có lúc thì lên quan Đốc trên tỉnh, không mấy tháng là không có một cuộc
hội họp. Mà tôi nghiệm cái giống thả thơ càng hay chữ càng hay thua cay. Có lắm
đêm tôi mất đến mười mấy quan tiền đồng mà không trúng lấy được một chữ.
- Cụ Phủ dạy như thế thì nhầm rồi. Cứ gì phải được tiền. Vả
chăng, người thua có mấy khi là người dốt chữ đâu, và kẻ được thường cũng không
dám tự đắc lên mặt sành thơ. ở vùng đây lắm người cũng muốn chơi lắm, nhưng tự
xét không đủ tư cách để thả thơ cho ra hồn, nên chưa có cái lối hội họp như vậy.
Tôi muốn được biết ý cụ về việc thả thơ này.
- Tôi bỏ đã lâu ngày rồi. Nếu có định chơi thì phải đọc lại
thơ mất một dạo, và vòng cho đủ chữ một túi thơ, kể cũng công phu lắm. Điều tôi
ngại nhất nữa, là bây giờ tuổi tác rồi. Bây giờ lại bày trò vui đó, e có mệt
cho tinh thần. Đã thả thơ thì phải ồn ào mới vui. Còn trẻ trung gì cho nó cam.
Mà cụ tưởng ở đây ai đánh nổi. Chữ nghĩa đâu mà làm cái vốn. Họ dốt chữ, họ
thua thơ, mình ăn tiền của họ đã không lấy gì làm hứng thú mà lại còn mang tiếng
rất nhiều nữa.
- Nếu mình cứ thả thơ luôn ở đây, những người ở vùng quanh sẽ
tới. Tôi sẽ rao lên. Cụ kêu người đây ít chữ; kệ họ. Họ mất tiền mà được lạm dự
vào làng thơ phú, họ phải lấy làm sung sướng. Mà bọn nhà nho nghèo như anh em
mình, nhiều lúc cũng nên cho họ chơi trèo một chút, miễn là họ phải trả tiền. Tục
lệ ở hương thôn, khi bán nhiêu bán xã, mua quan viên cũng không ra ngoài cái ý
đó. Vậy bác để tâm đến việc này. Từ mai bác đọc lại các tập thơ cổ, tìm sẵn những
chữ "vòng" chữ "thả" thì vừa. Cô Tú nhà ta giọng trong và ấm
tiếng lắm.
- Để tôi xem xem có nên không đã.
- Cụ không phải nghĩ nữa. Vậy xin đính ước với cụ đến tuần
trăng sau. ừ, bây giờ chúng ta là cuối hạ. Bắt đầu sang thu mát trời, thả thơ
thì tuyệt. Nhà lại ở bên sông, còn chờ gì mà không làm một cái nhà bè trên mặt
nước. Kể cũng đủ di dưỡng tính tình và đỡ cho khoản nhật dụng.
Khách đi rồi, cụ Nghè Móm nghĩ đến hồi trước, cụ đi lại với bạn
đồng liêu, những lúc thừa nhàn, không đánh tổ tôm, chơi cờ tướng, thì lại bày một
cuộc thả thơ hay là leo lên một đôi trái núi đá. Cái buồn thấy đời là ngắn là
ít, chớm qua lòng một ông già đã muốn yên phận với chữ bài.
Bắt đầu từ hôm ấy, những tập thơ cổ được giũ lớp bụi ngầu và
ra khỏi cái níp sách sơn son. Cụ Nghè Móm bắt đầu nghiền lại tập thơ của người
xưa. Đường thi, Tống thi, Minh thi; đọc đến một bài, đọc hết một câu, gặp được
một chữ đột ngột, cụ ngừng lại, ghé mắt kém vào mặt chữ nhỏ như con kiến, cụ vắt
tay lên trán, nghĩ ngợi và lẩm bẩm. Rồi cụ ngồi nhỏm dậy, sao cả bài thơ ấy vào
một cuốn sách giấy bản mới mẻ. Nhưng thường cụ chỉ trích lấy một câu ở những
bài thơ đọc rất kỹ lưỡng đó. Ngày năm câu, ngày ba câu, một ngày gần đấy, cuốn
sách đã đặc những dòng chữ thảo chép những câu thơ rút ở cổ thi. Cô Tú theo lời
cha dặn, đã đi mua sẵn rất nhiều tờ giấy tàu bạch ra rọc giấy ra từng mảnh dài
bằng chiếc đũa và ngang to bằng hai ngón tay. Đám học trò nhỏ, đầu còn để cái
chỏm dài lẩn thẩn hỏi cô Tú, cô vui vẻ trả lời:
- Đừng nghịch, thầy trông thấy, thầy mắng chết. Giấy này để
làm gì à? Thầy sẽ viết những câu thơ cổ vào đấy để bày ra giữa chiếu những lúc
thả thơ.
- Thả thơ? Có làm thơ thì có, chứ thầy và các anh ấy có nói
thả thơ bao giờ.
Cô Tú vốn yêu những cậu học trò nhỏ tuổi của cha mình như một
người chị lớn đối với em út, cô không khỏi nín cười để giảng:
- Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ mà
chỉ... có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy một cái khuyên
tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị lấy một
câu làm thí dụ thì các em rõ ngay. Các em biết câu: "Quân hướng Tiêu
Tương, ngã hướng Tần" đấy chứ? ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ ấy. Và định
vòng chữ "hướng" ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này:
"Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần". Và khi ngâm câu thất ngôn có sáu
chữ ấy lên thì thường phải ngâm: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã...
"vòng"... Tần"; Chữ "vòng" đây thay vào chỗ để trống.
Bây giờ mới nói đến những chữ "thả" ra. Thí dụ thầy thả năm chữ: cố,
tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường chỉ thả có
năm chữ thôi.
Tụi trò nhỏ thấy chuyện thả thơ ngộ nghĩnh, nghe lấy làm
khoái trí, trố mắt nhìn cô Tú, giục cô nói tiếp.
- Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh.
Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng. Nhưng mà đây là chuyện của người lớn tuổi.
Các em ra tập bài đi, bao giờ thành người lớn rồi sẽ biết.
- Nhưng mà biết thế nào là được, là trúng hả chị? Lạy chị giảng
cho một chút nữa, rồi các em xin đi ra bục học bài ngay, để chị rọc giấy.
- Trên đầu mẩu giấy con này, thầy sẽ viết cái chữ thả, thí dụ
là chữ phản. Rồi thầy cuộn tròn đầu giấy lại, giấu chữ ấy đi, chỉ còn độ hở cái
khoảng viết mấy chữ: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần", với một cái
khuyên tròn vẽ thay vào chỗ trống. Nếu trong năm chữ cố, tại, vọng, phản, hướng
em chọn lấy chữ phản mà đánh mà làm thành ra câu: "Quân hướng Tiêu Tương
ngã phản Tần", thì là em trúng đấy. Đặt một tiền thì được ăn thành ba tiền...
Tụi trò nhỏ nhìn nhau cười khúc khích và khi bị cô Tú xua đuổi
lên nhà học trên đều ngoái cổ lại cười, nói một loạt với người con gái lớn của
thầy học:
- Bao giờ các em nhớn, học giỏi được lên tập bài trên trường
quan Đốc tỉnh, mỗi khi về thăm lại thầy, chị thả thơ cho các em đánh với nhá!
Đêm mười bốn tháng tám là cuộc thả thơ lần thứ hai của cụ
Nghè Móm. Lần trước thả vào thượng tuần tháng bảy; lần này cụ Nghè Móm chọn
ngày mười bốn, có người hỏi tại sao không để đến ngày rằm, cụ nói:
- Trăng mười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn
là ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm vừng trăng rằm, người tinh ý sẽ
nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn khai trong có một thì.
Những người có chút kinh nghiệm, đều chịu lời ông già nhận
xét là chí phải.
Vừng trăng mười bốn lúc chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm
và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc
nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm đang ngồi làm nhà cái, thả thơ cho
hàng chục người con đánh. Người ta đang sát phạt nhau bằng tiền, đem cái may rủi
cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước sông thu, tiếng ngâm một câu thơ được
cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng
trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng
vang của một hội tao đàn nào.
Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều ngồi bên cạnh cha. Cô bận tay
đỡ cái túi thơ của cụ Nghè Móm mở lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho
làng chọn chữ đặt tiền. Đôi khi có kẻ chọn phải một chữ rất quê kệch mà lại
trúng vào chữ ăn tiền, cô Tú tủm tỉm nhìn mãi nhà con đang vơ tiền, chừng như
muốn bảo thầm người được tiếng bạc đố chữ đó: "Đấy ông xem, ở đời ăn nhau ở
may rủi, chứ chữ nghĩa tài hoa mà đã làm gì, phải không ông?".
Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm thả thơ trên mặt sông đã là một
chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn. Nhưng có kẻ ác miệng đã phao
lên cái tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để cho con gái lớn gần quá lứa
kén chồng.
Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè
Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy, không rõ tại đâu, cụ Nghè Móm
hay thua luôn. Và bọn đánh thơ thì uể oải vơ tiền được, và buồn nhớ đến một cái
bóng người đã mượn ít nhiều tiếng tơ mà tô vẽ nhiều cho lắm buổi đố chữ lấy tiền./.
4. Đánh Thơ
Giữa quãng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoàng Tôn Tuyên
hoàng đế, đất Thuận Hóa có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ.
Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái
duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ
Huế trong một thời.
Cái thời ấy là thời của Nhà nước Bảo hộ tạm gọi là yên trong
cuộc bình định. Nơi quê hương, vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc còn gửi
mãi về cái mùi diêm sinh đem từ ngoài bờ cõi vào. Nhưng, mặc kệ, dưới chân một
nếp hoàng thành, bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn
có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng
đàn hát trên mặt nước một con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng
đưa ra rất rộng. Thấy thế, một vài ông già mặc áo vải, mỗi lúc chống gậy trúc
ra bến, ngắm bóng nắng tàn rụng phía bên tả ngạn sông Hương, đã thốt ra những lời
than thở.
Nhưng, giọt lệ già của người mặc áo vải rỏ rơi xuống thì cát
nơi bãi sông cứ việc thấm hút và uống cạn. Và có một cái gì vẫn còn lại mãi mãi
ở hai bờ sông Hương thì vẫn chỉ là những tiếng hát. Tiếng đàn hát của giai
nhân.
Họ là một bộ ba có ba cái tên rất đẹp, rất thơ mộng: một người
là Mộng Liên, một người là Mộng Huyền và một người nữa tên là Mộng Thu. ở Huế,
những cái miệng tuổi tác đã bắt đầu theo thị hiếu mà nói luôn luôn đến ba cái Mộng
xinh kia và luôn luôn tấm tắc: "Thần kinh hữu tam Mộng".
Giữa cái thế giới đàn sáo của thành đô, ba cái Mộng xinh đẹp
mỗi đêm rải rác ra mọi bến đò tản mát ở dọc sông Hương, những cái sở đắc về
thanh và sắc của mình.
Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ
trôi một mình theo những cái xoáy nước yếu đuối. Mỗi đêm, ba cái Mộng gõ một nhịp
phách, bấm một dây tơ và để rồi phá cười lên vài trận. Để cho cái xã hội đàn
ông mặc áo xanh ẩm ướt phải thèm muốn. Thế rồi trong một đêm tốt đẹp, có một
ông Phó Sứ giữ lăng, đã đứng lên làm chủ cho một cái Mộng. Mộng Liên đã về hẳn
với quan Phó Sứ.
Một cái miệng cười, mười ngón tay tháp bút trước kia là của
chung thiên hạ, bởi vì nó không có sở cứ, bây giờ đã trở nên của riêng một nhà.
Cặp vợ chồng ấy là một lứa đôi tài tử.
Ông bà Phó Sứ giữ lăng không mấy khi ở yên một chỗ.
Cái nghề của họ buộc họ phải xê dịch luôn luôn và mãi mãi. Suốt
một dải Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ
lại mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu
bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức
này.
Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh. Cái chiếu bạc thả
thơ của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ
đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giầy trên mọi
chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ. Họ nhờ
vả cổ thi, kiếm ra cũng được rất nhiều tiền. Nhưng cái giống lãng tử cầm tiền
thường không nóng lòng bàn tay và có mấy khi họ nghĩ đến sự bảo hiểm cho ngày
mai của mình. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa bao giờ nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một
chỗ nhất định nào.
Quê hương của họ là Cờ bạc và Đờn hát. Nhà cửa đôi lưu đãng ấy
gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ. Cái lãi trong đời bấp bênh của họ là ở
chỗ nhiều người đã nhắc nhỏm tới cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, mỗi khi lứa đôi
chậm tới hay là đã lâu rồi mà chưa thấy trở lại. Người đánh thơ được, người
đánh thơ thua xiểng liểng, ai ai cũng đều nhớ đến họ những khi xa vắng. Hình
như bấy nhiêu người đều nhận ông Phó Sứ là đáng mặt làm nhà cái cho những buổi
thả thơ rất nên thơ; mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn thua từng mấy chục bạc,
người ta đều ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều ngâm vang cả
nhà, chừng như muốn thi nhau một cái giọng tốt, chứ đồng tiền mất đi hay thu về
được gấp ba số đặt, thời có gì là đáng kể. Giữa hai tiếng bạc trên một chiếc
chiếu la liệt những mảnh thơ đề, Mộng Liên đêm đêm kề đùi tựa má ông Phó Sứ, lại
đánh đàn, lại ca Nam bằng, ca Nam ai.
Có lẽ không riêng gì ở một nơi, mà ở mọi nơi, những lúc sốt
ruột chờ mong vợ chồng ông Phó Sứ trở lại với túi thơ, mỗi buổi gần giờ tan buổi
hầu, những lúc việc quan thanh thản, bao nhiêu thầy thừa phái ở các ty Phiên,
ty Niết và những ông Hậu bổ, Thông Phán tỉnh, Kinh Lịch đã nói những câu:
- Quái lạ, sao cữ này hai ông mụ đó đi lâu quá chưa trở lại
thả thơ cho bọn mình chơi hè!
- Đánh thơ của lão Phó Sứ có cái rất thú là được thua chi
chi, mình cũng đều lấy làm thích cả. Bởi vì lão biết chọn những câu rất hay mà
thả. Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết cả người.
- Chẳng thế mà quan Kinh ngài đã mấy lần phải bán lương non,
thua nhẵn.
- Chơi cái gì thì chơi, chứ đến cái lối đánh thơ thả, cái
nghiệp những anh đã hay chữ lại thêm tự phụ, là chỉ mãn kiếp thua không còn lấy
một đồng một chữ tiền.
- Và có nhiều đứa dốt cay dốt đắng, thì lại mỏi tay vơ tiền.
- Quan bác có biết tại sao không? Đệ cho không có cái nào lợi
hại bằng lão Phó Sứ. Hắn lấy ý tứ ra mà dò tiếng bạc của từng người. Nếu lão biết
quan bác thích lối thơ liệu, đọc lên âm thanh và niêm luật tròn trĩnh, nhịp
nhàng, thế nào lão cũng rình lão thả một đôi chữ rất quê kệch hay là khổ độc.
Quan bác mấy khi lựa những chữ quê kệch mà đặt tiền. Vậy nên lão vòng những chữ
rất ngớ ngẩn đó. Thế là quan bác mất nghiệp, nếu bữa đó, quan bác lại đặt tiền
đến tột cửa. Và lão lại còn bán cho mấy cửa đánh những chữ ngô nghê mà lão biết
trước sao mình cũng khinh rẻ.
- Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê
thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Ngài nghĩ, tôi đã
bắt thóp được một câu do sự vô ý của mụ Mộng Liên. Nguyên hôm ấy, lão Phó Sứ
cho thả năm chữ: cầm, thử, đan, thiếp, sầu trong một câu thơ mà lão
"vòng" chữ đầu "Vòng tâm duy hữu dạ đăng tri". Kể cũng khó
đánh đấy chứ. "Ngọn đèn dầu ban đêm soi tỏ, biết cho tấm lòng gì?"
Lòng đàn? Lòng son? Lòng một thiếu phụ? Lòng sầu? Phân vân lạ. Bỗng tôi thấy mụ
Mộng Liên ngồi cạnh, nhìn chăm chú vào chữ thả đứng đầu là chữ cầm, rồi mụ
thánh thót bấm khẽ mấy tiếng đàn nguyệt. Tôi đánh ngay chữ cầm ngài ạ. Tôi đoán
già là lúc ở nhà vòng chữ, chồng đưa đùi cho vợ gối, lão Phó Sứ đã bị tiếng đàn
của vợ dạo lên buổi đêm ảnh hưởng nên lão mới thả chữ cầm. Và đánh chữ cầm, thế
nào cũng ăn. Hôm ấy tôi đặt hai chục được sáu chục và muốn tỏ ý cám ơn người
đánh đàn một cách kín đáo, hôm sau tôi đã mua biếu Mộng Liên một cây đàn nguyệt
có bốn cái trục bằng ngà voi nẩy. Đấy, chơi thơ, nhiều khi tâm lý nhiều vào là
ăn.
- Tâm với lý gì. Có biết thơ thả, lão Phó Sứ thường mua lại của
ai không? Mua của Tào Sắt bên phủ Tuy Lý Vương! Hai ba đồng, tiền công vòng một
trăm câu. Thơ Tào Sắt mà thả, thì đừng có hòng mà ăn.
- Này, các ngài có được rõ câu chuyện lão Phó Sứ dám thuê thợ
bên Tàu khắc riêng cho mình mấy tấm thạch bản in thành một tập thơ mỏng không?
Lão ra khuôn mẫu cho họ in nhiều câu có những chữ lạ, rất ngộ nghĩnh và mỗi khi
đem câu đó ra mà thả thực không ai ngờ đến. Nhưng chỉ có khi nào đánh to lắm,
lão mới giở đến bí thuật này. Lão tìm đến những quan to và có tiếng là hay chữ,
lão mới thả một hai câu thật gay go. Các quan thua, đòi lão phải dẫn chứng cổ
thi, lão giả vờ bịt tên sách lại, che kín lề, mép và gáy cuốn thơ, chỉ cho xem
đủ cái câu thả đó và đủng đỉnh, tủm tỉm trình với cả làng rằng đó là một câu
thơ Tống. Thật là rõ ràng chữ thạch bản, chữ tuy nhỏ bằng con kiến, nhưng đeo
kính vào xem, chữ không nhòe lấy một nét. Nhiều người thua cay, thường chỉ tự
trách mình xem cổ thi ít quá và tặc lưỡi kêu: "Cổ nhân dùng chữ úp mở uyển
chuyển quá đi thôi. Họ cậy có tài, tự cho mình cái quyền hạ những chữ quá lắt
léo, đem cái quyền lực của sáng tạo ra mà làm bọn mình đảo điên cả nhận thức và
cả tiền bạc nữa. Còn ai biết đằng nào mà lần nữa". ấy một năm lão Phó Sứ
dùng lối thả thơ sanh tử như thế độ một đôi lần, đủ gỡ lại những bữa thua to.
Chà! Nhưng mà nghĩ lắm lúc cũng tội. Vợ chồng họ nhiều khi thua nhẵn. Lắm bữa
không có lấy một chữ tiền mà thửa dây đàn nữa. Và hai ông mụ phải vờ cáo bệnh nằm
bệt một nơi có khi đến hàng tháng.
- Cụ Tuần trước ở đây, chơi không được lịch sự, thành thử vợ
chồng ông Phó Sứ họ cũng đâm nhờn. Ai đời đi mặc cả với họ mỗi buổi đánh thơ
xong, phải đưa cho mình một số nhất định là bao nhiêu, mặc dầu họ thua hay là
được. Không những thế, Cụ lại còn quấy nhiễu họ giữa những tiếng bạc lớn. Lấy
tiền nhà cái, lúc năm đồng, lúc mười chữ, tẹp nhẹp quá. Hình như Cụ còn chớt nhả
với cả mụ Mộng Liên nữa.
- Thì cũng phải lấy hồ chút ít chứ sao? Có thế thì những buổi
hội giảng đầu tháng bên tòa bên tỉnh xong, Cụ mới giữ các quan phủ huyện lại
cho chớ? Vậy chớ ai trả tiền những mâm rượu linh đình giáo đầu cho mỗi cuộc thả
thơ?
- Cái ông huyện Bình Khê, người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm
lạ. Ông ta chúa hay vờ vĩnh. Nhà cái chưa thả thơ xong, ông cứ vờ vĩnh giục ồn
lên những là lâu và làng đặt tiền chậm như thế thì một đêm, phỏng thả được mấy
câu thơ. Thế rồi ông vồ lấy lá thơ đặt ở giữa chiếu, dọa mọi người nếu không đặt
tiền nhanh lên thì ông thổi tuột lá thơ ra và xin làng, nếu nghĩ lâu quá, thì đợi
đến câu sau hãy đánh vậy. Mỗi lần ông cầm lên đặt xuống lá thơ, cái mẩu giấy
tàu bạch cuộn tròn như tổ sâu kèn lại nới giãn dần ra một chút. Và ông đã hé
nhìn được chữ gì viết trên đầu giấy, cuốn tròn tận vòng trong cùng lá thơ. Mắt
ông ta nhanh như cái cắt. Có lần ông Phó Sứ vòng một chữ bút, ông huyện vờ xin
thổi thế nào mà nhìn được cái nét sổ dài. Rồi là có bao nhiêu tiền đem đặt vào
chữ bút đến tột cửa! Nhưng, mụ Mộng Liên xem chừng cũng hiểu, nên mỗi lần sau,
ông huyện Bình Khê động tay vào lá thơ là mụ lại buông tay đàn, chận lấy giấy
và nhìn trừng trừng vào giữa mặt ông huyện có tính gian giảo kia.
Đêm hôm đó người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch. Mọi
người tụ tập ở đấy đều lấy thế làm vừa lòng. Vì, ít ra, ở đây, người ta cũng
chơi bời có phần được tự nhiên hơn ở trong dinh các cụ. Ông Kinh Lịch là một
người trọng cái sạch sẽ của tâm hồn, nói to cùng mọi người là ông không thu tiền
hồ. Ông chỉ yêu cầu ai được thơ nhiều nhất thì nên cho người lão bộc nhà ông một
số tiền nhỏ mọn để đền lại cái công nó làm dầu, làm đèn, nấu cháo và bưng điếu.
Ông Kinh lại còn khẩn khoản với mọi người đừng nên làm huyên náo nhà cửa lên.
Ông vui vẻ nói:
- Đã hay rằng vớ được câu thơ hay, ai mà chẳng muốn ngâm vang
lên. Thứ nhất lại ngâm vang câu thơ thả mình vừa đánh trúng cái chữ hiểm hóc,
thì ai mà bụm miệng được. Một người ngâm, cả làng phụ họa vào, ồn ào bằng vỡ chợ,
cái đó cũng là thường tình. Nhưng, tôi xin các ngài biết cho là chúng ta ở
trong thành, gần ba dinh Cụ Lớn, mình không nên làm náo động quá. Bình khe khẽ,
đủ nghe với nhau thôi.
Cả một lũ con bạc lên mặt tài giỏi, nhìn ông Kinh Lịch cười
hóm hỉnh và khoan thai bước vào chiếu giữa. Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây
sáp nữa đã gắn sẵn vào đế đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến,
chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng
chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như
những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh,
của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả,
có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa
huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng
Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm
thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng rận. Ông Phó Sứ vừa gỡ túi thơ vừa hỏi
làng:
- Dạ thưa, có đánh thơ cổ phong không? Và có đánh chữ chân
không?
Một con bạc ít tuổi và chừng như mới tập tõng lối chơi chữ
này, hỏi lại:
- Đánh thơ cổ phong? Thôi, nếu thả thơ cổ phong thì anh em ở
đây đưa tiền cho ông tiêu hết. Còn đánh chữ chân là thế nào?
Ông Kinh Lịch đang nằm bên khay đèn, ngồi nhổm dậy nói chõ xuống
chiếu dưới:
- Cái ông thừa nhà tôi đến hay lẩm cẩm. Đã đi đánh thơ đòi ăn
tiền thiên hạ, còn hỏi lục vấn thế nào là chữ chân. Thưa ông, câu thơ bảy chữ,
đem vòng chữ thứ bảy cuối cùng cho làng đánh, thế gọi là đánh chữ chân ạ.
- Nếu thế thì đánh cả chữ trắc và cả chữ bằng à? Thôi, xin
làng cứ theo như lệ mọi khi mà đánh. Đây, chúng tôi không phải là thi bá, không
dám đánh chữ vần, chữ chân.
Ông Phó Sứ và Mộng Liên nhìn nhau cười; vợ chồng có ý bảo thầm
nhau rằng làng cũng khôn đấy nên mới không dám trêu vào lối đánh thơ hiểm hóc
này.
Lá thơ đầu tiên đã ra khỏi miệng túi gấm vẫn khư khư nằm
trong tay Mộng Liên. Cả làng chăm chú nhìn và ngâm ngợi và ngẫm nghĩ. Cái gì mà
".... thượng, mai khai, xuân hựu lão"? Cuối lá thơ thả, có sẵn năm chữ
thả viết xương kính: tái, sơn, đình, mộ, Văn. Cả làng ngâm:
- "Vòng" thượng, mai khai, xuân hựu lão.
Vẫn lời cái ông thừa trẻ:
- Tái, sơn, đình, mộ, Văn. Ta đánh chữ tái "Tái thượng,
mai khai, xuân hựu lão". Hoa mai... nở trên mặt ngọn ải... xuân lại già nữa.
Nghĩ ngợi lâu, ông thừa trẻ trở nên do dự. Thấy ông Thông
phán tỉnh, người có tuổi và vốn sành về môn thơ thả, đánh chữ Văn, ông tỏ ý ngạc
nhiên:
- Văn thượng, mai khai, xuân hựu lão. Quái nhỉ! Sao lại Văn?
Rồi ông thừa cứ mân mê mãi cọc tiền, không biết nên đặt chữ
gì để ông Phó Sứ phải sốt tiết lên cắt nghĩa hộ cho bằng vẻ lễ phép ngụ nhiều
ngạo mạn kín đáo.
- Thưa ngài, Văn là con sông Văn chảy qua đất Lỗ, quê đức
Thánh Khổng. "Mai nở trên sông Văn, xuân lại già". Cụ Phán tỉnh đánh
thơ như thế, câu đó ngài cho làm lạ lắm sao?
Và, xem chừng cả làng cũng không có một ai đánh thêm được đồng
nào nữa, ông Phó Sứ xin làng cho phép ông được thổi lá thơ cuộn tròn để tuyên bố
cái kết quả tiếng bạc đầu tiên. Ông đã nhẹ nhàng cầm lá thơ, phồng má định thổi
phù một cái. Một vài người vội vàng vứt thêm tiền đặt vào mấy chữ tái, sơn,
đình. chỉ có chữ mộ là không ai đánh cả.
Mộng Liên ngồi đánh được một phần ba bản đàn Nam bình*.
Thế rồi tiếng bạc mở.
Và cả làng đều ngã ngửa ra khi đọc rõ lá thơ thả kia là câu:
"Mộ thượng, mai khai, xuân hựu lão". Cả làng nhao nhao:
- Ô, cổ nhân dùng chữ ác thật. Hoa mai nở trên nấm mồ, xuân
càng già. Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô mà lần, mà đoán.
Ông Phó Sứ trước khi vơ tiền cả làng, vì không ai đánh chữ mộ,
ông đã vội trình với làng một trang sách thơ mở rộng. Và tay vừa chỉ một dòng
chữ in nhỏ, mồm vừa nói:
- Thưa với làng, câu này lấy ở bài Tọa phóng hạc đình của Từ
Dạ.
Bao nhiêu bộ mặt tâng hẩng đều cúi cả vào trang cổ thi và ề à
ngâm lại:
- "Mộ thượng mai khai, xuân hựu lão; Đình biên hạc khứ,
khách không hoàn". Hay, hay thiệt.
Ông Kinh Lịch đêm ấy thua to. Ông truyền cho người cuốn chiếu
bạc và ân cần dặn vợ chồng ông Phó Sứ tháng sau có trở lại thì thế nào cũng phải
tổ chức cuộc thả thơ ở ngay nhà ông cho ông gỡ lại. Ông còn nằn nì xin ông Phó
Sứ làm quà cho mình tất cả những lá thơ đã dùng đánh suốt một đêm qua. Thấy nhà
cái trù trừ, ông Kinh Lịch nói dỗi:
- Có cho, thì tôi giữ làm chút kỷ niệm.
Ông Phó Sứ cười, trao vào tay ông Kinh mấy chục lá thơ đã
dùng đến nhầu nát rồi và thắt chặt lại miệng túi gấm còn đựng đến gần trăm lá
thơ khác chưa dùng đến còn phong kín cái bí mật một chữ thơ. Rồi nhà cái nhà
con chắp tay từ biệt nhau với một câu đính ước: "Cữ thượng tuần tháng sau,
xin lại gặp nhau ở đây nữa".
Nhưng ngày thượng tuần tháng sau, ông Phó Sứ và Mộng Liên
không trở lại. Rồi quá cữ trung tuần, rồi qua luôn cả cữ hạ tuần. Nhiều khách
thả thơ đã dầy công chờ đợi vợ chồng ông như một cái bóng chim như một cái tăm
cá.
Một hôm có người ở kinh ra, nói chuyện cùng ông Kinh Lịch:
- Ông Phó Sứ chết ở chân Đèo Ngang rồi. Mộng Liên giờ là người
góa và đang lúng túng tìm người giữ cho cây đàn. Số là đi qua Hoành sơn quan,
thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước
bao la. Ngay chỗ dưới chân ngọn tường ải có chữ "Đệ nhất hùng quan" của
đức Thánh tổ ngự phê ấy, ông ạ. Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết
đường. Mộ để sát ngay bên đường thiên lý. Cái giống ma trơi này, sẽ thiêng vô
cùng. Rồi đây những lúc thanh vắng, những lúc trăng bãi gió ngàn, hồn ma tha hồ
mà trêu ghẹo khách bộ hành vô Kinh đấy ông ạ. Cám cảnh cho lão, đâu có bậc thời
sĩ quê vùng Ngũ Quảng có làm đôi câu đối điếu. Xin đọc ông nghe:
Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi,
Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.
5. Hương Cuội
Đứa cháu đích tôn và lũ cháu ngoại đang loay hoay ngoài sân với
những đồ đồng ngũ sự lổng chổng trên đám trấu và tro đẫm nước.
Ông chúng, cụ Kép làng Mọc, cũng đang loay hoay với mấy chục
chậu lan xếp thành hàng dưới giàn thiên lý.
Trái với thời tiết, buổi chiều cuối năm gió nồm thổi nhiều.
Cơn gió nồm thổi nhẹ, như muốn nhạo cái ông già kia mặc cả một
tấm áo trấn thủ bằng lông cừu trắng. Trời nồm nực, bức đến tắm nước lã được,
ông cụ Kép mặc áo lông cừu xứ Bắc! Không, đấy chỉ là một thói quen của cụ Kép.
Mỗi khi cụ ra thăm vườn cảnh, trong một năm, trừ những ngày hạ ra không kể còn
thì lúc nào cũng khoác tấm áo cừu. Mùa xuân, mùa thu, khí hậu ấm, áo mở khuy.
Sang đến đông tuyết, cụ cài hết một hàng khuy nơi áo, thế là vừa. Trong cái vườn
cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều
tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc
áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem
cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý.
Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà
cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết.
Mợ ấm cả, mợ ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ. Thỉnh thoảng họ
ngừng tay để hỏi nhau xem còn thiếu những thực phẩm gì trong cái mâm cơm cúng
chiều nay. Lũ con đàn bi bô ngoài sân. Chúng đang đánh bóng ở ngoài sân những
lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu. Chốc chốc, lũ
trẻ lại mỉm cười, nghển những đầu thưa thớt ít sợi tóc tơ, nhìn vào phía trong
nhà cầu, hỏi mẹ chúng:
- Bao giờ cậu mới về, hả mợ?
Không biết nên trả lời con trẻ thế nào cho tiện, mợ ấm cả đưa
mắt cho mợ ấm hai.
Ông ấm cả và ông ấm hai, đi làm việc ở tận xa chưa thấy về ăn
Tết. Cứ lời những người trong làng có người đi làm việc nhà nước thì được nghỉ
những từ chiều hai mươi chín kia mà. Muốn được khuây nỗi mong, hai chị em dâu,
người đã đứng tuổi, càng thái đồ nấu cỗ cho thực nhanh. Gớm, những miếng trứng
tráng để bày mặt cỗ bát, thài hình miếng trám, sao mà đẹp thế. Đứng bên cạnh mẹ,
đứa nhỏ nhất trong đàn con đã thủ thỉ van nài mợ ấm hai:
- Mợ cho con cái miếng mợ cắt hỏng kia nhá!
Người mẹ không nghỉ tay làm việc trên tấm thớt. Lừ mắt nhìn
con. Thằng bé vội chạy ra ngoài, sán đến cạnh cụ Kép:
- Ông đang làm gì thế hở ông?
- ấy chết, cháu đừng mó vào hoa của ông. Ông đang thăm xem
đúng hôm nào thì hoa của ông nở đủ.
- Ông cho cháu một cái... Cháu xin ông cái lá gẫy kia nhá!
- Cháu không nghịch được những thứ này. Thôi, đi lên trên nhà
với ông. Mợ cháu mà trông thấy cháu ra nghịch cây của ông, thì cháu lại phải
đòn đấy.
Nhớ đến trận đòn phất trần hôm nọ, vì trót nghịch gẫy mất mấy
giò lan của ông nội, thằng bé mặt phụng phịu và hai tay đánh đai vào mình ông
già, kéo trĩu cả tấm áo lông cừu. Nó làm nũng ông và quấn quít lấy ông, mong
ông sẽ che chở cho, nếu mẹ nó nom thấy nó ra nghịch chậu cây cấm.
Cụ Kép cười khà khà. Rồi cụ lại vạch từng gốc rò lan, xem xét
tỉ mỉ đến màng hoa, đến rò lan và thân lá. Hết chậu này đến chậu khác.
Tưởng chừng như cháu mình cũng là một người biết đến chuyện
chơi cây, hiểu đến thời tiết trong một năm, có đủ những kinh nghiệm, thói tục
và thông minh của người lớn, ông già đã nói với cháu bé:
- Tự nhiên, cuối năm lại nổi gió nồm. Cháu có thấy bực mình
không? Ông tiếc cho mấy chục chậu lan của ông quá. Nở hết thôi!
Đứa cháu không hiểu đến ý nghĩa câu than phiền của ông già,
ngửng bộ mặt ngây thơ lên, hỏi hai ba lần:
- Hoa sắp nở, sao lại tiếc hở ông?
Cụ Kép nhìn lại cái người bé tí hon đứng với mình trong vườn
lan, thân cao không vượt khỏi cái lá lan uốn cầu vồng, cụ Kép đãi đứa cháu ngây
thơ một nụ cười rất độ lượng, mắt nhấp nháy kính tuổi:
- Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ.
Hoa sẽ nở nhằm vào ngày rằm tháng giêng. éúng vào ngày Tết Nguyên Tiêu. Ông
cháu chúng ta sẽ có hoa mà thưởng xuân, cháu đã hiểu chưa? Bây giờ cháu chạy
vào gọi bõ già ra đây cho ông bảo.
- Bõ đi ra bờ ao rửa đá cuội từ ban trưa kia ông ạ.
Phải, phía cầu ao trong vườn cụ Kép, một người lão bộc, đang
lom khom dúng rổ đá xuống nước ao và sàng sẩy rổ đá như kiểu người ta sàng mẹt
gạo. Tiếng đá bị tung lên dập vào nhau kêu sào sạo, khiến lũ cò trắng nghỉ chân
trên lũy tre vội bay mất. Bõ già nghỉ tay, nhìn đàn cò sợ hãi bay cao, với nét
cười của một người chịu vui sống trong sự an phận.
Bõ ở với cụ Kép đã lâu lắm. Cái hồi cụ Kép còn là một thầy
khóa sinh hai mươi tuổi, bõ già đã nếm cơm ở của nhà này rồi. Chính bõ vác lều
chõng cho cụ đi thi tú tài. Những việc lớn nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết. Bõ nhớ
cả đến ngày giỗ giúi trong họ. Không có bõ nhắc nhỏm có lẽ nhiều lần mợ ấm cả
đã bỏ mất ngày giỗ. Bõ già hình như chỉ trải cuộc sống của mình để hằng năm, nhắc
nhỏm đến những ngày giỗ trọng và giỗ giúi của gia đình người khác.
- Thưa mợ, đến mười sáu tháng tư này lại là chính kỵ cụ ngoại...
Thưa mợ...
Mợ ấm cả, muốn tỏ sự cảm ơn, kín đáo đãi bõ già một miếng trầu
kèm miếng cau tươi mềm. Trong cái gia đình yên lặng này, bõ già được thiện cảm
của mọi người, không phải vì ỏn thót mà chính vì lòng thẳng thắn. Lắm lúc trông
tội nghiệp lạ. Bõ tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như một người có quyền lợi
dính dấp vào đấy. Cái hoài bão to lớn của bõ, là lúc trăm tuổi nằm xuống sao được
một cái "áo" gỗ vàng tâm thật dày.
Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ. Và, đến những việc nặng, mọi
người đều tránh cho bõ già. Công việc thường trong một ngày, có nhiều hôm chỉ
thu vào việc chuyên trà tàu và thay bã điếu cho cụ Kép. Thậm chí trong những
ngày cuối năm bận rộn như hôm nay, mà bõ già cũng không phải mó tay vào việc gì
cả. Làm lợn gói giò chả, vo gạo, đồ đậu xanh làm bánh chưng, làm dầu đèn, lau
bàn thờ, nhất nhất không việc gì phải qua tay bõ. Mãi đến trưa hôm ba mươi Tết,
cụ Kép mới bảo bõ già đi rửa mấy trăm hòn đá cuội trắng. Nghe thấy bõ già nhận
lấy cái việc rất ngộ nghĩnh đó, cả nhà đều cười. Thứ nhất là lũ trẻ con. Cụ Kép
vẫn nghiêm trang dặn người bõ già:
- Bõ đem đá ra bờ ao rửa cho sạch. Lấy bẹ dừa mà kỳ cho nhẵn,
cho trắng tinh ra. Xong rồi, lựa những viên đá tròn bỏ vào một cái rổ. Những
viên đá xù xì, không tròn trĩnh, để một rổ khác.
Bõ già tỏ ý hiểu:
- Thưa cụ, con biết rồi. Cụ lại sắp cho dọn một bữa rượu
"Thạch lan hương". Nhưng sao năm nay, lại soạn đá sớm quá? Thưa cụ,
con nhớ mọi năm cứ hạ cây nêu xong rồi mới đem cuội ra ngâm kia mà...
- Thế bõ không thấy giời đổi gió nồm đấy à? Thế bõ không biết
năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm sao? Tôi đã cho ngâm thóc để lấy mầm nấu kẹo mạch
nha từ mấy hôm nay rồi.
Bõ già gật gật...
Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ
đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ
trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm
chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa
buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu
giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn
tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình
cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng
có một vườn hoa là một việc dễ dàng, những đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới
là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành
chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới
phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn,
khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng
với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi
hoa làm gì cho thêm tội.
Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới
gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, éại kiều,
Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v.v... Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy
trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ
Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một
người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:
- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm,
ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch
ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con
mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những
vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng
nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.
Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc
lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và rò đẫy, hoa có khi đậu được
đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.
Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.
Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.
Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già
đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo
lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo.
Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế,
mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang
ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ
Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:
- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng
chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại lợi chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lợi
chậu Mặc lan thôi.
Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất
vui sướng vì họ tin đã làm toại được sở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ
nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi
xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt
riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba
ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những
chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào rò lan đen, cụ Kép lại xuýt
xoa như có người châm kim vào da thịt mình.
Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo
mới nguội.
Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy
những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo
bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên
đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa.
Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao
thừa.
Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời.
Năm nay, trời giao thừa lành.
Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra
đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ
nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa.
Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh
quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai
chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối
khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già
cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ
già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:
- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi
năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng,
treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.
Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:
- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch
nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.
- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu
không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ
sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống
vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như
thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi
rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy
nút lại không có rượu bay!
Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.
Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối.
Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc
đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay
vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.
Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy
phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh
hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như
có ý theo dõi luồng hương thơm đang thấm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió
nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.
- Dạ, xin rước các cụ.
Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đề úp lòng bàn tay vào nhau
thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trước
đi. Tiệc rượu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng
thèm say lắm.
- Trời lạnh thêm chút nữa, uống Thạch lan hương mới đúng
phép, chủ nhân ạ!
Đáp lời cụ Cử Lủ, cụ Kép vuốt râu cười nói:
- Chính thế. Nhưng đệ sợ chờ được lạnh đến, thì hoa vườn nhà
tàn mất. Trông kẹo mạch nha không đông, còn dính vào lớp đá lót, đệ cũng biết
là không được khéo lắm. Trời nồm biết làm thế nào.
- Này cụ Kép, kẹo đá thơm ngon đấy. Chỉ hiềm có mùi ung ủng
pha vào hương lan. Chắc kẹo nấu bén nồi, khê và thêm không được đông nên mới có
tạp vị nhiễm vào.
Sau mấy câu phê bình về tiệc rượu, tỏ ra mình là người biết
thưởng thức những vị thanh lương đạm bạc, bốn cụ đều xoay câu chuyện sang phía
thơ văn.
Cụ Tú người cùng làng với cụ Kép mở đầu câu chuyện làm thơ.
- Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Đệ nghĩ dược một đôi câu đối.
éể các cụ chữa cho mấy chữ. Chiều nay sẽ viết luôn vào giấy hồng điều để xin
phép dán thêm vào cổng nhà.
Ba cụ cùng cạn chén một lúc, cùng nói một lúc:
- Cụ Tú hãy cạn luôn ba chén rồi hãy đọc đôi câu đối mới. Câu
đối của cụ còn ai mà hạch nổi chữ nào. Cụ nói gì mà khiêm tốn vậy... Chúng tôi
xin nghe.
Chờ cụ Tú dặng hắng lấy giọng, mỗi cụ đều bỏ vào mồm những
viên kẹo mạch nha đá cuội ướp hương lan. Những nhân đá đánh vào răng kêu lách
cách. Mỗi ông già đọc một đôi câu đối.
Rồi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế
cho tàn hết buổi chiều.
Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của buổi
chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Bõ
già, chiều mồng một Tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rượu
ngâm thơ lây cả sang người bõ.
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
Những vò rượu vợi dần. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội
cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu.
Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Lũ cháu nhỏ,
nấp sau cột nhà, muốn chạy ra xin bõ già phát cho chúng những hòn cuội đã nhắm
rượu xong rồi kia.
6. Ngôi Mả Cũ
- Thành ra cái hồi cụ án nhà mất thì cậu mới có ba tuổi.
- Dạ.
- Thế cậu không rõ cái người phân kim cắm huyệt cho cụ án hồi
ấy là ai à?
- Dạ, thưa không.
- Tôi thấy cậu là người còn ít tuổi, mà có chí như thế, tôi
có bụng yêu. Bồ côi cha, bồ côi mẹ, sống cái tuổi thơ ấu giữa cảnh loạn lạc và
nghèo túng, vậy mà vẫn có chí theo đuổi được việc sách đèn, tôi lấy làm khen lắm.
Giá như con nhà khác thì lêu lổng và hỏng từ bao giờ rồi còn gì. Cái thiên
lương của cậu tốt lắm.
Cậu Chiêu ngồi hầu chuyện cụ Hồ Viễn, lòng buồn rười rượi. Mồm
thì dạ vâng để giữ lễ mà óc thì bận nghĩ giật lùi về cái hồi nhỏ bé của mình. Cụ
án ông mất, cụ án bà cũng mất theo liền. Cách nhau không đầy ba tháng, cậu
Chiêu mang luôn hai cái tang lớn... mấy ông chú, bắt đầu phá tán cái gia tài cỏn
con... một mình ở với chị, lúc ấy chị mới có mười hai tuổi... bấy giờ lại đang
loạn lạc. Trăm họ tan lìa... Bao nhiêu ông già bà cả chạy giạt vào cái thăm thẳm
của rừng Hưng Hoà. Màn trời... có những vòm lá cây âm u. Chiếu đất... có những
cỏ áy, sim lụi và những cành cây mục bở với những đàn kiến lửa nối nhau ngày
đêm bò liền liền như là quan quân đi tiễu giặc. Nhớ đến cái mình sống hồi ấy giữa
cảnh ly loạn, cậu Chiêu hình dung thấy rõ mồn một cái đứa trẻ bồ côi rất đáng
nên tội nghiệp kia. Cậu đấy. ừ, tưởng là chết được lắm, chứ có ai ngờ đâu còn sống
được đến bây giờ và lại còn được ăn học đến nơi đến chốn nữa. Cái thân một người
con quan lúc bấy giờ thật đã khốn cực đủ trăm phần.
Ông cụ Hồ Viễn vẫn nói và uống. Càng nói chuyện, cụ càng uống
rượu; càng uống rượu, cụ càng được nói chuyện nhiều. Mỗi lúc bị hỏi gặng, cậu
Chiêu lại như tỉnh cơn mơ nhỏ.
- Dạ?
- Thưa vâng.
Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái cảnh màn trời chiếu đất
của ngày bé bỏng. Dưới cái màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh sáng
tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chùm tóc mới
vừa tơ mà đã nhuộm màu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút, một cặp
chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như son lên cái rêu nhầy nhờn, của
ngày đau khổ và lẩn lút. Có những ngày liên tiếp cậu Chiêu và chị - cô Tú - phải
nấu củ rừng ăn với cháo chó, những con chó trung thành cùng theo chủ vào ruột rừng
Hưng Hoá.
- Cậu còn nhớ chỗ để ngôi mộ cụ nhà đấy chứ?
Cậu Chiêu choàng ngồi thẳng mình lên và ngừng tay quạt ruồi
chờn vờn trên mâm cơm, vội thưa với cụ Hồ Viễn:
- Dạ thưa cụ, cháu nhớ lắm. Có ai mà lại đi quên được mồ mả
cha ông. Vả chăng, vẫn còn có tấm bia ở đấy.
- ờ. Đấy là xứ Đồng Cồn phải không? Từ ta đây mà xuống dưới xứ
Đồng Cồn thì đi như thế nào nhỉ?
- Dạ như chúng tôi đi bộ thì mất trọn một ngày, nếu không nghỉ
ở dọc đường. Nhưng cụ có đi thì phải thuê cáng. Và đi cáng đòn ba thì tinh mơ
đi, độ quá giờ ngọ đã tới.
- Thôi được rồi, để hôm nào mát trời, tôi và cậu sẽ xuôi xuống
Đồng Cồn. Ngôi mộ cụ án thể nào cũng phải phúc lại. Mộ để như thế, hỏng hết. Ai
lại tọa như thế, hướng như thế bao giờ. Minh đường có mà thành ra nghịch thủy hết
cả. Cậu nói qua qua thế, tôi cũng đủ rõ rồi.
Mâm rượu vừa bưng đi xong, cậu Chiêu kính cẩn mời cụ Hồ qua
giường bên nghỉ.
Bấy giờ cậu Chiêu mới lùi vào nhà trong qua bên trái buồng cạnh.
Cô Tú ngừng tay gieo thoi trên khung cửi vải, vuốt mái tóc xuề xòa dưới vành
khăn nâu mỏ quạ.
- Thôi, em đi ăn cơm sớm đi chứ. Cơm ủ trong chăn đã ôi hết cả
rồi. Có cái đĩa nõn khoai kho tương, chị để phần cho em một ít đấy.
- Em nhớ ra rồi. Hôm nay ngày rằm, chị ăn chay.
Cô Tú cười. Nét cười dè dặt lẫn có mùi vị của hy sinh.
Với cô Tú, cuộc đời giờ đã hết tất cả xán lạn rồi. Bởi vì đời
đã sớm đòi hỏi cô nhiều về bổn phận. Cô nhất định không đi lấy chồng và vui
lòng sống vậy cho đến lúc nào cậu Chiêu em đi thi được và làm nên được. ở trong
cảnh côi cút với sự thanh bạch, cô Tú ngày ngày dệt vải, và khâu thuê vá mướn
cho người xóm làng. Những lúc rời tay kim tay thoi thì cô lại lên tiếng ngầy
ngà đến người em lúc quên mặt chữ sách hay là bỏ dở một trang quyển bài viết.
Cái bây giờ của cô Tú đã là không đáng kể và cô chỉ sống bằng mong chờ về cái
mai sau của cậu Chiêu. Dưới quang đèn dầu bông, nhiều khi người em đã rầu lòng,
tỏ lời hối lỗi vì những lúc làm phiền lòng cô Tú mà cậu coi như là mẹ, một người
mẹ rất trẻ, đầy âu yếm và thừa đức tin vào mình.
Chị ngồi chờ em ăn xong bữa cơm rau dưa, đưa tăm nước cho em
rồi mới hỏi chuyện về việc ông cụ Hồ Viễn đã nhất định hôm nào thì đi xem lại
ngôi mộ cha cất ở Đồng Cồn chưa. Cậu Chiêu thở dài, tỏ vẻ sốt ruột:
- Cụ Hồ ở nhà ta có đến hơn một tháng rồi mà cứ nay lần mai lữa
mãi. Em thấy tốn nhiều quá chị ạ.
- Em coi chừng lời nói, kẻo cụ Hồ nghe thấy thì uổng cả cái bụng
thành kính của mình đi.
- Chị thử nghĩ, mỗi ngày hai bữa rượu và mỗi phiên chợ lại một
bữa thuốc phiện. Ông cụ Hồ khó tính quá. Thuốc phiện nếu không phải là thứ một
lạng đựng vào cóng thì không hút. Gớm, không hiểu ông cụ Hồ để móng tay làm gì
mà dài đến thế. Móng tay út lá lan của cụ uốn hai vòng như râu rồng. A chết chửa,
hình như hôm nay quên không mua chanh để chút nữa cụ dậy rửa móng tay.
- Có trong kia rồi.
- May quá. Chị chưa thấy cụ Hồ gắt gỏng mỗi khi bưng thau nước
ra mà không kèm vào vài quả chanh.
- Em phải nên chiều cụ. Những lúc đêm hôm, em chịu khó hầu hạ
cho được vừa lòng cụ. Cả nhà có hai chị em, chị là gái, vậy chị trông cậy ở em.
Em nên biết, rước được cụ Hồ về nhà khó lắm.
- Nhà ta nghèo, cái đó cụ Hồ rõ lắm rồi còn gì nữa. Vậy mà cụ
bày vẽ ra nhiều quá. Một tháng, hai tháng, cố gắng thì may cũng chiều đãi được
chu tất. Nhưng em chỉ sợ cụ cứ ở lỳ mãi đây, hết trông trời lại đến xem lịch,
mà vẫn không chịu đi xem hộ ngôi mộ của thầy, rồi thì sao?
- Chị ngờ cụ Hồ muốn thử đến lòng kiên nhẫn của chị em nhà
mình, xem mình có được chí thành không. Tại sao, ở vùng đây, khối người giàu
có, cụ không thèm tới, tuy họ chèo kéo. Em nên nhớ đến câu này nữa. Là hồi xưa,
cụ Hồ đây có biết thầy lắm.
- Vậy hở chị? Sao em không nghe chị nói bao giờ. Chị kể cho
em rõ.
- Cụ Hồ nguyên là tướng Cờ Đen. Tên cụ khác kia. Chú Thủ nhà
có biết vì nhiều lần chú Thủ có nói đến rồi. Nhưng chị quên...*. Một cái cờ,
cán dài hơn con sào, lá to bằng cả một cánh buồm thuyền lớn; lụa chập ba sợi xe
làm một rồi mới dệt, rồi mới nhuộm đen. Đấy, vì thế mà gọi là Cờ Đen. Viền
chung quanh lá cờ to tướng là những hàng móc sắt, sắc hơn lưỡi câu. Người ta
nói chuyện lại rằng cụ Hồ, hồi còn làm tướng quân Cờ Đen, mỗi lúc cụ trương lá
cờ đầu khi xuất quân, trông oai phong lẫm liệt. Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai
khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã và phía bên phải là một khẩu súng
thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền*.
Có lẽ hồi nhỏ, những lúc ở trong thành xây đá tổ ong tỉnh
Sơn, hồi thầy còn ở chức, chị cứ nghe thấy tiếng kèn tàu và loa đồng và trống
trận nổi lên nhiều, là chính vào lúc quân Cờ Đen tế cờ ăn mừng được trận như thế.
Quân Cờ Đen có cái tục tế cờ lúc thu quân... Nào ai biết. Thấy các ông già bà cả
bảo thế.
- Cụ Hồ mà tài giỏi và dữ thế kia?
- Vậy mà những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài
"sường xám", đội mũ "sường chí" có quả bông đỏ, cầm quạt
vào chơi trong dinh với thầy, thì trông nhàn nhã và văn vẻ lắm. Cụ Hồ yêu thầy
vì thầy viết chữ rất tốt. Chú Thủ thường nói chữ thầy viết có gân có mác như chữ
lá thiếp. Bao giờ thầy cũng cầm bút đứng thẳng cái quản, chỉ thẳng vào đầu mũi
và cùi tay không tỳ xuống văn kỷ. Nên những nét sổ rất khỏe và rất thẳng. Hôm
nào em giở cuốn gia phả ra mà xem thì rõ.
Cậu Chiêu nghe chị kể chuyện, thích lắm. Vì chung quanh cái
thân thế một ông già mà cậu vẫn chỉ cho là một ông thầy địa lý khó tính chỉ
đáng trọng một cách vừa phải mà nhiều khi còn gượng ép nữa kia, bây giờ cậu thấy
cả một huyền sử bọc quanh một lão tướng võ nghệ cao cường và bí mật. Cái ông tướng
tài giỏi ấy, ngày ngày cậu gần kề và chuyện trò cùng. Vậy mà hơn tháng nay, cậu
không biết gì cả.
Giàn bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chằng chịt lấp chật ô
giàn nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng tháng tư ở trước mặt nhà. ánh nắng đổ xuống
giàn, khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh ngắt của cây lá lọc qua một lượt, rồi đổ
dồn và vờn vào áo vải trắng dài cậu Chiêu đang ngửng đầu ngắm những quả bầu nậm
buông thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu Chiêu đã biến thành một áo lụa
màu xanh của người phong lưu và đa tình. Đấy là cái màu dịu mát của chất ngọc
bích; đấy là màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của những xứ yên ổn
không bao giờ có nạn binh lửa.
Gió nam từ ngoài lũy tre già thưa đưa vào, làm va đụng vào
nhau những bình rượu của Tự Nhiên. Những quả bầu mà được cứng lần cùi như chất
vỏ cây khô, thì mỗi khi cơn gió vèo đẩy những bình rượu ấy văng cụng vào nhau,
người ta sẽ nghĩ ngay đến cái hình và cái tiếng của lũ khánh đất nung và cá đất
nung ở cái sân cây cảnh một gia đình thanh bạch.
Cậu Chiêu nắm từng quả bầu nậm. Lúc buồn tay, lắc quả bầu thật
mạnh, ở trong nghe như có tiếng có nước ọc ạch. Trông sướng mắt và có thể vui
tai đến chừng nào! Chẳng trách được, chiều chiều ông cụ Hồ Viễn cứ ra sân đùa
mãi được với lũ bầu nậm lòng thòng trước khung cửa sổ như nhắc nhỏm một người
đã mệt với cuộc sống chỉ còn nên uống rượu chơi thôi. Trái bầu nậm còn tươi dưới
lỗ giàn là một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bóng!
Giời chiều, đứng nắn bầu nậm cho cụ Hồ, cậu Chiêu thấy có hứng
thú. Vì cậu đã bắt đầu mến được ông già Hồ. Trước kia cưỡi ngựa, cầm cờ, đánh
Tây, bắn súng; bây giờ đi phân phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả cho những
kẻ thất thế, và lúc nhàn rỗi thì uống một đôi rượu của những người biết nhớ ơn
mình.
Xé mảnh vải điều, buộc vào cái nấc ngẫng quả bầu, cậu Chiêu
nói với cái vắng vẻ của buổi chiều nhà quê: "Thắt chặt dây lại tị nữa, thì
dáng bầu sẽ thon. Nó chỉ nhớn được theo chiều dài. Trôn quả này méo, sẽ làm tội
mình ngày mấy buổi ra đây nắn mãi cho nó bớt tật đi".
Cụ Hồ thức giấc, ra vườn, thấy cậu Chiêu đang nắn cái quả bầu
mình đã rấm sẵn từ tháng trước, liền nói:
- Tại chị em nhà cậu tặng tôi mấy cái chén ngọc liệu nên tôi
mới nghĩ đến việc lấy bầu nậm. Cái chén uống rượu của nhà này phải dùng với cái
bình đựng rượu cũng của nhà này. Cậu biết chưa!
Cô Tú nghỉ tay thoi, bước ra nghe chuyện, đỡ lời em:
- Dạ thưa cụ, cảnh nhà nghèo bí, cũng chẳng còn có gì. Có bốn
cái chén ngọc là của gia bảo còn lại, chị em chúng tôi kính biếu cụ gọi là đền
đáp mới được có một chút đó mà thôi. Sau này nếu trời thương lại và nhờ được mạch
đất tổ tiên có cơ hồi lại, nếu nghiệp nhà có thể trung hưng lên được, thì chị
em chúng tôi còn phải tạ cụ nhiều. Có lẽ quả bầu nậm ở giàn này, chỉ là mẫu vẽ
trước của một cái bình bằng ngọc thực mà sau này chúng tôi phải kính dâng cụ.
Cụ Hồ lấy làm thưởng thức cái câu cô Tú nói một cách trung hậu
mà cũng rất văn hoa. Người như thế mà còn nghèo mãi thì còn để thiệt thòi cho
thế gian nhiều. Cụ Hồ nghĩ mà thấy buồn buồn.
Hai cái sừng trăng đã mở to, đã đầy dần. Rồi vừng trăng tròn
vẽ lên trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn
tre, những lúc gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên. Trăng tháng tư đã gần
hết một tuần. Trong cả một cữ tháng tư này, cô Tú đã thức rất khuya để dệt cho
được nhiều tấm vải, để góp công nhật của mình lại cho được thừa thãi, để có đủ
một số tiền thuê cáng cho cụ Hồ và em trẩy xuống Đồng Cồn, nơi để phần mộ cụ án
ông - cụ án cha mình lúc nằm xuống trả lại lộc cho Triều đình, em mình mới có
ba tuổi.
Cái ngày đi Đồng Cồn đã đến.
Cậu Chiêu ra đi từ lúc tối đất, lúc hàng xóm mới nổi lửa thổi
cơm cho thợ gặt, bây giờ đã trở về với bốn năm người già cả rách rưới. Thấy cô
Tú, bọn người già nua kia đều kính cẩn chào.
- Các bác đã xuống đấy ư? Chắc cậu Chiêu cũng đã nói rõ muốn
mượn anh em ngày mai làm cáng hộ xuống xứ Đồng Cồn. Hai chiếc. Chiếc của cụ Hồ
thì phải đi đòn ba. Cụ đẫy người và có tuổi. Vậy các bác định lấy bao nhiêu?
- Đồng Cồn. Thế này là phải mất những ba trạm. Đại Đồng này,
Trạm Trôi và Mai Dịch này. Hai trạm ngắn và một trạm dài. Và một con đò ngang.
- Phải, đò sông Hát. Chiếc cáng đòn ba, sau khi nghỉ ở Mai Dịch,
sẽ đi luôn xuống trạm Hà Trung.
- Thưa cô, thế là về tận Hà Nội?
- Có một mình cụ Hồ đi về Hà Nội thôi. Cậu Chiêu nhà đi đến
Mai Dịch rồi trở về.
- Thế này thì cô cứ cho anh em một lượt mỗi trạm ngắn là một
quan và quan năm tiền một trạm dài. Còn như cáng đòn ba thì xin tùy cô định
cho. Ngày xưa, anh em đã có dịp được hầu cáng quan án nhà nhiều chuyến lắm. Cụ
ngày xưa thường có săn sóc đến anh em chúng tôi. Giờ là ngày mùa, nhưng được
tin cô gọi, anh em cứ xuống ngay là vì anh em nghĩ đến cái tình quan án ngày
xưa hay thương đến. Còn tiền nong, thôi, cô cho thế nào cũng được. Chúng tôi
không dám kỳ kèo.
Họ ăn trầu, vừa thổi lửa nùn rơm vặn ăn thuốc lào, vừa ngồi xổm
thưa chuyện bên khung cửi. Thoáng thấy cái ngáng võng ngà gác ở trên cột bương,
họ lôi xuống ngắm đi ngắm lại và nói với nhau:
- Này bác Xã, cái ngáng ngà này không phải cái ngáng võng điều
của quan án ngày trước. Nó sứt mất một đầu kia mà. Bác còn nhớ chứ? Cái lần qua
đò sông Hát, trời mưa gió to quá, tôi lẩy bẩy trượt chân, ngã khuỵu xuống. Một
đầu đòn cắm hẳn vào bùn. Vỡ cái nấc chạm rồng.
Một người quay lại phía cô Tú:
- Cụ án nhà kể ra là người có bụng thương kẻ dưới lắm. Con tưởng
cứ kể như vị quan khác, thì đến làm tội chứ chẳng phải chuyện chơi đâu.
Sau cùng, cuộc thuê cáng ngã giá đúng tám quan, một cáng đòn
ba đi thấu đến trạm Hà Trung và một cáng đòn đôi chỉ đi đến làng Vòng thôi. Và
sớm mai bắt đầu khởi hành.
Bữa cơm chiều hôm ấy là bữa cơm cuối cùng đãi một ông thầy địa
lý. Cơm có rượu ngon, rất nhiều, và có cả một cái sỏ lợn. Cô Tú và cậu Chiêu
cùng ngồi ăn với cụ Hồ vì cụ muốn thế. Cậu Chiêu thấy cụ Hồ hôm nay lấy cái bộ
áo lề chí sẩu ra mặc, trông cụ lại càng có vẻ Tàu lắm. Thảo nào mà ngày xưa cụ
Hồ là tướng Cờ Đen!
Cô Tú còn ít tuổi mà đã có nét mặt và dáng dấp của người góa
trẻ phải nuôi con nhỏ. Trông cô hôm nay già thêm. Lòng tưởng nhớ vong linh cha
và thương em và tủi cho mình, ở người cô, chiều bữa nay oằn nổi lên nhiều hơn tất
cả bao giờ. Thỉnh thoảng cô quay mặt ra ngoài hỷ mũi kín đáo. Rồi cô lấy dải yếm
đưa qua cặp mắt đỏ hoe. Cụ Hồ vẫn cười nói, uống rượu.
- Cô Tú lẩn thẩn lắm. Ông Giời có đóng cửa ai bao giờ. Chị em
nhà cô, thế nào sau này cũng khá.
Đến đây thì cô Tú khóc lên thành tiếng. Cụ Hồ nói tiếp:
- Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Xong
rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Tháng sau, tôi sẽ về qua đây, để chỉ bảo cách xoay lại
ngôi mộ... Cô đừng nên vội nói đến chuyện tạ ơn. Còn về lâu dài. Đáng lẽ bộ
chén ngọc đó tôi không nhận đâu. Lấy những cái gì là gia bảo của người làm của
mình là một cái tội. Nhưng vì nghĩ rằng, trong lúc chị em cô còn nhỏ tuổi, chửa
chắc đã giữ nổi, thiếu gì kẻ dòm ngó. Thôi tôi cũng giữ hộ cô và cậu. Độ mươi
năm sau, lúc đất có thể phát được rồi, tôi sẽ trở lại đây. Lúc bấy giờ mới là
lúc cô Tú nên nói đến việc đền đáp công ơn. Lúc bấy giờ tôi sẽ trả lại cô Tú và
cậu Chiêu bộ chén ngọc liệu. Cụ án nhà lúc sinh thời quý nó lắm. Đi lại với cụ
luôn luôn, mà cụ án nhà chỉ mang chén ra dùng với tôi có hai lần. Nếu tôi không
sống được đến ngày đó, mấy đứa con tôi sẽ đưa chén ngọc đến làm của tin để nhờ
cô Tú giùm giúp cho chúng. Cái đức nhà tôi xem chừng cũng bạc thế thôi. Có lẽ đến
đời con tôi là không còn gì nữa. Cô Tú và cậu Chiêu nhớ hộ tôi câu nói chí tình
này.
Cô Tú vờ đứng dậy, vừa sụt sịt, vừa xếp hành lý cho cụ Hồ mai
xuôi sớm. Trong cái tráp sơn đen, cô đã chèn nhiều giấy bản vào kẽ tráp để chén
khỏi va đụng lúc đi đường. Rồi cô xếp luôn cả quả bầu nậm vỏ đã khô và ruột đã
tóp lại. Quả bầu mới hạ khỏi giàn được mấy bữa nay.
Hai chiếc cáng đi từ sớm, qua đò sông Hát, đã gác đầu đòn lên
mấy cái ấu cáng cắm sẵn ở trước một cái quán nước chỗ Trạm Trôi. Cậu Chiêu vội
mời cụ Hồ vào quán nghỉ và tay cậu vẫn khư khư cái la bàn có vẽ bát quái đồ của
ông thày Tàu.
Mấy người bộ hành có vẻ học trò nghèo, ngồi ăn bánh ở quán,
đang đố nhau một vế câu đối mà một người vừa tức cảnh nghĩ: "Ngồi nghỉ Trạm
Trôi ăn bánh trôi". Ông cụ Hồ xòe cây quạt thước, quạt quạt và bảo cậu
Chiêu soát lại quân còn lại của ván cờ tưởng đã đến lúc gần tàn cục. Từ sớm tới
giờ, muốn quên cái đằng đẵng của mấy thôi trạm trên đường xứ Đoài, ông cụ Hồ và
cậu Chiêu đã đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày. Họ đã
đánh cờ bằng miệng chứ không phải bằng tay đụng quân. Khi mỗi người đi một nước
thêm cho ván cờ tưởng, họ lại vén cái rèm cáng, nghển cổ ra ngoài nói chõ sang
cái cáng đồng hành đi ngang hàng.
- Xa cửu bình bát.
- Tốt thất tiến nhất.
Bây giờ ngồi soát lại quân của mỗi người, thì cụ Hồ còn một
xe và hai pháo. Và cậu Chiêu còn hai tốt đã sang hà và một ngựa một pháo. Hai
bên sĩ tượng đều song toàn.
- Cậu rồi ngày sau khá. Cứ một cái lối đánh cờ của cậu tôi
cũng thấy được một phần cái tương lai của cậu. Nhiều nước cờ bắt bóng, chiếu rứ,
có vẻ tài tử lắm. Tôi nghiệm ra cậu không hay rình chiếu bí. Đáng để ý nhất
trong lối xuất quân, là cậu đánh mấy ván đều vào pháo đầu cả. Người hào hùng
đánh cờ bao giờ cũng vào ngay pháo đầu. Đánh cờ tức là người đấy. Rồi cậu cứ
nghiệm mà xem, trong mười kẻ tầm thường, nhút nhát, không khoáng đạt là có đến
chín người ghểnh tượng ở nước đầu.
Cái xóm hàng quán chỗ Trạm Trôi đã lùi lại trong nắng lòa của
trời hè. Hai chiếc cáng vẫn nhấp nhô xuôi về phía phủ Hoài.
Gần tới phủ Hoài thì xong một ván cờ nữa. Cậu Chiêu thua, sắc
mặt vẫn tươi tỉnh. Cụ Hồ thì nghiêm trang.
- Cậu thua vì đã khinh thường con tốt biên của tôi và để nó lọt
qua hà. Rồi lại cho nó nhập được vào cung. Một con tốt lọt qua sông là cái giá
trị nó bằng nửa sức con xe rồi. ở đời không nên khinh thường cái gì. Con tốt mà
sang hà, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế. Tha hồ mà phá phách. Mạng nó đổi
lấy quân nào nó cũng lấy làm sở nguyện rồi kia mà.
Cậu Chiêu cười xoà, cụ Hồ mệt mỏi chợp giấc. Cáng vẫn song
song trên đường dài.
Con đường xứ Đoài, cát bụi nhiều quá. Được một thôi nữa, bỗng
cụ Hồ hỏi sang bên chiếc võng gai cậu Chiêu:
- Cậu thường có hay đánh cờ đất không? Cờ đất khó hơn cờ bàn;
phải tinh lắm mới đánh nổi. Để tới vụ xuân sang năm, tôi sẽ rủ cậu lên Hưng Hóa
đấu cờ với một người bạn gái bằng trạc tuổi cậu. Cô ta khiến đôi ngựa rất
nhanh, và có cái nước mã ngọa tào lạ lắm. Mà cưỡi ngựa cũng rất tài.
Trời vẫn nắng như rang.
Thế chốc nữa, ở làng Vòng cậu lại ngược ngay về Sơn, thì mãi
đến hết canh một mới tới nhà đấy nhỉ?
- Dạ thưa cụ, có lẽ đêm nay chúng tôi phải nghỉ đêm ở làng Nhổn.
Chị tôi dặn lúc về thì tiện đường rẽ qua vào đấy thăm ông Cử hai và nhân tiện
đòi bộ Lữ hành thi tập của thầy tôi làm hồi theo đoàn sứ qua Bắc Kinh.
7. Chữ Người Tử Tù
Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, viên
quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao:
- Này, thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận được
sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch
là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn
khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?
Thầy thơ lại xin phép đọc công văn.
- Dạ, bẩm chính y đó. Dạ, bẩm có chuyện chi vậy?
- Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm
đến cái danh đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi, cho thầy lui. À, nhưng
mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc
dùng đến. Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là
nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ
tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?
- Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
- Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?
- Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn
lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà
thấy tiêng tiếc.
- Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho
thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. Thôi, thầy lui về mà trông nom việc dưới
trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho có mặt ở cửa trại trước khi lính tỉnh
trao tù cho mình lĩnh nhận. Ðêm nay, thầy bắt đầu lấy thêm lính canh. Mỗi chòi
canh, đều đặt hai lính. Chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh
kiểng đánh mõ, thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ có cho
mấy thằng thập nó đánh bạc nghe!
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi
xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một
cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi
bóp thái dương. Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn
chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những
tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm
sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có
nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi
sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó
sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy
nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi
sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
Nơi góc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây
đèn nến vợi lần mực dầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản
đóng dấu son ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một
con bấc. Ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người
ngồi đấy.
Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường
nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là
mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. (*)
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa
lọc; tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên
quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc
luật đều hỗn loạn xô bồ.
Ông Trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết
vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải
ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt.
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ
lại. " Có lẽ lão bát này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như
mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc,
biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt
đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại,
nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở
yên. Ðể mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu ".
Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà
công văn chiều hôm qua đã báo trước cho ngục quan biết rõ tên tuổi, làng xóm và
tội hình. Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy
đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ
phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái
gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ
hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn
gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng
thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng,
Huấn Cao, đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí:
- Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.
Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu
cúi cả về phía trước. Một tên lính áp giải đùa một câu:
- Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người
sành sõi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. đứng dậy
không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh
đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị
giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền
đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.
Cánh cửa đề lao mở rộng. Sáu người né mình tiến vào như một bọn
thợ nề thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai. Trái với phong tục nhận
tù mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền
lành. Lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi. Khi kiểm điểm phạm
nhân, ngục quan lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ,
đều nhắc lại:
- Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn
ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý nhắc viên
quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra.
Ngục quan ung dung:
- Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều
lời.
Bọn lính rãn cả ra, nhìn nhau mà không hiểu. Sáu tên tử tù có
ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một
người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù. Mỗi
lúc dâng rượu, với thức nhắm, người thơ lại lễ phép nói: " Thầy quản chúng
tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây, lạnh lắm
".
Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu và ăn thịt, coi như đó
là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Rồi đến một
hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn:
- Ðối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết
ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ
kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm.
Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất. (**)
Ông đã trả lời quản ngục:
- Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi
đừng đặt chân vào đây.
Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn
đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ
nhục. Ðến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị
oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm, khi nghe xong câu trả lời,
y chỉ lễ phép lui ra với một câu: " Xin lĩnh ý ". Và từ hôm ấy, cơm
rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa; duy chỉ có y là
không đặt chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng
chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn
Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. " Hay là hắn muốn
dò đến những điều bí mật của ta? ". " Không, không phải thế, vì bao
nhiêu điều quan trọng, ta đã khai bên ty Niết cả rồi. Ta đã nhận cả. Lời cung
ta ký rồi. Còn có gì nữa mà dò cho thêm bận ".
Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như
lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục, không lấy làm
oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời
quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống
chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Quản ngục chỉ mong mỏi một ngày
rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết lại, thì y sẽ nhờ ông viết, ông viết
cho...cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y
mãn nguyện.
Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở
nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình
một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.
Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn
mà treo, là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông
Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được
chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt
đây ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời nữa.
Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi
tiếp đọc công văn. Quan Hình Bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và
các bạn đồng chí ông vào kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh
mơ, sẽ có người đến giải tù đi.
Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi
lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: " Dạ
xin ngài cứ yên tâm, đã có tôi " Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn,
đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản ngục, và
ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: " Về bảo chủ
ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó
đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. đời ta cũng mới viết có hai
bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái
tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy
quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất
một tấm lòng trong thiên hạ ".
Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ
trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng
tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân
gián.
Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực
của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa
bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét
chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ,
viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên
phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút
con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng
người dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ
này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn
tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực,
thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên
không?...Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát
khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên
lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam,
tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan
cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ
miệng làm cho nghẹn ngào: " Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ".
(Trích Vang bóng một thời)
Nguyễn Tuân
(*) kiểm duyệt thời pháp thuộc bỏ mất bảy dòng chưa tỉm ra được.
(**) kiểm duyệt thời pháp thuộc bỏ mất sáu dòng chưa tỉm ra
được"
8. Ném Bút Chì
Ít bữa nay, Lý Văn buồn bực hiện ra mặt, bỏ nhà ra đi đến hai
ba hôm. Nhiều người lạ mặt đến hỏi, vợ con Lý Văn đều không biết thế nào mà trả
lời. Những người khách dữ tợn ấy có khi trở lại đến hai ba lần. Không được gặp
chủ nhân, họ không lấy thế làm hậm hực. Vợ Lý Văn có hỏi gặng, họ chỉ trả lời
nhiều câu nghe rất ngang tai:
- À anh em chúng tôi cũng là tay chơi như ông Lý nhà ta đây.
Hễ ông Lý có về, bà nói dùm cho là có bọn Huần ở Kim Sơn ra thăm. Bá Huần, bà
nhớ thế cho. Và có tin gì hay, xin ông Lý nhà cho anh em biết sớm.
Bọn Bá Huần Kim Sơn đi chưa khỏi thì lũ chó mèo ở ngoài cổng
lại sủa vang lên một hồi. Lại ba bốn người nữa đến hỏi thăm ông Lý.
Người nào cũng quấn khăn đầu rìu. Người nào trông cũng gian
ác, hung bạo.
- Chúng tôi là người Tam Tổng. Ở nhà lâu ngày tù chân quá,
nhân đi qua đây, ghé thăm ông Lý nhà và hỏi xem có công việc gì mới đáng để anh
em đỡ tay hộ không.
Bà Lý Văn, trước những câu tự giới thiệu rất lạ lùng của bạn
chồng mình, chỉ biết dạ và thưa và luôn miệng mời khách hãy ngồi chơi để cháu
đi đun nước.
- Thày cháu đi lên tỉnh vắng, bà Lý nói.
Mấy ông khách người hạt Tam Tổng không chịu ngồi yên một chỗ
để sơi một khẩu trầu. Họ cũng không chịu ngồi yên để chờ đợi ấm nước trà đun sắp
sủi. Họ chắp tay ra đằng sau lưng, lững thững dạo quanh nhà một vòng. Đàn chó mẹo
tha hồ mà sủa, mà rộ; có lúc chúng chờm vồ lên lưng khách. Khách vẫn thản nhiên
để cho đàn chó nhà bà Lý gặm bắp chân. Bà Lý vừa quát lũ chó một cách vô hiệu,
vừa để ý ngắm đến những bắp chân tròn trĩnh của mấy ông khách lạ. Thì ở đấy, có
cần gì đợi lũ chó nhà bà Lý cắn, trên lần da chân bóng như đồng đen kia, đã
loang lổ nhiều vết sẹo rất to, cái thì trắng nõn nước da non đang lên, cái thì
đen thẫm màu thịt thối thâm đã lâu ngày.
Đàn chó xem chừng cũng chán mấy người lạ kia nghênh ngang
trong nhà chủ mình và có ý coi cái khoảnh sân vườn này như là của họ. Trái với
những lần khác thấy những người lạ qua đây có cầm que hay là gậy tre gai với sự
rụt rè kiêng nể là chúng hắn vồ và đuổi nhiều, lần này đàn chó mẹo, sau một hồi
thị oai suông, đã lảng xa mấy ông khách người Tam Tổng.
Sau một hồi " nhỏ to " ở giữa sân, họ nói chõ vào
trong nhà:
-Thế ông Lý có nói bao giờ về không?
Từ trong nhà thấp, thiếu ánh sáng của ban ngày, tiếng bà Lý
đưa ra:
- Dạ, thày cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông
vào sơi nước kẻo nguội.
Ngoài sân mấy ông khách vẫn thì thầm bàn tán. Họ không trả lời
mời nước của bà Lý. Trong một lúc gắt gỏng, bà Lý chỉ nghe được một mẩu chuyện
lúc họ nói to: "... chả có nhẽ lão Lý lại đi đánh một tiếng bạc bất thình
lình như vậy. Bao giờ lão đi, cũng có anh em mình tả phù hữu bật. "
Thế rồi họ kéo nhau đi, sau mấy mồi thuốc lào kéo đến tụt nõ
và sau mấy câu chào hỏi rất kệch cỡm ngô nghê. Bên chiếc điếu cầy dài đến thước
rưỡi ta, họ còn để lại một cái hộp tròn đựng thuốc lào. Nắp hộp làm bằng vỏ cam
khô. Lúc vỏ cam còn tươi, ở trong khuôn ép, người ta đã tỉ mỉ trổ lên đấy cái mặt
hổ phù.
Cai Xanh - người khách có hộp thuốc lào này và vừa ở đây ra -
Cai Xanh là một "tay chơi" nổi tiếng ở mấy vùng Thanh Nội và Thanh
Ngoại. Những tay anh chị trong đám cướp lớn có tổ chức hẳn hoi thường được biết
đến tiếng Cai Xanh. Và những người ăn cướp chưa được gần y thì chỉ thèm muốn có
một dịp nào nhập vào đảng y để được biết rõ đến nghệ thuật của một kẻ đàn anh.
Người ta biết đến Cai Xanh, người ta lại biết luôn cả đến những
đồ vật mà Cai Xanh hay giắt luôn trong mình. Như con dao hai lưỡi, cái hộp thuốc
lào v.v... Con dao hai lưỡi ấy, ít khi Cai Xanh phải dùng đến. Khi phải dùng đến
thì thế nào cũng có kẻ bỏ mạng. Trong những phút rất nguy nan, phải giết kẻ
khác để gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và bỏ dao lại
trên chiến địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào thớ thịt còn
nóng hổi giòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm trong hầu bao của
Cai Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử kinh sợ đã bao trùm,
cũng như một huyền sử khác đã chạy chung quanh cái hộp đựng thuốc lào của Cai
Xanh.
Những lúc nhàn tản, không dự một đám cướp to nào, những lúc
nhỡ độ đường không có tiền trả những hàng quán hẻo lánh trên con đường thăm thẳm,
Cai Xanh đã lễ phép nói với bao nhiêu là nhà hàng:
- Tôi lỡ quên không giắt theo tiền trong người, nhà hàng cho
tôi gửi tạm vật này làm tin, mai mốt tôi sẽ cho người nhà tới chuộc nó về.
" Nó " đây là cái hộp thuốc lào ở trên dán nắp vỏ
cam có khắc cái mặt hổ phù. Những chủ quán ở rải rác trên con đường Điền Hộ phần
nhiều cũng là đầu trộm đuôi cướp cả. Khi nào họ không đi ăn cướp được thì họ là
người lương thiện, mỗi ngày rót vào bát đàn vài lượt nước trà xanh nóng hổi cho
người đi đường giải khát. Họ vừa rót nước, vừa nheo cặp mắt lại như muốn đếm
tách bạch ra từng đồng tiền đồng trên tay nải khách qua đường nghỉ chân. Không
biết ai đã nói chuyện cho họ nghe từ bao giờ về cái hộp thuốc lào của Cai Xanh
mà, mỗi lần thấy người khách ngang tàng kia gửi vật mọn đó làm tin thay cho món
tiền thiếu, chủ quán nào cũng đều xoa tay, không dám nhận.
- Dạ không dám. Khi nào ông anh sẵn thì cho đàn em xin. Cái
đó có là bao mà dám phiền lòng ông anh.
Cai Xanh cả cười... ra đi. Cái cười rất hợm hĩnh đó thay một
câu hỏi gần như thế này: " - Mấy chú em bán quán ở vùng này cũng đã biết
rõ đến ta sao? "
Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không được
gặp. Cai Xanh có ý vờ bỏ quên lại hộp thuốc lào, để nhắc cho chủ nhân biết y đến
không phải là việc phiếm và khi nào về nhà, chủ nhân nên triệu y đến ngay. Vì
có việc cần phải bàn. Cái chuyện lơ đễnh rất hữu ý đó, cái chuyện bỏ quên hộp
thuốc lào vẫn là một ám hiệu của Cai Xanh dùng tới mỗi lúc đi tìm bạn để "
đánh một tiếng bạc lớn " nghĩa là cướp một đám to.
Thế mà, không hiểu rõ một tí gì, bà Lý Văn cứ phàn nàn cho mấy
ông khách Tam Tổng đến chơi đã không gặp được chồng mình, lại còn bỏ quên đồ vật.
Xa xôi hàng mấy ngày đường, đến bao giờ các ông ấy mới trở lại đây để nhận vật
bỏ quên. Mà bây giờ các ông ấy đi hẳn đã xa lắm, biết đuổi theo thế nào cho kịp.
Một ngày nữa lại hết.
Vào buổi sớm ngày thứ hai, một thôi tiếng chó sủa vang ngoài
cổng, mở đầu cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Bà Lý ngừng tay
dưới bếp, đã tưởng chồng mình về. Té ra chỉ là một ông khách lạ mặt nữa, đến hỏi
thăm chồng với sự nóng nẩy của một người quen vội vàng. Y tỏ vẻ thất vọng, xin
đi ngay. Bà Lý muốn ông khách hấp tấp kia cho mình biết tên. Khách cười. Trên
khuôn mặt đen như cột nhà cháy, nẻ ra hai đường răng trắng nhởn. Ông khách chạy
vội ra phía đầu trái nhà, vơ lấy cái mai dựng ở tường, móc túi lấy con dao găm,
khắc vào cán mai một đường tròn đều như tiện, trao mai cho bà Lý.
- Bà cứ đưa cán mai này cho ông Lý nhà, tự khắc ông sẽ biết.
Độ chiều mai tôi lại sang chơi. Xin ông Lý đợi cho.
Bà Lý Văn cũng chỉ biết vâng dạ cho qua chuyện. Từ ngày bà
làm bạn cùng ông Lý Văn, đến bây giờ đã mấy mụn con, bà chưa từng được biết chồng
bà có những người bạn lạ lùng đến như thế bao giờ.
Lý Văn đã về. Không kịp bỏ khăn áo, Lý Văn đã nằm ềnh ra giữa
phản. Từ chối hết cả những lời mời mọc ân cần của vợ hỏi ăn cơm hay là ăn cháo
hay là dọn rượu, Lý Văn chỉ nằm ngửa nhìn thượng lương nhà, tay trái vắt lên
trán, có chiều tư lự không cùng. Trên mặt y, chốc chốc những đường gân lại dăn
dúm lại vì dày vò của suy nghĩ.
Bà Lý mon men lại gần chồng:
- Mấy hôm thày nó đi vắng, có đến dăm bảy ông khách lạ đến hỏi
thăm. Các ông ấy đều không nói tên. Có một ông khắc cái gì vào cán mai này và dặn
đưa ngay cho thày nó xem.
Bà đưa cho cho chồng cái mai có tiện một nấc ở đầu cán.
- À, Phó Kình! Thế người ta đến từ bao giờ?
- Sáng qua. Theo lời ông ta hẹn, có lẽ chiều nay ông ta trở lại
đây.
Lý Văn tự nói một mình:
- Mình đang tìm Phó Kình. Thôi được rồi, có cây " bút
chì " này giúp sức, ta không lo gì nữa.
Bỗng Lý Văn ngồi nhỏm dậy. Y vừa nhìn thấy ở mép bàn thờ cái
hộp đựng thuốc lào con con. Y vội quờ lấy cái hộp có in mặt hổ phù.
- Ấy, của cái bọn ông khách gì nói là người vùng Tam Tổng đấy.
Ông ta lúc đi bỏ quên. Tôi bận trẻ không kịp chạy theo để trao trả cho ông ta.
Thày nó giữ lấy vậy.
Lý Văn không để ý đến nhời vợ, ngắm nghía hộp thuốc lào với nỗi
sung sướng hoàn toàn, lim dim mắt, nói như người mơ ngủ:
- Cai Xanh! " Tiếng bạc " này, thế nào cũng ăn to.
Một cây " bút chì " của Phó Kình và một cái lá chắn của Cai Xanh, thế
nào đám này cũng lọt. Ta đang thiếu hai tay này. Chắc thế nào Phó Kình cũng tới
tìm Cai Xanh. Và có lẽ họ đã gặp nhau ở giữa đường rồi cũng nên. Tất thế nào
chiều nay hai người cũng có mặt ở đây một lúc.
Thế là Lý Văn đã truyền cho vợ đi lấy độ chục chai rượu ngon
và quát tháo người nhà bắc ngay nước sôi để làm lợn. Bà Lý Văn không hiểu gì cả:
chồng bảo thế nào, bà chỉ biết làm theo. Từ những ngày nào, trong cái gia đình
này, mỗi một lời nói to của ông Lý là một mệnh lệnh.
Một mặt, người nhà chọc tiết lợn, tiếng con vật bị đâm dao bầu
vào cuống họng kêu oeng oéc. Một mặt bà Lý đi ra đầu làng để liệu cho xong cái
khoản rượu.
Lý Văn chạy tới tấp như một kẻ chức sắc gặp ngày phải đương
cai. Ngồi ở nhà được một chút, y nghĩ thêm được một điều gì, y lại vụt chạy đi
rất lâu.
Y chạy đi chạy về như thế, tính ra đã được ba lần. Đến lần thứ
tư thì y dắt luôn đến năm sáu người cùng về, trong số đó có cả Cai Xanh và Phó
Kình.
Người ta nói cười oang oang. Lý Văn vào nhà trước, trải vội
chiếc chiếu cạp điều phủ mặt ván ngựa.
- Mời các chú vào trong này.
Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn
vỗ vào nhau mươi lượt. Cũng như từ bao giờ, bà Lý đã lẩn đi đâu mất. Ông Lý đã
dặn vợ hễ khi nào ông có đông bạn lạ đến uống rượu thì bà nên vắng nhà. Vì thế,
dọn xong rượu, lần nào bà cũng đi biệt.
Người ta ngồi vào mâm rượu với sự uể oải của người không đói
ăn, với sự buồn bã của kẻ dự đám hiếu, với sự nghiêm trọng của một người biết
trước bữa rượu này là khơi mào cho một việc quan hệ cần phải giải quyết trong
hơi men nồng.
Thực khách đều giữ một vẻ mặt bí mật.
Trong số mười chai rượu, thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy
tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái
dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba. Một vài người dặng
hắng. Đôi ba kẻ vê sẵn những mồi thuốc lào, mắt nhìn trừng trừng vào người đang
rít điếu cầy.
Lý Văn khạc mạnh. Y giả vờ gọi đầy tớ thực to. Không có đứa
nào thưa, y tủm tỉm:
- Thưa các quan, nhà vắng cả, xin các quan bàn qua lại việc
đó. Rồi để phân phát ngay công việc cho anh em và định ngày làm.
- Còn định gì nữa, Cai Xanh ngắt câu chuyện. Nếu có làm thì
làm ngay đêm nay đi. Nhân thể đêm nay lại tối trời. " Tiếng bạc "
này, em xin thưa để bác Lý biết: nếu đêm nay không mở ngay đi thì " tiếng
bạc " đến vỡ mất.
- Cũng được. Vậy thì anh em cắt và nhận công việc luôn đi.
Phó Kình bây giờ mới lên tiếng:
- Cứ như lệ cũ mà theo, vẽ vời cắt đặt lại làm chi cho thêm
phiền ra. Thì cũng lại cầm lá chắn là anh Cai và đánh " bút chì " là
em chứ còn ai vào đây. Nếu có neo người thì anh Lý nhà đỡ cho một cây "
bút chùng " kèm sát bên cạnh em cho em vững tay ở những đường độc đạo. Còn
các chú nó đây - Phó Kình sòe tay chỉ mấy người ngồi ăn từ nãy chưa nói gì -
thì chia nhau ra mà đỡ lấy việc vặt như thả chông, bật hồng, vân vân. Còn thì mới
đến người ngoài. Các ông anh nghe đàn em lạm bàn thế đã tạm ổn chưa?
Phó Kình tu một hớp rượu đánh ực. Cả bọn đều nhao:
- Thôi, thông lắm rồi. Vậy thì nhất định đêm nay hết trống
canh hai bắt đầu cất quân. Sang đến đúng đất bên ấy, vừa vào giờ tý.
Cả bọn lại đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong
không khí ồn ào, người ta đọc đi đọc lại cái câu: " Ở đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi ". Cả bọn đều lấy làm thưởng thức
câu đó và mỗi người đều tự đặt ngay mình vào địa vị người anh hùng.
Phó Kình đã nóng mặt, sắn tay áo, ngồi chửi đổng:
- Này phải biết, một cây " bút chì " của em, em dám
chấp cả một ấp người. Có một cây " bút chì " mà đánh cho sát đòn, thì
đây nhất nhân địch vạn nhân, à, phải biết thế mới được.
Nói xong, Phó Kình nhẩy xuống đất, quơ trong gầm giường lấy
cái mai, tháo cuộn giây thừng quấn trong người thay thắt lưng, buộc một đầu mối
dây vào cán mai có tiện đường rãnh từ hôm nọ. Cả bọn đang vui câu chuyện, đều
ùa theo Phó Kình ra mặt sau nhà, đứng một loạt đối diện với bụi chuối tiêu phất
phơ tàu lá ở bờ rào xa. Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào
cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững đốc
ngọn mai.
- Đàn anh thử xem em hạ cây chuối phía bên trái.
Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt
đất, kêu đánh roạt. Và Phó Kình đang cười hề hề, cuốn vòng dây thừng vào cánh
tay trái và, đã được giật về từ lúc nào, cái mai đã ở gọn trong hai bàn tay y.
- Bây giờ đàn anh lại xem em lấy buồng chuối chín cây xuống để
chút nữa lễ thánh.
Lưỡi mai sén qua cuống buồng chuối, đi quá đích, chạm cả vào
đến quá nửa thân cây chuối. Cả bọn cười vang. Lý Văn dè dặt lời khen:
- Ngón " bút chì " của chú hay đấy. Nhưng cũng còn
nặng tay. Chưa được ngọt đòn lắm. Có nhiều khi mình chỉ nên đánh dọa người ta
thôi. Nếu không cần đến, thì chớ nên làm tổn hại đến nhân mạng.
Sẵn có đàn gà đang đi trong luống khoai lang, Lý Văn mượn Phó
Kình đưa cho mình cây " bút chì", buộc thòng lọng múi dây vào cổ tay
trái và nói với anh em:
- Chú nào ném hộ tôi hòn đất.
Tiếng hòn đất đụng đất kêu đánh bộp. Mấy con gà bay tà tà khỏi
mặt vườn, đập cánh bồm bộp. Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vụt.
Một tiếng gà kêu oác.
Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gẫy mất hai chân.
Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn
dính vào đùi bởi lần da hoen máu.
Lý Văn gác mai, nói với tất cả bọn:
- Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của
" bút chì " là nát mất gà. Các chú không phải đánh những " tiếng
bạc " vào sinh ra tử, các chú không biết, chứ đòn " bút chì "
khó khiến lắm. Và một cây " bút chì " ngang tàng như thế mà lại phải
lụy một cành tre đấy. Chú nào hay xử cây " bút chùng " ở các đường độc
đạo, nên cẩn thận khi thấy bên địch tung cành tre ra để phá " bút chì
". Để hôm nào rảnh, anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng
gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.
9. Chén Trà Trong Sương Sớm
Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đèn để xuống. Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh, cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất dòn, rấtđều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao chùm lấy ánh sáng yếu ớtcủa một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờnhư làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ có một người thức.
Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Äm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian.
Ðêm đông dài không cùng. Nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.
Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi yên lăng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm. Từ ngoài phía ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dội vào những tiếng bước chân người nặng nề. Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần.
Cụ Äm phẩy phành phạch quạt mo theo một nhịp nhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tẩu lép bép nổ, nghe rất vui tai. Và làm vui cho cả mắt nữa, tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không gian những nét lửa ngang dọc, cong quèo ngoằn ngoèo. Những lúc có cháu nhỏ ngồi với mình, cụ Ấm thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích không.
Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những ngọn lửa xang nhấp nho. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chẩy.
Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết một đời khoảng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm ấp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thăm hỏi cái hấp hối của lũ vô tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không nổ lép bép như than tầu; nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã lâu, có tiếng thở dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người ta nghĩ đến nó.
Cụ Ấm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều giây phú mong chờ.
Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhành, khoan thai, cụ Äm nhắc cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Äm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.
Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già đã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm mai.
Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.
Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên lò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Như thế lúc nào người ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon.
Nhưng có mấy khi cụ Ấm uống trà tầu một cách tàn nhẫn như vậy. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi. Nhưng hai chén đó đã được cụ săn sóc đến nhiều quá.
Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.
Cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp, uống trà rất tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:
- Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tầu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan Ðốc, tôi đã được cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầu trà cụ Ðố, trước khi củ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển. Nhiều người đã ghen tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắt lượt học trò hầu trà, cho anh em ai nấy đều được chút vinh dự gần gũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thày. Quan Ðốc mỉm cười: "Thày giã ơn các anh. Thày nói thì các anh đừng giận: các anh không pha trà cho hợp ý thày được đâu. Ðể thời giờ ấy mà học. Anh Ðam - (trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụ Ðốc mới đổi tên đi cho) - anh Ðam pha trà khéo thì thày để cho giữ việc hàu thày, chứ có phải thày yêu anh Ðam hơn hay là ghét các anh hơn đâu". Bây giờ mỗi buổi trà sớ, ngồi uống một mình, tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào dậy, cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật rền, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:
Bán dạ tam bôi tửu.
Bình minh sổ chản trà.
Mỗi nhật ừ... ừ... đều được... y... như thử.
Lương y bất đảo gia.
Một buổi sớm, thấy rõ lòng thày là vui vẻ, tôi đã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:
Mai sớm một tuần trà.
Canh khuya dăm chén rượu.
Mỗi ngày mỗi được thế,
Thày thuốc xa nhà ta.
Cụ Ðốc tạm cho là được.
Sớm nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh.
Thường hay vấn mình để sửa mình vào những giờ uống trà tầu, cụ Ấm thường nghĩ đến câu nghìn xưa của thày Tăng Tứ: "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân".
Trong nhà cụ Ấm, người ta đã ồn ào thức dậy. Cụ Ấm cũng bắt đầu ho. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thở không dám ho, sợ làm đục mất cái phút bình lặng huyền bí của lúc đêm và ngày giao nhau.
Người con trưởng dón dén lại thỉnh an cha già và mon men ngồi ghé vào thành chiếc sập cũ. Chàng đỡ lấy quạt, nhắc hỏa lò ra một chỗ rộng, quạt mạnh cho hế tàn than.
- Thày uống xong rồi. Con uống thì pha mà uống. Trà còn đợm hương lắm.
Câu nói này là thừa. Vì sớm nào hai cha con ông Ấm chẳng dậy sớm để uống trà, cha bao giờ cũng uống trước hai chén và người con cả uống sau nhiều lắm đến ba chén là cùng. Sớm nay, cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày, cụ Ấm lại bắt người trưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài "Trà Ca" của Lư Ðồng. Giọng bình văn tốt quá. Ðiệu cổ phong trúc trắc thế mà con cụ Ấm lại còn ngâm gối hạc bắt đoạn cuối một câu trên xuống luôn đầu câu dưới, hơi ngâm trong và dài. Trông hai tra con uống nước mà y như là một đôi thày trò vào một giờ học ôn buổi sớm mai. Chuyện vãn mãi về trà tầu, ông cụ Ấm lại mang luông cả tập "Vũ Trung Tùy Bút", giảng những đoạn công phu của tác giả - ông Quốc Tử Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ - chiêm nghiệm và xưng tụng về trà tầu. Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.
- Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thư nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thày học yêu như con.
Trong gia đình cụ Ấm, hồi gần đây đã lập lạ cá phong tục uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ Ấm đã cất hẳn bộ đồ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được bày nó ra hằng ngày nữa.
Nhưng trời kể cũng còn hậu đãi người hàn nho, thế nào năm nay cụ Ấm lại được mùa cả hai vụ.
- Này cả, con lên tỉnh mua trữ a lấy ít trà Lý Tú Uyên. Năm nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Thủy tiên nhà, năm nay gọt những một lắp đấy. Thày mua chung với cụ Kép xóm dưới! Ðộ mai kia thì giò hoa tách hết màng. Củ nào hoa kép thì đem ủ trà.
- Thưa thày, con tưởng trà cứ để nguyên hương của nó mà uống. Con thấy ông ngoại nhà không bao giờ cho ướp trà mới, bấy cứ là với hoa thơm nào. Ông ngoại con bảo chỉ nên ướp, là lúc trà đã đi hương hoặc gần phát du.
Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc.
Ðạo mạo trong vành khăn nhiễu quấn dố, cụ Ấm đã chống gậy ra đi.
Cụ quay trở lại dặn người con trưởng đang hí hoáy lau bộ khay trà:
- Thày vào trong cụ Ðiều để rồi cùng sang làng bên thăm một con bệnh già. Con bệnh này, tốn nhiều sâm lắm. Ðến tối thày mới về, vì thày phải sao tẩm thuốc sống ở bên ấy cho tiện.
10. Một Cảnh Thu Muộn
- Hình như năm nay thu nó về sớm hơn mọi kỳ, phải không hở
anh Cử? Mặc phủ ra ngoài chiếc áo the, ông già sáu mươi vừa cài hết hàng khuy hổ
phách nơi tà áo chiếc áo lụa Nguyễn ruộm màu tím than đã bợt, vừa ngẩng đầu hỏi
người con thứ hai đang soạn bộ đồ trà cho cha uống tuần nước buổi sớm mai.
Cậu Cử mở qua loa cuốn lịch,thưa lại:
-Thưa thầy,lập thu vào ngày mồng một tháng bảy.
Nhổ ngụm nước tống khẩu vào ống phóng sứ,ông già sáu mươi kêu: "Thảo
nào?",và hỏi tiếp:
-Đến tháng tám này là đúng vào ngày đầy tuổi tôi con bé cháu Tố Tâm đấy nhỉ?
-Dạ thưa thầy vâng.
-Một năm đủ mười hai tháng.Lên một,Tố Tâm nó chơi đèn được rồi đấy.Năm nay anh
Cử có định bày cổ cho các cháu chơi tết Trung Thu không?
Giữa lúc ấy,dươi nhà có tiếng trẻ khóc bú và tiếng đàn bà ru con:"À ơi...
Tâm ngủ đi Tâm.. Để mợ,ra đầm, gánh nước tưới hoa.. à ơi".
Ông già tỳ cùi tay lên gối xếp da quang đầu, vuốt chòm râu bạc,nhìn ra cơn heo
may đang lay bức mành và làm gật gù mấy bông cúc nơi chậu cây cảnh ngoài
sân.Ông già nét mạt nghiêm trang,bảo cậu Cử:
-Các con gọi tên con cái,nên gọi cho đúng.Tên cháu là Tố Tâm thì phải gọi đúng
như thế.Sao ăn bớt đi một chữ.Không thể bảo như thế là tiện là dễ gọi được.Con
nên bảo vợ con,không có người ngoài người ta cười đến ông con mình,đến cả nhà
mình.
Cậu Cử vội chạy xuống nhà rồi lại chạy lên ngay.Nói tiếp về việc cỗ bàn tháng
tám do ông cha già gợi lên,cậu Cử thưa:
-Đã đến mấy năm nay,nhà ta bỏ mất cái tục lệ ấy.Cứ kể có bày ra lại,nó cũng vui
nhà.
Dưới nhà lại vẳng đưa lên cái giọng ru con ban nãy:
-"À ơi,Tố Tâm thừa chút hương trơi... à ơ ư".
Ông cụ già bằng lòng.Vì người con dâu thứ ở nhà dưới ru con theo cái ý của ông
già vừa ngỏ với cậu Cử.Cậu Cử cũng hài lòng vì vợ đã thuần phục,biết nghe lời
gia huấn.Không những thế mợ Cử còn tỏ ra là người có chút chữ và vỗ vẽ thi ca nữa.Vì
con gái út là một thứ hương thơm bắt được của trời! Câu ru em đượm đượm nồng
mùi thơ.
Thằng Ngộ Lang,đứa con đầu lòng lên bảy tuổi,chạy lên mách với cậu Cử:
-Em Tố Tâm ngủ rồi cậu ạ.
Rồi nó leo lên sập, nhẩy vào lòng ông nội, cũng đòi uống trà tầu. Cái lối chạy lên
làm nũng ông nội như thế ở người thằng Ngộ Lang đã là một thói quen được ông nội
thỏa nhận. Ông già sáu mươi yêu cháu vô cùng. Có khi ông lại đọc cả đến những bài
thơ chữ Hán để cho đứa trẻ sớm thông minh kia ngồi nhại mình. Nhớ được một hai
câu ngũ ngôn ngăn ngắn, nó lại chạy xuống bếp túm dải yếm mẹ và đọc sai gần hết
để mợ Cử lại phải phì cười chữa lại thành âm từng chữ một.Từ khi cụ Thượng Nam
Ninh không ở chức Tổng đốc vùng xuôi,từ khi cụ về trí sĩ ở Hà Nội tại cấi
nhà ngói chật hẹp phố hàng Gai này,thằng Ngộ Lang đã là một cái vườn cảnh cho cụ
vui cái thú điền viên.Cụ khen đứa cháu cụ là đĩnh ngộ và chiều nó đến nỗi mỗi bữa
rượu sớm,mỗi tuần trà trưa,cụ đều cho Ngộ Lang ngồi kèm một bên,tuy đã mấy mươi
lần vợ chồng nhà Cử Hai hết sức van xin ông đừng nuông cháu quá,sợ Ngộ Lang đâm
ra hổn.Cụ Thượng mỗi lúc phật ý,thường bảo dâu và con nếu không để cho cụ như
thế thì cụ vào ở trong huyện Thọ Xương vậy. Vợ chồng cậu Cử không biết làm thế
nào,đành cứ phải để Ngộ Lang mặc sức quấy và làm nũng ông nội đến thiu cả thịt
ra.Cụ Thượng cười và thôi không dọa vào ở trong huyện Thọ Xương,nơi mà người
con trai cả lỵ đã mấy năm nay.Thực thế,cái ý vào ở với cậu Cử Cả,giờ là một ông
quan lệnh Thọ Xương đã mấy mươi lần đem cả vợ con đến toà nhà cũ hẹp phố hàng
Gai để rước cụ Thượng vào trong huyện ở cho mát hơn,rộng hơn.Không trả lời ra
sao,cụ Thượng chỉ bảo ông huyện Thọ Xương:
-Lần sau, anh được lúc việc quan thanh thản, có ra chơi ngoài phố này với thầy,
đừng có nên đem lính ra nhé. Ồn lắm. Chúng nó có sinh vào đời vua Lê chúa Trịnh,
thì cho gia nhập thêm vào cái đám Kiêu binh Tam phủ được đấy. Thầy rất sợ hàng
phố người ta nói vào.
Mấy lần sau ra thăm cha, ông huyện Thọ Xương không dám đem mấy tên lính ậm oẹ
ra theo nữa, nhưng đã động đến việc cũ, thì chỉ thấy cụ Thượng trả lời:
-Thầy ở đâu thì cũng thế. Miễn là được tĩnh mạc, yên ổn là hơn cả. Anh cũng rõ
cái tính tôi vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao thiệp. Tôi tưởng
ở vào tư thất một huyện nha nó phiền nhiễu lắm. Thôi anh cứ đẻ tôi ở ngoài này.
Ông Huyện Thọ Xương biết cha mình có bụng yêu chú Cử em hơn nên kiếm cớ ra như
thế, bè nói dỗi:
-Dạ, con tưởng hồi trước thầy còn ở chức, sự giao thiệp và đưa đón những tạp
khách cũng nhiều lắm, và nhiều không kể cho hết được, lại là những cái gai trước
mắt của toán lính hầu cận thầy. Một cái dinh Đốc bộ đường, thưa thầy, sai nha
không phải là ít. Vậy mà con không thấy thầy phàn nàn bao giờ cả.
Cụ Thượng hiểu ý, cười:
-Bởi thế cho nên tôi mới thèm đến sự an nhàn lúc được dưỡng lão. Vả lại thầy ở
ngoài này nó quen đi rồi; Bao giờ anh được lui về vườn và nếu trời còn cho thầy
sống một vài giáp nữa, ông con ta sẽ ở chung để sửa sang một cái vườn có đủ hoa
bốn mùa. Anh không lo rằng chậm. Thôi, cứ để thầy ở ngoài này.
Cụ vừa trả lời ông huyện Thọ Xương, vừa nhìn ông Cử Hai đứng sau người anh, có
ý bảo thầm người con thứ rằng: "Bao giờ thầy cũng chỉ muốn ở với con, bởi
vì con có tâm hồn giống như ta".
Rồi ngắt sang câu chuyện khác, Cụ hỏi:
-Các anh có nghe thấy ở các phường người ta đồn về cái tin đức Thành Thái ngự
du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ như thế nào không? Chắ
ông huyện thì rỏ hơn là em Cử nó ít được thông toe mấy. Mấy nhịp cầu tất cả nhỉ?
Thường mỗi một lần từ chối lời mời mọc chí tình của người con cả, ông già lại
có một câu chuyện đánh trống lảng như thế, để giữ lấy hòa khí trong đám
"anh em chúng nó". Cùng là con cả, nhưng cụ Thượng đã thấy rỏ ông Cử
Cả, tức là ông huyện Thọ Xương đương chức kia, là một người có tâm thuật rất
hèn kém. Cũng là một giọt máu sinh đôi mà sao ông Cử Cả và ông Cử Hai không giống
nhau lấy mảy may, từ quan niệm nhân sinh cho đến nhất cử nhất động nhỏ nhặt
hàng ngày. Cụ Thượng tin rằng khi cụ trăm tuổi đi rồi thì ông huyện Thọ Xương
dám làm mọi chuyện phương hại đến gia thanh. Cái người ấy, thường cụ vẫn hạ mấy
chữ: vô sở bất chí, những lúc nghĩ riêng mình với mình: Ta nằm xuống, là thằng
này sẽ làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan của ta". Bởi
thất vọng về người trưởng nam đã tìm dược lối xuất thân, cụ càng hiểu và yêu
người con thứ. Cũng là thân danh một ông Cử nhân có vợ, có con, mà vẫn còn đơn
giản như còn để chỏm. Ông Cử Hai có khoa mà không có hoạn, và cái khoa mục ấy
giá không nói ra thì không ai biết. Người có hoa tay, thêm được chút tâm hồn
lãng tử, nên ông Cử Hai sống cuộc đời mình như người ta chơi chơi vậy thôi; Người
ấy thật là một người không có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân sinh.
Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái tài hoa
của mình ra để mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình. Hồi cụ Thượng còn ngồi
nhậm ở dưới Sơn Nam Hạ, cái gia đình lớn ấy chưa qui về một mối, ông Cử Hai
quanh năm đi dạy học ở bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc. Không cần phụ huynh
học sinh xử hậu hay bạc, không cần địa phương ấy là có đất văn tự hoặc dân ấy
là có nếp văn chương muốn cầu học chữ của thầy, có khi tới ở đó ít ngày, ngồi
giảng bài chưa ấm phòng học, ông đã quảy khăn gói tráp chiếu lên đườn. Người tuổi
tác có hỏi, ông trả lời là vì cảnh ấy không dung được người: "Bậc trượng
nhân thử nghĩ, cái gì mà nước chảy xiết không bao giờ tụ, cây trồng đến ba năm
bói không có quả, ớt nhấm không thấy cay, hoa chỉ có mùi thơm về phần đêm; núi
chỉ bằng đầu chứ không có chỏm nhọn, và mây trời không bao giờ hiện đủ năm sắc.
Cảnh như thế tôi ngồi mà làm gì. Chữ thánh hiền không phải ở chỗ nào cũng bố
thí được.
Ông Cử Hai đi dạy học, đã lấy cái việc dạy học làm như một hồ khẩu mà y như đi
ngoạn cảnh hoặc đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Và những lúc mỗi chân phải
ngừng ở lại các thôn ổ, ông lại còn thỉnh thoảng ngừng cả cái miệng giảng sách
hoặc ngừng chấm nét son lên quyển bài để đề một bức châm lên lá quạt tặng một
ông bạn đồng song, để khắc chữ triện và chạm trổ một hòn đá sù sì cho thành một
con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu mực vẽ một bộ tứ bình thủy mặc có
hình đủ bốn thứ cây cỏ tứ hũu u; cúc, trúc, lan, mai, treo chơi trên vách đất
quán trọ nơi ngồi dạy học.
Gần ngày tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn, chỉ khổ lên vì
đi tìm thầy; Tết mồng ba, ông Cử Hai đã trốn khỏi nhà trọ từ hôm trước để đi ăn
hàn thực và đi hội đạp thanh với các bạn sính làm thơ tức cảnh. Tết Đoan Ngũ,
ông lên núi hái lá thuốc, những mong được gặp tiên; Tết Trung Thu, ông lên Chùa
Thầy ngắm trăng Chợ TỜI HỌP TRÊN ĐỈNH NÚI Sài Sơn. Gần tết Nguyên
đán, nếu chưa về nhà, thì ông ẩn ở trong một mái đình vắng nào để gọt cho hết một
lắp thủy tiên. Cái hành tung của người nghệ sĩ không chịu sống cho người và hùa
theo với người chung quanh ấy, thực khó mà dò hỏi. Lùng tìm cái dấu bàn chân một
chính khách thất quốc lúc vượt bể ra ngoài mưu việc lớn, thực còn dễ hơn đi đuổi
theo ông Cử Hai những lúc hứng giang hồ ở người ông nổi dậy.
Từ ngày cụ Thượng nghiêm phụ về trí sĩ ở Hàng Gai Hà Nội, ông Cử Hai không tha
phương làm ăn nữa. Ông ở riệt ở nhà chép lại cuốn gia phả và sao được bao nhiêu
pho kinh mượn trên chùa Trấn Quốc cho cha. Thế rồi mợ Cử sinh hạ thêm được con
Tố Tâm. Trước ngày ở cử Tố Tâm, vườn lan nhà cụ Thượng Nam Kinh ở Hàng Gai nở mấy
chậu vừa Tiểu Kiều, Đại Kiều. Cụ Thượng cha gọi thế là lan báo hỉ và đặt luôn
tên cho cháu gái là Tố Tâm; Mợ Cử Hai thấy chồng không ra mặt bất dắc chí và phẩn
uất với buổi giao thì nữa, chỉ ngày ngày thờ cha già và chơi với Ngộ Lang và Tố
Tâm, cũng vui cười hả hê thêm lên và có một hôm đã dám ru con rất to, như rót
vào tai chồng:
Ba năm lưu lạc giang hồ
Một ngày tu lại, cơ đồ vẫn hơn.
Thằng Ngộ Lang và con Tố Tâm ngoan vô cùng. Thằng anh rất mến em, nhiều khi cắn
cả má em để cho em vừa khóc vừa theo, ồn ào và dễ thương lạ; Con Tố Tâm chưa đầy
tuổi tôi, mà má đã lúm đồng tiền; mà mắt đã trong như nước hồ thu.
Ngắm con gái, anh hoa đã sớm lộ hết ra ngoài, mợ Cử Hai có điều ngài ngại. Buồn
một cách thoáng qua thôi. Chỉ có một lần thằng Ngộ Lang làm cho mẹ nó buồn sợ
hơn hết là một buổi tối, nó vén màn the lên, kéo mẹ nó đến gần cử song có con
tiện chỉ cho mẹ nó xem một vầng trăng sớm ló lên đầu hồi nhà.
-Mợ ơi,ra đây mà xem ông giăng.
-Ông giăng làm sao?
-Ông giăng đẹp lắm. Có hai cái sừng nhọn.
-Thế mà đẹp gì. Ông giăng có tròn thì mới đẹp chứ!
-Tròn hẳn không đẹp mợ ạ.
Từ lúc ấy,thằng Ngộ Lang cứ vắt tay lên trán như một người mớn suy nghĩ nhiều.
Mỗi lần mẹ nó bảo bỏ lá màn xuống cho khỏi muỗi thì nó lại sụt sịt khóc. Và nó
cứ vắt tay lên trán nhìn vầng trăng lên mỗi lúc một ca. Ông Cử Hai vừa về, nó
nhảy choàng dậy, vui mừng hơn một người đứng tuổi khi tìm được một tâm hồn bầu
bạn, nó lôi tay bố nó sềnh sệch đến chỗ chấn song, chỉ vầng trăng bạc có sừng
và nói:
-Ban nãy ông giăng khéo hơn bây giờ kia cậu. Ngộ Lang nằm chờ mãi mà không thấy
mây che lấy ông giăng của Ngộ Lang. Thế đêm nay có mây không hả cậu?
Vợ chồng ông Cử Hai nhìn nhau hồi lâu và chốc chốc lại liếc qua Ngộ Lang đang đứng
bần thần bên cửa sổ có ánh trăng xuyên qua. Người vợ hình như lấy cặp mắt lo lắng
bảo thầm chồng:
-"Tính di truyền giọt máu nhà lại bắt chúng ta cho ra đời một tên tài tử nữa
rồi", để cho người chồng nghĩ thêm rằng: "Đời thằng Ngộ Lang rồi cũng
chỉ đến lăng băng mà thôi. Cái vầng trăng lưỡi liềm kia sau này còn lôi kéo cái
ngây thơ, thơ mộng ấy đi xa lắm. Việc ấy cũng là số mệnh định cả và điềm ra như
thế. Biết làm sao bây giờ;
Qua ngày tết Trung Nguyên, ông Cử Hai để tâm vào việc sắm cổ tết Trung Thu cho
hai trẻ Ngộ Lang và Tố Tâm và vợ chồng cũng quên cái việc Ngộ Lang mê cái bóng
giăng đêm trước.
Mấy hôm nay ông Cử Hai lo chạy lăng quăng suốt ngày như một người bận rộn nhiều
lắm. Chốc chốc lại tha về mấy cái mai con cá mực, hoặc ít mụn nhiễu đủ các màu
tươi thắm và bao nhiêu là giấy hàng mã cùng là que nữa và dây lạt. Ông Cử Hai,
một người tài hoa giang hồ, đến cái tuổi chán sự bay nhảy và hằn học với hiện tại,
đã nghĩ đến chuyện vui cùng gia đình;
Người ấy đã hồi tâm lại, mong gây cái êm ấm cho gia đình vào một ngày tết cho
con trẻ. Người ấy, ít ngày trong cữ cuối tháng mạnh thu, đã đi kiếm vật liệu để
làm cho lũ con cái đèn xẻ rãnh. Từ trước tới giờ cái người ấy có sao Thiên Cơ
chiếu vào hoa tay, chỉ đi làm đèn xẻ rãnh ở những chỗ đầu sông ngọn nguồn cho
các thứ trẻ con thiên hạ, hồ mong trả hết cái nợ áo cơm cho những kẻ dung nổi
mình vào những ngày tháng bẽ bàng mà người ta chỉ sống khắc khoải để thở cho
dài một hơi men nồng.
Mấy ngày liền liền, ông Cử Hai nghĩ mãi để tìm một cái đầu đề mới lạ cho đèn xẻ
rãnh. Hay là lấy sự tích Tam Quốc ra làm? Ông không thấy hứng lắm bởi vì đã đến
ba bốn lần ông mượn tích Tam Quốc rồi. Người ta còn nhắc mãi đến bây giờ cái
đèn xẻ rãnh của ông hồi mấy năm về trước, diễn cái tích "Triệt Giang phò A
Đẩu" lúc Tiệu Tử Long nhảy sang thuyền Tôn phu nhân trên sông Ngô, trông cứ
như thật. Cái tài làm đèn xẻ rãnh của ông được nổi tiếng truyền ra xa rộng qua
một vùng Kinh Bắc là từ cái đèn "Triệt Giang phò A Đẩu" ấy. Cái tác
phẩm ấy, ngày nay ông Cử Hai không còn nhớ ra được là đã vào tay ai. Đến cái
hình hài ông vào hồi ấy cũng còn là chuyện bỏ qua nhuống hồ là một công trình
tiểu xảo ấy thì ai đi nhớ mà làm gì.
Mấy hôm nay ông nghĩ đầu đề làm đèn xẻ rãnh cho thằng Ngộ Lang, thực khó hơn là
tìm vận thơ gieo cho một bài bát cú phú đắc. Chưa biết nên diễn cái tích gì,
ông, hết ngày này sang ngày khác, chỉ ngồi bóc sẵn hạt bưởi và chẻ những hạt na
ra từng hai mảnh một. Hạt bưởi xâu vào que phơi khô, tức là những cây nến cắm
vào đèn giấy cho lũ trẻ con nhà thanh bạch chơi đèn ngày rằm. Hạt na phơi nỏ nắng,
sẽ là những cái đóm rất tốt, rất thơm cho người ăn thuốc lào sự tiết kiệm và gọn
ghẽ. Hút bằng ruột gà khét lắm.
Cụ Thượng nướng đỏ cái tiêm sắt vào ngọn đèn thổ hà, xiên mũi tiêm nóng vào
lòng hạt na, hút một điếu thuốc lào, thở khói phào. Mảnh hạt na vừa tàn thì tro
thuốc nơi nỏ điếu cũng vừa tụt gọn vào điếu. Gọn gàng và ngon lành đến thế là
cùng.
Cụ Thượng hỏi ông Cử Hai:
-Thế anh đã nghĩ làm đèn thế nào chưa?
-Con định hỏi lại thầy về cái tích này xem có nên không. Là diễn một tích trong
truyện Ngô Việt Xuân Thu, lúc Phạm Lãi đem Tây Thi sang dâng Ngô Phù Sai.
-Ừ, Phạm Lãi gặp Tây Thi giặt lụa ở bến Trữ La, hồi này có thú vị đấy. Nhưng
anh Cử định diễn đoạn nào? Phải làm những quân gì? Đừng nên làm nhiều quân lắm.
Cái sức luân chuyển của tán đèn đốt lửa chỉ cỏ chừng độ thôi. Nếu dùng nhiều
quân sứ quá, máy gạt ngang sẽ yếu đi nhiều.
-Con đã nghĩ rồi. Cái rãnh chính là dùng để hình dung một con sông chảy từ đất
Việt sang đất Ngô. Ở rãnh phụ ấy đặt một cái máy gạt ăn vào hai hình quân là
Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư. Ở nơi góc bên trái, cũng ở một cái rãnh phụ nữa, lại
một chiếc gạt ăn vào một chiếc thuyền ở trên có hình Phạm Lãi ngồi; Ở cái rãnh
chính thì có chiếc thuyền lớn ;Đấy là thuyền Tây Thi tiến Ngô.
-Thế anh cho các quân ấy chạy và gặp nhau như thế nào?
Ông Hai Cử dúng ngón tay trỏ vào cái đĩa dảm sứ có nước, vẽ xuống mặt án thư mấy
hình phác hoạ vị trí của từng quân đèn xẻ rãnh.
-Thưa thầy khi tán đèn quay, thì cái thuyền Tây Thi đi từ phía trái sang phải.
Khi thuyền gần tới hòn giả sơn, động đến cái láy gạt có cần thép ăn vào hai
quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư, thì hai hình này cử động. Ngô Phù Sai sẽ ưỡn
mình ra phía sau như là ngắm kỹ nàng Tây Thi ỏ trong cái thuyền tiến cống đang
đi thấu vào bờ cõi nước Ngô. Còn hình Ngũ Tử Tư thì cử động hai tay như ôm lấy
Phù Sai, can ngăn không nên thâu nhận lấy cái hoạ Tây Thi. Về phía bên trái cổ
đèn, khi thuyền Tây Thi vừa lướt qua cái trục máy gạt ở rãnh phụ phía trái thì
chiếc thuyền con có Phạm Lãi lộn ngược đi khuất vào góc đèn; Thầy nghĩ thế nào?
-Anh dàn quân thông đấy. Thành ra hết... bốn quân Tây Thi, Phạm Lãi, Phù Sai,
Ngũ Tử Tư, ừ, bốn quân va.,. hai con thuyền. Chưa lấy gì làm nặng quá sức quay
của tán đèn. Có thể thêm một quân nữa.
-Ý thầy muốn thêm một quân Thái tể Bá Hy nữa, thưa thầy phải thế không? Vâng,
có cái ông hái tể nữa vào nó cũng vui trò. Phải thêm một cái máy gạt nữa cho
cái ông nịnh thần vong quốc này. Lúc thuyền Tây Thi đến, trong truyện, chính Thấi
tể Bá Hy ra đón Tây Thi, và từ đấy, đã gây được công trạng lớn trong sự đưa Ngô
vào đường diệt vong theo đúng cái ý Việt vương Câu Tiễn.
Cụ Thượng và ông Cử Hai ra công làm năm quan ấy cho chiếc đèn xẻ rãnh lấy tên
là "Ngô vương cự gián nạp Tây Thi".
Công việc chẳng có gì, vậy mà cũng mất đến hơn mười hôm. Ông Cử Hai tìm những mẫu
nến bạch lạp rất to cháy còn thừa lại trên đầu các đèn nến thiếc Sông Ngân trên
bàn thờ. Và đi lục lọi thêm những mẫu khác nữa trong tủ đẻ cho nó đủ. Mẫu nến của
những kỳ giỗ xa xôi còn lại, vẫn chưa mất hết hẳn những giọt nước mắt sáp của
những ngày hương đèn năm trước. Ông Cử Hai đem đốt chảy và họp thành được một tảng
sáp lớn. Ông chuốt quân đèn xẻ rãnh và lấy sáp này làm cốt cho quân. Cũng may
mà những mẫu sáp thừa kia đủ dùng, chứ không thì cũng hơi rầy vì cái khoản vật
liệu này.
Độ này nhà túng lắm, mọi việc mua bán đều lấy tiết kiệm làm đầu. Đã hay rằng
ông huyện Thọ Xương vẫn có đưa ra luôn để cấp thêm vào việc chi tiêu trong nhà,
nhưng ông Cử Hai lấy thế làm phiền.
Thế là tạm xong mấy cái cốt hình người. Bây giờ mới bắt đầu làm đến đầu người,
mặt người. Thằng Ngộ Lang ngồi chồm hổm bên cạnh bố, hỏi luôn miệng:
-Tại sao cái mặt này cậu để trắng, cái mặt khác lại có hai chấm đỏ và cái mặt
kia cậu lại bôi đỏ hết cả đi?
Cụ Thượng đang ngồi lấy mụn lụa xanh đỏ bó thành áo xiêm cho quân sáp, cười và
bảo:
-Cháu đừng có nghịch thì chóng có đèn chơi. Mặt trắng là quan văn. Mặt đỏ là
quan võ. Những người trung thần nghĩa sĩ cũng đều mặt đỏ cả. Người phản nịnh
thì mặt trắng mốc điểm mấy vệt đỏ nhờ nhờ.
Ngộ Lang ngồi như nghĩ, chỉ vào lũ mặt người:
-Thế ra ông làm cho cháu một cái đèn có cả người nịnh và người trung, quan văn
và quan võ đấy à. Sao ông không cho quân đèn mặt đỏ tất cả đi?
Ông Cử Hai để công nhiều nhất khi gọt đầu người bằng mai cá mực, gọt đến mặt Phạm
Lãi và Tây Thi. Nàng Tây Thi phải có khuôn mặt đẹp đó là lẽ tất nhiên. Nhưng
nghĩ đến cái thú vị của một đời người như lúc Phạm Lãi dám bỏ lại sau mình cả một
cái giàu sang nhất nhì, đi chu du ngũ hồ, nghĩ đến phút ấy trong cái sinh bình
một người cổ tích, ông Cử Hai cũng làm luôn cho Phạm Lãi một cái mặt rất đẹp, cấy
vào đấy một bộ râu năm chòm đen nhánh. Ngộ Lang cũng tỏ ý thích cái đầu Phạm
Lãi và cả cái đầu nàng Tây Thi nữa.
Cái đèn xẻ rãnh đã hoàn thành. Cái tán đèn xẻ rãnh to quá. Phải thấp đến mười
con bấc nơi đĩa đầu sở, cái sức mạnh của lửa mới quay chạy được tán đèn. Ngày đầu
tháng tám, ông Cử Hai đem đèn ra thử.
Có người học trò cũ ở Sơn Tây về qua Hà Nội, biết ông cử có con, đem đến biếu
thầy học cũ một cái bánh dẽo mặt trăng, mặt bánh to một thước, thế nào lại nhầm
ngay vào giữa hôm ông cử Hai thử đèn xẻ rãnh. Ông bày đèn ra sân, đốt hết cả mười
con bấc cháy sáng. Ông bày luôn ra sân bộ đồ trà, mời cụ Thượng ra ngồi vào cái
ghế đẩu đã để sẵn trước đèn. Cụ Thượng ngồi ăn bánh, uống nước và trịnh trọng
như người được mời tới để định giải thưởng cho đèn xẻ rãnh. Rồi cả nhà mỗi người
một miếng, trông vui vẻ lạ. Vui nhất là Ngộ Lang. Cả đến con Tố Tâm bé thế mà
cũng ăn được hai mảnh bánh mặt trăng.
Quân bắt đầu diễn vòng đầu. Mặt trước đèn có nến soi vào, sáng như một sân khấu
rạp tuồng. Thuyền Tây Thi từ từ tiến vào sân khấu. Lú nàng vào được đến phần ba
sân khấu, lướt qua chiếc thuyền Phạm Lãi, động đến cái máy gạt thứ nhất ở góc
trái đèn, thì thuyền của Phạm Lãi quay vào trong và lẩn mất. Nàng Tây Thi vẫn
xuôi trên sông Ngô rồi tiến vào nội phận của đất Ngô. Cái máy gạt ở góc phải cổ
đèn động đánh xịch một cái, thì trên hòn núi giả sơn làm bằng giấy trang kim đốt
đèn, Ngũ Tử Tư bắt đầu ôm lấy Phù Sai với dáng điệu của người tôi trung hết sức
ngăn chúa. Nhưng dưới chân giả sơn, cái người nịnh thần là Thái tể Bá Hy đã đon
đả đi gần lại thuyền Tây Thi, giơ tay ra như đón lấy. Trên cái núi giấy, hai
hình tôi và chúa kia vẫn cử động như ban nãy, một người tỏ vẻ can ngăn, một người
ra bộ không chịu nghe. Thuyền Tây Thi dưới này, đi sâu mãi vào đất Ngô và khuất.
Vậy là đủ một vòng đèn xẻ rãnh.
Ngộ Lang nhảy lên mà cười. Cái đèn này là của riêng nó để bày cổ ngày rầm. Con
Tố Tâm khoa mãi hai chân và hai tay có khoá bạc, và như muốn xà xuống chỗ đèn
sáng. Rồi nó khóc. Mợ Cử Hai bảo chồng:
-Hay là làm cho mỗi đứa một cái. Càng đông đèn cỗ càng vui. Giữa mâm cỗ, bày một
con gà uốn hình ông Lã Vọng. Ngộ Lang đã có đèn xẻ rãnh. Giờ làm cho con Tố Tâm
một chiếc đèn kéo quân, cho nó khác đi.
Ngay ngày hôm sau, ông Cử Hai lại túi bụi vào việc làm đèn kéo quân. Ông đã đem
một tập sách thơ cũ ra, lột mất mấy cái bìa sơn cậy, cắt bìa ra, ghép hai mãnh
bìa làm một, dán lậi làm hình người. Tố Tâm thì chỉ chơi đến đèn kéo quân thôi.
Nhưng dù sao, ông Cử Hai cũng để hết công phu vào việc làm đèn. Chiếc đèn kéo
quân của con Tố Tâm, đến hôm bày cỗ rằm, cũng còn hơn các bàn cỗ nhà khác ở chỗ
nó có những hai chiếc tán kia, mỗi cái tán ăn vào một đĩa đèn, một tán xoay
vòng theo chiều thuận, một tán xoay theo vòng nghịch. Đèn chạy hai vòng quân, một
vòng trẩy đi, một vòng trẩy về, vui mắt lạ! Lại còn đèn cá và thiềm thừ nữa.
Mợ Cử Hai ngâm sẵn một vại óc và bửa những quả bưởi rất khéo, cốt giữ nguyên vẹn
lần vỏ, trổ vào vỏ những hình trám thủng, để hôm sau con nó cắm vào trong vỏ bưởi
những cây nến hạt bưởi khô, thắp lên rồi tha hồ mà lăn tròn cái thứ đèn cù ấy
trên mặt đất.
Ông Cử Hai tìm lên vùng Hồ Tây đặt rượu sen thứ có tăm.
Chưa Chưa bao giờ cái Tết Trung Thu nhà ông Cử Hai nhộn nhịp đến thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét