Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

Miền cổ tích hoang hư 1

Miền cổ tích hoang hư 1

Đề từ
Văn, trong thế giới Á Đông có ba thể loại chính: Một là Đại thuyết, tức kinh sách do các thánh nhân đưa lời, chấp bút như Lão Tử, Khổng Tử. Hai là Trung thuyết kiểu Hán thư, Sử ký của nhiều hiền sư. Tiểu thuyết xếp thứ ba, là những bức tranh được xem rất vụn vặt, đời thường. Thủy hử, Hồng lâu mộng trong số đó. Người Việt Nam ai cũng biết đến tác giả tiểu thuyết Thanh Tâm tài nhân vì thi hào Nguyễn Du đã dùng cốt truyện Đoạn trường tân thanh của ông soạn truyện Kiều.
Trong nguồn mạch truyền thống Á Đông, tác giả mạnh dạn kết hợp nguyên tắc chính của ba thể loại đã nêu viết nên quyển sách này. Qua những mẩu truyện cá nhân hư cấu nhỏ nhặt tôi đi tìm dấu tích Đại thuyết của thánh nhân, trải nghiệm sử chương của cha ông trong thời hiện đại. Âu cũng là bắt chước Jostein Gaarder dung hợp tiểu thuyết và lịch sử triết học trong tác phẩm rất thành công “Thế giới của Sophie”. Tuy nhiên do sức mọn, tài thấp, kết quả chẳng như ý. Đành mong quyển sách nhỏ này ra đời đánh dấu nỗ lực cá nhân hèn kém. Vẫn biết hư cấu chồng chéo, đôi khi mâu thuẫn, từ chương lộn xộn, đối thoại sáo kịch nhưng tác giả không thể làm gì khá hơn.
Quyển sách này được khởi thảo tại Hải Phòng ngày 20-7-1990. Hoàn tất ở Đà Lạt ngày 01-01-2001. Chỉnh sửa xong tháng 7-2004. Bao gồm 135 ngàn từ. Tác giả giữ bản quyền tuyệt đối. Mọi sao chép, thay đổi, chuyển thể phải được tác giả đồng ý thoả thuận bằng văn bản.
Tác giả thành thật xin lỗi người đọc nếu tình cờ những tên đất, tên người hoặc nội dung truyện trùng hợp thực tế. Rõ ràng văn học và đời sống luôn liên hệ mật thiết, nhưng không hẳn chúng chẳng hề có những khoảng cách nhất định.
Truyện cũng đã trích dẫn ý nghĩa một vài hình ảnh được liệt kê trong quyển Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant. NXB Đà nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du – 1997.
Ngoài ra còn rất nhiều kiến thức phổ thông, khái niệm triết học và dẫn chứng lịch sử được dung nạp nhưng tác giả không truy được nguồn gốc hay không tiện đề cặp nguồn gốc trong mạch văn liền lạc. Mong quý vị độc giả lượng thứ.
1 - Tí...
Chị làm ơn chỉ giùm… Câu nói của Phương lẫn vào nhịp thở dồn dập.
- Nhập viện ngày nào, tên tuổi?
- Dạ, Trần Thị Hiền Phương - Hai mươi mốt tuổi. Vợ tôi vô đây ba ngày rồi...
- Đàn ông thật đáng sợ. Đang mổ. Phòng 112, lầu trên, bên trái.
Không kịp trao lời cảm ơn Phương phóng lên cầu thang ba bậc một. Dọc sống lưng anh xuất hiện luồng phong hàn tê tê. Cơ thể Phương biết thế nhưng tinh thần thì không. Anh đã bỏ quên cái lạnh tám độ bách phân, ngoài lớp vải phong phanh của chiếc sơ mi tay ngắn vẫn mặc từ buồi chiều Sài Gòn của thế kỷ hôm qua.
Dãy hành lang ngút mắt. Khi bảng đèn "Phòng giải phẫu" nằm dưới số 112 đập vào mắt Phương cũng là lúc anh nghe tiếng khóc sơ sinh òa lên. Sững người, anh hét đến vỡ cả giọng:
- Con tôi… con tôi khóc. Khóc… chứ… không… cười…
Gần như đã cố gắng quá mức, Phương khựng lại, đầu óc quay cuồng vô định. Mọi vật xung quanh anh đang chuyển động. Bê tông, xi măng, sắt thép nứt toác ra và đổ sập xuống. Bình minh tràn qua miền cổ tích mù sương. Mang theo nỗi tuyệt vọng, Phương bay về phía chân trời bắt đầu ửng hồng. Anh không thể giữ lại tiếng khóc của con mình, để làm điểm tựa cho tất cả giá trị của những ngày đang tới.
Rất nhiều lần Phương cố mường tượng về phút giây chào đời của anh. Rốt cuộc vẫn lửng lơ câu hỏi: "Ta đã cười hay khóc?". Ngày đó cha vắng nhà, bà ngoại bệnh nặng. Mẹ anh vượt cạn một mình, không thân thích, giữa tiếng bom long trời lở đất. Cho dù với sinh học đó là điều phi lý, Phương linh cảm anh đã giễu cợt thế gian bằng tràng cười man dại. Anh biến nỗi hoài nghi thành triết lý sống, mệnh đề tồn tại, qua năm tháng chông gai, đối diện với quái thai của lòng người.
Phương rất tin trí nhớ của mình. Vệt ký ức đầu tiên xuất hiện và đeo bám anh dọc những lẽ đời là một góc của buổi sáng chớm Thu. Cậu bé Phương mới hai hoặc ba tuổi là cùng. Cậu tỉnh dậy sau giấc ngủ trống rỗng. Bà ngoại hình như đang giặt giũ ngoài cầu ao. Tiếng nước chảy róc rách vọng vào lúc rõ lúc không. Nắng xiên qua khe cửa sổ, chiếu lên những gợn sóng lăn tăn thẳng đứng của chiếc màn muỗi bằng lưới xô mỏng. Heo may mát dịu nhè nhẹ lay động không gian. Nỗi cô độc thẳm sâu và tuyệt đối tĩnh lặng. Từ đây con thuyền ý thức của Phương bắt đầu rời bến, chìm nổi trên bản năng sinh tồn.
Có lần vui miệng cha kể rằng thuở mới biết ngồi, Phương hiền như bụt. Cậu chẳng bao giờ khóc trừ khi đói bụng. Nhà cửa neo đơn chắc cậu cũng biết thương bà ngoại vất vả. Bà muốn làm gì thì làm, chỉ cần cố định cậu với mặt phản bằng cách quấn chiếc chăn bông xung quanh là yên tâm. Dù đi mấy tiếng, trở về bà vẫn thấy Phương trong tư thế cũ, chăn không hề bị xô lệch.
Bà ngoại thương Phương lắm. Ông mất trong thời kỳ cải cách ruộng đất, giữa những năm năm mươi. Bà ở vậy nuôi hai chị em của mẹ. Mẹ đi xa khi Phương mới ba tháng tuổi. Người ta không tìm được dấu vết của chiếc hầm trú ẩn cá nhân mẹ đã lao xuống. Máy bay ném bom vẫn hay băng qua ngoại vi thị trấn. Chúng thường nháo nhào trút bừa bom thừa và bỏ chạy ra biển sau khi đột kích không thành sân bay quân sự gần đó, do hỏa lực phòng không quá mạnh.
Điểm mốc tương đối liền lạc với nhiều biến cố đời sống tiếp theo là mùa đông ảm đạm năm 1972. Hai bà cháu côi cút trong ngôi nhà cổ rệu mục của một dòng họ sắp đến hồi tuyệt tự. Chiến tranh đã bước tới bậc tam cấp mọc đầy rêu xanh. Bà ngoại mỏi mòn ngóng cha Phương về. Cha chỉ tạt qua nửa buổi, đủ thời gian để ông đào vội nách hầm chữ A sơ sài dưới gậm giường.
Tiếp theo là đổ nát và chết chóc. Hằng đêm Phương nằm gọn trong lòng bà dưới hầm. Tiếng máy bay gầm rú, đất rung lên từng chập.
Hình như con người không biết sợ những gì có vẻ quen thuộc, dẫu là mối hiểm nguy. Tình thương của người bà đôn hậu cũng góp phần làm Phương không hề sợ hãi. Có lần choàng tỉnh giấc vì tiếng bom rất gần Phương thấy bà đang ở trong tư thế bò mà che cho cậu.
- Bà làm gì đấy? Bà sợ lắm hả? Sao bà run lập cập thế?
- Không, tại trời rét quá. Bà bò thế này để nhỡ hầm sập còn có thể gượng dậy.
- Bà ơi, đất đưa như võng thế này làm sao cháu ngủ được.
- Thôi chóng ngoan. Bà kể chuyện cổ tích cho cháu nghe nhé. Ngày xưa có cô Tấm…
- Ứ ừ… cháu chẳng thích cô Tấm đâu. Ai lại ác thế. Giết người làm mắm. Ác như thằng Mỹ…
Phương thiếp đi giữa lời kể ngọt ngào của bà về Thánh Gióng. Trong giấc mơ cậu cưỡi con trâu què của ông hàng xóm. Không cần nhổ tre vì đêm qua hàng tre đầu làng trúng bom tróc gốc nằm sẵn đấy. Cậu nắm bụi to nhất và vung lên. Máy bay rụng từng chùm. Cả làng chạy theo cậu hò reo. Thiếu hẳn màu khăn xô trắng quen mắt. Có những người đã được đưa tang lẫn trong đám đông. Con trâu đi vào trung tâm thị trấn, qua rẻo dốc bên cạnh hai lỗ châu mai đen ngòm của chiếc lô cốt thực dân. Không thấy cảnh đổ nát nhưng tuồng như dân cư trong phố cứ dật dờ tựa những bóng ma trơi.
Nửa cuối 12 ngày đêm bom đạn, một buổi trưa cha Phương bất ngờ ghé nhà. Cha ôm chặt Phương hồi lâu rồi cùng bà thu xếp chăn màn, quần áo. Hai bà cháu được ngồi trong chiếc xe con cắm đầy là ngụy trang của cha. Nơi đến là hầm trú ẩn trong lòng núi Thanh Tước. Hang rất rộng và sâu, khoét vào đá. Người đông như kiến vỡ tổ, đa số là các cụ cao niên và con trẻ. Đèn đóm tù mù. Không khí ngột ngạt nóng bức dù bên ngoài đang mùa gió bấc. Tiếng rên la của người già, tiếng khóc sơ sinh khát sữa, tiếng gào thét hoảng hốt thẳm sâu giữa giấc ngủ chập chờn. Hơi mồ hôi chua lòm. Bom nổ gần, bom nổ xa inh oang vọng lên từ lòng đất.
Không lâu sau đó, làng quê rộn ràng khác lạ. Hai chữ hòa bình vang lên khắp nơi. Hiệp định Ba Lê được ký. Thị trấn mít tinh rất to. Cờ đỏ rợp trời. Chẳng biết có phải do hình ảnh kinh khủng của mười hai ngày đêm còn quá nặng nề mà Phương chớ thấy vui. Mọi người ăn mừng chiến thắng, nụ cười nhiều hơn nước mắt nhưng không thể dấu biệt nỗi xa xót in hằn và tương lai chưa định hình.
Dọc dài năm tháng, rừng cờ đỏ luôn ẩn hiện đâu đó quanh Phương. Dù là phim ảnh hay ngoài đời, ít khi nào Phương hòa được mình vào nhịp điệu lễ hội. Không gì có thể xóa đi thương đau mất mát cũ. Trong Phương cũng có cuốn phim rất giống nhưng cũng rất khác tư liệu chớp bóng kia. Đó là thước phim câm của riêng anh. Thênh thang nỗi buồn, nhạt nhòa đen trắng. Mọi thành tố tạo nên sự hoảng loạn đã vượt qua ngưỡng dung nạp bình thường của giác quan để đi đến sự biểu cảm lặng câm, muôn phần nhức nhối.
Mãi đến thập kỷ 90 trở đi, thỉnh thoảng trên phố, đi theo những thành công của đội tuyển bóng đá Việt Nam, cờ đỏ lại tung bay rợp trời. Lần nào cũng vậy, Phương cố thu xếp để bước vào dòng người hân hoan. Cảm giác chiến thắng thì ít, nhưng nỗi niềm hòa bình rất sâu đậm. Anh yêu những đám đông. Họ hò hét đến khản cổ rồi về nhà, chìm sâu trong giấc ngủ an lành, không so đo về cái giá được và mất của niềm vui thể thao.
Ngay cả bây giờ, trong hồi tưởng của Phương cũng chẳng có chỗ cho nỗi sợ hãi. Anh chỉ cảm nhận sự vô nghĩa và lợm giọng của chiến tranh. Thế hệ trước Phương hay bĩu môi khi nghe lớp trẻ bình luận về chiến tranh. Xin rộng lòng đôi chút. Xin đừng khuyên người khác khai thác vinh quang trong máu lửa. Thuyết tiến hóa đã hé mở cánh cửa cội rễ để nhân loại đi tìm chính mình. Bạo lực, vũ khí sinh tồn của buổi khai nguyên sống lại mãnh liệt. Loài người bị thôi miên bằng khái niệm bản năng chết, bản năng tự hủy diệt. Ba vạn sáu ngàn năm trăm hai mươi lăm ngày của thế kỷ hai mươi bị nhuộm đen. Lương tri văn minh chính là lòng hận thù chiến tranh, là xếp chiến tranh trong bể nhục ô uế.
Năm 1996 trên chuyến bay từ Sài Gòn ra Hà Nội công tác, Phương tình cờ ngồi cạnh một người da trắng. Máy bay giảm độ cao hạ cánh. Phương dán chặt mắt vào khung cửa hẹp như muốn thu hết bức tranh làng quê tươi đẹp lạ lùng. Màu xanh của yên bình trải dài bất tận. Trời bắt đầu về chiều. Nắng nhạt dần. Những tia xiên khoai hiu hắt cuối cùng như muốn níu giữ từng lá cây ngọn cỏ. Và thật lạ lùng, bóng râm đổ xuống khu vực Đông Anh mờ mờ vẽ lại hình ảnh ba vòng thành Cổ Loa truyền thuyết. Hai ngàn năm lịch sử bi tráng bỗng hiển hiện bên cạnh Phương, thì thầm bất tận những câu chuyện không đầu không cuối, vụn vặt và rời rạc, nhưng tuyệt đối có giá trị. Cao hứng anh quay sang bạn đồng hành và thốt lên:
- Ông biết không, làng quê Việt Nam nào cũng giống nhau. Những tấm thảm của nền văn minh lúa nước mới tuyệt vời làm sao. Tôi được sinh ra ở đây. Lần đầu tiên tôi có dịp chiêm ngưỡng nơi chôn nhau cắt rốn của mình từ trên cao. Hạnh phúc vô cùng!
Gương mặt vị khách tỏ vẻ xúc động rất thật. Chẳng kịp ngỏ ý, gã nhoài người qua Phương nhìn xuống và phụ họa:
- Đẹp quá, thanh bình quá. Tôi ghen tị với anh đấy.
Khi gã ta trở về tư thế cũ, cánh tay Phương nhói đau. Hoá ra chiếc huy hiệu lưu niệm in hình cô du kích đội nón tai bèo đã móc vào người anh. Phương chau mày:
- Vậy mà có thời bức tranh dưới đây đã chi chít hố bom, vất vưởng bao xác chết vô tội - Người kia cụp mắt xuống thật nhanh và lí nhí:
- Biết nói gì với anh bây giờ. Lời xin lỗi thì thừa lịch sự nhưng ít giá trị. Trông tôi giống một cựu chiến binh Mỹ lắm phải không? Tôi chỉ là con dân thuộc về nền văn minh đã dõng dạc tuyên bố quyết kéo Hà Nội trở về thời đồ đá. Như thế đã đủ kết tội chưa?
- …
- Các anh có quyền, ít nhất là tạm quên mọi thứ. Còn chúng tôi, ám ảnh kia còn lâu mới buông tha bất cứ hành động ngạo mạn nào.
Sau đó cả hai đều im lặng. Kẻ đồng hành với Phương hấp tấp lấy hành lý đi ra cầu thang khi máy bay vừa tiếp đất an toàn. Anh hiểu tại sao gã không gởi lại lời tạm biệt. Đôi khi ngôn từ chẳng thể đèo bồng thiện chí.
Giữa năm 1973, cha Phương được thưởng huân chương chiến công hạng nhất kèm theo chuyến tham quan Liên Xô ba tháng. Khi cha về gần như cả xóm tới nhà nghe ông kể chuyện. Phương không để ý lắm đến những gì cha nói. Người lớn có chuyện cổ tích cho người lớn. Phương chỉ nhớ ai đó nhận xét rằng: "Đất nước trong câu chuyện của anh thật hoàn hảo". Thời gian và sự trưởng thành dạy Phương rằng nơi hoàn hảo tột cùng là xuất phát điểm của vòng xoay mới. Cảm giác bất an là có thật khi ta đứng trước vấn đề hết sức tròn trịa, không kẽ hở, ít ra là kẽ hở trong mắt một đứa trẻ.
Năm 1974 bà ngoại Phương mất. Những ngày hấp hối của bà, rất may có con rể lo lắng. Bà thoi thóp ba bốn hôm. Nhà trong nhà ngoài lúc nào cũng có rất nhiều người, bà con xa, láng giềng gần. Phương không còn nhớ nổi ai nhưng hương vị ân tình, nghĩa tử là nghĩa tận của làng quê Việt Nam vẫn rất rõ nét trong những hình ảnh dĩ vãng mờ nhạt. Phương lui cui môt mình sân trước, hè sau. Thỉnh thoảng như bừng tỉnh, cậu ùa chạy vào đứng bên giường bà. Bà nhắm mắt, tay chân khẳng khiu bất động. Khoang ngực gầy guộc của bà đều đặn trồi lên hạ xuống. Chỉ khi nào yên trí vì bà còn đó Phương mới trở ra và quanh quẩn bên cha ở phòng khách, giữa các câu chuyện trầm trầm. Âm thanh được nén bớt như cách tôn trọng người sắp chết.
Phần lớn thời gian này Phương ngồi trên gốc khế cổ thụ meo mốc bên bờ mảnh ao bèo cuối vườn. Tiếng các thân tre kẽo kẹt cọ vào nhau vì gió lay động. Tiếng côn trùng ban ngày mông lung. Tiếng khế rụng xuống thảm lá mục. Bờ ao bên kia lất phất đôi ba bộ da rắn độc sặc sỡ.
Phương cũng hay nghịch chiếc đồng hồ cơ khí khổng lồ hiệu Westminster những khi không có ai trong phòng khách. Chiếc đồng hồ này ông ngoại Phương mua tại Pháp. Màu sắc nó hơi sáng, có vẻ không mấy tương xứng với tủ thờ và bộ bàn trà khảm ốc. Phương chưa biết thời gian được đếm bằng dao động kèm theo tiếng gõ nhịp của quả lắc. Có thứ gì đó toát ra từ chiếc đồng hồ luôn làm cậu nôn nao. Cảm giác lạnh lẽo lắng sâu trong ba bốn thỏi thép xi mạ treo ở đầu các sợi dây xích luôn làm Phương giật mình.
Lúc nào can đảm lắm Phương mới rón rén bước vào điện thờ uy nghiêm thông với phòng khách bằng cánh cửa hẹp. Ánh sáng mờ mờ lọt vào từ các khe vách gỗ. Những thanh gươm trong suốt đâm toạc không gian chăng đầy mạng nhện. Hàng triệu hạt bụi màu vàng bé ti ti phát sáng. Cậu bé mân mê mọi thứ trong tầm tay mình tuy rất ái ngại người lớn bắt gặp và trách mắng. Sách chữ Nho của ông ngoại xếp cạnh hương án còn khá nhiều. Trước ngày bà đổ bệnh, có lần Phương lận lưng tập giấy rời trong mớ sách kia để gấp thuyền và máy bay. Chơi chán cậu vo tròn vứt vào xó nhà. Bà ngoại dọn dẹp phát hiện ra và giận lắm. Bà bảo chữ thánh hiền không được xem thường. Thứ nào loại ra phải đem đốt ở nơi sạch sẽ chứ không được ném đi như rác.
Xế chiều ngày cuối cùng bà ngoại mở mắt. Đồng tử bà lờ đờ, ít ánh sáng. Bà chỉ nhận ra Phương và khe khẽ động đậy mấy ngón tay trong bàn tay cậu. Giọng bà yếu ớt thều thào nửa mê nửa tỉnh "Ông giáo ơi! Các con ơi! Gượm chờ tôi với…". Người ta sờ được chiếc áo tử thần dần khoác lên cơ thể bà. "Bà cụ đang đi. Bàn chân bắt đầu lạnh rồi" - Ai đó cất tiếng báo cho cha Phương.
Phương trở thành giọt máu cuối cùng của chi phụ một dòng họ ngang tàng. Cao tổ ngoại Phương là tùy tướng của quan tổng đốc trấn thành Sơn Tây cuối thế kỷ mười chín. Ngài vốn được điều ra từ kinh đô Huế. Ngài gốc Minh hương, là con cháu của những khai quốc công thần từng phò tá Thế tổ Nguyễn Ánh. Ngài thuộc tầng lớp quý tộc phong kiến chủ chiến, đang sa sút và mặc cảm bởi câu biếm của nhà vua. Có lần vua ghé qua tư thất, mặc nhiên mọi người phải cúi mặt xuống trong lễ diện kiến. Người con thứ sáu của ngài, tức ngoại Tằng của Phương, do non dại và vô ý, cả gan nhìn thẳng vào mắt vua. Vua đã quở mắng. Không ai nhớ ngài mắng nặng hay nhẹ. Sự kiện ấy ám ảnh Cao tổ nhiều lắm. Nó như chiếc gông chụp lên cả gia tộc.
Sau trận thất thủ thành Sơn Tây, cùng lúc với việc Pháp chiếm Hà Nội lần hai, Cao tổ mất tích. Họ hàng bảo ngài sợ bị triều đình tru di vì bại trận nên bỏ trốn và biệt tăm. Không ít người nghi ngờ ngài tiếp tục cầm đầu một nhóm nghĩa quân đánh Pháp có liên hệ với lực lượng Cờ Đen nổi tiếng, hoặc phản triều đình lãnh chứ Đề đốc Tàu chống Pháp. Con cháu truy đến việc ngài bị bọn liên quân Lê dương - Ma tà phục kích và bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc thì sợ quá không dám tìm nữa. Chắc họ lo lắng sẽ bị liên lụy với nhà chức trách vì tinh thần bất khuất của ngài. Cũng may ngài tiên đoán được thời thế nên đã dặn mấy người con trai thay tên đổi họ và phân tán khắp các tỉnh trong đồng bằng sông Hồng đề phòng họa nạn. Tằng tổ ngoại của Phương lưu lạc về My Linh. Ông đăng lính khố đỏ, trở thành thầy Đội cai quản ngụy quân địa phương. Ông mất sớm bởi một viên đạn phá nát ngực trái trong lần chạm súng với chiến binh Đề Thám. Hai phần ba thế kỷ sau, khi quy tập mộ chí tông tộc, Phương và mọi người hãy còn bàng hoàng về vết thương làm nát nguyên mảng xương sườn của cụ.
Ông ngoại Phương là con trai duy nhất của thầy Đội. Ông hưởng toàn bộ gia sản đồ sộ gồm tòa nhà cổ và hàng chục mẫu ruộng tốt. Đây là bằng chứng để sau này người ta khép ông vào tội địa chủ cường hào. Ông có hai người mẹ, cụ già và cụ trẻ là hai chị em. Hai cụ thủ tiết thờ chồng và nuôi nấng, dạy dỗ ông chu đáo. Ông tốt nghiệp trường Bưởi và theo học chuyên ngành thông ngôn. Đầu thế chiến thứ hai ông bị điều sang Pháp làm sĩ quan phiên dịch cho đạo quân đỡ đạn Phát xít của thuộc địa Đông dương. Ba Lê nhục nhã đầu hàng, ông xin về lại Việt Nam. Bề ngoài ông chán ghét tất cả. Tuy còn trẻ nhưng ông luôn ra vẻ đã rũ bỏ hết sự đời, đam mê và tham vọng. Ông từ chối sự bổ nhiệm hành chính cấp tỉnh của thực dân để trở lại quê mở tư thục. Từ đó người ta tôn kính gọi ông là ông Giáo. Thực ra ông cũng có tham gia hội kín cứu nước nào đấy. Việc bất đồng tư tưởng khiến ông thối lui, dừng ở mức độ cảm tình và những giúp đỡ vật chất bí mật.
Tằng tổ mất khi ông ngoại còn rất bé. Lớn lên ông ngoại có hành động rất kỳ quặc. Một năm ông chỉ thăm mộ cha mình hai lần nhằm ngày Thanh Minh và giỗ kỵ. Họ hàng thân thích muốn viếng tằng tổ, ông đều nhờ hai bà mẹ của mình dẫn đi giùm. Nghĩa trang chẳng bao xa, cách nhà bốn năm trăm mét là cùng. Lần hồi người ta đoán ông âm thầm trách cứ tiền nhân đã phản bội tổ tiên đầu quân làm tay sai cho giặc.
Ông chỉ có hai người con. Cậu của Phương học xong chương trình phổ thông thì xung phong đi bộ đội. Cậu học rất giỏi nhưng không được vào đại học vì là con địa chủ. Những trận đụng độ ác liệt xung quanh Khe Sanh năm 1967 đã hòa nhục thể của cậu vào đất mẹ.
Cha đưa Phương về Hà Nội sau lễ tang bà. Hình ảnh đầu tiên của Đông Đô trong mắt Phương là kết cấu sắt thép xám xịt, kềnh càng và thô kệch của cầu Long Biên. Đoàn xe lửa nghiến bánh, chiếc cầu khe khẽ rung. Phương sợ sệt ôm chặt chân cha. Lòng sông Hồng mùa lũ nước dâng cao, xoáy ầm ào. Bọt phù sa đỏ quạnh. Một hai ngôi nhà tranh trên bãi bồi giữa sông bị ngập gần hết. Rác rưởi bám quanh nóc rạ.
Cha gửi Phương cho người bạn thương binh cụt chân nuôi hộ. Cô chú Đức và Cúc không có con. Họ sống ở đầu phố Hàng Đào. Ngôi nhà hai mặt tiền chật hẹp là cửa hàng bán nón đắt khách. Ngoài giờ đến trường Phương bị giam lỏng trên căn gác hình tam giác rộng khoảng bốn năm mét vuông. Thanh âm phố bát nháo vọng lên. Chuồng gà tăng gia ngoài ban công liếp chiếp. Chiếc loa công cộng treo đầu cây cột điện sứt mẻ ra rả suốt ngày.
Chủ nhật cha về Phương mới vui lên tí xíu. Cha dẫn Phương lòng vòng hẻm sâu tìm những hàng phở chui. Khách ngồi ăn trên những nắp cống sứt mẻ. Không dưới chục lần đang ăn mọi người phải ném bát đũa bỏ chạy vì cán bộ thị trường sục vào. Chiều tối cha hay dắt Phương ra ngồi ghế đá hóng mát bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Xe điện leng keng rất vui tai. Trong lúc cha qua phố Tràng Tiền xếp hàng mua kem que Phương luôn thích thú ngắm mấy người câu cá. Họ xắn quần lội xuống mép nước và kiên nhẫn chờ phao động đậy.
Tin chiến thắng từ miền Nam vọng ra ngày một nhiều. Phố chợ lao xao. Ông thợ cắt tóc trong cửa hàng quốc doanh cười ha hả bình luận với cha Phương và mọi người:
- Sắp thống nhất rồi. Bố con anh sướng nhé. Vào Nam uống nước dừa ngọt lịm thì còn gì bằng.
- Ba ơi quê mình ở tận đâu?
- Bạc Liêu con à, nhưng chẳng còn ai.
- Bạc Liêu đây. Hà Nội tới Bạc Liêu gần lắm, non bước chân - Ông thợ chỉ tay lên bản đồ hành chính Việt Nam treo trên tường.
Hương vị miền Nam đầu tiên Phương được thưởng thức không phải nước dừa mà là chai xá xị BGI hay Chương Dương gì đó. Phương thích vô cùng. Cậu nằng nặc xin cha cho cất một chai để dành làm quà cho dì Thái và các anh chị ở Sài Gòn! Chuyện đó xảy ra tại Huế, chặng nghỉ chân trên đường vào Nam tiếp quản của cha.
Họ thẳng hướng Sài Gòn trong chuyến xe hỏa tốc chở cán bộ tập kết chủ chốt. Những người này sẽ tạo thành bộ khung hành chính lâm thời khi Sài Gòn hoàn toàn về tay chính phủ Mặt trận.
Hình ảnh của chuyến hành trình ấy thấm rất sâu vào trí nhớ Phương. Nó bi thương và tang tóc hơn tất cả những cuộn phim tư liệu còn lưu trữ đâu đó, thỉnh thoảng được tuyên truyền cho quần chúng. Quảng Trị là đống gạch vụn. Hố bom, hố pháo chi chít. Bất kỳ mé lộ nào cha cũng giữ rịt Phương bên cạnh với lời cảnh báo lạc chân là vướng mìn tan xác. Từ Đà Nẵng trở vô lâu lâu lại thấy chiến cụ, binh xa chỏng chơ vật vạ đầy đường. Quân trang nhàu nát, cháy xém hoặc rách toạc và hình như có dính máu khô rải rác khắp nơi.
Phương mang máng là cha đã liên lạc với dì Thái và sẽ về ở nhà dì khi tới Sài Gòn. Cha cũng sơ bộ nói rõ tình hình của dì và các anh chị cùng cha khác mẹ của Phương.
Mười hai giờ trưa 30.4.1975, Phương đang ở Nha Trang. Chiếc đài bán dẫn của một cán bộ trên xe bắt được sóng: "Đây là tiếng nói Việt Nam. Phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Vào lúc 11 giờ 30 hôm nay Tổng thống Ngụy quyền Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng quân giải phóng vô điều kiện. Tổ quốc đã qui về một mối. Hòa bình đã trở lại. Dân tộc Việt Nam đã chiến thắng oanh liệt".
2 - Sửu...
Giữa tháng 5, tình hình tạm ổn cha Phương mới đi tìm dì Thái. Họ khăn gói lên chiếc xe nhà binh cắm cờ sao vàng nửa xanh nửa đỏ. Hai chiến sĩ đội nón tai bèo được cắt cử theo bảo vệ cha. Những cao ốc làm Phương chóng mặt. Điều lạ nhất là hàng chữ điện tử tại bùng binh trước cửa chính chợ Bến Thành. Cậu không thể nhớ rõ nội dung mình từng ê a đánh vần nhưng chắc chắn nó rất giống câu khẩu hiệu.
Xe qua lại khắp đường ngang ngõ dọc tìm kiếm rồi dừng lại ở chốn rất đông người hỏi thăm. Năm bảy chiếc xích lô máy gầm rú ào tới:
- Bộ đội ơi, đi đâu tụi em chở cho - Giọng Nam họ dùng chân thật, chất phác và ít sáo lễ. Kẻ bạo tay còn toan vác hộ hành lý của cha con Phương dù nó vẫn nằm trong xe, dưới chân Phương.
- Tôi muốn hỏi thăm địa chỉ thôi, nhờ các anh - Cha Phương gạt mấy người ra, xốc lại bao súng ngắn. Hai chú bảo vệ cũng tỏ vẻ sẵn sàng can thiệp nếu có gì quá trớn.
Chiếc xe bon bon thêm hồi nữa. Cuối cùng nó từ từ dừng bánh trước một căn nhà lớn giữa quận Ba ngày nay. Cha bước tới nút chuông.
- Thưa, ông tìm ai? Tôi là gia nhân.
- Nhà bà Thái đây phải không ạ?
- Dạ đúng. Mời ông vô.
Cánh cửa nặng nề đang he hé được mở rộng ra. Từ cổng tới ngôi nhà một tầng ẩn hiện dưới tàng cây là thảm cỏ xanh, hai bên trồng rất nhiều hoa. Có ba người dường như đã đứng sẵn rất lâu nơi bậc thềm. Những bước chân cố nén hấp tấp. Ngôn ngữ chỉ mang tính thông tin tuy ít nhiều run rẩy:
- Trời ơi! Ông…
- Bà chẳng khác xưa chút nào. Đây là bé Phương.
- Lại với dì đi con.
Dì bước tới bên Phương, dịu dàng hơn cả ngoại nữa. Cậu thấy quá đỗi an toàn. Phương hoài mang cảm giác ấy đi dọc cõi đời như ân huệ lớn lao của số phận mà anh không bao giờ gặp lại lần thứ hai, hay chính xác hơn, nhận được ở một người khác ngoài dì.
- Mấy đứa không chào ba hả? Chỉ vắng chị hai Dung.
Hai người anh cùng cha khác mẹ của Phương vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Họ lúng túng cúi chào cha. Anh Dũng đeo đôi tròng kính dày cộp, gương mặt hao hao giống dì Thái ở nét cam chịu và nhẫn nhục nhưng hết sức nhân hậu. Anh Chung ngang tàng trong trang phục quần loe áo bó. Cha nhìn hai anh hồi lâu. Nếu không có tình máu mủ trong cái nhìn đó thì thật sự nó quá lạnh lùng.
- Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều sau nhé hai con. Ba mệt quá.
- Thôi ta vô nhà. Mợ Hai giúp tôi chuyển đồ đạc của ông nghen. Tôi đã chuẩn bị sẵn phòng cho ông rồi. Ông uống nước dừa xiêm hay cà phê?
Cả nhà ngồi xuống bộ ghế bằng nhung thật êm. Phương tò mò đảo mắt quanh phòng khách. Mọi thứ đều xa lạ và quá sang trọng nhưng cậu hoàn toàn vô lo, thậm chí còn thích thú. Phương bước tới góc phòng rồi hỏi với giọng bắc trong trẻo:
- Dì ơi, cái máy gì thế ạ?
- À, đàn dương cầm của chị Dung con đấy. Hồi trẻ dì cũng chơi. Chị hai con chơi hay hơn nhiều. Bây giờ lâu lâu nhớ chị, dì ngồi vào đàn. Ở ngoài đó ông vẫn thường đi nghe hòa nhạc chứ? Ông còn thích Beethoven không?
Cha Phương nhăn trán như cố mường tượng điều gì đó rất mơ hồ và xa xăm:
- Không nghe bà nói có lẽ tôi đã quên bẵng loại nhạc cụ tên là dương cầm. Nó tiểu tư sản quá, không thích hợp với tôi từ lâu rồi.
- Mẹ chơi hành khúc của Mozart đi mẹ, hôm nay khải hoàn, xum họp mà - Anh Dũng lên tiếng.
- Chắc mẹ quên hết những bản nhạc vui rồi con à. Nhạc Chopin mẹ hay chơi không dành cho đoàn tụ.
- Mẹ con bà tâm đầu ý hợp quá nhỉ. Còn cậu Tư chắc chỉ mê xập xình vũ trường thôi nhỉ?
- Thưa ba, còn tùy hoàn cảnh và tâm trạng. Con nghe nói họ sẽ cấm hết hả ba?
- Họ là ai? Các con đều mang trong người dòng máu của ba. Các con sẽ là tân chủ nhân của xã hội này.
- Thôi, cha con ông uống nước dừa đi. Chuyện kia nói sau.
Phương uống nước dừa bằng ống hút. Cậu được dì Thái chỉ dẫn rất tận tình. Với cậu cái gì cũng mới mẻ. Nhìn vẻ mặt bơ phờ con trẻ, dì vội vàng dẫn Phương vào phòng ngủ. Dì dùng khăn ướt lau mặt cho cậu và kéo gối bảo cậu nằm xuống giường. Giấc ngủ đến rất nhanh nhưng trước khi thiếp hẳn Phương còn nghe văng vẳng tiếng người ngoài phòng khách vọng vào. Cha và hai anh đang nói chuyện. Không khí hình như không mấy yên ả.
Đến tối gia đình vào mâm cơm hơi nặng nề. Nếu Phương quen thuộc nhanh chóng với ngôi nhà mới bao nhiêu thì lại mơ hồ không ổn với vẻ khách khí, xa cách của những người ruột thịt bấy nhiêu. Cậu đâu biết lúc đó chính cậu là cầu nối duy nhất cho mọi người. Dì Thái chăm chút Phương từng li từng tí. Anh Dũng và anh Chung giả giọng bắc hỏi cậu đủ thứ chuyện. Đôi lúc Phương ngớ người khi cả bàn ăn cười ồ sau một câu ngây thơ ngộ nghĩnh của cậu. Cha quá nghiêm nghị. Hình như ông luôn có cái gì đó chưa tiện nói.
Sau khi ăn trái cây tráng miệng Phương nằng nặc đòi nghe dì chơi đàn. Cậu mê mẩn xoa tay trên hàng phím trắng đen đều đặn. Và Phương đã được dì giảng giải vài khái niệm quí giá đầu tiên về nghệ thuật của âm thanh.
- Con biết không, nhạc cổ điển và lãng mạn được xây dựng chủ yếu từ tín điều dân dã. Nó thiện vô cùng. Nhiều khi người ta rất đỗi ngạc nhiên với những thần đồng bé tí mà có thể diễn tả sắc thái xem ra khá chững chạc. Thiện là bản năng gốc của con người. Càng trẻ người ta càng thiện hơn, không khó hiểu chứ con?
Cha từ ban công bước vào. Ông loay hoay tìm chỗ vứt chiếc tăm xỉa răng rồi nhỏ nhẹ:
- Nó hiểu thế nào được hả bà. Trường lớp sẽ dạy nó theo đúng thiên hướng với tư tưởng mới. Bà đừng lo!
- Con biết mà ba ơi. Dì nói hay lắm.
Cha đưa qua dì Thái cái nhíu mày khó thấy. Dì lảng đi rồi ngồi xuống bên chiếc đàn. Trong không gian chỉ còn âm nhạc. Chất Chopin đậm đặc, không thể lẫn lộn của bản valse hôm ấy sẽ theo Phương suốt cuộc đời.
Khi đã trưởng thành, mỗi lần thả mình theo cảm xúc nhất thời giữa những giai điệu đượm buồn nhưng rất đỗi ngọt ngào và day dứt của Chopin, Phương luôn thấy mình được trở lại buổi tối nọ. Anh cứ dần hiểu thêm từng chút ý nghĩa lớn lao nơi câu chữ giản dị dì Thái từng gieo vào lòng mình. Góc nào đó trong tâm hồn Phương không hề có tiếng bom rơi đạn lạc in hằn từ thuở ấu thơ. Nó chỉ dành cho âm nhạc. Phương cũng tự cho rằng đàn tranh dân tộc và dương cầm hơi giống nhau. Bản thiện của nhân loại luôn là hằng số. Chẳng kể Đông hay Tây, nó là giá trị vĩnh định nằm ngoài mọi thành kiến và trào lưu tư tưởng. Ở chừng mực nào đó, hai loại đàn này tải được khá nhiều chất thiện. Tiếng đàn tranh ai oán và u uất hơn tiếng dương cầm. Phải chăng vì vậy mà Phương rất thích nhưng cũng rất sợ nghe đàn Tranh.
Đi sâu hơn chút nữa, nền âm nhạc bác học đầu tiên sản sinh tại Á đông huyền bí. Trước khi quá trình phát triển mấy ngàn năm của âm nhạc được hệ thống hóa trong Kinh Nhạc, ít ai để ý dàn chuông đồng treo xung quanh Cửu đỉnh của vương triều Thần Chu chính là loại nhạc cụ bất hủ. Âm nhạc không thể thiếu trong tín ngưỡng cổ đại. Âm nhạc hùng tráng và tiếng ngân xa ngàn dặm của chuông đồng giữa những đại lễ tế trời khó có cơ may tái hiện. Âm nhạc mang tiếng nói linh thiêng, làm chủ âm nhạc đồng nghĩa với làm chủ quần chúng bởi nó mang trong mình sự mê hoặc về thân phận và giai cấp. Nếu thế giới thần thánh là sản phẩm của con người, là nhân tố gián cách chính bản thân họ, thì âm nhạc lại mang sứ mạng phá vỡ mọi biên giới phàm tục. Người ta đem theo âm nhạc ra trận, vào đền thờ, chùa chiền và cả những cuộc truy hoan tập thể. Giao lưu âm nhạc Đông - Tây diễn ra trên con đường tơ lụa Á - Âu. Tiếng trống dồn dập, nhịp phèng la vang trời trong các điệu múa Lân Sư cổ điển có thể là nguồn cảm hứng cho âm nhạc hiện đại. Các trào lưu tân thời rất chuộng tiết tấu, thường lạm dụng tối đa tiết tấu.
Âm nhạc là đôi cánh của đức hạnh. Chính đôi cánh thần kỳ này đã đưa dì Thái đi qua hai thập kỷ ly tán đằng đẵng, hai cuộc chiến tranh tàn khốc và muôn ngàn dị biệt nhức nhối vẫn chưa thôi chia rẽ những gia đình, những dòng họ, những cộng đồng Việt Nam. Vầng hào quang của thiên sứ đáng ra được để dành cho cha Phương, nhưng ông chối bỏ. Và cậu bé Phương đã nhẫn nại nhặt nhạnh muôn giọt nước mắt thất vọng trong veo, vô hình của người dì tội nghiệp. Anh xâu chúng thành chuỗi ngọc âm thanh quý giá, để chúng hát lên mỗi khi đất trời nổi cơn gió bụi. Bài hát ấy át được cả phong ba, bão tố. Nó mang trong mình tia sáng lạc quan của bình minh và lòng tin vào cái đẹp trường tồn.
Không thể mô tả hết mọi sự việc diễn ra trong nhà vào thời điểm ấy. Hai mươi mốt năm xa cách người lớn có bao nhiêu điều để nói. Phương chỉ là một chú nhóc. Cậu khó nhớ như in mọi chi tiết nhưng chẳng thứ gì biến đi khỏi tiềm thức Phương cả.
Cha Phương từng là đấng nam tử hào hoa của đất Bạc Liêu. Giữa thập kỷ 40, ông gặp rồi đem lòng thương yêu dì Thái, cô nữ sinh trung học hiền thục ba đời sinh trưởng tại Sài thành. Nam bộ kháng chiến bùng nổ họ vừa kết hôn hơn một tháng. Cha được coi như trí thức thời bấy giờ với tấm bằng Tú tài Tây loại ưu.
Đáp lời kêu gọi của Việt Minh cha thoát ly ra hoạt động ven đô Sài Gòn. Năm 1947 ông bà mới có cô Dung, con gái đầu lòng. Họ không thể luôn ở bên nhau như nhiều cặp vợ chồng son khác. Dì Thái không dám theo chồng dưới sức ép và sự quản lý chặt chẽ, nặng nề của gia đình. Tình cảm của dì dành cho cha dần dần thành ra tình cảm của nàng khuê nữ với một anh hùng. Lắm lúc dì đùa, cha muốn anh hùng gì cũng được, dì yêu hai chữ anh hùng dù nó là nhãn hiệu có cầu chứng hay chỉ đơn giản như biểu tượng của kẻ làm loạn. Cha rất khó chịu nhưng mỗi lần bên nhau cứ lén lén lút lút dè chừng mật thám, thời gian đâu mà họ tranh cãi. Anh Dũng sanh năm 1952. Anh Chung sanh đầu năm 1955. Cái tên Chung như lời hẹn thề hướng về ngày tuyển cử hai miền như hiệp định Geneva. Thật đáng quí, nó bền bỉ và vượt qua quãng thời gian gấp mười lần dự kiến. Cuối những năm 1950 xã hội rối ren, đại gia đình dì Thái di cư sang Pháp. Dì kiên quyết ở lại, tiếp thu vài cơ sở làm ăn nho nhỏ của cha mẹ. Dì tần tảo nuôi dạy ba chị em Dung, Dũng, Chung chờ ngày hòa bình. Do không thích làm ăn quá lớn để dồn sức chăm sóc con cái, tất cả các biến cố chiến tranh diễn ra tại Sài Gòn trước 1975 đều ảnh hưởng tới đời sống của gia đình đơn chiếc của dì rất hạn chế. Ba đứa trẻ đẹp người đẹp nết luôn chứa đựng niềm tự hào của dì Thái. Cả ba người, nói như ngôn ngữ hiện đại là cơ bản đứng ngoài thời cuộc chính trị.
Sắp học hết năm thứ nhất đại học, anh Dũng bị bắt lính ngay tại sân trường. Nhờ dì Thái quen biết vai vế trong quân đội, bảy tháng sau anh được thải hồi khi đang làm việc trong một trạm quân y tiền phương với lý do mắc bệnh nan y.
Chị Dung tốt nghiệp cử nhân Anh - Pháp ở Đại học Văn khoa. Trước khi lập gia đình với anh Tòng, thiếu tá phi công, chị làm tại ban phiên dịch Việt Tấn Xã. Ngày 29.4.1975 chồng chị Dung lấy một chiếc trực thăng về đậu trên nóc tòa nhà gia đình anh ở tại đường Thái Lập Thành, quận Nhất. Chị nghẹn ngào ôm con cùng gia đình chồng lên máy bay thẳng tiến ra biển Đông. Chị không thuyết phục được mẹ và hai em mình đi theo.
Tròn 20 tuổi, anh Chung học rất khá, thủ khoa triết và hiện là sinh viên xuất sắc năm thứ hai. Dì Thái thương Chung nhất nhà bởi dì biết ngoài cái vẻ bề ngoài phớt đời, buông thả, con người Chung rất sâu sắc, hiểu biết rộng. Phong cách trí thức nòi của anh Dũng đôi khi va chạm với Chung nảy lửa. Anh Dũng hay phê phán Chung về cách ăn mặc, sinh hoạt:
- Hiện sinh chẳng có gì xấu cả.
- Với anh đó là biến tướng của những tư tưởng bệnh hoạn, sinh ra từ những tâm hồn lai căng, không lối thoát, không hoài vọng giữa thế giới ngày càng sa đọa.
- Anh lầm. Tự do lúc nào chẳng cao quí. Khi chúng ta nhận ra loài người bị kết án phải tự do thì gần đạt đến tự do chân chính rồi.
- Anh chỉ thấy mấy đứa em tự do ăn mặc lố lăng, tự do tình dục, tự do xì ke.
- Anh đừng gạn cái cặn của ly rượu quí rồi lu loa rằng rượu này không ngon. Khi em đi với họ, không có nghĩa em đã bị hoà lẫn. Em đang học, bài học của thực tế chẳng bao giờ mô phạm, lý thuyết suông cả.
- Kẻ trác táng nguy hiểm nhất là kẻ trác táng bằng biện giải xem ra hết sức thuyết phục.
- Anh sẽ là nhà khoa học tự nhiên, em theo hướng xã hội. Em tin rằng con người chỉ có thể khám phá qui luật chứ không thể đứng cao hơn qui luật mà phán xét.
- Em không sợ mẹ buồn sao?
- Mẹ không "bác học" như chúng ta, nhưng cảm tính của tình mẫu tử mạnh mẽ lắm. Em tin rằng mẹ chẳng buồn vì em đâu.
Trong gia đình, dễ lầm tưởng dì Thái rất trung dung. Trên hết dì sống bằng tình yêu thương con cái và tấm lòng thủy chung cổ điển. Dì không đi lễ nhà thờ như thời con gái. Dì còn lưu giữ rất nhiều sách quí của một đại gia đình trí thức có tinh thần dân tộc. Dì tôn thờ đức hạnh và quí trọng lễ nghĩa. Sẽ không quá đáng nếu coi đó là nền "văn hoá nhỏ" hoặc tế bào của nền văn hóa Á đông. Chẳng ngạc nhiên vì dì hiếm khi đọc sách. Từ thời áo tím dì đã thuộc nằm lòng câu nói của Henriotte "Văn hoá là cái còn lại khi người ta quên hết cả, là cái vẫn thiếu khi người ta từng đọc tất cả". Dì tâm sự với Phương "Dì không thể tìm sự yên tĩnh trong đạo. Chắc vì cơ duyên. Nhưng dì rất bình an giữa đời. Xét cho cùng đạo sáng thế từ đời con à. Nếu ta sống phải giữa đời thì sớm đắc mọi thứ đạo".
Xắp xếp xong công tác cha Phương cố gắng đi thăm viếng một vòng. Thỉnh thoảng Phương cũng được cha và dì dẫn theo.
Nói chung người thân của gia đình hết sức vồn vã. Họ tự hào đón tiếp ngài Việt cộng cỡ bự, đi xe con đến chơi. Họ nói chuyện y chang đài phát thanh giải phóng về thời sự. Họ luôn không quên nhắn gửi nhờ vả, nhất là bảo lãnh cho cháu này, cậu nọ trót lầm đường lạc lối, hiện đang tập trung học tập cải tạo. Tuy rất khắt khe nhưng với vài trường hợp chẳng đặng thì đừng, cha cũng phải ra tay. Cỡ chục năm sau, những kẻ cha giúp đỡ đều "nên người". Đa phần, ai cũng có một chiếc ghế béo bở. Gặp lúc trà dư tửu hậu họ nói với Phương: "Ông Thiện ba mày trong sạch khác người. May nhờ dì Thái mà mày không đến nỗi nào. Còn chúng tao ư, chỉ cần ghi trong lý lịch ba đời tên và chức vụ ngài Thiện là xong. Ai dám hạch hỏi, sách nhiễu?".
Ấn tượng nhất với Phương là lần tới chơi nhà bác Long, bạn rất thân của cha thời trai trẻ. Vợ bác mất năm 1968 do tên bay đạn lạc. Tuy mới trên dưới năm mươi mà trông bác già cỗi lắm, tóc bạc như cước. Bác có 4 người con. Hai anh từng học trường Sĩ quan Lục quân Đà Lạt, mang hàm úy. Một cô và anh còn lại theo phong trào sinh viên dân chủ. Họ bị tù đày bắt bớ nhiều lần rồi bỏ ra chiến khu. Ngày hoà bình bác nhận hai tin dữ cùng lúc: Hai ngụy quân phải đi học tập. Hai chiến sĩ giải phóng đã hy sinh tại Xuân Lộc. Cuộc hội ngộ của bằng hữu rất trầm mặc. Bác Long chỉ nói về thời xa xưa, làng quê cũ. Cha Phương thao thao bất tuyệt những đường lối mới, chẳng ăn nhập vào đâu. Gần cạn mấy ly xá xị bác Long hỏi cha:
- Theo anh chừng nào con tôi mới học tập xong. Ban đầu họ bảo chỉ cần đem theo ba ngày lương thực. Vậy mà...
- Còn tùy anh à. Phải xem xét chúng nó có nợ máu với nhân dân hay không.
- Tôi tin là không. Cứ coi như chính chúng đã giết hai đứa em ruột của mình. Điều đó đáng thương hơn đáng trách.
- Anh thiếu sâu sát các con quá.
- Là công dân trong xã hội thời chiến, không ai hoàn toàn có thể tự chọn cho mình con đường tiến thân đâu anh. Chúng tôi chỉ là con sâu, cái kiến. Tôi nghe nói ông Dương Văn Minh vẫn an toàn trong ngôi biệt thự toàn hoa lan trên đường Trần Quí Cáp. Hay ông ta thuộc đẳng cấp cao hơn chúng tôi, đẳng cấp buôn bán sinh mạng đồng loại, đẳng cấp thống trị.
- Anh hãy tin tưởng vào sự độ lượng, khoan hồng của Ủy ban quân quản. Anh thấy tắm máu chưa? Anh thấy chúng tôi đánh đu trên nách lá cây đu đủ được không? Anh đã chứng kiến ai bị rút những móng tay sơn đỏ chót chưa? Anh là con mọt sách chắc anh cũng không từ chối nếu tôi tặng anh vài bộ trước tác của Marx.
Không rõ tại sao Phương sớm hiểu rất khó phân biệt ngụy và ta. Trừ thiểu số xem bắn giết là cái nghề, là cần câu cơm. Đa phần không thể cưỡng được thời thế.
Gia đình bà chủ xưởng in lụa của Phương sau này là một ví dụ. Ông nhà làm quận trưởng cảnh sát. Ông học ở Đà Lạt rồi kết hôn với bà, nàng tiểu thư phố núi. Họ sống trong doanh trại nên sau giải phóng phải dạt về khu ổ chuột ở Bình Thạnh. Đừng nói tất cả những tiểu thư, những cô tiểu tư sản đều vô dụng. Bà mẹ trẻ lam lũ gia công may vá kiếm tiền nuôi một nách hai con trai học hành và mẹ chồng sắp lẫn. Bà là mẫu người hội nhập xã hội mà báo chí hay biểu dương.
Năm 1985 trung tá ngụy được thả. Lắm lúc ông bất đồng nghiêm trọng với vợ về cách nhìn nhận các vấn đề xã hội. Chẳng hạn hai ông bà đang sóng bước xe đạp dạo phố thì đường mất điện, tối thui. Bà cho rằng hãy thông cảm với khó khăn hiện tại nhưng ông bực mình phản bác rồi tự cấm khẩu cả tháng trời. Ông dành trọn thời gian chỉ để vẽ chân dung các tài tử điện ảnh bằng màu dầu, với năng khiếu rơi rớt từ thời ông còn đi học. Đùng cái ông vượt biên. Nếu nán lại ít lâu ông cũng sẽ được đi chính thức theo diện cựu sĩ quan. Ông qua Mỹ lao động chân tay tại một xưởng sửa chữa tàu biển. Hơn năm sau ông đã dành dụm đủ chi phí xuất ngoại "chui" cho vợ con. Lý do lớn nhất khiến ông muốn ra đi càng sớm càng tốt chính là tương lai hai đứa con. Họ đều học xong phổ thông nhưng không vào được đại học. Xin việc cho họ còn khó hơn nữa. Ông sợ sự nhàn rỗi sẽ biến hai thanh niên lưng dài vai rộng thành kẻ lêu lổng.
Bạn học phổ thông của Phương, khá nhiều người là con cái sĩ quan chế độ cũ. Phương thương nhất chú Nam, cựu đại úy sư đoàn 7. Năm 1981 ông được về sau khi trải qua hai ba trại từ Bắc chí Nam. Từ một lãng nhân hào hoa phong nhã, ông đoạn tuyệt tất cả thú vui trần thế để ăn chay niệm phật. Ông cũng từ chối làm thủ tục định cư ở Mỹ. Khi nghe bạn mình kể về năm tháng gian khó, cả gia đình nhịn ăn nhịn mặc cốt dành tiền thăm nuôi ba, Phương nao cả lòng. Hai mẹ con bạn lặn lội từ vé xe lửa mua theo đơn, đổi sang xe khách thời tiền sử, rồi ghập ghềnh xe bò trên đường đất lầy lội giữa mưa phùn lên núi. Họ òa khóc khi thấy chồng, thấy cha mình phong phanh mảnh áo ấm may bằng bao bố. Phương hỏi sao ông ăn chay. Ông cười thật hiền. Phương biết ông không dám nhìn vào thịt cá và thực phẩm có máu. Ông ám ảnh suốt đời với cái miệng máu ngậm đầy cơm thiu cá hẩm của bạn chung trại. Người nọ bị hành hung do quá đói và háu ăn.
Với đa số nạn nhân của chiến tranh, hình ảnh đối phương gục xuống dưới làn đạn họ bắt buộc phải xả ra là bản án lương tâm không bao giờ được ân xá. Chắc chắn chú Nam hiểu điều đó. Ông bảo thực ra người Mỹ đâu dám giúp quân đội Sài Gòn trọn vẹn. Loại bom CBU 55 hoặc Daisy Cutter 7500, có thể giết mọi sinh vật trong bán kính vài cây số đem sang Việt Nam phần lớn là đồ giả. Nhiều bận sau khi máy bay lớn bỏ bom xong, trực thăng sà xuống rải bộ binh thì súng trong cái chảo thần chết ấy bắn lên như mưa. Ông và đồng đội chỉ làm theo lệnh mấy thằng tay sai thắt cà vạt ở Sài Gòn. Bọn kia lại là những con bài chiến lược của mấy ông lớn trên thế giới. Nước Mỹ ưu ái đón hết bạn thân của mình đi ngay trước 11 giờ 30 ngày 30.4.75 rồi.
Cha Phương làm việc tại một cơ quan quyền lực rất quan trọng. Công sở không bảng hiệu, khá rộng lớn, đồ sộ những toà lầu xam xám, thiếu thẩm mỹ. Cánh cổng nặng nề luôn khép kín. Tấm bảng số nhà vẽ khá to. Cha rất bận. Cả tuần đến bốn năm bữa ông chỉ về nhà sau lúc giới nghiêm. Ông ít gặp Phương. Họa hoằn lắm mới có một sáng chủ nhật ông ngồi ăn điểm tâm chung với gia đình.
Mấy tháng đầu ở Sài Gòn cha giữ tinh thần cảnh giác tuyệt đối. Túi quần ông lúc nào cũng cồm cộm khẩu súng lục. Đôi lần Phương thấy cha lau chùi súng rất kỹ. Nước thép của súng luôn bóng loáng. Anh Dũng bảo đây là thứ vũ khí thượng hạng hiệu Browning. Trước đây phu nhân tướng tá hay dùng để đánh ghen! Cha bắt buộc dì Thái tự đi chợ. Lúc nấu bếp dì phải luôn coi chừng kẻo "kẻ xấu" xúi dục người làm bỏ thuốc độc vào cơm canh. Cha nhắc đi nhắc lại với Phương là không bao giờ được nhận quà cáp, bánh kẹo của khách lạ.
Ông biết anh Dũng và anh Chung đang học chính trị. Dù anh Chung đã nghiêm trang hơn với mái tóc ba phân nhưng ông luôn không hài lòng với những câu hỏi mang tính "cùn" - theo tên gọi của ông.
- Vứt hết! Các con học chính trị để tiếp cận cái mới. Lý thuyết ấy quá hoàn chỉnh để vượt qua mọi trào lưu đầy oán thù giai cấp, ru ngủ và hằn học với thành công của một phần ba nhân loại.
- Ba ơi, lòng tin đâu thể đến bằng sấm truyền.
- Ba không ngờ con còn mê tín nữa.
- Con rất muốn mê tín. Con luôn sờ sợ trước những diễn biến ngoài xã hội được thu nhỏ trong tờ nhật trình này - Anh Chung cúi xuống hộc bàn lôi ra chồng báo cũ.
- Đó là chuyên chính.
- Con không phản đối xử tử hình kẻ ăn cướp nhưng như thế này thì không ổn đâu ba - Anh lật đưa cha xem tấm hình trên trang nhất. Hai người lính quì gối giương thẳng nòng AK vào tên cướp có vũ khí. Hai tay hắn bị trói chặt vào cánh cửa sắt.
- Thế này thì ổn chắc - Cha cũng lạnh lùng soạn trong đống báo ấy ra tấm hình khác đối chứng: Chuẩn tướng cảnh sát ngụy kê súng vào đầu một bộ đội giải phóng, năm 1968.
- Gần như tất cả trường học trong thành phố đã bị trưng dụng làm nơi điểm danh ngụy quyền hoặc tòa án kiêm pháp trường lưu động. Hàng triệu bản sách bị đốt. Con phải hiểu như thế nào về chữ đồi trụy đây. Tư sản bị thủ tiêu. Chừng nào thì đến mẹ con được xử hả ba. Mẹ là tiểu tư sản mà.
- Tao sẽ đưa mày lên Kinh Tế Mới. Mày chỉ có thể sáng mắt ra trước bài học thực tế.
Cha không biết nói đùa. Ít lâu sau anh Chung vui vẻ chào cả nhà lên đường. Dì Thái gạt nước mắt.
Anh Dũng thì khác. Cha hỏi câu gì anh đều khéo léo lảng tránh. Anh nửa đùa nửa thật: "Ba cần con đọc thuộc lòng các bài học chính trị không?". Trí nhớ anh thuộc loại siêu phàm. Cha chỉ biết chịu trận khi một lần anh Dũng đọc ngược bài xã luận đầy tính thời sự trên báo mà ông toan đưa ra thảo luận trong gia đình.
Hôm đoàn thanh niên địa phương ghé vận động bài trừ văn hóa thực dân đồi trụy cả nhà đông đủ. Cha ra lệnh mọi người tự kiểm kê sách vở, ấn phẩm và đem ra trước cổng. Anh Chung bỏ đi sau khi mở cửa phòng riêng cho ai muốn làm gì thì làm. Sách trong ngôi nhà này quá nhiều, hàng mấy ngàn cuốn. Sách thời con gái của chị Dung. Sách y khoa của anh Dũng. Sách triết học của anh Chung. Dì Thái từ tốn một cách nhu nhược soạn hết tủ sách chung của gia đình, chỉ trừ môn loại nữ công gia chánh và âm nhạc.
- Các bạn thấy đủ chưa? Cha chống nạnh bên đống sách cao ngất - Châm lửa đi thôi thế hệ trẻ. Đả đảo văn hóa thực dân bán nước.
- Chúng cháu sẽ báo cáo lên phường đề nêu gương người tốt việc tốt của chú - Đám áo xanh nhao nhao.
Lửa bùng lên. Những ánh mắt rực cháy trông man rợ vô cùng. Tiếng vỗ tay rào rào. Phương hớt hãi quay dọc quay ngang thì thấy chỉ còn mỗi cha chen chân trong đám đông. Cậu hoang mang chạy lên lầu. Anh Chung đang đứng bên cửa sổ len lén nhìn đống lửa qua khung kính. Mắt anh đỏ hoe. Anh khẽ kéo rèm lại và đặt tay lên vai Phương:
- Cũng may cha yêu cầu tự giác không thôi lửa còn lớn hơn nhiều. Aristote, Bergson, Nietzche, Jung Carl Gustave, Francoise Sagan, Boris Pasternak, Witold Gombrowicz, Jean Paul Sarte đều là những nhà văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Họ chắc chắn không ngờ đến ngày sách của mình biến thành lửa trong nghi thức vô cùng cuồng tín thế kia. Đốt sách là tội ác đáng sợ hơn mọi tội ác. Không có quyển sách tồi. Chỉ có bộ óc thấp kém không thể dung nạp tri thức chứa đựng trong sách. Chẳng hiểu ba, một trí thức tân học ngày xưa, làm thế nào đồng cảm được với bọn người kia.
Ngọn lửa bị gió đè táp vào cây Liễu Bách bên cạnh. Cành lá xanh co dúm rũ rượi. Hai ba ngày sau cây héo khô dù được tưới nước liên tục. Bên cội già xù xì, cỏ mật làm dáng cũng chết tốt. Đất đen trơ ra, nứt nẻ. Lớn lên chút nữa Phương mất cả tuần mới bứng hết cái gốc cũ. Cậu trồng đi trồng lại mấy giống kiểng nhưng chả mầm nào sống được.
Triệt để xóa đi sự bóc lột, cha yêu cầu dì Thái cho cả hai người giúp việc nghỉ làm. Ông lo cho chị Tám một chân bán lương thực phân phối theo sổ tại phường sở tại. Không những trở thành công nhân viên chị còn được cấp cho căn hộ tập thể gần 60 thước vuông. Ngày mới bỗng nhiên cụ thể và cao quí đến không ngờ, hơn cả giấc mơ bạo dạn nhất của chị.
Chị Tám không đẹp. Chị biết vài con chữ đủ đọc báo nhưng hăng say làm việc xã hội nên phất lên như diều gặp gió. Mấy tháng sau chị thành Chủ nhiệm Hợp tác xã, kiêm Cửa hàng trưởng "Cửa hàng thịt tươi sống thanh niên tiền phong". Nhờ vậy dì Thái ít khó nhọc trong những lần xếp hàng mua nhu yếu phẩm, thực phẩm theo sổ. Chẳng may chị Tám lấy nhằm anh cựu chiến binh tiềm ẩn bệnh tâm thần. Trái gió trở trời chồng chị vật vã nặng và thường uống rượu rất dữ. Lâu lâu khu phố lại có một đêm ma quái khi chồng chị Tám lên cơn. Sâu hút trong bóng tối tĩnh mịch, tiếng gào thét vô vọng của người điên thật nhức nhối. Chồng chị Tám cảm mạo và qua đời giữa cơn say. Đứa con đầu lòng của họ tiếp tục gây chú ý cho chòm xóm. Nó bụ bẫm và đẹp như thiên thần. Của đáng tội là nó chẳng chịu lớn lên hoặc già đi. Thằng bé ba bốn tuổi nhưng không biết đi đứng, bò toài, suốt ngày im lặng nằm một chỗ.
Dạo xóa bao cấp tình cờ run rủi có ông Nhật tóc hoa râm góa vợ phải lòng chị Tám. Ông xin cưới chị và nguyện suốt đời chăm sóc đứa trẻ. Đứa con sau của họ may mắn phát triển rất bình thường. Chị Tám trở thành bà chủ tư bản. Vợ chồng chị mở xưởng gia công hàng xuất khẩu với hàng trăm công nhân.
Mợ Hai truân chuyên hơn chị Tám nhiều. Mợ hơn 50 tuổi, tính tình hiện hậu đến khờ khạo. Mợ là chị em họ xa bên nội dì Thái. Mợ chẳng có gia đình, chồng con và ít hiểu biết. Dì Thái thuyết phục mãi cha mới đồng ý cho mợ ở lại với các điều kiện: "Không xem mợ Hai như gia nhân. Ở trong nhà mợ giúp được việc gì thì giúp. Không được sai bảo, ép uổng. Đưa ngay tên mợ vào tờ hộ tịch mới, ghi rõ quan hệ với chủ hộ là chị họ". Dì Thái vui lòng. Nói cho cùng trước đây hoặc hiện nay dì đối xử với mợ Hai và chị Tám đâu đến nỗi nào. Dì vẫn chung tay dọn dẹp, nấu nướng cùng hai người.
Cỡ ba năm sau mợ Hai lần được tung tích người cháu ruột. Anh này đã trở thành Tỉnh đội phó tại quê nhà. Năm lần bảy lượt anh ta lên Sài Gòn năn nỉ mợ về quê sống với gia đình anh. Nể tình ruột thịt mợ bùi ngùi chia tay mọi người. Nửa năm sau thình lình mợ Hai trở lại Sài Gòn khóc lóc kể khổ. Nghe đâu bà vợ dữ dằn và lũ con hư hỏng của đứa cháu ruột mợ hành hạ mợ ra trò. Chúng nuôi mợ như kẻ ăn, người ở trong nhà. Dì Thái thương cảm quyết nhập lại hộ khẩu cho mợ Hai nhưng không thành. Vị cháu kia thuộc hàng tai to mặt lớn hăm dọa dì Thái đủ kiểu. Mợ Hai biết mình đang làm phiền ân nhân nên bí mật bỏ trốn. Mợ đi đâu không rõ. Thỉnh thoảng dì Thái nghe phong phanh ai đó gặp mợ khi thì bán trái cây, trà đá dạo ở Bắc Cần Thơ, khi thì hành khất tại bến xe bến đò. Dì Thái khai thác triệt để mọi thông tin. Dì đi tới đi lui chỗ này chỗ kia nhiều bận nhưng chẳng bõ công.
Giữa tháng mười Phương nhập học. Đích thân dì Thái đi xin cho Phương vào lớp. Ngày hai lần dì đưa đón Phương tới trường trong hơn một tháng. Phương là học trò duy nhất nói giọng Bắc rặt nên cậu luôn bị châm chọc. Mới tìm được chỗ ngồi, hỏi han làm quen đứa bạn cạnh bên Phương đã giật mình khi cậu ấy hét toáng lên: "Thằng này là Bắc Kỳ tụi bay ơi". Năm bảy tên ngổ ngáo nhất loạt hát vang bài đồng dao phổ biến: "Bắc Kỳ ăn cá rô cây. Ăn nhằm lựu đạn chết cha Bắc Kỳ". Phương thờ ơ và lãnh đạm, phần vì cậu chưa hiểu hết ý nghĩa lời hát. Chúng bạn chùng giọng, hai ba đứa xúm lại xì xào rồi bắt nhịp bài mới: "Từ Bắc vô Nam tay cầm bó rau. Tay kia cầm sợi dây dắt theo con cầy...". Giai điệu nhịp nhàng, lạ tai làm Phương bật cười. Cũng may chỉ chút xíu sau cô giáo vào lớp lập lại yên tĩnh.
Dần dà Phương cũng rõ nội dung bài kích. Dì Thái khuyên cậu cứ bỏ ngoài tai, thực tình các bạn chẳng có ý gì xấu. Trẻ con với nhau làm gì biết thù ghét, phân biệt đối xử. Cuối năm chuyện chọc ghẹo hết hẳn. Gần như Phương đã nói giọng Nam tương đối.
Sự chia cắt đất nước trong suy nghĩ mới cay nghiệt làm sao. Dân tộc Việt Nam vừa quên đi sông Gianh thì gặp ngay Nam, Trung, Bắc Kỳ. Hai bờ sông Bến Hải đã liền dải thì giữa một tập thể, một gia đình còn đó chữ Ngụy - Ta, Nam - Bắc. Trong cơ cấu hành chính phải dung hòa ba miền. Lý lịch có trước sau 1954, trước sau 30.4.1975. Cha rồng mẹ tiên thấu hiểu điều này không? Hay như cách hài hước sâu sắc, người ta bảo cuộc ly thân đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam là lúc năm mươi con cùng cha xuống biển, năm mươi con theo mẹ lên rừng. Mong rằng trăm năm nữa, cái căn nặng nề sẽ được dỡ bỏ khỏi đôi vai gầy của bà mẹ Việt Nam đáng thương.
Thời cuộc bắt đầu ảnh hưởng mạnh tới đời sống gia đình. Dì Thái hiến hết số dư tài khoản ký thác ngân hàng cho ủy ban quân quản. Chắc dì bị sức ép của cha. Cũng có thể dì biết những qui định và giới hạn trong việc thanh lý tiền gởi, rút tiền mặt rất chặt chẽ dường như vượt quá sức dì. Hơn nữa, đồng tiền liên tục mất giá với tốc độ chóng mặt. Dì bán tống bán tháo các cơ sở làm ăn cũ và thu mình trong nhà. Dì dành phần lớn thời gian chăm sóc Phương. Lắm lúc Phương cũng không tự biết cậu đang dần xa cha mình. Điều đáng buồn cười là cả nhà phải giấu chuyện Phương bắt đầu học đàn dương cầm. Càng ngày cha càng ghét tiếng đàn. Một lần đang bực dọc, thấy dì Thái chơi đàn ông đã nổi giận.
Những nốt nhạc đầu tiên trong quyển sách "Phương pháp hoa hồng" hình như đã hẹn Phương từ thuở nào xa xăm lắm. Phương hết sức say mê. Cậu chăm chỉ tập và cũng cho dì Thái thấy mình có chút năng khiếu. Phương giữ mãi quyển sách vỡ lòng ấy như kỷ vật vô giá. Sách cũ, in khoảng năm 1940 tại Pháp. Anh Dũng mua tặng Phương ở vỉa hè khi biết dì bắt đầu cho Phương học đàn. Trang thứ nhất là dòng tiếng Pháp viết tay: "Tặng cho Hiếu - Ký tên - Ba Lê 9.1943". Vài chữ thôi mà Phương luôn cảm thấy bồi hồi mỗi lần đọc lại. Hiếu chắc chắn là con trẻ trong một gia đình khoa cử. Năm 1943 số lượng người học đàn dương cầm ở Việt Nam hẳn cực ít. Hơn ba mươi năm với bao biến cố, những người ấy còn hay mất, cố ý hay vô tình vì đời sống mà quên đi tiếng đàn. Họ bán sách do túng thiếu hay sách bị đánh cắp? Chẳng câu trả nào lời thuyết phục.
Anh Chung mang tiếng đi Kinh tế mới nhưng cũng không đến nỗi nào. Có lẽ người lãnh đạo ở đó biết cha Phương. Chung rất hay về phép. Bước vào nhà thăm hỏi mẹ, tắm rửa xong là anh ngồi lì tại sa lông đọc ngấu nghiến báo cũ. Cơm nước nhiều khi phải mang tận nơi cho anh. Chung luôn tránh mặt cha và từ dạo bị gởi lên rừng anh chưa bao giờ tranh luận với ông thêm lần nào. Anh học được cách thoái thác những câu hỏi hết sức tài tình:
- Con thấy tình hình trên ấy ra sao?
- Thưa ba chắc báo chí nói nhiều và tổng quát hơn con. Cuộc sống chúng con chẳng khác gì sự mô tả của nhiều bài báo.
- Ba biết con giận ba. Công tử có học mà sinh hoạt chung với ma cô, gái điếm, bụi đời sẽ nhiều bất tiện. Ba tin con sẽ vượt qua, đó là cửa ải đầu tiên để xóa bỏ khoảng cách giữa người với người.
- Dạ.
- Con hãy tự nhận xét sự phấn đấu của bản thân mình cho ba nghe đi.
- Thưa ba như vậy con sẽ chủ quan nhiều. Tuy nhiên con chẳng biết tổ chức nhận xét con ra sao, họ bí mật quá. Tốt hơn hết ba nên hỏi thăm các chú, các anh lãnh đạo.
Anh Chung trở nên bí hiểm với mọi người trừ Phương. Anh hay trò chuyện với Phương bằng giọng lưỡi hết sức mỉa mai nhưng hoàn toàn không cố ý. Thực ra anh muốn một người nghe để tự nói với chính mình. Lạ là Phương không thấy ác cảm khi theo dõi anh độc thoại. Phương không đủ khả năng quan tâm đến các vấn đề anh Chung đề cặp. Cậu nắm bắt cốt lõi vấn đề bằng thiện cảm.
- Bé con học hành ra sao?
- Cô giáo ở đây khác ngoài bắc nhiều. Bài học cũng thế. Em chẳng biết nói sao nữa.
- Sắp giống rồi, đừng lo. Rán mà trở thành trí thức em ạ. Con người hơn kém nhau ở sự hiểu biết.
- Sao anh không xin ba cho về sớm? Dì bảo trường anh đang chuẩn bị vào khóa mới.
- Anh thích sống trên rừng hơn. Bằng cấp ba có thể lo cho anh, còn tri thức thì mỗi người phải tự thân vận động.
- Dì nhớ anh lắm. Anh đừng lấy vợ và ở luôn trên đó nhé.
- Nếu lấy vợ thì anh sẽ về thành phố. Kinh tế mới tạo nên hàng vạn gia đình đầm ấm bên vỉa hè hoặc trong các khu ổ chuột hôi hám của hòn ngọc viễn đông.
- Ba nói tại họ lười lao động. Tuần trước công an đã phải đuổi hơn chục người ra khỏi mái hiên trước nhà mình. Ba giận dì lắm vì dì còn cho họ quần áo cũ nữa.
- Con ong xây cái tổ trên bản năng đúng đắn, trải qua sự chọn lọc tự nhiên với mục đích sinh tồn là tối thượng.
- Em chẳng thấy anh đi chơi. Bạn bè anh đâu hết rồi?
- Ra đường lúc này chán lắm. Đầu trên xóm dưới quân cảnh, công an đứng đầy. Họ toét còi dừng xe bảo anh này nên cắt tóc, chị kia phải mặc áo kín đáo hơn. Anh thích xem phim Liên Xô trên báo. Bạn bè anh đi săn cá mập ngoài biển Đông chưa về.
- Báo nói gì mà anh mê mẩn thế?
- Nhiều chứ. Này nhé ngay sau 30.4 ta đã thấy những con số vô hồn nhưng đầy thuyết phục: "Hàng triệu lính ngụy Sài Gòn bị tiêu diệt và rã ngũ, chiến lợi phẩm tính được hơn chục tỉ đô la".
- Em không hiểu ý anh. Em biết dì rất muốn anh về học tiếp, ba đang lưỡng lự.
- Nói thật anh chưa muốn về đâu. Đợi xong đợt học chính trị. Ngồi giữa rừng chim hót nghe khái niệm mới mẻ của thế kỷ mười chín hay hơn là bị nhốt trong rạp chiếu phim, ngột ngạt, tù túng, đầy dẫy chuột cống và rệp.
- Anh vui nhỉ.
- Kẻ lạc quan dễ sống hơn. Em yếu đuối và đa cảm quá, khổ suốt đời thôi.
- Sao anh lại nói vậy.
- Tránh xa chiếc đàn dương cầm đi.
Rồi anh Chung lại trở về thành phố với giảng đường. Anh vẫn học giỏi như xưa nhưng hết sức tai tiếng. Cả nhà chỉ biết điều đó vào một buổi tối nóng nực. Cha giận giữ đến nỗi không thể kiềm chế. Vừa đi làm về ông đã hét toáng lên:
- Bà gọi ngay thằng nghịch tử lại đây cho tôi.
- Tôi kêu nó liền. Nhưng xin ông đi rửa mặt trước. Chẳng lẽ không thể để đến sau bữa cơm hả ông.
- Tôi tức no rồi.
- Thưa ba…
- Mày muốn vào tù không?
- Con phạm tội gì?
- Trường lớp không giáo dục được mày thì nhà tù làm thay.
- Ông bình tĩnh nói rõ đầu đuôi cho con hiểu, như vậy tốt hơn không - Dì Thái van lơn.
- Nó cầm đầu bọn chống đối trong lớp, vào các giờ học bộ môn chính trị. Nó biện minh cho nền văn hóa nô dịch của ngụy quyền. Họ chưa làm gì vì biết tôi là cha nó.
- Thưa ba đó đơn thuần là học thuật. Chỉ có nền văn hóa hèn kém bị hòa lẫn, mất tích chứ không có khái niệm nô dịch. Một nhóm người riêng lẻ không thể đại diện cho cả dân tộc. Không sức mạnh nào nô dịch được văn hóa. Dù đầy dẫy biến tướng xu thời nhưng thành tựu của văn hóa hai mươi năm qua tại miền Nam vẫn là phần không thể chia rẽ của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó chứa đựng tinh túy và trí tuệ của nửa dân số Việt Nam. Hay khắt khe hơn, loại bỏ hết Mỹ Ngụy và bè lũ tay sai, cũng còn hơn phần tư. Chúng ta thắng Mỹ bằng chính cội rễ văn hiến ngàn đời. Gốc của vấn đề ở đó. Lịch sử nhân loại rành rành quá nhiều bằng chứng. Mông Cổ và Mãn Châu hung hãn, đô hộ nhiều thế hệ người Trung Hoa. Nhưng chính nền văn hóa tiêu biểu của các dân tộc Á đông này đã nuốt trọn lãnh thổ Mãn Châu quốc và hơn nửa Mông Cổ một cách thầm lặng, không nhân nhượng.
Cha Phương chết lặng, không kịp phản ứng trước lập luật của anh Chung. Hình như ông đang mông lung suy nghĩ vẩn vơ. Rồi ông chợt tỉnh. Mặt ông sạm lại, giọng vỡ ra tức tối:
- Mặc xác học thuật và miệng lưỡi của mày. Đây là lời cuối: Hãy câm mồm nếu mày muốn tiếp tục đi học.
Tối đó anh Chung không ngủ. Phương biết vậy vì sáng sớm lúc sắp đi học, cậu thấy anh đã ngồi ngoài ban công từ lúc nào. Cái gạt tàn cạnh anh đầy cán thuốc lá.
- Đừng buồn nữa nữa anh. Trưa về em mua thuốc thêm cho anh nhé. Dì bảo con cãi cha mẹ là bất hiếu đấy. Anh đừng làm ba giận nữa thì xong ngay.
- Bé ngoan lắm. Anh không phải đứa con bất hiếu vì anh chỉ tranh luận với ba thôi. Ba nóng tính quá.
- Ba là người chiến thắng. Không bao giờ ba hiền như ông sĩ quan Ngụy trong tranh biếm họa của Ớt đâu. Thằng bé cỡ em mà dám tiễn cha nó đi tập trung bằng câu nói "Chăm chỉ học tập nghe ba! Ba rán cải tạo để thành người cha tốt".
- Nè đừng lấy cái thứ "họ nhà Tôm" làm gương nha bé. Thôi đi học đi cưng.
- Họ nhà tôm là gì hả anh?
- À, tụi tôm nó đi giật lùi. Cơ quan bài tiết của nó nằm trên đầu. Người ta nói "lột đầu tôm" chứ có ai "mổ bụng tôm" bao giờ đâu.
Anh Chung lánh mặt cha cả tháng. Cha ở nhà là anh không bao giờ bước ra khỏi phòng riêng. Ban ngày vắng cha, anh vui vẻ và quan tâm đến mọi người khác thường. Anh chỉ Phương làm toán, kèm cặp Phương viết chữ cho đúng nét. Anh trò chuyện nhiều với anh Dũng. Đặc biệt anh rất hay ở bên dì Thái. Anh làm dì ngạc nhiên bởi dám xung phong đi xếp hàng mua nước mắm, dầu hôi, rồi lặt rau dưới nhà bếp. Anh chỉ từ chối khi dì khuyên anh làm lành với cha.
Anh có đến trường nhưng chẳng viết bài và cũng không chong đèn học khuya như trước.
3 - Dần...
Không khí gia đình trầm xuống, ẩn chứa sóng ngầm sau khi anh Chung đột nhiên mất tích một thời gian. Phương biết dì Thái và cha giận nhau nhưng không rõ nguyên cớ. Một buổi trưa cả nhà đang ăn cơm, cha xô cửa bước vào. Cạnh ông là anh Chung, đầu bị cạo trọc trắng hếu.
- Bà thấy đẹp mặt chưa?
- Con ơi là con - Dì Thái buông đũa khóc.
- Cái xã hội mà cha chú mày đã vào sinh ra tử tạo nên không có chút giá trị nào so với ma lực của đồng tiền xanh bên kia đại dương sao? Mày là hạt giống lép của mùa màng bội thu này. Kể từ nay đừng bao giờ gọi tao là cha nữa. Việc tao bảo lãnh mày ra khỏi chốn lao tù là thiện chí cuối cùng của tao.
Bất ngờ không kém sự trở về, anh Chung tình nguyện đăng lính. Dân Sài Gòn bắt đầu nơm nớp âu lo nghe tiếng đại bác vọng tới từ biên giới Tây Nam. Gương mặt cha dãn ra như vừa trút đi gánh nặng rất lớn. Ánh mắt dì Thái chùng xuống hơn bao giờ hết. Dì biết con cái đã trưởng thành, đã ra khỏi bàn tay chăm bẵm của dì. Ngày lên đường Chung yêu cầu không ai được theo anh ra phường đưa tiễn. Anh xoa đầu Phương, giọng nói tình cảm:
- Lại chiến tranh nhóc à. Hy vọng thế hệ của chú không phải khoác lên người nghiệp chướng binh đao. Trong chiến tranh kẻ thắng người thua là phụ, mất mát nơi con người và sự thụt lùi của xã hội là chính.
Loáng cái Khơ me đỏ bị quét đến tận bên trong biên giới Thái Lan. Xã hội hừng hực ngữ nghĩa mới, nào là diệt chủng, bành trướng và "đôi mắt mang hình viên đạn!". Báo chí ngoài mục đích tuyên truyền đã tôi luyện thêm khả năng chửi rủa. Chửi tất tần tật những thứ của kẻ thù. Không hiểu sao Phương cứ láng máng, không thể quên một bài xã luận chơi chữ có kèm tranh minh họa về chiếc "Tiểu bình" vỡ tung ra vì cố gắng nhồi nhét "Bốn hiện đại hoá".
- Chửi vậy là thường, sớm muộn sẽ tự ngượng mồm. Người Tàu dễ dàng dịch chữ "bá quyền" và "bành trướng" của ta một cách văn hoa là "Từ thuở mang gươm đi mở cõi" - Thầy giáo dạy văn của Phương hỏi thêm - Cả lớp biết tại sao Nguyễn Trãi viết Bình Ngô chứ không phải Bình Minh Đại cáo không?
Chẳng đợi học trò suy nghĩ thầy tự trả lời luôn:
- Này nhé, Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương người đất Ngô. Chửi thâm nho nhất là réo tên tông tộc người ta mà bêu.
Anh Dũng ra trường, cưới vợ và đi làm giữa thời buổi bo bo, mì sợi. Có thêm chị dâu nhưng Phương vẫn thấy ngôi nhà chẳng hề bớt lạnh. Chị Linh vợ anh là xã viên hợp tác xã dệt thảm len. Tính chị bặt thiệp và anh Dũng ít nói nên gia đình thiếu hẳn tiếng cười. Ngoài giờ đi học, nếu không tập đàn hoặc ôn bài, Phương lang thang khắp phòng trong, sân ngoài. Hơn năm năm không bảo dưỡng, căn nhà đang xuống cấp trông thấy. Các bồn hoa bên cửa sổ xác xơ, loang đầy cỏ dại. Mảnh sân rộng thu hẹp dần với những luống rau tươi, thậm chí có lúc còn được ngăn lại làm chuồng heo hoặc đào vét trữ nước nuôi cá trê phi. Vài nơi lớp vôi cũ lộ ra làm bức tường có vẻ sáng sủa hơn. Nhiều khi Phương ngồi cả giờ đồng hồ ngắm các hình thù ngẫu nhiên trên vách một cách say mê. Tâm trạng khác nhau qui định trí tưởng tượng không đồng nhất trên cùng một thể thức. Đường cong ngẫu nhiên khi là bóng mẹ hiền, lúc là chiếc áo choàng đen phù thủy. Có thể đây là chìa khóa lý giải sự định hình tâm lý của Phương sau này. Nỗi cô độc từ bé khiến tinh chất ngây thơ của cậu không bao giờ mất đi hoặc biến chuyển phù hợp với hoàn cảnh. Trải qua càng nhiều khúc quanh, Phương lại khao khát một chân trời ổn định, bình lặng mang dáng vẻ cầu toàn. Hoặc trái ngược hẳn, đó là nỗi hoài nghi dẳng dai. Càng hướng tới những giá trị tuyệt đối, Phương càng dễ tổn thương. Cậu bị ám ảnh bởi nhiều chân lý rạch ròi, minh bạch chỉ có trong truyện cổ tích.
Kinh tế sa sút thảm hại, dì Thái bắt buộc phải lén cha nhận những thùng hàng chị Dung gởi về mới mong cả nhà đủ cơm ăn, áo mặc. Nỗi lo dì dành hết cho anh Chung ngoài mặt trận. Để gác qua phiền muộn, dì dồn nhiều thời gian của mình cho Phương. Một sáng Phương đang trả bài bên chiếc Dương cầm, tiếng chuông gọi cửa bỗng dồn dập.
- Má ơi con đã về! - Anh Chung nghẹn lời.
- Trời đất! Con có thương tích gì không? Dì Thái vội vàng cởi chiếc áo sơ mi của anh Chung và gục mặt vào mấy vết sẹo ngang dọc còn hồng màu da non.
- Số con cao lắm má à. Con cần má giúp đỡ.
- Lại xảy ra chuyện gì sao con?
- Má cho con xin năm cây vàng. Con muốn ra đi.
- Trời ơi… Ba con mà biết thì…
- Do đó con cần đi liền. Con không thể bỏ xác tại những cánh rừng nhiệt đới bên kia biên giới. Nhiệm vụ con đã hoàn thành. Con không có cơ hội sống sót trong tương lai. Những bẫy mìn, những trận phục kích triền miên. Con vừa thoát chết trong gang tấc. Để hỗ trợ quân bản xứ, trung đoàn trưởng xếp tân binh người ta sau đội hình tiến công. Bọn nó đồng ngôn ngữ nên đã liên lạc vô tuyến và cùng nổ súng. Con là một trong tám kẻ trở về được hậu cứ, thương tích đầy người.Má ơi, cái quí nhất con có lúc này là sinh mạng chính mình. Hơn ai hết má biết con chưa bao giờ đạo đức giả. Con đâu biết mình sẽ làm được gì nay mai, nhưng má hãy tin con không chấp nhận kiếp sống thừa. Con sẽ tạ lỗi với ba sau. Con chẳng nỡ oán ghét ba đâu má à.
Dì Thái biết anh Chung đã dứt khoát. Dì đưa anh hai chiếc nhẫn kim cương và dặn Phương giữ kín việc anh vừa ghé qua nhà. Chung khóc. Anh ôm chặt mẹ mình và cả Phương vào lòng:
- Tổ quốc bắt đầu từ ruột thịt. Con nhớ ba má và anh em nhiều lắm. Rồi con cố tìm chị Dung. Ba má ở lại mạnh giỏi. Hãy luôn làm vui lòng ba và mọi người Phương nhé.
Chung vượt biển trót lọt trong khi cha cứ ngỡ anh mất tích, bỏ xác xứ người.
Đến đận đổi tiền năm 1985, dì Thái khánh kiệt hẳn. Cha Phương không chút quan tâm đến kinh tế gia đình. Tư tưởng và nỗi lo vĩ mô tạo cho ông vẻ vô tư trước khó khăn gia đình chồng chất. Hằng tháng ông đưa dì Thái gần hết số tiền lương hụt trước thiếu sau, chỉ để lại vài đồng tiêu vặt. Vợ chồng anh Dũng là nhân viên nhà nước, lại mới sinh bé Thịnh nên cũng lờ đi khoản đóng góp chung. Qui định giới hạn trọng lượng và số lượng các thùng hàng từ Mỹ gởi về tiếp tế hằng năm cho từng tờ hộ khẩu làm dì Thái lâm vào cảnh túng bấn thường xuyên. Của chìm dì tích cóp cả đời vẻn vẹn còn lại ngôi nhà bề thế và rỗng tuếch. Cái gì không cần thiết trước mắt dì đã bán hết, trừ chiếc đàn dương cầm hiệu Yamaha.
- Cải cách "Giá, Lương, Tiền" sắp thành công, bà chớ rầu cho nặng óc. Chỉ năm sau thôi, khi mọi việc ổn định chúng ta sẽ được nhà nước đài thọ hoàn toàn các nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế tiểu tư nhân trở lên hết đường sống. Sức sản xuất toàn xã hội sẽ hồi phục. Lúc ấy đồng tiền, nỗi ô nhục sót lại của chủ nghĩa tư bản sẽ trở thành giấy lộn - Cha phán như vậy khi dì Thái đề cặp đến khó khăn.
"Tình cảm có nằm trong những nỗi ô nhục đó không nhỉ?" - Phương tự nhủ. Không thể nói cậu đã lây một cách vô ý thức lý sự "cùn" của anh Chung. Trí não bắt đầu trưởng thành của Phương nhận thấy rõ lỗ hổng quá lớn giữa thực tế và các luận điểm thời sự. Phương đã không cầm được nước mắt trong đám tang của bà ngoại cậu bạn chung lớp. Người bà ấy về quê thăm con. Quà bà nhận được từ vựa lúa Cửu Long là bọc gạo hẩm của một mùa đói kém vì thiên tai, hạn hán và sâu bệnh. Dăm ký gạo quá lớn với những cái bụng lép kẹp của con cháu bà nơi đô thành. Và còn lớn hơn nữa khi món quà tình cảm nhỏ nhoi này bị qui là vật chứng của tội gian thương trước trạm kiểm soát thị trường. Quá uất ức, trong cơn quẫn trí bà đã lao đầu vào bánh xe tải.
Phương học hành dưới mái trường hoàn toàn khác xa anh Chung nên cậu không mạnh miệng như anh. Đó là kiểu học thuộc lòng sơ sài, và sẵn sàng bóp chết sự tìm tòi. Chẳng hạn về phong trào Tây Sơn, Phương thắc mắc tại sao mấy anh em nhà Nguyễn chia rẽ rồi một nước có đến hai ba vua! Vì mục đích thật sự nào mà các vị nỡ bỏ cả họ thật của mình. Họ sáng tạo ra môn võ nổi tiếng toàn miếng hiểm chết người dựa trên Thiếu Lâm của Trung Hoa. Võ này tuyệt dụng với ngoại xâm nhưng chắc chắn là con dao hai lưỡi cho xung đột nội tộc. Giáo viên lịch sử dẹp ngay trò táy máy của Phương bằng ô điểm hai trong sổ cái. Thầy đã bực từ lúc Phương cắc cớ: Trong sách không nói rõ về giai đoạn lập quốc triều Nguyễn. Thông thường các vua Thái Tổ phải là người tài giỏi mới chiếm được lòng dân, khôi phục thái bình, xóa bỏ binh đao, bất công và sâu mọt cũ. Dù con cháu Gia Long bạc nhược dâng non sông cho Lang Sa, đó đâu phải lỗi của tổng công trình sư cố đô Huế, kỳ quan vô nhị của dân tộc.
Cuối cùng ngọn gió lành cũng tới. Phương không hiểu thế nào là bó buộc nhưng hiệu quả của việc cởi trói và mở cửa diễn ra không lâu sau đó, tác động sâu rộng đến đời sống dân chúng một cách tích cực. Cha Phương đột ngột bị hưu non có lẽ là dấu ấn tiêu cực của cải cách theo góc độ chủ quan của người trong cuộc. Ông bất ngờ và hết sức bị động. Ông giam mình trong nhà mấy tháng trời đến nỗi đổ bệnh. Ông dường như cấm khẩu và vật vờ bên chiếc bóng xiêu vẹo. Mặc kệ mọi người, ông bè bạn với tiếng thở dài nén kín tận đáy lòng.
Ai cũng tỏ ra thông cảm với ông. Đây là lần đầu tiên trong đời Phương có khoảng thời gian khá dài được ở bên cha, không gián đoạn. Phương biết cha chẳng ưa tiếng đàn dương cầm. Dù là bài tập đứt đoạn, câu luyện ngón đơn điệu hay vài bản nhạc nằm lòng điệu nghệ, đều làm ông nhức đầu. Phương không chút đắn đo, đồng ý bán cây đàn theo lời khuyên của dì Thái.
Vậy mà người khó cầm lòng lại là dì. Dì treo giá rất cao, vài vị khách lè lưỡi. Khi quý bà xồn xồn tự giới thiệu là phu nhân của gã thủy thủ viễn dương nào đó chẳng thèm cò kè, toan mở hầu bao thì dì lắc đầu. Dì thả người xuống trường kỷ. Mắt dì rướm nước. Bà khách có nét mặt đanh đá lủi thủi ra về. Phương án anh Dũng đưa ra là tối ưu. Hai anh em đẩy chiếc đàn vào gầm cầu thang, nơi chứa đồ cũ và lấy đinh phong chặt hai cánh cửa nhỏ.
Hơn chục năm sau Phương bị tình cảm mà dì Thái từng dành cho cây đàn lay động, khi anh tìm mua cho mình một chiếc đàn cũ. Những người bán đàn Phương gặp, tất thảy do hoàn cảnh khó khăn, đành đoạn rời xa âm nhạc. Gương mặt họ và gia cảnh hiện ra xung quanh luôn u buồn và đáng thương. Phương thường không dám trả giá dù anh chưa dư dả. Anh chỉ bám vào chất lượng của đàn để đi đến quyết định cuối cùng. Phương sợ vô tình mang đến cho họ sự thua thiệt mà họ đã có thừa.
Cải cách cũng đem lại vận hội mới cho vợ chồng anh Dũng. Chị Linh nghỉ việc nhà nước, hùm hạp mở tổ hợp may mặc. Chị thuyết phục dì Thái đưa chị giấy tờ ngôi nhà để vay vốn và trưng dụng phần lớn diện tích tầng trệt làm xưởng và văn phòng. Công việc mở màn trôi chảy, mức sống gia đình được nâng lên hằng ngày. Đến lúc này dì Thái mới dám nói thật cho cha Phương biết về anh Chung và tình hình hai chị em ở California. Niềm vui không tày gang. Cha đang ngày ngày dõi theo những bước chân dè dặt của Việt kiều về thăm quê thì phát hiện mình bị ung thư vòm họng ác tính.
Cha Phương nhập viện dành cho những người như ông. Dịch vụ y tế miễn phí ở đây khác xa đa số nơi khác. Không bao giờ có cảnh hàng đoàn người chầu chực trước phòng khám. Khuôn mặt tái nhợt của đội quân bán máu chuyên nghiệp khó tìm thấy cơ hội hiện diện. Không có các góc dơ bẩn, dành cho những người nông dân mặc áo bà ba dúm dó kê vài cục gạch nấu cơm, nấu mì gói. Không khí tuyệt đối yên tĩnh. Sân vườn thoáng mát, vắng vẻ. Giờ cơm người nhà bệnh nhân lục tục gói nhỏ, xách to chứa đầy thực phẩm bổ dưỡng tiến vào. Bác sĩ, y tá, hộ lý luôn nhẹ nhàng, lễ phép dạ thưa. Nút chuông màu đỏ trên đầu giường được nhấn là lập tức hai ba chiếc áo trắng sẽ xuất hiện, đáp ứng mọi đề xuất dù nhỏ nhất, không kể giờ giấc.
Hai tháng điều trị không kết quả, cha biết khó qua khỏi nên muốn về nhà trăn trối. Những ngày cuối đời của ông tù túng và chật chội trong căn phòng đơn sơ cuối ngôi biệt thự ồn ào. Ban đầu ông còn khó nhọc thốt được vài lời, sau thì tắt tiếng hẳn. Phương mới vào lớp mười hai, ngoài giờ học anh luôn ở bên cha cùng dì Thái. Cả hai người chớ nề hà trong việc chăm sóc ông. Mỗi ngày không dưới vài lần ông phún ra hàng đống đờm rãi, máu mủ. Phương chưa bao giờ thấy dì nhăn mặt, chun mũi ghê sợ. Dì nhẹ nhàng chiều chuộng ông mọi bề. Cha không nói được, ánh mắt ông xa vắng và hiền từ vô hạn trong khi dì Thái từ tốn ôn lại bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ. Lạ thay, dì không biết ái ngại trước mặt Phương. Có lẽ trong tâm khảm dì, Phương là đứa con mang nặng đẻ đau của dì chứ không phải kết quả của sự thủy chung nửa vời nơi chồng mình. Anh Dũng, chị Linh và cháu bé thi thoảng mới đảo qua vấn an cha. Họ đang bạc mặt với công nợ và thường trực trong căng thẳng.
Phút lâm chung của cha, may mắn toàn bộ con cháu kịp về. Anh Chung trở thành kẻ yếu đuối nhất. Vừa bước vào anh đã đổ sụp xuống bên ông và khóc rống lên. Mọi người nước mắt lưng tròng như phản xạ dây chuyền, chỉ trừ chị Dung. Chị đến bên giường, khẽ nắm tay cha và chăm chú nhìn vào mắt ông. Phương không tin chị vô cảm. Chị không có tình thân với cha vì cha con xa cách quá lâu. Thẳm sâu trong cái nhìn của chị là nỗi niềm ruột thịt, là lòng cảm thương vô hạn và sự nuối tiếc tháng năm ngăn trở phi lý. Chị chỉ chảy nước mắt khi chồng chị bắt đầu vuốt mắt cho cha, giữa lúc chín mười con người xung quanh cảm thấy hụt hẫng, mất hết phương hướng. Họ cắn những đôi môi mằn mặn mà thốt lên ông ơi, cha ơi… anh ơi…
Vài phút trước khi cha ra đi, dì Thái cố đọc những gì cha muốn nói qua ánh mắt. Thật lạ lùng, ông mong trút hơi thở cuối cùng trong tiếng dương cầm.
Anh Dũng và Phương chạy vội lên văn phòng cơ sở may mặc. Chiếc két sắt được dịch ra. Họ phá tung hai cánh cửa nhỏ chỗ hầm cầu thang. Bốn người nữa xắn tay áo xốc vào vần khối gỗ và sắt nặng hơn hai trăm ký đến cuối giường bệnh. Nét thỏa mãn phủ tràn khuôn mặt cha dù lúc đó thân thể ông đã héo hon, tàn tạ như chiếc lá thu vật vờ trong ngọn gió tử thần.
Bên chiếc đàn ai cũng chựng lại. Lâu rồi Phương chẳng đụng đến một nút phím, dì Thái cũng thế. Những ngón tay chắc chắn sẽ cứng đờ trong các giai điệu tinh tế, mượt mà và uyển chuyển. Đôi mắt cha lờ đờ chờ đợi. Mọi người ái ngại. Cuối cùng chị Dung thì thào một tràng tiếng Anh với con mình. Đứa bé mười mấy tuổi ngơ ngác và hoàn toàn bị động ngồi vào đàn. Nó run rẩy ướm tay và rải hợp âm đầu tiên, bản "Con thiên nga" của Camille Saint Saens. Chiếc đàn mốc meo bám hàng lớp bụi dầy, lỗ chỗ vết mọt xông. Bộ dây đã rỉ sét gần hết, lạc giọng không đều. Tác phẩm chỉ là những ý chủ đạo, đơn giản hóa để phù hợp với bàn tay tuổi nhi đồng. Lạ lùng thay, chính trong sự méo mó của chuẩn mực, bản nhạc vang lên không chút xa lạ. Bè trầm là ngọn lửa hoành tráng, âm ỉ thiêu đốt thời gian. Lời ca dung dị nhưng day dứt cứ vút lên mạch lạc, xoáy vào định mệnh khắc nghiệt nỗi hoài vọng khôn nguôi, bừng tỏ ý chí tồn tại và cả sự tiếc nuối tháng ngày xa xăm mịt mù.
Cha Phương tắt thở khi thanh âm đang chùng xuống và dãn ra để đi vào đoạn kết. Hơn một lời trăn trối, âm nhạc đã nói hộ ông tất cả. Ông trở về hư không sau hơn nửa đời xa lánh tiếng nhạc, thậm chí còn kết tội nó nữa.
Tổ hợp sản xuất của chị Linh trờ tới bờ vực phá sản. Không khí tang tóc trong nhà sau khi cha Phương mất lại thêm phần não nề.
Nhiều người vẫn còn trách chị Linh nhưng Phương thì không. Anh hiểu chị dấn thân vào thương trường với khát khao dẫm lên lạc hậu, đói nghèo và tụt hậu đã hành hạ toàn xã hội lâu nay. Tuy nhiên điểm tựa cất cánh của chị không được vững chãi.
Cha mẹ chị mấy đời là tá điền bán lưng cho trời bán mặt cho đất. Họ đều hy sinh trong phong trào đồng khởi. Giữa những năm 1960 chị được gởi ra bắc học trường học sinh miền nam. Chị tốt nghiệp phổ thông và trở về Sài Gòn ngay trong năm 1975 vì nỗi nhớ quê và tự thấy kiến thức như vậy đã đủ. Chị là công nhân gương mẫu, lao động điển hình với danh hiệu “Bàn tay vàng” mấy năm liền. Trong kỳ báo cáo thành tích nọ, chị lọt vào mắt cha và mau chóng trở thành chị dâu Phương.
Thời điểm xuất khẩu hết món ngon vật lạ của đất nước sang Đông Âu, chị nghe lời bè bạn đang lao động hợp tác bên Nga mở xưởng may. Khởi sự trôi chảy, hàng tháng một hai container hàng đều đặn tới bến và việc chi trả luôn sòng phẳng. Chị ráo riết mở rộng sản xuất và còn góp vốn vào mô hình hợp tác xã tín dụng nhiều thành phần. Tiền chưa phải là yếu tố cần và đủ cho sự thành công trong kinh doanh giữa bối cảnh lạm phát không thể kiểm soát. Chị bị đòn choáng váng khi hàng chục tổ chức buôn tiền đầu voi đuôi chuột lộ nguyên hình lừa đảo. Số dư nợ chị gởi gắm nơi bạn bè ở xứ Perestroika lên đến hàng chục container cũng biệt tích luôn.
Chị Linh và anh Dũng ra hầu toà. Án sơ thẩm chiếu cố nhân thân và cái tang chưa xanh cỏ của cha họ. Thẩm phán quyết định tịch thu toàn bộ tài sản của cơ sở kể cả ngôi biệt thự đứng tên dì Thái.
Dì Thái chết điếng dẫn đến bệnh tâm thần. Dì nằm trên giường bệnh thì không sao. Nếu bước ra ngoài, cứ nhìn mấy tờ giấy niêm phong tài sản loằng ngoằng chữ ký và mộc đỏ thì dì lại rú lên điên dại, tự cào cấu mặt mũi, bứt tóc bứt tai. Phương phải bỏ học, bỏ luôn kỳ thi tốt nghiệp phổ thông để ở cạnh dì. Anh Dũng đưa dì vào bệnh viện chuyên khoa. Được mấy ngày dì không những không bớt mà còn nặng thêm. Người dì trầy xước, da thịt bầm tím vì bị đòn. Phương thương dì quá nên xin cho dì về. Từ đó trở đi chỉ mình Phương mới có thể làm dì tĩnh trí sau mỗi lần lên cơn. Anh Dũng hay chị Linh đưa thuốc cho dì uống hay đút cơm cháo, dì gạt ra và ném thuốc đi hoặc đập vỡ hết chén bát.
Dì sợ ánh sáng. Ban ngày cửa nẻo phải khép kín. Dì ngồi như bóng ma, miệng hoảng hốt lảm nhảm đủ thứ, đôi mắt trợn tròn hướng ra các khe hở. Chẳng biết dì nói gì. Trong đêm dì gần như không ngủ. Ban đầu thuốc an thần còn tác dụng. Sau bốn tuần thì dì uống bao nhiêu thuốc cũng chẳng chợp mắt được. Phương kê ghế bố ngoài cửa phòng và thường trực trông chừng dì. Một hai lần Phương tỉnh dậy bởi bàn tay vuốt ve dịu dàng của dì trên mặt anh. Khuya. Tranh tối tranh sáng. Đôi mắt dì đẹp lắm. Buồn vô độ.
Dì suy sụp nhanh khủng khiếp. Đoạn cuối dì chẳng ăn uống gì, người gầy tọp, da bọc xương. Còn vài ngày tới phiên tòa phúc thẩm, dì trút hơi tàn. Dì ra đi âm thầm trong bóng đêm. Cô độc và lạnh lẽo.
Phương về ở với gia đình anh Dũng. Họ mua một căn hộ nhỏ trong tòa chung cư xuống cấp và hôi thối ven kênh Nhiêu Lộc bằng phần lớn số tiền khách phúng điếu người mẹ quá cố.
Anh Chung chịu tang mẹ trễ mất mấy tháng. Cũng tại anh Dũng không dám nói bệnh tình của dì cho chị Dung và anh Chung biết. Dì mất đột ngột, không ai chuẩn bị kịp. Anh Chung dành cho anh Dũng và chị Linh sự im lặng nặng nề. Không có lời qua tiếng lại hoặc trách móc.
- Em vừa kể mọi thứ cho chị Dung rõ qua điện thoại. Chuyện đã rồi nên xếp lại. Chị Dung và em thống nhất là anh chị cũng như em Phương cần một chỗ dung thân khá hơn.
- Cám ơn chú, anh thấy thế này là ổn rồi.
- Anh hãy đứng lên ngay chỗ mình vấp ngã. Số tiền em dự trù anh chị dư mua một căn nhà trong hẻm rộng. Còn lại anh chị coi buôn bán cái gì an toàn thì làm. Theo ý em thị trường đất đai sẽ sớm tăng nhiệt. Rán chịu khó, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ chuộc được ngôi nhà cũ.
- Tấm lòng hai người rất đáng quí. Anh gượng lên rồi đó thôi. Chị Linh đang phụ bạn bè đứng bán ở cửa hàng quần áo may sẵn. Anh trở về với ống nghe, toa thuốc. Nghèo mà sạch chú ạ. Phương ở đây không đói đâu mà chú sợ, ít ra đến khi nó học xong đại học. Hãy hiểu cho anh.
- Anh tự ti từ lúc nào vậy.
- Anh cảnh giác với đồng tiền thì đúng hơn. Nó có sức tàn phá ghê gớm, không tưởng tượng nổi. Chị Linh cũng nghiệm ra điều này sau lần tự vẫn không thành. Ý em ra sao hả Phương?
- Em vẫn vừa học vừa làm, phụ được anh chị tới đâu hay tới đó. Anh Chung mới qua Mỹ không lâu, cuộc sống ắt khó khăn muôn bề. Lòng tốt của anh em cám ơn nhiều lắm. Anh em mình không hiểu nhau thì còn mong hiểu ai nữa.
Chung không nài ép thêm, anh trở về California với lớp học và công việc làm thêm đặc kín thời gian biểu. Anh từng tỏ bày với Phương:
- Anh mừng bởi ba anh em chúng ta có một điểm chung rất quí. Chị Dung bao nhiêu lần nổi giận vì khái tính của anh. Lý ra cứ học một lèo thì anh ra trường rồi. Anh tự nuôi mình sau khi đến Mỹ ba tháng. Mấy bận phải bấm bụng buông lớp vì kiệt sức.
- Anh là tấm gương của em.
- Nước Mỹ thực dụng và quá sòng phẳng. Chẳng biết anh có sống đời ở đó được không. Hy vọng sẽ quen dần.
- Học xong, tích lũy chút đỉnh anh về đây em thủ cho một chị dâu hết ý.
- Anh không thể yêu những cô gái loại đó. Bao tấn bi kịch sờ sờ trước mắt luôn làm anh lạnh gáy. Kết hôn là con đường xuất ngoại của đa số người, bất chấp tất cả. Đừng lên án Việt kiều đểu giả. Đi với ma mặc áo giấy. Những cuộc trao đổi không ít thì nhiều, phải mang sự lật lọng như bùa chú phòng thân.
Anh Dũng quyết định đi lao động hợp tác bên đông Âu. Căn hộ hoang vắng rợn người. Chị Linh héo hon, ăn dè mặc vụng. Tiền bạc đã gom hết cho cuộc tha phương cầu thực của chồng. Cu Thịnh lớn nhanh như thổi, suốt ngày ghép vần thư bố.
Vài tháng sau anh Dũng bắt đầu gởi hàng về. Toàn đồ gia dụng và thực phẩm bình thường nhưng rất giá trị. Một gói bột ngọt đổi được cả tháng gạo cho cả nhà. Chị Linh hồng hào trở lại. Một ngày chị em, chú cháu chỉ gặp nhau trao đổi mấy lời vào sáng sớm. Phương thường về nhà từ chín giờ tối trở đi với chìa khóa riêng. Đặt lưng xuống giường là anh chẳng còn biết trời trăng mây nước gì nữa.
- Hồi khuya chú mơ gì mà cứ nói lảm nhảm một mình.
- Chắc tại em áy náy không hiểu mình phải xử sự ra sao.
- Có cần ý kiến của chị không?
- Một lời giải thích để em an lòng, đỡ lo cho anh Dũng là tốt lắm rồi.
- Chú cứ vòng vo mãi.
- Chẳng là tối qua em thấy chị.
Mặt chị Linh đỏ dần lên. Rõ ràng mấy lần Phương nhận ra chị và tay Bạch "Nga ngố" sánh vai bước vô nhà hàng Brodard trên đường Đồng Khởi. Bạch là 50% nguyên nhân phá sản của tổ hợp may mặc dạo trước.
- Bạch xin lỗi gia đình chúng ta. Hắn cũng là nạn nhân. Bọn đầu trọc Nga tấn công đoàn xe chở hàng, bắn hạ hai người áp tải rồi cướp sạch.
- Chuyện cũ chị đừng để ảnh hưởng tới anh Dũng và tương lai cháu Thịnh. Tình hình bất ổn bên kia có lẽ anh cũng sớm về thôi. Hai ba nhóm công nhân bị thải hồi trước thời hạn vừa về tới Việt Nam đó chị à.
- Cảm ơn em đã hiểu chị.
Chị Linh chắc chắn là con người có lòng tự trọng cao. Hàng chục năm sau Phương vẫn thấy ánh mắt ngại ngùng của chị mỗi khi hai người có dịp đối diện trò chuyện. Phương và anh Dũng liên lạc thư từ rất thường xuyên. Chưa bao giờ Phương hé môi về vấn đề này.
Đúng như dự đoán. Xã hội Đông Au hỗn loạn, công nhân xuất khẩu lũ lượt kéo về. Anh Dũng được đền bù mấy ngàn Đức mã. Anh lại khoác lên mình chiếc áo trắng bác sĩ. Chị Linh tùng tiệm chi tiêu buôn bán trên số vốn kia. Bài học cũ giúp chị vững bước hướng tới ngày sung túc.
Hơn hai năm xa cách nhưng Phương thấy anh Dũng gần gũi hơn bao giờ hết. Anh viết thư cho Phương rất đều. Qua đó Phương hiểu thêm nhiều vấn đề.
Đông Đức ngày … tháng … năm …
Phương em,
Đầu thư anh gởi em lời hỏi thăm sức khỏe. Anh biết ơn em rất nhiều. Giờ đây em là chỗ dựa tinh thần cho hai mẹ con Linh. Đọc thư cháu Thịnh anh thấy nó quí em còn hơn cả anh, anh mừng lắm.
Nghĩ đi nghĩ lại, anh rất tắc trách với em. Anh em mình ít khi tâm sự với nhau chẳng phải anh xa lánh em. Bản tính anh ít nói, lắm khi chị Linh còn nổi quạu.
Em không kết tội anh và chị Linh gây nên cảnh cùng quẫn cho gia đình, dẫn đến cái chết của dì. Anh mang ơn em. Tuy nhiên anh vẫn nghĩ hành động của em không bình thường nhưng hoàn toàn dễ hiểu. Ba không chiều chuộng, mẹ mất sớm, em tự đặt mình là kẻ ở trọ trong nhà. Em chưa hiểu dì và các anh chị đâu Phương ạ.
Từ nay trở đi anh sẽ viết thư cho em thường xuyên. Anh dùng ngôn ngữ đắn đo bên cây bút, tờ giấy để tỏ tường suy tư, thay cho lời nói.
Thời gian của anh quá nhiều. Anh không có khả năng chịu trận như bè bạn. Buông công việc ra là họ lùng sục khắp nơi, xếp hàng mua cái này bán cái nọ. Anh giận mình đã tự học tiếng Đức trước khi qua đây. Dùng ít nhưng nghe chửi thì nhiều. Người ta gọi mình là dân đầu đen thô tục. Tinh thần đoàn kết vô sản chỉ là mồm mép.
Mấy quyển sách triết học cũ em tặng anh thế mà hữu dụng. Anh đọc nó hằng ngày, đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc lại sáng ra một chút. Anh bỗng thương em vô hạn. Mười mấy tuổi đầu em lọ mọ tìm hiểu minh triết. Người ta chỉ thích lý lẽ cuối con đường hạnh phúc chông gai, khi mọi cánh cửa đã khép kín. Tôn giáo là thứ hạnh phúc thụ động và yếm thế. Tôn giáo cuốn hút hơn triết học bởi nó là thành trì vững chắc cuối cùng của sự thiểu tuệ và ươn hèn. Em không bị ru ngủ trong tôn giáo là điều hay. Vượt qua vách núi cheo leo, nơi các triết gia tọa tưởng em sẽ tìm được thung lũng thanh bình của lòng nhân ái đã biệt tích.
Ký tên: anh Dũng.
Tái bút: anh Mạnh, người bạn chung phòng để lại cho anh hai chiếc xe Mifa. Anh bỏ luôn vào thùng hàng của anh ta gởi về. Em nhắn chị Linh, khoảng 1 tháng nữa qua nhà Mạnh nhận xe.
Đông Đức ngày … tháng … năm …
Cả tuần nay anh bận tối mũi.
Thứ hai, mười mấy người trong cư xá bị một băng đầu trọc hành hung bưu đầu sứt trán. Hàng mới mua ra bị cướp phá sạch.
Thứ tư, toán công nhân Việt Nam bên nhà máy xe lửa qua đây giải quyết mâu thuẫn công nợ bằng gậy gộc và cả súng ngắn. Một cậu quê miền Trung bỏ mạng. Cảnh sát nghe báo nhưng tảng lờ. Chúng nói mặc kệ lũ đầu đen, luật pháp của chúng là để bảo vệ người bản xứ. Các quan bên Đại sứ quán sang hò hét lên lớp cả buổi rồi cũng bỏ về.
Thứ năm xưởng nấu rượu lậu trên tầng sáu bị phát hiện khi thả dây bán một chai cho thằng bé 17 tuổi. Họ bao vây cư xá và khám xét. Ba người bị trục xuất, mấy kho hàng bị tịch thu. Họ kết tội mình tích trữ hàng cấm và buôn lậu.
Thực ra chị Linh cũng rất áy náy khi anh lên đường sang đây. Nếu anh không đi thì Linh cũng phải đi. Thân gái dặm trường sao nỡ hả em. Cảnh nhà túng thiếu, cu Thịnh còi cọc, lương bổng của anh có cũng như không. Anh không thể ngó lơ khi nhìn vợ làm tôi đòi cho bè bạn cùng trang lứa, ngày ngày khom lưng chạy chợ từng bữa.
Anh không lọc lõi bán buôn nhưng luôn tiết kiệm từng đồng gởi về cho mẹ con Linh. Đọc thư em thấy tràn trề nhựa sống và nỗ lực vươn lên mạnh mẽ anh vui khôn tả.
Chị Dung và Chung vừa điện thoại cho anh. Anh chỉ đề cặp sơ sơ tình hình chúng ta cho họ yên lòng. Chị Dung thân gái dâu con, tuy khá giả nhưng đừng để chị phải bận tâm, lao lực cho lũ con trai họ Vương. Nhà chồng chị nói ra nói vào thì chẳng tốt cho hương hồn cha mẹ chúng ta tí nào.
Chung còn khó khăn dài dài. Ngoài giờ học Chung làm đủ nghề như rửa xe, nhân công trại mộc. Tất cả đều làm chui, không bảo hiểm y tế xã hội gì sất. Như vậy lương cao hơn tí chút. May mà trai tráng ít khi đau ốm bệnh tật nhưng nếu mất việc thì không khéo đói vì chẳng có trợ cấp thất nghiệp.
Hai người thương em lắm Phương à. Họ đề xuất ý kiến lo cho em qua đây rồi trốn sang Tây Đức. Họ sẽ xin tị nạn cho em tại Mỹ. Ở nhà học hành không phải không tốt nhưng thời buổi thầy hèn hơn thợ, tương lai mù mờ. Em nhớ cho anh biết ý kiến.
Có rất nhiều chuyện gia đình ta mà em chưa tỏ tường. Bây giờ em đã lớn, đã đủ hiểu biết anh không muốn dấu em nữa. Mong rằng qua đây em sẽ hiểu cha, hiểu dì và các anh chị cùng cha khác mẹ của mình hơn. Chúng ta phải đoàn kết thương yêu nhau hơn nữa, đó là cách báo hiếu để cha mẹ ngậm cười nơi chín suối.
Ba lên tàu tập kết, dì một nách hai con thơ và cái bụng mang bầu em Chung. Xã hội hỗn loạn đời sống khó khăn vô tả.
Năm 1956 ước vọng thống nhất đoàn tụ qua tuyển cử tự do, phổ thông đầu phiếu không thành. Ông bà ngoại anh mất. Họ nội lụn bại vì bị Diệm Nhu trù dập những gia đình có thân nhân tập kết.
Dì bắt buộc giũ áo lụa tiểu thư bước vào con đường kinh doanh buôn bán. Không ít thì nhiều mẹ anh luôn tỏ ra là con dâu trưởng hiếu nghĩa. Đường xá xa xôi, chiến tranh du kích cát cứ nhưng năm nào mẹ cũng bí mật cho người xuống vấn an ông bà nội, báo ông bà tình hình con cháu và không quên giúp đỡ vật chất. Tình cảm gắn bó làng quê của ông bà làm nguyện ước phụng dưỡng cha mẹ chồng của mẹ không thành. Hơn nữa chú Ba và cô Tư đều vào bưng biền, cô Năm nằm vùng hoạt động, ông bà nội không nỡ dứt áo bỏ lên thị thành.
Luật 10.59, ấp chiến lược, phong trào Đồng Khởi nối nhau diễn ra. Hàng loạt cuộc hành quân bố ráp của Diệm Nhu lần lượt khai tử chú Ba, cô Tư và cô Năm.
Năm 1962 ông bà nội người trước người sau tạ thế. Vậy là riềng mối ruột thịt của người chồng mà mẹ rất đỗi yêu thương, kính trọng bị cắt đứt. Tình cảm mẹ dành cho cha chỉ còn là nỗi nhớ âm thầm trong lòng. Mẹ dồn hết tâm huyết, gắng gượng làm ăn lo cho ba chị em nhỏ dại mau trưởng thành.
Đủ hiểu biết anh mới rõ mẹ cơ cực và đáng thương biết chừng nào. Mẹ còn trẻ, đẹp người đẹp nết và tài hoa. Trong công việc mới ngoài xã hội mẹ được bao nhiêu người để ý. Chẳng khi nào mẹ dấu diếm ba đứa con thơ. Mẹ phải dối ba mất nên họ luôn kiếm mọi cách để được gần mẹ. Kẻ giàu có dùng tiền bạc lung lạc. Mấy tay tướng tá, công chức ưa trăng hoa thì gây sức ép tâm lý, hành chánh. Vậy mà mẹ không khó xử với họ bằng vài ba người thật lòng thương mẹ. Con người đâu phải gỗ đá phải không em. Mẹ có ba đứa con thông minh, ngoan ngoãn, có một người chồng đầy lý tưởng nhưng xa cách. Do đó mẹ vẫn vượt qua được những phút giây yếu lòng. Những phút giây ấy là có thật vì với một người phụ nữ trên dưới ba mươi, thiếu vắng sự chiều chuộng, chia sẻ và an ủi của một người đàn ông bên cạnh là hết sức khủng khiếp.
Cuộc sống ban ngày dễ quên nỗi buồn trong lòng. Đêm về, đưa ba chị em lên giường xong, mẹ còn mỗi một mình. Sự cô độc làm mẹ dần nhiễm chứng bệnh mất ngủ. Có đêm hai ba giờ sáng mẹ trở dậy đánh đàn. Tiếng đàn của mẹ buồn lắm. Nó mênh mang tha thiết, xoáy vào đêm nỗi khắc khoải vô hạn. Cũng có khi âm nhạc ầm ào trong cảm giác bị đè nén khát vọng được là vợ, là tình nhân của chính người chồng mình.
Mẹ luôn đạp cần giảm thanh của chiếc đàn, cửa các phòng cũng kín nhưng nhiều hôm ba chị em không ai bảo ai đều trở dậy xúm lại ôm chặt mẹ. Bốn mẹ con không cất nổi nửa lời, nước mắt ấm môi.
Năm 1966 mẹ xuống quê chuyển hài cốt ông bà nội lên nghĩa trang gia đình ở Long Khánh thì vỡ lẽ chú Ba có người vợ ít ai biết. Vợ chú vừa đi lấy chồng. Mẹ dẫn luôn nhỏ Thắm côi cút về nuôi. Mẹ thương Thắm không kém con ruột. Vì không được ăn học giáo dục từ nhỏ, tiếp xúc cuộc sống thành thị thuở trăng tròn, Thắm trở chứng hư hỏng. Mẹ buồn lắm, càng dạy nó càng lì lợm. Nó tụ tập, đàng điếm xì ke ma túy khi mới 18 tuổi. Mẹ tốn bao nhiêu tiền bạc đi tìm kiếm và chuộc nó ra từ một ổ Tú bà. Thoát kiếp bán thân nó mon men làm gái nhảy. Có lần thằng trung tá Mỹ bồ nó đã xua lính đuổi mẹ ra khỏi khách sạn Caravelle vì mẹ muốn khuyên giải nó trở về nhà. Năm 1970 Thắm nhảy lầu tự tử đúng ngày sinh nhật của mình. Tình tiền và chất kích thích đã kết liễu đời nó. Mẹ ma chay tươm tất và chôn Thắm cạnh mộ phần ông bà nội.
Năm 1968 loạn lạc nhưng bốn mẹ con tương đối an toàn. Gã đại tá si mê mẹ đã cắt cử một trung đội thủy quân lục chiến đóng trại dọc đường trước nhà mình. Cũng từ dạo đó mẹ đỡ buồn hơn vì chị Dung nhờ ai đó chỉ bảo đã hướng dẫn mẹ bắt sóng đài phát thanh miền Bắc. Mẹ vui hẳn lên và không ái ngại kể cho con cái nghe hết chuyện tình cảm cũ của cha mẹ. Trong lòng mẹ không lúc nào thiếu vắng hình ảnh cha. Thời sự Sài Gòn mẹ mù tịt nhưng nếu hỏi mẹ thời tiết Hà Nội thì mẹ trả lời không sót một cơn mưa nhỏ! Hôm nào đài báo máy bay Mỹ tấn công Hà Nội là mẹ không ăn, không ngủ được. Mẹ bảo mẹ rất nóng ruột.
Giáng sinh 1972 Sài Gòn vô cùng ảm đạm. Suốt mười hai ngày đêm hình như cả miền Nam nín thở. Dù ở hai phe nhưng Nam Bắc vẫn là một dân tộc. Người Mỹ định hủy diệt Thăng Long nhưng không hề biết Thăng Long không chỉ là thủ đô Bắc Việt. Thăng Long còn là thủ đô tinh thần độc lập ngàn năm của mảnh đất hình chữ S. Chị Dung bảo chính anh Tòng chồng chị, một sĩ quan trẻ đầy hãnh tiến cũng phải thốt lên: "Kẻ nào có thể vui mừng nở nụ cười hể hả trong mười hai ngày đêm tang thương ấy không phải tiểu nhân thì cũng là tên bán nước hèn hạ".
Mẹ nhốt mình trong nhà, không bước ra khỏi cửa. Mẹ hết đốt nhang khấn trời phật, ông bà rồi lại lầm bầm đọc kinh thiên chúa mong cha tai qua nạn khỏi. Cứ nghe đến bản tin đài Hà Nội báo người chết, cầu sập và nhiều máy bay bị hạ là mẹ lại khóc. Có đêm bốn mẹ con ôm nhau sụt sùi đến sáng.
Hiệp định Paris vừa ráo mực, mẹ chưa vui hết niềm vui hòa bình và đoàn tụ trong mơ thì đã buồn. Số là mẹ mày mò nhờ vả, tìm cách liên lạc với một vị đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong phái đoán bốn bên thực thi hiệp định. Viên sĩ quan ấy có quen ba. Do không rõ ba có mẹ trước khi tập kết nên ông ta vô tư kể chuyện ba đã lập gia đình.
Mẹ viết cho ba lá thư rất dài. Sau khi thuật hết chuyện gia đình họ mạc trong mười tám năm bặt tin, cuối thư mẹ gởi lời chia buồn với ba vì mẹ em không may mất sớm. Mẹ khuyên ba chăm sóc em cẩn thận, mai này khi hoà bình thống nhất mẹ xin phép ba cho mẹ coi em như con. Mẹ ít nói về bản thân, ngoài việc mẹ vẫn một mình nuôi con, tròn đạo làm dâu. Mẹ thực lòng ân hận vì không làm được nhiều hơn cho nhỏ Thắm vắn số.
Thư ba trả lời mẹ cũng rất dài. Không hiểu ba nói gì nhưng mẹ không cho tụi anh đọc. Ngày đoàn tụ sắp đến mẹ chỉ dặn đi dặn lại anh và Chung phải luôn tôn trọng, thương yêu ba và em. Cố đừng làm gì cho ba phật ý.
Mãi sau này anh mới biết mẹ không tha thứ cho ba trong chuyện tình cảm. Mặc dù ba đưa ra nhiều lý lẽ, mẹ vẫn kiên tâm sống bên ba bằng nghĩa chứ không phải bằng tình.
Ba yêu mẹ là điều có thật. Ba có con đường riêng của ba. Mẹ không can dự. Nhiều lần ba làm căng muốn dọn khỏi nhà. Mẹ không hề ngăn cản nhưng luôn đòi giữ bằng được em ở bên mẹ. Việc ba không thể chinh phục mẹ thêm lần nữa làm ba buồn nhiều dẫn đến tính tình hà khắc, mặc cảm và dễ nổi giận.
Cuộc đời chính trị của ba lắm chông gai. Nguồn gốc của ba thuộc giai cấp địa chủ. Mẹ anh là tiểu tư sản thành thị. Ba bị rầy rà giữa những năm sáu mươi. Thậm chí người ta bác đơn xin đi B của ba mấy lần vì sợ ba vào Nam và chiêu hồi để đoàn tụ với vợ con. Trong tâm trạng buồn nản rối bời ba gặp mẹ em. Mẹ em an ủi động viên ba. Sau khi cậu em hy sinh gia đình mẹ em mới được giũ bỏ tai tiếng bóc lột và ba thành hôn với mẹ em.
Đợt đả thông tư tưởng đổi mới ba bị hưu non. Người ta xâu xé đời tư của ba rất dữ và qui kết ba đồng lõa với mẹ tẩu tán tài sản dạo cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân. Họ nghi ngờ Chung đào ngũ và vượt biên trong khi ba cho rằng nó đã lọt ổ phục kích và mất xác tại chiến trường.
Mẹ từng coi ba là một anh hùng, bà suốt đời yêu thương và chờ đợi ba. Chính vì vậy sự không tha thứ là dễ hiểu. Nói cho ngay các sức ép tâm lý trải dọc đời mẹ đã ngấm ngầm nuôi dưỡng bệnh tâm thần. Là bác sĩ anh luận ra điều đó không phải để bản thân thanh thản hơn mà ngược lại. Anh thật bất hiếu. Anh cứ ngỡ đây là chứng bệnh nhẹ, thời gian và sự tĩnh dưỡng sẽ làm mẹ mau lành. Ai ngờ mẹ ra đi thê thảm quá. Anh chị đã bỏ mặc mẹ cho em để chạy vạy đầu nọ đầu kia hết luật sư đến toàn án.
Mẹ em, mẹ anh và ba chúng ta đều không còn nữa. Trừ chị Dung, anh em mình đang nỗ lực tồn tại. Dù cuộc sống kham khổ mọi bề nhưng anh tin giai đoạn này sẽ chóng qua. Nếu em thật sự biết thương yêu cha mẹ, dì và anh chị thì phải luôn tâm niệm rèn luyện ý chí và nghị lực để không bao giờ sa ngã Phương nhé.
4 - Mẹo...
Dọn qua nhà mới, Phương bắt đầu cuộc sống tự lập không do dự. Anh đăng ký học lại lớp 12, ôn thi đại học và kiếm việc làm thêm. Cô Tâm, giáo viên chủ nhiệm cũ, người hết sức hiểu tình cảnh Phương đã ra tay giúp đỡ.
Ban đầu Phương nhận toàn việc vặt vãnh, ngắn hạn như sơn sửa, xiết ốc vít cả trăm khung ghế sắt cho trường, hoặc buộc lại hàng rào khu vực gởi xe học sinh. Con mắt hiếu kỳ của bao người không làm Phương bối rối. Anh chẳng hề tự ái hay mặc cảm khi xoay trần đánh vật với các dụng cụ lao động chân tay. Phương hăng say tận hưởng từng phút giây khó nhọc. Anh tin có ngày giọt mồ hôi hôm nay sẽ trở thành báu vật vô giá của niềm kiêu hãnh.
Xong giai đoạn thử thách, cô Tâm an lòng và không ngần ngại bảo lãnh cho Phương làm nhân viên phục vụ tại tụ điểm cà phê nhạc, lầu chín khách sạn Cờ Đỏ.
Chưa bao giờ Sài Gòn đói món ăn tinh thần như lúc ấy. Rạp chiếu bóng chán phèo. Những bản anh hùng ca xây dựng xã hội chủ nghĩa của người anh cả Liên Xô rất dễ khiến khán giả ngủ gật. Thi thoảng bộ phim nào mang nội dung khác đi tí chút sẽ có ngay cao trào hưởng ứng của công chúng. Xuất chiếu đông nghịt. Người xếp hàng mua vé rồng rắn qua mấy dãy phố.
Sân khấu xuống sắc thảm hại. Ở đâu cũng nghe xập xình toàn kiểu "Thủy điện âm vang mùa xuân" hoặc "Ô… ố hồ… à ha… a ha… la là la là là la là la… mùa xuân đến từ những giếng dầu…" Dầu đâu không thấy, ngoài đường bắt đầu xuất hiện loại xe "sáng tạo", "cải tiến kỹ thuật" chạy bằng than đước U Minh. Sau mặt phố lớn người ta hay tự phục vụ bằng nhạc vàng hoặc nhạc trẻ Tây dương nhập lậu. Băng từ chất lượng kém, rệu nhão, oang oang đường trên hẻm dưới, trong vô số quán cà phê bắp rang vỉa hè. Khách kín chỗ ngáp dài từ chiều này đến sáng nọ. Bốn triệu dân Sài Gòn chỉ có vài điểm chiếu băng hình hạn chế. Muốn mua vé phải chạy chọt, xin giấy giới thiệu phờ người.
Con chiên văn hóa tụ tập chen lấn trước xuất chiếu hơn tiếng đồng hồ. Cọng dây thừng làm rào chắn hạ xuống như hiệu lệnh xuất phát cho cuộc đua bộ hành lên tầng chín. Ai cũng cố chen lấn, giành giật một chỗ khả dĩ trước màn hình 21 inch. Tiếng chân sầm sập trên bậc xi măng. Giá vé xem ca nhạc tại Cờ Đỏ đã cộng gộp tiền đi thang máy. Tuy nhiên đống sắt thép hết hơi của chế độ cũ chỉ đón kẻ ngờ nghệch lần đầu võ vẽ diện kiến Eagles, Rockwell, Lionel Richi… với những giai điệu Hello, Hotel California, We are the world…
Khán phòng xếp hàng trăm chiếc ghế chật hẹp. Mười cây quạt trần quay vù vù. Nhân viên phục vụ phải chen chân giữa các dãy người hỏi xem khách dùng nước gì. Sau đó cà phê đá, nước chanh, xirô được đem ra và bỏ vào chiếc rọ sắt nhỏ gắn trên lưng ghế. Phân phát thức uống xong, cửa ngoài khép lại, đèn tắt. Cô cậu trẻ tuổi bắt đầu ngả nghiêng, trầm trồ, hò hét theo màn ảnh và tiếng hát phát ra từ hệ thống loa thùng có công suất cực lớn. Phương không thể quen nổi chất nhạc khai thác triệt để nhịp điệu. Anh hay bị nhức đầu dữ dội.
Mỗi đêm Cờ Đỏ đón hai lượt khách. Hơi người, mùi mỹ phẩm và khói thuốc trộn lẫn với vị hăng hắc của cần sa tạo nên bầu không khí vô cùng nghẹt thở. Hai trăm mét vuông sàn nhà nhơm nhớp nước đường, mảnh ly vỡ, tàn thuốc lá và bã kẹo cao su là cửa ải cuối cùng Phương phải vượt qua. Mười hai giờ anh ra về. Chân tay nhừ mỏi. Đầu óc nặng chịch.
Phương chạy bàn khoảng ba tháng, trước khi anh tự kiếm được chỗ ngồi kéo khung in lụa tại một cơ sở tư nhân nhỏ, sâu hút trong con hẻm ngoằn ngoèo bên Thị Nghè. Bà chủ xưởng hiền từ, khả ái. Bà có hai con trai xấp xỉ tuổi Phương. Họ học xong lớp 12 rồi nghỉ ở nhà chờ ngày đoàn tụ với cha mình bên Mỹ. Tú với Phương quét màu. Anh Tuấn phụ trách cắt vải và đạp máy may. Bà mẹ rong ruổi bỏ mối ngoài chợ. Gia đình cư xử với Phương hết sức nhu hòa, anh bớt thấy ngày tháng đơn điệu. Phương vui niềm vui của họ giữa công việc, buồn nỗi buồn của họ nếu chẳng may bạn hàng trốn nợ. Hôm nào ế, Tú vẫn dành ít hàng cho Phương cầm cự. Có thế anh mới dám ở lại dùng cơm tự nhiên. Phương giấu biệt tâm sự riêng tư nhưng hình như bà chủ rất thấu hiểu và luôn tạo điều kiện cho anh lao động.
Thường lúc cận lễ tết hoặc đầu năm học mới hàng hóa bán rất chạy. Một ngày Phương chỉ ngủ ba bốn tiếng. Ngoài giờ học anh dồn hết tâm sức cho những nét màu. Buông khung in, đặt lưng xuống giường là Phương bị bóng đè. Nhịp tim nhảy loạn xạ. Dòng máu sôi nóng cuộn chảy róc rách, rạn nứt thịt da. Người Phương cứng đờ nhưng không dễ dàng chào thua hung thần đêm tối. Anh la hét, cào cấu điên loạn đến kiệt lực. Lúc Phương buông xuôi, thanh thản chờ cái chết như sự giải thoát chính là lúc anh tuột vào vô thức. Đó là giấc ngủ thân thiện, hữu ích. Không mộng mị, không bàng bạc sắc màu tự ngã, không có cả lãng quên hay hy vọng. Giấc ngủ có cánh và biết bay. Nó đưa Phương vượt qua bóng đen quái ác. Sức trẻ phục hồi nhanh chóng. Chưa bao giờ Phương ngủ gục trong lớp học ban sáng.
Tâm trạng muốn phiêu lưu tìm hiểu cái chết bắt đầu xuất hiện trong Phương từ dạo này. Nó dẳng dai đeo bám anh và chưa bao giờ mất tích. Đứng bên ban công tòa nhà cao tầng nào đó, nhìn dáng người thu nhỏ phía dưới Phương hay hình dung cảnh sẽ diễn ra nếu anh bị xô qua lan can. Trí tưởng tượng kỳ cục luôn có cơ hội sống dậy. Thời sinh viên vào Nam ra Bắc vượt đèo Hải Vân cheo leo. Giai đoạn đi biển, tàu viễn dương nhiều lần chạy ngang các khe nứt sâu hoắm trên vỏ trái đất. Lối sống đô thị xe cộ vùn vụt trong mắt, bánh cao su to lớn xiết xuống lòng đường bằng phẳng hoặc nảy tưng tưng trên ổ gà ổ voi.
Phương rời bỏ bàn in cuối năm thứ hai đại học vì phải ra Hải Phòng. Anh chẳng bao giờ quên được xóm lao động nghèo nhưng nhiều nghĩa tình này. Không ở đâu có tiếng còi dễ động lòng như vậy. Thanh âm trầm trầm văng vẳng lan tỏa trên dải mái tôn rỉ sét. Một con tàu ra khơi hoặc cặp bến chỉ nghe âm sắc đơn lắng đọng. Giao thừa tết Tây, hàng trăm tiếng còi hòa nhau trở thành bản đồng ca thảm thiết, nhức nhối âm ỷ. Phương biết đa phần tiếng còi cất lên từ những con tàu xa nhà. Tiếng còi luôn chứa đựng giấc mơ đoàn tụ nhất quán. Lòng Phương se thắt. Năm tháng đã qua của cuộc đời anh được tái hiện. Thước phim câm quay chậm có làng quê bom đạn, có khúc nhạc ru ấu thơ rất đỗi dịu dàng nhưng ngắn ngủi. Anh nhớ cha, nhớ dì, nhớ bà và tưởng tượng ra mẹ. Anh nhớ cả hình ảnh chưa rõ nét của tổ ấm tương lai đang ẩn trong nỗ lực mưu sinh cho đoạn tháng ngày, giữa con đường lập thân.
Hoàn toàn không quá đáng nếu Phương tự nhận anh từng làm gần hết các nghề trong xã hội kể cả quét rác. Thật vậy, thi thoảng thầy trong trường Hàng Hải giới thiệu học trò xuống tàu dọn dẹp. Ai chẳng rõ thủy thủ viễn dương vốn nổi tiếng giàu nứt đố đổ vách Anh chấm dầu, cậu thực tập sinh học việc từ cảng nước ngoài về là có quyền ngẩng cao đầu tự phụ. Ở xứ khác họ phải lặn ngụp vệ sinh những hầm chứa hàng to như sân vận động. Ghé cảng Việt Nam thì chẳng ai bỏ phí dịp sĩ diện. Thuê trí thức tương lai làm rất rẻ, lại được ra oai, ra ơn ban phát. Tiền công phụ thuộc vào chuyến hàng họ vừa bốc dỡ vì rác tương đối có giá. Gỗ kê lót, hạt nhựa hay phân bón rơi vãi là số một. Chịu khó sàng lọc bán cho thuyền bè thu mua trên sông thì hời to. Đây là cơ may tốt cho đám sinh viên trường kỳ túng thiếu như Phương, chưa kể còn được mon men nhìn ngắm con tàu mơ ước. Gặp kẻ hắc ám, trước khi trả tiền chúng giở thêm câu anh anh, em em ngọt lịm. Là em ngoan, để lần sau anh nhớ tên thì rán khom lưng giữa căn phòng ngổn ngang bề bộn. Quần áo, chăn gối khắm khú đem giùm anh ném vào máy giặt. Lau giúp anh mặt bàn, quét hộ anh sàn nhà, tiện thể vứt cho anh mớ rác lổn ngổn bao cao su "kế hoạch hóa gia đình", vỏ bia, vỏ rượu và vỏ đồ hộp…
Không hiểu từ lúc nào Phương rất tự hào với bè bạn và chính mình về những gian khó anh đã trải qua. Đôi lúc nó còn được tô vẽ thêm phần lãng mạn, cao ngạo, thậm chí phi thực tế. Rồi anh cũng nhận ra, mình chỉ là trường hợp không điển hình trong xã hội mà thôi. Thời buổi ấy, không vật vã khổ sở mới lạ đối với toàn thể người dân Việt Nam. Dần dần người khốn quẫn cũng chẳng ít đi nhưng đã xuất hiện kẻ ăn trắng mặc trơn. Không ai bảo ai, giữa họ, chuyện kể về cái ngày xa xưa bần hàn luôn trầm lắng, dễ động lòng, lúc nào cũng long lanh như trang sức. Vẫn biết thói đồng bóng không hay ho gì, nhưng Phương phải công nhận anh chưa thể từ bỏ nó dễ dàng và dứt khoát.
Phương từng làm gia sư hai ba nơi. Ngày đầu tiên nghe phụ huynh gọi mình bằng thầy giáo thật hãnh diện. Không hiểu có phải phú quí nên họ ít nhiều lễ nghĩa và thẳng thắn. Họ cần người lớn bên cạnh kèm cặp bài vở cho con cái. Giờ học thêm chính là giờ học bài, làm bài ở nhà của chúng. Các công tử lớp sáu, lớp bảy quá bé để thấu hiểu bài học đạo lý nhưng có nhận thức xã hội trước tuổi. Chúng tôn trọng, nể sợ thầy giáo ở vài buổi đầu tiên chưa thân quen. Chúng hiểu Phương muốn gì mới xin đi gõ đầu trẻ và sự coi thường ở mức độ nào anh phải chấp nhận. Có đứa mạnh dạn đề nghị chuyển cách xưng hô là anh em cho thân mật. Sau, thậm chí trong giờ học, thầy giáo thường được cậu ấm yêu cầu đứng nghiêm để cậu dợt thế võ Kung phu học lóm băng hình phim chưởng. Nếu khó tính, căng thẳng với chúng tí chút là sách vở bị bỏ bê. Có khi chúng hiểu nhưng cố tình không làm bài kiểm tra trong lớp. Sớm muộn cha mẹ chúng sẽ thuê thầy mới. Còn đâu truyền thống "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư"!.
Phải vậy thôi - Phương biện giải - Thời buổi này nhân cách cá nhân từng người thầy ảnh hưởng rất nhỏ đến trò trong đa số trường hợp. Ngày xưa, nhiều lắm một cậu cử có năm ba ông đồ uốn nắn từ thuở chỏm đào. Hôm nay người ta cần cả trăm thầy cô cho tấm bằng đại học, chưa kể rừng thông tin mênh mông nhiễu loạn như truyền hình, phim ảnh, ấn phẩm.v.v. Gia đình, nền tảng căn bản nhất cho nhân cách cũng đang lung lay. Giáo chức phải chấp nhận thực tiễn làm người anh cả, người bạn lớn của học sinh hơn là khư khư giữa lấy chữ Thầy trong câu "Quân - Sư - Phụ" của Khổng Giáo. Biến thái của trường của lớp và cả của người thầy trong bối cảnh mới cũng cần đề cặp.
Những lúc như thế Phương hay nghĩ đến cô Tâm. Mặc tình thế thái, cô mãi mãi là vị giáo học Phương luôn kính trọng, không bởi sự giúp đỡ cô từng dành cho anh. Cô phụ trách bộ môn lịch sử. Cô thông minh, tốt bụng và thùy mị như tố nữ trong tranh. Vẻ đẹp toàn bích của cô cải hóa được cả mấy đứa cá biệt nghịch ngợm nhất, lười nhác nhất. Dù táo tợn đến đâu, học trò luôn dành cho cô sự ngưỡng mộ có khoảng cách, biểu hiện rõ rệt ở thái độ ngoan ngoãn chăm học. Xuất thân từ trường Tây nhưng cô ham mê nghiên cứu "cái đến trước hiện tại và tương lai". Đặc biệt cô rất lý thú với quá trình dựng nước của cha ông mình. Có lẽ vậy nên cô không theo gia đình xuất cảnh. Biết Phương thích sử, cô tận tình chỉ dạy và cho anh mượn rất nhiều sách đọc thêm. Cô còn cảnh giác: "Lịch sử là thực tế đã tồn tại. Nó cao hơn sự thật một bậc. Không quyển sách nào hoàn toàn mô tả lịch sử như nó có. Thời đại và chủ quan tác giả luôn tái hiện lịch sử như họ muốn".
Không hiểu sao vài năm sau cô Tâm bỏ trường bỏ lớp. Phương đến nhà thăm cô. Hơn ba mươi tuổi, cô vẫn thích độc thân. Anh gợi kỷ niệm thầy trò. Cô khóc. Cô hứa chừng nào Phương lập gia đình, cô sẽ tặng Phương tủ sách cô đã cất công sưu tầm bằng nỗi đam mê lớn nhất đời mình.
Bẵng đi khá lâu Phương bỗng thấy tên cô xuất hiện trên báo, như đồng phạm trong đường dây buôn bán trẻ em ra nước ngoài, thông qua các văn phòng từ thiện mang danh ngoại kiều. Phương tìm cô nhưng bặt vô âm tín. Cô không bị kêu án và đã dọn nhà đi đâu đó. Có thể từ thiện là đam mê lớn thứ hai của cô chăng?
Chị Linh đi làm suốt ngày. Cháu Thịnh gởi bán trú mẫu giáo. Nhà rất yên tĩnh nhưng Phương không thể chú tâm học bài. Nước lên còn đỡ, nước xuống con rạch đen ngòm bốc lên mùi hôi không thể tưởng tượng. Rảnh là Phương giam mình thường trực trong thư viện Đại học Sư phạm trên đường Lê Văn Sĩ. Rất tiện, nếu bài vở vướng mắc, hỏi bên trái hoặc bên phải là có ngay anh chị tốt bụng nào đó chỉ dạy cặn kẽ. Thầy cô giáo tương lai luôn nhiệt tình với Phương.
Phương cố gắng không nhận tiền chị Linh đưa. Anh chi tiêu rất hà tiện. Sách vở thiếu hụt nhiều. Làm hết bài tập khó có dấu sao trong sách giáo khoa Phương hay rảo khắp các tiệm bán sách cũ. Anh mua ít nhưng đọc nhiều và rán học thuộc lòng sơ lược lời giải, giữa hằng hà sa số tập sách ôn luyện thi đại học.
Phương rất dao động khi chọn trường. Anh học khá khoa học xã hội lẫn tự nhiên. Ước mơ đầu tiên của Phương là trở thành thầy giáo lịch sử. Không ít lần anh hình dung mình nghiêm nghị đứng giữa giảng đường. Bằng viên phấn trắng bên bảng đen Phương dẫn học trò đến miền tri thức, nhân văn bao la của dân tộc và nhân loại. Anh quyết tâm không nhồi nhét bất cứ tiên đề giáo huấn nào trong bài giảng.
Hồ sơ thứ hai Phương nộp cho Đại học Hàng Hải - Hải Phòng. Anh chọn trường này trên cơ sở giải quyết vướng mắc hiện tại hơn là định hướng cho tương lai. Phương muốn xa Sài Gòn. Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Anh sẽ có chỗ ở, học bổng và nếu chịu khó làm việc vặt thì cũng sống qua được bốn năm năm.
Quá trình sơ tuyển vào ngành Hàng Hải rất nhiêu khê. Trường chỉ nhận con em cốt cán. Đơn xin dự thi phải được chính quyền sở tại tán đồng. Phương lớ ngớ ôm bìa giấy khá dày lên ủy ban phường.
- Anh về phường cũ xin xác nhận khoảng thời gian trước vì anh mới cư trú tại đây gần một năm. Chúng tôi không thể làm tắt được.
Tay ủy viên thư ký bên kia bác ngay:
- Đành rằng cha anh là dân kết, nhưng người nuôi dưỡng anh thuộc nhóm tiểu tư sản. Tuy gia đình anh đã ly tán, song chúng tôi biết hiện còn hai người sống tại Mỹ. Anh tự biết mình đủ điều kiện học ở đâu chứ.
- Nếu tôi nhớ không lầm thì trước đây anh có đến nhà nhờ vả cha tôi. Chính cha tôi chứ không ai khác đã khai sáng cuộc đời chính trị cho anh. Tôi làm sao quên được vẻ hăng máu của anh khi châm lửa vào đống sách đồi trụy, phản động trước cổng nhà tôi ngày nào.
- Trí nhớ tốt lắm nhưng nguyên tắc là nguyên tắc. Không có chỗ cho lòng biết ơn. Cha anh còn gãy cánh giữa đường vì giai cấp của bà Thái, huống gì anh.
Phương đã vậy thì bạn bè anh cơ man khổ sở. Người ta dò xét từng li phả hệ ba đời chỉ để quyết định một cá nhân có quyền được đi học, đi làm hay không. Qua được vách núi này chưa hẳn nhẹ gánh. Thang tuyển chọn giữa các thành phần khác nhau, cao như bức thành, có khi chênh lệch hàng chục điểm. Khoảng cách trình độ của nhóm lý lịch cỡ từ trò đến thầy, từ sự dốt nát đến giỏi giang.
Chị Linh bảo Phương đến gặp chú Hùng, người bà con xa thành đạt. Ông ta ranh mãnh quơ tên cha Phương vào lý lịch mình như người đỡ đầu cùng huyết thống từ dạo nào.
- Mua bộ hồ sơ mới, khai lại. Bỏ tên người nuôi dưỡng đi. Cô sẽ trực tiếp đến yêu cầu phường cháu trám mộc đỏ vào đây.
- Thưa chú…
- Tình cảm là thứ xa xỉ và phù phiếm. Mày phải nghe chú. Mày thương yêu, kính trọng dì ở tấm lòng chứ không phải trên mấy dòng tự thuật vớ vẩn này.
- Chú nói đúng đấy cháu à - Bà vợ xồn xồn hóng chuyện nãy giờ bỗng xen ngang.
- Cháu cám ơn cô chú.
- Ơn nghĩa gì. Mai này vi vu Tây Tàu mua hộ cô dàn nghe nhạc nội địa Nhật loa rời là tuyệt trần rồi.
- Bà này chỉ được cái lắm chuyện. Bảo bọn trẻ giảm âm thanh vidéo nho nhỏ thôi. Hay muốn khoe với tai vách mạch rừng và bọn đâm bị thóc, chọc bị gạo.
Xong việc Phương đem chai rượu Johnny Walker tạ lễ. Bà cô tít mắt:
- Thằng này khéo bày vẽ. Khổ thân mày côi cút. Xưa ông Thiện khác người quá mà. Từ nay có gì cứ đến gặp cô, cửa sau nhà cô là cửa chính cơ quan chú đấy.
Những năm 1980 thí sinh chỉ có một chọn lựa, các trường thi tuyển cùng ngày. Giai đoạn ôn luyện cuối Phương quay ngoắt sang phân ban xã hội nhân văn.
Phương vừa đủ điểm học khoa Sử - Đại học Tổng hợp. Nhiều năm sau, lâu lâu Phương lại ghé thăm trường cũ. Tọa lạc ngay trung tâm Sài Gòn, trên nền trại lính cũ thời Ngô Đình Diệm, toàn cảnh ngôi trường bị phá vỡ bởi kiểu xây dựng đắp vá hổ lốn. Cổng ngoài mái ngói cong thâm thấp kiểu dáng chùa chiền. Dãy nhà cấp 4 lụp sụp sát đài truyền hình ngày trước đã biến thành khu phòng học mới khang trang hiện đại, tương phản với tòa lầu có khung chịu lực bằng thép tuổi thọ cỡ năm bảy mươi năm. Bìa phải còn nguyên kiến trúc phố thị Pháp, khi thì cho thuê làm khách sạn, lúc được tận dụng như văn phòng hành chính. Đại giảng đường mái tôn, có sân khấu, giống hội trường hoặc nhà hát hơn là nơi học tập. Kẹp giữa hai khu này là quán cà phê mang cái tên gợi nhớ sự lãng mạn của Sài Gòn xưa "Văn khoa". Nam thanh nữ tú dập dìu, nhạc nhẽo ỷ ê suốt ngày.
Khuôn viên trường sạch sẽ. Cây cỏ xanh tươi. Hàng Ngọc lan còi cọc hôm nao đã vút cao, lác đác hoa bốn mùa. Xã hội đổi thay nhiều, không hiểu phương pháp dạy và học mô phạm cứng nhắc ngày trước còn hay mất.
Gần hết học kỳ đầu, bỏ qua những tín chỉ giáo điều, với các môn chuyên ngành, Phương đều đưa ra phản đề trong giờ thảo luận. Lớp bốn mươi sinh viên, ngoài mấy cán bộ cơ sở có thâm niên được ưu tiên xét tuyển và hai nhà sư tu hành tại một ngôi chùa nhà nước, số còn lại ngang tuổi Phương. Tuyệt nhiên không ai ủng hộ lý lẽ của anh. Rốt cuộc, bài luận văn lịch sử về Mê Linh liệt nữ Phương viết gần như đóng chiếc đinh cuối cùng, tẩm liệm giấc mơ sư phạm nông nổi của anh. Chính vì thế Phương chẳng thể quên được bất cứ chữ nào trong tác phẩm đầu tay này.
"TỪ HAI BÀ TRƯNG ĐẾN NHỮNG KHẮC KHOẢI LỊCH SỬ
Có lẽ bài học lịch sử đầu tiên với rất nhiều người Việt Nam là những câu thơ nói về Hai Bà Trưng trong Đại Nam quốc sử diễn ca:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Tôi đã thuộc lòng cả bài thơ này từ thuở tiểu học, để đến ngày kia mới giật mình khi đọc một tác giả nước ngoài: “Lịch sử Việt Nam phần lớn là cuộc tranh cãi về mối quan hệ Hoa – Việt, câu chuyện với chủ định rõ ràng và khẩn thiết, sự thừa nhận nó là phần quan trọng trong việc làm người Việt Nam”.
Lời nhận xét thật đáng buồn! Lịch sử, với tôi, chính là bà mẹ tinh thần của dân tộc. Dù mẹ nghèo hèn, thấp kém đến đâu đi nữa, thân phận bà cũng không thể qui định tương lai những đứa con. Chỉ có kẻ hư hỏng mới mong đẻ ra mẹ mình. Bằng kiến thức hạn hẹp, tôi vẫn khuyên mình dũng cảm lên đường tìm mẹ. Việc trước nhất tôi muốn tự tra xét chính là bài học lịch sử đầu tiên đã nêu.
Rất nhiều sử gia đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt được và chém đầu, đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ.
1. Những nghi vấn:
Ở đây tôi muốn trả lời hai câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay tên Thái thú kia khai tử ông Thi? Và lý do gì khiến các văn bản sử chính thống hiện nay vẫn luôn lập lờ hai mặt khi đề cặp tới ông Thi.
Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.
Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Khi thành công rồi, Hai Bà Trưng xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của Hai Bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ” khởi nghĩa. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.
Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu. Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, thì không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu chiêu binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.
Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó gần 200 năm làm điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như “thái tử” trong cơn nguy cấp.
Trả lời cho câu hỏi thứ hai đòi hỏi chúng ta phải làm quen với khái niệm hơi mới “Nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc” trong giáo trình: “Nền văn minh Văn Lang–Âu Lạc, vào những thế kỷ VII đến III TCN, đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc”. Tuy không khẳng định chắc chắn ở nền văn minh này xã hội Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ chưa, nhưng trong mục “Sự ra đời của nước Văn Lang” người ta chú thích cuối trang: “Thời Hùng Vương chế độ một vợ một chồng dần dần phổ biến, gia đình nhỏ là một tế bào của xã hội. Đây là gia đình phụ hệ, nhưng người phụ nữ vẫn có địa vị quan trọng, được coi trọng ở trong gia đình và ngoài xã hội”
Trong nỗ lực nghiên cứu khảo cổ kết hợp với các lý thuyết lịch sử, sử gia Việt Nam hôm nay quyết tâm chứng minh người Việt Nam hiện đại với bản sắc rõ ràng, nguồn cội minh bạch đã có một quốc gia và nhà nước sơ khai vào khoảng thế kỷ VII đến TK VI TCN. Điểm mốc này gọi là mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thế ra nền văn hiến 4000 năm theo cách gọi cũ đã lùi xuống còn khoảng 2700 năm. Và hình như, theo lối kinh viện mà sử gia áp dụng, hình thái xã hội phụ hệ là điều kiện cần cho lý thuyết của họ. Khi đã đặt niềm tin sắt đá đến như vậy vào thời điểm cách cuộc nổi dậy của Hai Bà trưng đến 700 năm, mà lại công nhận thời Hai Bà Trưng người Việt cổ còn duy trì chế độ mẫu hệ, khác nào biến công lao cực nhọc kể trên thành trò cười cho những học giả nghiêm túc lấy nền tảng khoa học, sự trung thực làm tiêu chí và không bị chính trị chi phối. Điều này nếu không rút ngắn tuổi tác văn hiến Việt Nam xuống nữa, thì cũng tương tự như lời chê trách nền văn minh “Văn Lang-Âu Lạc” kia phát triển giật lùi! Càng cố chứng tỏ tính lên tục và nhất thống của nền văn hóa bản địa Việt cổ từ thời Văn Lang-Âu Lạc đến thời Hai Bà Trưng, các giáo sư càng đi vào thế kẹt rất tội nghiệp. Họ viết: Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em, con lạc tướng huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), thuộc dòng dõi “họ Hùng”. Chữ “họ Hùng” được để trong dấu nháy tùy tiện khá vô duyên, và không hề được giải thích là họ Hùng nào, có phải họ của vua Hùng, trong truyền thuyết hay không. Hơn nữa, có đất nước Văn Lang và dân tộc Lạc Việt thì mới dẫn luận được giá trị cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng: “Đó là ý chí kiên quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại nền độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc”. Đây là hai mặt tương cân của một vấn đề cho nên nó chứa đựng nguy cơ mất ổn định rất cao, và đe dọa sự sụp đổ công trình sáng tác sử học bất cứ lúc nào.
2. Một cách lý giải:
Lần ngược lịch sử, ta thấy khi Tây Hán bình định xong nước Nam Việt của họ Triệu, toàn cõi Nam Việt được cải thành Giao Chỉ bộ và chia làm 9 quận. Mỗi quận có Thái thú và Thứ sử trông nom. Ở quận Giao Chỉ (tức Bắc Việt ngày nay) những Lạc tướng, Lạc hầu vẫn được giữ quyền cai trị dân bản xứ. Từ đó đến hết thời Tây Hán (năm 25 sau CN) sử sách không nhắc gì đến Giao Chỉ. Năm 29 có Thứ sử Giao Chỉ triều cống nhà Hán sau loạn Vương Mãng.
Có thể hình dung suốt thời Tây Hán dân Việt và nhóm quan lại ủy trị của triều đình phương Bắc sống khá hòa thuận, chẳng gây điều tiếng gì khiến sử sách lưu tâm. Phải chăng hình mẫu này cũng giống như cảnh thanh bình, háo hức khám phá nhau lúc đầu giữa Kha Luân Bố và các bộ lạc da đỏ tại Tân thế giới. Giáo trình ghi: “Đầu thời Bắc thuộc, triều Tây Hán phải chở thóc gạo vào Giao Chỉ để cung cấp cho bọn quan lại đô hộ và quân lính chiếm đóng”. Suy rộng ra việc thu thuế của Hán quan có thể chưa được áp dụng, hoặc áp dụng lấy lệ, rất hạn chế, không đủ cho nhu cầu sinh sống tối thiểu của chính họ. Hơn nữa chuyện thái thú Cửu Chân Nhâm Diên bắt thuộc lại của quận trích lương bổng giúp những kẻ nghèo lấy vợ lấy chồng, không những rành rành trong nhiều văn bản mà còn được truyền tụng rộng rãi. Cuối thời Tây Hán, chính trị phương Bắc suy đồi, xã hội mục ruỗng, nông dân bị bần cùng hóa nổi lên làm loạn, giặc giã và thiên tai dồn dập khắp nơi. Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Bối cảnh xã hội như vậy khiến xuất hiện làn sóng di dân tự do ào ạt về phương Nam. Người đi tìm “đất hứa” đa phần là nam giới đã trưởng thành, có thể họ tị nạn chính trị, trốn lính hoặc mưu cầu đời sống kinh tế dễ thở hơn. Nữ giới và trẻ em chắc chắn rất ít vì chặng đường dài từ Trung Nguyên đến bắc Việt đồi núi chập chùng đầy dẫy hiểm nguy, lam sơn chướng khí sẽ chôn vùi những cơ thể yếu đuối.
Xã hội Việt Nam khi đó hình thành hai cộng đồng dân cư riêng biệt, có hai thể chế cai quản khác nhau về hình thức lẫn bản chất, khoác hai bộ cánh văn hóa không mấy tương đồng nhưng lại chia sẻ cùng một mảnh đất và ít nhiều liên kết với nhau bằng những cuộc hôn nhân và các giao tiếp phổ thông thân thiện. Hệ mâu thuẫn phát sinh là tất yếu: giữa quan lại triều đình nhà Hán với chính nhà Hán; giữa quan lại bản địa và quan lại triều đình nhà Hán; giữa người Việt cổ với lạc hầu, lạc tướng; giữa di dân và Hán quan; giữa liên minh thống trị Lạc-Hán và nhân dân nói chung. Tuy các mâu thuẫn trên hiển nhiên tồn tại nhưng con người vẫn sống thanh bình với nó trong khoảng thời gian dài, chứng tỏ tương quan lực lượng giữa hai phe còn cách biệt nhau khá xa.
Nhiều sử gia có cái nhìn đơn giản hóa vấn đề cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng là mâu thuẫn về quyền lợi trong việc sở hữu đất đai của hai cộng đồng Việt cổ và tân Hán. Nhưng theo tôi dị biệt văn hóa mới là căn nguyên của mọi tranh chấp. Nguyên tắc phụ quyền của kẻ ngụ cư và truyền thống mẫu quyền bản xứ là hai mặt hoàn toàn đối lập nhau đã kích thích những mâu thuẫn sẵn có bùng phát thành biến cố có vai trò như cuộc binh biến bảo vệ thuần phong, tái lập trật tự cũ. Bản chất biến cố này không hề mang tính cách mạng vì lực lượng đại diện cho cái mới chưa đủ mạnh. Sự xuất hiện của Tô Định vào năm 34 chỉ là nguyên tố xúc tác giúp phản ứng diễn ra, là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đầy ắp mà thôi.
Khi Tô Định đến Long Biên thì những người Hán di cư đầu tiên (từ đầu công nguyên) đã kịp sinh con đẻ cái tạo nên thế hệ trung gian đã trưởng thành. Chính họ làm trầm trọng thêm mâu thuẫn vốn có, và đưa chúng đến tận không gian sinh hoạt của nhiều gia đình (tức là tế bào của xã hội) mẹ Việt, cha Hán. Tô Định tiếp quản bộ máy cai trị mang tính hình thức với nhóm thư lại ít nhiều bị Việt hóa sau bao năm chung sống với người Việt. Có lẽ sức ép từ triều đình khiến tân thái thú phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất trang trí trên bản đồ đại Hán, và đôi khi là gánh nặng khó kham. Tuy nhiên hắn hoàn toàn đơn thương độc mã, nếu không kể nhúm lính Hán hộ tống theo hắn từ Trung Nguyên. Tô Định chắc chắn phải giao tiếp với người bản xứ qua thông ngôn, khiến hắn thêm lạc lõng và có khoảng cách nhất định với thực tế. Có thể hắn đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu, và dùng áp lực của chính quyền tối cao giải quyết các mối bất hòa trong xã hội liên quan đến hôn nhân, thế tập, thừa kế cũng như quyền sử dụng đất đai.
Lẽ đương nhiên người Việt không thể chấp nhận cách thức ấy. Nhóm dân gốc Hán một mặt âm thầm ủng hộ lối thực thi pháp luật Trung Hoa tại đây, một mặt vì những liên hệ tình cảm gia đình, họ hàng bên ngoại với người Việt, đành hướng sự nổi giận của lạc hầu, lạc tướng vào cá nhân thái thú. Bọn thư lại cũ chắc luôn tỏ ra vô can, không muốn đứng hẳn về phía nào và chỉ mong Tô Định mau cuốn xéo, để lại cho chúng bộ ấn tín thái thú và cảnh thanh bình giả tạo cũ với bầu trời yên tĩnh lạ lùng trong mắt bão.
Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có trận chiến ra trò nào với Hai Bà Trưng để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được. Nhóm người Hán có dây mơ rễ má với người Việt đào ngũ, không nghe lệnh viên thái thú chưa xây dựng được cho mình hệ thống tay chân tâm phúc sau hơn 5 năm nhậm chức. Có sử gia phương Tây nghiên cứu sách vở máy móc còn gợi mở: “Hãy thử tưởng tượng số phận của những người Trung Hoa bị (Tô Định) bỏ lại, không kịp chạy trốn sẽ như thế nào?”. Nếu hiện hữu làn sóng trả thù, thậm chí tắm máu sau đó thì đương nhiên dân gian sẽ rất hứng thú sử dụng nó để làm giàu thêm dữ liệu “chống Tàu”, chứ không dễ gì cho sự kiện mai một hẳn theo năm tháng.
Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà Trưng tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.
Năm 43 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang đến, bằng kinh nghiệm lọc lõi của tên tướng phong kiến, hắn kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng sốt ruột, chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 5.2.43 và 8.3.43 (âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.
Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến liên tưởng hơi ngoài lề. Rõ ràng Hai Bà rất tự tin và có quân số không kém gì Mã Viện. Với lực lượng hùng hậu như thế, tại sao Hai Bà không củng cố thành Cổ Loa cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa Loa thành chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà có gần 3 năm để chuẩn bị cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành có thêm nghi chứng phủ nhận. Chi tiết này rất quan trọng, nó có thể đánh đổ lập luận về tính liên tục và nhất thống của nền văn hóa bản địa Việt cổ đã nói ở trên. Nếu mai này khảo cổ học chứng minh được hai vòng ngoài của thành Cổ Loa do người Việt xây dựng, thì việc Hai Bà Trưng không biết sử dụng thành trì trong chiến tranh chứng tỏ sự liên hệ văn hóa giữa thời Hai Bà và thời An Dương Vương khá rời rạc, thậm chí đứt đoạn.
Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng phải đương đầu với Mã Viện, tên tướng xâm lăng, nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức. Có những nét đẹp trong phong tục Việt Nam hôm nay chắc chắn đã được bảo tồn từ thời Hai Bà Trưng: Cách ghép họ cha mẹ thành họ con như Trần – Lê, Phạm – Nguyễn, thói quen gọi nhau bằng tên riêng chứ không dùng họ trịnh trọng như nhiều nền văn minh khác…
Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất Lạc Việt. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn Bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương Bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được chúng ta nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn chúng ta về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi.
Từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), nếu không kể đến An Nam Chí Lược của tên phản quốc Lê Tắc viết năm 1335, sử gia Việt Nam đã chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với Bà như quốc gia, dân tộc và tổ quốc. Lối tư duy suy diễn chủ quan, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên Bà mẹ chân đất “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của chúng ta chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của Bà.
Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, những người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Hãy trả lại cho mẹ hình hài thực và tâm hồn mộc mạc của người, đó là nhiệm vụ của từng đứa con của mẹ, và của tôi, kẻ đã được sinh ra trên chính mảnh đất Mê Linh huyền thoại, là cháu, là con của những người phụ nữ nhiều đời an cư lạc nghiệp tại Mê Linh.
3.Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa:
Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bại trận và bị xử trảm. Tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc huyện Cửu Chân. Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một nhóm nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào các bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.
Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, có nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000. Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Chín nước”. Có cái gì đó rất gần gũi với chữ Cửu Chân. Biết đâu nó mang ý nghĩa 9 đại thị tộc! Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.
Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do hội đồng trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang (Lạc tướng?). Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là các nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên.
Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn giới nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít tác giả suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam”.
Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau: Ngày xưa có mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng bị chết vì dao đâm thủng bụng. Người Minangkabau chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.
Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu.
Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở tương lai rất gần. Ở đây tôi xin được đổi cách gọi “Hai Bà Trưng” truyền thống thành Mê Linh liệt nữ.
Khắc khoải tìm lại hình ảnh thật của những người mẹ trong tôi hình như lớn hơn một nỗi niềm. Tôi xin thắp nén hương lòng thành kính nhất, cầu khấn bà mẹ vĩ đại của dân tộc Việt Nam phù hộ người Việt ở thế kỷ hai mươi mốt tìm được những anh em cùng huyết thống đang ở ngoài đảo xa. Biết đâu, dù đã qua hai ngàn năm dâu bể thăng trầm, họ vẫn còn giữ được bao nhiêu di sản quý báu của mẹ, trong hình hài, lối sống, sinh hoạt và văn hóa. Và từ đó, lịch sử Việt Nam sẽ được viết lại, không phải trong hoang tưởng xuất hiện từ mặc cảm tự ti, thua thiệt mà với tự hào lấp lánh sự thật minh bạch”.
4. Ai sẽ viết lại lịch sử:
Nếu gọi A là bản sắc Việt Nam thời Mê Linh liệt nữ ta sẽ có phương trình toán học: A + B = C. Trong đó C là bản sắc Việt Nam thế kỷ 21. B là tham số hình thành từ lúc Mã Viện hoàn tất cuộc cưỡng chế và diệt chủng tại đồng bằng sông Hồng và sông Mã, trải qua 800 nô lệ, 1000 năm tự chủ và Nam tiến, rồi lại 80 năm Pháp thuộc cho đến ngày nay.
Qua những phân tích trong các phân mục trên, hơn bao giờ hết giá trị của A rất dễ tìm ra, bằng những nghiên cứu lịch sử chuyên nghiệp có đối chứng với bản sắc Minangkabau. Thực ra người Việt Nam hiện đại đã ngộ nhận về giá trị của A suốt thế kỷ 20. Từ ngày 17-3-1879 Pháp áp đặt chương trình giáo dục hệ Pháp-Việt nhằm loại bỏ hoàn toàn nền Hán học ở Nam Kỳ, sau đó là các ngày 27-4-1904 ở Bắc Kỳ và 30-10-1906 ở Trung Kỳ, người Việt đã bị tách ra khỏi những trang hiến sử họ tự viết đã hàng ngàn năm. Hơn nữa họ bị choáng nặng khi cái chương trình giáo dục kia khẳng định “Tổ tiên chúng ta là người Gauloir”. Rồi phản vệ đã lôi họ đi thật xa khỏi sự thật, biến những năm tháng bán sử của dân tộc thành thời hoàng kim chói lọi ảo tưởng. Có lẽ đó là lý do Tản Đà phải thốt lên:
Dân hai lăm triệu ai người nhớn
Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con
Như vậy lịch sử Việt Nam chính là B. Ở góc độ nào đó, B là một hàm số có nhiều biến số như thời gian, tư tưởng, phương pháp luận, và đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa Hoa Nam (Bách Việt) và Hoa Hạ (Trung Nguyên). Bài viết này của tôi, giờ đây đã quay lại điểm khởi đầu của nó, với câu dẫn của một học giả ngoại quốc. Và tôi bỗng hoang mang: “Ai sẽ viết lại lịch sử?”.
Thật đáng tiếc, tôi tin rằng sẽ không có ai viết lại những trang sử chân thực của đất nước tôi, trong thời đại mà tôi đang sống. Những sử gia đáng kính của Việt Nam hôm nay chắc đã biết những điều tôi vừa biết lâu lắm rồi. Và hành xử thống nhất của họ gần như là im lặng, một sự im lặng đáng sợ và vô cùng tủi hổ. Với những người nước ngoài, dù nghiên cứu của họ luôn đáng để tham khảo nhưng không thể biến chúng thành sách giáo khoa lịch sử Việt Nam. Điều hiển nhiên sẽ đến là, thế hệ con cái chúng tôi lại học lịch sử bằng những bài ca dân dã hư cấu giản dị đến sơ sài, từ đầu thế kỷ 20:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên…”
Phương là người thứ ba trong lớp đọc bài luận để mọi người bình phẩm. Khi anh dứt lời, phòng học tĩnh lặng đến khó tả. Bạn bè trang lứa với Phương ngơ ngác như gà lạc mẹ. Thầy giáo ngó ra cửa sổ. Không gian sùng sục những cái nhìn căm hờn của mấy tay cán bộ lớn tuổi. Phạm Minh, thi sĩ kiêm văn sĩ, người dù đã được nhân hệ số 2 cho điểm thi tuyển đại học vì công lao ở chiến trường K. vẫn không đủ vào khoa Văn đành chạy chọt nhảy sang học tạm Sử, sấn tới bên Phương:
- Đồ tiểu tư sản bẩn thỉu. Nếu mày không chứng minh thuyết phục rằng Hai Bà Trưng từng đi chân đất ở thời đó thì không xong với tao đâu!
- Ông nhà thơ thân mến, hãy ra Hà Nội và gào lên câu vè “Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ” để xem Tố Hữu có xác tín được Phạm Tuân mang dép râu, xách xô bèo hoa dâu lên trời làm thí nghiệm khoa học không – Phương thách thức.
- Đây là lịch sử chứ không phải văn chương hay khoa học. Lịch sử là máu là xương của cha ông tao và của chính tao nữa – Phạm Minh gằn giọng rồi hùng hổ xé toạc ngực áo, xoay về các phía để mọi người nhìn rõ những vết xẹo gớm giếc trên người hắn. Vở kịch trào tới đỉnh điểm bằng cái tát nổ đom đóm vào mặt Phương.
Phương bàng hoàng bất động hồi lâu. Anh định hét vào mặt Phạm Minh “Mày không xứng đáng làm một con người để tao đưa nốt bên má chưa bị tát cho mày thử sức”, nhưng không hiểu sao Phương lại thôi. Bình tĩnh đến lạ lùng, anh quay gót bước ra khỏi lớp học như đã đến giờ giải lao, như chưa hề có buổi thảo luận rồi cuộc đôi co và màn bạo lực nóng hổi. “Văn chương và khoa học không có máu ư?” – Phương ngạc nhiên – “Ba họ của văn tài Nguyễn Trãi rơi đầu chưa đủ tắm pháp trường sao? Chỉ tiếc Việt Nam không có Galileo, Copecnic hoặc những du học sinh biết quyên sinh, mổ bụng giấu bí quyết công nghệ đem về quê hương. Cái nghèo chắc cũng có nguyên nhân từ đấy”.
Trước kỳ thi thầy chủ nhiệm gọi Phương lên văn phòng khoa:
- Em làm thầy nhớ về tuổi trẻ hiếu thắng của mình. Thầy tôn trọng em. Suy nghĩ và cách tiếp cận bài học của em có sự nghiên cứu nghiêm túc. Tuy nhiên xã hội chưa thể chấp nhận hướng luận này. Ngoài ra, lỗ hổng kiến thức trong em còn rất lớn. Hãy thu mình học hỏi thêm trước khi muốn xào xáo trật tự cũ.
- Thưa thầy em không thể học vẹt và chúa ghét công thức hứa hưu hứa vượn sau mỗi bài bình giảng, từ những giờ tập làm văn phổ thông trung học.
- Khám phá của em chưa có gì mới. Khi chấm bài của em, thầy chỉ có hai con số để chọn lựa là Không và 10.
- Em hiểu khởi đầu đồng nghĩa với kết thúc.
- Không. Đơn giản chỉ là phương pháp. Bài viết về Mê Linh liệt nữ của em là ví dụ. Em đã dùng quy nạp luận để tìm sự thật trên cơ sở giá trị đặc thù. Giáo trình thì dựa vào niềm tin chủ quan nhằm suy diễn. Xung đột là hệ quả của hai bậc tư duy. Em là nạn nhân của “thánh chiến”. Lũ người “ở ẩn” như thầy thấy em đáng thương lắm!
- Khi nào khoa học mới thắng được tôn giáo hả thầy?
- Liên chi bộ sinh viên và giáo viên bàn cãi trường hợp em nhiều lần. Vào phòng họp thầy là cấp dưới của học trò mình thôi em à. Họ kiên quyết yêu cầu các thầy đánh trượt nếu em tiếp tục học theo lối riêng kia.
- Em bị loại khỏi cuộc chơi một cách thiếu công bằng. Có lẽ em không thích hợp với trường với lớp "Nhân văn" nữa phải không thầy?
- Thầy chia buồn với em.
Phương bỏ học, bỏ luôn mơ ước tâm huyết đầu đời. Anh quay lại với Toán - Lý - Hóa và làm hồ sơ thi đại học lần hai.
Giảng đường đại học Hàng Hải đầu tiên Phương bước vào là dãy nhà cấp bốn, cạnh chuồng nhốt chó hoang của trung tâm phòng dại Sài Gòn. Trường có trụ sở chính tại Hải Phòng. Họ đang xin mở phân hiệu phía Nam. Sinh viên phải học hai năm cơ sở cơ bản trong những chỗ thuê mướn, điều kiện tạm bợ. Giờ giải lao hàng trăm con người có mỗi khoảng sân hẹp để thở và mục kích xe bắt chó từ khắp hang cùng ngõ hẻm đổ về. Tiếng cắn, sủa, tru tréo đinh tai. Mùi xú uế nồng nặc. Cảnh tìm chó, chuộc chó, cãi vã, tranh chấp om xòm như chợ âm phủ.
Phương lên lớp vừa đủ số tiết trong qui định bắt buộc để được dự thi cuối kỳ. Việc mưu sinh luôn bức bách trước mắt. Trò giải trí yêu thích duy nhất của anh là đọc báo trong thư viện. Phương thấy ở đây cơ hội mới. Anh bắt đầu tập tành viết lách. Tất cả chuyên mục độc giả có thể góp bài anh đều thử sức và may mắn được đăng ít nhiều, được trả thù lao.
Cũng từ dạo ấy Phương âm thầm hoài bão về một quyển tiểu thuyết. Nhân vật chính sẽ được xây dựng trên những nét lớn của bản thân anh, trên mốc thời gian anh từng trải qua. Xa hơn nữa, truyện phải chứa đựng hình ảnh và tâm thức của thế hệ Phương. Thế hệ sinh ra trong tiếng bom gào đạn xé, lớn lên bên cạnh nhọc nhằn, ấu trĩ của buổi giao thời. Phương không muốn tôn vinh điều tốt đẹp hẳn phải có. Anh xem cái đẹp rất mơ hồ và dễ vỡ. Hành trình về cái đẹp, giữa nhung nhúc xấu xa, phi lý và thấp hèn chính là cuộc sống thật.
Phương không đắn đo xác định anh hết sức mâu thuẫn ở từng con chữ trên trang sách. Anh tỉnh táo định nghĩa mâu thuẫn tồn tại nhờ vận động nội tâm không ngừng nghỉ. Quá trình này tác động đến con người theo nhiều chiều hướng. Nó có thể sinh ra chủ nghĩa hoài nghi và chứng tâm thần loạn óc. Cũng có thể là lòng tin sắt đá khó chuyển dời. Con người khoác bộ cánh mâu thuẫn để thoát khỏi bản năng, thứ tinh thần mang nguồn gốc tự nhiên trong họ.
Bản thảo dầy lên mãi theo tuổi đời và chiều sâu tâm hồn Phương. Anh hay đào xới hình ảnh xung quanh như cách khám phá thế giới của mình. Và trên hết, cuộc sống bao hàm trọn vẹn ký ức. Chẳng gì mất đi, chỉ là có hay không cơ hội day dứt giữa hoài niệm. Với Phương năm tháng đã qua luôn tràn trề sức sống. Nó biến động không ngừng và vẫn sản sinh những nghĩa hướng mới mẻ trên con đường vươn tới bến bờ chân thức. Nơi ấy từng phút giây của đời người mãi mãi tự do như một cuộc đời biệt lập, không thể là bản sao cẩu thả của dĩ vãng.
Phương chẳng phải kẻ thực dụng, ưu tiên kết quả cuối cùng. Anh luôn mài giũa, phân tích tư duy trừu tượng trong mọi tình huống. Bản thân Phương còn rất nhiều sai biệt giữa suy nghĩ mông lung và đời thực. Có thể người đọc khó tính sẽ kết tội Phương thích rao giảng. Sự thật đó chỉ là các luận điểm hết sức riêng tư. Phương xem tư duy như biểu hiện tích cực của thái trạng tiền hành động. Anh ngụp lặn trong dòng thác tâm tưởng để tìm lối đi, thức cách sống và lời răn dạy chính bản thân. Bỏ qua lộng ngôn cường điệu và bóng bẩy là mạch đời hết sức trung thực. Trung thực, ít ra là trung thực với chính mình, với sự hiểu biết của mình, là giá trị cuối cùng nơi Phương, nếu trang viết của anh không hơn mấy lời lảm nhảm vô ích. Phương ghét sự hạ cố và ơn chuẩn lãnh đạm của cõi người ta.
Và cũng chính vì tôn trọng sự thật Phương đã mang gần như toàn bộ những người anh từng biết vào truyện. Họ bị đổi tên, hoán tuổi, thậm chí trộn lẫn vào nhau để tạo thành nhiều nhân vật văn học. Không thể nói Phương hoàn toàn khách quan. Song anh luôn cố gắng vượt lướt mọi rào cản và cái tôi khổng lồ. Rất nhiều cuộc đời có mặt trong sách đã rộng lòng cho phép Phương toàn quyền sử dụng mảnh đời riêng tư thầm kín nhất của họ. Họ hiểu anh không giản đơn sao chép, điển hình hóa hoặc tái hiện cuộc sống. Anh cũng không xào nấu thân phận con người hay dừng lại ở hình tượng. Phương muốn nâng tất cả lên hàng biểu tượng, nhằm mở ra vô vàn góc nhìn trên cùng một thực thể. Tuy vậy, vì nhiều lý do anh không thể gặp lại vài cá tính đặc biệt. Phương đành gửi tới họ lời tạ lỗi chân thành trong chính đoạn văn anh viết về họ. Giữa phức cảm chồng chéo đan xen, Phương luôn kỳ vọng "dương bản" của nhân vật anh đề cặp sẽ bỏ qua thói mạn phép, nhằm đi sâu vào cõi riêng tây, chia sẻ với anh gánh nặng làm người.
Khi Phương sắp đặt dấu chấm hết cho bản thảo, anh chợt nhận ra mình đã sống hai lần trên cùng một cuộc đời. Phương không rõ nên vui hay buồn. Có những định kiến lập lại, dai dẳng bám lấy anh như ám ảnh di truyền và tuyệt đối mù mịt trước tương lai. Đôi lúc Phương tự an ủi, sự trình bày nét chấm phá của đời sống dù không mạch lạc cho lắm cũng là thành công. Ứng vào độc giả bất kỳ, câu chữ kia chắc chắn không còn là của riêng anh nữa. Đứa con tinh thần có thể chết yểu nhưng nó đã được cưu mang bằng cả tấm lòng Phương từng dành cho chính cuộc đời anh.
Kẻ thích đùa bảo: "Dân Việt Nam ta cứ mười người thì có mười một thi sĩ!". Cuộc sống nhộn nhịp và ngắn ngủi chưa cho phép "Nhà nhà viết tiểu thuyết". Tuy nhiên lý do đó cũng đủ để những trang in tương lai của Phương bị xếp xó và đóng bụi trên kệ sách, hoặc hành quân xuống vỉa hè "hạ giá" làm giấy gói xôi.
Như vậy ý nghĩa được sống lại, được làm lại và quyết không làm lại nhiều chi tiết có thật hoặc hoang tưởng, dọc năm tháng đời mình trở thành mục tiêu cuối cùng khiến Phương ngông nghênh chấp bút. Và khi khép vào toàn bộ sơ thảo Phương bỗng bàng hoàng nhận ra anh chỉ và mãi mãi sẽ chỉ khai tâm được cho chính mình mà thôi. Phương, cá thể hoang dã đã bị ném vào đời và ngụp lặn trong cộng đồng luôn luôn ngộ nhận về ý nghĩa tồn tại của chính mình. Anh và tất cả những gì xung quanh anh vẫn hì hụi ở vài chiêm nghiệm bán khai nhầy nhụa, tởm lợm. Chẳng ai có thể nắm tóc mình để tự cứu khỏi bầy đàn nhung nhúc kia. Đáng buồn thay, nhưng quy luật là vậy, sự khai tâm cũng là tự tận, là kết liễu đời sống tinh thần, bởi không có nó người ta vẫn sống, vẫn duy trì nòi giống, vẫn khắc khoải với giá trị này nọ, với hạnh phúc và tình yêu.
4 - Mẹo...(tiếp theo)
Biển đông mùa hạ. Tàu khách Thống nhất băng băng xé đôi mặt nước phẳng lì như gương. Thành phố Hoa Phượng Đỏ đang chờ đoàn sinh viên chuyển giai đoạn. Sóng của lòng người là thứ sóng lừng khó chịu.
Sinh viên Hàng Hải chiếm hơn nửa số hành khách. Việc chống buôn lậu vừa hoàn tất. Ai cũng mang một tải gạo nhỏ phù hợp với giấy thông hành cứu đói trường cấp. Dăm chục người trốn vé là nguyên nhân cuộc bố ráp, lùng sục từ những góc nhà vệ sinh trở ra. Mười mấy kẻ chậm chân đều có vẻ bề ngoài giống nhau: mặt mũi xanh xao, gò má hốc hác, mắt hơi lộ vì thường học bài khuya dưới ánh sáng tồi tệ.
- Tống chúng vào chuồng xí tầng ba - Tay Đại phó biết chắc chẳng thể mõi tiền lũ áo rách - Về đến Hải Phòng điện nhắn cho hiệu trưởng ra nộp phạt.
Hàng trăm bè bạn của tội nhân phẫn nộ phản đối cách đối xử thô bạo.
- Bảo vệ đâu, đem súng lại đây. Chúng nó định nổi loạn - Đại phó gằn giọng.
Năm bảy thủy thủ xộc vào, AK báng xếp rôm rốp lên đạn. Đám sinh viên bớt ồn ào, nhỏ to thì thầm rồi lần lượt giải tán. Đêm ấy tên lính canh cửa ngủ gật bị trói giật khuỷu tay, bịt mắt bằng vải đen. Cánh cửa phòng giam hai lớp khóa đổ xuống. Các con tin đói bụng, khát nước được giải thoát.
May mắn lúc lộn xộn không có tiếng nổ của phát đạn chỉ thiên nào. Ba tháng sau công an Hải Phòng dại dột khai hỏa mở đường máu giải vây tên côn đồ vào trường bắt nạt sinh viên. Súng bị cướp. Cả hai được an trí trong phòng học bỏ trống sau khi nếm đòn dập người. Dân tình bị kích động kéo đến định san phẳng mọi thứ. Xung đột suốt đêm. Hàng trăm người bị thương. Đài BBC Anh quốc hớt lẻo: "Sinh viên trường đại học Hàng Hải biểu tình phản đối điều kiện học tập tồi tệ, đòi cải cách giáo dục".
Ngoa ngôn hết cỡ. Phương biết rõ đám quậy phá đều là lũ anh hùng rơm, con ông cháu cha. Chúng lợi dụng mâu thuẫn đơn giản, đi đầu bạo động nhằm giải tỏa năng lượng thừa và giảm căng thẳng quá mức trên giảng đường. Xong việc có đứa kiêu căng vỗ ngực: "Ông tao vừa gọi giám đốc công an Hải Phòng lên Hà Nội kiểm điểm!".
Chế độ thi lý lịch phù hợp với câu ca dao "Con vua thì lại làm vua". Khoa Điều khiển tàu biển Phương học có giá nhất và điểm xét tuyển rất cao. Mua bài giải kỳ công và phiền toái. Kẻ cơ hội rất hiểu mình, chúng không liều lĩnh đăng ký khoa này mà thi vào hơn chục ngành khác mềm hơn. Sau hai năm chúng mới ra sức chạy chọt chuyển khoa và nghiễm nhiên trở thành Thuyền trưởng tương lai. Kỳ đại hội dân chủ sinh viên nào đám lươn lẹo cũng bị xỉ vả. Chẳng làm sao xóa đi vẻ mặt dương dương tự đắc của chúng. Thầy hiệu trưởng dàn hòa: "Ngoại giao đấy! Xin các em thấu hiểu. Thầy không nghĩ đây là lệnh bề trên. Chúng ta cần chấp nhận bánh ít đi bánh quy lại mới sống được (?!)".
Lớp Phương có dăm cán bộ diện ưu tiên. Họ thừa chăm chỉ và kỷ luật, không hề vắng mặt tiết giảng nào. Giờ tự học họ chuyên chú sao chép bài vở vào những tờ giấy bé li ti được gọi là phao cho kỳ thi. Đám con ông cháu cha chơi bời là chính. Chúng thích quay cóp nhưng lười nhác. Gần kề ngày sát hạch chúng lén đánh cắp phao. Mấy anh sợ hết hồn, đành năn nỉ công khai "Các em thương tình. Không phải anh lười đâu. Già rồi, học không vào". Thương lượng đi đến thỏa hiệp: cán bộ cho mọi người mượn phao sao chụp thành nhiều bản. Khi thi nếu bị bắt cấm khai ai là tác giả phao.
Học phổ thông tốt, thi điểm cao sẽ được học chính qui. Dù còn nhiều bất cập nhưng tạm gọi là hệ có chất lượng tương đối, thời gian học 5 năm. Học dốt, thi trượt mà lắm tiền thì vào lớp ngắn hạn (hay bị nói trệch là ngu học) chỉ cần ba năm rưỡi. Hệ tại chức vừa học vừa chơi cũng ngần ấy thời gian. Bằng cấp đổ đồng: Kỹ sư này nọ, giá trị ngang nhau.
Người cán bộ học tại chức đặc biệt nhất mà Phương biết chính là Anh hùng Chút. Anh Chút từng hai lần được truy điệu sống trên con tàu biển chở vũ khí vào Nam thuở đất nước còn chia cắt. Giải ngũ, anh về quê tham gia chính quyền địa phương và trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh. Tính anh Chút thẳng như ruột ngựa, khí chất giống Nghĩa sĩ Cần giuộc của cụ đồ Chiểu. Không vừa ý điều gì, hoặc với ai anh đều nói thẳng. Cấp trên không dám nặng tay đành dỗ ngon dỗ ngọt, khuyên anh đăng ký học tại chức.
Tuổi cao, trí nhớ suy giảm, học kỳ đầu tiên anh Chút trượt nhiều môn. Danh tiếng của anh khiến thầy hiệu trưởng phải tiếp kiến và ra lệnh cho giáo viên kèm cặp anh đến chừng nào anh thi qua thì thôi. Từ đó anh thi đâu đậu đó. Chẳng thầy cô nào dại dột bỏ phí hai tháng hè riêng tư bên cạnh người anh hùng!
Sẽ phiến diện nếu không kể đến thầy cô giáo. Phương rất áy náy khi đề cặp đến vấn đề nhạy cảm này. Nhưng hơn hết sự giấu diếm không phải lối hành xử hợp luân.
Đời sống gia đình khó khăn, rất nhiều thầy cô bị quà cáp làm nghiêng ngả. Những năm đầu học trò thường cống nộp đường, sữa, bánh kẹo, bột ngọt thậm chí gạo nếp, gạo tẻ đem ra từ miền Nam. Sau đó sinh viên truyền nhau câu nói của thầy Khánh: "Vật chất cồng kềnh, dễ lọt tai mắt thiên hạ, đi bán lại phiền hà nhiêu khê. Chúng mày qui ra 'thóc' hết cho thầy". "Thóc" nghĩa là tiền bỏ phong bì. Không đủ điều kiện dự thi học kỳ, trước khi thi đi và thi lại "thóc" làm thầy cô dễ chịu, trò dễ đạt điểm trung bình. Giá cả ít phổ biến rộng nhưng không nắm giá là sơ xẩy ngay. Phải có học lực xuất sắc nổi bật mới dám từ chối đóng tiền chạy thi cho lớp phó học tập. Danh sách người đóng tiền sẽ được ghi chép chi tiết, cẩn trọng nộp cho thầy cô.
Riêng giáo viên ngoại ngữ miễn hẳn cho Phương khoản thuế. Họ còn nhờ vả vốn tiếng Anh kha khá so với bè bạn của Phương. Hải Phòng có cả chục trung tâm ngoại ngữ buổi tối do khoa tiếng Anh trường Hàng Hải thao túng. Tháng nào Phương cũng được dấm dúi số tiền gấp hai lần học bổng nhờ đi thi thuê. Chánh chủ khảo từ Hà Nội xuống nhẵn mặt Phương nhưng làm lơ. Họ chẳng thèm gạn hỏi khi tên và tuổi của thí sinh trong thẻ dự thi thay đổi xoành xoạch, nhưng người ngồi trước mặt họ trả lời vấn đáp không hề khác đi. Nhộn nhất là lúc xướng tên vào phòng ứng thí. Nhiều vị kỹ tính cứ kè kè bên Phương, sợ anh phản ứng không nhạy. Họ gọi Phương là thằng "tao". Phương chậm chân là họ quay ngang quay dọc vô tư hỏi bè bạn xung quanh "Giời ạ, thằng 'Tao' đâu rồi?". Giáo viên điểm danh khó khăn lắm mới nhịn được cười.
Khoảng cách giữa cô giáo và học trò tương đối xa, với thầy - nhất là thầy độc thân thì khác. Thầy rủ uống bia, sớm mà chạy tiền bia. Thầy nhắm ai có máu mặt giả vờ vay mượn, đố dám đòi. Thầy nhờ xe gắn máy đi chơi nhỡ va chạm, hỏng hóc cũng rán ngậm bồ hòn làm ngọt. Đôi khi các thầy buồn nhắn gọi trò sang dãy nhà tập thể giáo viên phong kín cửa đánh bạc thâu đêm.
Đạo đức giáo học không được bảo toàn nói gì đến kỹ năng giảng dạy. Sách vở, giáo trình tiếng Việt ít tiếng Nga nhiều, cũ mèm mốc meo vì sử dụng từ những năm sáu mươi. Bài giảng chủ yếu là kinh nghiệm thực tế, rời rạc, không hệ thống và phản khoa học. Chỉ vài cựu thuyền trưởng được đào tạo ở Liên Xô cũ khá hơn chút đỉnh, tuy không ít điều tiếng. Nghe bảo có lần điều khiển tàu cặp cảng thầy Ngọc sơ ý va nhẹ vào con tàu có vẽ cờ đỏ búa liềm. Thủy thủ nước ngoài xì xồ chửi, đại ý thuyền trưởng học trường nào mà tệ quá. Tức mình thầy Ngọc đôi co: "Tao từ lò Odessa, tốt nghiệp bằng đỏ đấy!". Tây trợn mắt, lắc đầu nguầy nguậy.
Bước xuống tàu Thống nhất tại cảng Chùa Vẽ, Phương cứ ngỡ rừng phượng vĩ sẽ đón mình. "Cây già cỗi chết sạch rồi!" - Người đạp xích lô phân trần. Nếu sống ở đâu ba năm, nơi ấy thành quê hương thì Hải Phòng là quê hương của Phương thời hoa đỏ. Lịch sử thành phố bắt đầu từ phòng tuyến bảo vệ bờ biển thời phong kiến. Dân cư đông đúc chưa lâu vì phần lớn họ là người du thủ du thực mới kéo đến lập nghiệp quãng đầu thế kỷ 20.
Phương không thể lý giải tình yêu anh dành cho Hải Phòng. Kỷ niệm anh còn lưu giữ không nói lên điều gì, người nghe sẽ ngạc nhiên hơn là đồng tình.
Lần đầu tiên ra phố chơi với Trần bạn sơ giao cùng lớp, dân bản xứ hai đời, Phương bối rối vô cùng. Trần chở Phương trên chiếc xe đạp đua thời thượng, ăn to nói lớn, chạy ẩu như chốn không người.
- Con gái Hải Phòng ăn đứt Sài Gòn chứ?
- Đây là xứ lạnh ít nắng. Nước da đẹp lắm - Phương trả lời.
- Tớ làm quen hai em đằng trước nhé - Không đợi Phương phân vân Trần phóng vèo lên, bẻ tay lái vào lề. Hai chiếc xe quẹt nhẹ, loạng choạng.
- Con bé chết tiệt này đi đứng kiểu gì thế - Trần vừa ăn cướp vừa la làng.
- Rõ khéo lũ du côn - Cô gái đanh đá vặc lại.
Phương ngỡ sẽ có cãi cọ nữa nhưng anh lầm. Trần cười xòa, xin lỗi và tiện thể đả đưa vài câu chòng nghẹo. Hai chiếc xe sóng đôi một khoảng. Họ quen nhau rồi đấy! Nếu Phương không đòi đổi hướng qua phía bưu điện chắc chuyện còn dài.
Gần ký túc xá có bảng hiệu đọc lên hơi kỳ: "Truyên xửa xe mi ly". Hoá ra anh Văn, thợ sửa xe kiêm chủ cửa hàng bán lẻ than đá cố tình gây chú ý bằng lỗi chính tả. Người anh lúc nào cũng đen nhẻm dầu mỡ và bùn than. Anh thương đứa con trai bảy tám tuổi nhiều, cưng chiều kèm cặp học hành kỹ nhưng đánh con cũng ác, bao lần cả xóm được mục kích đều xót hộ. Anh rất gia trưởng, nhiều lúc bất đồng còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với chi vợ chân chất quê mùa. Chịu hết thấu chị hay bỏ qua nhà mẹ ruột. Một hai tháng làm hòa, chị nhớ con trở về và bổn cũ diễn lại.
Anh Văn rất thông cảm đời sống sinh viên. Xe hư hỏng đơn giản anh thường chỉ ra và cho khách mượn đồ nghề tự sửa. Nếu anh làm thì giá cũng thấp hơn nơi khác.
Văn hay rủ Phương uống rượu suông. Có tí men anh bắt đầu đọc thơ. Anh là thành viên câu lạc bộ thơ ca cung Hữu nghị Việt - Tiệp. Thơ anh cục mịch, bình dị nhưng rất đời, lắng đọng và sâu sắc. Phương không chịu nổi thơ của các cụ về hưu thỉnh thoảng tụ tập đầy nhà Văn nghêu ngao inh ỏi. Sáu bảy mươi tuổi, gác kiếm xã hội họ mới tập tành hồi hộp, chờ mong, nhung nhớ người yêu trong thơ thì buồn cười hết chỗ nói.
Xéo nhà anh Văn có hiệu vẽ truyền thần vỉa hè của ngài văn sĩ tạm gọi là thứ thiệt. Ông chớ bao giờ giao tiếp với nhóm của Văn. Ông tự cho mình ở "chiếu trên". Phương hiếu kỳ đến hỏi chuyện.
- Tao là tao đứng đầu 500 nhân tài trong hội văn chương quốc doanh đàng hoàng - Cơ sự là tên bác vần A. Xếp theo trật tự chữ cái thì bác ngồi trên tất cả - Mày nhớ để ý ông lão hay ghé tao chơi, thi sĩ trường thọ nhất của Việt Nam đấy. Ông ta trưởng thành cùng Thế Lữ từ thủa Tiền chiến nhé.
Cạnh quán vẽ là hàng nước chè nước đắng, chỏng chơ vài chiếc ghế nhỏ. Cô bán hàng xuân xanh hai má hây hây có sức hút lạ kỳ. Nhà thơ lão thành trên cửu thập không phải hay ghé thăm bác thợ vẽ mà chỉ viện cớ ngắm bông hoa đời thập cửu. Cụ già râu tóc bạc phơ, quần áo sờn cũ nhưng đủ bộ complet, cà vạt. Phố cổ Cầu Đất xem cụ là nét đẹp ngang tầm với mình. Giọng nói và điệu bộ cụ thể hiện nơi quán cóc hơi nghộ nghĩnh.
- Vân cho mình xin chén chè nhé.
- Của cụ đây ạ.
- Vân này, tớ đang viết dở bản trường ca bi hùng nhất của dân tộc. Hôm nào in xong tớ sẽ tặng Vân một quyển.
Người như cụ cố này, khắp cõi Việt Nam còn lại không bao nhiêu. Họ có quá nhiều thứ để hậu thế kính trọng, không riêng tuổi tác. Tuy nhiên sự kiêu hãnh về cái gọi là Tây học, tân học của các cụ thì chẳng thể tung hô được. Ngôn ngữ thường nhật của các cụ luôn pha gia vị Pháp văn cực kỳ cay gắt. Lâu lâu các cụ lại xổ cho được một câu dẫn nổi tiếng nào đó hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Có lẽ các cụ cho rằng tiếng Lang Sa là chuẩn mực của văn minh, chứ không phải kết quả phản kháng tệ hại trước công cuộc cưỡng hiếp mang tên "khai hóa" của Tây dương. Ở trường hợp này Pháp văn, Anh văn hay Nga văn đâu phải là sinh ngữ dành cho giao tế hướng ngoại. Nó là sự phỉ báng tiếng mẹ đẻ!
Hải Phòng hẵng còn nguyên ngõ Cấm và làng hoa Hà Lũng rất đỗi quen thuộc với văn chương Việt Nam nửa thế kỷ nay. Phương đã ở trọ cả năm thời sinh viên trong một căn nhà tồi tàn nơi đây. Nó là cái chái đầu dãy nhà tập thể bất tiện, hẹp như hủ nút, xưa cũ rêu phong và loang lổ vết thương do vôi vữa kém phẩm chất tróc ra. Chỗ đất trống quanh nhà được chiếm dụng bằng bức tường liên hợp quốc. Nghĩa là nó hình thành trên cơ sở kết nối phi trật tự của mọi loại vật liệu, nhưng hoàn toàn bền vững với cánh cổng sắt kín mít cao ngất. Đất trong trong khuôn viên đầy cỏ. Cây táo dại ở góc sân xum xuê cành lá phủ trùm lên căn nhà bóng tối liêu trai, mờ mờ tỏ tỏ và lành lạnh suốt bốn mùa, kể cả những ngày nắng chói. Phương thường ngồi trên chiếc bàn mặt cót ép sơn hắc ín, nhìn ra gốc táo. Khung cửa sổ bé xíu chằng chịt song sắt, hai mảnh che mưa gió cũng là cót ép.
Hướng thẳng mắt, ngước đầu hơi cao sẽ thấy đọt cau già của mảnh vườn người hàng xóm ít tọc mạch. Người ta bảo với tuổi trẻ ngày qua mau nhưng năm tháng rất chậm. Phương không thấy vậy. Anh đã trải bao nhiêu thời gian trên cái bàn không đáng gọi là bàn ấy nhỉ? Thật khó xác định nhưng chắc chắn dài lắm. Sao không dài, khi Phương biết mười mươi những thứ anh đang tiếp thu trên giảng đường có thể trở thành kiến thức chỉ nhờ vào thời gian mà thôi, hiếm khi cần động não. Nếu giảng viên không xem chuyện điểm danh như điều kiện của mỗi kỳ thi, chắc Phương chẳng buồn lên lớp. Lâu lâu anh tạt qua thư viện mượn vội vài quyển sách về tự học là xong.
Chủ yếu Phương ngồi bên cửa sổ nặn óc viết lách. Nói viết lách cho sướng tai, thật ra là uốn con chữ theo các chuyên mục vô thưởng vô phạt phổ biến trên vài tờ báo địa phương hoặc ngành ngang ngành dọc, cố kiếm đồng nhuận bút còm. Phương không dám lưu giữ những bài báo được đăng. Bao năm tháng đã qua, mỗi lần nhớ về hàng cau thuở nào Phương luôn cảm thấy có lỗi. Căn nhà chở che anh trong mưa nắng và hai ba cơn bão. Hàng cau luôn là giai điệu mượt mà ru Phương vào giấc mơ trời xanh, tương lai và hạnh phúc. Có đêm chạy bài đặt hàng cật lực, Phương mất hết khái niệm thời gian. Chỉ khi hương cau ngào ngạt xô tỏa vào nhà anh mới hay trời sắp sáng. Phương hít thật sâu hương vị làng quê rồi mặc kệ báo với chí, anh bước ra mở cổng ngắm trời đất.
Ba bốn giờ, con đường nhỏ vắng hoe, gà chưa gáy. Thế mà lẫn khuất trong sương, trong khói các lò than tổ ong đang được nhen lên là bóng dáng thật phi thường và không thể nhầm lẫn của những người phụ nữ. Vành nón lá tả tơi che gần hết khuôn mặt, vài ba lần áo vải. Họ lầm lũi làm lụng, như tảo tần là thiên chức được ghi sẵn trong số phận. Phương để ý nhiều nhưng lúc nào cũng thất vọng. Trước năm giờ không thể tìm thấy mống đàn ông nào trong số ấy, trừ kẻ hoàn toàn vô dụng là anh. Người phụ nữ Việt Nam lam lũ quá, chấp nhận quá. Làm sao họ hiểu được ánh mắt cảm khái của Phương. Họ cũng không mơ mộng đến nỗi quên đi miếng bánh, nắm xôi cho con cái ở nhà mà tìm mua tờ báo có bài Phương viết. Chắc đó là lý do Phương chưa hề nghĩ đến cốt truyện cho riêng họ. Dầu gì anh vẫn nợ họ quá nhiều, từ những mẩu "muôn mặt đời thường" phét lác câu khách, giá hai mươi ngàn đồng một kỳ. Anh đâu đủ tư cách và tài năng cất lên tiếc hát sẻ chia nhọc nhằn với họ.
Trên đường phiêu bạt, lâu lâu Phương lại cảm thấy trống vắng và da diết nhớ những gánh hoa đi qua ngõ vào phố. Từng cánh ngát hương, nặng trĩu tiết văn đất trời và tinh túy bàn tay người chăm sóc. Chiếc đòn gánh oằn cong trên rẻo vai gầy guộc của người bà, người mẹ, người chị, người em quê nghèo. Hoa đẹp lắm, mỗi mùa mỗi kiểu. Xuân có Hoa tím, Vạn thọ, Thược dược… Hạ có Huệ tây, Huệ ta, Bông sen, Bông súng… Thu có Hoàng lan, Cúc vàng, Thạch thảo… Đông có Hồng nhung, Móng rồng… Còn bao nhiêu loài hoa nữa, Phương nào biết tên. Hoa bảo với anh rằng thời gian đang qua, mùa đang tới, Phương đang trưởng thành…
Từ Hải Phòng đáp xe đò về quê ngoại Phương cũng gần. Mười mấy năm xa cách, phần vì trí nhớ tốt, phần vì quê mẹ chậm đổi thay, Phương không khó khăn nhận diện hàng Găng xù xì gai góc trước khuôn viên cũ. Ngôi nhà cổ không còn. Thay vào đó là khối hộp bê tông mái bằng thô kệch. Người chủ mới hé mở khung nhôm kính dò xét khách lạ. Phương buồn bã quay gót. Anh rảo bước thật chậm như muốn xem từng viên sỏi rải dọc đường làng quen hay lạ.
Thị trấn rục rịch xây nhà, trổ cửa. Hàng quán mọc lên như cỏ dại sau cơn mưa dứt hạn. Lố nhố kẻ bán người mua. Vỉa hè bị choán gần hết. Không thể đoán biết căn hầm cá nhân mẹ Phương thọ nạn ở khu vực nào. Chỗ chiếc lô cốt xưa bây giờ nghệu nghễ tòa nhà chính quyền và đảng ủy thị trấn. Nước sơn màu mè kém thẩm mỹ, hình khối thô lậu nhưng tuyệt đối oai vệ. Đáng tiếc cho nền kiến trúc Á Đông tận dụng tối đa chất liệu gỗ. Lâu đài, thành quách huy hoàng rực rỡ từ thuở cố đô Lạc Dương Đông Chu không làm mồi cho lửa chiến chinh thì cũng đã mục nát giữa dòng thời gian. Hàm Dương và cung A Phòng của Tần Đại Đế có thua gì Athen hoặc Rome. Cũng may còn đó Vạn Lý Trường Thành, Tử Cấm Thành, Cố Cung Huế như minh chứng bất diệt cho ánh hào quang vĩ đại của quá khứ.
Cuối thị đầu thôn là nghĩa trang gia tộc họ Nguyễn. Trẻ chăn trâu đang đùa nghịch. Chân ruộng lúa nước lấn mãi mảnh đất gò. Vạt thời gian sạt lở. Bia đá xiêu vẹo. Nét chữ nho mòn vẹt. Tiếng gà trưa eo óc âm vọng. Cụ ông, hai cụ bà, ông ngoại và bà ngoại Phương yên nghỉ nơi đây. Chắc hồn vía mẹ và cậu cũng hay về hai ngôi mộ gió đơn sơ. Phương cắm cho mỗi người thân một chân nhang, số còn lại anh găm hết ở bìa bãi, đầu ngọn gió.
Khói hương lan tỏa, ngậm ngùi.
Mấy năm sau Phương lặn lội tìm được những người bà con xa có thân nhân trong khu nghĩa trang. Họ cùng nhau góp sức, cải táng toàn bộ cố nhân tại căn nhà thờ vĩnh cửu trên sườn núi Thanh Tước, phía ngoài thị trấn.
Đầu giờ chiều Phương nhảy tàu lên Hà Nội. Xe lửa ầm ầm qua cầu Long Biên. Dòng Hồng hà hùng vĩ chảy ra từ vầng dương cuối chân mây. Mùa nước lớn đỏ quạnh phù sa. Phương bỗng hết thấy sợ sông Hồng như cái ngày bé thơ cha dẫn bộ sang cầu, lũ réo dưới chân. Hơn hai ngàn năm trước người Việt cổ xăm mình, lặn ngụp nơi đây, mưu sinh bên cạnh thuồng luồng, cá sấu. Hai con đê cứ dài ra mãi, cao lên mãi theo bước đi của dân tộc. Dòng sông lịch sử mang màu máu của Mê Linh liệt nữ, mang nước mắt của Trọng Thủy khóc Mỵ Châu khi gieo mình tuẫn tiết bên giếng Ngọc. Sự khổ hạnh của muôn vạn kiếp người lầm than chật vật đi tìm lẽ sống và tự do phảng phất trên đầu những con sóng sùi bọt.
Những dòng sông lớn luôn là bầu sữa nuôi dưỡng nhiều nền văn minh lớn. Nên xem Hồng hà nằm trong tổng thể lớn với Hoàng hà và Trường giang thì mới có thể sánh với sông Nile, sông Hằng được. Sự chia rẽ là phản trắc và tự hạ thấp mình. Dòng sông Hồng tương lai sẽ luôn thắm đỏ, nhưng có phải là nét son điểm tô giữa lòng Thăng Long hùng cường và thịnh trị? Câu hỏi váng vất trong bóng chiều thiên cổ vẫn xoáy vào tương lai như niềm day dứt khôn tả.
Phương đến Văn Miếu rất muộn. Cửa gỗ rệu mục khép hờ. Hàng bia đá bao năm vẫn giễu cợt gió mưa bão táp. Mái ngói rêu phong nép mình dưới tàn cây âm u. Thị giác hoang vắng nghiêm cẩn và có phần lãng đãng sương mù quên lãng. Bên ngoài tường rào, thanh âm ô trọc vẩn đục. Chế Linh, Tuấn Vũ, Ngọc Sơn đang rên rỉ vài giai điệu nặng mùi. Đạo của Thánh Khổng, Đức của Thầy Chu Văn An còn hay mất? Có lẽ nào ngày ngày hàng đạo quân mặc quần đùi, đi dép lê xí xa xí xô khám phá và chiêm bái di tích như dấu vết cuối cùng của những giá trị nhân văn sắp bị tuyệt diệt.
Phương dò văn bia cố xem họ Vương của anh có nhiều không. Đúng là cái họ Tàu phạm thượng này khá ít. Chỉ một hai tên gọi mà Phương vẫn phải dùng tự điển để tra. Anh cay đắng hiểu rằng mình vẫn là kẻ mù chữ. Lịch sử ngàn năm lô nhô trong chiều nắng xế, giếng Thiên Quang sao cứ hoài hiu hắt để bóng tối hoang đàng trắng trợn nuốt trôi quá khứ.
Có vị khách ra hiệu nhờ Phương giúp ông giữ tấm giấy can chữ. Bột chì đen không thể chạm vào vết khắc, nét móc, nét sổ lại tung hoành. Những chữ Minh Mạng đã ra lệnh đục bỏ thì khác. Ô vuông sâu hoắm như ao tù, lợn cợn cặn oan khiên.
Thì ra người lạ là nghiên cứu sinh nước ngoài. Tiếng Việt anh ta nói pha âm Phúc Kiến nhưng rõ ràng và mạch lạc:
- Anh thực tập cổ ngữ à?
- Tôi đi tìm hiền sư.
- À… ở đây từng có cả. Tấm bia của minh quân bên phải, chính giữa. Tôi dịch hộ anh nhé: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Bia dựng năm 1484, niên hiệu Hồng Đức thứ 5, ghi tên tiến sĩ khoa Nhâm tuất 1442. Đó là giai đoạn Nho giáo lên ngôi giúp Việt Nam cường thịnh. Người Đài Loan hay đùa “Nhân dân đọc được những gì Mao viết nhưng không biết các thứ Mao đọc”.
- Tôi đáng thương không?
- Ánh mắt anh thiếu cả hơi ấm nghiêm từ phụ mẫu. Vì sao nên nỗi?
Phương hoảng hốt bỏ đi như chạy và tự hỏi: “Người ta có thể lẩn trốn bóng tối được không?”.
Việc viết lách giúp Phương có người bạn thân tại Hà Nội. Lợi xuất thân là thuyền trưởng lữ đoàn 25 Hải Quân đóng ở Hải Phòng. Lợi mê văn nghiệp và hội họa. Hắn kết giao với Phương tại nhà anh Văn. Mãn hạn phục vụ quân đội Lợi chọn nghề tay phải thông qua Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.
Sinh viên trường Lợi hiếm, trong khi cơ sở vật chất đồ sộ. Riêng Lợi chiếm hai phòng ở tầng 5 dãy nhà vừa làm lớp học vừa làm ký túc xá. Phòng thứ nhất là xưởng vẽ. Ngoài giờ lên lớp Lợi loanh quanh sáng tác. Hắn vẽ khỏe. Bốn bức tường mênh mông treo đầy tranh ảnh thể nghiệm theo mọi trường phái và chất liệu. Thỉnh thoảng tranh của Lợi cũng lọt vào một cuộc triển lãm tập thể nào đó. Lợi để tóc dài. Quần áo cố tình vò cho nhăn nhúm và hạn chế giặt giũ, nếu chưa lỡ dính màu thì cũng rán bôi vài nét vào cho đẹp. Cảm thụ mỹ thuật của Phương mơ hồ nên anh thích nghe Lợi lý giải họa hứng và niềm say mê vẽ vời. Lợi ưa nhất cụm từ "tính dân tộc" và nói đi nói lại không mệt.
Lợi rất nhiều bạn nhưng chỉ giới hạn trong lĩnh vực Cầm - Kỳ - Thi - Họa. Các nhà thơ sinh viên ứng với câu vè "Ra đường thì gặp lề đường. Bước tới cổng trường thì gặp nhà thơ" là nhóm bạn Lợi thân nhất.
Thủ lĩnh "tiểu thi đàn" là phóng viên giải đáp mắc mứu tình cảm Tầm Phào, báo Tuổi Xuân. Tầm Phào rất hãnh diện vì chức trách cao cả. Mỗi lần gặp Phương anh đều đùa: "Có câu hỏi nào hay hay cho anh xin. Tuần này thư em gái vùng sâu vùng xa chưa tới kịp vì mưa bão trái mùa".
Phó của Tầm Phào chính là tác giả hai câu thơ hơi lạ tai: "Người đàn bà dấu 'muối tiêu' vào thuốc nhuộm. Em tìm kiếm chi mô khi đã bỏ tôi rồi". Loại thơ con cóc như vậy bao la nhưng riêng bài trên rất nhiều người biết, thậm chí được phổ cả nhạc. Cũng bởi nó là con đẻ của mối tình đoạn trường, giữa thi sĩ Hoa Hồng Khô và nàng ca nhi Nhân dân đầu tiên của Hội Nhạc nhẽo quốc doanh. Kỳ thực nàng nọ cũng có ít tài hoa. Nhân dân không tiếc cơm gạo nuôi nàng học hát nhạc kịch. Một ngày nắng mới, sau khi ẵm danh hiệu cao quí nàng quay ra đề nghị Nhân dân ta nên nâng cao "Dân trí" thì mới mong hiểu được cái hay cái đẹp của dòng nghệ thuật hát hò cổ điển hay nôm na là “cải lương” Tây dương!
Với sự giúp đỡ của đàn anh gạo cội, Thi đàn chung sức sáng tác thi phẩm nổi tiếng dành tặng bạn gái họ có dịp gặp gỡ và nảy sinh tình cảm. Bài thơ gồm chục câu lục bát có tựa đề bí mật là "Áo em… muôn màu". Tên màu sắc thật ra được để trống. Chẳng hạn anh nào may mắn gặp tà áo vàng dễ thương, như phản xạ có điều kiện, lập tức màu vàng được điền vào để tụng ca phút giây tuyệt vời. Nếu nàng xúc động đến nỗi không nhớ chàng đọc gì nói gì, chỉ cần cầm bút viết tặng nàng bài thơ trên miếng giấy nhỏ thủ sẵn. Lợi đã gia công đại trà hàng xấp giấy xinh xinh với vài đường diềm lả lướt. Đây sẽ mãi là chiêu thức tán gái lợi hại nếu nhóm không dại dột kết nạp một cậu bị mù màu. Cậu này dấu biệt mình không thể chỉ ra trái ớt nào đã chín, trái nào chưa. Một hôm cậu gặp tà áo đỏ xinh đẹp nhưng ăn mặc hơi hở hang. "Muôn màu" dĩ nhiên biến thành xanh. Khốn nỗi xanh lại là màu “áo trong” của người ta! Nàng tiên bé nhỏ nổi giận xé tan bài thơ. Bạn bè hiếu kỳ xúm vào hỏi han. Vỡ lẽ, hai ba người trong số họ cũng từng được tặng những mảnh giấy tương tự.
Các nhà thơ sinh viên buồn lắm. Chiều đó họ vay nóng hay cầm đồ, mỗi người góp đủ mười ngàn rồi kéo nhau ra quá cày tơ. Buổi lễ hỏa táng bài thơ "Muôn màu" rất màu sắc. Rượu trắng dăm chai, thịt chó mực nghe nói giải được vận đen, riềng vàng, lá mơ xanh, mắm tôm xám… Sự bùi ngùi có lẽ hơi quá. Kết quả là bà chủ quán phải lấy bút đỏ ghi sổ phần tiền còn thiếu. Hôm sau hai ba cậu lại bị ban quản lý ký túc xá bắc loa gọi xuống nhận hình thức kiểm điểm là vệ sinh nhà xí công cộng. Rượu vào lời ra, họ đâu biết mình đã quậy tưng bừng trong đêm và oẹ ra hàng xô xú uế.
Trường Mỹ thuật Công nghiệp của Lợi bị kẹp ở giữa bởi ba trường khác khá lớn là Văn Minh, Viết Văn và Nhạc Viện. Phương thích leo rào qua Nhạc Viện chơi trong khi Lợi khoái hai nơi còn lại. Lợi hay nói chuyện trên trời với mấy bác công nhân và nông dân đang được đào tạo chuyên tu lý luận văn học và nghiệp vụ sáng tác. Họ chăm chỉ học tập để cống hiến nhiều hơn cho phong trào tại cơ sở sản xuất, chiến đấu trong cả nước.
Phương ngại nhất là đến thăm ký túc xá nữ trường Văn Minh. Phòng hai mấy mét vuông nhét sáu chiếc giường tầng. Ban công hẹp treo đầy hàng đặc chủng của nữ giới. Bếp dầu, nồi niêu xong chảo kê gọn vào bốn góc. Khách lạ viếng thăm được ngồi trên chiếu hoa trải giữa nhà. Màn kín giăng bốn phía. Không bao giờ thiếu một cặp tình nhân đang rúc rích tình tự sau lớp vải rung rinh. Có dạo "Văn hóa màn kín" bị báo chí bài bác. Ký túc xá đóng cửa từ chín giờ tối và kiểm tra nghiêm ngặt hành tung khách nam giới. Vậy mà thỉnh thoảng bố ráp đột xuất cũng cảnh cáo được hai ba chàng Chử Đồng Tử chưa kịp mặc áo, lum khum trốn ngoài ban công.
Cứ dăm bài viết vớ vẩn được đăng trên làng báo Hà Nội hoặc Sài Gòn là Phương khăn gói lên tá túc chỗ Lợi. Đi truy nã đồng nhuận bút còi để ngao du ba sáu phố phường nhiều lúc là cả một kỳ công. Có bữa nhằm hai chín tết, Phương chờ mãi mới gặp nhà văn tên tuổi làm đại diện phát hành của tờ báo phía Nam. Nhà văn khất vì chưa nhận được danh sách chi trả gởi ra. Quá giêng Phương ghé lần nữa, ông ta vỗ đùi đen đét, tiếc cho tính vô tư của mình. Ông thao thao thông hiểu với khó khăn của sinh viên.
Lợi yêu văn Ngọc Nga. Hắn hay mượn cớ khao xôi chè rủ Phương đến tán gẫu cùng Nga. Nàng từng học luật ở Liên Xô và hiện cạo giấy trong viện nghiên cứu có tên rất oai. Tối Nga bán xôi mặn đầu ngõ Cấm Chỉ. Lợi bảo rảnh tay là nàng viết. Truyện của nàng cũng dịu dàng và tha thiết lắm. Nhân tài cỡ này ở Hà Nội như lá rụng mùa thu. Họ có nhiều hội nhóm và lăn xả vào các cuộc thi treo giải thưởng rất to. Nga được ưu ái nhất vì là nữ. Cô còn khấm khá dài dài nếu không gặp sự cố kỹ thuật. Người ta trao giải đặc biệt cho Nga nhân kết thúc đợt một cuộc vận động viết lách tuyên truyền sinh đẻ kế hoạch. Lễ báo công bị gián đoạn vì tự nhiên chồng Nga, vị phó tiến sĩ Đông Âu học thất nghiệp nổi chứng huỵch toẹt rằng truyện ngắn đó do anh ta viết. Ban đầu anh dùng tên Nga như bút danh. Vợ anh vô ý hưởng tiếng. Gương mặt khả ái xuất hiện từ báo này qua báo nọ đến truyền hình làm anh chồng nóng máu. Chàng tự cho hào quang đình đám kia thuộc về chàng. Giới văn nghệ Bắc Hà được mẻ lừa tái tê. Không ai bảo ai, hết thảy biên tập viên gác cửa lâu đài chương điển kinh kỳ cạch cái tên nữ sĩ Ngọc Nga. Nàng biệt tích từ đấy.
Tốn cỡ ba trăm ngàn, phòng đào tạo giúp Phương quá giang chuyến tàu biển nội địa gọi là thực tập tốt nghiệp. Cưỡi ngựa xem hoa dăm hôm, xin thuyền trưởng con dấu và dòng nhận xét là xong. Làm bản báo cáo thực tập là bước chuẩn bị vào kì sát hạch cuối cùng. Đây là khoảng thời gian bận bịu, tốn kém nhưng hết sức vô bổ.
Luận văn tốt nghiệp của ai cũng dày cỡ quyển tiểu thuyết trung bình. Từ chủ đề bất kỳ, cố sức diễn giải càng dài càng tốt. Thầy hướng dẫn sẽ ngập ngừng đưa cho sinh viên tham khảo quyển luận văn cũ, tùy thuộc vào mức giao tế vật chất. Chép lại là chính. Có kẻ đùa, nếu văng tục giữa luận văn chắc thầy cũng không biết. Thỉnh thoảng đoàn trường tổ chức hội thảo khoa học, vài gương mặt sáng sủa được chỉ định diễn nôm. Báo chí đăng tải rình rang. Nếu thực sự trong ngành sẽ hiểu chẳng có gì mới. Tất tần tật đều trích dẫn trong sách giáo khoa, tô vẽ thêm văn từ lễ hội.
Kỳ thi rốt cuối gồm ba học phần chuyên ngành và môn chính trị bắt buộc. Đến lúc này Phương mới thực sự học, nếu không sẽ khó làm việc trên tàu. Ba tháng miệt mài. Trung bình mỗi ngày Phương dành 15 tiếng cho đề thi.
Mặc dù câu hỏi vấn đáp hóc búa, nặng lý thuyết suông, Phương vẫn đạt điểm khá. Bạn bè xì xào "Thằng Phương chạy điểm kinh thật!". Vô lý vì nếu lo lót, các thầy sẽ đồng loạt cho đậu ở mức trung bình mà thôi. Có lý bởi từ ngày nào đến giờ Phương nổi tiếng trụ học bổng. Nghĩa là hết sức chi li, theo dõi điểm số bè bạn, cố gắng nằm trong tốp trên của lớp. Không học bổng sẽ phải đóng học phí. Hai khoản cộng lại lớn hơn thu nhập bình quân của Phương nhiều.
Phương thi xong nhưng nhà trường đột ngột tạm hoãn phát bằng tốt nghiệp. Học viện Hải quân Nha Trang về khám sức khỏe chọn lấy hơn chục kỹ sư mới ra lò nhét lên đoàn tàu chiến cổ lỗ. Phương bán sạch sành sanh những thứ có thể bán, từ chiếc xe đạp cà tàng đến cái rương đặc trưng của sinh viên xa nhà. Chiếc phong bì nặng bằng nửa giá trị tài sản của Phương mà phó phòng đào tạo còn đắn đo chưa muốn nhận.
Cho chắc ăn Phương lên Hà Nội nhờ Lợi tác động thêm để khỏi đi lính. Lợi thú thật hắn không biết chạy chọt nhưng giới thiệu Phương gặp thi sĩ Thiếu Hoa. Anh này hồi bé tí đã biết làm thơ chống Mỹ khiến bà con ta tốn không biết bao nhiêu giấy mực ca ngợi. Nghe đồn đủ 18 tuổi Thiếu Hoa xung phong ra đảo Trường Sa. Hết binh nghiệp anh đi học trường Viết Văn rồi lấy bằng phó tiến sĩ văn chương ở Mạc Tư Khoa.
- Thấy gương anh em ngại quá, mong anh cố giúp. Thời bình em muốn đi tàu viễn dương hơn tàu chiến.
- Gương anh cái con khỉ - Lợi cười hềnh hệch - Thi sĩ Thiếu Hoa không né được thì có. Anh ta kém may hơn mày.
- Nói bậy đi - Thi sĩ chỉnh ngay - Mày không thấy thơ anh viết về biển và đảo sùng sục khí thế sao. Nhạc sĩ phổ ra cho mấy thế hệ hát đấy.
- "…biển một bên và sóng một bên…" - Lợi nghêu ngao - Thôi anh giúp nó đi.
- Mai tao xuống Hải Phòng. Mày nhớ đón chuyến tàu sớm nhé.
Cả tuần ngày nào Phương cũng lóc cóc ra ga chờ mà chẳng thấy mặt mũi thi sĩ đâu. Trời xui đất khiến nên danh sách lính mới không có tên Phương.
Anh Dũng giục Phương về Sài Gòn gấp. Anh đã chạy được lá thư tay bé đúng bằng bàn tay hộ pháp của vị cục phó cục Hàng Hải. Anh Dũng không nói lo hết bao nhiêu tiền nhưng thời giá tờ "Quyết định tiếp nhận sinh viên vừa tốt nghiệp" của Công ty Vận tải biển Miền nam là bốn cây vàng chín tuổi rưỡi.
Lần đầu tiên Phương cưỡng được bản tính vội vàng hấp tấp của mình. Anh quyến luyến Hải Phòng tới cận ngày hết hạn của Quyết định tiếp nhận nhân sự. Cậu bí thư đoàn ve vãn Phương ở lại trường. Máu văn nghệ nửa mùa của anh rất cần cho phong trào. Tòa báo chuyên ngành cũng hứa hẹn đủ thứ. Họ xem Phương là tay luộc tin kha khá. Cô bạn sơ giao, nhà văn trẻ Hà Nội viết thư tâng Phương liên tục. Nàng muốn Phương tham gia đợt thi tuyển phóng viên giọng Nam Bộ của đài tiếng nói Việt Nam. Hà Nội vốn là kinh đô làng văn, nàng bảo vậy. Để minh chứng viết và lách sẽ sống tốt như mọi nghề, nàng gởi tặng Phương bản sao truyện "Tên giết người lương thiện". "Cực kỳ hay" - nàng quảng cáo. Tác giả Ngô Lai giành trọn hai mươi triệu đồng, giải nhất cuộc thi truyện ngắn do tòa báo Văn Nghiệp uy tín ngoại hạng khởi xướng.
Giọng văn thường thường bậc trung dẫn người đọc vào cuộc tàn sát mang nặng tính giai cấp. Ông nội nhân vật chính từng ở đợ cho ông nội nhân vật phản diện. Đời kế tiếp tí nữa cũng vậy. Nhờ tham gia đánh nhau và các loại cải tạo thành phần ăn trên ngồi trước, cha nhân vật chính phá được xiềng xích. Đến tuổi hồi hưu ngài sĩ quan trở thành chủ nhân dinh thự vĩ đại, nơi ông từng chập chững vào đời bằng việc cắt cỏ ngựa. An hưởng không dài. Vật sớm đổi sao mau dời. Chính quyền trả lại nhà cho lũ bóc lột hiện mang nhãn hiệu Việt kiều yêu nước. Nhân vật chính từng bỏ trường đại học và theo thời cuộc tiêu phí mấy năm trai trẻ "lao động hợp tác" tại Đông Âu. Cùng đường, hắn bị đẩy về vai cắt cỏ ngựa truyền kiếp. Hận đời, mượn thêm va chạm nhỏ, hắn trộm khẩu súng lục của cha bắn chết bọn trụy lạc cùng thế hệ và vài quan chức ăn theo. Phát đạn cuối cùng hắn không dành cho hắn. Ông lão khăn đống áo the đeo mề đay Pháp thuộc trong bức di ảnh treo trên tường bị xử tử lần thứ hai. Kết truyện chánh án cao giọng: "Anh rất khó hoàn lương". "Tôi là tên giết người lương thiện!" - Bị can bào chữa.
- Kinh khủng quá - Phương nhận xét.
- Văn chương đang vinh danh kẻ sát nhân thật sự lương thiện này. Anh là kẻ ngoài cuộc và ít cảm thông. Bạo lực và giết chóc là cần thiết cho công bằng cũng như danh dự - Nàng văn sĩ trẻ biện bạch.
- Đây là bi kịch của sự thất học. Tri thức sẽ làm người ta ít dã man hơn. Nếu kẻ sát nhân hài lòng với giảng đường, kết cuộc đã khác.
Phương dằn lòng không khóc khi rời Hải Phòng. Tàu hỏa xuyên qua những con hẻm nhếch nhác, những mái ấm chắp vá. Hải Phòng của Năm Sài Gòn và Tám Bính. Hải Phòng của Phương. Hơn nửa thế kỷ Hải Phòng vẫn vậy. Người thợ đóng tàu vẫn bạc mặt bên dòng sông Cấm. Công nhân xi măng vẫn hít thở trong bụi bặm mù trời. Bến Sáu Kho vẫn sực mùi mồ hôi ngai ngái của phu khuân vác.
Phương về thăm quê ngoại lần cuối rồi lang thang khắp Hà Nội. Anh lưỡng lự trước hai ngã đường còn lại. Tự thân Phương biết mình quá nông cạn và kém cõi. Nghề văn chỉ dung nạp các khối óc thiên bẩm và thực sự dũng cảm. Ảo vọng là thứ dễ lây lan và đòi hỏi nỗ lực lớn để phủ quyết. Ngày nay nhiều người hay dẫn câu "Lập thân tối hạ thị văn chương" như cách làm duyên khôi hài, tự cao tự đại. Lối biện hộ cho thói vô trách nhiệm và bất tài của phường thầy tụng buôn mực bán chữ rất đa nghĩa. Cuối cùng Phương đành tìm may rủi.
Sáng tinh mơ Phương lững thững ra phố cổ. Chẳng biết người nghệ sĩ Bắc Hà "… lang thang hoài trên phố. Bơ vơ không nhớ nổi một con đường…" đang ở đâu. Mái ngói mơ màng nghiện vẻ cô đơn thấm đẫm trong tranh Bùi Xuân Phái. Hàng quán cửa đóng then cài. Những mắt lá bàng cuối cùng rũ rượi, run rẩy lo sợ trước cơn gió nhẹ đi hoang. Rồi mùa thu cũng cuốn phăng bằng hết. Phải chăng ngày hạ cũ quá thiếu nắng khiến sắc lá nhợt nhạt. Vậy mà sự ranh ma vẫn khó dấu. Dưới gốc cây bao nhiêu xơ lá vật vờ sau khi trả hết cho đất chất mùn nghèo nàn.
Phương ghé Thủy tạ hồ Gươm uống cà phê. Sương tan anh vào đền Ngọc Sơn thắp nhang. Phương cố ra vẻ thờ ơ vẫy tay phó nhòm chụp hộ anh tấm ảnh dưới tháp Bút. Phương chờ ảnh rửa gấp bên cạnh hai lão ông râu tóc bạc phơ say sưa chơi cờ tướng. Cỡ tiếng sau thì số phận an bài. Nhìn thật kỹ sẽ thấy ảnh không lấy được ngòi bút. Ba hán tự "Tả Thanh Thiên" nhạt nhòa.
Phương ngồi phịch xuống chiếc ghế con của bà cụ răng đen bán nước chè và thuốc lào. Vị trà tàu đắng lưỡi ngọt họng.
- Cho cháu một quẻ bác ơi - Phương quay sang ông già gầy guộc mặc áo thâm đang ngáp ruồi trước tấm bảng nhỏ "Viết sớ chữ Nho".
Cặp kính đen chằm chằm nhìn Phương:
- Sinh viên xa nhà hả? Để dành tiền bồi dưỡng hai cái má hóp kia. Cứ học giỏi tương lai khắc sáng sủa. Hơn nữa, người như cậu đâu tin bói toán.
- Bác tinh quá nhỉ.
- Phệt quần mài dép dưới đáy xã hội mà mù là chết. Ở đời không may bị mù thì cũng chớ nên lòa. Mắt sáng đừng để lóa.
- Con rồi có làm nên cơm cháo gì không bác?
- Quân tử ăn không lấy no. Câu hỏi ấy dành cho tiểu nhân.
Phương ngắm hồ Gươm lần cuối như muốn đắm trọn mình trong tiết thu se lạnh. Tháp cổ trăm năm ru gió. Phất phơ hàng liễu bờ bên kia. Hương hoa sữa đêm qua còn vương đâu đó. Chuyện kể một thương nhân ma mãnh biết xem long mạch, hắn bợ đỡ thực dân rồi xin quan thầy Lang Sa cho phép xây tháp trên gò rùa để bí mật cải táng cha mẹ. Nhân công phản trắc ném hết xương cốt xuống nước rồi yểm hai chiếc quách không dưới móng tháp. Vài năm sau, hoạn lộ của tên Việt gian theo đuôi lũ cướp nước tan nát. Hắn bị giải quan và giam lỏng đến chết tại Hà Nội. Thật ra ngọn tháp xét kỹ chẳng lấy gì làm đẹp, hai tầng xây cửa gô tích xa lạ với truyền thống Á đông, nóc nhỏ bé tủn mủn không ra ngô khoai gì. Vì khuôn cảnh xung quanh trữ tình, nhìn mãi quen mắt nên giờ đây hồ Gươm mà không có tháp thì không còn thi vị…
Hồ Hoàn Kiếm huyền thoại của Lê Lợi, với Phương nửa gần nửa xa. Trong mắt mỗi người hồ Gươm mỗi khác, có buồn vui, có lãng mạn, có thực tế hoặc hư ảo. Không hiểu sao buổi sáng ấy Phương chợt nghĩ hồ Gươm là nghiên mực không bao giờ cạn. Chỉ cần chút tâm trí lãng đãng là đọc ngay được thiên lịch sử văn hiến bất hủ viết lên bầu trời và phản chiếu, thu nhỏ trên mặt nước xanh rêu phẳng lặng.
Gần 600 năm, người Việt cứ nhất mực gọi loài giải sống dưới hồ là rùa. Sự ngộ nhận khá ngây ngô, vì quy là rùa, còn giải tiếng Hán – Việt là miệt. Chẳng lẽ không gian của huyền thoại hoàn kiếm bao gồm hồ Gươm, gò ba ba và tháp cua đinh nghe quê mùa lắm. Thì ra chân lý đôi khi là thói quen sai lầm, lập đi lập lại nhiều đời.
Chân lý đã không thuộc về nhà cách mạng vĩ đại Hồ Quý Ly và những cải cách triệt để của ông. Giữa một lục địa bao la đầy dẫy tầm chương trích cú, việc ông đưa toán pháp vào để tuyển chọn hiền tài thật sáng suốt. Nếu không có ý chí độc lập tự chủ, ông ban bố chính sách, văn kiện triều đình bằng chữ Nôm làm gì. Kinh Lễ quy định đích thân thiên tử tế Nam giao, chư hầu cúng Xã tắc. Năm mậu thìn 968 Đinh Tiên Hoàng lập đàn Xã tắc. Thời Lý chỉ có Vu đàn, quan lại thường đến cầu mưa. Đời Trần sử sách không nhắc đến việc này, trừ hai câu thơ “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Như vậy đàn Giao xây ở Đốn sơn, Tây Đô chứng tỏ nhà Hồ đã nâng địa vị triều đình và quốc gia lên tầm cao rất mới. Nhân dân không theo ông, kẻ sĩ không đoàn kết bên ông chống ngoại xâm mà cứ bo bo xem mình là tôi đòi của họ Trần mạt vận thối nát. Đất nước dưới ách chiếm đóng quân Minh vĩnh viễn mất đi cơ hội vượt qua huôn nhược tiểu. Đành đoạn lắm, đoàn bô lão Kỳ La vẫn cố nguyền rủa người anh hùng thất trận, họ đọc trại Kỳ La thành Cơ Lê nghĩa là trói họ Lê (họ cha nuôi Hồ Quý Ly) và chơi chữ Thiên Cầm là đàn trời thành ra trời bắt. Chính xác thì người Việt đã đang tâm tống cổ cha con họ Hồ về Trung Hoa với dòng dõi nhà Ngu. Cuối đời mình, Hồ Nguyên Trừng, Edison Việt Nam đầu thế kỷ 15 với sáng chế tiêu biểu là súng trường cá nhân, đành an phận với chức thứ trưởng bộ Công chánh Minh triều, đau đáu hướng về cố quốc rồi tự gọi mình là “lão già nước Nam” trong trường thiên ai oán “Nam ông mộng lục”.
Hồ Quý Ly cũng chẳng phủi tay giũ áo đi biệt. Ông đã đào tạo cho non nước này tầng lớp sĩ phu mới, ít thiển cận và có đầu óc. Họ phò tá Lê Lợi phục quốc và xây dựng nhà nước Nho trị vững vàng. Đến đời cháu Lê Lợi, Việt Nam vụt lớn mạnh thành đế quốc rồi tiêu diệt được Chiêm Thành, trở lực khủng khiếp nhất trên con đường Nam tiến của dân Việt. Nguyễn Trãi nổi bật trong số ấy. Là quân sư thân cận Lê Lợi, văn võ song toàn chắc chắn họ Nguyễn đã giúp Lê Thái Tổ xây dựng màn kịch trả gươm. Khu đầm lầy thời Lý – Trần được nạo vét, đắp đập ngăn nước và thả giải bắt từ Lam kinh ra. Cho dù huyền thoại “hoàn kiếm” ra đời trên bất cứ nền tảng văn hóa nào, mục đích duy nhất và cuối cùng của nó vẫn là hợp thức hóa, chính thống hóa Lê triều. Hình ảnh rùa thần mang tính chất siêu nhiên, nó sao chép tích “Thăng long” thời Lý Công Uẩn, và xa lạ với khái niệm “thiên tử - con trời” trong triết lý Khổng giáo. Điều này chứng tỏ xã hội Việt Nam khi đó vẫn còn hơi hớm thần quyền lạc hậu. Để lấy lòng dân, Lê Lợi phải làm cho họ tin tưởng rằng mình có sự hậu thuẫn của các lực lượng siêu nhiên.
Nếu nhìn nhận lịch sử là sự vận động đa chiều của xã hội, thời điểm ra đời của huyền thoại hồ Gươm chính là bước ngoặt đáng lưu ý. Từ đó về sau, những truyền thuyết hoang đường như vậy vẫn còn xảy ra nhưng ở mức độ cường điệu khá thấp, và tác dụng ngày càng hạn hẹp. Nó chỉ ra chiều hướng thượng của dân trí.
Không còn nghi ngờ nhiều nữa, Nguyễn Trãi là đồng tác giả của huyền thoại hoàn kiếm. Ba họ nhà ông cuối cùng đã rơi đầu vì chính tài năng kiệt xuất của ông. Dân gian hoặc triều đình lại phong thần phong thánh cho ông cũng bằng một huyền thoại nhưng tuyệt đối u ám, trí trá và cực kỳ vô nghĩa, đó là câu chuyện máu đỏ rắn trắng thấm qua 3 trang sách nho học! Mọi anh tài ẩn mạng dưới sao khuê đều tự giác kê gươm sắc cạnh cổ mình. Khí chất ấy, đáng tiếc chẳng còn tồn tại đến hôm nay.
Cụ giải dưới kia chắc hiểu kẻ giả trí luôn mang giấc mộng hư văn vừa ngông vừa dại. Bọn họ mạo muội vay mượn nét chữ giáp cốt sơ khai trên lưng họ hàng cụ, vẽ vời sứ mệnh ảo tưởng. Ai đã cho mình cái quyền được kiểm duyệt, cắt xén, chắp vá cả Bình Ngô đại cáo. Câu “Việt Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc…” được dịch nôm thành “Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập…”. Và ở đâu đó, người ta chẳng ngại ngần vứt đi dòng chữ “thiếu lập trường”: Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu dĩ âm tướng, mặc hựu nhi trí nhiên dã (Nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng chở che, giúp nước nhà). Áng văn lặng câm, vô hình chính là áng văn bất hủ. Những tiếng kêu thét tắc ngẹn làm người ta dựng tóc gáy: “Văn chương thiên cổ sự - Đắc thất thốn tâm tư”.
Hồ gươm là Văn trì, là giếng Thiên Quang, là tấm gương soi của thời gian. Tất thảy đen tối và trần trụi đều lộ tẩy. Trong ánh sáng thông tuệ, mặt gương trả lại sự thật và chân lý bạch nhật. Mặt gương đảo ngược hiện thực, giũ tung bụi mù vô minh và lắng nó xuống bùn. Những thân phận được tẩy sạch nhơ nhuốc không đáng có sẽ khoe ra vẻ đẹp vĩnh cửu từ lâu đã bị bóng tối đè nén, âm mưu hủy hoại.
Vầng dương ưng ửng góc trời hay đơn giản chỉ là ánh sáng liêu trai trung cổ? Hà Nội cuối thu. Mây thấp. Cơn mưa hồng thủy rất cần cho nền văn minh lúa nước. Hình thái tàn héo, già nua, cằn cỗi đã mất hết năng lực sáng tạo sẽ tan loãng. Ngày mới sẽ tái sinh, hoàn đồng và phục thiện mọi thứ. Lũ lụt đi qua phù sa ở lại. Mùa Xuân còn xa lắm không? Ngày mai lập đông, trời sẽ rét nứt da tái thịt?
Phương biết, anh là kẻ tình cờ đi qua thế gian này như một lữ khách không hành trang, chẳng sứ mệnh. Anh đành chọn cho mình bậc thang thấp nhất của trật tự Sĩ - Nông - Công - Thương để dấn bước vào đời. Bên cạnh hồ Gươm, giữa lòng Thăng Long ngàn năm văn vật Phương thấy hết sức ấm áp khi nhìn về tương lai. Ngày mai thật nhỏ bé, vị kỷ và hèn nhát nhưng hình như tuyệt đối an toàn.
5 - Thìn...
Mấy tháng lang thang giữa Sài Gòn chờ xuống tàu Phương mang tâm trạng ăn nhờ ở đậu. Sáu giờ sáng, người giúp việc mở cửa thả Phương ra đường trong khi cả nhà anh Dũng vẫn ngon giấc. Phương mua tờ nhật báo. Anh hay ngồi dưới gốc đa cổ thụ nhìn ra hồ Con Rùa. Vừa uống cà phê Phương vừa cố điểm mọi loại tin tức từ mục rao vặt, sang nhượng đến các biến động thời sự năm châu.
Chín giờ rưỡi Phương tạt qua công ty điểm danh vào sổ thuyền viên dự trữ. Phần ngày còn lại anh trốn trong thư viện khoa học xã hội trên đường Lý Tự Trọng. Tòa nhà hành chính cũ của thực dân không thích hợp để chứa quá nhiều sách cổ và sách quí. Phòng đọc nhỏ, thiếu ánh sáng. Vài ba nữ nhân viên xanh xao tới lui nhẹ như chiếc bóng. Từ thuở sinh viên Phương vẫn được ưu tiên mượn sách xuất bản trước 1975 dù qui định là cấm hoàn toàn. Rõ ràng anh không biết nịnh nọt lấy lòng người quản lý. Lần đầu Phương bối rối gợi ý, chẳng ngờ họ chấp nhận ngay. Anh rất ngạc nhiên nhưng không tiện hỏi. Ở nơi xa lạ với cuộc sống bon chen, mọi lý lẽ đều khập khiễng.
Chính ngọ Phương chạy ra ngoài ăn uống qua loa. Sách vở cuốn hút anh, đợi chờ trôi nhanh. Về sau mỗi khi rảnh rỗi hay phiền muộn Phương thường tạt vào thư viện. Mười mấy năm lặng lẽ luồn qua cánh cửa hẹp, song sắt rỉ sét. Thay đổi duy nhất là bà lão trông xe lãng tai già yếu đã được thay bằng anh chàng ba hoa. Cậu này rất hay đôi co với sinh viên vì đãng trí quên thối lại tiền thừa.
Phương hỏi thăm nhưng không ai biết bà lão kia về đâu an trí. Anh biết ơn bà nhiều lắm. Suốt một năm học Tổng hợp và hai năm đầu ở trường Hàng hải Phương rất ít khi ăn trưa. Bà ra sức tìm hiểu xem có phải anh cháy túi không. Bà luôn thật thà đến tội nghiệp khi tỏ ý muốn chia sẻ với Phương bữa rau dưa đạm bạc bà nấu tại chỗ bằng chiếc bếp dầu bé xíu. Bà hay nắm tay Phương, miệng ghé sát tai anh khuyên nhủ "Cố mà học nhé cháu. Thế mới chóng nên người!". Trước ngày đi biển Phương tặng bà xắp vải may áo. Anh nhắc chuyện bà không thu tiền giữ xe của anh gần ba năm. Bà cười rất vui: "Cô tiêu gì đâu mà cần tiền. Lúc nào về nhớ cho cô hai ba tấm ảnh chụp ở nước ngoài. Cảnh bên ấy đẹp phải biết cháu nhỉ?".
Phương được điều động xuống tàu Dragon mười hai ngàn tấn, chuyên hàng hải xa bờ dài ngày. Sau mấy tuần sửa chữa trong xưởng Ba son, cuối cùng tiếng còi tàu cũng cất lên, bùi ngùi tạm biệt bến bờ. Với kiến thức sách vở và phim ảnh, nhiều người sẽ hình dung ra kỹ sư Phương vừa ra trường, quần áo trắng toát sạch sẽ thơm tho, lăng xăng háo hức trên boong cho chuyến hải trình vượt Thái Bình Dương đầu tiên. Sự thực là bộ phận boong, từ Thuyền phó nhất trở xuống mặc toàn đồ bảo hộ lao động nội địa may bằng vải thô nhàu nát, bẩn thỉu. Mũ cứng an toàn méo mó dính đầy sơn chống rỉ. Họ chia thành hai nhóm tác nghiệp ở mũi và lái. Phương được phân công thu dây buộc tời lái.
Mạn tàu tách bến. Chân vịt chém nát những mảng lục bình bám đầy đuôi tàu. Trung tâm Sài Gòn từ từ lướt qua. Lèo tèo vài ba cao ốc tương phản tột độ. Cái cũ thì rất cũ, xám xịt muội thời gian. Cái mới lại quá mới, khung kính bóng loáng, màu sơn nước chói mắt. Cảng Sài Gòn cố tình giữa nguyên hình dáng của nó từ năm 1975. Nhà kho san sát nhưng rỗi việc. Cầu tàu nhiều chỗ xuống cấp vỡ toác, lởm chởm cừ tràm có đến hơn năm mươi năm tuổi thọ. Đối diện trung tâm Sài Gòn là Thủ Thiêm nghèo nàn lạc hậu. Bãi sông hoang sơ mọc đầy dừa nước. Qua khỏi ngã ba Nhà Bè hình ảnh văn minh mất hẳn. Bạt ngàn bãi bồi sú vẹt, kinh rạch chằng chịt. Công việc chấm dứt, mọi người trở về phòng riêng. Phương ngẩn ngơ hướng mắt ra xung quanh rồi một mình thả bước lên boong mũi.
Trong tầm nhìn của Phương không chỉ có trời xanh, mây trắng và dòng sông Sài Gòn uốn lượn dịu dàng. Hơn bốn tiếng từ Ba Son đến phao số không trả hoa tiêu là khoảng vượt khó quên của tâm hồn anh. Về sau, quán cà phê Toàn cảnh tầng 33 cao ốc Trung tâm Thương mại Sài Gòn, và dãy kè đá gần Bạch Dinh hướng ra cửa biển Vũng Tàu, là hai nơi Phương hay lui tới cùng hoài niệm. Chúng rất gần điểm khởi đầu và kết thúc khoảng vượt kia. Hơn nữa ở Toàn cảnh, nếu cố nhìn Phương vẫn nhận ra thảm mái tôn mục của xóm lao động Thị Nghè. Từ đó, bên khung in lụa Phương đã ấp ủ giấc mơ dấn bước trên những nẻo đường đại dương đầy giông tố, thử thách.
Biển chiều bao la ngập mắt. Trong khoang chắc thuyền viên đang khui bia, mở rượu giải quyết con heo quay tế thần. Hoa huệ cắm bên lỗ neo xơ xác. Càng xa bờ gió mùa đông bắc càng mạnh nhưng không thể làm tan loãng hoàn toàn mùi hương thanh khiết của bó búp nụ trắng tinh. Chỏng chơ chân nhang rơi vãi. Sóng bạc đầu chòng chành.
Nâng cành huệ thơm
ngăn dòng nước mắt
Áo ai thấu giọt đầy vơi nối dòng…(1)
Hai má Phương âm ấm. Biển nhạt nhoà. Thật nhiều nước mắt. Không dừng được nữa, Phương khóc thỏa thuê như chưa bao giờ được khóc. Phương khóc vì từ lâu anh đã tâm niệm nước mắt chỉ dành cho hôm nay. Phương ra biển như bước vào ngôi nhà của mình, đầu ngẩng cao kiêu hãnh. Vượt qua đằng đẵng năm tháng gian khó, đã đến lúc Phương tận hưởng niềm vui trưởng thành trong nước mắt. Những bậc sinh thành, dưỡng giáo Phương không còn nữa. Anh xót xa thay cho cha, cho mẹ, cho bà và cho dì bởi họ không thể chứng kiến giây phút này. Giữa miền tâm linh sâu thẳm, Phương tin hồn thiêng người thân anh đã mãn nguyện phần nào. Đó mãi mãi là ý nghĩa lớn lao của tương lai và các nấc thang trưởng thành cao hơn nơi Phương.
Sẩm tối, Phương về phòng định viết vài dòng nhật ký. Tàu chạy không tải, két nước dằn đầy ắp nhưng do sóng ngang nên độ lắc lớn, chu kỳ ngắn. Đầu Phương choáng váng, không thể tập trung. Anh đành cuộn mình chịu trận, mong giấc ngủ cuốn đi. Bồng bềnh đêm đen. Tiếng máy tàu qua mấy lần cách âm vẫn ì ầm trong vách.
Sáng sớm thủy trưởng gọi Phương dậy làm việc. Giữa biển Đông, tàu chòng chành như đưa võng. Bữa điểm tâm cố nuốt đã bị tống ra bằng hết. Mật đắng.
- Chắc đây chỉ là thằng yếu sóng ăn hại - Mấy tay thủy thủ già bĩu môi - Làm đi chứ mày, người nào việc ấy. Chúng tao không thể gánh cho mày đâu.
- Các anh thông cảm. Tôi sẽ quen sóng ngay thôi.
Phương cầm chổi, gắng gượng quét boong mạn trái. Kỳ thực đêm qua cả tàu đều vật vờ. Xa biển lâu ngày, gần vợ con, bia bọt nhiều sức ai cũng cạn tiệt.
Chiều, tay đại phó bé choắt tên Tiến gọi Phương lên buồng lái.
- Tao nghe anh em bảo mày lười biếng lắm. Mày có học, là kỹ sư phải chịu khó mai này mới chỉ huy người khác được chứ.
- Dạ, em biết.
- Mấy tháng đầu mày là tập sự, không lương.
- Còn tiền làm thêm giờ thì sao hả anh?
- Mày ra trường sau tao mười năm mà suy nghĩ khác quá. Hồi ấy chúng tao răm rắp làm hết mình, chớ dám hạch hỏi như mày.
- Cho em xin lỗi.
Có lẽ Tiến ghét Phương từ lúc đó. Tới hạn làm hồ sơ hoàn tất giai đoạn học việc, Tiến từ chối nhận xét. Hắn bảo Phương thử thách chưa đủ, phải phấn đấu dăm tháng nữa. Thuyền trưởng nói mãi hắn mới vờ ban phúc:
- Nếu tàu ở Việt Nam, còn lâu tao chấp nhận yêu cầu của thuyền trưởng. Tao châm chước cho mày. Mày biết anh em thủy thủ và tao cần gì ở mày rồi chứ. Cũng may mày đã hết say sóng. Rán mà làm bằng anh bằng em.
Hồ sơ chuyển theo đường bưu điện. Phòng nhân sự trình giám đốc duyệt và điện báo quyết định chuyển ngạch chính thức cho Phương.
Tiến là tay hiểm. Ban đầu hắn chưa dám đụng đến Phương vì anh quá trẻ, lại được điều lên chiếc tàu có giá nhất công ty, lương lậu tương đối. Theo lệ cũ Phương tất phải là con ông cháu cha. Nhân bữa nhậu nhỏ hắn dàn xếp cho Phương say bí tỉ và moi hết bí mật. Gốc của Phương là sự nể mặt xã giao vớ vẩn, không cùng đường dây với Tiến. Hắn an tâm xỉ vả Phương thoải mái khi anh sơ hở. Tiến chỉ giở trò anh em lúc điện thoại nửa ra lệnh, nửa mời gọi Phương lên phòng hắn đánh bạc. Nhiều đêm Phương vừa dứt ca, mới đặt lưng xuống giường Tiến đã réo như giặc. Nghĩa là hắn chưa kiếm đủ ba người trong cơn ghiền sát phạt. Tiến rất bẩn. Hắn luôn luôn xảo trá thay đổi luật chơi theo chiều có lợi cho nước bài của mình. Thủy thủ dưới quyền đều phải bấm bụng làm ngơ dù đôi lúc tức điên người.
Tiến gắn liền với câu chuyện nhân nghĩa còn nóng hổi trong ngành hàng hải. Lúc đi học Tiến rất căm thầy Hùng, phó khoa kinh tế kiêm giáo viên bộ môn ngoại thương. Nói cho ngay thầy Hùng khá hắc ám và nổi tiếng là con buôn điểm. Gần sáu mươi tuổi, thầy tạm nghỉ dạy. Trong khi chờ lãnh sổ hưu thầy chạy chọt lên tàu, chấp nhận rửa bát, phụ bếp, lau sàn nhà kiếm ít tiền dưỡng già. Số trời xui khiến, thầy trở thành tên lính quèn của chính thằng học trò Tiến ngày nào. Thầy chấp mọi thủ đoạn hành hạ, nói xéo nói xiên của Tiến. Được nước, Tiến sai thầy phải hầu cơm tận phòng cho hắn đãi một ả gái điếm Manila. Thầy không đồng ý và to tiếng. Tiến có cớ tống cổ ông thầy cũ lên bờ. Người ta bảo thầy chẳng tiếc tiền lo lót đi làm, tiền vé máy bay về nước. Nỗi đau nhân tình thế thái của thầy đã quá lớn, không thể cân đong đo đếm.
Sau mười ngày hành trình tàu ghé đảo quốc Papua New Guinea. Neo buông. Khe biển hẹp, hoang vu. Những cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh đang bị khai thác triệt để. Xà lan chuyển tải nườm nượp cặp mạn xếp gỗ vào hầm hàng.
Khoang sinh hoạt biến thành cái chợ khổng lồ. Trừ Phương, do lớ ngớ chuyến đầu, thuyền viên nào cũng trữ sẵn số lượng hàng đa dạng, tương đương một hiệu tạp hóa lớn. Toàn là loại kém phẩm chất sản xuất trong nước, mẫu mã bắt mắt như áo thun, rổ rá, gương lược và cả đèn… dầu. Người mua là thổ dân da đen, tóc xoăn, miệng bõm bẻm nhai trầu. Siêu lợi nhuận phải kể rượu Maxime Bình Đông. Xóm liều quận Tư bỏ xỉ năm ngàn một chai cồn công nghiệp pha nước màu, lắng cặn bằng thuốc trừ sâu. Giá bán ra từ 10 đến 15 Kina. Tỉ giá 1 kina bằng 1,1 Mỹ kim.
Hai hôm sau, không rõ nguyên cớ, tàu treo máng nằm chờ. Đột nhiên xuất hiện dăm bảy người bản xứ đi đò ra hỏi mua rượu giá cao, càng nhiều càng tốt. Họ không vội trả tiền và yêu cầu gom hàng thành đống trong câu lạc bộ sĩ quan. Thuyền viên chưa kịp mừng thì khách sộp đã nghiêm khắc ra lệnh gọi thuyền trưởng xuống lập biên bản. Hóa ra họ là cảnh sát và hải quan nước sở tại. Họ cho biết công nhân uống rượu, say sưa điên loạn, đập phá máy móc, không chịu làm việc. Đó là lý do hoãn xếp hàng. Không có tử vong là may rồi. Sức chịu đựng của thổ dân quả đáng phục. Nồng độ thuốc trừ sâu trong rượu cao tí nữa, giám định pháp y phát hiện chắc cả tàu đi tù. Giải pháp dung hòa là ném hết rượu xuống biển, tặng đoàn khách viếng thăm một máy thu hình nội địa Nhật 21 inch cùng chiếc phong bì vài trăm Mỹ kim.
Chính ủy Phan Sinh họp tàu kiểm điểm. Tay này bán rượu khá nhiều nhưng ra vẻ vô can vì hắn láu lỉnh ngửi thấy mùi công quyền của mấy vị lúc nãy. Những người bị bắt rượu ngồi cãi nhau om xòm về tỉ lệ phân chia tiền hối lộ.
Thực ra Phan Sinh đã hết thời, vai vế của hắn đang bị coi thường. Ai cũng rõ hắn là bạn chiến đấu cũ của giám đốc công ty nên còn ái ngại, không dám chửi thẳng. Dạo trước chính ủy oai lắm, có quyền ra lệnh cho thuyền trưởng. Ai làm ăn buôn bán qua mắt chính ủy, hắn đánh hơi được thì phiền toái đủ bề, không khéo còn bị trả về đất liền. Nhiệm vụ bây giờ của Phan Sinh là ăn no, ngủ kỹ, ngày hai buổi hầu chuyện hầu cờ tướng thuyền trưởng. Trước khi đi nghỉ, thói quen yêu thích của Phan Sinh là đứng hàng giờ bên chiếc bảng thông tin công cộng. Hắn nắn nót viết huấn thị hoặc nhận định này nọ mà chẳng buồn để ý hiếm ai rỗi hơi đọc nó. Những kẻ thích đùa hay bôi bôi xóa xóa các nét chữ to bè, biến công lao khó nhọc của Phan Sinh thành đoạn văn ngớ ngẩn và tục tĩu. Lúc anh em thủy thủ gõ rỉ bảo dưỡng tàu, Phan Sinh hay chắp tay sau đít tới lui. Hắn thừa biết mọi người rủa thầm hoặc phun nước bọt sau lưng nhưng khuôn mặt bì bì cứ trơ ra như mặt đường nhựa.
Phan Sinh chỉ hăng hái xung phong vệ sinh hầm hàng vì không có mặt sẽ chẳng được chia tiền phụ trội. Qui định bắt buộc mọi người phải tham gia trừ thuyền trưởng, máy trưởng và Phan Sinh. Hai mấy con người đánh trần vật lộn với vỏ gỗ mục hôi thối, hoặc trầm mình trong bụi clinker mịt mù quét dọn rồi phun nước biển rửa thật sạch các ngóc ngách. Mười sáu đến mười tám giờ cật lực liên tục mới kịp tiến độ chủ hàng yêu cầu. Mỗi chuyến thuyền viên bị hành xác một lần. Tiền công chia không đều nhưng cỡ 50 Mỹ kim.
Kẻ nào lười nhác chảy thây mà hay lên mặt dạy đời thường được tấn phong làm "Phó chính ủy". Cũng dễ hiểu, chính ủy chẳng cần bất cứ bằng cấp hay khả năng chuyên môn nào. Luật hàng hải quốc tế không có chức danh này nên trong hộ chiếu chữ chính ủy phải thay bằng phục vụ hay tạp vụ. Người nước ngoài xuống tàu thắc mắc về quyền sinh quyền sát của "đức ông bét hạng", rất khó giải thích. Kẻ sính chữ bảo "đức ông" chỉ thiếu cây thập ác trên cổ và bộ cánh thụng đen. Người hỏi lờ mờ hiểu.
Cũng có việc Phan Sinh làm mát lòng gần hết thuyền viên. Hắn luôn năng nổ tiết giảm quá đáng tiêu chuẩn tiền ăn của tàu do công ty đài thọ. Hình như sau khi rời Sài Gòn bốn tháng, hầm lạnh chứa thực phẩm hãy còn thịt heo mua tại chợ Cầu Muối. Món ăn nấu bằng loại thịt này phải gia vị thật đậm nhưng không thể át hết mùi ôi ngầm. Nhiệt độ bảo quản là âm 25 độ C nên mới có kiểu thiu từ trong ra thật kinh khủng. Hơn mười năm sau, dù ở nhà hay ngoài tiệm ăn, Phương vẫn luôn từ chối dùng hạt tiêu, hành tây và hành ta phơi khô. Anh sợ nhớ lại cảm giác buồn mửa. Đây là cái giá phải trả cho số dư gần bảy chục Mỹ kim một tháng mà Phương từng được chia.
Tay chân duy nhất của Phan Sinh là Khanh "lé". Khanh ẵm hai bằng đại học tại chức về Hàng hải và Anh văn. Có lẽ mộng hắn cao nên luôn khúm núm trước quan thầy. Khanh yếu sóng nhưng luôn ra vẻ khỏe mạnh, xốc vác. Nhìn dáng người lừ đừ, tay chân tái mét, quầng mắt mất ngủ thâm tím của hắn, Phương trộm nghĩ Khanh là con chiên đạo hành xác. Một lần đang ngoài khơi Tokyo, sóng rất to. Thuyền trưởng trách nhẹ thủy thủ trưởng về mấy chiếc bu li cần cẩu thiếu mỡ bò đang đu đưa ken két. Khanh nghe được. Hắn lầm lũi về phòng thay quần áo bảo hộ và trèo lên cột thép cao ngất bơm mỡ. Thuyền trưởng toát mồ hôi, đứng ngồi không yên.
- Mày định hại tao sao mà chơi trò coi thường tính mạng thế - Đợi Khanh làm xong thuyền trưởng mắng.
- Dạ đâu có, nghe anh bảo em thấy mình tắc trách quá. Đó là nhiệm vụ của em.
- Mày đợi chút nữa vào nội hải hết sóng không được sao. Tao là tao chúa ghét lũ anh hùng rơm ngu xuẩn. Mày lạnh xác, tao bị treo bằng. Hay hớm gì?
Buổi lễ vượt xích đạo của Phương trở thành tâm điểm cợt nhả hèn hạ của Tiến, Phan Sinh, Khanh lé và mấy kẻ ăn theo. Tục truyền tất cả thủy thủ lần đầu tiên đi ngang xích đạo phải làm hình nhân thế mạng và chuẩn bị mâm lễ vật cúng thần linh. Thời điểm thân tàu cán lên ranh giới ảo của hai bán cầu Nam - Bắc, hình nộm và quà cáp được ném xuống biển. Bản thân người hưởng lễ phải chịu trận cho toàn tàu bôi tro trát trấu lên người để thủy quái không nhận ra. Bọn Tiến và Phan Sinh dùng dầu cặn, nhớt thải đứng từ xa ném Phương tới tấp. Khanh lé thủ sẵn vòi rồng. Hắn xịt nước không thương tiếc vào Phương mình trần, đóng khố đứng giữa boong tàu. Thủy quái đâu không thấy. Đồng loại của Phương đang hò hét, gào rú xung quanh. Mắt bọn chúng long sòng sọc như muốn làm gỏi Phương.
Trời bỗng mưa nhẹ. Phương ớn lạnh dù đang phải vận động cật lực tránh đòn đùa mà như thật. Canh đúng lúc Phương đổi tư thế Khanh lé xịt nước ngay chân trụ. Phương ngã sóng xoài. Anh hơi điếng vì đầu va trúng một khoen sắt. Phương bất động vài giây nhưng đôi mắt vẫn trừng trừng nhìn lên trời. Những giọt mưa xiên xiên hút hết ánh sáng ngọn đèn pha trên cao. Ba bốn cái đầu người quái dị đang mọc nanh cúi xuống. Tràng cười của Phan Sinh khiến Phương dựng tóc gáy.
Tuấn "hoác" nãy giờ đứng xem trò chơi của nhóm boong. Thấy cảnh trái khoáy, không nhịn được anh hét lên "Chúng mày làm cái chó gì vậy? Đồ đểu!". Anh giật họng cứu hỏa trong tay Khanh lé và tọng một quả đấm nặng hơn chùy vào yết hầu hắn. Thuyền trưởng trên buồng lái thấy lộn xộn bèn quát bảo mọi người giải tán. Phương lồm cồm bò dậy.
Dầu mỡ, đồ dơ bẩn dính trên người Phương với hai ba bận xà bông là sạch. Mấy vết trầy xoàng ngoài da độ dăm bảy bữa sẽ lành. Còn lũ quỷ đội lốt người kia thì chẳng cách nào gột chúng khỏi trí nhớ Phương được.
Núi "già", người có thâm niên đi biển cao nhất tàu đưa Phương tờ chứng nhận đã thụ lễ vượt xích đạo. Chữ ký con sói biển vốn gốc nông dân Thái Bình nhiễm nặng lối quanh co phố xá thị thành. Phương thì thào câu cám ơn rồi lén xé toạc mảnh giấy ném qua mạn tàu. Biển đen như mực, quánh như máu bầm. Tiếng sóng sôi ùng ục.
Tính hòa đồng tập thể của Phương rất kém. Đặc điểm tâm hồn anh là sự hướng nội. Do đó Phương ngại giao tiếp. Sau giờ làm việc anh thường cố thủ trong phòng riêng, nếu không ngủ thì đọc sách.
Phong cách thuyền trưởng trung dung, cư xử ở mức độ vừa phải. Ông gần Phương nhất vì anh có thể làm thông ngôn giúp ông. Thật ra là thằng chột làm vua xứ mù. So với nhân viên các văn phòng nước ngoài tại Việt Nam, ngoại ngữ Phương thuộc hạng đội sổ. Tiến ghét cả ưu điểm này của Phương. Hắn nói tiếng Anh như kẻ cà lăm nhưng tuyệt đối tránh nhờ vả người khác. Tiến thêm ác cảm và rẻ rúng Phương cũng vì đôi lần lên bờ làm việc, thuyền trưởng chưa kịp giới thiệu, quan khách đều đoán mò Phương là đại phó của tàu. Phương càng thanh minh, Tiến càng tức.
Phòng của Phương và Tuấn "hoác" chung một hành lang nên anh có vẻ thân thiết với Phương hơn cả. Anh bị mọi người gọi là "hoác" vì cái miệng rộng hay nói to. Tuy nhiên Tuấn chẳng bao giờ đưa đẩy lời tiếng gây hại cho ai. Anh khuyên Phương "Thằng khôn ăn nói nửa chừng", hiểu ngược hay hiểu xuôi là quyền của người nghe. Tuấn bảo thuyền viên trên tàu ai cũng có đuôi. Họ vào nghề từ lúc ngành hàng hải mới phôi thai nhưng luôn là miếng béo bở nhất của xã hội. Không láu cá, luồn cúi và lọc lừa thì không thể tồn tại.
Trong nhà ăn Phương thường chuyện phiếm với Hải "con" và Thức "béo", hai nhân viên tạp vụ chuyên nghiệp.
Hải làm việc chăm chỉ và rất cam chịu. Nói nặng hay nhẹ với Hải cũng như không. Mới gần gần 30 tuổi nhưng Hải chi li hết mức. Đố ai dụ được Hải tiêu bớt vài đồng lương nằm cuối sổ chi trả của tàu. Cặp bờ, rảnh là Hải dạo phố ngay. Vật bất ly thân của anh là bi đông nước to khự và gói cơm cháy ngào đường. Hải nhỏ con song sức khỏe tuyệt vời. Một hôm Hải và Phan Sinh được xếp chung nhóm đi bờ. Họ lang thang tìm xin hoặc hỏi mua đồ cũ tại thành phố Himeji, cách Kobe khoảng 20km. Hải nhanh chân hơn nên xí được chiếc tủ lạnh tám mươi lít bên lề đường. Phan Sinh hụt ăn. Hắn trả thù Hải bằng cách lén chụp cảnh anh đang cõng khối sắt ghẻ lở nặng năm sáu chục ký về tàu, dưới rặng Anh đào cuối mùa lác đác hoa. Phan Sinh rửa ảnh rồi dán lên tường câu lạc bộ. Hải tỉnh bơ, xem như không có.
Hải luôn khen nức khen nở tướng mạo Phương và đón lõng: "Chừng nào Phương làm thuyền trưởng hãy nhớ đến bạn cũ. Anh sẵn sàng lau chân cho Phương trước mỗi giấc ngủ". Phương chỉ biết lắc đầu.
Thức "béo" thì buồn cười chết được. Anh có cái kiểu "Giả chết bắt quạ", vờ vịt ngờ ngệch nhưng đầy chủ ý. Thức hay kể đi kể lại chuyện tàu Vàm Cống bị đắm dạo nào: "Toi gần hết. Tao ôm can rượu mười lít lều bều ba ngày và được ngư dân miền trung vớt. Tội ông giám đốc bị buộc từ chức sau đó. Tàu nát lắm rồi, nhưng ông ta cứ khóc lóc van nài anh em cố gắng. Tài khoản công ty không còn một xu. Tao tiếc mãi mấy trăm ký thịt chó đông lạnh. Dân Triều Tiên khoái khẩu nhất món cầy tơ An Nam. Hơn ngàn Mỹ kim lậu giấu lẫn trong thịt chó, cuống quá chẳng nhớ bao nào, đành vứt tất. Chuyến đó tao phải bán nhà trả nợ. Dư chút đỉnh vợ chồng con cái dắt díu nhau về quê ngoại trên Lộc Ninh tậu mấy mẫu cà phê non."
Đó là lý do Thức luôn nhờ Phương chọn hướng, chỉnh ăng ten thu sóng đài tiếng nói Việt Nam. Thức như ngồi trên lửa khi nghe hai chiếc loa rè rè, tiếng được tiếng mất luận bàn về kinh tế và thông báo quê hương cách xa ngàn dặm đang trúng mùa cà phê cực lớn. "Trời ơi, thế có khổ tao không. Bán bốn tấn cà phê đơn giá mười mấy ngàn kiếm lộ phí và vốn lên đây hầu hạ chúng mày. Bây giờ lỗ ngược lỗ xuôi. Cứ ở nhà ôm bà vợ già và ém hàng thì giàu to rồi. Chẳng hiểu mấy đứa con thơ và mụ hai lúa kia có tính non bán tống bán tháo mùa mới lẫn mùa cũ không? Giá còn tăng dài dài. Tao biết làm sao đây!".
Con tàu xếp gỗ ứ nhự nhắm vịnh Tokyo thẳng tiến. Một giáo viên xứ Papua từng than thở với Phương "Ngày trước người Nhật xâm lăng chốn này bằng súng đạn. Thời đại mới kẻ mạnh sử dụng đồng tiền. Chúng mua gần hết rừng nguyên sinh trên hàng ngàn hòn đảo giữa Thái Bình Dương. Lũ lụt, hạn hán, hỏa hoạn là hệ quả tất yếu. Có bận người chết la liệt, sức tàn phá hơn cả bom nguyên tử!".
Đảo Guam Phương gặp trên đường đi xanh xanh màu bình yên vẫn gợi lại những tội ác của tử thần bay B52. Không biết bao nhiêu phi vụ từng cất cánh từ đây. Bao nhiêu tấn bom đã rải xuống quê nghèo Việt Nam. Bao nhiêu trái bom chưa nổ, đang phục kích trong lòng đất, rình rập cuộc sống các thế hệ tương lai. Mẹ và cậu của Phương mất xác vì bom. Hàng triệu đồng bào còn nhức nhối vết thương bom đạn trên mình. Chiến chinh chưa hẳn đã qua đi. Nó chỉ biến đổi thành những thái trạng khác nhau, tên gọi ra vẻ hơn nhưng hoàn toàn không kém ngông vọng và nhẫn tâm.
Nửa cuối thời gian thuê tàu, hãng điều hành ký được hợp đồng với người Thái Lan hơn ba tháng. Chuyến đầu tiên chở gạo sang Irak. Thủ tục cực kỳ rườm rà vì Liên hợp quốc đang cấm vận Baghdad. Qui định xếp hàng hóa khá ngặt nghèo. Mỗi hầm tàu chừa hai lối ngang, một lối dọc vừa người đi để tiện việc kiểm tra.
Vào vịnh Persic tàu phải đánh điện báo và giảm máy chờ quân cảnh thanh sát. Già nửa ngày hải quân Mỹ mới kéo tới. Chiến hạm to đùng, xám xịt, súng ống tua tủa. Chúng xà quần mấy vòng quanh con tàu thương mại hiền như cá voi. Máy bay trực thăng vè vè cảnh giới. Thuyền đổ bộ áp mạn, trung đội thủy quân lục chiến trang bị tận răng ào ào nhảy lên boong. Tên nào cũng lăm lăm súng tiểu liên tự động, dao găm, lựu đạn giắt kín hông. Sau lưng chúng luôn là bình nước bằng nhựa dẻo, ống hút nối sát miệng. Chúng ra lệnh chừa ba người trực buồng lái, ba người coi hầm máy, số còn lại mau mở toang mọi cửa phòng, cửa tủ rồi tập trung hết trên boong mũi hứng nắng. Mặt lũ sen đầm hằm hằm như muốn ăn tươi nuốt sống thuyền viên.
Chẳng ai giữ được bình tĩnh. Vài người lầm bầm nguyền rủa bọn khốn nạn. Phương định nói chuyện phải trái với quỷ sa tăng. Chưa hết câu mớm mào, bốn tên to béo hung dữ xô đến dí súng, hất hàm bảo Phương đứng yên và im lặng. Quân vô lại rà soát, khám xét khắp nơi bằng mắt và bằng nhiều phương tiện hiện đại hơn hai giờ. Không có gì khả nghi, đám chó săn an tâm cúp đuôi chuồn về căn cứ rồi cho phép tàu tiếp tục hành trình.
Phương từng nghe kể nhiều về Irak. Trước đây dân Việt Nam làm thuê tại xứ sở ngàn lẻ một đêm không ít. Họ quả quyết Irak rất giống Việt Nam, ngày xưa ngoại ô Baghdad có dãy tường xoắn trôn ốc tương tự thành Cổ Loa trong truyền thuyết An Dương Vương. Cặp bến Umm Qasr, tàu ngay ngáy sợ chẳng may vướng thủy lôi sót. Không hề có cảnh nhiều dãy nhà kho đổ sụp vẫn chưa được khôi phục. Cầu cảng không loang lổ vết bom hoặc chỏng chơ cốt thép. Thời hiện đại chiến tranh ít biểu hiện bằng đổ nát tràn lan.
Công nhân gầy gò xanh xao, trang phục màu cháo lòng sờn cũ. Việc bốc hàng 90% bằng thủ công. Nắng sa mạc thiêu đốt. Không ngày nào không có người ngất vì kiệt sức. Giải lao, công nhân tràn vào khoang sinh hoạt làm quen thuyền viên. Họ ngó trước ngó sau, thấy cái gì cũng xin. Phương thuyết phục thuyền phó hai cho anh dọn dẹp tủ thuốc công cộng. Phương xếp riêng thuốc men cần dùng nhất, loại ra các hộp quá hạn, còn bao nhiêu anh đem tặng hết người Irak. Dầu cù là Sao Vàng, thuốc cảm, thuốc tiêu chảy và kháng sinh Việt Nam là những thứ họ quí như vàng. Raman, tổ trưởng bốc xếp giải thích, nếu không sử dụng ngay công nhân sẽ đem thuốc ra chợ trời. Thức ăn hằng ngày họ vẫn thiếu, giữ làm chi đồ xa xỉ!
Nhà tàu không được lên bờ vào phố chơi, đó là quân lệnh. Đứng trên boong thượng, nhìn bến cảng hiu quạnh Phương luôn cả nghĩ. Các khối hộp bê tông nặng nề u ám. Xa lộ thưa thớt người xe. Buổi tối thấp thoáng đôi ánh đèn nghèo nàn. Còn đâu đêm Ba Tư huyền ảo. Còn đâu phiên chợ rộn ràng tiếng loa kèn, tiếng rao bán, reo hò, tiếng lục lạc treo trên cổ lạc đà. Nàng công chúa diễm kiều của các dân tộc Ả Rập đã bị tên lửa tầm xa và hỏa tiễn phanh thây, hay đang ẩn trốn độc tài dưới những giếng dầu yên ngủ trong lòng đất?
Tàu rời Irak cũng bị hạch sách. Hải quân Canada đo rất kỹ các két nhiên liệu, đề phòng người Irak "buôn lậu" dầu hỏa! Trang bị giống lính Mỹ nhưng toán này lịch sự hơn nhiều. Thuyền viên không bị lùa ra ngoài như cừu.
Nếu loài người không biết đến chiến tranh, nếu các tác gia Tây dương không coi chiến tranh là thành tố của khoa học xã hội, là chìa khóa hóa giải mâu thuẫn nhân sinh thì tốt biết mấy. Thảm cảnh ở đấy. Ở cả những trò chơi giáo gươm súng đạn của trẻ em toàn cầu. Ở muôn vạn bài học được mất và niềm vinh quang mạt hạng giữa trăm ngàn giáo trình lịch sử sơ, trung, cao cấp, chân truyền hoặc dị truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, lục địa này đến lục địa kia. Để mê hoặc quần chúng, kẻ khơi mào chiến tranh còn ghép vào chiến tranh chữ "thần thánh". Các cuộc Thập tự chinh tàn khốc và dã man của Kitô giáo là một ví dụ.
Thời nay, người ta bảo vì khả năng hủy diệt của chiến tranh quá lớn nên chiến tranh là tai họa, là thắng lợi của vũ lực mù quáng. Song chiến tranh từ xa xưa hẳn cũng khó mang ý nghĩa tượng trưng quan trọng nào. Chiến tranh là cái ác nên không thể loại trừ cái ác. Chiến tranh phá vỡ hòa bình nên không thể là động lực vãn hồi hòa bình. Chiến tranh đem đến chết chóc, sự tự vệ của sự sống này đánh đổi lấy cái chết kia, nghĩa là nó chẳng hề bảo vệ sự sống.
Loài người đánh đấm với nhau chưa đủ, hằng hà sa số phim, truyện khoa học viễn tưởng luôn đắt khách còn đề cặp đến chiến tranh vũ trụ. Họ muốn tìm ra hành tinh thứ hai có sự sống để thi thố võ công. Đỡ hiếu chiến hơn thì họ khoác lên hành tinh ảo dã tâm xâm chiếm địa cầu, nhằm hợp thức vở kịch xương máu và ngợi ca giết chóc như cách biểu hiện tinh thần chính nghĩa.
Thần thoại Hy Lạp định nghĩa chiến tranh rất chân xác bằng hình tượng Mars. Zeus, cha của Mars bảo: "Mars là tên điên không biết đến pháp luật". Mẹ Héra của Mars nói: "Mars là kẻ khùng hiện thân của tội ác với cái đầu rỗng tuếch". Con cháu Mars sau này, hằng hà sa số anh hùng loi ngoi lặn ngụp trong máu đồng loại, là biểu hiện của cơ bắp thiểu tuệ. Họ bị đam mê hạ cấp thúc đẩy, lúc nào cũng cần được dìu dắt bởi quyền lực tinh thần trong sáng và tri thức lành mạnh.
Hai bốn tiếng trước khi vào vịnh Tokyo, sĩ quan trên tàu ăn mừng ngày truyền thống đại học Hàng hải. Xét cho cùng lễ lạt nào diễn giả cũng là kẻ nói khoác chuyên nghiệp, từ cơ sở trở lên. Biện pháp cứng cho sự vắng mặt là qui định hành chính khắt khe, biện pháp mềm là âm nhạc, thơ ca ru ngủ.
Thuyền trưởng giữ nguyên lề thói. Mở màn thi ném dây, phần thưởng là thùng bia 333. Trận chung kết bóng bàn phó hai Khánh gặp thuyền trưởng. Ủng hộ viên nghiêng về thuyền trưởng. Chẳng biết Khánh mất tinh thần hay cố nhường, một năm thả xếp một ngày. Thuyền trưởng hể hả như trẻ con.
Chọn xong giọng ca vàng Karaoke nhờ cuộn băng sến mùi cũ rích, bia nổ cháy tai. Phan Sinh hắng giọng rồi ê a độc thoại. Mọi người chúi mũi vào bọt trắng bọt vàng. Say quên nỗi nhớ nhà.
Phương yêu Tokyo từ lần tiếp xúc đầu tiên. Không phải sự hào nhoáng của niềm kiêu hãnh da vàng rất gây ấn tượng. Cái nhìn kinh ngạc và ngưỡng vọng của Phan Tây Hồ chí sĩ về nước Nhật, xã hội Nhật chín mươi năm trước cũng không hề trói buộc tình cảm Phương. Anh thích hòa vào dòng người đông đúc nhưng hết sức trật tự của Tokyo buổi tan tầm. Anh say mê ngắm những gương mặt không hề quen biết. Gần như ai cũng như ai. Họ không biểu lộ gì nhiều nhưng nếu Phương cần họ luôn giúp đỡ với nhiệt tâm cao nhất. Và trên hết, Phương ước ao vẻ mãn nguyện, thoải mái luôn hiện hữu bên họ. Cũng có chút âu lo, có chút căng thẳng của xã hội công thương tấp nập, nhưng nó vượt xa nét phờ phạc tầm thường của tâm trạng cơm áo độ nhật bấp bênh.
Tokyo rõ ràng không phải thiên đường dù nó sở hữu gần hết các phương tiện vật chất cao cấp bậc nhất của loài người. Tokyo có ba khuôn mặt rực rỡ như nhau. Thành phố ngầm không biết bóng tối, tàu điện siêu tốc lướt nhanh như tên bắn. Thành phố mây tua tủa cao ốc, cỡ ba phút có một chiếc máy bay cất hoặc hạ cánh tại sân bay quốc tế. Thành phố của công viên và cây cỏ sạch sẽ, an ninh tuyệt đối, xa lộ chống động đất đan xen, chồng chéo như mạng nhện và vươn dài ra biển.
Dưới mặt vịnh Tokyo xanh biếc, tưởng như cực kỳ trong lành là lớp bùn hôi thối. Rác thải hơn trăm năm công nghiệp hóa thi thoảng vẫn trồi lên, sủi bọt thán khí khi các con tàu buông neo hoặc kéo neo. Không hiếm ăn mày vật vạ bên hành lang bến tàu bến xe. Siêu thị bóng lộn, quầy sách vở chữ nghĩa đầy ắp nhưng lúc nào cũng chừa một ngăn dành cho kỹ nghệ khoái lạc. Họ quảng cáo và buôn bán thể xác con người thuộc mọi chủng tộc. Vòng mông, vòng ngực, vòng eo, chiều cao, màu da, màu mắt, sở thích, tính tình, ngôn ngữ, giới tính là đặc điểm được mô tả không sót chi tiết nào. Tất nhiên giá cả, cái quan trọng để đồng hóa con người như một món hàng, cũng công khai niêm yết và xào xáo, làm hoa mắt dân chơi bằng chế độ khuyến mãi hạ giá hoặc giờ giấc ưu tiên! Người ta chứng kiến không ít những bà nội trợ để giỏ xách ú ụ thức ăn, rau quả dưới chân, mải mê bên chiếc máy đánh bạc tự động. Tiếng cần gạt xoành xoạch, tiếng xu rơi ra hoặc nhét vào leng keng. Nửa đêm về sáng thanh niên, trung niên, nam thanh nữ tú say mèm, khệnh khạng khề khà rút lui khỏi quán nhậu, quầy rượu.
Phương hay lang thang bộ hành trên phố hoặc đi tàu điện ngầm như gã du khách thảnh thơi nhất. Một mình đâm ra dễ chịu. Thuyền viên mạnh ai nấy lo lùng sục đầu trên hẻm dưới tìm hoặc xin đồ cũ, không vô tư như Phương. Anh bị lạc vài lần vì người Nhật không thèm học tiếng Anh, chốn công cộng rất thiếu bảng chỉ dẫn cho người nước ngoài. Phương hay nói thật anh là thủy thủ viễn dương, dù dân chúng rất e ngại từ này. Duy nhất một lần Phương lỡ miệng với người quản lý phòng trưng bày các họa phẩm đắt giá của Cezanne, Rubens, Van Gogh, Rembrandt… gần nhà ga trung tâm Tokyo: "Tôi là khách du lịch". Thâm tâm Phương sợ ông ta không hứng thú giảng giải, giới thiệu những kiệt tác nguyên bản.
Tanaka là kỹ sư kinh tế mới ra trường. Các chiều chủ nhật cậu hay câu cá giải trí bên cầu tàu. Tình cờ gặp Phương, Tanaka hỏi đủ thứ sau đó nồng nhiệt diễn thuyết nhiều tính năng ưu việt của chiếc Toyota mới cáu đậu đằng sau. Phương cố lắng nghe cho vui. Anh mời bạn mới quen điếu Sài Gòn xanh. Tanaka biết hằng tháng Phương lãnh hơn hai trăm Mỹ kim. Cậu lắc đầu không hiểu làm sao Phương có thể sống bằng số tiền cà phê của một người Nhật bình dân. Với ánh mắt rất thật, Tanaka mâm mê chiếc thẻ tín dụng: "Tôi chẳng đem theo tiền mặt. Nếu không tôi phải tặng bạn mấy ngàn yên để bạn mua rượu Sakê làm quà. Thuốc lá của bạn ngon lắm!". Phương cười, anh bảo mình không phải con dân cái bang. Tanaka loay hoay gỡ lá bùa may mắn treo dưới gương chiếu hậu trong xe hơi đưa Phương. Phương tìm mảnh giấy viết tặng công tử nhà giàu mấy chữ: "Tri túc - Tiện túc, Đãi túc - Hà thời túc. Tri nhàn - Tiện nhàn, Đãi nhàn - Hà thời nhàn". Tanaka lẩm bẩm đọc câu Hán văn của Nguyễn Công Trứ theo âm Nhật, đầu gật gật đắc chí.
Chắc chắn trong suy nghĩ của anh ta cái tên "Việt Nam" từ nay trở đi không chỉ gợi lên chiến tranh và nghèo đói. Việt Nam còn là nền văn hiến đậm đà bản sắc Á đông thuần chất.
Ban đầu là tin tức xuyên tạc, hậu chiến là điện ảnh. Thế giới khai thác cạn kiệt đề tài chiến tranh Việt Nam trong hàng triệu bộ phim ba xu, chủ yếu của người Mỹ. Đến nỗi, vài ba tên du côn ở rừng rậm xích đạo xứ Papua New Guinea nghe nói có thủy thủ Việt Nam ghé lấy gỗ, đã lặn lội tìm đến hỏi mua… súng. Lũ hèn mạt mô tả đất nước Việt Nam toàn thổ phỉ, lính Mỹ là chiến sĩ của tự do và công lý.
Cũng chẳng trách được thiên hạ. Cái nhìn của họ về ta phải xuất phát từ chính ta. Bao nhiêu năm bế quan tỏa cảng. Đại diện dân tộc là đám con buôn trên những chiếc tàu cũ mèm, ống khói nghi ngút muội dầu cháy dở. Họ tràn lên bờ, xứ sở của tư bản đang giãy chết để xin rác, thậm chí ăn trộm ăn cắp. Ai không ác cảm mới là hy hữu.
Việt kiều Nhật nổi tiếng học giỏi, chăm làm. Nhu cầu của thủy thủ khiến họ quên bẵng khái niệm sĩ diện hão. Ngoài giờ làm họ đi thu gom tất cả máy móc, đồ dùng phế thải ở các khu dân sinh. Họ biến nhà mình thành kho đụn không chút do dự. Phương từng chứng kiến bao nhiêu trí thức vỗ ngực xưng tên tiến sĩ, kỹ sư. Cả đêm họ đội mưa bão đánh xe tải chở đầy máy may, TV, dàn nghe nhạc và hàng trăm loại đồ gia dụng cũ cặp cầu tàu. Họ chào giá, nói thách chẳng thua chợ trời. Thứ gì chưa bán được họ đem về vứt xó và xếp hàng khác lên. Trời sáng, tính ra họ chạy tới chạy lui ít nhất là ba vòng, doanh số không dưới năm trăm ngàn yên.
Ngày xưa những chiến sĩ thanh bần của phong trào Đông Du từng có dạo ăn mày giữa Tokyo nuôi mưu đồ phục quốc. Một thế kỷ sau, đồng tộc họ lại đến đây nhặt rác để kinh doanh, để vinh thân phì da, để tiêu tiền như nước giữa Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng. Nòi giống Tiên - Rồng đã thoái hóa đến tột độ rồi chăng?
Ghét cay ghét đắng dân An Nam là nhà giàu mới Nam Triều Tiên. Chúng khi dễ người nghèo ra mặt. Chúng thừa cảnh giác với thuyền viên Việt Nam tại các siêu thị, cửa hàng và chỉ thiếu mỗi điệu bộ xua ma đuổi tà dành cho họ. Phương luôn thấy tơm tởm mấy gã đầu đinh câu cá bên bờ biển Inchon. Phao chìm, cần câu giật lên con cá tươi nguyên. Họ cạo vảy sơ sơ rồi tẩm mù tạt, gia vị kim chi và bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm. Phần ruột cá để dành làm mồi câu. Không có cơ sở vững chắc nhưng Phương luôn liên tưởng bọn này với đám lính đánh thuê Park Chung Hy giỏi võ Thái cực đạo, trong ký ức dân Sài Gòn trước năm 1975. Không biết chừng, bạn bè thân thiết nhất của chúng chính là lũ chuyên gia Hàn quốc thích đánh đập, hành hạ công nhân tại nhiều nhà máy liên doanh ở Việt Nam.
Năm mươi năm trước, lính Nhật qua lời kể của các vị cao niên, chẳng khác Nam Hàn mấy chút. Âu cũng là con đường của phú quí. Hôm đi lạc vào đoàn công nhân Daewoo biểu tình phản đối giới chủ và chính phủ thỏa hiệp gì đó, Phương thích thú vô cùng. Anh xin băng đỏ buộc trên trán, bắt chước hò hét và nếu chậm chân chắc đã lãnh vài quả dùi cui chí mạng. Tính đoàn kết, ý thức cộng đồng của người Hàn quốc rất ấn tượng. Nếu ta cũng như họ, có lẽ báo chí Việt Nam không còn bất lực chạy những dòng tin uất ức về việc người lao động bản xứ bị chủ nước ngoài o ép, nhục mạ trên chính quê hương mình.
Nhân viên đại lý tại Tokyo đem lương xuống phát cho thuyền viên. Horiuchi khá trẻ, mặt búng ra sữa nhưng nói tiếng Anh rất tốt.
- Tàu toàn hành trình trên biển vắng các ông cần tiền chi gấp vậy? Vừa cặp cảng là hối thúc ngay - Horiuchi nói với Thuyền trưởng, Phương dịch.
- Cũng phải mua vé tham quan hòn ngọc Á Đông chứ - Thuyền trưởng ậm ừ cho qua chuyện.
Đúng lúc đoàn xe tải nhỏ trờ tới cầu tàu. Thùng hàng chất kín máy thu hình, tủ lạnh, xe máy và vô số vật dụng lổn ngổn đầy bụi bậm rỉ sét.
- À biết rồi - Horiuchi hồn nhiên reo lên - Chắc là phải trả tiền mua đồ cũ đây. Các ông khoắng nhiều thế. Ngày trước chúng tôi chẳng biết vứt đi đâu. Từ đận thủy thủ bắt đầu lùng sục vào bãi rác, Việt kiều và Hàn kiều đi gom khắp hang cùng ngõ hẻm không sót một mống. Sở vệ sinh bớt việc nhưng dân chúng than phiền hay bị quấy rầy, xin xỏ trong kỳ nghỉ cuối tuần.
Hàng trăm chiếc xe tay gas đầu thừa đuôi thẹo được chất lên các boong nhỏ quanh cabin. Chuyến này tàu sẽ lấy linker ở Osaka chở xuống Kuching - Malaysia. Qua eo Luzon giữa Đài Loan và Philippines tàu giảm tốc độ gần như thả trôi. Để có thể buôn bán tại Luzon tàu phải báo sai vị trí từ khi rời Nhật rồi luôn giữ tốc độ cao nhất. Mười tiếng ăn gian hải trình tương đương khoảng 90 hải lý. Khởi hành tại Osaka, đến Luzon mất độ bốn năm ngày đêm. Mỗi giờ bớt gần một hải lý thì chẳng ai biết, ngoài ra nên khéo trừ hao sao cho tàu đến Luzon khoảng bảy tám giờ sáng giờ địa phương. Nơi đây chỉ mua hàng ban ngày. Nghĩa là dù đang ở mũi Luzon, bắc Philippines, điện báo viên phải đánh điện về công ty chủ quản và người thuê báo rằng tàu còn cách Luzon 90 hải lý.
Dọc bờ biển Luzon luôn lảng vảng hàng trăm thuyền máy có càng chống lắc của ngư dân Philippines. Họ rất điệu nghệ ném móc sắt quấn vào lan can tàu, và thoăn thoắt trèo lên như hải tặc. Công việc đã lên kế hoạch chi tiết. Trừ sĩ quan đang đi ca biển, tất cả thuyền viên mang bao tay, đồng loạt đóng vai cửu vạn. Đồ cũ rải khắp boong. Khách hàng đi lại chọn lựa, ngã giá thoải mái. Ai thỏa thuận xong món nào, xin xùy peso ra trước khi đội bốc vác được lệnh buộc dây thả ròng rọc đưa hàng xuống thuyền. Xế chiều bán được bao nhiêu thủ quỹ gom về, ghi sổ cẩn thận. Tiền Philippines có thể đổi ra Mỹ kim tại nhiều nước, tuy không hời. Để đỡ thiệt thì phải chờ dịp tàu ghé thẳng Philippines hoặc vài thành phố Malaysia, gần miền nam Philippines như Kotakinabalu. Cơ sở tài chính của những tổ chức hồi giáo ly khai Philippines đóng tại đấy luôn đưa ra tỉ giá hấp dẫn vì họ cần peso cung cấp cho phiến quân.
Kuching là thành phố nhỏ, ít tên tuổi nhưng đồ sộ và tráng lệ hơn bất cứ đô thị Việt Nam nào. Chẳng biết có phải vậy không mà 90% thuyền viên tự giới thiệu mình là người Singapore hoặc Nhật Bản. Hàng dỡ chậm, nhà tàu rộng rãi thời gian dạo phố. Nhóm nào cũng thích Phương đi cùng vì anh chưa bao giờ lạc đường. Gã tài xế taxi khều Phương bảo nhỏ:
- Tôi thừa biết các anh là dân Việt Nam. Ngữ điệu này tôi lạ gì nữa. Trước đây có trại tị nạn rất lớn bên bờ biển.
- Tôi bảo tôi là người Nhật hồi nào - Phương hất hàm qua mấy thủy thủ đang say mê ngắm cảnh lạ - Mặc kệ bọn vong quốc bản này.
- Anh nói chuyện giống hệt vị bác sĩ, ân nhân cũ của tôi ở trại tị nạn. Ông giỏi lắm nhưng đành vượt biên vì không ai sử dụng. Chẳng đêm rằm nào ông chịu ngủ. Ông nghiện rượu, nghiện trăng và hình như hay khóc thầm. Bà vợ ông dù bôi lọ nghẹ đầy mặt vẫn bị cướp lôi ra hãm hiếp rồi vứt xuống biển trước mắt chồng, trong một đêm trăng vằng vặc. Em trai ông đi chuyến đầu, dính băng lừa đảo, tiền bạc giao xong, chúng kéo tàu ra khơi và húc thủng mạn. Gần trăm con người chết chẳng toàn thây.
Phương không tin lời nói hưu vượn của đồng nghiệp. Họ bĩu môi bảo Manila, Jacarta, Bangkok ngày xưa gọi Sài Gòn, hòn ngọc viễn đông bằng anh cả. Nét đặc trưng của tất cả đô thị Đông Nam Á là tương phản rõ rệt giữa giàu và nghèo. Khu trung tâm bát ngát nhà băng, khách sạn, siêu thị lộng lẫy. Vùng ven tù mù hôi hám ổ chó, ổ chuột. Dĩ nhiên phải bỏ qua Singapore. Bên những đống rác ngoại ô cao nghệu mọc đầy xóm nhỏ ngụ cư ký sinh. Chỗ che mưa che nắng của họ làm bằng bìa giấy hoặc tôn mục. Hàng ngàn phụ nữ héo hắt và trẻ con mù chữ khom lưng bới đào. Người ta bỏ ra mười mấy tiếng một ngày để kiếm các thứ còn dùng được đem đổi cái ăn. Môi trường sống của họ, kể cả khung trời cao xanh cũng khắm lặm.
Bangkok kẹt xe triền miên dù hệ thống giao thông rất kỳ vĩ. Đại lộ thênh thang, cầu vượt chi chít. Nhà cao tầng lố nhố như rừng. Đáng phục nhất là những công chức tại tất cả thắng cảnh du lịch. Họ luôn lịch sự nhưng đủ kiên quyết buộc Tây ba lô mướn quần dài, xà cạp hoặc áo dài tay thay cho quần cụt, đầm ngắn và áo thun ba lỗ. Chốn tôn nghiêm không chấp nhận sự lôi thôi, nhếch nhác.
Battbong, trung tâm du lịch tình dục nổi tiếng của Bangkok thu hút rất nhiều người nước ngoài. Chếch bên nhà hàng Mc Donald's rực rỡ đèn quảng cáo là đoạn đường ngắn san sát phòng trà vũ khỏa thân, cửa kiếng trong suốt mời gọi. Tay người Thái dẫn đường bảo hắn đã vào thử một lần, tối về ăn cơm mửa ra gần hết, tỡn tới già. Không khỏi giật mình trước thân phận con người quay cuồng và bị nhẫn tâm chà đạp. Sân khấu nhỏ trang hoàng chói mắt, nam nữ hoàn toàn thoát y trình diễn rất nhiều trò quái dị trong tiếng nhạc gợi hứng. Gần như họ làm xiếc bằng tất cả các bộ phận mang chức năng duy trì nòi giống trên cơ thể mình. Màn cuối bao giờ cũng là cảnh cụp lạc trơ trẽn và cứng nhắc như một cỗ máy.
Mục thị chán chê, khách bước ra cửa sẽ được hướng dẫn viên trân trọng mời đến các ổ điếm xung quanh. Mỗi địa điểm có hai chuồng kiếng kín và một chuồng hở. Gái già sắp về hưu mặc áo vàng mé ngoài. Gái vừa vừa áo đỏ ở giữa. Trong cùng là quầy rượu dài, bên tường đặt hai dãy ghế nệm. Các em gái nhỏ ngồi đấy ngây thơ ôm chó bông hoặc búp bê, ánh mắt măng tơ lúng liếng đưa tình. Người ta không gọi họ bằng tên. Con số dễ nhớ, khó nhầm. Hàng chục tầng lầu đầy đủ tiện nghi cao cấp phía trên sẵn sàng phục vụ thượng đế không kể giờ giấc.
Tưởng chừng chế độ nô lệ đã trôi vào ký ức. Xét kỹ nó hẵng sờ sờ bên cạnh nhân gian. Vì tiền con người có thể làm tất cả. Vì tiền mà bao em gái chưa thành niên bị cha mẹ, đồng loại ép bỏ trường bỏ bạn, thả mình trong nhung lạnh lụa cứng cho thiên hạ dày vò. Vì tiền mà những em trai còn thích rong chơi bắn bi với bè bạn phải khóc thét giữa vòng tay lông lá của lũ mua dâm. Con người từ bỏ chế độ nô lệ thông thường để bước vào cuộc trường chinh nô lệ chính mình, nô lệ nhục cảm và nhu cầu vật chất.
Tàu Phương ghé Hải Phòng đúng thời điểm cục hàng hải tổ chức thi sĩ quan. Anh chớp cơ hội làm giấy tờ ứng thí. Ba môn thi, toàn kiến thức sinh viên. Con đường ăn chắc là tìm đúng chánh chủ khảo từng môn mà rải phong bì: thầy Tuân tiếng Anh, thầy Thúc hàng hải cơ bản, thầy Tường khí tài tàu biển.
Trước giờ thi Phương gặp anh hùng Chút. Anh đang công tác tại Công ty Vận tải biển Miền bắc. Nghe đồn cơ quan thừa người nhưng phòng nhân sự luôn ép anh xuống tàu làm việc liên tục. Vai vế anh to quá ai cũng nể. Nếu anh nằm bờ, các cuộc họp từ lớn đến bé đều phải mời anh. Anh có tật nói nhiều, nói dài và nói không từ ai. Cán bộ công nhân viên cười vỡ bụng, quan chức méo mặt. Chưa có cuộc họp nào anh tự nguyện kết thúc diễn văn. Chuyện kinh tế hoặc hành chính mờ ám tới tai anh là anh nói đi nói lại giọng sang sảng như muốn đốt nhà lột mặt chuột. Anh chẳng sợ gì là điều hiển nhiên.
- Chào anh hùng. Anh học bài xong chưa - Thấy anh nhóm thí sinh nhao nhao.
- Thực hành là chính thôi. Vì nhiệm vụ anh phải học. Nông dân vốn ít chữ. Thông cảm! Thông cảm! Nhưng này, đố thằng giám khảo nào dám cho anh điểm kém nhé. Anh sẽ đề nghị chính nó kèm cặp cho anh hùng chóng thành sĩ quan ngay. Ngay như tay Tuân, làm chánh chủ khảo bộ môn Anh văn chục năm nay gặp anh còn phải trốn xó nhà đấy.
- Sao thế anh?
- Chúng mày dốt quá. Thằng Tuân giỏi luồn cúi, chẳng có bằng cử nhân anh ngữ nhưng thích "dzét", "lô". Anh lên thẳng cục trưởng yêu cầu không cho nó hỏi thi anh. Ai dám cản?
Chuyện anh Chút còn nhiều tập. Có anh thì Công ty Vận tải biển Miền bắc lắm phiền hà. Cục hàng hải gần bên, anh cứ qua hạch sách hoài. Bí thế, mấy năm sau công ty thuyên chuyển anh vào chi nhánh Sài Gòn sau khi không thành trong việc dụ dỗ anh học tiếp cao học. Anh thôi đi biển và chọn công tác văn phòng. Thời bao cấp đã thành dĩ vãng vậy mà anh Chút vẫn xin được căn hộ tập thể trên đường Đồng Khởi. Nghe đâu chính bí thư quận ủy trao quyết định giao nhà cho anh, nếu không anh ghé chơi hoài cũng bất tiện. Chi nhánh người ít, hội họp cũng ít nhưng chẳng vì thế diễn văn của anh ngắn bớt. Lần đầu, viên thư ký thuật hết lời anh vào biên bản, tổng giám đốc ngoài Hải Phòng phải điện vô dặn dò cặn kẽ. Từ ấy trở đi anh muốn nói gì thì nói, chẳng ai buồn ghi chép. Họ còn cắt cử hẳn một chuyên viên già dặn luôn ngồi cạnh anh Chút trong các cuộc họp và đặt ra tín hiệu riêng để dừng anh lại mỗi khi đã cười hết nổi.
Trong phòng thi Phương lo ngay ngáy. Khéo lần này hỏng. Anh chỉ biết thầy Tuân, phong bì đã trao tận tay. Cận giờ rồi, biết đâu mà lần. Tuy nhiên kết quả Phương được bảy điểm Anh văn. Phương chẳng rõ thầy Tuân giấu tay hay anh làm bài được, không ai dám hạ đo ván lộ liễu.
Thuyền trưởng động viên Phương bằng cách yêu cầu anh bổ xung ngay chứng nhận tạm thời chức danh Thuyền phó ba hạng nhất. Ông đôn Phương lên ngạch thực tập Sĩ quan. Tiến ra vẻ không ưa song có Phương đi ca chung, hắn lợi nhiều bề nên ậm ừ đồng ý. Với nghiệp vụ Phương luôn ý thức trau dồi, nắm rất vững. Sóng yên biển lặng là Tiến an tâm giao cả buồng lái cho Phương và thủy thủ đi ca. Hắn thảnh thơi cờ bạc triền miên.
Mới nhận bằng kỹ sư hơn năm, Phương đã đủ hiểu biết để độc lập điều khiển con tàu viễn dương cỡ lớn. Ca biển của Phương sáng từ 4 đến 8 giờ, chiều từ 16 đến 20 giờ. Biển bình minh và hoàng hôn luôn xốn xang lòng người. Nẻo đường đại dương Phương từng qua cứ dài ra mãi và vẫn song hành cùng cơ cực, nhọc nhằn. Bài học thực tế của biển cả thật lớn lao.
Sẽ không có thuyền trưởng Phương dẫn một con tàu vào cảng New York, như cột mốc đánh dấu sự nghiệp hàng hải anh hằng khát khao. Ước vọng tình cờ thăng hoa khi Phương đang là sinh viên năm thứ hai. Bộ phim màn ảnh rộng kể về chàng thanh niên Italia bần hàn tìm đến Tân thế giới lập thân. Hình ảnh đầu tiên của nước Mỹ đập vào mắt chàng là tượng thần tự do tay nâng cao đuốc. Trải qua những cung bậc đời sống trầm bổng, nhân vật chính công thành danh toại. Anh trở thành chúa trùm một băng đảng xã hội đen nhiều quyền lực.
Từ đó Phương hay bị ám ảnh bởi vịnh New York nổi tiếng. Không phải anh mặn mà với sự lãng mạn của tội ác trong phim. Phương muốn vượt Thái bình dương, đi vòng quanh địa cầu để khám phá cốt cách nhân bản ẩn trong bức tượng mà dân gian Việt Nam từng nôm na gọi là mụ đầm xòe. Biết đâu hành trình mơ ước sẽ soi rọi, đánh giá con người Phương cùng công việc anh đã làm hoặc chưa làm được.
Số phận không cho phép Phương ăn đời ở kiếp với biển. Chẳng phải anh chán biển. Phương ghê tởm các con tàu dơ bẩn nổi trôi trên màn nước thật thà bất tận của đại dương. Tuổi trẻ của Phương vĩnh viễn gắn bó cùng Thái bình dương và Ấn độ dương. Biển luôn là con mắt mê hồn, rưng rưng xanh biếc. Phương đã sống hết mình cho biển. Tất nhiên biển sẽ là mãi mãi.
Phương đã rảo bước trên hàng chục đất nước, trò chuyện với hàng trăm loại người. Cánh cửa mở đến chân trời mới không phải là các sân bay tráng lệ, không có những tiếp viên hàng không, nhân viên phi trường xinh đẹp lịch sự. Con tàu thường rẽ sóng tiến vào các cửa biển đục ngầu nổi trôi rác rưởi và dầu thải. Lênh đênh xóm lao động nghèo cộng sinh cầu cảng. Lầm lũi hàng đoàn công nhân bốc xếp bán lưng cho trời sương nắng, bán mặt cho hầm hàng hun hút bụi mù. Trái đất nhức nhối vẫn ì ạch tiến đến thế kỷ hai mốt. "Điều hợp lý là điều đã và đang tồn tại" - Phải chăng Hegel, ông tổ của phép tư duy biện chứng muốn phủ nhận mọi nỗi khổ cần lao?
Những đêm lân tinh, Phương hay chống cằm tì tay trên mạn tàu ngắm biển. Anh nghe lòng biển trào lên tiếng thơ Trường hận ca của Bạch Cư Dị:
Hốt văn hải thượng hữu tiên san
San tại hư vô phiêu diểu gian
Và lần nào cũng vậy, Phương lần bước ra khỏi mê lộ xa xôi mù mịt của tinh thần để đến với vài khao khát vật chất thật bé nhỏ. Anh thèm một ly cà phê quán cóc đất liền. Phương nhớ cả cái mùi khó ngửi của con rạch đen ngòm ngoài cửa sổ chung cư Nhiêu Lộc ngày nào. Anh bỗng chán chường cuộc mưu sinh bần tiện. Con tàu trong anh đã đắm. Nó quá yểu mệnh. Mặt biển lắng chìm trạng thái quá độ giữa khả năng còn phi hình và thực tại đã hiện hữu. Vứt hết hồ nghi, nước đôi bấp bênh của sự kết thúc, Phương hoài nhớ biển trong tình yêu quá khứ.
Phần lớn các dòng sông đều đổ ra biển. Biển không chứa nước mắt. Nước mắt con người chỉ có trong thuở hồng hoang xa xôi, khi họ còn biết khóc thật sự. Nước mắt về trời lâu rồi. Nó đã thăng hoa rồi đông cứng trong hàng triệu ánh sao câm lặng, không ngừng nhấp nháy trên bầu trời bao la. Ba phần tư trái đất là biển, là đại dương, là nước và trên hết là tội lỗi của chúng sinh. Chẳng phải vô lý mà nước biển ngày càng dâng cao.
(1)Trích Ly Tao của Khuất Nguyên. Giảo như huệ dĩ yểm thế hề. Triêm dư khâm chi lãng lãng Tạm dịch nghĩa: Nâng cánh hoa huệ mềm mại để ngăn nước mắt tuôn chảy thấm ướt áo ta
6 - Tỵ ...
Chuyến cuối tàu lấy gỗ ở đảo Solomon tới bờ tây nước Nhật. Theo lịch trình nó sẽ kết thúc hợp đồng thuê định hạn tại Fukuoka và chạy không tải về Hải Phòng để lên đà Phà Rừng đại tu. Mô hình hợp tác xã bị giải thể, tiền lãi đợt buôn cuối tại Luzon được chia đều. Thuyền trưởng không cấm tích trữ đồ cũ, có sức thì tự lo.
Bọn Tiến, Phan Sinh và vài sĩ quan máy đã tiếp nhận khoảng 20 chiếc xe con trong đường dây buôn lậu cỡ lớn của Trung Quốc. Mọn tài hơn, nửa số thuyền viên âm thầm cáy hàng lẻ trong buồng ngủ, hầm vật tư. Trò này được thực hành thuần thục như một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngành đường biển. Vách ngăn cách nhiệt và cách âm bị khoan, cưa, đục từ bao giờ, tạo thành kho đụn tuyệt không thấy dấu vết. Các bồn nhiên liệu hai đáy được rút cạn, hàng hóa lèn chặt phía dưới. Keo dán sắt sẽ phong kỹ cửa bí mật, bơm thêm ít dầu ngụy trang là hoàn toàn an tâm.
Nói cho cùng mánh khóe lưu truyền rộng rãi thì nhiều người biết. Cái quan trọng là hình như công vụ cửa khẩu chỉ thích bắt loại cá lớn ngu ngốc, được vỗ béo bằng cách làm ngơ dăm ba chuyến trước đó. Ai chẳng say máu với tiền. Lãi cứ gộp vào vốn, mẻ lưới kéo lên thì bán nhà chưa chắc tránh được tù tội, thân tàn ma dại. Tinh ý chút xíu sẽ thấy trò giấu diếm chui nhủi quá ngây thơ và công cuộc chống buôn lậu không đến nỗi trần ai. Dù mắt thường rất khó phát hiện đồ quốc cấm trên tàu, nhưng sơ hở lớn nhất và hiển nhiên là quá trình đánh hàng lên bờ. Máy thu hình, tủ lạnh, đầu vidéo… không phải cây kim, sợi chỉ để lận lưng giữa thanh thiên bạch nhật. Rõ ràng luật chơi đã được giao kèo sòng phẳng. Lũ ngoại đạo hoặc kẻ kém may mắn mới phải trả giá.
Tàu ngon trớn băng qua eo Đài Loan. Việc ăn gian hải trình như cũ, rất êm thấm. Phương là người đầu tiên phát hiện vùng áp thấp nhiệt đới đang hình thành dữ dội ngoài khơi vịnh Subic. Anh đem bản sao truyền thời tiết của trạm Hương Cảng cho thuyền trưởng xem.
- Bây giờ tăng tốc vượt qua thì chúng nó nổi loạn mất. Nghe bảo lô hàng ô tô trị giá hơn 100 ngàn Mỹ kim – Thuyền trưởng do dự.
- Em sẽ thường xuyên theo dõi và báo anh diễn biến áp thấp.
- Mày có nhìn thấy rìa khí này không. Đến 90% là sẽ có bão. Tao đọc thứ này mấy chục năm rồi.
Sập tối thì áp thấp được đặt tên là cơn bão Sophie. Thuyền trưởng nhóm họp toàn bộ thuyền viên. Phan Sinh cao giọng:
- Vùng này tôi thuộc như lòng bàn tay. Bão Thái bình dương mới đáng ngại. Bão hình thành trong biển Đông thường yếu và chóng tan.
- Anh đâu biết đọc bản đồ khí tượng bằng tiếng Anh. Mấy lời hóng hớt không thể là kiến thức - Thuyền trưởng cực kỳ khó xử - Thôi không bàn cãi nữa. Các anh có ba tiếng sang mạn ô tô ngoài khơi Yaxian như dự tính. Sau đó tăng hết tốc độ cặp vùng duyên hải phía tây đảo Hải Nam tránh gió. Mong bão không đuổi theo ta.
- Móm chuyến này là vợ con chúng tôi húp cháo. Anh làm sao thì làm - Phan Sinh đe dọa. Tiến hùa theo.
Sáng, viền đồi núi của Hải Nam hiện lên rất rõ trên màn hình radar. Trời oi và hiếm gió. Công ty gởi điện cho thuyền trưởng: "Cẩn thận bão Sophie. Có thể giảm tốc độ để tránh ở khu vực vịnh Quảng Đông. Giữ thông tin thường xuyên!". Tâm bão cách quần đảo Hoàng Sa 300 hải lý, hướng đông bắc. Tàu đã qua vịnh Quảng Đông hơi xa, đất liền lại nghĩ nó đang thong dong gần eo Đài Loan!
Một giờ chiều tâm bão di chuyển theo hướng tây, có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến tàu. Toàn bộ sĩ quan lái và máy họp đột xuất.
- Tôi chính thức thông báo lệnh chống bão khẩn cấp. Không còn thời gian dừng ở Yaxian. Tôi đang chẳng biết nói với nhà là tàu đang ở đâu. Khéo lòi mặt chuột thì nhục.
- Anh nên coi trọng ý kiến mọi người - Tiến phản đối - Ta vừa hoàn thành suất sắc hợp đồng kếch xù của công ty. Sẽ không ai nỡ hạch sách việc cải thiện đời sống của chúng tôi.
- Tôi muốn cho tàu tiến nhanh vào nam vịnh Bắc Bộ. Đó là giải pháp an toàn nhất.
- Chúng tôi không đồng tình - Mấy giọng nói hòa làm một - Chẳng tránh nơi gần mà bang đến bờ xa. Hết sức phi lý - Phan Sinh nối theo - Anh nên xem xét kỹ, chúng ta còn gặp nhau nhiều. Chớ cạn tàu ráo máng.
- Vâng ạ. Nếu tôi có diễm phúc đón anh, anh không mạnh miệng được như thế này nữa đâu thưa chính ủy. Từ tháng trước toàn công ty chấm dứt biên chế này rồi. Nếu thích xin mời lên đây làm phụ bếp hoặc quét dọn.
- Chúng tôi cần chứng lý rõ ràng trong quyết định của anh - Tiến gân cổ - Nên tìm eo biển trú tạm.
- Hai bốn giờ qua tâm bão di chuyển theo đường chữ chi, rất khó đoán. Tôi linh cảm nó sẽ cắt đuôi hành trình dự kiến của ta. Tăng tốc là tối ưu. Hệ thống chằng buộc nắp hầm hàng, tời và neo xuống cấp hết mức rồi. Không thể đứng tại chỗ chịu trận chờ bão quét qua, cho dù ở trong eo biển kín.
Bất ngờ tàu đảo mạnh. Buồng lái điện báo có sóng lừng rất to, từng cơn dồn dập. Chân trời gợn lên nguy cơ xuất hiện sóng thần. Mọi người xanh mặt. Không ai thốt nên lời.
Tâm bão còn xa nhưng sự mở rộng tầm ảnh hưởng mãnh liệt khiến tàu lắc dữ dội. Gió mạnh dần. Đuôi cá phong kế đảo chiều liên tục. Thuyền trưởng ra lệnh bơm nước biển vào các két nước ngọt trống rỗng cho tàu bớt chòng chành.
Đêm ấy không ai ngủ. Sóng nhồi liên miên. Gió bứt hết mấy cột ăng ten èo uột chẳng thương tiếc. Tàu mất liên lạc với trạm khí tượng Hương Cảng từ hai mốt giờ. Máy sao truyền dùng tín hiệu vệ tinh trục trặc. Phương được giao phó việc ghi chép biến thiên khí áp và theo dõi chặt chẽ hướng sóng hướng gió. Tất cả sĩ quan boong tập trung lên buồng lái, gò lưng tính toán khoảng cách và đường đi của tâm bão theo phương pháp cổ xưa. Không thể dự đoán vị trí cũng như tốc độ chính xác của tàu. Sóng đập mạnh, hệ thống lái tự động quá tải phải chuyển sang lái tay.
Tám giờ sáng hôm sau trời mưa lớn. Màn ảnh radar nhiễu mờ đặc nhưng cũng cho biết tàu cần đổi hướng để nép mình vào bờ tây đảo Hải Nam theo kế hoạch. Thực ra hồi đêm bão đã đổ bộ vào giữa Hải Nam. Nó chỉ hơi yếu đi khi băng qua đảo. Đến bờ tây nó ào ra biển và tăng cường độ. Khi phó Hai phát hiện tàu đang ngược sóng, gió táp mạn trái, hoảng loạn lập tức xảy ra. Rõ ràng cơn bão vừa quặt xuống, đe dọa hút con tàu vào lòng nó. Thoát ra khỏi bão lúc này là hoàn toàn vô vọng. Không thể điều khiển hướng tàu theo ý người. Kim chỉ nam của la bàn điện và la bàn từ quay như chong chóng.
Thuyền trưởng phát loa: "Diễn biến bão vô cùng phức tạp. Tất cả thuyền viên đọc kỹ kế hoạch dự phòng bỏ tàu theo bảng chỉ dẫn dán sẵn khắp nơi. Tôi thành thật xin lỗi và hoàn toàn nhận trách nhiệm về việc này. Tôi đã đưa con tàu sắp tiến vào tâm bão. Nếu tàu đủ sức thoát ra từ bán vòng trái của bão chúng ta sẽ an toàn. Nếu không bắt buộc phải hy vọng ca nô cứu sinh sẽ dạt vào mỏm Jinmu Jiao. Xin tất cả bình tĩnh. Hãy coi sinh mạng mình quan trọng hơn tài sản, tiền bạc…".
Thuyền trưởng bỏ ống nói. Hình như ông cố gắng lắm mới đứng vững. Phương tựa vào vách ngăn buồng lái lần ra cầu thang dẫn xuống phòng ở. Cửa các buồng đều mở toang. Người ta hí hoáy lục lọi, tìm kiếm tư trang và gói gém trong mấy lần túi ni lông. Có lẽ Phan Sinh đã chuẩn bị xong. Hắn đang lum khum trong kho thiết bị nguy cấp. Thấy bóng Phương hắn gào lên: "Phương! mày chung ca nô với tao đấy. Tìm hộ tao mấy quả pháo khói. Tiếng Anh tiếng em loạn cả mắt" - "Cứ màu da cam mà chọn" - Phương trả lời mà chẳng dừng bước.
Phương thay chiếc quần bò dày và chắc nhất. Phao cứu sinh cá nhân anh khoác hờ trên người. Phương nhét kỹ hơn hai ngàn Mỹ kim dành dụm được suốt chuyến đi trong túi kín. Cố giữ thăng bằng giữa bục cửa Phương tiếc rẻ nhìn căn phòng đã gắn bó với anh hơn một năm. Mỗi bức tranh thiếu nữ mặc Kimono dâng trà mua tại Kanematsu là còn bám vào vách, vì keo dán khá tốt. Máy đánh chữ, tây ban cầm, dàn máy nghe nhạc bị quăng quật nằm rải rác dưới sàn. Chiếc giường cá nhân lật tung tấm dát ván ép. Khăn trải giường, gối và mền màu trắng xổ tung. Tủ chìm dưới giường lộ ra phích nước bật nắp. Nồi cơm điện Phương hay dùng nấu mì ăn liền chỏng gọng. Mấy chồng sách, ảnh đổi chỗ hết sức lộn xộn. Đồ lưu niệm Phương mua khắp nơi dập vỡ gần hết. Anh cúi xuống nhặt con sao biển bắt được ở vịnh Bintulu nam Thái bình dương và miếng bùa Tanaka tặng. Anh bới lục hồi lâu mới tìm được chiếc kiềng bằng đồng đen của Somporn ném lên boong tàu dạo trước. Anh đeo kiềng vào cổ. Phương biết mạng mình còn khó bảo toàn nên không níu kéo thêm bất cứ vật dụng nào nữa.
Sóng quá lớn, nhà bếp không thể nấu cơm. Mì gói khô và nước lạnh là thực phẩm hai bữa rồi. Trong nguy nan chẳng ai đói, chẳng ai dám say sóng. Phần lớn thuyền viên gói nhỏ, bị to, mặc áo phao kềnh càng tập trung hết ở câu lạc bộ sĩ quan. Tiến trưởng nhóm một, dự định xuống ca nô cứu sinh bên trái. Phan Sinh giành vị trí trên ca nô bên phải có trang bị máy thủy. Tóc tai họ bù xù, mặt mũi hốc hác nhưng luôn miệng nguyền rủa Thuyền trưởng và cơn bão chết tiệt.
Sóng gió càng lúc càng mạnh. Gần boong mũi, hai nắp hầm hàng đã bật ra, bạt phủ tơi tả. Cần cẩu số bốn tuột dây chằng, va qua quật lại, phát ra tiếng ình ình thống thiết. Thuyền trưởng quyết tâm cho tàu vượt thoát từ rìa tây nam của bão. Từng đợt sóng phủ qua thân tàu trắng xóa, nước hắt lên tận buồng lái cao mười sáu mét. Mỗi lần như vậy hầm mũi chứa thêm ít nước làm tàu từ từ chổng lái. Con tàu dường như đang chịu đựng thử thách lớn nhất trước khi bứt khỏi vòng xoáy. Tiếng sắt thép vặn vẹo đinh tai. Ầm ầm ầm… sóng đánh tung gần hết nắp hầm hàng… ầm ầm ầm… rắc… rắc… bánh lái gãy… Tàu chơi vơi trên đỉnh sóng. Chân vịt trồi lên mặt nước. Máy cái quá tải gầm rú. Chắc chắn mảnh vỡ của bánh lái bị cuốn vào chân vịt… một tiếng rắc khủng khiếp… buồng máy dừng máy chính. Trục chân vịt đã gãy!
Và rồi sóng gió bỗng dịu hẳn. Thuyền trưởng suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng ông buồn bã thốt lên "Hỏng bét cả! Đây là mắt bão! Tàu không đủ sức vượt ra bán vòng trái nên bị cuốn vào trung tâm cơn thịnh nộ của đất trời". Điện báo viên nhận lệnh phát tín hiệu S.O.S. Thuyền trưởng mời tất cả thủy thủ lên câu lạc bộ.
- Đã vào đường cùng. Hãy để hai máy đèn chạy theo chế độ tự động. Chúng ta bàn tính bỏ tàu sao cho an toàn nhất.
- Anh nghĩ mình còn đủ tư cách chỉ huy chúng tôi hả? - Phan Sinh hét lên - Đồ ăn hại.
- Anh em hãy chờ tâm bão đi qua. Nếu thả xuồng xuống bán cầu phải cơn bão, nhiều khả năng sóng gió sẽ giúp xuồng có lực ly tâm vừa đủ để dạt vào bìa vịnh Hạ Long - Thuyền trưởng cố tình bỏ qua câu chửi của Phan Sinh và nhiều lời xì xào khó nghe khác - Tôi quyết định ở lại tàu để xám hối và cầu nguyện cho anh em bình an.
- Cải lương lắm - Tiến bĩu môi - Tôi xuống ca nô của tôi. Ai thích nghe gã gàn này thì cứ ở đây.
Đoàn người lập cập kéo ra hành lang câu lạc bộ. Lối này thông với hai boong ca nô cứu sinh. Thuyền trưởng bước lên cầu thang về buồng lái. Ở bậc cuối ông quay lại, giọng run run bất lực:
- Xin các anh nghe tôi lần chót. Dự đoán của tôi không thể sai.
- Ông hãy ở đây và chết với những dự đoán của ông đi - Phan Sinh lên tiếng rồi thúc Phương vào chỗ hạ thuyền.
Phương đưa mắt nhìn qua thuyền trưởng. Khuôn mặt ông không biểu lộ bất cứ điều gì. Anh lặng lẽ trèo lên boong cứu sinh. Dồn hết sức bình sinh Phương nện búa vào cái chốt an toàn rỉ sét. Mười sáu con người co ro, ướt át bấu víu lấy nhau và bấu víu lấy niềm hy vọng tồn tại lọt thỏm trong lòng thuyền trông thật thảm hại. Phương bỗng thấy họ nhỏ bé vô cùng dù vóc dáng họ vốn to lớn, lại càng lớn hơn bởi áo phao căng phồng và xốc xếch. Biên độ lắc của tàu dần dần bằng không. Thuyền cứu sinh chầm chậm trôi xuống mặt biển trong tiếng rên xiết thảm thiết của hai trống dây cáp mục nát. Vài thủy thủ gào lên át cả tiếng gió hú: "Phương! Sao mày còn đứng đó. Xuống ngay!!!". Mặc kệ! Phương bám chặt tay vào lan can và khe khẽ lắc đầu. Anh cởi áo phao ném cho Hải. Cậu phục vụ nhẫn nhục đã dành chiếc áo của mình để bọc đống hành lý lộn xộn. Phương quay gót về buồng lái. Sau lưng anh chiếc thuyền bé nhỏ từ từ tách khỏi tàu mẹ, thui thủi dấn thân vào cuộc sinh tử lành ít dữ nhiều.
Thuyền trưởng không ngạc nhiên khi Phương bước vào.
- Bình tâm đi. Sóng gió đã giảm nhiều, mắt bão đấy. Khoảng một hai tiếng nữa tàu mới có thể chìm. Mà kìa, áo phao mày đâu rồi?
- Em cho Hải "con". Vẫn còn hai áo phao dành cho hoa tiêu ở trên này mà, phao tròn cũng không thiếu.
- Hai chiếc ca nô mất hút nhanh ghê. Bóng tối thật đáng sợ. Chắc buồng máy đã đầy nước. Chẳng hiểu máy đèn còn hoạt động bao lâu nữa. Tao tin mày biết tao sai lầm khi dẫn tàu vào mắt bão. Kiến thức tao tệ quá. Đêm qua tao sơ ý quên đổi dấu phương vị trong công thức tính khoảng cách từ tàu đến tâm bão. Đấy là góc bẹt nên sai số không đảo ngược kết quả. Khi mày thắc mắc, tao đã coi thường và bỏ ngoài tai.
- Luận văn tốt nghiệp của em đi sâu vào phương pháp tránh bão không dùng thông tin vô tuyến. Em thiếu can đảm để tranh luận với anh nên chúng ta mới gặp nông nỗi này.
- Mày an ủi tao hả? Không cần đâu.
- Anh thực sự muốn được thủy táng cùng con tàu ư?
- Con tàu cuộc đời tao đắm chìm từ thuở nào rồi ấy. Tao ra đi như thế này là hơi muộn nhưng mỹ mãn. Tao thanh thản hơn là sợ hãi.
- Còn sự sống là còn tất cả. Anh bi quan vừa thôi.
- Mày ở lại với tao vì lãng mạn hay mày muốn lắng nghe những lời chân thành nhất của một kiếp người? Mày có thể tin mày sẽ sống sót nếu nhảy xuống biển trước khi tàu trượt qua mắt bão. Tao thì không. Tao đâu trẻ trung và sung sức như mày. Ngõ nào cũng dẫn về địa ngục. Hà cớ không đón cái chết như ân huệ?
- Em rất mong có bạn đường để cậy nhờ và làm chỗ dựa. Gắng sống vì người khác anh sẽ thấy cái chết rất xuẩn ngốc.
- Chú mày bắt đầu can đảm lên rồi đấy. Khá lắm! Hãy tiếp tục rủa xả tao đi. Chửi bới là thứ ngôn ngữ ít giả dối.
Phương nhìn thẳng vào đôi mắt trống rỗng của thuyền trưởng. Ông cười buồn rồi tắt hết đèn chiếu sáng trong buồng lái. Trời quánh đen như mực. Gió lặng. Máy đèn rì rì êm ái. Trong không gian tử thần rờn rờn tiếng nấc của biển cả vọng đến, đục không ra đục, trong cũng chẳng thành trong. Kim phút của chiếc thời kế chuẩn buông những nhịp khô khốc đều đặn.
- Ngày xưa tao lãng mạn hơn mày nhiều. Tao học trung cấp Hàng hải khóa I tại Hải Phòng. Tao đàn giỏi, hát hay. Cánh Hải Âu luôn thấp thoáng giữa lời ca, điệu nhạc. Lần đầu tao ghé vào Yokohama, Hải Âu đậu kín cần cẩu, tháp đèn. Boong tàu trắng xoá phân chim. Đi ngoài trời phải cảnh giác với "bom rơi đạn lạc" không thì một chai dầu gội đầu cũng chưa sạch. Tao điên tiết bẫy vài con. Trời ạ! Thịt nó tanh hệt cá ươn, dễ sợ hơn nhiều cảm giác tởm lợm lúc chà rửa sàn tàu khi rời cảng. Trên đường về, mọi người tưởng tao say sóng dù tàu lắc ngang chưa tới 10 độ. Tao nôn thốc nôn tháo mật xanh, mật vàng cả tuần.
- Biển còn vạn điều hay…
- Sau này buôn bán lên hương tao lại nôn lần nữa. Bữa bù khú diễn ra tại nhà hàng Cánh Buồm sang trọng nhất Sài Gòn thời bấy giờ. Toàn rượu ngoại X.O, chúng tao tu bằng chai. Tàn tiệc, tao vào phòng máy lạnh với nàng ca sĩ nghe đâu là cựu hoa khôi nổi tiếng. Tóc nàng đẫm mùi nước hoa Pháp thứ thiệt, do chính tay tao chọn bên đại lộ Champs Elysées khi quá cảnh Paris sang Anh mua tàu mới. Nàng vừa thoát y thả mình xuống giường là tao nôn, không kìm được. Đặc sản thơm ngon, rượu Tây đắt đỏ, không hiểu dạ dày nhào nặn thế nào mà khi nó túa ra đầy bụng cô nàng thì hôi thối khó tả.
- Anh mắc hội chứng tinh thần liên quan đến đạo đức?
"Chúng tao là một thế hệ chết giẫm. Thời cũ đã xa. Mấy năm nay bà con mình bắt đầu đủ tiền sắm đồ mới. Những thứ khuân bên Nhật về chỉ có giá hơn rác Việt Nam chút đỉnh. Lương tao chẳng còn ai hỏi. Mụ vợ ky cóp từ dạo trước, nhảy ra buôn bất động sản và phát tài từng ngày. Mụ xây khách sạn nhỏ sáu tầng, 30 phòng hiện đại. Gia đình tao rút cả lên tầng 6 với cây kiểng, non bộ và toàn cảnh những mái nhà dột nát, chắp vá của xóm lao động nghèo bên dưới. Tao ghét máy lạnh nên chọn căn phòng rộng nhất, thoáng đãng nhất.
Khách trọ đủ thành phần, đa số thuê theo giờ. Trai gái yêu nhau kiếm chỗ tâm sự kín đáo. Trung niên xế bóng rửng mỡ, quần ngắn áo thun, tay xách vợt thể thao quí phái. Người ngoại tỉnh lên thành làm ăn kè theo bóng hồng cho đỡ nhớ nhà. Đáng phỉ nhổ là các cặp so le. Xếp đầu bạc bụng mỡ ôm eo thư ký bước xuống ô tô. Mụ già đáng tuổi mẹ thằng trai tơ, quàng vai nhau anh em ngọt lịm. Công tử lãnh lương cha chú, chẳng dắt theo gái làm tiền thì chăm bẵm nàng nữ sinh non choẹt lóng ngóng trước cảnh lạ.
Chết tiệt! Cửa sổ của tao ăn ra giếng trời do kiến trúc sư thiết kế nhằm tạo đối lưu không khí. Cửa thông hơi nhà vệ sinh của tất cả phòng bên dưới đều mở vào hướng này. Tao thành thính giả bất đắc dĩ. Tiếng xả nước rửa ráy, tiếng cãi vã so đo tiền bạc, tiếng rên rỉ, tiếng cười đùa dâm dục… vẳng lên, hất vào ban công hẫng trên cùng và dội đến tao. Nhố nhăng nhất là mấy đứa tập tành đeo điện thoại di động bị gia đình, con cái réo theo hạch sách. Các vị thường chui vô toa lét, hổn hển như sắp hết hơi:
- À lố anh hả? Em đang bận tí việc bên đối tác quan trọng của công ty. Anh tạt qua trường đón con về trước hộ em. Hai tiếng nữa em mới xong. Ngoan nghen cưng, em sẽ thưởng…
- Má ơi là má, con mười bảy tuổi rồi. Suốt ngày má tra hỏi như tìm trẻ lạc vậy. Con ở nhà bạn ôn bài thi học kỳ. Chút con về liền mà…
- Em gọi anh hoài tốn tiền lắm em ơi. Hai ngày nữa anh về. Xếp quay quá chừng thời gian đâu mà đú đởn. Anh nhớ nhà, nhớ mẹ con em nhiều lắm…
- Cưng của mẹ đó hả? Trời đất! Vừa hôm qua cho một vé nay lại đòi. Mẹ mày sắp phá sản rồi. Cứ bia bọt đĩ bợm lắm vào, bệnh xã hội gặm mục xương thì hết đời đó con. Vay tạm ba mày đi… Cha con mày cùng duộc dại gái, có khổ tôi chưa…
- Ê thằng quỉ ở đâu vậy… hi hi hi… Tao đang úm em Hoa tóc nâu… Hết ý! Xì… Si đa mười năm sau mới tàn đời. Bằng mấy cuộc vui hả chiến hữu…
- Chúng mày chỉ biết tiền, tiền và tiền. Học hành gì mà tốn tợn thế, hơn cả anh mày tậu bằng đại học. Ba mày đang tối mắt tối mũi với công việc đây nè. Thôi khi khác nói chuyện nhé…
Đôi co và chửi nhau bằng tiếng mẹ đẻ chưa sướng, nhiều đứa còn lôi tiếng Anh ra khè thiên hạ. Chó chết! Tao không rành ngôn từ nhưng tao hiểu ngữ điệu hằn học xỉ vả và những câu đệm Đan Mạch đầy rẫy trên phim hành động Mỹ. Thật khốn khổ! Tao là con người tạm tin vào chủ nghĩa tự do tình dục. Tin có lẽ vì tao cũng chẳng cưỡng được ham muốn xác thịt. Song thứ tao bị bắt buộc chứng kiến không thể gọi là tự do cá nhân được. Nó là sự băng hoại, là sự khủng hoảng đạo đức. Nhàm chán và ngụy biện quá đúng không?
Thanh âm đó xoắn lấy tao, tra tấn suốt ngày đêm. Với con cái ruột thịt tao là người thừa. Chúng toàn à ơi bám váy mẹ vòi vĩnh, nịnh nọt nả của. Gia đình nào chẳng mọc ung nhọt, kể cũng thừa. Tao lại say mày ạ. Say đất ấy, lúc nào cũng bồng bềnh, ngày ba bữa cao lương mỹ vị nhưng vẫn nôn. Tao nhớ biển và cứ mong ra biển. Bây giờ biển sắp đón tao, chuyến trở về vĩnh viễn".
- Em sẽ bên anh đến khi tàu chìm.
- Tàu đang chúi mũi nặng. Có lẽ mối hàn vết thủng vách hầm số hai đã rách. Họ sợ người Nhật làm kỹ, giá cao nên khuyên tao bỏ qua. Đành dặm vá sơ sơ và đợi về Việt Nam sửa luôn thể. Sinh mệnh gần ba mươi thuyền viên rẻ hơn miếng tôn mới. Lúc nào cũng vẽ lời nguyện: "Công ty nghèo lắm... hãy thông cảm, cố gắng vượt khó...". Nếu bỏ thêm vài ngàn Mỹ kim mua thiết bị báo nguy hiện đại thì hai chiếc ca nô cứu sinh có cơ may nhiều hơn. Mọi đầu tư luôn chẳng đặng thì đừng, chỉ khi quy định của tổ chức hàng hải quốc tế bắt nó phải có.
Thuyền trưởng và Phương bất ngờ mất thăng bằng. Đợt sóng mới xô mạnh vào tàu. Loạng choạng, mỗi người tuột về một phía tìm tay vịn. Họ im lặng và căng mắt định hướng trong màn đêm. Những lưng sóng ùa tới ngày càng dày hơn. Con tàu sắp sửa trôi sang rìa phía đông của cơn bão.
- Giờ chết điểm rồi chú em à. Mặc áo phao vào đi.
- Còn đúng hai chiếc mà anh?
- Trong văn chương và các câu chuyện truyền miệng bất tận của người đi biển luôn có một vị thuyền trưởng dám chết cùng con tàu lâm nạn. Mày phải tôn trọng sự lãng mạn của tao chứ.
- Em không tin.
- Hãy nuôi lòng tin mà sống dù tao chết không phải để cứu tàu. Con tàu này đắt lắm, nếu bán sắt vụn cũng cả triệu Mỹ kim. Bảo hiểm sẽ đền tất. Vợ con tao chắc chẳng thèm mè nheo kiếm tiền tử tuất. Tao muốn mang danh hiệu "con người dũng cảm" khi chết. Đó là đặc ân tuyệt vọng, đừng bài bác nữa. Sao mày không chuẩn bị hành trang đi?
- Giờ đây tiền cũng bằng giấy lộn thôi. Khi còn học trong trường em nghe tàu Hải Âu chìm rất gần bờ. Thê thảm! Nửa thủy thủ đoàn bị sóng đánh ngất xỉu và dạt vào vạn chài hẻo lánh. Kẻ trần truồng mới được cứu. Số người lận lưng ngoại tệ mạnh bị tước hết và rồi đẩy trở ra biển. Không hiểu có thật không?
- Tao không rõ nhưng hành xử như chú mày là biết. Thôi, rời tàu nhanh lên. Nếu mày chưa ra khỏi vùng nước này khi tàu bị gãy đôi, dòng xoáy sẽ hút mày theo tao đó. Đi đi Phương! - Ba tiếng cuối cùng thuyền trưởng nói rất nặng nhọc. Giọng ông hơi lạc và chùng xuống khác thường.
Phương hiểu ngôn ngữ âm thanh bây giờ là thừa. Anh lấy áo mặc và cẩn thận kiểm tra tất cả các bộ phận an toàn như hai miếng xốp nổi, chiếc còi phát tín hiệu. Chẳng hiểu sao Phương không hề sợ hãi. Trong giờ phút hiểm nguy, anh tin mình sẽ vượt qua mọi khó khăn.
Thuyền trưởng đặt tay lên vai Phương. Thay lời vĩnh biệt, hai người đàn ông cô đơn giữa cơn thịnh nộ của thiên nhiên nhìn nhau hồi lâu. Cổ họng Phương nghèn nghẹn. Anh bước qua ngăn tủ đựng cờ hiệu và lễ phục hàng hải. Phương dùng hai tay kính cẩn lấy ra bộ quần áo sĩ quan đưa cho thuyền trưởng. Ông nhận chiếc nón lưỡi trai còn gạt các thứ khác ra. Bỗng nhiên thuyền trưởng chảy nước mắt:
- Tao sẽ chết như một con người chân chính, như sự tự cứu chuộc lẻ loi và rất mực dại khờ. Tao hạnh phúc vì đã vay trả với cuộc đời quá sòng phẳng nên chả cần trăn trối.
Phương không dám nghe thêm lời nào nữa. Anh vội vàng bỏ chạy xuống boong chính. Sóng cao vợi. Gió đe dọa thổi bạt tất cả trong tiếng gầm thét xé tai. Phương thận trọng bám chặt hàng lan can và lần bước đến đuôi tàu. Nhảy bên mạn trái gió thì sóng không thể dập anh vào thân tàu, hơn nữa sức gió sẽ đẩy anh ra xa. Trước khi buông tay Phương cố ngước lên buồng lái nhưng không thấy bóng dáng thuyền trưởng. Anh hơi choáng khi tiếp nước. Phương lềnh bềnh như cục bấc nhẹ bẫng và dạt nhanh khỏi con tàu. Dù rất khó khăn, thỉnh thoảng Phương vẫn ngoái nhìn vầng sáng thoi thóp sau lưng. Chỗ này biển sâu hơn ngàn mét. Bảo hiểm sẽ không dại gì trục vớt đống sắt mục ruỗng. Thế kỷ sau, biết đâu nơi đây chẳng biến thành địa điểm du lịch mang đến cho du khách bao hiếu kỳ.
Lẫn trong sóng gió ầm ào Phương nghe tiếng u…ụ…c… rất lớn. Anh quay ngoắt về phía sau. Hầm số hai và buồng máy đầy nước tạo thành ứng suất khủng khiếp giữa thân tàu. Đỉnh sóng khổng lồ bất ngờ nâng con tàu hấp hối lên cao, trước khi bẻ nó làm đôi. Đèn phụt tắt rồi lại bừng sáng nơi buồng lái. Có lẽ hệ thống điện sự cố đã làm việc. Khối thép nặng mấy ngàn tấn từ từ chìm xuống. Vầng hào quang của sự sống tắt ngúm.
Mới hôm qua con tàu còn là một xã hội thu nhỏ, đầy rẫy phức tạp. Biển không dễ dàng nuốt chửng mọi thứ, nếu cộng đồng hai mươi chín con người gắn kết với nhau bằng lòng nhân ái và sự tương thân. Những cá nhân đơn độc đang đứng trước thử thách quá sức bởi từng vị kỷ và chia rẽ. Cái chết tự nguyện của thuyền trưởng cũng chẳng khá hơn. Nó chỉ gợi lên niềm xúc động lâm ly yếu đuối.
Phương bắt đầu ù tai, hoa mắt. Muôn vàn tay sóng nối tiếp nhau quật xuống đầu anh. Nước biển rút dần hơi ấm. Chiếc lưỡi lạnh băng của tử thần liếm tới đâu, sống lưng Phương mọc gai ốc đến đó. Chân tay anh rã rời và không thể liên lạc với não bộ, mọi hoạt động rất gần với phản xạ của thần kinh thực vật. Hàm răng bắt đầu đánh nhịp. Buồng phổi liên tục bị sặc nước làm xuất hiện hàng loạt cơn ho cơn đau buốt tận óc. Phương nhắm nghiền mắt và hít thở thật sâu, giữa các đợt sóng cuồn cuộn. Nước xiết vào nước, gió rít lên man rợ. Phương bỗng rùng mình tuyệt vọng. Anh thấy cái chết gần quá.
Mỗi lần bị quăng quật, bị hút xuống chân sóng Phương đều nghĩ đó là giây cuối cùng của đời mình. Anh toan gào lên để thoát khỏi bất lực nhưng nước mặn luôn lấp đầy miệng. Tiếng "Mẹ ơi!" tắc nghẹn, nhoi nhói loang giữa đỉnh đầu. Mãi sau này khi hồi tưởng cơn hãi hùng Phương vẫn còn ngạc nhiên. Lời gọi mẹ duy nhất trong nguy khốn của anh không trọn vẹn. Phương thơ bé chỉ biết "Bà ơi!", Phương thiếu niên thì suốt ngày "Dì ơi!". Anh lớn lên như chúng bạn mà đâu hay ngôn ngữ mình vẫn dùng thiếu hẳn hai từ rất đỗi thiêng liêng nhưng vô cùng dung dị. Để vùi lấp khoảng trống ác nghiệt, anh bắt đầu tin từng bước đi của mình đều được âm linh mẹ hiền dõi theo, bảo bọc.
Nhựa sống trong Phương khô kiệt rất nhanh. Anh hết cảm nhận được những gì đang diễn ra xung quanh. Dần dà ý chí phó mặc mọi thứ, đầu óc lên cơn mê sảng. Phương tuột vào đoạn ống xoáy trôn ốc đen ngòm, chật chội với tốc độ chóng mặt. Có những vệt sáng lóe lên bỏng mắt, thân thể anh đau như dần. Cuối quỹ đạo, Phương bị bắn mạnh ra. Đón anh là thế giới bồng bềnh, chới với mây xanh. Phương không thấy sức nặng của cơ thể và tư tưởng. Anh trôi vật vờ, vô định bên cạnh viền hoàng đạo vàng rực. Mười hai cung thiên văn từ Bạch dương, Kim ngưu đến Bảo bình, Song ngư lấp lánh lót đường. Vô số xe song mã thiếu ngựa, nhiều màu sắc như cổ tích vun vút phóng ngang tựa ánh sáng, không tiếng động. Thấp thoáng sau các khung cửa sổ là hàng triệu khuôn mặt vô hồn câm lặng, vừa quen vừa lạ. Phương réo ầm tên của những người đã qua đời mà anh biết. Tiếng dội dữ tợn, âm oang và méo mó như khuôn mặt quỉ sứ. Anh chìm dần… chìm dần rồi mất hút trong vũng bùn đen ngòm, mằn mặn chẳng hiểu từ đâu chảy tới.
Không rõ Phương ngất bao lâu. Anh lơ mơ tỉnh dậy trong ánh mặt trời xế ngọ nhức nhối. Da thịt Phương ngậm nước nở ra giống hệt bệnh phù thủng cấp tính. Áo phao chật căng. Chiếc quần bò tuột mất tự bao giờ. Phương đang trôi giữa dòng chảy hiền hòa lều bều rác rưởi. Chắc chắn anh ở rất gần vùng đất có dân cư nào đó. Cơn bão đã đi qua.
Thấy rồi! Phương bừng lên hy vọng sinh tồn. Cuối chân trời lờ mờ nóc cabin tàu biển. Phương vùng dậy, hai tay khua loạn xạ. Anh định bơi thật nhanh. Nỗ lực quá mức chỉ khiến Phương xoay tròn trên mặt nước. Mỗi khi con tàu trượt khỏi tầm mắt, Phương lại lên cơn mất trí. Anh cố sức gào thét nhưng nào có nên lời. Cổ họng Phương viêm nặng, đờm đặc quánh, hơi thở khò khè. Chợt nhớ chiếc còi trong áo phao, Phương lần tìm rồi đưa lên đôi môi khô khát nứt nẻ thổi mạnh. Còi kêu như dế gáy. Mệt đứt hơi Phương mới ngừng. Anh hoảng loạn thực sự khi kiến thức đi biển thầm nhắc con tàu kia ngày càng rời xa anh. Không có cơ may để thủy thủ trên tàu nhận ra Phương khác cọng rác màu da cam.
Trấn tĩnh, Phương tự an ủi bằng hy vọng khác. Anh cố nuốt ít nước biển trong vốc tay cho đỡ khát nhưng không vào. Tuy nhiên cũng dễ chịu hơn khi xoa nước lên mặt, da dẻ bớt căng cứng. Trời về chiều. Hoàng hôn rợn tóc gáy trờ tới cùng niềm vui tột độ. Phương thấy mặt trời không lặn xuống biển mà hình như đang khuất dần sau dãy núi thấp. Tâm can anh thảng thốt: "Đất liền… trời ơi đất liền… vậy là ta sẽ sống!". Dòng chảy mang Phương xuôi về mặt trời, điều đó mới tuyệt làm sao. Rút kinh nghiệm lần trước, Phương để hai tay trong nước rồi kết hợp với chân khe khẽ bơi. Anh mong rút ngắn khoảng cách với bờ càng nhanh càng tốt. Nếu đây không phải dòng hải lưu theo mùa thì chắc chắn sáng mai nước đổi hướng. Phương sẽ không còn cơ hội nào nữa.
Trăng khuyết, trời trong. Sao sáng đến nỗi sông ngân nổi rõ mồn một. Khó khăn lắm Phương mới xác định được vài vì sao quen thuộc, kể cả bắc đẩu. Anh hoàn toàn tin tưởng mình không thể mất phương vị giữa đêm tối. Gần nửa ngày hoạt động cơ thể Phương đã ấm lên, cổ họng bớt đau hẳn. Anh nuốt nước bọt và thử phát âm. Giọng nói hãy còn khản đặc nhưng mang nhiều sinh khí. Sau khi đắn đo, Phương quyết định cất tiếng hát để tăng thêm sức mạnh. Chuyện hoang đường thường nhắc đến những giai điệu lạ lùng, hết sức mạnh mẽ, hay vẩn vơ dọc bờ biển trăng thanh, gió mát. Bây giờ Phương mới rõ, đó là ý chí trường tồn của biết bao sinh linh chẳng may tử nạn giữa biển khơi.
Phương không cầu nguyện bằng bài ca. Hơi thở của tạo hóa là tiếng hát. Đứng giữa sự sống và cái chết Phương hát để phục sinh chính mình. Hơn bao giờ hết Phương cảm giác biển gần gũi vô cùng. Biển nâng anh trong vòng tay âu yếm. Qua cơn thịnh nộ, biển lại hiền từ như tình mẹ. Choáng ngợp với suy tư lạc quan, Phương không hay anh đang hát tới hát lui bài thơ "Thời hoa đỏ" của Thanh Tùng. Thi sĩ bụi đời đất cảng từng chép tặng Phương dị bản này giữa cơn chuyếnh choáng rượu nhạt:
Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao
Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng
Chỉ có tiếng ve sôi, chẳng cho trưa hè yên tĩnh
Chẳng cho lòng ta yên
Anh mải mê về một màu mây xa
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa
Em hát về một câu thơ cũ
Cái say mê một thời thiếu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về
Hoa như mưa rơi rơi
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi
Như máu ứa một thời trai trẻ
Hoa như mưa rơi rơi
Như tháng ngày xưa ta dại khờ
Hoa đặt vào lòng ta những vệt đỏ
Như vết xước của trái tim
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ
Anh biết mình vô nghĩa bên em
Sau bài hát rồi em như thể
Em của thời hoa đỏ ngày xưa
Sau bài hát rồi anh cũng thế
Anh của thời hoa đỏ ngày xưa
Năng lượng bình thường trong Phương đã cạn từ lâu. Từng thớ thịt dưới lớp da vô cảm đang chuyển hóa khát vọng sống bất tận thành sức khỏa nước, thành lời ca đưa anh về đất mẹ. Phương vẫn trừng trừng mở mắt đón ánh sao để định hướng, dù não bộ anh đang đến gần tình trạng vô tri. Anh lướt trên mặt nước như cỗ máy siêu việt, băng qua không gian, thời gian lồng lộng.
Phương lạc trong vùng sáng trắng chói chang. Có tiếng người: "Tỉnh rồi… tỉnh rồi…". Phương hoảng sợ nhắm nghiền mắt. Anh quyết tâm nằm yên để xác định âm thanh kia từ đâu tới. Giọng nói rất đỗi thân thuộc, nhẹ nhàng xua đi cảm giác nặng nề trong đầu Phương:
- Anh Phương. Lam Anh đây… Cố lên anh! - Hai thái dương căng như sợi dây đàn, Phương lấy hết sức bình sinh hé mắt lần nữa. Trong quầng sáng đã bớt gay gắt dần hiện lên khuôn mặt vừa quen vừa lạ.
Phương ngỡ mình đang phiêu diêu trong mộng. Thỉnh thoảng anh vẫn nhớ đến đôi mắt hết sức trong trẻo và hồn nhiên này.
- Anh có nhận ra em không? Lam Anh đây. Anh mê man ba ngày rồi.
Phương cố động đậy môi nhưng không được. Lam Anh khe khẽ đưa ngón tay trỏ ra hiệu Phương đừng gắng sức. Anh hiểu và chớp mắt trả lời, hai bờ mi vẫn nặng trĩu, cay xè. Phương trôi rất nhanh vào giấc ngủ ngon nhất sau thời gian bất tỉnh. Anh biết vậy vì đầu óc mình đã làm việc trở lại. Những giấc mơ hoàn trả nhiều khoảnh khắc khá đẹp của dĩ vãng.
Lam Anh là người bạn rất thân của Phương suốt mấy năm anh học tại Hải Phòng. Nàng theo ngành Y nhưng chơi Dương cầm rất giỏi. Mẹ Lam Anh thuộc lứa sinh viên đầu tiên của hệ đại học nhạc viện Hà Nội. Thỉnh thoảng Lam Anh vẫn thay mẹ dạy đàn trong cung Văn hóa thiếu nhi, cạnh lớp tiếng Anh vỡ lòng của Phương.
Bề ngoài Lam Anh rất bình thường, trừ đôi mắt biết cười hiền lành, thùy mị. Có dạo ai cũng nghĩ Lam Anh và Phương yêu nhau vì họ khá thân thiết. Lam Anh luôn thật lòng và hết lòng với Phương. Nàng làm mọi việc Phương mong đợi với thái độ thành tâm cẩn trọng. Lam Anh là người con gái duy nhất Phương dám chia sẻ suy tư sâu kín, đầy chủ ý, đôi khi ít nhiều lợi dụng. Nàng kiên nhẫn và tốt bụng lạ lùng. Bao nhiêu lần nàng sẵn sàng ngồi nghe Phương thao thao bất tuyệt trăn trở riêng tây. Thực ra Phương luôn đặt Lam Anh nằm ngoài mạch đời đang trôi. Ở bên nàng, Phương sẽ không nghĩ mình mắc bệnh thần kinh khi ngây thơ phơi bày hết những ý nghĩ lộn xộn, rối rắm. Lam Anh hiểu Phương bằng tấm chân tình và luôn giúp anh tỉnh táo xếp đặt trật tự mọi ngóc ngách tư tưởng.
Lam Anh đơn giản, dễ hiểu. Trí tuệ nàng khá sắc sảo và có biệt tài đặt tên cho vần đề phức tạp. Lam Anh thường bảo nàng cảm ơn các nét tầm thường trên khuôn mặt mình. Chính vì vậy nàng thừa cơ hội tự hào với giá trị tinh thần luôn cuốn hút bè bạn xung quanh. Phương hay cả nghĩ: Có lẽ Lam Anh yêu Phương. Cách xử sự vô tình của anh sẽ làm nàng tổn thương rồi sạn chai mãi mãi? Dù sao Phương cũng chỉ phỏng đoán. Tình yêu phải chứa đựng bất ngờ và bí mật nhẹ nhàng. Phương là kẻ không thể yêu một người hoàn toàn thông thuộc trái tim và khối óc anh.
Phương ra trường trước Lam Anh một năm. Họ chia tay nhau bằng chuyến du lịch Hạ Long hai ngày. Lam Anh đượm buồn, thỉnh thoảng tỏ ra bất cần và chán nản trong giọng nói. Bước rong ruổi khá tĩnh lặng hoặc toàn từ ngữ vu vơ. Cảm giác mang nợ Lam Anh theo Phương suốt năm tháng sau này. Họ quay về Hải Phòng trên lượt tàu khách chiều muộn. Mặt biển bóng lộn như phủ váng dầu, hắt lên tàn nắng quạnh quẽ. Lam Anh thì thầm:
- Anh biết sau ngọn núi xanh đen kia là gì không?
- Là biển.
- Những làng đảo giữa biển rất lạc hậu. Họ cần bác sĩ lắm đấy.
- Em không thực tế.
- Mười năm nữa anh là ai?
- Thuyền phó Nhất, hạng nhất rất lão luyện và đã chu du hết năm châu.
- Em ưu ái đặc cách anh làm Thuyền trưởng. Có dịp qua vùng vịnh Hạ Long anh hãy cho thủy thủ kéo vài hồi còi. Như lời chào cố tri vậy mà.
- Em khó nghe thấy.
- Em sẽ là nữ bác sĩ thật tốt bụng giữa một hòn đảo ngoài kia.
- Trời ạ! Vậy là hàng nửa năm trời anh mới nhận được một lá thư của em?
- Mỗi sinh nhật em chỉ mong nửa tấm thiếp chúc già từ anh. Anh chẳng cần tin tức về em đâu. Anh luôn nuôi rất nhiều điều bận tâm trước mắt.
Sự thật là vậy. Phương chảy tuột vào đời sống như chẳng có Lam Anh ngày nào. Hai lần tàu Dragon qua rìa vịnh Bắc bộ Phương đều quên khuấy người con gái gần đó. Còn nàng vẫn mong ngóng tiếng còi tàu của anh, từ trong những giấc mơ đất liền, ngày cũng như đêm.
Thì ra Phương ngất lịm và dạt vào đảo Quỳnh Hoa. Anh được dân vạn chài vác ngay về trạm xá của Lam Anh. Đảo nhỏ, phương tiện y tế cực kỳ nghèo nàn nhưng nhờ có sức khỏe tốt và sự chăm sóc tận tình, Phương hồi phục rất nhanh. Sau ba ngày mê man, anh tỉnh hẳn. Mất thêm một tuần lễ, sinh hoạt bình thường đã tái lập hoàn toàn. Trong khi chờ quá giang chuyến tàu cá sắp tới vào đất liền Phương dọn đến ở tạm nhà Lam Anh.
Dân chúng quí Lam Anh vô hạn. Nàng là bác sĩ duy nhất và đầu tiên của làng chài hơn ba trăm nóc nhà. Tiện nghi Lam Anh sử dụng đa phần do mọi người tự nguyện quyên góp mua sắm. Nhà Lam Anh rộng vừa phải, hai phòng ngủ và một phòng khách thoáng đãng.
- Anh đừng ngại. Cái tâm của bà con trong sáng lắm. Họ không đời nào dị nghị chuyện anh và em đâu. Họ hiểu em hơn anh nhiều.
- Em đem cả đàn dương cầm ra đây à?
- Đó là điều kiện duy nhất của em khi lên đường đến đảo.
- Anh sẽ duyệt hết tủ sách trong mấy ngày tới. Buổi tối thì chỉ nghe em đàn.
- Mong anh không sớm chán. Đọc sách ngoài rừng Dương thú vị lắm. Ra vào anh không cần khóa cửa, các then cài chắc chắn để dùng khi gió mạnh trong ngày biển xấu. Đi hết khe nước hẹp cạnh nhà, anh sẽ gặp bãi cát vàng rất thích hợp để tắm nắng. Tuy vậy không nên vận động quá sức anh nhé.
- Khéo anh thành Từ Thức mất.
- Anh nhớ đất liền lắm rồi hả?
- Để xem mọi người suy nghĩ và hành động ra sao với kẻ mất tích. Vội gì.
- À, tí thì em quên. Khi anh được khiêng vào trạm xá, trên người anh còn mấy thứ. Em gom hết và giặt giũ rồi phơi khô để anh giữ làm kỷ niệm.
- Em cẩn thận quá. Nhưng em có thấy chiếc kiềng bằng đồng đen anh đeo trên cổ không?
- Chắc chắn đấy là kỷ vật của một cô gái - Lam Anh cười tinh nghịch - Sự lo lắng của anh ngây thơ lắm.
Hiện thực hoang đường nhất, phóng khoáng nhất bắt đầu như vậy. Phương sống trong bình yên, vô lo và thanh thản dăm hôm. Nhiều khi mệt nhoài với khói bụi, tiếng ồn và sự chật hẹp nơi đô hội anh thường tự hỏi, phải chăng những ngày bên Lam Anh chỉ là phút mặc thiền hư ảo.
Sáng nào Phương cũng dậy thật sớm. Anh đi bộ chậm rãi xuống bãi biển như tập thể dục. Xóa hết mọi ý tưởng và giữ cho đầu óc trống trơn, Phương xoãi dài trên bờ cát thoai thoải chờ ngắm vầng thái dương thoát xác khỏi chân trời. Khi nắng đã gột sạch âm khí, anh vẫn chưa chịu mở mắt. Phương bí mật lắng nghe tế bào da thịt ấm dần lên. Cảm giác an toàn ngập tràn cơ thể xung mãn, tinh thần minh mẫn và thanh sạch. Đến lúc nhãn cầu rực đỏ chói chang vì nắng soi qua hàng ngàn mạch máu li ti nơi mí mắt, Phương mới tiếc rẻ ra về. Bảy giờ sáng, Lam Anh đã đi làm. Khẩu phần điểm tâm đơn giản và lọc cà phê đang nhỏ giọt được dọn sẵn trên bàn. Không bao giờ Lam Anh quên ghi vài lời nhắn nhủ, dặn dò Phương trên quyển lịch nhỏ cạnh đấy.
Phương thường thẩn thơ du ngoạn khắp đảo tới trưa. Mỗi bữa anh theo một hướng. Xã đảo Quỳnh Hoa lạc lõng ngoài mép vịnh Hạ Long, cách Hải Phòng khoảng 120km đường chim bay. Không thể gọi đây là làng chài nghèo nàn tụt hậu. Tỉ lệ gia đình có truyền hình, máy hát chắc chắn cao hơn Sài Gòn. Hơn nửa số hộ gắn máy phát điện riêng và tậu chảo bắt tín hiệu vệ tinh. Đời sống dân chúng rất dễ chịu. Nghe bảo dạo người đất liền nườm nượp căng buồm nâu tìm đến những trại tập trung ở Hương Cảng, dân đảo hái ra tiền. Vùng biển này quen thuộc với tất cả ngư phủ Quỳnh Hoa từ trong bản năng. Họ bèn giả đi đánh cá và đón lõng thuyền nhân lạc đường lấy phí chỉ trỏ hoặc hoa tiêu trọn gói chuyến hải trình. Thu nhập cao khiến họ hay cười thầm vào giấc mơ tha phương cầu thực của đồng bào. Chương trình tái định cư và hòa nhập của Liên hợp quốc dành cho người tị nạn giúp toàn đảo trở lại nghề đánh cá muôn đời. Sẵn vốn tích lũy, họ sắm tàu mới, máy mạnh, ngư cụ hiện đại nên sự thịnh vượng vẫn hiện diện. Tư thương xây dựng hai trạm thu mua cá tươi. Họ sơ chế và chở về Hải Phòng tiêu thụ. Ngoài ra ngư dân có thể trực tiếp bán hải sản cho nhiều tàu buôn Trung Quốc luôn lảng vảng ngoài khơi.
Đảo quá nhỏ, người ta bách bộ là chính. Con đường giao thông dài nhất cỡ 1km, rộng hơn hai mét, nối xưởng sản xuất nước đá với trạm điện 500KVA. Mạng điện sinh hoạt và thắp sáng công cộng liền mạch từ 18 giờ đến 21 giờ mỗi ngày. Như vậy là quá đủ, khí hậu hải dương không cần quạt máy. Những con người chất phác, ít toan tính thường ngủ sớm. Trụ sở chính quyền hết sức khiêm tốn, không có kiểu uy nghi đe dọa hoặc khoe khoang phổ biến. Quan chức dân cử hoặc được bổ nhiệm bởi thượng cấp chủ yếu lo đối ngoại với đất liền và các đơn vị hành chính lớn hơn. Khuôn mặt giáo dục của đảo là một trường phổ thông cơ sở với đội ngũ giáo viên tình nguyện đến công tác dài hạn như Lam Anh. Muốn học cao hơn phải vào huyện đảo gần đất liền.
Đảo không cần pháp luật nhiêu khê. Riềng mối xã hội tạo dựng trên cơ sở phong tục tập quán giản dị. Giao ước của dân chúng đa phần là câu chuyện quá khứ được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Nó mang màu sắc Khổng giáo, tuy hơi thần bí và thường chứa đựng dạng thức "Chân lý thuộc về kẻ yếu. Ác bá thua thiện nhân". Hình phạt cho tội phạm là sự xa lánh và ruồng bỏ của cộng đồng. Chưa từng có bản án tử hình nào được thực thi. Cái chết thường là sự phán xét tự thân trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Mấy ngày đầu Phương hay ghé bệnh xá của Lam Anh ăn trưa. Sự sống sót của anh là chuyện hiếm khi xảy ra. Người ta coi kẻ đắm tàu là phường tội lỗi ngập cổ. May mắn thoát nạn đồng nghĩa với việc xám hối thành khẩn và luôn nhận được tha thứ. Lòng nhân từ của cư dân còn dành cho nhiều xác người vô danh bị sóng đẩy vào đảo. Giữa nghĩa trang nhỏ cheo leo trên sườn đá phía bắc có gần chục mộ phần của kẻ xấu số. Nấm đất xưa nhất cách đây hơn trăm năm, nghe nói của một tử thi mắt xanh mũi lõ. Đã thành lệ, khi đến thăm thân nhân mọi người thường dành ít phút nghĩa cử nhổ cỏ dại và thắp đôi ba nén nhang cho vong hồn lưu lạc. Trẻ con trên đảo rất mến Phương sau vài hôm cảnh giác dò xét. Chúng là các tiểu đồng vô tư dẫn anh ngao du sơn thủy. Chúng đặt ra nhiều câu hỏi hồn nhiên và rôm rả hàng lô chuyện kể hoang đường về hòn đảo, trong ý nghĩa tuyệt đối rành mạch và sáng sủa. Mấy đứa mạnh dạn nhất hay xin phép người lớn ở nhà và tự sắp xếp, luân phiên mời bằng được Phương cùng dùng bữa trưa.
Buổi chiều Phương quanh quẩn xung quanh ngôi nhà Lam Anh. Anh mắc võng dưới gốc Thùy dương và nằm đọc truyện hoặc báo cũ. Tủ sách của Lam Anh rất đa dạng về thể loại và nguồn gốc. Mảng tiểu thuyết nàng sưu tập khá công phu. Không kể thứ truyện phong tình Sài Gòn nhàn nhạt, từ chương lê thê, bố cục và tình huống sến rện; Lam Anh chọn đủ tên tuổi làm nên diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ hai mươi. Nhân vật, bối cảnh và không gian hoàn toàn Việt Nam nhưng đa số truyện đều hắt lên mùi lạ. Lối viết sao chép cũ người mới ta. Tư tưởng và tình cảm thiếu hẳn chiều sâu Á đông cũng như biểu tượng siêu hình kỳ bí của tổ tiên. Truyện dịch Tây dương chiếm già nửa tủ sách. Bao la những mảnh tình êm ái, nhẹ nhàng, hết sức nồng nàn và ít dấu ấn thời gian, thời cuộc. Dòng văn học Nga Xô đưa đến khái niệm mơi mới song nói cho cùng là thiếu nhân bản. Người Nga phủ nhận tiền đề vật chất trong hạnh phúc. Chúng không ám ảnh nhân vật hướng tới kết cục có hậu. Họ thay vật chất bằng ý thức hệ rồi cưỡng ép tình cảm con người trong xó tối chật hẹp của định kiến duy lý. Nét bút nhất thời không thể tô vẽ liền lạc bức tranh toàn cảnh. Tình yêu không phải là khoảnh khắc, không phải là áp đặt nông nổi. Dẫu chỉ là hoang tưởng ngọt ngào phi thực tế, tình yêu mãi mãi đẹp, mãi mãi bất diệt. Ẩn chứa trong bản năng sinh tồn cố hữu là ước vọng thăng hoa, vượt lên món quà nhục cảm hưởng trước cho trách nhiệm duy trì nòi giống. Trào lưu nghệ thuật "Hiện thực" có cái đuôi mê tín duy mỹ "phải có hậu" là sản phẩm tinh thần tương đối thấp. Mê tín như giấc mơ. Giấc mơ phần nhiều là sự phản kháng của cá nhân trước thực tại. Thực tại chẳng bao giờ hậu hĩnh, hoặc rất hạn chế nên nhân loại thèm khát sự có hậu bằng giấc mơ nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính chính là đời sống. Khi không tự lừa dối mình, dù bằng những giấc mơ bạc nhược; con người mới tìm được lối thoát. Mọi giấc mơ đều hèn yếu và mang dáng dấp cuộc trốn chạy nhục nhã. Nghệ thuật nhiều phen được đặt tên là sự suy đồi. Món mắm cá sinh ra từ quá trình thối rữa. Loài giòi nhung nhúc ở đấy là minh chứng của hiện hữu, của sinh khí. Người ta nghi ngờ nền văn minh La Mã thoái hoá vì kim loại kẽm trong vật dụng ăn uống. Nhân văn hiện đại mang nguy cơ vong bản từ chất bảo quản thực phẩm luôn giữ cho đồ hộp văn chương vô trùng, vô khuẩn.
Lam Anh thường về nhà khoảng bốn giờ chiều. Nàng và Phương hay sóng đôi đi d?o hoặc tắm biển hoàng hôn. Họ trò chuyện đủ thứ nhưng nhiều lúc đối và đáp hoàn toàn không ăn nhập giữa sóng gió rất sôi nổi lấn át. Biết vậy, lắm khi họ dừng chân, kề tai kiểm chứng các câu nói rồi cười ngất. Phương thích lặn sâu xuống lòng biển, lắng nghe đại dương âm u. Giá trị nhất vẫn là lời than thở của sóng lừng xa lắc, hết sức mạnh bạo trong sự yếu đuối tột độ. Phải chăng đó là hồi âm của tội lỗi chúng sinh bao phủ trên hành tinh này, bao phủ lên lịch sử đầy biến động của nhân loại bằng bất lực và những chân lý còn mở ngõ.
Phương phát hiện rặng san hô cách bờ không xa. Lam Anh nằng nặc đòi anh bẻ về một nhánh. Sự dũng cảm được đền đáp bằng mẩu đá vôi xốp hồng tươi, không vẩn màu ô nhiễm của nước thải công nghiệp. Nọc độc san hô đã bắn ra khi Phương vô ý chiếm đoạt góc chung cư thanh bình và đầm ấm của chúng. Lam Anh xuýt xoa cả buổi tối với bàn tay phải bỏng rát, chi chít vết bầm li ti của Phương.
Mâm cơm cuối ngày trên đảo rất nhiều cá, ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng. Lam Anh luôn thao thao bất tuyệt câu chuyện thường nhật tại trạm xá. Giọng nàng hóm hỉnh và lí lắc. Ăn xong họ uống trà bên bộ sa lông gỗ sơ sài nhưng ấm cúng. Đó là lúc tái hiện nhiều kỷ niệm đẹp về thời sinh viên, về Hải Phòng. Họ còn quá trẻ mà hồi tưởng đã có bè bạn đồng trang lứa không còn nữa. Sự mất mát rất trầm lắng và day dứt. Giữa nỗi tiếc thương người vắn số, lửng lơ câu hỏi dành cho sự sống và cái chết. Cuộc đời trọn vẹn là từng ngày chẳng hề vô vị, là tháng năm có ích cho xã hội, là xứ mạng cao cả trong khoảng khắc hay chỉ mù mờ tương lai với bao điều tốt đẹp phải vươn tới.
Hai mươi mốt giờ, ánh sáng huỳnh quang thời hiện đại phụt tắt. Đang rằm âm lịch, trăng biển tỏa vàng mặt đất. Lam Anh đặt chân nến nhỏ trên chiếc Dương cầm và bắt đầu chơi đàn. Không có chọn lựa nhất định của đam mê, nàng rất hoàn chỉnh trong phức điệu cổ điển của Haydn và Bach, trầm uất Beethoven, rực rỡ Mozart, lãng đãng Schubert, Schumann và Traikovsky, sôi nổi nhiệt thành điệu Valse thành Vienne của dòng họ Strauss. Lam Anh ghét thơ trữ tình nên nàng chẳng ưa Chopin. Đêm muộn dần, nàng vẫn không thả hồn lặng dừng, yên ả với những khúc ru. Khắc khoải bất trị cứ ầm ào tung hứng giữa nhiều quãng nghịch tương đối chói tai của Debussy.
Biển chẳng bao giờ ngủ. Biển thức hoài nỗi đời không tên từ vạn kiếp. Thanh âm biển đêm nâng niu điệu nhảy khi sâu lắng, lúc ngập ngừng hoặc thậm chí hoàn toàn tự do ngẫu hứng và phóng túng của mười ngón tay cô bác sĩ nhỏ.
- Anh sẽ nhớ nơi này mãi chứ?
- Anh không tin mình là kẻ vong ân.
- Bạn bè mà anh.
- Hãy nhận nửa lời cảm ơn. Nửa kia anh sẽ hoài mang theo.
- Nếu không may anh cảm thấy bế tắc trước mọi con đường. Hãy bảo cái nửa ấy dẫn anh về với biển… Em đợi!
- Em tốt lắm. Em xứng đáng với cuộc sống thanh thản, bình an và cực kỳ ý nghĩa.
- Loài người nghèo nàn lắm anh à. Chúng ta có quá ít niềm vui và điều tốt đẹp. Nơi nào càng nhiều người thì càng lắm xấu xa.
- Đi trên biển rộng, nếu thấy rác là biết ngay xung quanh có đảo và có người.
- Tinh thần phố xá bốc mùi. Người ta tảng lờ và cứ sống mà chẳng thèm rõ mình đang chết dần chết mòn.
- Đó là lý do em rũ bỏ mọi thứ để ra đây? Thỉnh thoảng anh cũng nghĩ như em nhưng chưa dứt ra được.
- Anh nghiện ngập vị cay đắng của đời sống. Càng cô đơn anh càng muốn đối mặt với bi kịch. Thái độ này làm em khâm phục.
- Từ mười sáu tuổi, mỗi năm anh hay dành một ngày để nhìn thời gian đã qua. Đáng ngạc nhiên là khoảng cách giữa hai mốc cuối cùng luôn dài hơn tất cả năm tháng trước đó.
- Anh choáng ngợp trước điều mới mẻ hay đơn giản là sự khai phá dĩ vãng, trên con đường ký ức chưa từng hiện hữu?
- Đáng mừng, anh có đủ hai thứ. Không phải cuộc phân thân dễ dãi. Nhiều mặt là bản chất khó lường của mọi vấn đề.
- Nên xem sự tự chia rẽ là phương pháp nhìn nhận chủ thể đa góc độ. Nó giúp ta hướng đến chân trời thiện toàn. Thứ thiện toàn công thức và sáo rỗng.
- Ước gì anh được gặp em sau mỗi chặng giải lao của cuộc đua đầy kích động, truy tìm chính mình, tróc nã ngày tận thế.
- Tất thảy lời lẽ đều là son phấn.
Phương mãi mãi hàm ơn mảnh ốc đảo tươi xanh tự biết lãng quên chính mình. Về sau, ẩn sâu dưới bực dọc, ác cảm và miệt thị chốn phù hoa, Phương vẫn ngầm trách cứ tại sao anh không thể nhìn sự vật dưới con mắt nhân ái hơn. Mọi bề ngoài đều giấu kín thân phận sẵn sàng bỏ mình để cháy sáng, sưởi ấm và soi rọi ánh hào quang vào cánh rừng rậm rạp ướt át tối tăm mang tên kiếp người.
Quyết tâm phiêu lưu vừa hoàn đồng thôi thúc Phương vội vã tìm đường về đất liền. Đêm thanh vắng. Con đường ngoằn ngoèo từ nhà Lam Anh đến bãi neo thuyền rào rạo tiếng sỏi. Không có sương. Không gian lành lạnh. Gió biển sắp đổi hướng mằn mặn.
Phương trèo lên nóc thuyền và ngồi cạnh tài công. Lam Anh chơ vơ đứng trên mỏm đá vẫy tay chào. Màu áo choàng y tế trắng nhức nhối. Phương vừa mừng vừa tiếc khi nhớ đến lời hẹn của Lam Anh. Những hòn vọng phu bằng xương bằng thịt như thế này phả vào đá hồn người suốt chiều dài bờ biển Việt Nam. Hóa đá là hy sinh, là chịu trừng phạt thay cho cuộc đời quá nhiều tội lỗi vì kiêu hãnh, ngang tàng và không ngớt thèm muốn. Mấy ai được ân hưởng ánh đèn của Mặc Nương để định hướng trong đêm trường bão tố. Phương có Lam Anh, thế mà tấm lòng anh quá chật hẹp. Phương khó tìm được cơ hội thứ hai. Từ lâu con người không còn tin vào huyền thoại. Chuyện nhân nghĩa luôn bị xếp vào loại hư văn phù phiếm.
Phương dứt bỏ giấc mơ biển cả mong tái hòa nhập cùng đồng loại. Đó chắc chắn không phải miền lặng sóng. Những trào dao động liên tu bất tận sẽ đào thải hoặc nuôi dưỡng nhiều thứ, nhưng tuyệt đối không thể chạm vào một sợi tóc của Lam Anh. Nàng là vẻ đẹp cô độc, vĩnh viễn đứng ngoài thời cuộc và dâu bể.
Trương Thái Du
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Miền cổ tích hoang hư 2

Miền cổ tích hoang hư 2 7 - Ngọ... Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch ...