Mùa thu cuối cùng
Lá cây chao rụng trong thoáng gió. Bây giờ có lẽ đang là mùa
thu; mùa thu Sài gòn sau những năm tháng dài tàn tạ vẫn buồn như thuở nào. Chắc
phải là mùa thu, bởi vì ngoài kia đang có lá vàng, và nắng, dường như héo hắt,
u uẩn. Trời cuối thu rồi, em ở đâu. Nằm trong đất lạnh, chắc em sầu. Thu
ơi đánh thức hồn ma dậy, ta muốn vào thăm đáy huyệt sâu. Chép nguệch ngoạc
những câu thơ Đinh Hùng lên đầu trang giấy trắng của cuốn tập Kinh-tế Chính-trị
Mác-Lê-Nin, và nhớ vu vơ. Buổi học thứ mấy mươi rồi, vẫn chưa học được gì. Cũng
buồn; nên buồn lắm chứ, khi mà đám bạn cùng lớp, ngồi chật ních giảng đường
đang tiếp thu một cách khẩn trương và chắc chắn tư tưởng mới; họ sắp thành con
người mới cả rồi! Mình chậm chạp đi dần đến chỗ thoái hóa và sẽ bị bánh xe lịch-sử
nghiền nát mất thôi. Nhưng nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ. Đã có kẻ nào trong
trường Y, trường Nha, trường Kiến trúc yêu Thụy và được yêu lại như mình đâu.
Mình là trường hợp tiêu biểu cho định nghĩa về hạnh phúc của Shakespeare rồi.
Kinh-tế là kiến-trúc hạ tầng cơ sở; từ kiến-trúc hạ tầng đó, sản sinh ra các kiến-trúc
thượng tầng như văn hóa, chính trị, tôn giáo... Định-nghĩa cơ-bản này trích
trong Tư bản luận của Các-Mác, nhà xuất bản Đại học và trung học
chuyên-nghiệp trang 64. Mới đó mà đã bốn năm rồi. Năm tháng không làm em thay đổi
chút nào: vẫn nhát như hồi đó; vẫn “để Thụy hỏi mẹ xem sao”; vẫn “anh lộn xộn
quá” mỗi lần anh đòi hôn. Lớn lắm rồi nghe cô, hai năm nữa cô sẽ là nha sĩ rồi,
cái gì cũng “mẹ bảo, mẹ bảo...” làm sao mà sống. Nền kinh-tế tư sản sản sinh ra
quan-hệ sản xuất tư sản mà đặc trưng của quan-hệ sản xuất này là người bóc lột
người; trong tình huống đó, nền văn-hóa tư sản nhằm phục vụ giai-cấp tư sản là
giai cấp thống trị trong xã-hội. Đó là một nền văn-hóa phản động. Tôn giáo là một
bộ phận của nền văn hóa phản động đó. Một cơn gió lùa qua giảng đường. Một chút
lạnh nhỏ nhoi, dịu dàng theo vào. Thương quá Sài gòn ơi, Sài gòn ơi. Sài gòn
như cô gái bị bắt về làm hầu thiếp cho bầy thổ phỉ. Sài gòn ơi! Nên khi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ thành công, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã
đánh tan chủ nghĩa thực dân Pháp ở miền Bắc thì mặc dù chủ nghĩa đế quốc Mỹ còn
hoành hành ở miền Nam, Đảng và nhà nước cũng quyết định tiến hành ngay cuộc
cách-mạng xã-hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Từ đó, miền Bắc trở thành hậu phương lớn
phục vụ tiền tuyến lớn là chiến trường Nam bộ. Cái cậu ngồi gần cửa kia, đứng
lên xem nào! Phiền quá, đang nhớ mà cũng không yên thân. Mẹ kiếp! Hắn lầm bầm
trong miệng và đứng lên. Giảng viên Kinh-tế Chính-trị Mác-Lênin, nguyên là giáo
sư trường đại học tổng hợp Hà Nội, nhìn hắn chằm chặp, hỏi:
“Có cái gì ngoài cửa vậy?”
“Không có gì hết, thầy.”
Hắn cảm thấy ngượng miệng khi phải gọi vị giảng viên bằng “thầy.”
Vị giảng viên sôi nổi, “Tôi không tin. Phải có cái gì đó lôi
cuốn được sự chú ý của cậu chứ?”
“Nếu thế thì... có.” Văn ngập ngừng.
“Cái gì? Cậu nói cho cả lớp biết. Chính tôi cũng muốn biết
cái gì đã hấp dẫn hơn cả những lý-thuyết biểu hiện của đỉnh cao trí tụê của con
người trên hành tinh này, mà tôi đang báo cáo với cả lớp. Cái gì?”
“Dạ, một cơn gió.”
Có tiếng cười đâu đó ở một xó xỉnh nào trong giảng đường đông
đúc. Chút ngỡ ngàng trong mắt vị giảng viên tan biến thật nhanh. Ông ta nhún
vai, vẻ bất cần, nhưng giọng nói thì quyết liệt, “Có gì trong cơn gió đó? Những
đổi thay có tính chất cách mạng hay vẫn chỉ gồm những rung động giáo điều, lãng
mạn của tư sản phương tây?”
“Thưa thầy, cái đó tùy thầy quyết định.”
“Tôi muốn anh tư duy và vận động lao động sáng tạo của trí óc
riêng anh.”
“Thưa thầy, không thể được.”
“Tại sao?”
Hắn ngập ngừng nhìn lướt qua phía trên đầu vị giảng viên.
Phía sau ông ta, bức hình lãnh tụ già nua—khoác áo choàng—đưa tay chào mấy mươi
triệu nô dân, như cách chúc lành của vị giáo chủ Thiên Chúa giáo La Mã ở công
trường thánh Pierre, Vatican. Hắn nhủ thầm: Già quá!
Vị giảng viên vẫn đang chờ câu trả lời của hắn:
“Cậu không nên để cả lớp chờ đợi như vậy. Hãy nói cho tôi biết
tại sao.”
“Tại vì... dù sao cũng chỉ là một cơn gió cuối mùa.”
“Cậu mất quan-điểm?”
“Thưa, nghĩa là sao ạ?”
“Trước khi rung cảm,” vị giảng viên mơ màng. “Con người xã-hội
xã-hội chủ nghĩa cũng biết rung cảm, và rung cảm nhiệt tình nữa kia. Tôi nhắc lại,
trước khi rung cảm, phải xác định quan-điểm của mình. Nếu cậu đứng trên lập trường
tư sản, mọi rung cảm sẽ lệch lạc, thoái bộ, và phản động. Từ cảm xúc đi tới
hành động là một bước ngắn. Cậu sẽ đi ngược chiều của cả ba dòng thác cách mạng
thế giới. Tuy nhiên, nếu đứng trên lập trường quan-điểm vô sản, những rung động
vô sản sẽ thuận lợi cho cuộc cách mạng vô sản trên bình diện thế giới. Nếu được
như thế, cậu sẽ đi cùng chiều với bánh xe lịch sử.”
Bánh xe lịch sử. Mẹ kiếp! Hắn nhủ thầm, cứ phải nghe hoài những
ngôn từ công thức như vậy chắc sẽ điên lên mất. Hắn nhớ trong những buổi họp tổ
dân phố, đồng chí bí thư chi đoàn thanh niên khu phố—nguyên là sinh viên luật
khoa Sài gòn—vẫn thường gằn giọng như muốn nuốt sống tất cả cử tọa, khi lặp đi
lặp lại: Bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát các anh! Thụy ơi, cứu anh với. Anh sắp
điên lên rồi. Thụy có buồn như anh không? Giờ này chắc nhỏ đang họp tổ. Bánh xe
lịch sử chắc cũng đang lăn sau lưng nhỏ, bóp còi inh ỏi. Giận quá; giận quá!
Tiếng vị giảng-viên kéo hắn về với giảng đường, “Cậu nhất trí
với tôi không?”
Hắn trả lời một cách vô cùng thiểu não:
“Thưa... Một cơn gió dù sao cũng chỉ là một cơn gió.”
“Sao nữa?”
“Và trước một cơn gió lạnh, nếu không mặc áo ấm thì dù có lập
trường như thế nào đi nữa, cũng chỉ thấy lạnh mà thôi.”
Vị giảng viên chưa kịp nổi giận, thì cả lớp đã cười ồ. Hắn
nghe tiếng vài đứa bạn thân ngồi rải rác trong giảng đường hét bằng tiếng Nga
cái tĩnh từ duy nhất mà bọn hắn nhớ được sau những giờ Nga văn dài lê thê:
Khơ-ra-shô! Khơ-ra-shô! như những thày cũ của hắn vẫn thường nói “Bien!” mỗi
khi đắc chí. Một tiếng hét như muốn phá vỡ giảng đường, phát ra từ đâu đó trong
những bạn bè hắn:
“Khơ-ra-shô! Ta-va-rish Ivanovitch!” (Tốt lắm đồng chí
Ivanovitch ạ!)
Tiếng hét của thằng Định. Chắc chắn là như vậy, vì nó là thằng
rất siêng học tiếng Nga. Định vẫn nói diễu cợt với hắn là học tiếng Nga để
nghiên cứu khoa học. Mày thấy không Văn, sách vở bây giờ của tụi Nga không; hơn
nữa tụi nó có trình độ khoa học kỹ-thuật ở đỉnh cao của khoa học thế giới mà!
Và chính Định đặt tên Văn theo tiếng Nga là Ivanovitch. Mai mốt khỏi mất công
vô quốc tịch! Nó bảo thế.
Câu trả lời của hắn, sự biểu đồng tình lộ liễu của lớp học
làm vị giảng viên im lặng trong chốc lát. Ông ta khéo léo—dù sao ông ta cũng là
đảng viên lâu năm, đảng viên trung kiên—nén cơn giận, mỉm cười, chậm rãi, “Các
cô cậu im lặng được chưa?”
Tiếng ồn ào lắng xuống. Hắn vẫn đứng trơ vơ, nhìn lướt trên
mái đầu những bạn bè cùng lớp. Tuổi trẻ này, bao nhiêu là nhiệt tâm, bao nhiêu
là chất xám, đang nếu không mai một như biết bao nhiêu những ruộng đồng bỏ
hoang, thì cũng bị vun xới, cho sinh ra những hoa trái dị hợm, trái mùa. Những
đời tuổi trẻ này đang miệt mài gánh vác tham vọng của tuổi già của vô số những
thần linh giả trá.
“Cậu tên gì?”
“Thưa... Văn.”
Vị giảng viên ném ra phán quyết cuối cùng, “Tôi đuổi cậu ra
khỏi lớp.”
Ơi em dễ thương như sớm mai! câu thơ ngọt ngào trong trí nhớ
hắn. Thế là anh có lý do chính đáng đi tìm em rồi. Mừng quá, lần này khỏi cần
nói dối; chính thày giáo “bảo” anh ra ngoài chứ không phải anh “lặn” như mấy lần
trước. Hắn lui cui dọn dẹp sách vở, xếp chiếc áo blouse cho gọn ghẽ và kẹp vào
giữa cuốn tập. Hắn liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tường, trước khi bước ra khỏi
giảng đường. Ba giờ hai mươi lăm. Cũng được thôi! Hắn nhủ thầm vô tình bằng
chính cái câu mà trước kia hắn ghét cay ghét đắng. “Cũng được thôi! Cũng tốt
thôi!” Câu nói nhập cảng từ miền bắc tổ-quốc xã-hội chủ nghĩa. Cái gì “cũng tốt
thôi” cả, khi nó liên-hệ ít nhiều tới Đảng, Đoàn và Hội. Hắn nhủ thầm với chính
hắn: Ra sớm được bốn mươi phút, có thì giờ đón con bé trước khi đến bệnh viện
nhận phiên trực đêm thì tốt quá rồi, làm gì có chuyện “cũng tốt thôi” được.
Hắn đứng trong hành lang trường đại học, bâng khuâng nhìn trời
mây và những chiếc lá me vàng bay như bươm bướm lượn sau mỗi cơn gió nhẹ. Đâu
đó còn vẳng lại tiếng rên rỉ trái mùa của một con ve sầu lưu lạc. Mặt trời chiều
ở phương tây hắt lên không gian những phiến nắng mệt mỏi, nhuộm một màu vàng
héo úa lên những đám mây èo uột. Hắn khoác cái quai vải của chiếc túi xách màu
cứt ngựa lên vai, thong dong bước về khu Cơ thể học như một khách nhàn du giữa
đám sinh viên xớn xác, chạy ngược chạy xuôi. Văn đi vào phòng vệ sinh của khu
Cơ thể học. Mùi formol dùng để ướp xác chết đặm nồng trong không khí.
Cái mùi gây gây, ngai ngái, làm tê tê, ngưa ngứa khứu giác có lẽ chẳng bao giờ
hắn có thể quên được. Suốt một năm đầu trong trường Y khoa, hắn đã phải vùi đầu
vào những xác chết khô queo ướp trong cái chất đục lờ lờ ấy để mổ, để học, để
nhớ hết mọi hang hốc, mọi dây thần kinh, mọi mạch máu trong cơ thể người chết.
Lâu dần, hắn không còn thấy khó chịu vì cái mùi nồng nồng ấy. Bẵng đi vài năm,
không trở lại khu Cơ thể học, hắn quên mất mùi formol. Bây giờ phải trở lại
trường, học chính-trị, có dịp ngửi lại mùi formol khi đi ngang khu Cơ
thể học, hắn thấy bồi hồi như gặp lại một người quen từ lâu xa cách.
Phòng vệ sinh nam sinh viên rộng thênh thang. Hồi học năm thứ
nhất, hắn và lũ bạn thường hay dùng căn phòng này làm chỗ nghỉ trưa. Hồi đó,
còn chế độ “Mỹ-Ngụy,” sinh viên ăn trưa tại cafeteria. Chế độ ăn uống có
viện trợ, thành ra có thịt bò, thịt heo, hoặc cá—mỗi ngày thứ sáu (vì nhà bếp
do các ma soeur phụ trách, nên thứ sáu phải kiêng thịt), rau, trái cây, và sữa.
Ăn trưa no xong, sinh viên—thường là năm thứ nhất—kéo nhau lên chiếm các hành
lang hoặc nhà vệ sinh để nghỉ trưa, vì ở đó yên tĩnh và sạch sẽ. Những năm sau
này, sinh viên (được gọi bằng cái tên dài và ngớ ngẩn: “học sinh đại học”) hoặc
không đủ tiền ăn trưa ở cafeteria, hoặc không ăn nổi những món ăn độn bo
bo, bắp, thóc và sạn nhiều quá, đành đem đồ ăn đã làm sẵn ở nhà lên hành lang
và... nhà vệ sinh khu Cơ thể học để ăn trưa, rồi nghỉ ngơi, trước khi tiếp tục
“phấn đấu” với bài vở và sinh hoạt lớp, tổ.
Trong vòng mấy tuần lễ nay, Văn có một cái thú là theo dõi cuộc
đấu tranh giai-cấp gay gắt giữa các đại biểu của giai-cấp thống trị (hoặc cũng
có thể là bọn cách-mạng theo đuôi) với giai-cấp bị trị trong đám sinh viên. Bãi
chiến trường của cuộc chiến tranh giai-cấp một mất một còn ấy là cái vách tường
của một phòng vệ sinh (mà người ta đề nghị gọi nôm na là “nhà ỉa nam”) trong
khu Cơ thể học. Trận chiến bắt đầu cách đây không lâu khi một bàn tay bất mãn
nào đó đã viết lên tường câu “Miền bắc cai trị miền nam.” Vài hôm sau, có người
biểu đồng tình: “và Miên, Lào.” Vài hôm sau nữa khi vào nhà vệ sinh, Văn đọc được
thêm một hàng chữ khác, chững chạc, viết bằng mực đỏ, như thế này “Nước Việt
nam là một, dân tộc Việt nam là một.” Cuộc chơi nguy hiểm nhưng đầy hào hứng tiếp
tục. Một đầu óc bất mãn xướng “Ngày nào Hồ cạn, Đồng khô,” và một đồng chí học
sinh đại học nào đó họa “Hồ chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.”
Khoảng hai tuần sau, vào nhà vệ sinh, Văn thấy những câu phản động đã bị xóa bằng
mực đỏ, chỉ còn lại những khẩu hiệu cũ mèm đã được tô đậm nét. Vài hôm sau có kẻ
dè bỉu bằng dòng chữ nguệch ngoạc “Lấy thịt đè người.” Dòng phát biểu này chỉ sống
được hai ngày. Có lẽ ban chấp hành chi đoàn Y khoa đã cử người đặc trách theo
dõi cầu tiêu, nên câu “Lấy thịt đè người” cũng bị xóa bằng mực đỏ, và bị đánh
chí tử bằng câu “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm.”
Hai ba hôm nay, chưa thấy được câu nào mới. Có lẽ phe “kháng
chiến” đã hết súng đạn. Văn nghĩ thầm. Hắn mở cửa cầu, nhìn lên tường. Vẫn chưa
có gì mới lạ. Chủ nghĩa bách chiến bách thắng thật. Có lẽ bọn phản động đã cạn
đề tài. Văn bỗng thấy bực bội vì cuộc đấu kết thúc mau quá; đã thế, những khẩu
hiệu cũ mòn còn nguyên đó, như thách thức, khoe khoang. Văn thọc tay vào chiếc
túi vải, tìm cái bút lông. Hắn gài cửa cầu, giật nước và viết vội vàng hai câu
thơ mà hắn đã soạn sẵn trong đầu từ lâu nay xuống phía dưới câu “Chủ nghĩa bách
chiến bách thắng”. Văn đọc lại lần nữa tác phẩm của mình, trước khi bước ra
ngoài. Thơ rằng:
“Cơm cha, áo mẹ, công thầy
văn hay, chữ tốt viết đầy cầu tiêu.”
Câu thơ không có tính giai cấp; câu thơ vô tội vạ. Văn hồi hộp
bước nhanh ra khỏi nhà vệ sinh, đi vòng cầu thang xuống tầng dưới. Trước kia
thang máy còn hoạt động, Văn còn cái thú đứng trước cửa chờ thang máy, và thích
thú mỗi khi khám phá ra trong thang máy chỉ có mình và một cô bé trường Nha
láng giềng hay một cô bé Y khoa lớp nhỏ hơn. Bây giờ thang bị cấm sử dụng, tất
cả phải dùng thang bộ, cái thú ngắn ngủi kia cũng mất đi như một giấc mơ hụt hẫng.
Xuống tới sân, Văn thở phào khoan khoái. Trò chơi nguy hiểm nhưng hào hứng gã
âm thầm, say mê tham dự từ bao lâu nay. Hy vọng bọn giai-cấp mới sẽ đầu hàng
sau cú đánh có tính cách văn hóa của Văn.
Văn đưa tay nhìn đồng hồ. Còn sớm chán. Giờ này có lẽ Thụy
còn đang họp tổ. Hắn lững thững đi về phía trường Nha. Mỗi lần đi về phía trường
Nha, lòng hắn luôn luôn rộn ràng một nỗi xôn xao khó tả. Mặc dầu hắn quen Thụy
đã gần bốn năm nay; mặc dầu hắn đã ôm được nàng, như những cặp tình nhân ôm
nhau, và đã hôn nàng không biết lần thứ mấy trăm—mỗi lần hôn Thụy, hắn đều ghi
ngày giờ trong cuốn lịch bỏ túi—nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi khi đến nơi hẹn,
Văn không thể nén được những nhịp đập hân hoan của trái tim. Và lúc đến bên
nàng, đôi tay hắn đâm ra thừa thãi (nếu không ôm, không hôn Thụy, thì thử hỏi
đôi tay này trời sinh ra làm gì? lao động vinh quang ư? Vớ vẩn, vô nghĩa!)
Văn ghé ngồi trên bức tường thấp bao quanh hành lang trường
Nha, xem đánh bóng chuyền. Văn nhận ra những khuôn mặt sinh viên quen thuộc
trong cả hai đội banh; đặc biệt một nữ cầu thủ sinh viên Y khoa học dưới hắn một
lớp. Cô gái có những cú giao banh sấm sét. Văn tưởng chừng nếu trái banh trúng
đầu mình, hắn sẽ lăn ra chết tức khắc. Nhưng đáng lưu ý hơn cả là bộ ngực đầy
nhún nhẩy—dưới lớp áo thun bó sát—vô cùng sinh động theo mỗi động tác của cô
gái trong sân banh. Văn thường hay hình dung ra cô gái với ngực trần, vai trần
và thân trần mà buông thả cho trí tưởng tượng mặc sức vẽ vời hình ảnh những đêm
dài mê muội. Nhưng những cơn mộng ảo muội ấy phai nhanh, tắt vội như thể những
cảnh trên màn bạc khi đèn trong rạp chiếu bóng bất thần bật sáng, mỗi khi tên của
Thụy trở về trong trí nhớ. Thụy, như bà tiên hiền hậu, có phép màu xóa tan mọi
phù phép yêu ma. Văn yêu nàng đến mê muội, yêu đến độ hắn chưa bao giờ dám hình
dung một Thụy trên chiếc giường nệm trắng, với thịt da trắng muốt đợi chờ, dâng
hiến. Vì vậy, người nữ cầu thủ sinh viên trên sân banh đã thay thế Thụy cho những
giấc mơ trần tục. Văn thích bộ ngực cô gái quá đỗi. Nó tròn tròn, cong cong, đầy
đầy, rung rinh, nhấp nhô như có môt đời sống riêng, ham hố, tội nghiệp.
Đám khán giả lưa thưa vỗ tay cổ võ một cú đánh đẹp mắt của cô
bé sinh viên, đánh thức Văn khỏi cơn mộng du gió thoảng. Cô gái tươi cười, nhìn
lướt qua đám khán giả nhỏ nhoi, chút kiêu hãnh trong cái nhún vai rất tây làm
rung rung đồi ngực. Văn đưa tay xem giờ. Giờ này chắc Thụy đã tan học. Con bé
bao giờ cũng thong thả bước từ giảng đường, đi lên lầu. Cất đồ nghề (búa, kềm,
“tuốc-nơ-vít,” cưa, kéo...) vào ngăn tủ cá nhân, sau đó vào nhà vệ sinh rửa mặt
(thêm chút son lên môi, chút phấn hồng trên má?) thay áo blouse, rồi mới thong
thả đi ra điểm hẹn. Thành ra lúc nào Văn cũng thấy nàng tươi mát, gọn gàng như
cuốn vở mới sang trang. Văn mỉm cười một mình với ý nghĩ về Thụy, và cảm thấy
lâng lâng hạnh phúc. Bỗng có bàn tay ai vỗ vào vai Văn, làm hắn giật mình,
nhưng không vội quay lại. Văn mong đó là Thụy (mặc dù Thụy chả bao giờ làm vậy.
Mười năm sau nữa, hắn cũng chả dám chắc là Thụy sẽ vỗ vai hắn. Người đâu mà rụt
rè đến khó chịu!) Hắn đặt nụ cười lên môi, chậm rãi quay lại.
Một người con gái—không phải Thụy—đứng sau lưng Văn, bàn tay
vẫn còn đặt trên vai hắn. Văn bối rối, “Ủa. Chị Đào!... Cũng coi bóng chuyền nữa
sao?”
Người bạn gái học cùng lớp nhìn hắn, nghiêm trang, “Chưa về
sao anh Văn?”
Văn ngập ngừng, “Bữa nay trực bệnh viện.”
Bàn tay mềm mại, mát mẻ vẫn đặt trên vai hắn.
“Bệnh viện nào vậy?”
Mùi gây gây của thịt da con gái tỏa ra, bao phủ lấy Văn. Hắn
cố giữ cho hơi thở điều hòa, “Bình Dân.”
Cô gái gật gù, “Hèn chi giờ này anh còn ở đây.”
Văn ngập ngừng, “Còn chị?”
Người con gái nghiêm trang, “Tôi muốn sinh-hoạt riêng với
anh.”
Nàng nhìn thẳng vào mắt hắn sau câu nói, chờ đợi. Cái nhìn
làm Văn bối rối. Hắn bao giờ cũng bối rối trước mặt đàn bà con gái, không phân
biệt đẹp xấu; nhất là trước những đôi mắt tròn, sâu thăm thẳm, chăm chú, soi
mói, hay mời mọc.
Nàng tiếp, “Anh có bận lắm không?”
“À... thì cũng chẳng bận gì mấy...”
“Thế thì tôi có thể nói chuyện với anh Văn một chút được
không? Mình lên hành lang Vi-sinh-học cho gần.”
Văn loay hoay tìm kế hoãn binh. Chẳng phải hắn sợ cái góc
hành lang tối vắng trên khu Ký-sinh-trùng-học; hắn cũng chẳng sợ hãi gì con nhỏ
đoàn viên đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh này; hắn cũng chẳng ngán gì cái
mùi thịt da gợi cảm, cái thân thể no đầy dưới lớp áo chật bó kia. Con nhỏ tiên
tiến này muốn chết, hắn cho chết; hắn cũng chẳng sợ gì những bài bản hắn biết
cô nàng sắp giảng cho hắn về những tiền đề trong cuộc đấu tranh giai-cấp, những
cặp phạm trù trong triết học Mác-Lênin hay giai-đoạn giẫy chết của chủ-nghĩa tư
bản; nhưng giờ này, trên hành lang Ký-sinh-trùng-học thì không thể được. Thụy sẽ
bắt gặp hắn và cô đoàn viên ngồn ngộn thịt da này. Và nếu như Thụy bắt gặp Đào
với hắn trên hành lang vắng vẻ, thì có trời mới thuyết phục được cho Thụy tin rằng
cô nàng mơn mởn kia là đoàn viên tiên tiến, và Văn với cô ta ngồi trên đó để
“sinh hoạt riêng” (cái nhóm từ tai hại này cũng tối nghĩa nữa; tại sao không gọi
là buổi cảnh cáo, buổi đe dọa, buổi hù, phiên tòa cá nhân vân vân và vân
vân...) và chỉ có trời mới cứu được cái chuyện tình hắn nuôi dưỡng bốn năm trời
vất vả, ngược xuôi.
Thấy Văn chần chừ, Đào bóp nhẹ vai hắn, “Anh có thể đi với
tôi không?”
Văn nhún vai như muốn gỡ tay nàng xuống.
“Sợ trễ giờ mất chị Đào à.”
Đào cười, rụt tay về, sửa lại mép cổ áo nàng.
“Anh bao giờ cũng chao đảo.”
“Tại chị nghĩ vậy chứ tôi cũng tiên tiến lắm chứ bộ.”
Mắt người con gái tròn xoe vì ngạc nhiên.
“Đó là phần tự phê của anh đó phải không?”
Hắn nheo mắt, “Có lẽ.”
Đào bỗng nhiên nghiêm khắc như một cô giáo già khó tính, “Lúc
nào anh cũng giỡn chơi. Chúng ta không có thì giờ đùa giỡn. Bánh xe lịch sử
không cho phép thế-hệ chúng ta lề mề, chao đảo. Chúng ta có trách nhiệm với Đảng,
với nhân dân, và tổ quốc. Chúng ta là trí thức xã-hội chủ nghĩa. Anh chắc vẫn
nhớ rằng chúng ta không còn là trí thức tiểu tư sản, sau khi chúng ta đã đứng về
phía liên minh công nông, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.”
Văn xoay hẳn người về phía cô gái, co hai chân, ngồi xếp bằng
trên bệ gạch, gật gù. Hắn không thể nào tin được đôi môi đỏ mọng này lại có thể
nói lên những lời—theo hắn nghĩ—bệ rạc và suy đồi đến thế. Nàng cũng đẹp đấy chứ,
Văn nghĩ, chỉ có điều đáng phàn nàn là nàng hơi mập; gọi theo ngôn từ bình dân
là “xổ sữa.” Đôi môi của nàng trề ra sau mỗi câu nói như thể nàng bỏ dấu chấm
câu. Hắn tưởng tượng cảnh hắn hôn lên đôi môi ấy. Chúng ta may mắn có sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng, để khơi mào cho cuộc cách mạng khoa học kỹ-thuật, trí thức
xã-hội chủ nghĩa phải đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ-thuật. Anh không
nhớ Lênin đã nói Chủ nghĩa xã-hội bằng chính quyền Xô-viết cộng với điện khí
hóa nông thôn. Ơi đôi môi sau bốn năm trời ăn bo bo, cơm độn khoai, độn sắn,
sao vẫn mặn mà mời gọi đến thế này! Chung quanh hắn, đám khán giả thưa thớt của
cuộc đấu bóng chuyền lại vỗ tay cổ võ một cú đánh ngoạn mục của ai đó. Ba dòng
thác cách mạng thế giới đang cuồn cuộn chảy. Chúng ta không thể đi ngược dòng lịch
sử. Anh Văn, anh nghe tôi nói không?
Văn bừng tỉnh, ngập ngừng, “Tôi có thể phát biểu được không?”
“Ừ, anh cứ nói.”
Văn mơ màng, nói như thì thầm với riêng hắn, “Chị có đôi môi
đẹp, và chắc là... tuyệt vời!”
Lời khen như tiếng sét đánh ngỡ ngàng trong buổi chiều nhạt nắng.
Nàng đứng sững như vừa trúng cơn gió độc. Văn bồi thêm, “Chị đừng vội kết tội
tôi là suy thoái, đồi trụy. Nếu như biết thưởng thức nghệ thuật là một cái tội
thì tôi sẵn sàng nhận tội. Chị có đôi môi đẹp tuyệt vời ngay cả lúc chị nói
chuyện đấu tranh giai-cấp. Nhưng tôi lưu ý chị một điều; nếu chị cứ nói hoài với
tôi về chính-trị, tôi sẽ có cách riêng để cho chị đổi đề-tài, hoặc ít ra làm
cho chị ngưng nói chuyện đấu tranh giai-cấp; và tôi sẽ áp dụng cách đó.”
Em chỉ là người em gái thôi, Đào ạ! Báo cáo đồng chí chính trị
viên, đồng chí dù sao cũng chỉ là đàn bà, đồng chí chịu sự chi phối của mọi quy
luật tâm-sinh-lý. Những ý tưởng lộn xộn trong đầu óc hắn. Đôi má cô đoàn viên đổi
từ xanh qua đỏ hồng. Đôi mắt chớp loạn vì bối rối, đôi môi nàng mấp máy, “Anh sẽ...
làm gì?”
Văn nhìn thẳng vào mắt nàng, tự tin:
“Tôi sẽ hôn chị.”
Nàng bối rối nhìn xuống sân banh. Văn tiếp, “Cách đó sẽ làm
cho chị thôi nói chuyện đấu tranh giai-cấp.”
Văn thở phào khoan khoái vì làm chủ được tình thế. Có thế chứ.
Chẳng có chủ-nghĩa nào làm thay đổi được nếp suy nghĩ của con người một cách
nhanh chóng bằng tiếng gõ trên cánh cửa trái tim.
Người nữ đoàn viên ném cho hắn một cái-liếc-của-con-gái-Sài-gòn-trước-ba-mươi-tháng-tư,
rất ngọt, rất sắc. Và phán một câu rất cổ điển, “Anh... xưa như trái đất. Thấy
mà ghét!”
Rồi quày quả bỏ đi.
Văn thích thú nhìn theo người con gái. Tư tưởng lạc hậu lại về
trong trí hắn. Nàng cũng khá đẹp, và ngon lành; mỗi tội hơi mập và mở miệng ra
là nói chuyện đấu tranh chính-trị. Đám khán giả lại vỗ tay reo hò một đấu thủ
trên sân banh. Văn xoay người lại. Chợt nhớ đến Thụy, Văn đưa tay lên xem giờ.
Bỏ mẹ! Hắn lẩm bẩm. Đã tan học cách đây mười lăm phút rồi. Tại sao con bé lại
không ra chỗ này, nơi hắn đợi mỗi ngày. Thôi rồi, Văn nhớ lại khúc hoạt cảnh giữa
Đào và hắn. Đó là lúc Thụy tan giờ học. Mẹ ơi! Thụy chắc là phải thấy cảnh Đào
đặt tay lên vai hắn. Hồn vía lên mây, hắn cuống quýt nhảy xuống hành lang, chạy
vào khuôn viên trường Nha, nơi sinh viên Nha khoa thực tập nhổ răng miễn phí.
Khu thực tập trống vắng. Thấp thoáng bóng người y công quét dọn nền nhà. Tim
Văn đập mạnh hơn, hắn chạy băng băng ra phía cầu thang dẫn lên khu Vi-trùng-học;
khu hành lang—nơi có những hộc tủ cá nhân của sinh viên Nha khoa—vắng vẻ như
hành lang một căn nhà xác. Tiếng chân hắn vang vọng, dội lại từ cuối hành lang
nghe âm u, xa thẳm. Văn đi qua, đi lại trước nhà vệ sinh nữ sinh viên, hy vọng
Thụy còn ở trong đó. Cánh cửa nhà vệ sinh chợt mở và một cô gái luồn qua khe cửa.
Văn sững sờ. Đó là Đào. Mẹ ơi! Văn nghĩ thầm, người đâu gặp gỡ làm chi; hắn
nghe tiếng cằn nhằn trong đầu. Lần này chắc hết chạy đâu được nữa rồi. Đào đứng
sựng lại, bối rối nhìn hắn. Hắn cũng bối rối không kém.
Người con gái chớp chớp đôi mắt, lắp bắp, “Thấy ghét!”
Rồi bỏ đi vội vàng như chạy trốn. Hắn lừng khừng nhìn theo
nàng. Bây giờ Thụy ở đâu hở trời. Từ bốn năm nay, hai người đã đuổi bắt trong
cuộc chơi trốn tìm sôi nổi, hấp dẫn. Phải xuống dưới nhà để xe ngay. May ra Thụy
còn đâu đó, chờ hắn (nhưng bề ngoài làm bộ bận rộn công chuyện gì đó. Con gái,
ai còn lạ gì!) Hắn chạy như ma đuổi xuống nhà để xe sinh viên.
Nhà để xe chứa đầy xe đạp của sinh viên. Văn dáo dác tìm bóng
dáng quen thuộc của người yêu. Giờ này, sao mà đông thế không biết. Mà hôm nay
Thụy mặc áo gì hở trời! Đám bạn cùng lớp hắn cũng vừa tan học ra, đang lũ lượt
dắt xe ra khỏi cổng trường. Hắn nhận ra bóng dáng quen của vài thằng bạn trời
đánh cùng tổ. Hắn nghe thấy cả tiếng Định, thằng bạn giỏi tiếng Nga nhất lớp
đang bô bô dưới nhà xe. Văn nhìn lướt qua hết tất cả những vóc dáng con gái
trong nhà để xe. Con gái Y, Nha bây giờ đang hóa kiếp, đổi dạng: từ những vóc
dáng mượt mà (lạc hậu?) với quần tây ống bó, ống loe; áo sơ mi hay áo thun ôm
sát người; và tóc thề, tóc xõa, tóc uốn quăn tít, gợn sóng... đến những hình ảnh
(tiên tiến?) áo bà ba đen, quần sa teng đen, dép râu thời thượng; tóc kẹp hay bện
đuôi sam lủng lẳng sau lưng.
Thụy không có trong đám con gái trong nhà để xe. Văn nhìn ra
sân trường. Chỉ còn một cô sinh viên Nha cùng lớp với Thụy mà Văn đã quen mặt kể
từ lần đầu tiên lặn lội qua ngôi trường láng giềng hỏi thăm tìm Thụy. Cô sinh
viên này đã hỏi Thụy lớn hay Thụy nhỏ. Lần đó Văn đã sựng lại, bối rối; chẳng
biết Thụy của hắn là Thụy lớn hay Thụy nhỏ. Sau cùng hắn trả lời đại là Thụy nhỏ,
và hắn đã trả lời đúng. Cô sinh viên ấy, lúc này đang loay hoay sửa sợi xích xe
đạp bị tuột.
Văn lừng khừng đến bên cạnh cô gái, hỏi trống không vì chưa
biết tên nàng, “Ủa, xe bị gì vậy?”
Cô gái ngước nhìn hắn, mái tóc dài phủ lòa xòa gần kín khuôn
mặt. Nhận ra người quen, nàng cười, giọng miền nam ngọt lịm, “Dạ... bị xúc sợi
dây xơn hoài.”
Văn lẳng lặng ngồi xuống bên nàng, “Để tôi sửa giùm cho.”
Người con gái ngồi xích qua một bên, nhường chỗ cho hắn. Văn
choàng lại sợi dây vải của cái túi xách lên vai, ngồi xuống bên nàng, nhìn những
ngón tay trắng muốt lấm lem vì dầu nhớt. Tại sao cô gái nào bên trường Nha cũng
mượt mà như thế nhỉ. Hắn nghĩ thầm, và loay hoay móc sợi dây xích vào những móc
răng cưa.
Hắn hỏi nàng, “Bữa nay chị có gặp Thụy không?”
Thấy nàng ngập ngừng, hắn tiếp, “Thụy nhỏ.”
Nàng vẫn ngập ngừng. Hắn móc sợi dây xích vào cái móc răng
cưa xong, khẽ nâng bánh xe sau và quay bàn đạp một vòng. Bánh xe sau quay tròn.
Xong xuôi. Nàng vẫn chưa trả lời hắn. Hắn quỳ một chân xuống cạnh nàng, nhắc lại,
“Chắc chị không gặp Thụy?”
Nàng cười thật tươi, “Có chớ... nhưng mà...”
Hắn nóng ruột.
Nàng úp mở, “Có lẽ tại thấy anh say mê coi chiền banh quá nơn
con Thụy nó bỏ dzìa rồi.”
Chết mẹ! Văn kịp khóa miệng lại trước khi ý tưởng phát thành
câu nói. Hắn loay hoay tìm cách tự bào chữa, “Tại tôi bị sinh-hoạt riêng với bà
phó chi đoàn Y khoa. Bà ấy công tác tư tưởng tôi dữ quá.”
“Căng hén!” Nàng chọc quê hắn bằng ngôn từ xã-hội chủ nghĩa.
“Căng” nghĩa là khó khăn, gai góc, căng thẳng, rắc rối... v.v. và v.v.
Hắn biểu đồng tình, “Ừ, căng lắm.”
“Rồi anh có phải diếc bài tự kiểm không?”
“Cũng may là không bị.” Hắn phân trần. Nàng đứng lên, gỡ miếng
giẻ rách gài dưới yên xe, chùi tay, rồi đưa cho hắn. Hắn đứng dậy theo, vừa
chùi tay, vừa kể lể, “Bữa nay xui quá. Cũng may mà không phải viết bài tự kiểm.”
Cô gái lại cười, “Thì rồi nhỏ Thụy cũng sẽ bắt anh dziếc bài
tự kiểm. Bữa nay, làm như nó có dziệc gì quan-trọng lắm muốn nói dzới anh. Tui
thấy nó bức rức, bồn chồn khác hẳn mọi khi. Thôi, cám ơn anh nghe.”
Hắn gài lại miếng vải vào dưới yên xe cho nàng. Không có chi.
Thôi chào chị. Hắn lừng khừng nhìn theo cô gái một lát, rồi quay đầu đi về phía
nhà để xe sinh viên. Giờ này chỉ còn đi kiếm cái gì ăn, trước khi vào bệnh viện
nhận phiên trực chứ biết làm gì khác nữa. Hắn mở khóa, dắt xe ra khỏi cổng trường.
Chiếc xe đạp cũ kỹ rên lên cót két như con ngựa rên rỉ vì phải kéo một sức nặng
quá mức.
Khi hắn cố đạp nhanh về phía ngã sáu Sài gòn, buổi chiều đã
phủ xuống phố xá từ lúc nào. Bóng tối chụp xuống như tấm vải đen trên những ngõ
hẻm, những góc phố lao xao tiếng người. Vài khu phố bị cúp điện, le lói ánh đèn
dầu chiếu qua những khung cửa sổ mở rộng trong buổi chập choạng tối mùa thu
(Sài gòn đã đánh mất mùa thu tự bao giờ?) với chút oi ả trái mùa. Tiếng động cơ
những chiếc xích lô máy, xe ba gác chạy vun vút trong đường phố vọng lên thảng
thốt, như những âm thanh trật nhịp trong khúc hòa tấu chiều hôm. Khói xăng tan
trong không khí làm cay nồng hai hốc mũi. Văn thấy đói cồn cào.
Hắn đạp xe về phía bệnh viện Bình dân. Nhà Thụy ở phía đó.
Văn băn khoăn không biết nên ghé nhà Thụy một chút hay vào bệnh
viện. Hắn đạp xe loanh quanh khu vực bệnh viện Bình dân. Con đường Phan Thanh
Giản lúc chập choạng bắt đầu nhộn nhịp những sinh hoạt của buổi tối. Dịu dàng,
mát mẻ. Tiếng loa phát thanh từ phòng thông tin phường khóm nào đó oang oang bản
nhạc “Trường sơn đông, Trường sơn tây” quen thuộc. Bài hát mềm không chịu được.
Văn vẫn nhớ Định—lại vẫn Định, cái thằng bạn tiểu tư sản ấy, phản động (“cùng
hung, cực ác”) nhưng tốt với bạn hơn bất cứ chiến sĩ cách mạng nào—đã hát bản
nhạc này trong một buổi sinh hoạt tổ chung với các sinh viên Y khoa năm thứ
hai, khi đi công tác thủy lợi ở khu kinh-tế mới Lê Minh Xuân. Bài hát dài bắt đầu
bằng câu “Cùng mắc võng trên rừng Trường sơn, hai đứa ở hai đầu xa thẳm...” Định
chẳng sửa lời cũng chẳng đổi nhạc. Giữa lúc đám khán giả nam, nữ sinh viên lẫn
lộn, ngồi thành vòng tròn chờ hắn hát, hắn ậm ừ bắt giọng, rồi thản nhiên ca mỗi
một câu đầu: “Cùng mắc võng trên rừng Trường sơn, hai đứa ư ử... ư ử... ư ử...
Xin lỗi, tôi quên mất rồi.” Hắn “ư ử” một lát rồi mới ngưng. Khán giả như hụt hẫng
một chút rồi vỗ tay cổ võ rào rào. Trên mặt khán giả sinh viên lúc ấy có đủ các
màu sắc: Đỏ hồng e thẹn (Ơi con gái Sài gòn, dễ thương làm sao!) trắng bệch
kinh ngạc (các nữ đoàn viên tiên tiến ơi, giận dữ mà chi!) tím ngắt giận dữ
(các đồng chí ơi, các đồng chí “đỏ” hơn cả cộng sản chính hiệu nữa!)
Sau buổi văn nghệ, Định bị mời đi sinh hoạt riêng với đồng
chí lớp phó (hay phó lớp). Đám bạn đã phập phồng lo cho số phận của Định. Dù gì
cũng đã học xong năm thứ năm. Rán một năm nữa, ra trường rồi muốn làm gì thì
làm. Chọc giận bọn họ lúc này có lợi gì đâu, mà coi chừng còn bị đuổi khỏi trường
về cho địa phương quản lý, thì sớm muộn gì cũng được đi Kampuchea làm nghĩa-vụ
quốc-tế.
Sau buổi sinh hoạt riêng về, Định kể lại cho đám bạn nghe, ai
nấy cười vỡ bụng. Đồng chí lớp phó là nữ sinh viên (lại nữ!) hỏi Định, “Động cơ
nào đã thúc đẩy anh xuyên tạc lời bài hát vậy?”
Định ngơ ngác, “Tôi có xuyên tạc gì đâu.”
Lớp phó nghiêm khắc, “Anh đồi trụy hóa bài hát.”
“Bằng cách nào?”
“Anh làm sai lạc ý của tác giả.”
Định bối rối (thật hay đóng kịch? Khó lòng mà tin được bọn
trí thức tiểu tư sản.)
“Chị hiểu lầm ý tôi.”
“Không phải chỉ mình tôi, mà tất cả mọi người cùng hiểu như vậy.”
“Hiểu thế nào?”
Cô đoàn viên cố giấu vẻ bực bội, “Ý tưởng hủ hóa trong cách
trình diễn của anh.”
Định khẽ lắc đầu, “Tôi không hiểu nổi chị muốn nói cái gì.
Tôi hát đúng với lời của bài hát. Này nhé,” hắn hát lại câu đầu của bài hát,
“Cùng mắc võng trên rừng Trường sơn...”
“Đừng!” Người con gái hoảng hốt xua tay như sợ Định sẽ chồm
qua chiếc bàn giấy mà ôm chầm lấy nàng.
Định ngạc nhiên, “Như vậy là chị muốn xuyên tạc ý của tôi
cũng như của tác giả?”
Cô gái vừa bực bội vừa mắc cỡ. Định biết rõ như thế, hắn liều
lĩnh bồi thêm, “Tôi biết rồi. Chị không thích cái đoạn ư ử... ư ử... chứ gì?”
“Đúng vậy!”
Đôi má cô đoàn viên trắng xanh vì giận (hay vì e thẹn?)
Định lừng khừng, “Điều đó cũng tự nhiên thôi.”
“Cái gì tự nhiên?”
“Cái ư ử... ư ử... chẳng phải riêng gì tôi, mà gặp trường-hợp
chị, chị cũng phải ư ử... ư ử... mà thôi.”
Má nàng đổi sang màu đỏ hồng. Nàng gỡ chiếc kính cận ra chùi
vào vai áo, như chùi sạch những bối rối, lúng túng. Định thấy những ngón tay
nàng run run. Nàng đeo kính, khoanh hai tay trước ngực, mím môi với Định,
“Anh... quá lắm. Tôi sẽ báo cáo lên chi đoàn.”
Định chột dạ nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, “Tùy chị. Nhưng
theo tôi thấy thì chuyện đó quá bình thường. Khi nói chuyện, nếu tìm không ra
đúng chữ để diễn tả, người ta hay ậm ừ. Khi hát cũng vậy, nếu chợt quên lời bản
nhạc, thì chỉ còn cách ư ử... ư ử... thôi.”
Dấu vết nụ cười phảng phất trên môi nàng. Định biết nàng đang
cố giết nụ cười ấy. Nàng lặp lại câu nàng mới nói, giọng mềm hơn một chút,
“Anh... quá lắm!”
Định tấn công tiếp, “Tôi bình thường.”
Mặt nàng đỏ đặm thêm. Định tiếp, “Và tôi biết chị cũng bình
thường.”
Buổi sinh hoạt chẳng đi đến đâu, nhưng Định đã trở thành nổi
tiếng với bản nhạc “Trường sơn đông, Trường sơn tây.” Sinh viên năm thứ năm và
sinh viên năm thứ hai mỗi lần nghe bản nhạc này đều nhớ tới Định; như Văn lúc
này đây.
Văn lừng khừng trước cổng bệnh viện, không biết nên vào ngay
hay nên ghé thăm Thụy trước. Chỉ ghé một chút thôi, (cho yên tâm vậy mà. Bốn
hôm nay không gặp nhau. Xa xôi, chỉ vừa đủ để nhớ nhau, chứ đừng xa đến nỗi làm
cho quên nhau. Hắn vẫn dặn dò “con bé” như thế. Và lần nào nàng cũng gật đầu,
ngoan ngoãn, dễ thương.)
Văn nhún vai, quyết định dắt xe vào bệnh viện. Bốn ngày ba
đêm không gặp Thụy, Văn thấy nhớ nàng quay quắt. Hắn nhớ tất cả của nàng. Từ
cái cau mày dễ thương không tả nổi, đến đôi mắt hiền không chịu được, qua cái
mùi nhẹ nhàng, gây gây của tóc; kế đến là cái lưng thon (những người thắt đáy
lưng ong, vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.) Và sau cùng là đôi bờ ngực
đầy vun (“một chút căng căng, vài chút mịn” như câu thơ ai đó viết ngày xưa.) Về
Thụy, hắn chỉ biết có bấy nhiêu. Nhưng bấy nhiêu thôi cũng đủ làm hắn mê muội,
như bị bỏ bùa, bị mồi chài, phù phép, trù ếm.
Ở cái lứa tuổi vô cùng sung sức này, lại đã yêu nhau có trên
bốn năm trời đăng đẳng; đi chơi với nhau có đến cả trăm lần rồi, mà hắn chỉ biết
có bấy nhiêu thôi về người yêu quả cũng lạ. Tụi bạn trời đánh vẫn chọc ghẹo,
moi móc đủ điều về cái tình yêu platonique của hai người. Có đứa, như
gã mắc dịch họ Diệp (anh chàng ba tàu học chuyên khoa Sinh-lý-học) lúc nào cũng
đem những lý-thuyết về sinh lý cơ thể phối hợp với mớ lý-thuyết ngụy tạo của
chính đương sự ra để thuyết phục Văn; nào là đàn ông muốn cho đầu óc quân bình
và phụ nữ muốn bảo vệ nhan sắc, thì phải có quân bình về tình dục (“khí tồn tại
não” v.v.) nào là lớp tế bào niêm mạc cổ tử cung phụ nữ cần hấp thu chất dinh
dưỡng từ tinh trùng vân vân... và v.v.
Nó cứ lèo nhèo những lý thuyết lăng nhăng như thế, để thuyết
phục Văn “tới luôn,” đến nỗi có lần Văn đâm ra nổi nóng, văng tục. Anh chàng ba
tàu họ Diệp chỉ cười trừ mỗi lần bị Văn cự nự.
Có nhà chuyên viên gỡ rối tơ lòng nào đó đã trả lời nước đôi
cho một cô nàng, khi nàng hỏi phải làm thế nào khi đi chơi với chàng mà bị
chàng nài hoa ép liễu. Nhà chuyên viên lý luận: Nếu chàng yêu nàng thực tình
thì chàng sẽ không nỡ đòi... cho bằng được, khi mà nàng không muốn. Đồng thời,
nếu nàng thực sự yêu chàng, thì trong những trường-hợp như vậy, nàng sẽ chẳng nỡ
từ chối chàng (cả cuộc đời còn cho được, huống chi... cái đó.) Thật là lôi
thôi. Văn thì nghĩ khác. Hắn muốn để dành. Chỉ có vậy thôi! Nói vậy không có
nghĩa là Thụy đã sẵn sàng cho phép. Một đôi lần, Văn cũng tính chuyện “hành
quân đêm” (tên một bài hát của Quân đội Nhân dân) và làm một cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền, nhưng lần nào cũng vậy, bàn tay của Văn (“cái tay của anh dễ
ghét quá à!”) không bao giờ luồn xuống thấp hơn ngực nàng được quá một gang
tay. Dù mê muội đến mức nào, Thụy bao giờ cũng tỉnh thức đúng lúc, và đánh thức
hắn ra khỏi cơn say men chiến dịch. Những lần như thế, hắn bần thần ngưng lại ở
lằn ranh ngưng bắn của vùng phi quân sự.
Ơi cái vùng phi quân sự chết người!
Yêu nhau hơn bốn năm trời, chả bao giờ hai người nhắc đến
chuyện ấy cả. Nàng bao giờ cũng “đừng,” “thôi mà,” vân vân và vân vân... nghe
riết đâm ra quen thuộc. Đôi khi, Văn mang trong đầu ý nghĩ về một cuộc tình
không trọn vẹn. Chỉ tưởng tượng ra cảnh Thụy đi lấy chồng (thằng khốn nào đó!)
là hắn đã thấy nhói trong lồng ngực, như thể bị bàn tay tinh nghịch nào đó bóp
nhẹ lấy trái tim. Hắn cảm thấy dễ chịu hơn khi hình dung ra cảnh Thụy chết, hoặc
hắn chết; bằng không hai người phải lấy nhau. Nhưng biết làm sao mà lấy nhau được
khi mà trong tất cả những giám khảo có tên trong tờ đăng ký hộ khẩu nhà nàng (bố,
mẹ, hai cô em gái, bốn cậu em trai, và nàng) chỉ có một mình nàng là cho hắn điểm
cao. Số mạng của cuộc tình đúng là chỉ mành treo chuông, bởi vì nàng lệ thuộc nặng
nề vào bố mẹ (và lũ em, dĩ nhiên). Nàng cặp với hắn, lén lút đi chơi với hắn, lặn
lội đạp xe hàng chục cây số xuống nhà hắn chơi, ngồi trên căn gác vắng nghe hắn
đàn guitar, đờ người ra khi hắn hôn lên môi, và cuống cuồng khi hắn toan xâm nhập
vùng phi quân sự. Tất cả những chuyện ấy, mẹ nàng hoàn toàn không biết. Mà bà cần
gì biết những chuyện ấy. Ngày xưa bố nàng và mẹ nàng thì cũng chừng ấy sinh hoạt
(hay là các cụ bị cha mẹ xếp đặt, bắt ngồi bên nhau, và chỉ biết mặt nhau buổi
tối hôm động phòng?)
Tóm lại, mẹ Thụy—cũng như ông bố hiền như bụt—hoàn toàn không
biết gì về chuyện yêu đương của Văn và nàng. Các ngài cứ ngỡ rằng hai người là
bạn học, các ngài mà biết họ đã là tình nhân tự thuở nào thì kể như xong; hết mọi
chuyện.
Khi Văn vào đến phòng trực thì giờ làm việc hành chánh đã chấm
dứt từ lâu. Bác sĩ trưởng trại đã ra về, để bắt đầu làm phòng mạch chui. Toán y
tá trực đêm đã nhận bàn giao bệnh nhân xong. Văn uể oải khoác lên mình chiếc áo
blouse trắng có năm ngôi sao thêu bằng chỉ đỏ trên miệng túi áo, và buông mình
nằm trên chiếc giường nệm trải drap màu trắng nhờ nhờ dành cho sinh viên trực.
Đêm nay, Văn trực cấp cứu ngoại khoa; một bộ phận được xem như bận rộn nhất bệnh
viện. Thời buổi nhiễu nhương, người ta giải quyết nỗi buồn thời thế bằng cách đắm
mình trong men rượu, mà rượu thời nay cũng theo bánh xe lịch-sử để biến thành một
thứ nước uống cháy cổ. Nghĩa là rượu chỉ còn giữ lại được mỗi một cái tên. Rượu
vào, lời ra; người ta khích bác nhau, sinh đánh lộn, đâm chém, phải đưa vào bệnh
viện cấp cứu. Hoặc uống rượu say, đi đứng lạng quạng, bị xe đụng, hay lái xe
đâm vào người khác... Đã thế, đám con buôn còn làm cho rượu trở nên trong vắt bằng
cách pha thêm thuốc rầy. Người uống bị ngộ độc, phải đưa vào bệnh viện cấp cứu...
Tất cả đều làm cho bác sĩ, sinh viên và y tá trực bận rộn suốt đêm.
Văn vươn vai ngồi dậy. Bây giờ còn ít bệnh nhân (giờ này dân
nhậu mới khởi sự nhập tiệc, khoảng vài tiếng nữa mới có người xỉn), Văn nảy ra
ý nghĩ ghé thăm Thụy. Thời giờ chẳng có mấy, chắc chẳng nói chuyện gì được nhiều.
Mà ở nhà nàng thì nói chuyện gì khác được ngoài chuyện trường, lớp, học, thi,
thực tập, ra trường... toàn những chuyện phi chính trị, vô giai cấp, vô tội vạ
cả.
Nhưng Văn chỉ cần nhìn thấy Thụy là đủ. Cái nhìn như nguồn
năng lực (hay nhiên liệu) tiếp tế cho chiếc xe chạy đường trường mệt mỏi, rã rời.
Văn đẩy cửa phòng trực bước ra ngoài. Cái phòng trực nhỏ bé
như chiếc hộp con xinh xắn, chỉ vỏn vẹn có hai chiếc giường sắt dành cho sinh
viên trực. Thường mỗi phiên trực có hai sinh viên. Nếu là cùng phái, họ sẽ ở
chung phòng; nếu khác phái, cô nữ sinh viên sẽ đi tìm phòng khác để ngủ đêm.
Văn lẩm bẩm nguyền rủa thằng bạn trực cùng phiên. Thằng Châu mắc dịch; tới giờ
này mà vẫn chưa vác xác tới bệnh viện.
Văn nhìn lướt qua phòng cấp cứu. Những chiếc bàn cũ kỹ, vừa
dùng làm chỗ khám bệnh, vừa dùng làm chỗ tiểu giải phẫu, vẫn còn trống trải.
Người nữ y tá lơ đãng ngồi trước tập hồ sơ bệnh lý bệnh nhân ngoại chẩn dầy cộm.
Đang loay hoay không biết làm cách nào để bỏ phòng trực, lặn đi thăm Thụy, thì
Văn bỗng thở phào, khoan khoái. May quá! thằng Châu đã đến. Châu “kingkong” với
dáng bệ vệ như con đười ươi, phản ảnh trung thực cái biệt danh rừng rú, lừng lững
đi vào phòng cấp cứu, nheo mắt với cô y tá, trước khi cất tiếng chào Văn, “Khỏe
không ông thày?”
Văn nhập đề ngay, “Khỏe. Ê Châu, ông coi dùm nửa tiếng, tôi
đi thăm bà xã một chút.” Văn nheo mắt với Châu sau câu nói. Và không đợi Châu
trả lời, hắn quay ngay trở vào phòng trực, cởi chiếc áo blouse trắng, quăng đại
vào góc giường, và lẻn ngay ra ngoài.
Châu nói vọng theo, giọng diễu cợt, “Bon chen cho đã đi. Mười
lăm năm sau, tao cặp đào hai chục tuổi, lúc đó em của mày đã ngoài bốn mươi; sắp ménopause.
Lúc đó hối hận thì đã muộn nghe con.”
Văn biến đi ngay, không kịp trả lời; mà hắn cũng chẳng cần trả
lời những câu bông đùa vớ vẩn kiểu ấy của lũ bạn. Trong cả trường Y lẫn trường
Nha, chỉ có vài cặp tình nhân thực sự xứng đôi vừa lứa. Thụy và hắn là một
trong những cặp hiếm hoi và sáng nước ấy. Chuyện đó ai mà chẳng biết. Thế thì
hơi sức đâu phải cãi cọ cho tốn sức lao động.
Văn đi như chạy ra cổng bệnh viện. Từ bệnh viện đến nhà Thụy,
chỉ có một quãng ngắn. Con đường Phan Thanh Giản (tên mới là Điện Biên Phủ) vừa
chập choạng tối, đã khuấy lên những sinh-hoạt của đêm từ lúc nào. Dân lao động
tất tả xuôi ngược. Xen vào đó, là những bóng (cán bộ, công nhân viên?) thong thả
đếm bước tên vỉa hè, ngập ngừng trước những hàng quán bán rong trên hè phố. Và
còn có những cặp tình nhân thong thả đi bên nhau, ân cần, hạnh phúc. Ở dưới những
gốc cây, bên các quầy thuốc lá lẻ, những cô gái trang điểm qua loa ngồi gom lại
với nhau nói chuyện tầm phào, nhưng mắt thì dớn dác, ngược xuôi, như trông đợi,
tìm kiếm một điều gì. Văn nghe tiếng con gái gọi bằng một cái giọng ướt rượt và
trần truồng “Em đây nè, anh à!” vọng ra từ một quầy thuốc lá lẻ. Biết là tiếng
gọi đó mời mọc mình, nhưng hắn lờ đi và tiếp tục rảo bước. Văn ghé lại trước
quán ăn quốc doanh, mua một bọc đậu phụng da cá, bỏ vào túi và lại cắm cúi bước.
Hắn rẽ vào khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật. Nhà Thụy ở trong đó.
Văn đã hình dung ra hết những điều sắp làm, những câu sắp nói
với Thụy. Khởi sự, Văn sẽ gõ nhè nhẹ vào cánh cổng sắt sơn xanh. Người trong
nhà sẽ nhìn ra, và một người—thường là mẹ nàng—sẽ ra mở cổng. Văn sẽ lễ phép
cúi đầu chào và khéo léo hỏi: “Thưa bác làm ơn cho con hỏi thăm có Thụy ở nhà
không ạ?” Mẹ nàng—người đàn bà có khuôn mặt khô và cứng cỏi như một bà bí thư
hay chính trị viên—sẽ gắn lên môi một nụ cười đắng như cà phê quên bỏ đường “Đi
đâu mà đêm hôm thế này hả cháu?” Bà bao giờ cũng đặt một câu hỏi lạc đề đầy vẻ
ân cần như thế. Văn sẽ xuống giọng thật mềm “Dạ thưa bác, tối nay con trực bệnh
viện; luôn tiện ghé thăm... bác... và Thụy...” Hai chữ “và Thụy” Văn luôn luôn
nói thật nhỏ, thật nhẹ; như thể muốn bỏ hai chữ đó vào giữa hai cái ngoặc đơn;
có đó cũng được mà xóa đi khỏi câu văn cũng chẳng sao.
Bà sẽ gắn nụ cười thứ nhì lên môi; một nụ cười gượng gạo. Giọng
bà nghiêm hơn “Em nó đang học bài. Hình như ngày mai thi cử gì đấy. Cháu có gì
cần gấp lắm không?” Hẳn nhiên là “cần” và “gấp” lắm rồi, nhưng Văn sẽ chỉ cười
cầu tài “Dạ cũng chẳng có gì. Nếu vậy, con xin phép để khi khác. Luôn tiện, bác
cho con gửi cái này cho Thụy.” Mắt bà sẽ sáng lên như đèn pha xe Honda Nhật bản;
khi hình dung ra một thư tình ướt át, đầy những lời lẽ mật ngọt của cái thằng
khố rách áo ôm toan dụ dỗ con bà. (Bà đã chẳng từng phán với Thụy là “từ bốn
năm nay, từ lúc thằng Văn bắt đầu dan díu với con đến giờ, lúc nào mẹ cũng thấy
nó gò lưng trên chiếc xe đạp cũ rích. Chắc nó không biết tháo vát làm ăn gì cả
phải không?”)
Chờ cho ánh đèn pha trong mắt bà dịu bớt, Văn sẽ móc túi đưa
cho bà gói đậu phụng da cá. Bà sẽ ngạc nhiên đến bần thần như tượng đá. Bà sẽ
nghĩ cái thằng này chắc nó thương con mình thực sự. Có mấy hột lạc rang lắt nhắt
này mà cũng lặn lội đến nhà cho con mình. Nó cũng khéo đấy chứ; nó không lải nhải
nói với mình là nó thương con mình đến ngày răng long tóc bạc, mà nó diễn tả bằng
hành động. Bà sẽ xiêu lòng trước mối chân tình ấy. Bà sẽ bồi hồi bảo hắn “Văn
à, bác tội nghiệp hai đứa chúng mày quá đi mất. Thôi thì...” Khi đã nói như thế
là bà đã coi Văn như con cái trong nhà. Bà sẽ đồng ý chọn ngày lành tháng tốt để
hai đứa thành đôi. Văn hình dung ra cảnh hắn làm chú rể và Thụy là cô dâu,
trong tiệc cưới tại nhà hàng Arc-en-Ciel—mẹ nàng đã từng phán rằng ít ra cũng
phải đãi ở nhà hàng Arc-en-Ciel—hắn sẽ run run “báo cáo các thày, các bạn, các
bà con chú bác, cô dì hai họ...” Chỉ hình dung bấy nhiêu, Văn cũng đã thấy lòng
lâng lâng như say rượu.
Thế nhưng nếu mẹ nàng—sau khi nhìn kỹ những hạt đậu phụng màu
nâu nhạt—thấy đó không phải là chiếc hột xoàn sáu ly lấp lánh, bà sẽ xìu xuống
như cây hoa mắc cỡ bị ai chạm phải. Bà sẽ chua chát nghĩ thằng này bộ nó nghĩ
là con gái mình đói khát nên đem những đồ ăn vớ vẩn này lại cho hay sao! Bộ nó
muốn đổi lạc rang lấy con gái mình đây ư. Gả con mình cho nó chắc suốt đời cũng
chỉ ăn lạc rang thôi chứ gì! Bà sẽ gỡ nụ cười, cất đi. Mặt bà sẽ lạnh như tiền.
Giọng nói sắc như mũi dao mổ, “Cám ơn ‘cậu.’ Con Thụy nó ăn uống no đủ rồi. Bây
giờ nó đang bận, cảm phiền cậu khi khác vậy.”
Da mặt Văn sẽ dày bì lên như da xác chết ướp formol lâu
ngày. Và hắn sẽ chẳng còn biết làm gì hơn là “Thôi, vậy thì xin phép bác, con về.”
Mẹ nàng cũng quay ngoắt đi, bước vào nhà “Về thì về, xin xỏ cái nỗi gì!”
Chỉ hình dung có thế, Văn đã nổi gai khắp người như bệnh nhân
thương hàn sắp lên cơn sốt. Bậy nào, hắn tự trấn an, không được tiêu cực như thế
chứ. Đã hạ quyết tâm sẽ thắng trong trận này, là sẽ phải thắng. Mẹ đâu có sống
suốt đời với em được hở Thụy! Câu này hắn đã nói với Thụy hàng trăm lần rồi. Hắn
dùng nguyên-tắc tuyên truyền chính-trị để chinh phục cô gái: Cứ lập đi lập lại
hoài một điều nói dối, người ta sẽ tin. Cô gái có vẻ xiêu lòng, còn mẹ nàng thì
thật là căng. Không biết bố nàng trước kia, khi còn theo, tán mẹ nàng, ông có gặp
khó khăn như Văn bây giờ không.
Mải suy nghĩ, Văn đã đi vào con ngõ dẫn vào nhà nàng lúc nào
không hay. Xa xa, dưới ánh đèn đường lờ mờ, Văn nhận ra chiếc cổng sắt xanh thẫm
trong bóng đêm. Nhà nàng tắt đèn tối thui. Dạo này, để tiết kiệm điện, dân
chúng hoặc sinh-hoạt trong bóng tối, hoặc đốt đèn dầu. Nhà nàng hẳn cũng không
ra ngoài thông lệ này. Càng gần đến nhà nàng, Văn càng chùn bước. Hắn thọc tay
vào túi áo, lấy gói đậu phụng da cá, cầm chắc trong tay như cầm một lá bùa hộ mạng.
Chỉ còn cách nhà nàng hai căn. Văn nhận thấy có tấm bảng nhỏ—hay một miếng giấy?—gắn
trên cánh cổng. Chẳng lẽ bây giờ nhà nàng lại treo bảng “Coi chừng chó dữ,” Văn
thầm nghĩ; vả lại, nhà nàng có bao giờ nuôi chó đâu!
Hắn bước chậm hẳn lại khi còn cách nhà nàng một căn. Và Văn
chợt nhận thấy một ổ khóa to, khóa vào sợi dây xích quấn quanh trụ cổng. Nhà Thụy
chẳng bao giờ khóa kiểu đó. Hắn tần ngần. Chẳng lẽ mình lộn nhà. Vô lý. Mình đã
đứng bên cánh cổng sắt màu xanh kia mấy trăm lần rồi, lầm thế nào được. Văn bước
chầm chậm lại trước cánh cổng. Dòng chữ viết nguệch ngoạc trên tấm bảng gỗ nhỏ,
buộc vào cổng bằng sợi dây thép, hiện ra rõ mồn một dưới ánh đèn đường: “Nhà vượt
biên, tài sản của nhà nước. Cấm vào.” Gói đậu phộng da cá rơi khỏi tay hắn, rớt
xuống đất, phát lên một tiếng động khô và ngắn. Văn bần thần nhìn qua khung cửa
sắt. Căn nhà tối thui. Cánh cửa ra vào khép hờ, lờ mờ bên hiên, hình ảnh đôi guốc
của Thụy bỏ chỏng chơ, lạc lõng. Căn nhà u ám như nhà mồ. Vậy là xong. Những
ngón tay Văn bấm vào nhau như gây gổ. Trong vài giây, cả đến phản xạ hô hấp tự
nhiên cũng bị chế ngự. Văn nghe rõ tiếng tim mình loạn nhịp. Mùi hương của tóc
nồng nàn vùng cảm giác; cái mềm của môi quấn quýt không gian. Thụy của hôm nào
đứng trong khung cửa sắt này dưới ánh trăng mát rượi, và gió lộng tóc bay rối
tung, hai đứa chia nhau cái kẹo mè xửng xứ Huế. Thụy của những buổi chiều Sài
gòn; Thụy của áo bà ba trên khu kinh-tế mới Lê Minh Xuân; Thụy của chiếc áo
blouse màu trắng với hàng chữ đỏ thêu tên trên ngực áo. Ơi bờ ngực ấm, mềm như
báu vật trong cung cấm. Để Thụy hỏi mẹ xem sao đã. Anh lộn xộn quá! Người đâu
lì lợm thấy ghét! Đêm Sài gòn, trăng tỏ. Phố phường ngủ say, anh đưa em về, đêm
văn nghệ tất niên. Trăng xanh tròn vành vạnh nhuộm phố phường một màu sữa ảo
huyền. Em áo trắng, chân son, hấp tấp, vấp ngã bên lề đường Hồng Thập Tự. Đêm
áo em trắng quá nhìn không ra. Anh yêu quá đỗi câu thơ Hàn Mặc Tử, và anh yêu
em không bút mực nào tả xiết. Anh kia, đứng yên không tôi bắn! Tiếng lách cách
của súng đạn, và tiếng hét hằn học đầy chất thú như chậu nước lạnh hắt vào mặt
Văn, đánh thức hắn ra khỏi cơn mộng du mê muội.
Văn hoảng hốt quay lại, nhưng một vật cứng và lạnh đã thúc
vào lưng hắn. Văn lắp bắp, nhưng những âm rời không sắp xếp nổi thành ngôn ngữ.
Văn nghe như thể ngực mình bị đè siết, ngộp thở. Đám người lố nhố vây quanh hắn
như những con chó sói vây quanh con mồi. Một người mặc bộ quần áo ka ki vàng sẫm
trong bóng tối—có lẽ là trưởng toán—gầm gừ, “Tổ chức vượt biên phải không? Về
phường đội ngay. Các đồng chí trói nó lại!”
Không, không phải đâu, các anh lầm rồi! Tôi đâu có tổ chức vượt
biên. Chào mừng cách mạng Ê-tiô-pi-a thành công. Trước thế tiến công vũ bão của
các phong trào dân chủ tây phương, bọn phản động... Câm mồm lại, đã tổ-chức vượt
biên, còn lẻo mép chối tội nữa hả. Thằng này, nếu không âm mưu trốn ra nước
ngoài thì cũng là thành phần tổ-chức, móc nối hay chủ ghe gì đó thôi! Không!
Các anh bắt lầm người rồi. Câm mồm, mày dám nói cách mạng bắt lầm hả. Cho mày
đi U Minh nghe con...
Trong bóng tối đặm đầy như dưới đáy ly cà phê đặc, đám người nhùng nhằng kéo nhau đi về phía căn nhà có đèn sáng rực, và tiếng loa phóng thanh oang oang vang động. Văn nhận ra căn nhà đó, nơi mà mỗi lần ghé Thụy, hắn phải đi ngang qua. Những vòng dây thép trói nghiến vào hai cổ tay đau điếng. Văn ngửa cổ lên nhìn một lần chót bầu trời đầy sao, trước khi bước qua cánh cổng sắt phường đội. Xin từ giã đêm và những vì sao. Ơi những vì sao chỉ biết chờ đêm tối trở về, mới thì thào kể chuyện cho nhau nghe.
Hoàng Chính
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét