Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

Vì sao nhà Táo quân hai ông chỉ có một bà

Vì sao nhà Táo quân 
hai ông chỉ có một bà?
Thế gian một vợ, một chồng
Chẳng như vua bếp, hai ông một bà

Gia cảnh “tréo ngoe” của nhà Táo từ lâu đã được dân ta đem ra răn dạy nhau, ăn ở vợ chồng phải có trước có sau, thế gian chỉ có tồn tại mối quan hệ một vợ một chồng mà thôi. Thế nhưng hình ảnh hai ông một bà hóa ra lại có ý nghĩa sâu sắc hơn nữa mà vô tình hay hữu ý lại trùng khớp với những nguyên lý cổ xưa của học thuật Đông phương đầy huyền bí.
Có khá nhiều những tích truyện về việc vì sao nhà Táo lại có hai ông, một bà. Nhưng tựu trung lại, các câu chuyện đều có điểm chung về việc một người phụ nữ bị chồng đuổi đi hoặc giận chồng bỏ nhà đi rồi bằng lòng về làm vợ một người đàn ông khác đã cưu mang mình. Người chồng cũ sau này đã hối lỗi và tìm lại được vợ mình. Hai người đang nói chuyện thì người chồng mới về.
Để giữ phẩm hạnh và hạnh phúc cho vợ cũ, người chồng trốn vào đống rơm và chịu bị chết cháy chứ không nhảy ra khi người chồng mới đốt đám rơm để lấy tro bón ruộng. Người vợ thấy chồng cũ chết thì cũng thương tiếc mà nhảy vào đống lửa. Người chồng mới không hiểu chuyện gì nhưng thấy vợ lao vào thì cũng lao theo để rồi cả ba cùng chết cháy trong lửa nóng.
Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, nên cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi, bằng cách hóa phép cho ba người thành “ba đầu rau” hay “chiếc kiềng 3 chân” ở trong mọi căn bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông coi, giám sát phẩm hạnh của con người.
Một câu chuyện cảm động về tình nghĩa phu thê, thế nhưng nếu lấy hình ảnh gia đình một bà hai ông làm biểu tượng cho căn bếp, nơi giữ lửa cho hạnh phúc gia đình, thì cũng không hợp lý lắm vì nó trái ngược lại với mọi quan niệm đạo đức của người xưa. Vậy thì vì lý do gì, nó lại được lưu truyền qua bao đời như vậy?
Gia cảnh “độc nhất vô nhị” của nhà Táo 
với hai ông một bà. (Ảnh: Vietnam Architecture)
Táo Quân và Kinh Dịch
Cái chết của ba người cũng rất phi lý và dường như thiếu tính nhân văn đối với một câu chuyện về chữ “tình”. Có thể người xưa muốn dùng hình ảnh cụ thể để truyền tải một thông điệp nào đó. Cũng giống như những dự ngôn hay lời sấm truyền đều rất khó hiểu, những bài học của người xưa chắc hẳn đều không thể nông cạn, dễ hiểu.
Người ta lý giải rằng, chiếc bếp ba chân có trong mọi gia đình Việt xưa hay còn gọi là ba ông đầu rau, có một chiếc đầu rau ở giữa có cái lỗ lõm vào chỗ ngang người. Cái lỗ đó thường cho là cái lỗ rốn và chiếc đầu rau có rốn để ở giữa là bà Táo. Hai cục hai bên không có rốn là hai ông táo.
Người ta lý giải rằng, chiếc bếp ba chân có 
trong mọi gia đình Việt xưa hay còn gọi là 
ba ông đầu rau. Ảnh: Truyenxuatichcu.
Những người yêu thích và hiểu biết về Kinh Dịch nhận ra sự tương đồng và liên hệ rằng đây chính là biểu tượng của quẻ Ly. Quẻ này gồm hai hào dương kẹp một hào âm ở giữa. Nếu viết theo Việt Dịch Nòng Nọc thì hai hào dương là hai cái que và hào âm ở giữa là một vòng tròn: IOI. Cái rốn ở chiếc đầu rau Táo bà chính là hào âm hay vòng tròn.
Quẻ Ly là quẻ thuần thứ tám, tượng trưng cho mặt trời, cho lửa. Nên có thể nói hình ảnh hai dương kẹp một âm ở giữa là biểu tượng của căn bếp luôn ấm lửa trong mọi gia đình hạnh phúc.
Chủ của quẻ Ly là hào âm mềm ở chính giữa, cho nên lời hào hàm nghĩa rằng phải “lấy mềm làm chính”. Vương Bật đã từng nói: “Quẻ Ly, lấy mềm làm chính, cho nên tất phải chính bền, rồi sau mới hanh thông, cho nên nói ‘lợi trinh, hanh’ vậy”.
Điều này lại vô cùng phù hợp với quan niệm về một gia đình hạnh phúc của người xưa. Trong gia đình, người phụ nữ lo giữ gìn sự êm ấp bằng chính sự nhu thuận, mềm mại của mình.
Người xưa ví rằng, người vợ phải giống như nước, ở vào vật chứa hình vuông thì sẽ có hình vuông, vật chứa hình tròn thì cũng là hình tròn. Phải thích ứng được mọi hoàn cảnh, giàu nghèo, cao thấp. Người vợ giống như nước, có thể nuôi dưỡng được vạn vật mà lại không cùng vạn vật tranh chấp, luôn ở chỗ trũng nhất, khi đến chỗ thấp thì chảy xuống. Nhún mình xuống để nâng gia đình lên.
Dòng nước gặp chướng ngại vật cũng sẽ tự biết tránh, không đối đầu, thế nên vĩnh viễn nước không bị ngăn cản. Đối diện với người đàn ông giận dữ, người phụ nữ dịu dàng biết đối nhân xử thế, có thể lấy nhu mà thắng cương. Người vợ cũng lại ví như Đất, khiêm nhường, bao dung, bởi Đất ở tại vị trí của cung Khôn, lấy đức dày mà chở che được vạn vật vậy.
Trong “Nữ giới” sử học gia Huệ Ban viết: “Đặc tính âm - dương hai bên là bất đồng, hành vi nam - nữ cũng có sự khác biệt. Dương tính lấy cương cường làm phẩm cách, âm tính lấy ôn nhu làm biểu trưng; nam nhân lấy cường tráng làm cao quý, nữ nhân lấy mềm yếu làm mỹ lệ”.
Thế nên với những việc đối nội trong gia đình, dù người chồng có tài giỏi, chu toàn đến mấy, thì người vợ vẫn là người nắm giữ vượng khí của gia đình. Lấy sự mềm mại của mình để tạo nên cái gốc chính bền của gia đình, rồi từ đó mọi sự mới có thể hanh thông. Vậy nên mới có câu người phụ nữ chính là phong thủy của gia đình.
Người vợ giống như nước, có thể nuôi dưỡng được vạn vật mà lại không cùng vạn vật tranh chấp, luôn ở chỗ trũng nhất, khi đến chỗ thấp thì chảy xuống. Nhún mình xuống để nâng gia đình lên. (Ảnh: Pinterest)
Quẻ Ly cũng lại có một ý nghĩa khác vô vùng sâu sắc. Lý Đỉnh Tộ dẫn Tuân Sảng viết: “Âm lệ thuộc dương, lệ thuộc lẫn nhau vậy, cũng có nghĩa là biệt li, tách âm và dương vậy. Ly có nghĩa là lửa, do mộc mà có, tức là phải lệ thuộc mộc vậy. Nhưng khi đã cháy xong, thì khói bay lên trời, tro than xuống đất, đó là chuyện chia cách âm dương vậy”.
Quẻ Ly tượng trưng cho sự phụ bám, người vợ nương tựa vào chồng, người chồng nhờ vợ mà yên tâm lo việc lớn. Hai vợ chồng âm dương lệ thuộc lẫn nhau. Gia đình yên ấm thì mọi sự hanh thông. Ăn ở với nhau có tình có nghĩa, có trước có sau đó là Đạo làm vợ chồng.
Thế nhưng khi tới lúc phải chia lìa cách biệt, khi ngọn lửa ấm áp của căn bếp nơi giữ gìn hạnh phúc cháy xong, thì khói bay lên trời, tro than xuống đất. Đó là quy luật của Đất Trời, không thể níu giữ, không thể cưỡng cầu bám víu, cũng không thể bi lụy mà giày vò cả phần đời còn lại.
Phàm là quy luật của Đất Trời, con người chỉ có thể tuân theo, không thể oán trách và tiếc nuối. Vợ chồng dù đã từng nồng ấm, keo sơn, thì tới khi “Trời gọi ai người nấy dạ”, người ở lại cũng đừng vì thế mà đau khổ trầm luân, vùi mình vào nỗi buồn mà chẳng thể thay đổi được điều chi.
Hình ảnh của ba ông đầu rau, hai ông một bà tréo ngoe của gia đình Táo lại phù hợp một cách bất ngờ với ý nghĩa của quẻ Ly. Đã sống với nhau nhờ duyên phận vợ chồng, thì phải lệ thuộc vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau cho chọn nghĩa, vẹn tình.
Trong gia đình phải lấy sự nhu mềm làm chính thì mọi sự sẽ hanh thông. Đừng như ông Táo nặng lời, cũng đừng như bà Táo không đủ vị tha và nhu thuận nhún mình như nước mà bỏ đi. Đã là vợ chồng một đời là vợ chồng. Bà Táo ăn ở với người khác trong khi nghĩa tình chưa dứt với chồng cũ, và cũng bởi quyến luyến, bi thương nên cả ba đã phải chết trong ngọn lửa.
Vợ chồng ở với nhau ở sự nhu mềm, 
thông cảm thì mọi việc sẽ trong ấm ngoài êm. 
(Ảnh: docbao.vn)
Nguồn gốc phương Nam
Đó giống như một lời nhắc nhở mãi vẫn còn đúng cho tới ngày nay. Thế nhưng tục lệ Táo quân của người Việt thì liên quan gì tới Kinh Dịch của người Hoa? Giới cổ học có giả thuyết rằng Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư, thuyết âm dương ngũ hành và Kinh Dịch là có nguồn gốc từ các bộ lạc phía nam sông Dương Tử cổ đại.
Theo Lĩnh Nam Chích Quái của tác giả Trần Thế Pháp, một danh sĩ đời nhà Trần (1226-1400), người dân Việt được cho là con Rồng cháu Tiên có nguồn gốc ở cánh đồng Tương, Sông Tương, một chi lưu chính của sông Dương Tử. Các tộc Việt trước đây cũng sinh sống trải dài từ phái nam sông Dương Tử cho tới phái bắc Việt Nam ngày nay.
Nên cũng có thể người Việt đã từng cùng chia sẻ những kiến thức Đông phương cổ xưa có nguồn gốc từ phía nam sông Dương Tử. Thậm chí nhiều nhân sĩ đã đưa ra giả thuyết về việc chính tộc Việt là chủ nhân của những kiến thức huyền bí này.
Người Hoa cũng có ông Táo, có trên 40 loại dị thoại nhưng không có câu chuyện nào giải thích về cấu tạo của bếp lò phù hợp như Táo Quân của người Việt. Dù nguồn gốc câu chuyện về Táo Quân là như thế nào, nhưng người Hoa hạ và các tộc Việt xưa đều kính ngưỡng Thần linh, thể hiện qua tục lệ rước, tiễn Táo Quân.
Do Tin tưởng rằng Táo Quân giám sát nhất cử nhất động của gia đình trong một năm, đến ngày 23 tháng Chạp phải lên Thiên đình để báo cáo. Nên mọi người tự nhiên sẽ kiềm chế bớt hành vi xấu, ác của bản thân mình, chăm lo cho gia đình vẹn toàn, an hòa.
Người thời nay, vì chẳng sợ ai giám sát, chẳng màng tới sự trừng phạt của Thiên Địa mà việc gì cũng dám làm. Cũng lại vì đã quá xa rời hay không hiểu được hàm nghĩa của những hình ảnh mang tính biểu tượng đầy ý nghĩa mà người xưa để lại, nên người ta chỉ cúng kiếng cho lành, cho may.
Thậm chí họ còn “đấm mồm, đấm miệng” ông Táo bằng những vật phẩm như mía ngọt để ông có lên bẩm tâu gì với Ngọc Hoàng thì cũng lựa lời mà nói. Thần linh là để ước thúc con người, chứ đâu có vì lợi lộc mà hạ mình xuống như người phàm vậy.
Một năm cũ nữa lại sắp qua đi, hy vọng trong những ngày tất bật này, thay vì chỉ lo mua sắm, sửa sang, cúng bái cho đúng bài, cho có kiêng có lành. Thì mọi người trong chúng ta cũng hãy dành một vài phút để nghĩ suy về cái đạo làm vợ làm chồng. Về ý nghĩa nhân sinh quan vô cùng sâu sắc từ câu chuyện của gia đình bà Táo và hình ảnh ba ông đầu rau tương tự như quẻ Ly đầy nội hàm.
1/4/2011
Thuần Dương
Nguồn: DKN.tv
Theo https://www.daovien.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  “Gió Cửa Hà” - Những ký ức còn nguyên thổn thức “Gió Cửa Hà” dập dềnh những nỗi niềm. Tâm sự ấy là của một nhân vật trữ tình muốn bộc bạ...