Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Các công trình văn học quốc ngữ miền Nam 1

Các công trình 
văn học quốc ngữ miền Nam 1
Phần 1: Ðại Cương
 chương trước, chúng ta biết chữ quốc ngữ hình thành khởi đi từ các nhà truyền giáo Ðàng Trong cũng như Ðàng Ngoài, rồi lần lượt chữ quốc ngữ được phổ biết trong giới Thiên chúa giáo, chữ quốc ngữ thời ấy là phương tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt chân lên miền Nam, thì chữ quốc ngữ được dùng làm phương tiện đô hộ dân Việt Nam ta.
Từ đó chữ quốc ngữ có cơ hội tiến triển mạnh mẻ, được phổ biến, truyền bá đến quảng đại quần chúng. Các nhà văn tiền bối như Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký đã dịch các tác phẩm Nho giáo, soạn tự vị, in các tác phẩm văn chương Việt Nam, truyện đời xưa, nhằm mục đích truyền bá tư tưởng Khổng Mạnh, phổ biến văn chương Việt Nam và chữ quốc ngữ.
Trước hết là Báo Chí, khởi đầu là tờ Gia Ðịnh Báo ra ngày 15-4-1865, kế đó là Phan Yên Báo ra năm 1868, Nông Cổ Mín Ðàm 1901... Sau đó đến thời kỳ thơ như Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu do Trương Vĩnh Ký phiên âm ra quốc ngữ năm 1880, sau đó là dịch truyện Tàu vào khoảng năm 1904, còn quyển tiểu thuyết được viết đầu tiên in năm 1887, là quyển Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, rồi quyển Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Trần Chánh Chiếu ra đời năm 1910, nó mới nhen nhúm gây thành phong trào viết tiểu thuyết sau nầy. Các giai đoạn ấy đã tạo thành trào lưu văn học quốc ngữ, nó có sắc thái và truyền thống đặc biệt mang cá tính của người miền Nam.
Chúng ta đi sâu vào chi tiết ở phần sau, tưởng cũng cần nhắc lại chữ quốc ngữ ở miền Bắc được chính thức sử dụng từ năm 1913, sau khi miền Nam đã chính thức sử dụng chữ quốc ngữ trên 20 năm và đã gần nửa thế kỷ truyền bá chữ quốc ngữ.
Phần 2: Báo Chí
A. Gia Ðịnh Báo
Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lý (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đình bản vào năm 1909 (2)
Tờ báo này trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 thì cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Ðồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Ðồng xét lại ...
Ðơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Ðịnh Báo (4):
"... Kể từ ngày hôm nay, việc biên tập tờ báo An nam Gia Ðịnh Báo được giao cho ông Pétrus Trương Vĩnh Ký với tư cách Chánh tổng tài tờ báo này, ông sẽ lãnh một bổng cấp hàng năm 3.000 phật lăng (5).
Tờ báo tiếp tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công vụ gồm các văn thư, quyết định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ An nam; phần tạp vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử học, luân lý, thời sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An nam chú ý."
Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau:
Trường Hậu bổ Sàigòn
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường gọi là người Trung Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Ðường nhơn hay Thanh nhơn, nghĩa là người nhà Ðường nhà Thanh. An nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các chú là bởi người Minh hương mà ra; mẹ An nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc...
Còn tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Ðịnh Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc môn. Tối 12 tháng giêng này người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Ký muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Ðịnh Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đã có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Ðịnh Báo tại Sàigòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm.
Bệnh hoạn, tai nạn.
Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt.
Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào.
Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gửi về cho Gia Ðịnh Báo Chánh tổng tài ở Chợ quán.
Trong tờ báo, như đã nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rõ xuất xứ. Trương Vĩnh Ký giải thích phần này:
Những kẻ coi nhựt trình phải có ý cũng hiểu điều này là:
Thường những chuyện Tạp vụ các nơi trong đất Nam kỳ gửi về cho kẻ coi Gia Ðịnh Báo, thì có kẻ coi lại, có trắc thì sửa lại cho xuôi cho dễ nghe vì các thầy gửi cho nhựt trình thì cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy ký lấy vì là của các thầy ấy viết và gửi. Còn như phần công vụ, các bài nghị luận quan lớn Nguyên Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt trình làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham biện hay là trả lời cho kẻ quỳ đơn, việc nọ việc kia thì của Hội đồng quan Thống soái Nam kỳ luật vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia Ðịnh Báo, có tên người đứng ký vô đó, thì hể gửi thế nào thì in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều gì không được cho rõ mấy thì xin kẻ coi nhựt trình chớ trách cứ kẻ coi việc ấy...
Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Ðất Với Nồi Ðồng
Nồi đồng tính việc đi đàng,
Rủ ren nồi đất cùng trang đang thì.
Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi,
Ở an xó bếp, không ly góc lò.
Vì e sẩy bước rủi ro,
Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy.
Rằng da đấy cứng hơn đây,
Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan.
Ðáp rằng: rủi gặp dọc đàng,
"Vật chi cứng cát cảng ngang không vì.
Ðể ta qua bửa lo chi,
Bên thì vật ấy bên thì nhà ngươi.
Tai nghe nói ngọt tin lời,
Chìu lòng bạn hữu bèn dời chân đi.
Bước khua lộp cộp dị kỳ!
Xa nhau e sợ, gần thì đụng nhau.
Hai nồi đi chẳng đặng mau,
Chưa đầy trăm bước đụng nhau rã rời.
Hởi ôi Nồi đất rồi đời,
Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than.
Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang,
Ở đời giao kết kẻ ngang vai mình.
Diễn quốc âm Trương Minh Ký
B. Phan Yên Báo
Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Ðịnh Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, vì có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không còn, cũng không rõ nó là nguyệt san hay tuần san.
Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Ðịnh và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, còn Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, vì nó là tờ báo chữ Hán.
C. Nhựt Trình Nam Kỳ
Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Trình
Nó giống như Gia Ðịnh Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Trình ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang.
Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Ký viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Ký làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc lòng, sau đó mới có bài của những người khác.
Về nội dung gồm có:
Dạy chữ Nhu (chữ Hán)
Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa)
Giảng nghĩa về luân lý
Khảo cứu về thi ca, phong tục.
Nhơn vật (danh nhân)
Sau đây là các bài trích dẫn:
a) Câu Chữ Nhu (8)
(x x x x x x x x x x x x x x) (9)
Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn
(x x x x x x x x x x x x x)
Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân
Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Ðể lại lấy năm phần cho con cháu;
Mười phần rành rành đều mình dùng hết, Ðời sau con cháu chẳng như người ta.
Nghĩa là:
Như mình có đặng giàu sang rõ ràng cả mười phần thì hãy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: vì nếu như mình được mười phần mình hưởng hết đi cả mười, thì đời sau con cháu mình còn gì mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta.
Trương Minh Ký diễn ra ca Nôm rằng:
Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Ðể lại năm phần trẻ gái trai,
Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Ðời sau con cháu dám bì ai.
b) Một hai câu tiếng Phangsa (10)
(Monsieur, (Bongdur moxơ) = chào ông
Bonjour (Madame,(--""-- madăm) = chào bà
(Mademoiselle,(--""--madơmoaxel) = chào cô
Comment cela va-t-il? (Còmăng xa va ti) = mạnh-khỏe thế nào?
Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe.
Où allez-vous? (u alê vú) = anh đi đâu?
Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo
c) Tam Cang Là Những Cang Nào? (11)
là (x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi)
" (x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con)
" (x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ với chồng)
(x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là giềng tôi)
(x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con)
(x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ)
Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có tình, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận hòa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây bìa giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới.
Về Tam Cang (12)
Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng hữu, thân quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn ti, đẳng cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai trị, gìn giữ đùm bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước.
Vì vậy phải có đạo tam cang ràng rịt vấn vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng an.
Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con cái cách nào; con cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền.
d) Hát Nhà Trò (13)
Hát nhà trò là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ An, Hà Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám tiệc, hội hữu, hôn tế, kì yên, chạp miễu, thì thường có hát nhà trò. Tùy theo ý chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ý mình. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên.
Thường đào là con gái có xuân sắc, chuyên tập nghề xướng ca, ngâm nga, múa hát, bắt bộ v.v... tục kêu là cô đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân nga hay và êm tai lắm.
Hát thì hát những là Ca trù, hoặc giậm Túy kiều, câu hát rời, Tần cung oán, Chinh phụ ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào quình tương (14) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp tình ưa ý khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà trò thường là những cung giọng này.
Mẫu dựng
Thiệt nhạc
Ngâm vọng
Tỳ bà
Tắc phản
Hát hói
Gửi thư
Huình
Hãm
Cung bắc
Cửa quyền
Non mai
Nường hạnh
Chữ khi
Thơ
Thỏng
e) Ca kiêng giống độc (15)
Rượu để bình đồng ấm thiết lâu,
Gan bò một lá, với gan trân.
Giải (ba ba) ba chơn, cá lân không vảy,
Dê một sừng, tôm chẳng có râu.
Chó bốn đề, lương vàng cất cổ,
Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu.
Cua sinh một mắt, lệch sao điểm.
Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu.
g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (16)
Nhứt quân tử, ăn mứt gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên.
Nhì quân tử, ăn thịt trâu, uống nước chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà giữa, đánh cờ tướng
Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh cờ chó.
h) Lý Thường Kiệt (x) (x) (x) (17)
Lý thường Kiệt người tỉnh Hà Nội, huyện Vĩnh Thuận làm quan tướng nhà Lý. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương an Thạch mà khinh dị An nam, vua Lý nhơn Tông mới sai Lý thường Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâmchâu Liêm giết Thương thủ Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua đánh An nam, khi đóng binh tại bờ sông Như nguyệt, thì Lý thường Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách quì với Triệu tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngã lòng, thì dụng mưu mà làm cho vững lòng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn thờ miễu ông Tương tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lý thường Kiệt là người nhiều mưu lược, có tài tướng soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm thành, huân nghiệp công trận lớn lắm. Ðược tặng là Việt quốc công.
Ðời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch đại đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Trình được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có hình ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Ðàm
Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo này lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Ðồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, còn có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Ðỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích dẫn:
Bão lụt phía Tây Nam (18)
Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam (19) dân Tây-Nam bình tịnh, đến đêm 26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên, cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình hài làm mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi Ðã biết rằng: Trời còn có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh thơi, quen thời tiết phong điều võ thuận. Xãy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên tri cũng khó thở than, vì dân vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa phủ thiên đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi! Hể trời khiến tai nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam phân đảnh túc; bởi Chiếu liệt đốc thành kỉnh sĩ, nên người đành tận tụy cúc cung. Vì một người, chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên phân trái phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi!
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt trình xem chơi.
Chủ bút
Ðọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, còn chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam.
Trường Tabert (20)
Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh nhật, thì trường học Taberd phát phần thưởng học trò rồi đặng bãi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học trò đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục lòng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Ðến lúc làm điều vui, cũng còn kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ý khuyên người làm phải, dạy trẻ lòng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, lòng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn Hữu Phước làm tri huyện tại hạt Gò Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rõ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy dỗ, cứ theo hoang đàng phóng tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn Hữu Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn còn dùng:
Rồi trái oan
Một phu nhân ở đường d" Espagne (21) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch còn cái giây oan trái buộc ràng. Bởi vì không rõ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rõ vì sao mà tự tận, có phải vì tình trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây:
Lê Văn Búp ở Thủ Dầu Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên thì thấy anh Lê Văn Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, ký kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh.
Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt:
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa Ðô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên thì bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên hạ thất kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi thì thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Ðức. Quan phủ bèn dạy phá hòm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. Còn những ngọc ngà châu báu liệm trong hòm, thì lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mã nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại còn một cái nầy nữa. Ấy vậy thì gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng còn gian trá. Song đã ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn còn chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, thì gian trá cho lắm lại có ích gì.
Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ dịch ra
Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH S¡T
Và sau đây là phần Nhàn Ðàm đăng vào năm 1908 (không rõ số mấy)
CON VOI VỚI CON TRÂU
(tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xãy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, thì con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, thì con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong lòng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè còn công cán tao cao dày lắm, nhơn vì trước tao giúp cho vua Thuấn đã cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe mình nên người ta gọi là ông tượng, và hình thù thì lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một mình ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông tượng là vậy đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo này có đăng những quảng cáo như sau:
NHÀ ÐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC & CIE
ở đường d"Ormay số 61, Sàigòn
LÊ VĂN NGÀN, kế vị
Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết Lộc và Công ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quý vị ai còn thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi thì xìn từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê Văn Ngàn.
Còn nhà J. Viết Lộc & Cie có thiếu của ai thì hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà tính. Bằng quá hạn này rồi thì chúng tôi chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàigòn. Ðây là một mẫu quảng cáo hàng:
Tiệm Bán Hàng Hóa
Ông Courtinat và Công Ty
ở đường Catinat, Saigon
Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu;
Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng;
Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ;
Ghế Thonet mặt cây tốt lắm;
Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ;

Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lý;
Máy nói hiệu Pathé;
Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ;
Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng;
Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi.
Tại nhà này chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ.
Tóm lại Nông Cổ Mín Ðàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Ðàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng còn ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đã đình bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo này.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm ra mắt, mặc dù sau Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình, nhưng hiện tình báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Ðàm mà thôi, mãi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Dù sao thì tờ Nông Cổ Mín Ðàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay.
Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ý sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét nầy cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm không những phổ biến tư tưởng Ðông phương, mà còn phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Ký đã làm từ trước.
F.- Nhật Báo Tỉnh
Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912.
G.- Lục Tỉnh Tân Văn
Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc.
Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút.
Bước sang thập niên 20 còn có những tờ báo như:
H.- Nữ Giới Chung
Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút.
I.- Công Luận Báo
Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra 1 cột gọi là Văn Uyển.
II.- Trung Lập Báo
Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết "Châu Về Hiệp Phố" của nhà văn Phú Ðức, tiểu thuyết này sau vẫn còn đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Ðình, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, tuần báo Bình Dân của chính tác giả Phú Ðức
Báo chí đã đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, vì lúc ấy báo chí đã thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đã được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam.
Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (22), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Ðại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán. Năm 1907, tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo có thêm Ðăng Cổ Tùng Báo số ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút.
Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là vì theo Ðạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương trình học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư ký, Ðịa dư,Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (23).
Tiến trình báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt trình thời bấy giờ, đọc Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam.
Ghi chú:
(1) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Ðốc Nha Y Tế Học Ðường thuộc Bộ Giáo Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm 1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN).
(2) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Tòng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Ðông Phương (L"École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày 15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42, phát hành ngày 25-10-1909
(3) Hội Ðồng Tỉnh.
(4) Phan Long Ðiền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974
(5) Franc: Ðơn vị tiền tệ Pháp.
(6) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia Ðịnh, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn quyền Paul-Bert chú ý, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách việc dạy học cho vua Ðồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa, con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong Nam vào thập niên 30.
Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau:
Recueil de morale annamite (1917)
Syllabaire quốc ngữ (1919)
Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ
(7) Ðã trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Ký.
(8) Số 10, trang 5 và 6.
(9) Chữ x trong ngoặc là thay cho chữ Hán
(10) Số 2, trang 11
(11) Số 1, trang 4
(12) Số 2, trang 3
(13) Số 4, trang 13
(14) Quình tương là tích chén nước Vân-anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải trong Túy Kiều) - Tài liệu chú 
(15) Số 1, trang 9
(16) Số 3, trang 4
(17) Số 3, trang 3
(18) Nông Cổ Mín Ðàm số 166 ngày 17-11-1904
(19) Hai trận bão nầy xãy ra vào năm Thìn, nên người ta hay nói "Năm Thìn Bão Lụt", trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận bão này:
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc,
Gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công.
Thổi ngọn Ðông phong lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
(20) Nông Cổ Mín Ðàm số 173 ngày 5-1-1905
(21) Ðường Lê Thánh Tôn Sàigòn.
(22) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Ðại Pháp mới lập sở Ðại Nam Nhật Báo.
(23) Ðề thi Hội cuối cùng năm 1919:
Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tình thế khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước? Luận.
Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn Lâm dịch các sách vở. Luận
Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế nào? Luận 
Khoa thi này, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
Phần 2: Báo Chí
A. Gia Ðịnh Báo
Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lý (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đình bản vào năm 1909 (2)
Tờ báo nầy trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 thì cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Ðồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Ðồng xét lại ...
Ðơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Ðịnh Báo (4):
"... Kể từ ngày hôm nay, việc biên tập tờ báo An nam Gia Ðịnh Báo được giao cho ông Pétrus Trương Vĩnh Ký với tư cách Chánh tổng tài tờ báo nầy, ông sẽ lãnh một bổng-cấp hàng năm 3.000 phật lăng (5).
Tờ báo tiếp tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công vụ gồm các văn thư, quyết định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ An nam; phần tạp vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử học, luân lý, thời sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An nam chú ý."
Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau:
Trường Hậu bổ Sàigòn
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường gọi là người Trung Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Ðường nhơn hay Thanh nhơn, nghĩa là người nhà Ðường nhà Thanh. An nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các chú là bởi người Minh hương mà ra; mẹ An nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...
Còn tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Ðịnh Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc môn. Tối 12 tháng giêng này người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Ký muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Ðịnh Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đã có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Ðịnh Báo tại Sàigòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm.
Bệnh hoạn, tai nạn.
Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt.
Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào.
Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gửi về cho Gia Ðịnh Báo Chánh tổng tài ở Chợ quán.
Trong tờ báo, như đã nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rõ xuất xứ. Trương Vĩnh Ký giải thích phần này:
Những kẻ coi nhựt trình phải có ý cũng hiểu điều nầy là:
Thường những chuyện Tạp vụ các nơi trong đất Nam kỳ gửi về cho kẻ coi Gia Ðịnh Báo, thì có kẻ coi lại, có trắc thì sửa lại cho xuôi cho dễ nghe vì các thầy gửi cho nhựt trình thì cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy ký lấy vì là của các thầy ấy viết và gửi. Còn như phần công vụ, các bài nghị luận quan lớn Nguyên Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt trình làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham biện hay là trả lời cho kẻ quỳ đơn, việc nọ việc kia thì của Hội đồng quan Thống soái Nam kỳ luật vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia Ðịnh Báo, có tên người đứng ký vô đó, thì hể gửi thế nào thì in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều gì không được cho rõ mấy thì xin kẻ coi nhựt trình chớ trách cứ kẻ coi việc ấy...
Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Ðất Với Nồi Ðồng
Nồi đồng tính việc đi đàng,
Rủ ren nồi đất cùng trang đang thì.
Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi,
Ở an xó bếp, không ly góc lò.
Vì e sẩy bước rủi ro,
Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy.
Rằng da đấy cứng hơn đây,
Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan.
Ðáp rằng: rủi gặp dọc đàng,
"Vật chi cứng cát cảng ngang không vì.
Ðể ta qua bửa lo chi,
Bên thì vật ấy bên thì nhà ngươi.
Tai nghe nói ngọt tin lời,

Chìu lòng bạn hữu bèn dời chân đi.
Bước khua lộp cộp dị kỳ!
Xa nhau e sợ, gần thì đụng nhau.
Hai nồi đi chẳng đặng mau,
Chưa đầy trăm bước đụng nhau rã rời.
Hởi ôi Nồi đất rồi đời,
Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than.
Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang,
Ở đời giao kết kẻ ngang vai mình.
Diễn quốc âm Trương Minh Ký
B. Phan Yên Báo
Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Ðịnh Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, vì có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không còn, cũng không rõ nó là nguyệt san hay tuần san.
Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Ðịnh và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, còn Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, vì nó là tờ báo chữ Hán.
C. Nhựt Trình Nam Kỳ
Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Trình
Nó giống như Gia Ðịnh Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Trình ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang.
Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Ký viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Ký làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc lòng, sau đó mới có bài của những người khác.
Về nội dung gồm có:
Dạy chữ Nhu (chữ Hán)
Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa)
Giảng nghĩa về luân lý
Khảo cứu về thi ca, phong tục.
Nhơn vật (danh nhân)
Sau đây là các bài trích dẫn:
a) Câu Chữ Nhu (8)
(x x x x x x x x x x x x x x) (9)
Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn
(x x x x x x x x x x x x x)
Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân
Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Ðể lại lấy năm phần cho con cháu;
Mười phần rành rành đều mình dùng hết, Ðời sau con cháu chẳng như người ta.
Nghĩa là:
Như mình có đặng giàu sang rõ-ràng cả mười phần thì hãy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: vì nếu như mình được mười phần mình hưởng hết đi cả mười, thì đời sau con cháu mình còn gì mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta.
Trương Minh Ký diễn ra ca Nôm rằng:
Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Ðể lại năm phần trẻ gái trai,
Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Ðời sau con cháu dám bì ai.
b) Một hai câu tiếng Phangsa (10)
(Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông
Bonjour (Madame,( --""-- madăm) = chào bà
(Mademoiselle,(--""-- madơmoaxel) = chào cô
Comment cela va-t-il? (Còmăng xa va ti) = mạnh khỏe thế nào?
Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe.
Où allez-vous? (u alê vú) = anh đi đâu?
Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo
c) Tam Cang Là Những Cang Nào? (11)
là (x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi)
"(x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con)
"(x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ với chồng)
(x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là giềng tôi)
(x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con)
(x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ)
Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có tình, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận hòa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây bìa giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới.
Về Tam Cang (12)
Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng hữu, thân quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn ti, đẳng cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai trị, gìn giữ đùm bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước.
Vì vậy phải có đạo tam cang ràng rịt vấn vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng an.
Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con cái cách nào; con cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền.
d) Hát Nhà Trò (13)
Hát nhà trò là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ An, Hà Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám tiệc, hội hữu, hôn tế, kì yên, chạp miễu, thì thường có hát nhà trò. Tùy theo ý chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ý mình. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên.
Thường đào là con gái có xuân sắc, chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm nga, múa hát, bắt bộ v.v... tục kêu là cô đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân nga hay và êm tai lắm.
Hát thì hát những là Ca trù, hoặc giậm Túy kiều, câu hát rời, Tần cung oán, Chinh phụ ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào quình tương (14) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp tình ưa ý khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà trò thường là những cung giọng này
Mẫu dựng
Thiệt nhạc
Ngâm vọng
Tỳ bà
Tắc phản
Hát hói
Gửi thư
Huình
Hãm
Cung bắc
Cửa quyền
Non mai
Nường hạnh
Chữ khi
Thơ
Thỏng
e) Ca kiêng giống độc (15)
Rượu để bình đồng ấm thiết lâu,
Gan bò một lá, với gan trân.
Giải (ba ba) ba chơn, cá lân không vảy,
Dê một sừng, tôm chẳng có râu.
Chó bốn đề, lương vàng cất cổ,
Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu.
Cua sinh một mắt, lệch sao điểm.
Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu.
g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (16)
Nhứt quân tử, ăn mứt gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên.
Nhì quân tử, ăn thịt trâu, uống nước chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà giữa, đánh cờ tướng
Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh cờ chó.
h) Lý Thường Kiệt (x) (x) (x) (17)
Lý Thường Kiệt người tỉnh Hà Nội, huyện Vĩnh Thuận làm quan tướng nhà Lý. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương an Thạch mà khinh dị An nam, vua Lý nhơn Tông mới sai Lý Thường Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâmchâu Liêm giết Thương Thủ Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua đánh An nam, khi đóng binh tại bờ sông Như nguyệt, thì Lý Thường Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách quì với Triệu tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngã lòng, thì dụng mưu mà làm cho vững lòng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn thờ miễu ông Tương tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lý Thường Kiệt là người nhiều mưu lược, có tài tướng soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm thành, huân nghiệp công trận lớn lắm. Ðược tặng là Việt quốc công.
Ðời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch đại đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Trình được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có hình ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Ðàm
Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Ðồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, còn có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Ðỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích dẫn:
Bão lụt phía Tây Nam (18)
Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam (19) dân Tây Nam bình tịnh, đến đêm 26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên, cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình hài làm mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi Ðã biết rằng: Trời còn có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh thơi, quen thời tiết phong điều võ thuận. Xãy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên tri cũng khó thở than, vì dân vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa phủ thiên đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi! Hể trời khiến tai nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam phân đảnh túc; bởi Chiếu liệt đốc thành kỉnh sĩ, nên người đành tận tụy cúc cung. Vì một người, chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên phân trái phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi!
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt này, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt trình xem chơi.
Chủ bút
Ðọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, còn chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam.
Trường Tabert (20)
Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh nhật, thì trường học Taberd phát phần thưởng học trò rồi đặng bãi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học trò đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục lòng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Ðến lúc làm điều vui, cũng còn kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ý khuyên người làm phải, dạy trẻ lòng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, lòng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn Hữu Phước làm tri huyện tại hạt Gò Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rõ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy dỗ, cứ theo hoang đàng phóng tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn Hữu Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn còn dùng:
Rồi trái oan
Một phu nhân ở đường d" Espagne (21) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch còn cái giây oan trái buộc ràng. Bởi vì không rõ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rõ vì sao mà tự tận, có phải vì tình trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây :
Lê Văn Búp ở Thủ Dầu Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên thì thấy anh Lê Văn Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, ký kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh.
Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt:
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa Ðô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên thì bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên hạ thất kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi thì thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Ðức. Quan phủ bèn dạy phá hòm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. Còn những ngọc ngà châu báu liệm trong hòm, thì lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mã nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại còn một cái nầy nữa. Ấy vậy thì gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng còn gian trá. Song đã ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn còn chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, thì gian trá cho lắm lại có ích gì.
Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ dịch ra
Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH S¡T
Và sau đây là phần Nhàn Ðàm đăng vào năm 1908 (không rõ số mấy)
CON VOI VỚI CON TRÂU
(tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xãy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, thì con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, thì con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong lòng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè còn công cán tao cao dày lắm, nhơn vì trước tao giúp cho vua Thuấn đã cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe mình nên người ta gọi là ông tượng, và hình thù thì lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một mình ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông tượng là vậy đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có đăng những quảng cáo như sau:
NHÀ ÐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC & CIE
ở đường d"Ormay số 61, Sàigòn
LÊ VĂN NGÀN, kế vị
Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết Lộc và Công ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quý vị ai còn thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi thì xìn từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê Văn Ngàn.
Còn nhà J. Viết Lộc & Cie có thiếu của ai thì hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà này mà tính. Bằng quá hạn nầy rồi thì chúng tôi chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàigòn. Ðây là một mẫu quảng cáo hàng:
Tiệm Bán Hàng Hóa
Ông Courtinat và Công Ty
ở đường Catinat, Saigon
Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu;
Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng;
Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ;
Ghế Thonet mặt cây tốt lắm;
Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ;
Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lý;
Máy nói hiệu Pathé;
Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ;
Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng;
Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi.
Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ.
Tóm lại Nông Cổ Mín Ðàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Ðàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng còn ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đã đình bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo nầy.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm ra mắt, mặc dù sau Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình, nhưng hiện tình báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Ðàm mà thôi, mãi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Dù sao thì tờ Nông Cổ Mín Ðàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay.
Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ý sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét này cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm không những phổ biến tư tưởng Ðông phương, mà còn phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Ký đã làm từ trước.
F.- Nhật Báo Tỉnh
Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912.
G.- Lục Tỉnh Tân Văn
Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc.
Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút.
Bước sang thập niên 20 còn có những tờ báo như :
H.- Nữ Giới Chung
Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút.
I.- Công Luận Báo
Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra 1 cột gọi là Văn Uyển.
II.- Trung Lập Báo
Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết "Châu Về Hiệp Phố" của nhà văn Phú Ðức, tiểu thuyết nầy sau vẫn còn đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Ðình, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, tuần báo Bình Dân của chính tác giả Phú Ðức.
Báo chí đã đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, vì lúc ấy báo chí đã thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đã được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam.
Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (22), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Ðại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán. Năm 1907, tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo có thêm Ðăng Cổ Tùng Báo số ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút.
Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là vì theo Ðạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương trình học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư ký, Ðịa dư, Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (23).
Tiến trình báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt trình thời bấy giờ, đọc Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam.
Ghi chú:
(1) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Ðốc Nha Y Tế Học Ðường thuộc Bộ Giáo Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm 1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN).
(2) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Tòng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Ðông Phương (L"École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày 15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42, phát hành ngày 25-10-1909
(3) Hội Ðồng Tỉnh.
(4) Phan Long Ðiền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974
(5) Franc: Ðơn vị tiền tệ Pháp.
(6) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia Ðịnh, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn quyền Paul-Bert chú ý, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách việc dạy học cho vua Ðồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa, con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong Nam vào thập niên 30.
Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau :
Recueil de morale annamite (1917)
Syllabaire quốc ngữ (1919)
Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ
(7) Ðã trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Ký.
(8) Số 10, trang 5 và 6.
(9) Chữ x trong ngoặc là thay cho chữ Hán
(10) Số 2, trang 11
(11) Số 1, trang 4
(12) Số 2, trang 3
(13) Số 4, trang 13
(14) Quình tương là tích chén nước Vân Anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải trong Túy Kiều) - Tài liệu chú
(15) Số 1, trang 9
(16) Số 3, trang 4
(17) Số 3, trang 3
(18) Nông Cổ Mín Ðàm số 166 ngày 17-11-1904
(19) Hai trận bão nầy xảy ra vào năm Thìn, nên người ta hay nói "Năm Thìn Bão Lụt", trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận bão này:
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc,
Gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công.
Thổi ngọn Ðông phong lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
(20) Nông Cổ Mín Ðàm số 173 ngày 5-1-1905
(21) Ðường Lê Thánh Tôn Sàigòn.
(22) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Ðại Pháp mới lập sở Ðại Nam Nhật Báo.
(23) Ðề thi Hội cuối cùng năm 1919:
Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tình thế khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước? Luận.
Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn Lâm dịch các sách vở. Luận
Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế nào? Luận 
Khoa thi này, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
Phần 3: Thơ
I.- Ðại Cương
Nếu báo chí giữ vai trò khá quan trọng trong việc truyền bá chữ quốc ngữ ở giai cấp trung lưu, Thơ lại giữ một vai trò quan trọng trong việc phổ biến chữ quốc ngữ trong giai cấp bình dân ở miền Nam.
Thơ là danh từ của người miền Nam dùng, để chỉ cho các loại truyện như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa..., còn danh từ truyện là để chỉ cho truyện Tàu như Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thuyết Ðường... Chúng tôi dùng từ Thơ trong tiết nầy, cốt để giữ nguyên danh từ thông dụng của nó ở miền Nam.
Tất cả thơ đều soạn theo thể thơ Lục Bát của Việt Nam ta, căn cứ vào quá trình sau đây, chúng tôi xếp thơ trước truyện và tiểu thuyết.
1. Năm 1875, Trương Vĩnh Ký xuất bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Du bằng Quốc ngữ. Ðến năm 1889, sau khi tác giả Nguyễn Ðình Chiểu mất được một năm, ông lại cho xuất bản quyển Lục Vân Tiên, Phan Trần.
2. Văn nghiệp của Huình Tịnh Của (1834-1907), cũng có tác phẩm Quan Âm Diễn Ca bằng Quốc ngữ.
3. Theo tài liệu ông Nguyễn Văn Kiềm, trong quyển Tân Châu 1870-1964, cho biết nhà văn Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt đã dịch truyện Tây Hớn do J. Viết Lộc & Cie ở Sàigòn xuất bản, là quyển truyện Tàu đầu tiên dịch ra Quốc ngữ, được độc giả rất hoan nghênh, nhưng ông Kiềm không cho biết truyện ấy xuất bản năm nào, nhà J. Viết Lộc & Cie được thành lập và hoạt động từ năm 1900 đến 1908, vậy truyện Tây Hớn xuất bản thời gian đó.
Tóm lại thơ in và phổ biến qua chữ Quốc ngữ có từ năm 1875, nhưng đó là Kim Vân Kiều chưa chắc nó đã được ưa chuộng vì là áng văn chương tuyệt tác, có nhiều điển tích, người bình dân khó hiểu, phải đợi đến sau năm 1889,khi quyển Lục vân Tiên và Phan Trần ra đời, người bình dân mới có thể bắt đầu ưa chuộng thơ, chính trên sách Lục vân Tiên cũng ghi thơ văn bình dân (Poème populaire).
Từ đó thơ được giới bình dân ưa chuộng, các nhà văn thời ấy đua nhau sáng tác, cho đến năm 1907, đã có thêm những quyển thơ sau đây, xuất bản tại nhà in Saigonnaise:
- Lâm Sanh Xuân Nương soạn giả Nguyễn Kim Ðính (1)
- Trần Ðại Lang -
- Dương Ngọc - Bà Huỳnh Kim Danh
- Trương Ngộ -
- Quang Âm giáng thế -
- Trần Sanh Ngọc Minh - Nguyễn Bá Thời
- Bạch Viên Tôn Các -
- Ðào Trinh Luông Sanh -
- Lý Công - Nguyễn Bá Thời
- Ngọc Cam Ngọc Khổ - Nguyễn Bá Thời
- Chiêu Quân Cống Hồ - Ðặng Lễ Nghi
- Thoại Khanh Châu Tuấn - Bà Huỳnh Kim Danh
- Thạch Sanh Lý Thông - Hà Trung
- Tống Tử Vưu -
- Lang Châu -
- Lâm Sanh Lâm Thoại -
- Tiên Bửu -
- Mục Liên Thanh Ðề - Bà Huỳnh Kim Danh
- Tam Nương -
- Trương Ngáo - Hoàng Minh Tự
- Mụ Ðội -
- Nam Kỳ -
- Học Tập Qui Chánh -
- Kiều Truyện có giải nghĩa -
- Trần Minh Khố Chuối - Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Khỏe
- Trọng Tương Vấn Hớn -
- Văn Doan -
Vì thơ thuộc loại sách phổ biến trong giới bình dân, trình bày hết sức đơn sơ, không chú trọng ấn bản, từ lúc thơ được in trong những năm đầu tiên cho đến những năm sau nầy, nó vẫn được giữ y nguyên hình thức cũ, in khổ 16cm x 24 cm, trang bìa giấy màu loại mỏng, có vẽ hình để minh họa một cảnh nào đó trong nội dung, hình vẽ và tựa in một màu, đôi khi hình vẽ in một màu và tựa in màu khác, bìa màu khác, sách dầy kể luôn cả bìa là 16 hay 24 trang, bìa sau thường in danh mục các quyển thơ đã được in. Năm 1907, giá một quyển trung bình là 35 xu, đến thập niên 50, giá 2 đồng, đến thập niên 70 giá 10 đồng đến 20 đồng tùy sách dầy hay mỏng.
Về cách trình bày bên trong, mỗi hàng in cả 2 câu Lục và Bát thành một dòng, không phân đoạn hay tiết mục gì cả. Có quyển vì ngắn, nên trong có thêm hình vẽ cho đủ số 16 trang của quyển thơ, những quyển loại nầy có chua thêm dưới tựa ‘‘Có hình‘’.
Thơ được sáng tác phần lớn dựa theo các chuyện cổ tích, như: Thạch Sanh Lý Thông, Nàng Út, Chàng Nhái Kiểng Tiên..., đựa theo tuồng tích truyện Tàu như Võ Tòng Sát Tẩu, Tề Thiên Ðại Thánh loạn thiên đình... có liên quan đến thời sự như Sáu Trọng, Hai Ðẩu, Sáu Nhỏ... có liên quan tôn giáo như Quan Âm giáng thế, Mục Liên Thanh Ðề...
Mặc dù cốt chuyện soạn đúng theo quy ước, luôn luôn kết thúc có hậu, ân đền nghĩa trả, mọi gút đều được mở, nhưng vì người ta quá yêu chuộng thơ, cho nên thơ được đặt thêm ra chẳng hạn như Hậu Lục Vân Tiên, Hậu Phạm Công Cúc Hoa, Hậu Bạch Viên Tôn Các...
Một số cốt chuyện đã được 2 tác giả soạn thơ, ví dụ như nhà xuất bản Phạm Văn Cường có thơ Trần Minh Khố Chuối của soạn giả Nguyễn Bá Thời, nhà xuất bản Phạm Văn Thình cũng có thơ Trần Minh Khố Chuối của soạn giả Nguyễn Văn Khoẻ.
Ðã là thơ thì người ta không đọc, phải ngâm, nhưng giọng ngâm ấy đặc biệt có tánh cách ngâm thơ của người miền Nam, nó gần với giọng hát ru em của người miền Nam vậy.
Như đã trình bày, thơ được phổ biến trong giới bình dân miền Nam, người ta chú trọng nội dung mà không quan tâm đến hình thức, do đó những tác giả của các tập thơ đều bị lãng quên, ngày nay khó sưu tầm được.
Các tập thơ trước kia do nhà xuất bản Saigonnaise số 39-41 đường Catinat (sau đổi là Tự Do, Ðồng Khởi), hay nhà in Phạm Văn Thình số 179, rue d’Espagne (đường Lê Thánh Tôn), cho đến thập niên 60 vẫn còn có 3 nhà xuất bản: Thuận Hòa, 54 Tháp Mười Chợ Lớn, Phạm Ðình Khương 31 Bd Bonhoure và Phạm Văn Cường 171 Ðại Lộ Khổng Tử Chợ Lớn. Ðến thập niên 70, chỉ còn có hai nhà xuất bản Phạm Ðình Khương và Phạm Văn Cường.
Có quyển Lục Vân Tiên của nhà xuất bản Phạm Văn Thình, không ghi rõ năm in, nhưng có lẽ trước năm 1950, đã thấy ghi tái bản đến lần thứ 13, sau đó bản quyền nhường cho nhà Thuận Hòa in tiếp, nhà xuất bản nầy cũng như nhà xuất bản Phạm Văn Cường sau nầy không ghi lần tái bản các quyển thơ.
Các nhà xuất bản chắc có dụng ý riêng của họ là không ghi lần tái bản, để in lậu tránh việc xin cấp giấy phép. Do đó, chúng ta không thể biết được một số quyển thơ đã tái bản vào năm nào.
Cũng như truyện tàu sau này, phải nói người bình dân rất ưa chuộng thơ, đêm đêm bên ngọn đèn dầu, một người nằm đọc thơ cho những người khác cùng nghe, đấy cũng là cách giải trí của người bình dân ở thôn quê ngày trước, thỉnh thoảng họ mới được giải trí với những đoàn hát bộ khi ở đình làng có cúng kỳ yên, giỗ thần, năm chỉ một đôi lần, cho nên cùng nhau quây quần nghe đọc truyện ban đêm, khi mùa màng nhàn rỗi là một thú vui của họ, nhu cầu đọc truyện bắt buộc người ta phải biết chữ. Từ đó người bình dân mới cho con em cấp sách đến trường làng học đôi năm, họ không có cao vọng cho con cái học thành tài, làm thầy Thông, thầy Ký, mục dích của họ là học để biết đọc biết viết, nhất là đọc thơ cho họ nghe lúc nhàn rỗi. Ðó cũng là yếu tố góp phần vào việc truyền bá chữ quốc ngữ buổi sơ thời ở miền Nam.
Gần một thế kỷ đã qua rồi, thơ khôn còn được sáng tác thêm nữa, trong danh mục chủng loại của thơ, chúng ta có thể tổng kết được số lượng sau đây:
- Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu
- Phạm Công Cúc Hoa - Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Khỏe
- Lâm Sanh Xuân Nương - Nguyễn Kim Ðính
- Thoại Khanh Châu Tuấn - Bà Huỳnh Kim Danh
- Bạch Viên Tôn Các

- Tống Tử Vưu
- Nàng Út
- Chàng Nhái - Nguyễn Bá Thời
- Ðơn Hùng Tín I & II
- Dương Ngọc - Bà Huỳnh Kim Danh
- Thạch sanh Lý Thông - Hà Trung
- Con Tấm Con Cám - Nguyễn Bá Thời
- Nam Kinh Bắc Kinh - Bà Huỳnh Kim danh
- Trần Ðại Lang
- Lang Châu cùi
- Lý Công - Nguyễn Bá Thời
- Lâm Sanh Lâm Thoại
- Trò Ðông - Ðặng Lễ Nghi
- Tam Nương
- Trần Minh Khố Chuối - Nguyễn Bá Thờ, Nguyễn Văn Khỏe
- Ngọc Cam Ngọc Khổ - Nguyễn Bá Thời
- Ông Trượng Tiên Bửu
- Mục Liên Thanh Ðề
- Chiêu Quân Cống Hồ - Ðặng Lễ Nghi
- Trần Sanh Ngọc Anh - Nguyễn Bá Thời
- Nhị Thập Tứ Hiếu
- Ðương Dương Trường Bản
- Sáu Trọng Hai Ðẩu
- Sáu Nhỏ
- Túy Kiều đời nay
- Vân Tiên cờ bạc
- Tiết Giao đoạt ngọc
- Tiết Cương khởi nghĩa
- Phụng Kiều Lý Ðáng
- Năm Tỵ
- Phan Công - Nguyễn Bá Thời
- Quan Âm thơ
- Ân tình
- Mụ Ðội
- Nữ Trung báo oán - Ðặng Lễ Nghi
- Hoàng Trừu (Công chúa đội đèn) - Nguyễn Bá Thời
- Chàng chuột Lệ Tiên
- Trần Nhựt Chánh hội tam thê
- Cậu Hai Miêng
- Thơ đi Tây
- Sử Công
- Tiết Ðinh San
- Phàn Lê Huê - Hoàng Minh Tự
- Tống tửu Ðơn Hùng Tín
- Triệu Tử đoạt ấu chúa
- Phụng Nghi Ðình
- Võ Tòng Sát Tẩu - Nguyễn Bá Thời
- Lưu Bị cầu hôn Giang tả
- Hạng Võ biệt Ngu Cơ
- Tề Thiên Ðại Thánh loạn thiên đình - Hoàng Minh Tự
- Tam Tạng Thỉnh Kinh
- Bá Áp Khảo dạy đờn Ðắc Kỷ
- Mộc Quế Anh dưng cây
- Ông phò nhị tẩu - Nguyễn Thành Long
- Tiết Nhơn Quí lấy Ma Thiên Lãnh
- Trụ Vương mê Ðắc Kỷ
- Xử Bàng Quí Phi
- Chung Vô Diệm hội Kỳ Bàn
- Quan Công thất thủ Hạ Bì
- Thôi Tử thí Tề quân
- Quốc Trì giả điên
- Giang Ðông phó hội
- Tam khí Châu Du
- Phật Tổ ra đời
- Bà Quan Âm
- Trương Ngáo - Hoàng Minh Tự
- Lãnh bán heo
- Lưu Bình Dương Lễ gả vợ cho con
- Cha mẹ dạy con
- Mạnh Lệ Quân
Các loại thơ đặt tiếp theo :
- Hậu Lục Vân Tiên - Nguyễn Bá Thời
- Hậu Phạm Công Cúc Hoa
- Hậu Lâm Xanh Xuân Nương - Thanh Tâm
- Hậu Trần Minh Khố Chuối - Ðinh Công Thống
- Hậu Thạch Sanh - Nguyễn Bá Thời
- Hậu Thoại Khanh Châu Tuấn - Nguyễn Bá Thời
- Hậu Bạch Viên Tôn Các
- Hậu Tống Tử Vưu
- Hậu Nàng Út
- Hậu Chàng Nhái - Thanh Tâm
II.- Kết cấu nội dung
Qua danh mục trên, chúng ta thấy một số lớn thơ được sáng tác theo chuyện cổ tích, hay truyện Tàu. Nhân vật được xây dựng đặt trên căn bản quan niệm xây dựng con người của Khổng giáọ Trai thời: Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa; gái thời: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Bối cảnh được xây dựng từ đồng quê cho đến triều đình, cốt chuyện đi từ hoàn cảnh nhân vật nghèo khó, rồi dần dần bước lên đường công danh sau khi nhân vật chánh gặp nghịch cảnh trớ trêu, cay nghiệt do những kẻ có ác tâm hoặc nịnh thần ở triều đình tạo ra, dù cho nghịch cảnh thế nào đi nữa, phần kết chuyện cũng phải có Hậu, nghĩa là người ngay được hưởng vinh quang, ân đền nghĩa trả, kẻ gian ác phải bị trừng phạt. Như Lục Vân Tiên sau cùng được lên ngôi thiên tử, sau khi trãi qua những nghịch cảnh bị mù lòa, bị Trịnh Hâm gạt gẩm xô xuống biển Ðông, bị Võ Công đưa vào hang núi Thương Tòng, nhưng những nghịch cảnh như thế, đều được Tiên, Phật ra tay tế độ cho, rồi Vân Tiên cũng được thuốc Tiên chữa cho mắt sáng, rồi ứng thí đỗ Quốc trạng, đi dẹp giặc Ô Qua, gặp lại Nguyệt Nga, cuối cùng một nhà đoàn tụ vinh hiển. Còn những kẻ ác tâm như Trịnh Hâm thì bị đắm thuyền chết đuối, mẹ con Thể Loan (gia đình Võ Công) bị cọp tha.
Bối cảnh, nhân vật, tình tiết mỗi chuyện dù có khác nhau, nhưng nó đều có chung một mô thức như truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu.
Thật ra thì thơ hầu hết là chuyện cổ tích trong dân gian Việt Nam, một phần là truyện Tàu, chính Nguyễn Ðình Chiểu sáng tác Lục Vân Tiên cũng phải phỏng theo mô thức xây dựng con người Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Hoa về Tam Cang và Ngũ Thường của nam giới hay Tam Tòng và Tứ Ðức của nữ giới.
Chẳng hạn như chuyện Trần Minh Khố Chuối.
Trần Công một phủ quan giàu có, đã trộng tuổi mà chưa có con để nối dõi tông đường, rồi một hôm đi cầu tự ở một ngôi chùa danh tiếng kia. Nơi dây, Trần Công gặp một viên quan Thị vệ cũng đi cầu tự, hai bên đồng cảnh ngộ nên kết nghĩa với nhau, họ hẹn ước gian khổ có nhau, và nếu hai nhà sau nầy kẻ sanh con trai, người sanh con gái, họ sẽ kết nghĩa thông gia.
Sau khi cầu tự về, Trần thị có mang, Trần công từ ấy gia công thi ân bố đức, rồi Trần Minh chào đời, gia đình Trần công lại thi ân bố đức nhiều hơn, cho đến năm Trần Minh được 7 tuổi, Trần công mất, gia cảnh sa sút nghèo nàn, Trần Minh phải xin ăn nuôi mẹ, ngày thì bửa đói bửa no, thân không mảnh vải che thân phải đóng khố.
Rồi Trần Thị nhớ tới lời hẹn ước xưa, mới cùng Trần Minh đi tìm quan Thị Vệ, nhưng viên quan Thị Vệ nầy thấy cảnh nghèo của Trần Minh, bèn ngảnh mặt làm ngơ, mẹ con Trần Thị lại phải dắt díu tiếp tục ăn xin., rồi Trần Thị mất. Trần Minh tiếp tục sống tha phương cầu thực và đến huyện Võ Khê tầm thầy học đạo.
Ở trường học, con nhà giàu có ỷ lại vào sự giàu sang của cha me chúng hiếp đáp Trần Minh đủ điều, chàng cam tâm nhẫn nhục cố gắng học với mục đích bảng hổ đề danh sau này.
Còn viên quan Thị Vệ sau khi xô đuổi mẹ con Trần Thị, muốn thử lòng con gái là nàng Ðệ Nhất, bèn thuật lại mọi chuyện của gia đình Trần Minh và mối giây liên hệ với nàng, ông ta cho biết rằng nếu nàng đồng ý, ông sẽ gã nàng cho Trần Minh. Nàng tỏ bày bằng lòng với số phận theo lời giao ước ngày xưa của cha mẹ hai bên. Ông ta giận dữ, phân tách thiệt hơn cho nàng nghe, sợ làm phật ý cha, nàng xin cha cho mở một cửa hàng với dụng tâm tìm cho gặp mặt để giúp đỡ Trần Minh. Nhờ đó nàng tìm ra manh mối Trần Minh, giúp Trần Minh phương tiện học hành, đi ứng thí, kỳ thi ấy chàng đỗ Trạng nguyên. Nam vương liền gả công chúa cho chàng.
Sau khi bái tổ vinh qui, sum họp với nàng Ðệ Nhứt, quan Thị Vệ bị sét đánh chết, sau khi cư tang, vợ chồng Trần Minh trở lại triều đình, được Nam Vương truyền ngôi, nàng Ðệ Nhứt lên ngôi chánh hậu và công chúa giữ phận thứ phi.
Chuyện Trần Minh không có nhiều tình tiết, nghịch cảnh trớ trêu dồn dập như Lục Vân Tiên. Trần Minh chỉ có nghèo và đi tới cùng cực của cảnh nghèo là phải đóng khố chethân, xin ăn qua ngày, phải chịu những cảnh ức hiếp của bọn học trò con nhà giàu, ấy là bối cảnh xã hội thời nào cũng có. Cũng cùng chung cái cảnh đoạn trường bị từ hôn như Lục Vân Tiên, nhưng Trần Minh chỉ gặp khổ chớ chẳng gặp cảnh hiểm nguy.
Như đã nói trên, chuyện xưa đều có chung mô thức, kết thúc phải đi đến chỗ tốt đẹp cho người Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, phải ân đền oán trả, những cái oán mà con người chỉ trả trong giới hạn nào đó, nó không tương xứng với hành động đã gieo, thì những kẻ gây oán phải trả theo luật nhân quả nhãn tiền, kết cục hết sức rõ ràng và minh bạch, nhằm mục đích ‘’khuyến thiện, trừng gian‘’.
Ðứng về mặt tôn giáo mà nói, nội dung các chuyện có ảnh hưởng các tôn giáo lâu đời ở nước ta như Phật, Khổng, Lão, nó luôn luôn thích hợp với người bình dân. Họ tin tưởng vào đức Phật Tổ để sống đời sống ăn hiền ở lành hay làm lành lánh dữ. Ðề cao Trung, hiếu, tiết, nghĩa của đạo Khổng và cũng tin tưởng vào pháp thuật của tiên gia để trừ tà, ếm quỷ, cầu phong, đảo võ những hình thức mà đời sống nông dân cần đến.
Ðọc qua thơ, sẽ thấy nội dung trình bày triết lý sống phổ quát của người miền Nam, nó cũng là triết lý sống của người Việt vậy.
III.- Văn Chương thơ
Thơ như đã đề cập trước, chính danh nó là truyện, như truyện Kiều, truyện Nhị Ðộ Mai trong chủng loại của Văn học Việt Nam. Vậy Thơ là truyện bằng thi ca, kể theo thể lục bát, hình thức của Thi ca bình dân, cũng có thể nói Thơ là truyện hay chuyện diễn ca, nghĩa là người ta dùng hình thức thi ca bình dân, để diễn các chuyện cổ tích và trích những đoạn truyện Tàu thành một khúc ca, vì vậy mà cùng một chuyện có thể có vài ba tác giả.
Chẳng hạn như thơ Phạm Công Cúc Hoa có bổn do Nguyễn Bá Thời soạn, có bổn do Nguyễn Văn Khỏe soạn, thơ Trần Minh khố chuối cũng vậy, một vài chuyện do hai tác giả soạn như thế, tựa và lời diễn ca tuy có khác nhưng nội dung chỉ là một.
Ví dụ:
Thơ Chàng Nhái hay Thơ Chàng Nhái Kiểng Tiên
Thơ Lý Công hay Thơ Lý Công Thị Hươu
Thơ Trương Ngáo hay Thơ Trương Ngáo đòi tiền Phật...
Thể lục bát rất thích hợp cho hình thức diễn ca cho chuyện và cốt chuyện có sẵn, soạn giả chỉ dụng công diễn thành thi ca, nhiều khi diễn ca có tiết điệu mà không chú trọng về vần, cho nên nhiều vần bị gượng ép hay thất vận.
Ví dụ:
Phạm Công ngẫm nghĩ gần xa,
Không thi thì uổng công ta sách 
đèn.
Chàng bèn ứng thí đậu 
liền.
Bèn vào yết kiến bệ tiền Hoàng gia (2)
hoặc:
Thà anh thác xuống suối vàng,
Ðể em ở lại cho nhàn tấm thân.
Em về ở với song 
thân
Ðể chi mà chịu nhọc 
nhằn thế ni (3)
hoặc:
Mãng đương bàn bạc sự tình,
Lang vương đắc ý rượu 
đào giao bôi.....
Chiêu Quân liếc ngó Vương 
Long,
Bèn trao mê dược tửu 
trung bỏ vào...
Chiêu Quân thôi mới tâu vào,
Người Mao Diên Thọ Hớn trào gian 
hung.
Vốn tôi có sự cừu 
nhân,
Cho tôi tẩy oán thành thân mới 
đành.
Cừu nầy tôi trả chẳng 
xong,
Tôi nguyền mạng một trôi giòng biên giang. (4)
Trong số các soạn giả thơ - trừ Nguyễn Ðình Chiểu - chỉ có Hoàng Minh Tự gieo vần nghiêm chỉnh hơn cả.
Cũng có câu vần được dời từ chữ thứ 6 câu 8, sang chữ thứ 4 câu 8 như:
Ðoạn nầy nói việc mụ già,
Cưới dâu về 
nhà, tính đã ba năm. (5)
hay :
Gieo tiền thầy nói vội vàng,
Hoàng hậu rõ 
ràng, mình mới thọ thai (6)
Cách gieo vần nầy, chúng ta thấy một số câu trong Chinh Phụ Ngâm:
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn 
xao.
Hẹn nơi 
nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
Ngập ngừng gió thổi áo bào,
Buổi hôm tuôn đẩy nước trào mênh mông.
Ngay chính trong Ca dao cũng có gieo vần như vậy:
Chị Xuân đi chợ mùa ,
Mua cá Thu 
về, chợ hãy còn Ðông.
hay:
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc,
Gió nào 
độc cho bằng gió Gò Công.
Thổi ngọn Ðông 
phong, lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại, nước mắt hông tuôn rơi.
Về tiểu đối hay bình đối thì rất hiếm, nhưng cũng có:
Ầm ầm nổi trận phong lôi,
Sấm rền gió dập, sóng dồi mưa chang (7)
hay:
Ngày đêm lội suối qua đò,
Băng truông tuyết đượm, qua đò nắng chan (8)
Cũng dùng lối hồi văn như:
Nhìn nhau bốn mắt ròng ròng,
Nhìn nhau chạnh dạ xót lòng biết bao. (9)
dùng lối điệp ngữ như
Tạc thù chén lại chén qua
Càng phân việc trước, càng hòa chén sau. (10)
Như lối hồi văn và điệp ngữ trong Chinh Phụ Ngâm:
229 Chẳng hay muôn dặm ruỗi dong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng.
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.

Hướng dương lòng thiếp dường hoa,
Lòng chàng lẫn thản e tà bóng dương.
Và:
225 Hoa trải nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng.
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Trong Ca dao cũng có:
Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo,
Thiếp than phập thiếp như bèo trôi sông.
hay:
Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Ðôi chỗ có những câu thất luật như:
Gian nan bậu chịu trăm đường,
Thảm sầu luống những đoạn trường xiết chi.
Anh 
muốn hạ tờ phân ly,
Lại e thất hiếu lễ nghi sanh thành. (11)
Nếu như soạn giả cẩn thận trao chuốc câu văn, chỉ cần đảo vị, đã tránh được thất luật:
Hạ tờ anh muốn phân ly,
Lại e thất hiếu lễ nghi sanh thành.
Nhưng đặc tính bình dân của Thơ là ở chỗ không dùng hay ít dùng đến điển tích, nhờ vậy người bình dân đọc dễ hiểu, chính chỗ đó, Thơ đã được họ ưa chuộng. Tuy nhiên không phải hoàn toàn không dùng điển tích và từ Hán Việt:
Xuân Nương phân hết đuôi đầu,
Lâm Sanh nghe nói hột châu tuôn dầm.
Tưởng là dứt giải đồng tâm,
Hay đâu lại đặng sắt cầm sánh đôi.
Truyền quân vội chước kim bôi,
Cha con chồng vợ vầy vui một nhà (12)
Những từ như Phụ vương, Hoàng Hậu, Thái Tử... được dùng nhiều, cho nên người bình dân cũng dễ hiểu, tính chất bình dân còn ở chỗ hành văn bình dị, dùng từ thông dụng, có tánh cách địa phương như:
Thầy Viên vội vả vái vang,
Lâm dâm miệng vái tứ 
phan chư thần (13)
Công Nương cũng dự hồng nhan,
Muốn đưa cho Trạng 
dượu vàng kết đôi (14)
Ta đem nàng lại tòa chương,
Tâu cùng vương phụ cho tường sự 
dươn (15)
Hành văn, người ta cố tránh những chữ thì, mà, là... nhưng trong thơ không thiếu gì những chữ ấy. Ðặc biệt soạn giả hay dùng: kia làthay là như từ đệm :
Dặn nhau cho chiếc chiếu manh kia là (Phạm Công Cúc Hoa)
Gắng công đèn sách thảo ngay 
kia là (PCCH)
Về ai nấy mặc mới xong 
kia là (PCCH)
Học trò cười nói đã vang 
kia là (PCCH)
Ðẹp thay cảnh vật 
kia là (Hậu Lâm Sanh)
Khen rằng như thế vẹn trinh 
thay là (HLS)
Vẹn toàn ở lại đông phương 
kia là (Hậu Thoại Khanh)
Máu hồng tuôn chảy hãy kinh 
kia là (HTK)
Binh thuyền ước hạn chật sông 
kia là (Dương Ngọc)
Nàng hồi tiên cảnh đắng cay 
thay là (Bạch Viên Tôn Các)
Tôn Hương, Tôn Lượng đẹp xinh 
kia là (BVTC)
Mỹ vị quí lại cao lương 
thay là (Con Tấm Con Cám)
Và cũng hay dùng từ ni:
Cớ nào mà chạy theo rừng thể ni (Hậu Chàng Nhái)
Mặc tình trai gái phỉ nguyền lòng 
ni (Dương Ngọc)
Tôi muốn đoán thật quẻ 
ni (DN)
Nào hay nhơn đạo tình đời thế 
ni (Trần Minh Khố Chuối)
Sử dụng những từ đệm như trên, nó giúp cho soạn giả hành văn dễ dàng, nhưng chính ở chỗ đó làm hại văn chương, nó đã đẩy soạn giả tới chỗ không cần trao chuốc câu văn, lập đi lập lại một từ rất thông thường, như vậy làm cho bản văn trở nên tầm thường, thiếu tánh cách văn chương trao chuốc.
Ðôi khi, cách hành văn bỗng trở nên ví von như:
Anh nên day lại xem rành,
Ngựa xe em đã sắm sanh sẵng sàng.
Bây giờ anh kiếp sữa sang,
Ðặng mà xuống chốn Tràng an kịp thì.
(Trần Minh Khố Chuối)
Như người ta nói đùa một câu toàn là vần ‘’s‘’: Sáng sớm sắm sanh sữa sang sáng sủa sẵn sàng xuống sở‘’.
Thơ nói chung, soạn giả đua nhau sáng tác, nhà xuất bản đua nhau phát hành, không chú trọng về hình thức trình bày, về hành văn cho sáng sủa mang tánh chất văn chương, có những quyển đã tái bản 15 hay 20 lần, nhưng nó cứ y: ‘’Bổn cũ soạn lại‘’, nhiều lầm lỗi đáng trách, như tập Hậu Vân Tiên có hình của Nhà Xuất bản Phạm Văn Cường, in trọn trang 22 cũng là trang chót, in nhầm một đoạn của truyện Lục Vân Tiên từ câu 1943 đến câu 1996, cho nên bản Hậu Vân Tiên nầy không có đoạn chót.
Các nhà xuất bản cũng không sữa chửa lỗi chánh tả, vì chữ Quốc ngữ lúc còn phôi thai, chánh tả chưa phân minh hoặc do thợ nhà in sắp chữ sai.
Ngày nay muốn nghiên cứu về thơ, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn do các nhà xuất bản không chú trọng về sản phẩm của họ, trước năm 1975 nhà phát hành Phạm Văn Cường, 171 Khổng Tử, Chợ Lớn vẫn còn in ấn phát hành các lọai Thơ, Truyện, Tuồng. Nhưng độc giả đã hiếm rồi, sách in giấy xấu, khó lưu trữ, sau nầy sưu tập sẽ hết sức khó khăn.
IV Kết luận
Sau khi nghiên cứu qua thơ, chúng ta thấy rằng nó đã được phổ biến một cách rộng rãi trong giới bình dân, vì từ ngữ và nội dung thơ mang tính chất bình dân, đặc trưng nầy không thể phủ nhận được.
Theo luật cung cầu tự nhiên, giới bình dân thuở trước giải trí khi làm việc thì có câu hò, giọng hát, lúc ngày mùa nhổ mạ, cấy lúa, gặt hái, những đêm trăng thanh gió mát, xay lúa giả gạo. Lúc nhàn rỗi nằm nghe kể chuyện đọc thơ, thỉnh thoảng xem hát bội ở đình làng. Những thứ giải trí ấy, không chỉ thuần tính chất giải trí, nó còn mang tính cách giáo dục nữa.
Chúng ta có dân tộc tính, nhưng không thể chối cải ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài của tư tưởng học thuật Trung Hoa đối với đời sống tinh thần và vật chất của người Việt Nam, dân tộc chúng ta luôn luôn chống tính đồng hóa của người Trung Hoa, nhưng chấp nhận thu thái những tinh hoa văn hóa Trung Hoa và Ấn Ðộ và các nước khác. Cho nên quan niệm ‘’Văn dĩ tải đạo‘’ của Hàn Dũ, vẫn là quan niệm hàng đầu của những nhà văn thuở trước, điều nầy trong một số tập thơ cũng có nhắc tới như:
Trời kia hữu nhãn rất tài,
Bao giờ nở phụ độc rày thơ nhơn.
Tích xưa truyện cũ đành rành,
Cho hay muôn việc học hành phải lo.
(Trần Minh Khố Chuối của Nguyễn Bá Thời)
Xem qua tích cũ ngậm ngùi,
Chí công thiên địa đầu đuôi tích này.
Thiện ác hữu báo cho hay,
Khá xem chuyện cỗ người nay giữ mình.
(Hậu Thạch Sanh của Nguyễn Bá Thời)
Ở cho biết ngải biết nhân,
Biết Trung biết hiếu quỷ thần cũng kiên.
Tu nhơn tích đức lòng hiền,
Lễ nghi trọn giữ lòng thiền hiếu trung.
(Mục Liên Thanh Ðề của Bà Huỳnh Kim Danh)
Hiếu trung người thế giữ toàn,
Theo hiền lánh dữ tầm đàng chánh ngay.
Hoàng Trừu dứt tích từ đây,
Giúp chư liệc vị giải khuây đêm tràng.
(Hoàng Trừu của Nguyễn Bá Thời)
Ðến đây chúng ta đã thấy quá trình của chữ Quốc ngữ nó đi từ phiên âm đến ghép câu, điển chế, báo chí, diễn ca rồi nó sẽ đi đến dịch truyện Tàu và sáng tác tiểu thuyết sau nầy.
Thơ đã trải qua giai đoạn phát sinh, hiện hữu và suy tàn, nó đã làm tròn nhiệm vụ một cách xứng đáng. Nó đã để lại trong văn học miền Nam một thời kỳ, như một cành hoa cỏ dại nở ven cánh rừng, bởi vì nó là giai đoạn chập chửng, dò dẫm từng bước, để tiến nhanh khi đến giai đoạn trưởng thành của chữ Quốc ngữ.
Ðứng về mặt văn hóa, thơ là bước đầu tiên rồi sang truyện Tàu là nền tảng để xây dựng cho tiểu thuyết sau này, kể cả các mặt sáng tác và thưởng ngoạn, thơ đã góp phần vào nền văn hóa đặc thù miền Nam.
Ngày cuối năm 2000
Ghi chú:
1.- Một số soạn giả còn được ghi trên các quyển thơ tái bản sau này.
2.- Nguyễn Bá Thời, Phạm Công Cúc Hoa, trang 11, Nhà Xuất Bản Thuận Hòa, Sàigòn, Việt Nam.
3 & 5.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
4.- Ðặng Lễ Nghi, Chiêu Quân Cống Hồ, trang 9, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, Việt Nam.
3 & 5.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
6.- Bà Huỳnh Kim Danh, Dương Ngọc, trang 2, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
7.- Nguyễn Bá Thời, Hoàng Trừu, trang 11, NXB Phạm Ðình Khương, Sàigòn, Việt Nam.
8.- Nguyễn Văn Khỏe, Trần Minh Khố Chuối, trang 5, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn,Việt Nam.
9 & 10.- Nguyễn Văn Khỏe, Trần Minh Khố Chuối, trang 13, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, Việt Nam.
9 & 10.- Nguyễn Văn Khỏe, Trần Minh Khố Chuối, trang 13, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, Việt Nam.
11.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
12.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm sanh Xuân Nương, trang 16, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
13.- Bà Huỳnh Kim Danh, Dương Ngọc, trang 2 NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam. 1958.
14.- Nguyễn Văn Khỏe, Trần Minh Khố Chuối, trang 16, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, Việt Nam.
15.- Bà Huỳnh Kim Danh, Nàng Út, trang 7, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, Việt Nam.
Huỳnh Ái Tông
 Theo http://chimviet.free.fr/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản ở Việt Nam trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI Trong 20 năm đầu thế kỷ XXI, văn học Nhật Bản vẫn ...