Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Xứ trầm hương 2

Xứ trầm hương 2

PHẦN THỨ BA

THẮNG CẢNH CỔ TÍCH
Tháp Bà. (Ảnh sưu tầm)
Để giúp cho khách du lịch đến Khánh Hòa biết qua những nơi nào nên đến viếng, người địa phương có bài hát rằng:
Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà.
Muốn trông trời biển bao la,
Con thuyền nho nhỏ bơi ra Hòn Chồng.
Muốn xem cá lạ biển đông,
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây.
Muốn vui cùng nước cùng mây,
Mây trùm Suối Ngổ, nước đầy Suối Tiên.
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên,
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.
Lòng mong nương bóng bồ đề,
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang.
Những nơi kể trong bài hát là những nơi chân người nhàn du thường lui tới. Sự thật, thắng cảnh của Khánh Hòa không phải chỉ có thế mà thôi. Những cảnh núi non sông suối, đâu đâu cũng đều có những đặc điểm, những kỳ thú đối với những người có đôi mắt mỹ thuật, có tấm lòng rảnh lợi danh.
Nhưng dù lòng rảnh lợi danh đi nữa, cũng ít người có đủ thì giờ để đi xem khắp non nước Khánh Hòa. Cho nên phần đông đành theo lời hướng dẫn trên mà đi viếng cảnh, kẻ theo thứ tự trong bài hát mà đi, người tùy theo chỗ thuận tiện, tùy theo phương tiện. Song trước khi đi xa, không mấy ai không tìm hưởng những cái đẹp cái thú ở ngay trước mặt: Nha Trang.
I
NHA TRANG
A.
Tại sao lại gọi là Nha Trang?
Có người bảo rằng:
- Xưa kia nơi đây chỉ toàn nhà tranh vách đất. Riêng tòa nhà của Bác sĩ Yersin bằng gạch ngói đồ sộ và quét vôi trắng. Người ngoại quốc đi ngang qua biển Cù Huân, trông thấy đất liền, hỏi là xứ gì. Người thông ngôn thoáng thấy nhà Bác sĩ Yersin trăng trắng bèn đáp “Nhà Trắng”. Người ngoại quốc mới ghi vào địa đồ, nhưng vì chữ Âu Châu không có dấu, nên ghi là “Nha Trang”.
Đó là câu chuyện hài hước bày đặt ra để nhạo những ông thông dịch viên ít học. Chớ tên Nha Trang đã có từ khi nước Việt Nam chưa sản xuất những ông thông dịch viên mà xưa kia gọi là Thông Ngôn, và trước khi người Âu Châu sang Á Đông tìm thuộc địa.
Nha Trang do chữ Chàm Ea Tran hay Yjatran mà ra [1]. Trong các sách viết trước thời Pháp thuộc, đã dùng đến. Như trong tập “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Siêu đời Tự Đức, nói về tỉnh Khánh Hòa, ghi rõ rằng: “Năm Quý Sửu đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Quy Nhơn, lúc ban sư đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên hiểm, tục gọi là Nha Trang thành.” [2]
Như thế, Nha Trang dùng gọi thành Diên Khánh từ thời Gia Long và mới dùng gọi tỉnh lỵ từ ngày Pháp đặt nền đô hộ ở Trung Việt.
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Cao Xuân Dục soạn triều Duy Tân cũng có nói đến Nha Trang. Song không phải tên thành phố mà tên một nguồn của con sông Cù Giang: Nguồn Nha Trang. [3]
Như thế nhất định Nha Trang không phải do Nhà Trắng mà ra vậy.
B.
Nha Trang không phải là một thành phố thương mãi, mà là một thành phố du lịch, một thành phố thừa lương. Cho nên muốn thưởng thức cảnh thú của Nha Trang phải tìm nơi thiên nhiên chớ đừng tìm nơi nhân xảo.
Thành phố Nha Trang thời Pháp thuộc chỉ bằng một phần ba thành phố hiện thời. Phố xá và gia cư của người Việt người Tàu chen chúc từ ga xe lửa đến Chợ Đầm (tức chợ cũ Nha Trang). Còn người Pháp ở dọc theo bờ biển, từ tòa Sứ (tức tòa Hành Chánh hiện nay) cho đến Đại Khách Sạn (Grand Hôtel).
Vùng Mả Vòng chưa có nhà cửa. Truyền rằng xưa kia là vùng cổ mộ nằm trong một vòng thành xây bằng đá núi, hình nguyệt mãn, cao đến rún. Trông đã xưa lắm nhưng vẫn còn nguyên vẹn dưới nhiều lớp rêu xanh. Đi lại đi qua, người ta tránh ra một phía. Đến khi người Pháp mở đường Quốc Lộ số 1, mới dời mộ đi nơi khác và phá hủy vòng thành. Nơi nầy rất nhiều ma. Sau khi mả đã dời rồi mà người ở quanh vùng vẫn thường thấy bóng ma thấp thoáng, và những đêm trăng mờ gió lạnh lại còn nghe tiếng than khóc não nùng. Cho nên khi mặt trời đã chìm tây thì ít người dám lai vãng.
Vùng Phước Hải cũng là vùng hoang vắng. Nhà cửa thưa thớt. Một phần lớn diện tích là rừng hoàng mai. Mùa xuân hoa nở ánh cả vùng. Nhưng không có người đến chặt về cắm bình hoặc thưởng cảnh. Vì cọp ở Đồng Bò thường ra để kiếm mồi.
Vịnh Nha Trang, nhà Nho Thuần Phu Trần Khắc Thành có câu: [4]
Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt,
Phước Hải rừng xuân cọp thưởng mai.
Tuy là ngụ ý châm biếm nhân vật đương thời, câu thơ vẫn cho chúng ta thấy rõ quang cảnh Nha Trang thời người chưa đông đất còn trống.
Trong bài Tặng Biệt của một nhà chí sĩ làm vào khoảng Thành Thái Duy Tân (1889-1916) có câu:
Đại Lãnh văn viên cô nguyệt hạ,
Nha Trang xạ hổ loạn vân gian
Nghĩa là:
Đại Lãnh nghe vượn, lạnh lẽo bóng trăng soi
Nha Trang bắn hùm, rộn ràng tầng mây thẳm.
Câu này chứng minh rằng chuyện cọp ra Rừng Mai Phước Hải là chuyện thật vậy.
Bên cạnh rừng mai, còn có rừng dương liễu. Rừng có hai cánh, một trải trên vùng hỏa xa hiện thời, một giăng từ sân tàu bay hiện thời cho đến Chụt.
Cũng như rừng mai Phước Hải, rừng dương liễu là một giai cảnh của Nha Trang. Rừng mai phơi vàng, rừng dương buông lục. Nhưng rừng mai chỉ đẹp về mùa xuân. Còn rừng dương bốn mùa đều đẹp. Một bên do trời sanh và không có người chăm sóc. Một bên do người trồng và được sở kiểm lâm trông coi. Cho nên khi rừng mai đã bị phá để lấy củi hoặc lấy đất, thì rừng dương liễu vẫn còn tươi tốt cho đến ngày nổi chiến tranh. Nhưng, hiện nay cả hai chỉ lưu lại hình bóng mơ màng trong những vần thơ thời Tiền Chiến:
- Biển Én sóng vờn trăng thúy liễu, [5]
Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai.
- Nước non vẫn thắm mày dương liễu,
Mưa nắng riêng gầy vóc lão mai.[6]
Và trải bao nhiêu gió sương, tình vẫn còn đượm đà trong bài:
NHA THÀNH MAI LIỄU
Mấy xuân mai liễu sum vầy,
Liễu mai còn đó xuân này vắng ai!
Đeo sầu gầy gọ vóc mai,
Nhớ thương tóc liễu biếng cài mái xanh.
Gió hương thổi khắp Nha Thành,
Chiêm bao luẩn quẩn bên mành trăng soi!
Lượng xuân chẳng lẽ hẹp hòi,
Để cho mai liễu thiệt thòi tuổi xuân!
(Trường Xuyên)
Rừng mai có trước rừng dương liễu đã lâu đời. Nhưng đến khi có người biết đến chân giá trị thì rừng mai chỉ còn lưa thưa vài ba gốc, lại ở trong nơi xa xôi hẻo lánh không tiện đường tới lui. Bởi vậy nên tiếng không được nổi bằng rừng dương liễu nằm ngay bên đường quan lộ, ngày ngày không ngớt kẻ lại qua.
Cùng rừng dương liễu làm cho Nha Trang nổi danh là “Vùng cát trắng dương xanh” trong toàn quốc:
Về vùng cát trắng dương xanh.
Cho đây gởi gắm tâm tình chút nao?
Từ phen biển dậy ba đào,
Non xa ngắm bóng trăng sao ngại ngùng.
(Nhắn bạn Nha thành T.X.)
Đó là bãi biển Nha Trang vậy.
Bãi biển Nha Trang, theo lời du khách đã ra Bắc vào Nam, thì là một bãi biển đẹp nhất trong toàn quốc.
Bãi biển vừa rộng vừa dài. Hình giống một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra Xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng.
Cát vừa trắng vừa mịn như đường cát trắng Đồng Xuân ở Phú Yên. Rờ vào nghe mát rợi. Cho nên có bài hát rằng:
Bãi biển Nha Trang: mịn màng trắng trẻo,
Trăng trong leo lẻo, Gió mát thanh thanh.
Đêm đêm thơ thẫn một mình,
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây.
Tự bản thân, bãi biển trông đã đa tình đã quyến rũ, huống hồ còn được nhiều cảnh vật bên ngoài điểm xuyết thêm: Những khóm dừa xanh đứng ngay hàng, làm tàn che nắng ban trưa, che sương ban tối... Những bồn hoa tư mùa xanh tốt, những biệt thự có vườn tược bao quanh, những rừng dương liễu linh động nhưng yên lành, chạy dọc theo con đường Duy Tân ven biển; những cảnh nhân tạo trong thiên nhiên ở phía Đông Nam: ngọn Cảnh Long với những lâu đài ẩn hiện trong cây đá; những ngọn núi ở tận ngoài xa xôi nhưng trông như gần gũi, trùm bóng lên dãy núi Cù Lao thâm thấp ở phía Đông Bắc và lác đác nơi sườn màu ngói đỏ màu vách trắng của dãy Nhà Dòng Phan Xi Cô (Fancico), nhà dòng La San. Và ngay trước mặt ở phía Đông, những hòn lao xanh, hòn to hòn nhỏ, hình thù khác nhau sắc thái khác nhau, nổi trên mặt sóng xanh, dựa vào lưng trời xanh, man mác bát ngát... Khung cảnh ấy làm nổi bật bãi cát trắng trẻo, mịn màng..., làm cho bãi cát đã có duyên càng thêm duyên, đã có sắc càng thêm sắc, giá trị gia tăng bội phần.
Một nhà thơ ví bãi biển Nha Trang với một giai nhân dòng cự tộc. Giá trị chẳng những ở tư đức tư dung, mà còn ở nơi gia đình, nơi họ hàng bên nội bên ngoại.
Và vẻ đẹp của bãi biển Nha Trang, giá trị của bãi biển Nha Trang mỗi lúc mỗi khác.
Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ ảnh hưởng, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy.
Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những người đứng canh giữ.
Buổi chiều, tất cả biển trời cây đá đều trở thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa.
Còn bãi biển là một tố nữ trần thân nằm im lìm ngắm cảnh giàu sang của trời tặng.
Ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân. Và ánh đèn câu ngoài khơi lại làm giàu thêm cho cảnh.
Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương.
Nếu trời không trăng, thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích bảo hoàng bảo, một nửa trải dưới nền một nửa phất trên trần, trong một đền thờ của người Ấn.
Ngắm cảnh giàu sang lúc ban đêm không phải là bãi biển như lúc ban ngày, mà chính là du khách, du khách ưa thích cảnh giàu sang mà không bao giờ muốn chiếm hữu.
Ngoài cảnh đẹp thiên hình vạn trạng của thiên nhiên, bãi biển Nha Trang còn có gió mát.
Bãi biển nào lại không có gió mát?
Đúng vậy, nhưng gió Nha Trang có một khí mát đặc biệt, một khí mát dịu dịu, êm êm..., một khí mát “trung hòa” của ngà voi, của đá cẩm thạch, khác với khí mát của Vũng Tàu, của Quy Nhơn, của Sầm Sơn, của Hạ Long..., nơi nào cũng có phần “quá khích” hoặc nhiều hoặc ít, chứ không mấy nơi “theo đúng thuyết Trung Hòa của Đông phương”.
Thú vị nhất là gió buổi trưa mùa hạ.
Nằm dưới bóng xoan nở đỏ, hoặc dưới bóng dừa buông xanh, nhìn ra biển khơi, du khách có cảm giác đương nằm dưới gốc cây đa, cây sanh ở thôn quê, nhìn ra đồng lúa mới chín tới, bên trên vàng ánh, bên dưới xanh um, và ngọn nồm thổi qua, sóng chao vàng xanh lẫn lộn.
Trong khí mát lại dường như có chất bổ. Người đương mệt mỏi, ra ngồi nơi bãi trong giây lát thì tâm thần liền thấy dễ chịu ngay. Cho nên người ở bốn phương thường lấy Nha Trang làm nơi dưỡng bệnh.
Nhưng quang cảnh ấy, phong thú ấy, là quang cảnh phong thú ngày xưa, ngày mà “vùng trời đất chưa nổi cơn gió bụi”. Chớ hiện nay, những bồn hoa không còn tốt tươi, những rừng dương đã bị đốn trụi. Và trên bãi biển, mấy chục quán “bar” đã chiếm hết những “yếu điểm”, đã làm thương tổn vẻ đẹp thiên nhiên bằng những kiến trúc phản nghệ thuật, đã làm ô uế cát trắng nước trong bằng những đồ thừa thãi, đồ cặn bã của thú ăn chơi.
Dù yêu phong cảnh đến đâu cũng không ai dám ra nằm lăng trên bãi cát để “ôm gió nước vào lòng”, hoặc để tưởng mình đương nằm dính lưng vào lưng trời, nhìn xuống biển khơi xem đèn câu lấp lánh.
Một đôi khi quên cảnh trước mặt, dấn bước đi lang thang, thì hoặc ít hoặc nhiều. Thế nào chân cũng dậm phải ruột gan của đám người lấy huỳnh kim làm lý tưởng.
Bãi biển Nha Trang hiện thời thật chẳng khác một cô xuân nữ bị cưỡng bách vào thanh lâu, mà những quán “ẩm thực” kia là những mụt phong tình mọc trên tấm thân ngà ngọc.
Mong một ngày nào đó Long Vương sai sóng thần lên quét sạch những xú uế, để cho bãi Nha Trang lấy lại quang cảnh và phong phú của nghìn xưa. Ngày đó chắc không lâu, vì điềm thái hòa đã ứng lên những mụt tường vân ngoài biển.
C.
Cuộc Đất của Nha Trang, theo các nhà Phong Thủy tức Thầy Địa, là một đại cuộc: Tứ thủy triều quy, tứ thú tụ.
Tứ thủy triều quy là bốn mặt có nước bao bọc:
Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha Trang, phái chảy vào Cửa Bé, phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng lấy cuộc đất, mà phía Đông là biển khơi.
Tứ thú tụ là mượn bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tụ hợp lại để giữ gìn anh khí:
- Núi Cảnh Long ở Chụt là Con Rồng. Vì núi chạy dài từ Cửa Bé ra Cầu Đá dọc theo mé biển và đến Cầu Đá núi lại chạy thẳng ra biển, nên gọi là “Thanh long hý thủy” nghĩa là Rồng xanh giỡn nước [7].
- Hòn Sanh Trung ở Hà Ra là Con Voi. Vì núi đứng cạnh đầm Xương Huân, nên gọi là “Bạch tượng quyện hồ” nghĩa là voi trắng cuốn hồ 2.
- Hòn Trại Thủy là Con Giơi. Vì trước núi, tại “đầu giơi” có một bàu nước hình tròn như nguyệt 3 nên gọi là “Ngọc Bức hàm hoàn”, nghĩa là Giơi Ngọc ngậm vòng.
- Hòn Hoa Sơn, tục gọi là Núi Một, ở Nha Trang Tây, đường Phước Hải, là Con Rùa. Vì trên núi có ngọn cổ tháp, nên gọi là “Kim quy đới tháp”, nghĩa là Rùa Vàng đội tháp.
Cuộc đất phát đại phú đại quý.
Nhưng rồi phái Nam sông Nha Trang bị lấp, cổ con thanh long và con kim quy bị cắt, long mạch bị tổn thương. Long mạch mới bị tổn thương chớ chưa dứt hẳn, nên nhân dân sở tại dù không phát đại phú đại quý, nhưng vẫn sung túc phong lưu, và trải bao phen khói lửa dậy nơi nơi, Nha Trang vẫn được yên ổn hơn đâu hết.
Bốn “Con thú” của cuộc đất cũng là bốn thắng cảnh của Nha Trang.
Ba cảnh Thanh Long, Bạch Tượng, Ngọc Bức chúng ta đã thưởng thức khi đi dạo núi sông.
Ở đây xin nói riêng về cảnh Kim Quy.
Kim Quy hiện nay đã biến dạng hẳn.
Con đường Phước Hải đã chia khúc đầu và khúc mình con rùa ra làm hai. Khúc đầu bị đào phá không còn ra dáng ra hình gì cả. Còn khúc mình thì đã đẽo thành một con dấu hình thuẫn úp sấp.
Trên đầu rùa còn một cổ tháp.
Trên mình rùa đứng sừng sững ngôi nhà thờ Nha Trang.
Đời Lê Cảnh Hưng (1740-1786) núi Hoa Sơn còn hình Kim Quy, một thiền sư pháp danh Phật Ấn đến cất một am tranh tu khổ hạnh. Năm Bính Ngọ (1786) thiết hỏa đàn trà tỳ [8]. Đệ tử thâu xá lợi lập Liên Hoa tháp [9].
Ngọn cổ tháp trên “đầu rùa” là tháp của thiền sư.
Khi người Pháp chiếm cứ Nha Trang, trên núi Hoa Sơn chỉ còn trơ trọi ngọn cổ tháp. Và nơi “cổ rùa” chỉ có một con đường nhỏ để vô ra. Mãi sau người cầm quyền mới đào sâu phá bằng để làm con đường Phước Hải.
Ảnh: Mai Lĩnh
Nhà thờ Nha Trang cất sau khi đã trổ con đường Phước Hải, vào khoảng 1930-1935. Người kiến lập là một nhà truyền giáo Pháp, linh mục Vallet.
Hiện nay là nhà Thờ Chánh Tòa của địa phận Nha Trang.
Kiến trúc ngôi nhà thờ Nha Trang không giống phần đông nhà thờ khác trong toàn quốc. Kiểu thức vừa cổ kính vừa tân kỳ. Tất cả vách, mái, nền, cột đều toàn xi măng. Và đứng chắc trên một đầu non, với “bộ áo xám tro”, hình tướng trông nửa như khiêm nhường, nửa như ngạo nghễ. Lại gần nhìn kỹ lại có vẻ nghiêm khắc cô cao. Nhờ những khóm trúc đào hoa nở quanh năm ở trước sân, nhất là khóm đa xanh mát đứng che Tiểu Vương Cung của đức Bà Maria ở đầu bậc cấp bước lên, làm cho “nét mặt” nhà Thờ bớt phần khô khan lạnh lạt.
Lầu chuông cao ngất!
Lên đứng nơi gác chuông nhìn ra bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nha Trang. Trông tới ngó lui, nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của vũ trụ.
Cho nên nhà Thờ Chánh Tòa Nha Trang cũng là một danh thắng của địa phương vậy.
II.
Xem xong các danh thắng trong thành phố, thì lần lượt đi thăm các nơi ngoài thành phố. Tiện đâu xem đó, không phân ranh giới thắng cảnh và cổ tích.
A.
Trước hết nên đi xem Tháp Bà, một nơi xưa cũng thật là xưa, mà đẹp cũng thật là đẹp, một nơi tiêu biểu nhất cho thắng cảnh cổ tích của miền Cát Trắng Dương Xanh.
THÁP BÀ
Ảnh: Mai Lĩnh
Tức là tháp thờ bà Thiên Y A Na, tiếng Pháp gọi là Poh Nagar.
Tháp xây trên một ngọn đồi trong vùng núi Cù Lao.
Núi cao chừng vài ba chục thước, hình như một chiếc nón lá úp sấp, cây cối tươi xanh. Phía Nam giáp sông Nha Trang, phía Tây và phía Bắc giáp núi và đồng bằng, trước mặt thì làng Cù Lao (Xóm Bóng) và biển Nha Trang.
Tháp gồm có bốn ngọn. Ba ngọn nhỏ một ngọn lớn. Ngọn lớn ở phía Bắc, cao đến 23 thước. Theo nhà khảo cổ Henri Parmentier thì tháp này do vua Chiêm Thành là Harivarman 1er xây vào đầu thế kỷ thứ IX. Còn các ngọn khác thì xây vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VIII.
Trong ngọn tháp lớn nhất thờ nữ thần xứ Kaut Hara (Cù Huân) là Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar) mà người Việt gọi là Thiên Y A Na.
Tượng nữ thần bằng đá xanh, cao lớn, ngồi xếp bằng trên một bệ cao rộng, cũng bằng đá xanh nguyên khối. Thần có 10 cánh tay. Hai tay đặt trên đầu gối, lòng bàn tay để ngửa. Còn tám tay khác thì giơ lên hình rẻ quạt và mỗi tay cầm một món binh khí, như đoản đao, giáo, ná, tên v.v... Y phục khắc theo kiểu chúng ta thường thấy ở các tượng đá của Chiêm Thành. Nghĩa là rất đơn giản: đầu đội mão triều thiên, nhọn như mũ vũ nữ Thái Lan thân chỉ che đôi mảnh xiêm y ở hạ thân và ở ngực. Nét chạm trổ cực kỳ tinh vi vừa sắc sảo vừa dịu dàng, trông như người sống. Nhưng rất tiếc là người Việt nam lấy sơn sơn mặt tượng, rồi vẽ mày vẽ mặt một cách vụng về, lại choàng vào thân áo cẩm bào đội lên đầu một chiếc ngọc miện, hoa hòe lòe loẹt, trông như một tượng gỗ, một tượng đất do thợ tay ngang tạc nên. Về mặt mỹ thuật thì bị giảm sút. Nhưng về tinh thần dân tộc thì gia tăng, vì tượng thần đã hoàn toàn Việt Nam hóa, trông vào không còn chút dấu tích gì về Chiêm Thành.
Thiên Y A Na có một sự tích ly kỳ. Truyền rằng:
Xưa kia tại núi Đại An (tức Đại Điền hiện tại) có hai vợ chồng ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất. Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chín mười tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi, hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.
Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đương nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.
Thái Tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nổi không giở lên, Thái Tử bèn lấy tay nhắc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì nhận thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.
Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem suốt mấy đêm liền không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và cho biết rõ lai lịch.
Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.
Thái Tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát”, liền cử lễ thành hôn.
Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.
Thời gian qua trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ.
Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm. Thiên Y bèn xây đắp mồ mả cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa: dạy cày cấy, dạy kéo vải dệt sợi..., và đặt ra lễ nghi... Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phú túc phong lưu. Công khai hóa của bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ.
Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.
Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây tháp tạc tượng phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên, tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.
Ở Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về, bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đến nơi thì bà đã về Bồng Đảo. Người Bắc Hải ỷ đông, hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối, bèn hành hung. Lại không giữ lễ, xúc phạm thần tượng. Nhân dân bèn thắp hương khấn vái. Liền đó gió nổi đá bay, đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải.
Sự tích này, cụ Phan Thanh Giản chép lại thành một bài ký và bố chánh sứ tỉnh Khánh Hòa là Nguyễn Quýnh khắc bia dựng phía sau tháp.
Nhưng đó là sự tích của người Việt Nam truyền tụng.
Sự tích của người Chiêm Thành khác hẳn:
Poh Nagar là một nữ thần do ánh mây và bọt nước biển biến sanh. Bà sinh ra với một tấm thân cân đối, một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời và chói rọi hào quang. Bà sinh ra tận ngoài biển khơi. Nước biển dâng cao đưa bà vào bến Yjatran. Sấm trời và gió hương nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Liền đó những khe suối trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống mừng Bà, và núi hạ mình thấp xuống để đón rước Bà. Bà bước lên bờ. Cây cong cành xuống sát đất để tỏ lòng thần phục. Chim muông kéo nhau đến chầu hai bên đàng cái. Và hoa cỏ vươn lên để điểm hương vào bước chân bà đi.
Đến Yjatran, Bà dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương kỳ nam, các giống gỗ quý và lúa bắp. Để cúng Trời, Bà tung lên mây một hột lúa. Lúa mọc hai cánh trắng như hai mảnh bạch vân, bay ở giữa không trung. Bà lại đốt một phiến trầm hương, khói thơm tỏa lên cao vút, đỡ hột lúa có cánh về dâng cúng Trời.
Nơi hậu cung Bà có 97 ông chồng. Nhưng chỉ có ông Pô Yan Amo là có uy quyền và được trọng vọng hơn cả. Bà sanh được 38 nữ thần, người nào cũng xinh đẹp. Song chỉ có 3 người được bà ban cho nhiều quyền phép là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih, nữ thần vùng Phan Rang, và Pô Bia Tikuk, nữ thần vùng Phan Thiết.
Ảnh: Huỳnh Nam

Sự tích Poh Nagar và sự tích Thiên Y A Na thật khác hẳn nhau.
Sự tích của người Chiêm Thành phản ảnh chế độ mẫu hệ của người Chàm ngày trước.
Sự tích của người Việt Nam biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm và cho chúng ta thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình gia đình nhiều lắm.
Bà Poh Nagar hay Thiên Y A Na thờ ở ngọn tháp chính, ở phía Bắc.
Ngọn thứ hai, ở chính giữa, thờ thần Cri Cambhu.
Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá hủy ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Tượng nhỏ, hiện còn tốt.
Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Thái Tử Bắc Hải, chồng bà Thiên Y A Na.
Ngọn thứ ba, ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ tượng Linga, biểu hiệu của thần Sandhaka.
Người Việt Nam bảo đó là đền thờ ông Tiều, nghĩa phụ bà Thiên Y.
Ngọn thứ tư, đứng phía sau tháp thờ bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng mà chỉ có đế thờ (có lẽ tượng bị thất lạc lúc người Ma Lai vào cướp phá). Tháp này thờ thần Ganeca.
Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Công Chúa Quý.
Còn hai tháp nữa cũng ở sau lưng dãy tháp trước, không biết rõ thờ vị thần nào của Chiêm Thành.
Người Việt Nam bảo đó là đền thờ bà Tiều, nghĩa mẫu của Bà Thiên Y, và hoàng tử Tri. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền và một số gạch vụn. Bà Tiều đưa về thờ chung cùng ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử đưa về thờ chung cùng Công chúa ở tháp thứ tư.
Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ, người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sân gỗ rộng. Vũ nữ và ca công lên ca múa trên sân gỗ. Thần trong tháp ngồi trông ra, nhân dân đứng dưới trông lên, đôi bên trông đều rõ. Nhưng đó là về thời người Chiêm Thành còn làm chủ đất đai. Từ ngày người Việt Nam thay người Chiêm Thành, thì những cuộc ca vũ tổ chức ngay ở trên sân tháp.
Bốn ngọn tháp Cù Lao, theo tên các vị thần, là đền thờ của người Chiêm theo đạo Bà La Môn. Bà Poh Nagar là một biến thân của thần Civa, một trong ba chúa tể vũ trụ của đạo Bà La Môn.
Nhưng từ khi tháp thuộc quyền sở hữu người Việt Nam các thần Bà La Môn nhường ngôi cho các vị thần Việt tịch và bà Chúa Xứ Poh Nagar hiển linh dưới danh hiệu Thiên Y A Na và nhận ân tứ của vua nước Việt.
Vua Gia Long phong tặng “Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đẳng Thần” và cắt dân làng Cù Lao ba người sung làm từ phu. Các đời vua sau, đời nào cũng có phong tặng.
Người địa phương, ngoài danh hiệu Thiên Y A Na, thường tôn xưng là “A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi” và gọi tắt là bà “Chúa Ngọc”.
Sau khi xứ Kaut Hara sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, người Chàm bỏ đi hết, và tuyệt nhiên không bước chân đến tháp Poh Nagar. Gặp những người Chàm ở Phan Rang ra buôn bán ở Nha Trang, hỏi về tháp, họ đáp một cách cụt ngủn “không biết” rồi ngó ngơ. Thái độ ấy chứng tỏ rằng họ không ưa nghe tên ấy. Hoặc giả vì tên tháp gợi cảnh diệt vong của giống nòi, hoặc giả họ không phải là người theo đạo Bà La Môn mà là người theo Hồi Giáo.
Tháp Chàm bị người Chàm hờ hững!
Trái lại, phần đông người Khánh Hòa và một số đồng bào ở các tỉnh di cư đến, lại gởi trọn niềm tín ngưỡng nơi tháp, nhất là các bà các cô.
Ngày rằm và mồng một, người đến lễ bái chật trong chật ngoài.
Thời Tiền Chiến, đến ngày vía Bà (ngày 3 tháng 3 âm lịch) nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng tế rất long trọng. Ban đêm có lệ múa bóng ở trước sân tháp.
Điệu múa Bóng là điệu múa của Chiêm Thành truyền lại.
Người múa toàn là con gái. Áo xiêm rực rỡ; đầu đội, người cỗ hoa tươi, kẻ đèn lồng ngũ sắc. Đèn và hoa chồng cao như ngọn tháp. Vũ nữ múa theo điệu đàn điệu trống, đoanh lộn nhịp nhàng dưới ánh đuốc ánh đèn hừng hẩy. Họ múa rất khéo và rất tài. Chẳng những đôi tay đôi chân luôn luôn cử động, vừa dẻo vừa mềm, mà đầu và thân cũng luôn luôn ngửa nghiêng uốn éo theo bước chân nhịp tay, rộn ràng đều đặn. Thế mà đèn và hoa đội trên đầu, không vịn không đỡ mà vẫn không hề lay không hề dịch, dường như có những bàn tay vô hình đỡ nâng.
Cảnh tượng vô cùng ngoạn mục.
Tổ chức múa Bóng do người xóm trước tháp phụ trách. Những vũ nữ phần nhiều là người trong xóm. Trường dạy múa cũng ở trong xóm. Cho nên xóm mệnh danh là Xóm Bóng thuộc làng Cù Lao.
Lệ Múa Bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến.
Nhân đó có câu hát:
Ai về Xóm Bóng thăm nhà,
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn chăng?
Thế thường tre lụn còn măng,
Lẽ đâu tham đó bỏ đăng cho đành.
Lệ Múa Bóng tuy bỏ nhưng ngày vía Bà vẫn tổ chức long trọng. Người đến dâng hương xin xăm chật trong chật ngoài.
Nhưng không tưng bừng rộn rịp bằng đêm Giao Thừa.
Đêm Giao Thừa ở Tháp Bà có thể gọi là kỳ thú.
Khách du quan muốn thưởng thức thú vị cho đầy đủ thì đêm tất niên phải dưỡng sức để lúc đồng hồ điểm 12 giờ thì đi bộ sang Tháp.
Phải đi bộ mới tận hưởng được những gì đáng hưởng khi trời đất bước vào xuân. Khí trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm, một khí ấm đặt biệt, dìu dịu thưng thưng, trong trong lại mát mát. Lại phảng phất một mùi hương thanh thanh: hương trầm, hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương nhang hương hoa từ trong nhà trong chùa bay ra? Tắm mình trong bầu không khí yên lặng, vừa ấm vừa mát, vừa trong vừa thơm, du khách cảm thấy tâm cũng như thân tự nhiên thanh thảnh nhẹ. Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu phiền não đều tan sạch. Cõi lòng từ từ mở rộng để đón phút thiêng liêng mới bắt đầu.
Cảnh cũng như người đều giũ sạch những bợn trần của năm cũ. Núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm.
Có thể nói rằng đom đóm ngự trị cả nước non.
Và cũng có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối.
Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước: ánh vàng. Ngoảnh sau: ánh vàng. Trông sang tả: ánh vàng. Ngó sang hữu: cũng ánh vàng. Từ Cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm giác đi ngang qua một rừng sao.
Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động. Hễ vùng nầy sáng thì vùng kia tắt, vùng nầy tắt thì vùng kia liền sáng. Cứ sáng, tắt, tắt, sáng... luân phiên, liên tục, không mau, không chậm, đều đặn, nhịp nhàng.
Quanh đồi Cù Lao và trên những lùm cây ở mé sông cạnh tháp, cũng đầy cả đom đóm. Ánh vàng cũng rực rỡ, phất phới lung linh. Và trên tầng ánh sáng khi khuất khi hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật lên nền trời cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.
Ảnh: Huỳnh Nam
Những ngọn đèn lồng ngũ sắc dăng trên cành cây, những ngọn huyền đăng treo trước sân tháp, chập chờn trong bóng lá, rọi vào cảnh vật, chỗ tỏ chỗ mờ, nơi thưa nơi nhặt, vui vẻ nhưng rụt rè, như cô gái quê mặc áo mới ra chào khách.
Từ dưới chân đồi lên đến sân tháp, người đông như kiến, chen chúc nhau, nối tiếp nhau. Người tuy đông, nhưng không ồn ào lộn xộn. Phần nhiều các bà các cô, dường như lắng lòng mình lại, để lúc dạo vườn hái lộc, vào tháp xin xăm, dễ cùng thần linh giao cảm.
Trong tháp chật ních người lễ bái. Hương tỏa mịt mù làm mờ cả hàng trăm cây đèn sáp cháy cao ngọn. Những luồng khói thơm tuôn ra cửa, ra nơi lỗ trống trên đỉnh tháp, ngạt ngào trong gió và lưởng vưởng trên đầu cây cao như những làn sương mỏng. Những tiếng chuông tiếng trống trong tháp bay ra, không rền vang như tiếng trống chùa miễu, tiếng chuông nhà thờ, mà vì vách tháp dày, cửa tháp hẹp, nghe mơ hồ phảng phất như có như không.
Những người vào tháp, phần hơi nóng của đèn hương, phần hơi thở của xương thịt, không thể nào ở lâu được năm mươi phút, nếu không có lòng thành kính hộ trì. Riêng những người râm đi bẻ những cành xanh tươi quanh tháp là vui vẻ thảnh thơi. Đàn ông đàn bà, con trai con gái, ai nấy đều hớn hở tươi cười. Nhưng không một tiếng ồn, không một bước mạnh. Đi qua mặt nhau, êm đềm lặng lẽ như bóng mây qua.
Quang cảnh thật là huyền mơ! Và bầu không khí thiêng liêng bao trùm cả cảnh vật.
Đứng trước cảnh có thể gọi là thần tiên ấy, con người dường như trở nên thuần hậu, khoan hòa. Cho nên từ trước đến nay, chưa hề xảy ra những chuyện không tốt không lành mà những nơi đông người thường hay có. Và vì lòng người đã dẹp bớt được tham sân si để hòa mình với cảnh, nên lá xăm, nắm lộc buổi đầu năm rất linh nghiệm. Do đó lòng tín ngưỡng bà Thiên Y A Na gia tăng. Và việc “đi Tháp Bà” đêm giao thừa đã thành một cái lệ. Thời Tiền Chiến đã đông, thời Hậu Chiến còn đông gấp bội.
Riêng tiếc, hiện nay xe ô tô, mô tô quá nhiều, nên trên con đường từ Nha Trang sang Xóm Bóng không được yên tịnh như trước. Thời Tiền Chiến, những người giàu có qua tháp chỉ dùng xe tay hoặc xe đạp. Cho nên lòng người có thể giữ được thanh tịnh ngay trong lúc xuống đường.
Và cũng rất tiếc lúc này đom đóm không sanh sản được nhiều. Không biết vì thời tiết thay đổi, hay vì bột DDT, thuốc diệt trừ sốt rét... đã làm cho giống vật có thứ lửa không nóng, có tấm lòng cẩm tú kia bị tiêu diệt lần lần?
Tuy vậy tiếng ồn ào của xe cộ chỉ làm rộn một khoảng đường đi, chớ không thể phá nổi cảnh thanh tịnh của đêm khuya, vẻ u huyền chung quanh tháp. Và những ánh đèn nê-ông trong sương mờ, trên mặt sóng sông sóng biển, lung linh phiếu diếu, cũng tạo nên cảnh sắc đầy mộng đầy thơ.
Cho nên, nay cũng như xưa cảnh giao thừa ở Tháp Bà vẫn đông đúc. Những người không thích hái lộc, không thích xin xăm, cũng vui vẻ đến tháp để thưởng thức cảnh trời đất vừa đổi mới. Sanh ý của kiền khôn dường như phát xuất nơi đây. Dường như chỉ nơi đây mới thấy rõ vẻ trinh nguyên của tạo hóa, mới thấy rõ sắc tướng của giao thừa. 
B.
Nhưng cảnh thú của giao thừa nơi Tháp Bà chỉ dành riêng cho những người ở gần tháp, và những người ở gần tháp mỗi năm chỉ được hưởng có một lần.
Chung cho mọi người, và lúc nào cũng thưởng thức được, là bản thân của tháp và phong cảnh chung quanh.
Cách xây tháp Poh Nagar, không khác các tháp khác ở Bình Định, Phan Rang. Cách bài trí cũng tương tợ. Nơi tháp thờ thần Poh Nagar, ngoài thần tượng trong tháp ra, nơi khung cửa bằng đá xanh nguyên khối ở trước tháp, một bức tường chạm nổi rất linh động. Đó là tượng thần Civa, thần bốn tay, một chân đạp trên đầu một con thú dị hình, một chân đương nhảy múa giữa hai nhạc công thổi địch. Hình chạm, nhưng nhìn vào, chúng ta có cảm giác là mềm dẻo như người vũ nữ bằng da thịt. Những hình tượng nơi các tháp khác nét đẽo gọt chạm trổ có phần thô phác chớ không được tinh vi bằng hình tượng nơi tháp thờ Poh Nagar.
Nhìn qua cách thức xây tháp, nét chạm khắc các tượng đá, chúng ta có thể đoán biết được trình độ nghệ thuật của Chiêm Thành.
Còn phong cảnh quanh tháp, ngoài cảnh đẹp của biển khơi, của sông dài, của những ngọn núi ngọn đồi lúp xúp. Còn những cụm đá ở nơi cửa sông Cù trông cũng rất vui mắt.
Có hai cụm nằm gần nhau. Chu vi chừng 100 thước vuông, và cao từ mặt nước trở lên chừng vài ba thước. Trên một tảng đá to lớn nhất có một ngôi miếu nhỏ đứng cạnh một cây gòn khẳng khiu. Trông như một hòn non bộ ở giữa một bể cạn trong vườn cảnh.
Đó là Hòn Đá Chữ gọi tắt là Hòn Chữ.
Gọi như thế là vì trên đá có chữ, một lối chữ hình như những con nòng nọc nối đuôi nhau, cổ nhân gọi là Khoa Đẩu tự. Lối chữ này giống như lối trùng văn khắc ở các nơi bia, nơi cửa tháp Thiên Y. Có lẽ là một lối chữ cổ Chiêm Thành, người Chàm đọc không được, người Ấn Độ đọc không được, đến những người thông thạo cổ tự thế giới, như các nhà khảo cổ Âu Mỹ đã từng đến Nha Trang, đọc cũng không được.
Những chữ ấy chắc là của vua quan Chiêm Thành ngày xưa đã khắc với một mục đích gì đó, chớ không phải của du khách cao hứng chơi ngông. Nhưng vì không đọc được nên không biết ý nghĩa như sao.
Dấu chữ bị sóng gió mài mòn. Hiện chỉ còn trông lờ mờ trên một vài tảng.
Nguyên lai của mấy cụm đá có nhiều thuyết:
Kẻ thì bảo là “trời sanh”.
Các nhà khảo cổ ngờ rằng từ trên tháp Thiên Y A Na lăn xuống.
Nhưng người địa phương tin rằng đó là những tảng đá đã đánh đắm những chiếc thuyền của bộ hạ Thái Tử Bắc Hải. Người xưa đã chạm chữ vào để làm bia cho những kẻ ỷ thế cậy mạnh biết mà sửa mình.
Cảnh trí trông cũng khả ái lắm.
Đứng trên đá nhìn ra bốn mặt, thì phía Đông nước xanh lẫn mây trắng, hữu hạn nhưng vô cùng; phía Tây con sông Nha Trang như tấm lụa dợn thủy ba, chạy dài ở giữa hai bờ non xanh bãi lục, với cầu Xóm Bóng “vắt vẻo qua sông”; phía Bắc núi non bàn khúc, màu xanh điểm màu đỏ màu trắng của những dãy nhà Dòng, của những ngọn tháp Bà, của nhà cửa làng Cù Lao, và cầu Bến Cá với những ghe thuyền đông đúc; phía Nam thành phố Nha Trang ẩn hiện trong bóng cây xanh.
Quang cảnh ấy, tuy đã trông thấy khi đứng trên Tháp Bà nhìn xuống. Nhưng vị trí thay đổi, cảnh sắc cũng thay đổi rất nhiều. Một giai nhân trông ở sau lưng đâu có giống khi trông ở trước mặt hay khi trông ở bên hữu bên tả.
Và nếu đứng trên Tháp Bà nhìn xuống, người giàu tưởng tượng có thể tưởng mình đương đứng tại Ba Lăng mà nhìn cảnh Động Đình: Hòn Chữ biến thành cảnh “thần tiên bất khả tiếp” có trăm ngàn cung điện bằng vàng, muôn vàn Ngọc nữ ẩn náu, và khách vãng cảnh khoan khoái để mặc cho “tâm tùy hồ thủy cọng du du” [10].
Thời thái bình, khách văn chương thường tổ chức những cuộc ngâm vịnh nơi Hòn Chữ, và họ cũng thường mượn Hòn Chữ để gởi gắm tâm tình:
Ai về Xóm Bóng, Hà Ra,
Đi ngang Hòn Chữ cho ta nhắn lời:
Nhắn ai nuôi chí vá trời,
Lòng trung tạc đá muôn đời còn bia.
II.
Anh đứng Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng,
Sáng trăng lờ mờ lượn sóng lăn tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách biển ngăn ngại ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng,
Sông sâu khôn dễ mượn lòng đưa thư!
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư,
Biển Nha Trang cạn nước,
Anh mới từ duyên em. 
III.
A.
Từ Tháp Bà theo mé sông, chân núi đi lên chừng một cây số, hoặc từ cầu xe lửa Ngọc Hội đi xuống chừng bốn năm trăm thước, du khách trông thấy bên bắc ngạn sông Nha Trang, sát chân núi, dưới bóng cây, một cụm đá xanh hòn hòn to lớn chồng chất lên nhau, đồ sộ vững vàng, chắn ngang con đường lên xuống.
Trong cụm đá có một hang đá tục gọi là:
HANG ÔNG BƯỞI
Tại sao có tên như thế?
Tại vì buổi đầu nhà Nguyễn Trung Hưng, có một nhà sư đến tu nơi hang, quê quán nơi đâu, danh tánh là gì, không một ai biết rõ. Nhân thấy quanh năm chỉ ăn bưởi thay cơm, nên gọi là Ông Bưởi.
Truyền rằng:
Ông Bưởi đến hang ở với một con hổ mun và một con vượn trắng. Cách tu hành khác hẳn các sư sãi nơi chùa chiền. Không kệ không kinh, không mõ chuông, không tràng hạt, mai chiều ngồi im lìm trên đá tham thiền. Con vượn đứng hầu bên cạnh, con hổ nằm canh trước miệng hang.
Mỗi ngày nhà sư chỉ thọ trai vào đúng ngọ. Thức ăn là một tép bưởi do con vượn cúng dường.
Thường thường ít ra khỏi hang. Thỉnh thoảng có vân du thì cỡi hổ mà đi, nhẹ nhàng như mây gió.
Ban đêm trong hang tỏa sáng, xa trông trong mát như ánh trăng. Người thì cho rằng Ông Bưởi tu hành đắc đạo, nên thân phát hào quang. Nhiều người lại quả quyết cho rằng hào quang kia là do bộ nút bằng dạ minh châu nơi áo cà sa của Ông Bưởi phát hiện. Ai cũng cho mình đúng song sợ cọp, không ai dám đến tìm sự thật ở nơi hang.
Nghe đồn ông Bưởi có dạ minh châu, một bọn côn đồ quyết tâm chiếm đoạt. Một hôm chúng rình thấy hổ và vượn vào rừng hái trái, bèn kéo nhau vào hang. Hang đá trống không và thân ông Bưởi chỉ choàng một tấm vải nâu không đường may cũng không thấy nút. Thấy ông Bưởi ngồi như một pho tượng, gọi không đáp hỏi không thưa, một tên lấy tay thọc lét. Nhưng tay vừa để vào nách thì vội thụt ra ngay, vì lạnh rợn mình như rờ vào thây người chết. Tên thứ hai lấy chân đạp mạnh: thân nhà sư vẫn ngồi trơ. Cả bọn xúm nhau xô, nhưng rán đã hết sức, vẫn không xê dịch được mảy may. Một tên nổi khùng, rút dao găm đâm mạnh vào bắp vế. Lưỡi dao lút quá nửa, nhưng ông Bưởi dường không biết không hay. Chúng vừa muốn giở thêm trò, nhưng con dao găm vụt bắn ra, cắm sâu vào vách đá. Đồng thời một vòi máu nóng từ nơi vết thương phun mạnh vào mặt bọn bất lương. Chúng thất đảm xô lấn nhau chạy mất. Từ ấy không ai dám đến gần hang.
Ông Bưởi ở tu nơi hang ngót chín mười năm trời. Những khi dân trong hạt bị cơ cẩn hoặc bị bệnh thiên thời, ông Bưởi thường đem gạo, thuốc đặt nơi ngã ba đường để cứu trợ.
Vì vậy nhân dân địa phương xem ông Bưởi như vị Phật sống. Nhưng vì không dám đến gần, nên nhiều người buổi mai buổi chiều, đốt hương vọng về hang mà đảnh lễ.
Quan cai trị nghi rằng ông Bưởi có tà thuật. Lại thấy đồng bào mỗi ngày mỗi thêm sùng bái, sợ lâu sanh biến, nên ra lệnh trục xuất khỏi địa phương. Nhưng lệnh không được thi hành, quan liền kéo quân đến vây bắt.
Quân lính vừa đến gần miệng hang, thì hổ gầm như sấm dậy, vượn hú lên nghe rợn mình, không ai có gan bước tới. Một tên lại già thiết kế:
- Dùng hỏa công.
Thế là củi chất quanh hang. Rồi lửa bừng cháy rật rật. Ai cũng tưởng ông Bưởi cùng vượn, hổ phải chết thui. Kẻ gian ác lấy làm thỏa lòng. Người lương thiện sụt sùi khóc. Không ngờ ngọn lửa đang lên cao ngất, bỗng rẽ làm hai: ông Bưởi cỡi hổ, dắt vượn, từ trong hang ung dung đi ra, rồi vụt chạy thẳng lên núi. Mây bay gió cuốn, chỉ trong khoảnh khắc đi mất tăm.
Không ai biết ông Bưởi đi đâu.
Và từ ấy hang bỏ vắng.
Hang ông Bưởi - cũng thường gọi là động ông Bưởi, hay chùa ông Bưởi - không vĩ đại, cũng không kỳ mỹ, như động Hương Tích, động Huyền Không.
Hang chỉ cao rộng vừa một người đi thẳng lưng, và chạy dài chừng mười lăm hai mươi bước. Nền có phần bằng thẳng, nhưng vách hô hê hốc hỉu, chỗ lõm chỗ lồi, chớ không trơn liền cũng không ngay ngắn. Và mái là một tảng đá rộng lớn phẳng phiu, nằm ngang trên vách đá.
Miệng hang trở về hướng Đông.
Lòng hang mát mẻ và sáng sủa, vì cửa hang rộng và đầu hang phía Tây có kẽ hở để lách mình ra vô.
Cảnh tuy không lấy gì làm đẹp mắt, song nếu đến hang nhằm trưa mùa hạ và chơi cho đến chiều tối, thì hưởng được nhiều thú vị thanh tao.
Ở ngoài trời thì nắng chang chang, mà trong hang không hề có chút nóng, lúc nào cũng có hơi gió biển thổi lồng, nhưng chỉ hiu hiu vừa đủ mát.
Tứ bề im lặng, không một tiếng khuyển, không một bóng người. Tiếng chim trên non, từ xa đưa lại, trong nơi thanh vắng, giọng nghe cao vút và trong veo. Thỉnh thoảng mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi liền không.
Rồi khi mặt trời đã về non, leo lên nóc hang mà thưởng cảnh.
Nóc hang, đúng hơn nên gọi là mái hang, là một sân đá vừa bằng vừa rộng, giống như sân thượng một nhà lầu. Trước mặt, sông Nha Trang như con bạch long uốn khúc; và cồn dừa bãi cỏ nối liền những đám cây với nhà cửa ẩn hiện, thành một bức tranh màu xanh mở rộng điểm thêm những nét xám nét đỏ rung rinh vì những làn khói nhẹ bay qua. Và cửa biển Nha Trang ở phía Đông phản chiếu ánh trời hôm, sáng trưng như một hồ thủy ngân vĩ đại.
Khi trời đã nhá nhem tối, sóc và kỳ nhông kéo ra từng bầy. Nhiều con lớn bằng cổ vế. Trông thấy bóng người, ban đầu sợ chạy trốn, nhưng rồi thấy người không có ác ý, chúng kéo nhau trở lại, ra sân đá nhảy giỡn tự nhiên.
Nếu trời có trăng thì có thể ở chơi cho đến khuya để thưởng thức cảnh “yên lung hàn thủy nguyệt lung sa” trong thơ Đường thể hiện.
Năm Kỷ Mão (1939), vào khoảng thượng tuần tháng 5, một nhà thơ đến viếng hang ông Bưởi có để lại một luật rằng:
Vách đá cheo leo chắn bợn trần,
Tình riêng với cảnh với giai nhân,
Gió lồng cửa động không trời hạ,
Trăng vẽ mày ai sắc nước xuân.
Đạo hạnh xưa thầy riêng một cõi,
Phong lưu nay tớ vẹn mười phân.
Nhắn cùng anh chị yêu non nước,
Đây của mình đây chớ ngại ngần.
Gần đây, không biết vì mến danh ông Bưởi hay muốn mượn danh ông Bưởi để quyến rũ thập phương, một am thờ Phật dựng trước cửa hang, khiến cảnh thiên nhiên bị giảm sắc đi nhiều lắm!
Do đó Trường Xuyên có mấy vần cảm tác:
Mây qua ráng lại chẳng ngăn ngừa,
Mượn cửa am rào nẻo đón đưa!
Sắc gấm dẫu lồng thơ vách đá,
Bụi đời e nhiễm gió ban trưa.
Thăm thầy viếng cảnh chi thêm bận,
Trách nắng than sương nghĩ cũng thừa!
Đành gởi nhớ thương chương ký ức,
Nghìn sau khỏi nhạt mối tình xưa.
B.
Cách Hang Ông Bưởi chừng bảy, tám cây số về phía Bắc, tại ấp Lương Sơn, quận Vĩnh Xương, còn một hang đá nữa, phong cảnh cũng đáng yêu. Đó là:
HANG ÔNG GIÀ
Hang nằm phía Nam Bãi Miếu trên gành đá Bàn Than.
Hang ăn sâu vào gành. Miệng rộng chừng 5, 6 thước. Từ ngoài vào trong dài trên 10 thước. Một nửa ngập dưới nước. Xuồng có thể vào ra dễ dàng.
Nơi vách cuối hang có một hóc nhỏ, sâu chừng hai thước. Rong rêu mọc tua tủa. Đứng ngoài miệng hang trông vào, giống hình một ông già râu dài đứng bên cạnh một đứa cháu gái bỏ tóc xõa.
Hang do đó mà mệnh danh.
Cảnh trong hang trông đã kỳ. Cảnh ngoài hang nhìn cũng rất thú.
Hang ngó xuống vịnh Nha Phu. Phía Bắc có núi Phước Hà, phía Nam có núi Rù Rỳ, làm hai cánh cửa che gió. Mặt nước bị thu hẹp không làm cho mắt chơi vơi giữa cảnh mênh mông bát ngát của thương hải.
Gành Bàn Than, đá mọc lởm chởm, chỗ thấp chỗ cao, nơi lồi nơi thũng, chạy từ Lương Sơn đến Rù Rỳ. Chân, sóng vãi trắng. Đầu, cây rải xanh.
Bãi Miếu, cát trắng phau và nhỏ mịn, trải dài ở phía Bắc gành Bàn Than. Sóng biển không to, lúc nào cũng thưng thưng chầm chậm.
Gành và bãi nhờ hang mà được khách du quan ghé mắt. Nhưng nếu không gành không bãi thì hang không đủ sức cầm chân khách được lâu.
Cho nên phải có ba mới đủ bộ vậy. 
C.
Từ hang Ông Già trở vô Cù Lao trở lại để viếng cảnh:
HÒN CHỒNG
Ở Nha Trang, muốn đến Hòn Chồng thì có hai đường. Hoặc đến Xóm Bóng mướn con thuyền nho nhỏ bơi ra hướng Bắc, để khai vị thú trời biển bao la. Hoặc theo đường Quốc Lộ số 1 đi ra khỏi Tháp Bà chừng một cây số rưỡi, rồi quẹo xuống ngõ trẽ qua xóm dừa nước ngọt bóng xanh. Chỉ trong giây lát là đến Hòn Chồng.
Hòn Chồng có hai khóm:
Một nằm ngoài biển.
Một nằm trong cát, sát chân đồi thôn Cù Lao. Khóm nằm dưới biển trông có bề thế. Đá một màu xam xám, lớp chìm dưới nước, lớp nổi lên mặt sóng, lớp nằm giăng hàng, lớp chồng lên nhau và nhiều hòn to dềnh dàng nằm đè lên trên hòn bé bỏng, nhưng không hề sụn không hề lay. Từ trong bờ đá chạy lúp xúp ra ngoài khơi, rồi đột khởi lên một tảng đá vừa cao vừa rộng, trông như một cái gò, dáng bằng bằng. Trên tảng đá này lại có một hòn đá to lớn như một cái nhà, nằm chênh vênh nơi mỏm cao nhất. Hình đá hơi tròn tròn, nhưng chỗ lồi chỗ lõm, và nơi mặt ngó vào bờ, có dấu một bàn tay to tướng in sâu vào đá với năm đầu ngón tay vấu lại. Người ta bảo đó là dấu bàn tay ông Khổng Lồ [11].
Khóm này là Hòn Chồng Đực, gọi tắt là Hòn Chồng.
Còn khóm kia là Hòn Chồng Cái, gọi tắt là Hòn Vợ.
Đá nơi Hòn Chồng Cái cũng lớn chồng lên nhau, lớp nằm giăng hàng như cảnh Hòn Chồng Đực. Nhưng nơi Hòn Chồng Đực, đá thường bị sóng cọ mài nên phần nhiều trơn liền tròn trịa. Còn đá nơi Hòn Chồng Cái rất nhiều góc cạnh, và phần nhiều hình khối, hình lăng trụ. Đá nơi Hòn Chồng Đực thường thường chồng lên nhau. Đá nơi Hòn Chồng Cái lại nằm khăng khít nhau một cách âu yếm.
Trên khóm Hòn Chồng Cái, có hai tảng đá hình khối chữ nhật đứng song song, và trên đầu đội hai hòn đá nhỏ hình khối vuông. Đứng xa trông giống hai người đàn bà mặc áo dài, ngồi nhìn ra biển.
Cảnh tượng trông vừa cổ vừa kỳ.
Khách phong tao thường lấy đây làm nơi ngâm vịnh.
Dưới triều Duy Tân (1907-1916), chí sĩ Trần Cao Vân vào Khánh Hòa tìm đồng chí, ghé chơi Hòn Chồng có đề một luật rằng:
Đất nắn trời nung khéo định đôi,
Hòn Chồng Đực Cái phối hai ngôi.
Ông xây nên đống cây trồi mụt,
Bà đúc ra khuôn đá mọc chồi.
Mây núi rủ giăng màn tịnh túc,
Nước khe hầu rót chén giao bôi.
Non thề giai lão trơ trơ đó,
Gió chẳng lung lay sóng chẳng dồi.
Trong quyển Một Tấm Lòng ra đời năm 1939, cũng có một bài rằng:
Trời mây biển nước cảnh mênh mông,
Chân núi dô ra đá mấy chồng.
Khắn khít thớt em nương thớt chị,
Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông.
Sóng xô đẩy mãi bền gan sắt,
Rêu buộc ràng thêm chặt giải đồng.
Gặp gỡ đá đây ta hỏi đá:
Vá trời bao thuở mới nên công.
Thuần Phu Trần Khắc Thành họa vận:
Kìa đèo Đại Lãnh đảnh Cù Mông
Cảnh thú khôn so cảnh đá chồng.
Biển bọc chân non hình bán đảo,
Chữ đề mặt đá nét thi ông.
Nước mây bốn phía xem như vẽ,
Sóng gió nghìn thu vững tựa đồng.
Những khách thừa lương thanh thỏa dạ,
Hóa công xưa khéo tạc nên công.
Và gần đây một nữ giáo viên hưu trí, bà Tùng Trang, mượn cảnh Hòn Chồng để tả tình cảnh éo le của mình, [12] rất ý nhị, rằng:
Cắt cớ cho rồi đấng hóa công!
Sinh non Bà lại có non Ông.
Xem qua những tưởng hai hòn núi,
Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng.
Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt,
Sóng trêu gan đá dửng dưng lòng.
Tháng ngày đối diện cùng nhau đó,
Gang tấc mà ra cách mấy trùng!
Cảnh Hòn Chồng, dưới mắt mỗi nhà thơ, nhuộm một sắc thái riêng biệt. Nhưng các nhà thơ đều nói chung cả Hòn Chồng Đực, Hòn Chồng Cái. Tác giả Một Tấm Lòng thì mượn tình ông cháu, nghĩa chị em, để nói. Trần Cao Vân và Tùng Trang mượn cảnh vợ chồng để nói.
Nếu đứng trên phương diện vợ chồng, thì thử hỏi:
- Trên khóm Hòn Chồng Cái có hai Bà. Vậy cả hai là Vợ của Hòn Chồng Đực, hay chỉ một trong hai bà là vợ mà thôi?
Nếu chỉ có một bà là vợ, thì cảnh Hòn Chồng là cảnh Thi Sách và hai Bà Trưng.
Nếu cả hai là vợ, thì đó là cảnh của Nga Hoàng Nữ Anh và vua Thuấn.
Hỏi người Tàu thì nhất định bảo là người đời Ngũ Đế.
Hỏi người Việt thì tất nhiên đáp là người đất Mê Linh.
Hỏi đá đá làm thinh.
Cho nên Cổ Bàn Nhân ở Bình Định, vào viếng Hòn Chồng sau ngày chiến tranh Việt Pháp đình chỉ, có bài thơ ngũ ngôn:
Non nước đúc Hòn Chồng,
Hai Bà đối một Ông.
Khói mây đầu nhuốm bạc,
Mưa nắng má phai hồng.
Hồn nghĩa Mê Linh tạc?
Giọt tình Tương Thủy đông?
Vá trời tài hẳn có,
Lấp bể chí nuôi không?
Khắn khít tình em chị,
Lơ là nghĩa vợ chồng!
Chuyện đời thôi để đó,
Chung gánh gánh non sông.
Những bài thơ trên tuy mượn cảnh để ký thác tâm chí song vẫn nêu rõ những đặc điểm của Hòn Chồng trên thực tại khách quan.
Nhưng có nhiều du khách đã thất vọng khi đến Hòn Chồng. Như cụ Xuân Sanh tục gọi là “Thầy Đồ Nghệ”, thời Pháp thuộc, là một Cụ Đồ đã than:
Ngó lại ngó qua hai đống đá,
Leo lên leo xuống hư đôi giày!
Cụ Đồ nói đúng sự thật một trăm phần trăm. Bởi Hòn Chồng chỉ toàn đá là đá. Và leo đá mà mang giày thì tài gì không hư. Nhưng đó là tại người chớ không phải tại cảnh. Không cảnh nào không đẹp. Nếu trong tâm hồn người đối cảnh có sẵn chất đẹp, thì vẻ đẹp của cảnh sáp nhập vào tâm hồn rồi hiển hiện ra trước mắt. Bằng tâm hồn chứa đựng toàn hình ảnh lợi danh, thì hình ảnh không mấy đẹp kia che khuất hết vẻ đẹp của cảnh. Nhà Phật bảo “vạn pháp do tâm tạo” là vậy đó.
Cho nên muốn thưởng thức cảnh thú Hòn Chồng, tưởng nên mang theo một ít “tâm hồn nghệ sĩ”.
IV.
A.
Có tình bà con với Hòn Chồng nếu không phải về “huyết thống” thì về “huyền thoại”, đó là:
SUỐI TIÊN
Phát nguyên tại vùng Hòn Bà quận Cam Lâm, Suối Tiên chạy quanh co trong các thung lũng, tràn lên đá, luồn trong đá, khi ẩn khi hiện, khi ào ào như mưa đổ, khi róc rách, khi lặng lờ... Và sau khi vượt qua những nơi cây đá gập ghềnh, suối xuống đồng bằng, đem nước tưới đồng phì nhiêu thôn Xuân Phú.
Tên tục là Suối Bà Nên.
Từ Nha Trang theo đường Quốc Lộ số 1 đi vào độ 19 cây số thì có con đường liên hương chạy lên hướng Tây. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến Suối Tiên.
Nơi du khách dừng chân ở mút đoạn đường, có một dãy đá chắn ngang dòng suối, tạo thành một đập đá thiên nhiên. Nước suối một nửa chảy vẹt sang phía Bắc vào ruộng, một nửa tràn lên những tảng đá thấp chảy về hướng Đông, rót vào Suối Dầu để cùng ra Sông Cái.
Dưới chân đập đá thiên nhiên, một vùng nước xói thành lòng chảo, sâu và rộng, tục gọi là:
HỒ TIÊN
Gọi là Hồ Tiên, vì truyền rằng xưa kia tiên thường đến tắm mát.
Nước hồ trong thấy đáy, và đáy hồ cát trắng phau phau. Đến mùa nóng nực mà đến nơi đây thì thật vô cùng thích thú. Chỉ nhìn chất trong của nước hồ, chất trắng của cát hồ và thở hít khí mát của nước hồ bốc lên, cũng đã thấy khinh khoái trong người, chớ chưa đợi đẫm mình vào nước.
Dù xưa kia không có tiên đến tắm, mà có đặc điểm chưa tắm đã mát như thế, thì cũng đã đáng gọi là Hồ Tiên.
Nhưng Hồ Tiên mới là cốc rượu khai vị hiến cho khách đến du ngoạn cảnh Suối Tiên.
Không nên triền miên nơi hồ. Hãy theo bờ suối đi ngược lên.
Bờ Suối toàn đá. Đá muôn hình vạn trạng nhưng toàn một màu sắc xám đen. Cây cối lại mọc chen trong đá. Nhiều cây cổ thụ, thân hình khúc khuỷu, đứng nghiêng mình soi vào lòng suối, bóng xanh chờn vờn theo sóng xanh. Trong lòng suối, nhiều nơi đá nằm ngổn ngang, lớp chìm xuống nước, lớp nổi lên không. Nước chảy lâu ngày mặt đá trông nhẵn thín.
Trên một tảng đá rộng lớn và bằng bặng, nửa nằm dưới nước nửa nằm trên bờ, có dấu chữ điền chữ khẩu, nét đá mờ rêu, và nằm lăn lóc một ít đá vụn hình tròn tròn vì gió mưa mài cọ.
Người địa phương bảo đó là Bàn Cờ Tiên.
Lên trên nữa, đá chất chồng thành hang hố, nhiều chỗ nằm ngồi thong thả. Chung quanh có bóng cây che mát, có hoa rừng thoảng hương.
Người địa phương bảo đó là Động Tiên.
Vì suối có Động Tiên, có Bàn Cờ Tiên, có Hồ Tiên, nên mệnh danh là Suối Tiên.
Còn vì sao lại gọi là Suối Bà Nên thì chưa được rõ. Hỏi người sở tại thì kẻ nói thế này người nói thế khác, nghe không ý vị, nên để mặc Bà Nên, mà đi tìm tiên cho thích thú.
Truyền rằng tiên thường đến Suối Tiên trong mùa nóng nực.
Mỗi lần tiên đến thì có voi cọp đến hầu, có hươu dâng quả dâng hoa, vượn dâng rượu dâng nước. Các Tiên Ông thì đánh cờ, các Tiên Bà Tiên Cô, các kim đồng Ngọc Nữ, lớp thì ngồi trên mỏm đá cao đàm đạo, lớp thì thung thăng đi trên sóng, kẻ đàn người sáo, kẻ gõ phách, người múa ca. Gió mát nước trong, Suối Tiên lúc bấy giờ thật là Bồng Lai Nhược Thủy.
Chư Tiên, người nào vui chơi đã mỏi thì vào động nghỉ ngơi.
Đến khi mãn cuộc vui thì cùng nhau cỡi mây về Tiên giới.
Một hôm chư tiên đều lui bước hết, chỉ một Tiên ông vì quá chén nằm ngủ quên trong động đến mấy hôm. Khi tỉnh dậy một mình, bèn theo bờ suối đi xuống...
Lúc bấy giờ một đoàn Tiên nga đương tắm.
Kẻ giăng mình trên cạn, người lặn hụp dưới hồ sâu. Vóc ngọc da ngà ẩn hiện trong màu nước trong, cát trắng.
Dù rằng là Tiên nhưng lòng thích đẹp vốn trời sở phú, thì tu đến muôn ngàn kiếp cũng không dứt được tánh trời. Nên khoái mắt khoái lòng, Tiên ông vùng cất tiếng cười thích thú. Các Tiên nga ngoảnh đầu trông thấy, hổ thẹn, vụt bay bổng lên không trung. Những áo xiêm bỏ lại nơi bờ hồ, lần lượt biến thành năm sắc mây bay chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ.
Các Tiên nga về cung Đâu Suất kiện cùng Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân phán:
- Phạm nhân háo tửu háo sắc, bị trích xuống trần thế làm kẻ bạch diện thư sinh.
Và để tránh những chuyện tương tợ có thể xảy ra một lần nữa làm thương tổn danh dự làng Tiên, Lão Quân lại cấm chư tiên không ai được đến Suối Tiên nữa.
Từ ấy Suối Tiên không còn thấy bóng tiên.
Đồng thời trong vùng sanh ra một đứa con trai, hình dung tuấn tú. Lớn lên học giỏi thơ hay, nhưng có bệnh nghiện rượu và ưa sắc đẹp. Vì có bệnh nên thi mãi vẫn rớt, và thục nữ đều chê “dài lưng”. Sau phải bỏ bút nghiên làm anh thương nhân đa trá. Không mấy chốc mà giàu. Có của liền có vợ. Nhưng khi vào phòng hoa chúc, rượu cúng Tơ Hồng làm cho anh chàng say túy lúy. Rồi đêm nào ma men cũng rủ chàng đi tìm mộng, khiến cho người có chồng phải ôm mãi tuyết sạch giá trong. Không chịu nổi cảnh gần lửa mà lạnh lùng, người vợ bỏ đi biệt xứ. Anh chàng buồn bã bỏ ăn bỏ uống, ra đứng trên tảng đá cạnh Hồ Tiên, mơ màng nhìn nước nhìn cát, mỉm cười cùng bóng những nàng tiên nữ trong mơ. Lâu ngày thân khô hóa thành cây cổ thụ đứng đìu hiu trong bóng nước mây.
Định Phong đến chơi Suối Tiên có mấy câu ngẫu tác:
Suối tiên nước chảy lững lờ,
Tiên đi đâu để bàn cờ rêu phong!
Mây trôi ngày tháng theo dòng,
Bền gan đá vẫn ngày mong đêm chờ.
Chờ mong sắp lại cuộc cờ,
Thú vui chung cả đôi bờ bắc nam.
Động tiên chưa bén gót phàm
Hồ Tiên sóng vẫn dợn chàm long lanh.
Cây cao hoa lá sum cành,
Ráng mây nỡ để nặng tình nhớ thương.
Phía trên Hồ Tiên lại có dấu một bàn chân to lớn mà năm đầu ngón chân in vào đá thật sâu. Người địa phương bảo đó là bàn chân ông Khổng Lồ và truyền rằng:
Trong thời kỳ chư Tiên còn đến chơi Suối Tiên, một hôm ông Khổng Lồ ở Bình Định đi vào Nam, nghe danh Suối Tiên liền tìm đến. Quang cảnh vừa mắt làm cho trí lửng bước chân. Ông bước lên hòn đá rong rêu, lơ đễnh bị trợt chân. Ông giật mình, một chân bấm vào đá, một tay chống vào vách, để cho khỏi ngã. Ông chống mạnh quá đến nỗi bàn tay ông lún vào đá và một khoảnh vách vỡ văng tận mé biển Cù Lao hóa thành Hòn Chồng Đực và Hòn Chồng Cái. Chân ông bấm cũng mạnh quá, nên dấu còn để nơi Suối Tiên .
Nghe chuyện ông Khổng Lồ, một du khách là Thi Nại Thị cười bảo:
- Ông Khổng Lồ bị trượt không phải vì vô ý bước nhằm đá rêu, mà chính vì Hồ Tiên báo hại.
Cho nên có bài ca rằng:
Khổng Lồ vừa mập vừa cao,
Chân bước đi trên đá,
Mặt ngó vào Hồ Tiên:
Trong ngần nước tẩm dòng quyên
Năm ba pho tượng thiên nhiên nõn nà.
Thân ông run,
Hồn ông động,
Tim ông rụng,
Mắt ông lòa.
Bảy nghiêng tám ngã...
Đá mấy tòa rung rinh.
Bước gập ghềnh,
Thất kinh
Ông vội vã
Bám chân vào đá.
Nhưng ông vẫn ngã cái ình!
Tiên giật mình bay đi mất.
Riêng ông để dấu si tình lại nghìn thu.
Dấu si tình của Khổng Lồ một nửa là bàn chân để nơi Suối Tiên Một nửa bàn tay gởi nơi Hòn Chồng, chứng tỏ một cách nên thơ rằng Suối Tiên và Hòn Chồng quả thật là dòng họ đá với nhau vậy.
Vì dòng họ nhà đá mà phải từ Hòn Chồng đi thẳng vào Suối Tiên một mạch. Viếng Suối Tiên xong theo con đường Quốc Lộ số 1 trở về Nha Trang, nhân đi ngang qua Diên Khánh, cũng nên ghé lại viếng:
- Suối Đổ - Suối Ngổ - Suối Ồ Ồ.
B.
SUỐI ĐỔ
Cũng gọi là Suối Nước Đổ, nằm trong địa phận làng Phước Trạch gần làng Cư Thạnh, vùng phía Tây dãy núi Hoàng Ngưu.
Suối từ trên núi cao tục gọi Hòn Chùa chảy xuống và tạo thành ba cảnh hồ khá rộng.
 Hồ thứ nhất nằm trên lưng chừng núi, dưới một thác nước đổ mạnh. Nước hồ chia làm hai nhánh chảy quanh co xuống triền núi chừng năm ba chục thước thì rót vào hai hồ nằm gần nhau, rồi nhập lại thành một dòng chảy xuống núi.
Lòng hồ cát trắng phau phau. Lòng suối và quanh suối đá xanh lớp giăng lớp chồng. Cây cối mọc chen đá, xanh tươi, rậm rạp.
Trên bờ hồ thứ nhất, ngoài những tảng đá dựng thành vách, nằm thành đống, có một tảng đá hoa cương to lớn dị thường và bằng phẳng như tấm ván ngựa, trông như có tay người đẽo dũa công phu.
Truyền rằng đó là nơi bà Thiên Y A Na đến ngồi hóng mát, hoặc nghỉ chân lúc vân du. Những lúc Bà đến thì có ba tiếng sấm nổ vang trời, rồi có một luồng ánh sáng màu xanh, rộng và dài như một cây lụa xổ, từ phía hòn Núi Chúa ở Đại Điền, hoặc từ Hòn Bà ở Cam Lâm, bay đáp xuống suối.
Đi vào sâu trong núi có một vườn cam và một vườn quýt, trái rất nhiều. Ai đến hái ăn cũng được, nhưng không được khen chê, mà cũng không được hái đem về nhà. Nếu không tuân thì có tại họa xảy đến.
Cách hồ nhất chừng trăm thước, có một cây kỳ nam lớn đến bốn ôm và dài cũng đến chín mười thước, nằm ngang qua suối. Đi ngoài xa nghe phảng phất mùi thơm, nhưng lại gần thì không thấy chi cả. Nếu người nào có ý muốn chiếm hữu thì một cặp rắn mun to lớn hiện ra khủng bố.
Thời Pháp thuộc, một viên chánh tổng tìm thấy cây kỳ, đem lễ vật đến cúng kính rồi lấy dây cột nơi gốc cây kéo dài ra cho đến chân núi để làm dấu. Đoạn về nhà thuê người đem dây thừng đến khiêng. Khi trở lại, theo sợi dây mà lên núi. Nhưng đến nơi thì thấy mối dây cột ở nơi khác, còn cây kỳ biến đâu mất, tìm mãi vẫn không thấy tăm hơi.
Tuy vậy mãi đến nay, người đi củi thỉnh thoảng vẫn còn còn nghe hơi trầm thoảng.
Bên suối nơi hồ thấp, có đền thờ Bà, khói hương không ngớt.
Một Nho sĩ làng Cư Thạnh là Thái Vịnh có bài thơ vịnh Suối Đổ rằng:
Hóa công xây đắp tự đời nao,
Thăm thẳm rừng xanh trổ lối vào.
Xối xả nước tuôn lì mặt đá,
Mịn màng cát trải mát lòng ao.
Mây tòng khói liễu chồng rồi chất,
Đàn suối ca chim thấp lại cao.
Bên núi hương trầm đưa phảng phất,
Khe trong mường tượng bóng hoa đào.
Năm 1963, trước khi Chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ mấy tháng, tự nhiên trên Suối Đổ nổi lên ba tiếng sấm, người địa phương hãi hồn vì tưởng có giặc. Liền đó có người nằm chiêm bao thấy thần linh mách bảo rằng bà Thiên Y về Suối ban phước cứu dân độ thế. Tiếng đồn lan ra, người ta đến múc nước về chữa bệnh.
Bệnh có hết chăng chẳng ai biết, nhưng từ miệng người này sang miệng người kia rằng “người câm vừa uống vào mấy hớp liền nói được”, rằng “một người mù đến khấn vái rồi múc nước rửa liền thấy đàng đi”, rằng “người bị bệnh ung thư, Bác Sĩ không chữa nổi, xin nước Suối Đổ về uống có mấy lần liền bớt đau” vân vân. Một người nói chín mười người nghe, rồi chín mười người nói cho trăm ngàn người nghe... Một đồn mười, mười đồn trăm, đồn ngàn, đồn muôn. Ban đầu chỉ có người trong quận Diên Khánh đến cầu xin nước thiêng, lần lần đến người ở quận khác trong tỉnh. Chỉ trong một tuần nhật, người Đà Lạt, người Sài Gòn... cũng thùng chai đưa đến. Chật đường chật sá. Chánh quyền tỉnh Khánh Hòa ra lệnh cấm không được, phải cho lính đến canh. Nhưng canh đường này thì đồng bào tìm đường khác để vào suối. Chộn rộn ồn ào, vui thật là vui.
Gặp những người đi xin nước, hỏi. Ai nấy đều đáp “Hết sức linh nghiệm”. Nhưng những người kém đức Tin vẫn nghĩ “Đó là một cách xem thơ Trạng Quỳnh”, nên nhân dịp đông vui, đến ngắm cảnh chớ không xin nước.
Nhận thấy những người đồn “nước rất thiêng” đều là kẻ giàu có. Một nhà thơ có mấy câu hài hước đọc thầm cho bạn nghe, chớ không dám phổ biến vì sợ vạ miệng, rằng:
Đời nay “tiền định” rõ ràng,
Nước thiêng cũng phải có vàng mới thiêng.
Nhà nghèo chữa bệnh kinh niên,
Tìm đường đi xuống Huỳnh tuyền khỏe hơn.
Suối Đổ trước kia, ngoài người địa phương, ít ai để ý. Khách du lịch cũng không mấy người tới lui, mặc dù suối ở gần đường Quốc Lộ số 1. Nhưng từ ngày xảy ra việc “xin nước thiêng”, thì miệng người theo đường Quốc Lộ đưa danh Suối Đổ đi xa. Thành ra hiện nay đối với du khách, Suối Đổ cũng tế danh cùng Suối Tiên và Suối Ngổ vậy.
C.
SUỐI NGỔ
Suối nằm phía Đông Bắc thành Diên Khánh, thuộc địa phận thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương, dưới chân hòn En.
Muốn đến Suối Ngổ thì từ thành Diên Khánh đi ra, hoặc từ trụ sở Vĩnh Xương đi lên. Đến vùng miễu Quá Quan, dưới chân hòn Đá Lố, thì theo con đường nhỏ đi lên xiên xiên hướng Tây Bắc. Đường đi không dễ dàng thoải mái như đường đến Suối Đổ, Suối Tiên, vì phải đi bộ bởi chật hẹp lại thêm nhiều gai gốc, nhiều vồng dốc. Đi đường bằng chừng nửa cây số, du khách phải vượt qua ba cụm gò đá lẫn sỏi. Gò tuy không cao không dốc, song khúc khuỷu chông chênh.
Đi độ nửa đường thì gặp một vũng nước nho nhỏ nằm dưới chân núi. Nước từ trong vách núi nhỉ ra đọng thành vũng. Chung quanh vũng toàn đá. Trong lòng vũng cũng đá. Nước sâu chừng một gang tay. Trong như lọc. Uống vừa mát vừa ngọt. Hành khách lại qua thường múc giải khát. Vũng tuy không lớn không sâu, nhưng múc mấy cũng không cạn, nắng mấy cũng không khô. Người địa phương gọi là Giếng Cậu. Cậu đây tức là con cháu bà Chúa Ngọc Thiên Y A Na. Gọi như vậy vì tin rằng tất cả những gì tốt đẹp linh thiêng ở Khánh Hòa đều là của Bà và của Cô của Cậu cả.
Đi một chặng nữa, nơi sườn núi thấy một vùng đá mọc lởm chởm, chỗ lồi rồi chỗ hũng vô, chỗ thì đen chỗ thì trắng, đứng xa trông có vằn có vện như mặt ông bùa của thầy phù thủy. Người địa phương gọi là Đá Mặt Quỷ.
Hai cảnh này làm cho du khách vui mắt quên mỏi chân.
Qua khỏi vùng Đá Mặt Quỷ thì đường đi luồn trong cây cối. Phải vén cành vẹt gai mà đi. Đi chừng vài ba trăm thước nữa thì đến Suối.
Cảnh Suối thật sầm uất thâm u.
Một tảng đá hoa cương cao trên hai thước, chu vi cũng đến 15, 20 thước, trên mặt lum lúp, nằm chắn ngang lối vào. Mọc bên cạnh, một cây gáo gốc lớn đến ba bốn người ôm, thân cao tàn cả và rễ nổi lên từng vồng như những con trăn khổng lồ uốn khúc.
Phải đi quành qua hông đá hông cây mà vào. Bên trong là một hồ nước rộng chừng bảy tám chục thước vuông. Phía Bắc là sườn núi; ba mặt, đá mọc ngổn ngang, lớn có nhỏ có, đứng có nằm có. Chen chúc cùng đá, cây mọc dày như rừng già, che khuất cả ánh mặt trời và gió. Đá cũng như cây đều phủ rêu mốc rêu xanh, và hình thù muôn vẻ trông thật lạ mắt khoái tâm.
Hồ nước do sòng suối trên núi cao chảy xuống tạo thành.
Dòng suối phát nguyên trên đỉnh hòn Én, chảy quanh co theo sườn núi, khuất trong đá trong cây. Khi đã ló dạng ra ngoài và cách chân núi chừng mươi thước, suối tuôn thẳng xuống hồ, mai mải theo triền núi và qua vài ba bậc cấp lài lài, đứng bên này hồ trông sang như một cây lụa bạch buông xổ. Lòng suối không rộng - chỉ độ một thước một thước rưỡi thôi - sức nước cũng không mạnh - vì bị đá ngăn chận - nên tiếng suối không lớn, chỉ nghe rào rào như gió thổi vào rừng bàng mùa thu mùa đông.
Suối tuôn xuống hồ. Nước hồ tràn vào kẽ đá kẽ rễ cây gốc cây. Thành ra cây đá chung quanh hồ đều dầm nước ăm ắp. Qua kẽ cây kẽ đá, nước chảy ra ngoài hợp thành suối chảy vào đồng ruộng.
Chung quanh hồ và hai bên bờ suối, rau ngổ mọc đầy, mùi hương bay thơm ngát. Người địa phương thường đến hái bán. Do đó suối mệnh danh là Suối Ngổ.
Phía chân núi, cạnh hồ có một trảng rộng mọc toàn ổi. Đến mùa ổi chín, mùi thơm bay nồng nực cả vùng và làm át hẳn mùi thơm của ngổ.
Phong cảnh Suối Ngổ có vẻ man rợ và vô cùng vắng vẻ. Trông cách biệt hẳn với thế gian! Ngoài tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, không nghe một tiếng gà tiếng chó. Đứng trước những cây cao, đá to, trong người đôi khi thấy rờn rợn. Hình thù của đá của cây khiến cho những óc giàu tưởng tượng liên tưởng đến những quái vật, những hung thần trong các huyền thoại xưa nay. Cho nên đến Suối Ngổ, khách du quan ít khi có cảm giác được lạc vào Đào Nguyên như khi chơi Suối Tiên, Suối Đổ.
Lại thêm không khí phía bên này hồ không được thoáng, bởi bốn mặt bị núi và cây đá bao vây. Ngồi lâu thấy nực. Cho nên mọi người vào chơi đều thích tắm.
Nước hồ trong và sâu lút đầu. Bơi lội rất thú. Và tắm xong lên nằm trên những tảng đá bằng phẳng dưới bóng cây mà ngơi một giấc thì dễ xây nên mộng La Phù.
Song nếu muốn thưởng thức thú gió rộng trời cao thì vịn đá vịn cây sang qua bên kia hồ, theo bờ suối mà lên núi: Một vọng cảnh bao la từ Nha Trang trải trùm lên tận Diên Khánh, thành một tấm thảm vĩ đại có trăm sắc đậm nhạt điểm lên trên màu xanh. Thật vô cùng ngoạn mục.
Nhưng không phải vì cảnh thú mà Suối Ngổ nổi danh.
Suối nổi danh trước hết là nhờ ngôi chùa bên suối.
Ngôi Chùa tục gọi là Chùa Suối Ngổ, sắc tứ Chí Linh Sơn Tự.
Cất trên triền núi, phía đông Suối Ngổ, mặt ngó vào Nam. Kiểu thức không có gì đặc biệt, quy mô không lấy gì làm rộng lớn. Nhưng có tiếng rất linh thiêng. Người đau đến cầu thường khỏi. Người có tai nạn đến cầu thường qua. Và những lá xăm của Chùa cho thì luôn luôn linh ứng.
Những khách thập phương lui tới hầu hết chỉ để dâng hương cầu phúc. Nhưng khi về nhà nói đến sự linh ứng của chùa thì phải nói đến tên chùa, mà tên dễ nhớ và ít lẫn lộn với các chùa khác là tên tục. Do đó mà tiếng “Suối Ngổ” bay xa.
Trong núi có con Cọp Mun rất hiền, hễ gặp người liền tránh.
Trước chùa có một miếu nhỏ thờ “Sơn lâm chúa tướng”. Nơi miếu thỉnh thoảng con Cọp Mun về nằm nghỉ ngơi.
Người địa phương bảo rằng con Cọp Mun ấy cai quản tất cả các thú trong vùng núi Suối Ngổ. Các giống cọp vện, tàu cau, xám tro không dám bén mảng đến...
Truyền rằng: Một năm chùa làm chay vừa xong, người trong chùa và người đến cúng bị mỏi mệt ngủ quên. Nửa đêm bị kẻ trộm vào dọn hết từ khí từ vật và chén bát nồi niêu. Khổ chủ thức dậy, thất kinh. Toan kéo nhau đi tìm thì, chợt thấy một đoàn người khiêng gánh kéo vào ngõ. Đoàn người vào chùa quỳ lạy vị trụ trì thú thực rằng mình là ăn trộm và nói:
- Chúng tôi xuống khỏi dốc thì gặp Chúa Sơn Lâm đứng dựng trên hai chân sau và giơ cao hai chân trước, miệng gầm gừ nghe rợn tóc gáy. Chúng tôi quýnh cẳng, cứng tay..., đứng im không nhúc nhích. Ngài cũng đứng yên. Thấy ngài không có ý làm hại, chúng tôi mới hoàn hồn. Ngài ra dấu bảo chúng tôi trở lại. Biết rằng mình làm việc quấy, mà ngài không nỡ hành tội, chúng tôi liền gánh đồ đạc trở lại trả cho chùa, và xin lạy Phật lạy thầy cho chúng tôi sám hối.
Câu chuyện lan truyền, làm cho Chùa Suối Ngổ nổi tiếng thêm.
Do đó Suối Ngổ cũng thêm danh giá.
Lại đồn rằng trên núi Suối Ngổ có Kỳ Nam.
Đáng tin lắm vì kỳ nam và trầm hương là lâm sản của Khánh Hòa, mà trên núi Suối Ngổ lại có nhiều cây Gió là thứ cây thường sanh kỳ nam và trầm hương.
Biết rằng có kỳ nam trên núi, nhưng không ai dám manh tâm, bởi tin rằng của quỷ thần, và có lính canh gác.
Lính canh gác ấy là một thứ Chim, không ai thấy hình dáng ra sao, cũng không ai biết rõ nhiều hay ít, mà chỉ nghe tiếng kêu. Tiếng kêu rất đặc biệt. Ban ngày nghe như tiếng mõ, ban đêm nghe như tiếng chuông. Cứ kêu ba tiếng rồi nghỉ, nghỉ giây lát rồi kêu ba tiếng nữa..., đều đặn khoan thai, thường xuyên, liên tục. Tuy nghe hai thứ tiếng, và dường như chỉ có một con kêu. Nhưng người địa phương bảo rằng chỉ có một thứ chim, và nhiều con kêu thay đổi. Biết được như vậy là vì hễ khi nào có kẻ gian đến gần cây kỳ nam thì tiếng chuông tiếng mõ đổ liên hồi, như chuông mõ đánh chữa lửa.
Khi tiếng chuông mõ đánh dồn thì rắn độc thú dữ kéo đến đánh đuổi. Nếu kẻ gian không bỏ lòng tham, còn trở lại nữa thì nhất định bị tai họa, không bị cọp chụp cũng bị rắn cắn. May mà chạy thoát được, về nhà vẫn không sống được yên lành.
Đó là một yếu tố nữa làm cho Suối Ngổ lừng danh.
D.
SUỐI Ồ Ồ
Suối Ồ Ồ ở phía Tây suối Ngổ, thuộc địa phận thôn Đại Điền Trung, quận Diên Khánh.
Suối phát nguyên trong dãy núi cao nằm nơi ranh giới Ninh Hòa Diên Khánh. Có hai nguồn chạy song song ở giữa ba nhánh núi thấp, từ Bắc vào Nam. Nguồn phía Tây gọi là Suối Khô vì mạch thường bị đứt trong mùa nắng. Nguồn phía Đông gọi là Suối Chà Vông vì hai bên bờ có nhiều mây chà vông mọc san sát.
Ra khỏi núi, hai ngọn nguồn đổ xuống một gành đá đứng thẳng như vách và cao ngó trật ót. Dưới chân gành, nước xói thành một hồ bán nguyệt, rộng trên một sào và sâu chừng ba sải. Nước hồ tràn ra thành suối chảy quanh co ba bốn cây số mới đến đồng ruộng.
Núi nhiều cây nhiều đá. Chung quanh hồ và hai bên suối cũng có nhiều đá nhiều cây chập chồng chen chúc. Phong cảnh thật tĩnh mịch thanh u.
Từ hồ trở ra, Suối mang tên là Ồ Ồ.
Ồ ồ là tiếng nước chảy, nước nguồn chảy xuống gành vào hồ bán nguyệt.
Suối Tiên chảy róc rách. Suối Đổ và Suối Ngổ chảy ào ào như tuôn hoặc rào rào như lá động, và tiếng suối bay lên không trung rồi tan trong mây gió.
Tiếng Suối Ồ Ồ khác hẳn. Đã kêu ồ ồ mà dường như đọng lại chung quanh và vướng vào cây đá, chớ không chịu bay đi. Tiếng rền lại nghe rất xa.
Có lẽ do ảnh hưởng của vị trí.
Người địa phương gọi gành đá tuôn nước xuống hồ kia là Sòng Tát.
Ở hai bên đầu gành có nhiều vết lõm xuống trông mường tượng như dấu chân người. Và trên mặt gành có một đường chạy dài như một giải lụa giăng ngang.
Truyền rằng: Nước hồ bán nguyệt không bao giờ cạn. Xưa kia những năm hạn hán, mạch suối đứt, Tiên thường đến tát nước về nguồn. Những dấu ở hai bên đầu gành là dấu chân của Tiên, và dấu dài nơi mặt gành là dấu dây lưng của Tiên phơi khi tát nước.
Vì có tiên tát nước nơi gành nên gọi gành là Sòng Tát vậy.
Lại truyền rằng: Suối Ồ Ồ rất linh. Những năm nắng hạn, các nhà chức trách địa phương thường đến cầu đảo. Lễ xong lấy một hòn đá từ trên đầu gành lăn xuống hồ. Nước bắn tung lên và sóng nổi cuồn cuộn. Liền đó một đám mây hiện ra, bay lơ lửng trên không, ngay nơi cầu đảo. Rồi không nhiều thời ít, không kíp thời chầy, một trận mưa đổ xuống...
Đó là việc đời xưa, thời mà lòng người còn tin tưởng thần tiên. Hữu thành tất hữu thần. Chớ ngày nay lòng mọi tầng lớp trong xã hội đều hướng vào khoa học Âu Mỹ, dù có muốn cầu đảo chắc không còn linh ứng như xưa.
 Tuy thế những chuyện thần tiên kia vẫn là những món gia vị làm tăng thêm thú du ngoạn.
Còn một món gia vị nữa thực tế hơn, là Cá.
Cá vừa nhiều vừa lớn con. Vì ít người đến quấy rầy nên cá rất dạn dĩ. Khách du lịch vào thăm Ồ Ồ đem theo một cần câu hoặc một cái lưới nho nhỏ, thì chỉ cần mang cơm mang rượu chứ không cần mang đồ ăn.
Không biết có phải vì Suối Ồ Ồ có điểm “khoái khẩu” nên được Đại Nam Nhất Thống Chí nhắc đến trong khi tất cả các suối có danh khác trong tỉnh bị bỏ rơi.
Đ.
Các dòng suối có phong cảnh kỳ mỹ, có những huyền thoại lý thú, thường ở trong những vùng rừng rậm núi cao.
Quận Vĩnh Xương là một quận tương đối ít núi cao rừng rậm hơn các quận trong tỉnh. Nhưng ngoài Suối Ngổ ra, còn một cảnh suối nữa được du khách chú ý hơn cả Suối Tiên, Suối Đổ, Suối Ngổ, Suối Ồ Ồ. Đó là:
SUỐI BA HỒ
Suối phát nguyên trên đỉnh Hòn Son, cao 660 thước, chảy giữa hai triền núi đá xuống thôn Phú Hữu ở phía Bắc, rồi vượt qua một cánh đồng rộng để xuống vũng Nha Phu.
Suối mệnh danh là Ba Hồ vì trên thượng lưu có ba lỗ hủng to rộng, lúc nào nước cũng đầy ăm ắp, mà người địa phương gọi là hồ.
Suối Ba Hồ cách Nha Trang chừng 25, 26 cây số.
Từ Nha Trang theo Quốc Lộ số 1 đi ra chừng 19 cây số thì có một con đường hương lộ trẻ qua phía tay trái. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến nơi xe đậu. Từ đó đi bộ trên dưới một cây số thì đến khúc suối có cảnh hồ thứ nhất.
Hồ Thứ Nhất nằm dưới chân một thác nước cao chừng năm sáu thước.
Đó là một vũng, nước xói thành lòng chảo. Rộng chừng một trăm, một trăm rưởi thước vuông, rốn sâu chừng vài sải. Đáy hồ cát trải trắng, rải rác năm bảy hòn đá nằm hoặc ló đầu lên khỏi mặt nước hoặc chìm lỉm trong lòng hồ. Chung quanh đá sắp ngổn ngang, nhiều tảng thật to lớn. Nước trong hồ khi đầy thì tràn lên mặt đá, khi lưng thì luồn qua kẽ đá mà tuôn ra ngoài rồi theo hướng Đông Bắc mà chảy xuống biển.
Từ Hồ Thứ Nhất, theo bờ suối đi ngược lên chừng trên dưới một cây số thì đến Hồ Thứ Nhì.
Ở nơi đây không có thác. Đá ngăn nước đọng lại thành hồ. Mặt hồ rộng dưới trăm thước vuông. Lòng hồ chỉ lõm xuống chừng bốn năm tấc, không biết do nước xói hay vốn trời sanh. Nước từ trên cao theo hai dòng quanh co trong đá chảy xuống, nhập lại nơi hồ rồi mới chảy đi.
Từ Hồ Thứ Hai đi lên nữa, chừng bốn năm trăm thước, thì đến Hồ Thứ Ba.
Hồ này nằm dưới chân một ngọn thác chạy lài lài và đổ xuống thành lòng chảo. Hồ này rộng và sâu thua hồ thứ hai. Bờ hồ thường bị nước khỏa lấp và mặt hồ chỉ trông thấy dờn dợn. Cũng như lòng hồ thứ nhất và thứ nhì, lòng hồ này cũng có nhiều cát và đá.
Mùa mưa lụt, nước suối tràn trề, cả ba hồ đều không trông thấy. Đến mùa nắng hồ mới “hiện nguyên hình”. Nước ở trên nguồn chảy xuống nhè nhẹ, lòng hồ không gợn sóng, nhìn vào như một khối thủy tinh. Dù nắng mấy hồ cũng không bao giờ khô nước.
Chính Suối đã nhờ hồ mà có tên và nổi tiếng. Nhưng hồ đối với suối chỉ là những chiếc huy chương trên ngực một võ tướng, thân dài vai rộng, hàm én râu hùm. Không đeo những chiếc huy chương, tướng quân vẫn uy phong lẫm liệt:
Suối, từ nguồn chí bể, dài trên dưới 10 cây số. Phần thượng lưu là phần quan trọng đối với du khách, chiếm phân nửa.
Hai bờ suối là hai triền núi cao. Từ bờ bên này sang bờ bên kia, chỗ rộng có trên 30 thước, chỗ hẹp nhất cũng đến 20 thước. Hình thế hiểm tuấn.
Trên bờ suối, trong lòng suối, đá mọc ngổn ngang. Lớn có nhỏ có, chen chúc lẫn nhau, chồng chất lên nhau. Tất cả đều một màu xam xám đen đen, nhưng thiên hình vạn trạng. Lòng người muốn tạo nên hình gì thành ra hình nấy. Tâm hồn phong phú bao nhiêu thì cảnh tượng kỳ mỹ bấy nhiêu. Kể không thể cùng, tả không thể xiết.
Chen cùng sắc đá, dưới suối thì cát thì nước, trên bờ thì cây thì mây.
Cát từng chòm từng giải, trắng phau phau. Chỗ thì trải rộng thành miền tự do, chỗ thì khép mình dưới chân đá. Nước khi ẩn khi hiện, khi giăng dài trên cát, khi luồn trong đá khuất khúc quanh co.
Còn cây thì lớp lớp như rừng. Nhiều cây cao lớn, màu da lẫn với sắc đá, và rễ quấn vào nhau, trên mặt đá có trong kẽ đá có, trông như những bầy trăn nằm nghỉ ngơi. Càng lên cao, cây càng nhiều và càng to lớn. Trên cành những cây đại thọ, phong lan bám tua tủa. Đến chơi gặp mùa lan nở thì lòng người phải say vì sắc hương. Chim cũng rất nhiều. Nhiều nhất là giống chim bạc má, lông xám mỏ đỏ. Lại có một giống chim lớn hơn chim bạc má, lông đỏ mỏ đen, không biết tên và tuy chiếm thiểu số nhưng nổi bật giữa đám đông phi cầm. Chim và phong lan chỉ có từ hồ thứ nhì và càng lên cao càng nhiều.
Phong cảnh thật đẹp. Sắc thái lại thay đổi theo ngày giờ theo thời tiết. Cho nên ngắm mãi không chán, đến luôn không nhàm.
Tất cả các cảnh suối, mỗi cảnh có một vẻ đẹp riêng. Suối Tiên thì đẹp thanh nhã. Suối Đổ, Suối Ồ Ồ thì đẹp chất phác. Suối Ngổ thì đẹp man dại. Đẹp hùng vĩ nhưng không thiếu mỹ miều chỉ có cảnh suối Ba Hồ.
Suối Ba Hồ có đôi nét phảng phất Suối Đổ, đôi nét mường tượng Suối Tiên. Giống Suối Đổ ở điểm hồ, giống Suối Tiên ở chiều dài và cảnh cây chen đá lá chen mây. Nhưng đặt Suối Đổ bên cạnh Suối Ba Hồ thì chẳng khác một em bé đứng bên cạnh một người lớn. Đặt Suối Tiên bên cạnh Suối Ba Hồ thì có thể liên tưởng đến Thúy Kiều với Từ Hải hay Ngu Cơ với Hạng Vương.
Đến chơi Ba Hồ ngày xuân, ngày hạ. Nằm trên tảng đá bằng phẳng, dưới bóng cổ thụ xanh tươi, nghe tiếng chim hòa tiếng suối, đón ngọn gió trộn mùi phong lan, thì bóng dáng người tiên nơi động Từ Thức hay động Thiên Thai thế nào cũng đi về trong giấc mộng.
Nhưng đến vào mùa thu mùa đông, nhất là sau những ngày mưa lụt, thì những cảnh nên thơ đều ẩn lánh. Nước từ trên đầu núi đổ xuống cuồn cuộn, ngầu ngầu, sóng lấp cả đá, chuyển cả rừng, tiếng dội ầm ầm như sấm dậy. Đứng tận trên cao ngó xuống, người yếu bóng vía không đủ can đảm đứng lâu.
Cho nên Suối Ba Hồ chỉ quyến khách du quan vào mùa nắng ráo.
Truyền rằng Ba Hồ rất linh thiêng.
Thời phong kiến, những năm nắng hạn, người địa phương thường đến cầu đảo. Hương án thường thiết nơi Hồ Thứ Hai. Lễ xong vị chủ tế lấy một hòn đá lớn kính cẩn quăng xuống hồ. Thế là nội nhật làm gì cũng có mưa, nếu không mưa khắp hạt thì cũng mưa trên nguồn đủ nước chảy xuống đồng ruộng.
Bởi vậy người địa phương ít người dám lên chơi ở Hồ Thứ Hai, Thứ Ba.
Còn du khách, vì trèo leo khó khăn, thường chỉ du ngoạn hồ Thứ Nhất, một số ít ráng lên đến hồ Thứ Hai. Hồ Thứ Ba thì dành cho những người mạnh chân khỏe gối, và có gan, bởi ngoài đá lớn cây to, thỉnh thoảng chúa sơn lâm cũng ra ngồi mát.
Khách phong tao cũng thường đến Ba Hồ ngâm vịnh. Gần đây Định Phong đến chơi, có để lại một bài hát ngậm ý cảm khái:
Hỡi mưu thần đất Việt,
Hỡi người đẹp Cô Tô:
Năm Hồ mây nước là mô,
Mà đây chỉ thấy Ba Hồ đá xây?
Đá lẫn cùng cây,
Mây xây cùng đá.
Suối tuôn lã chã,
Bóng ngã hình nghiêng.
Ai người luyện thạch bổ thiên?
Nghìn xưa núi chất còn nguyên đến giờ.
E.
Ba Hồ ở gần cuối Vĩnh Xương và nằm giữa đèo Rù Rỳ ở phía Nam và Ruột Tượng ở phía Bắc.
Từ Ba Hồ ra đèo Ruột Tượng rồi đi thêm chừng năm bảy cây số nữa, thuộc địa phận quận Ninh Hòa, thì có hai dòng suối nữa, danh tiếng tuy không được lẫy lừng như các dòng suối kể tên, nhưng chứa đựng nhiều cảnh nhiều chuyện kỳ bí.
Đó là: - Suối Đá Xẻ, - Suối Cát.
Hai ngọn suối này ở hai xã, cách nhau, nhưng vẫn chảy vào một con sông là sông Cầu Lâm.
SUỐI ĐÁ XẺ
Suối nằm trong địa phận xã Ninh Lộc.
Từ trụ sở xã đi lên Suối Ngả Hai, rồi lên Suối Ngả Ba. Đi khỏi Suối Ngả Ba thì đến Trường Bơi.
Trường Bơi là một khúc suối mở rộng, nước lênh láng và sâu lút đầu. Cá nhiều như cát.
Những khi trời nắng hạn, hễ nghe có tiếng ào ào như tiếng nước chảy tiếng gió thổi, ở nơi đây, thì biết rằng đó là báo hiệu trời sắp mưa.
Qua khỏi Trường Bơi thì phải băng ngang một rừng cây rậm mọc toàn mà ca, trên triền núi, tục gọi là Rượng.
Rượng rất sầm uất thâm u. Sườn núi lài lài. Đến mùa ân ái voi kéo về đây để thi hành nhiệm vụ “nối dõi tổ tông”. Voi cái đứng xiên xiên theo triền núi, đuôi thấp đầu cao, và vòi quấn chặt vào cây mà ca, để chịu đựng cùng đấng phu quân có khi nặng đến vài chục tấn. Ngày thường voi cũng hay tới lui nơi rượng, nhưng chỉ một vài con, chớ không kéo từng đoàn như lúc “đi công tác” thường lệ.
Cho nên người đi qua rượng phải để ý xem phân voi. Nếu thấy phân mới thì phải trở lại ngay, vì ở Khánh Hòa voi dữ hơn cọp.
Dòng suối băng qua rượng, chảy quanh co dưới bóng mà ca chập chờn trong đá, trong bóng đá. Rượng vắng vẻ, suối quạnh quẽ. Người đi qua cảm thấy lành lạnh toàn thân, nửa vì thần hồn nhát thần xác, nửa vì hơi nước suối hơi gió rừng.
Vì vậy, mặc dù quanh cảnh trong rượng rất ngoạn mục, không mấy ai dám triền miên ở lại để thưởng thức thỏa thuê.
Qua khỏi rượng mà ca thì đến trảng tranh săng.
Trảng rộng mênh mông và tranh săng xanh mịt mù. Khách không quen đường, rủi đi lạc vào trong tranh thì nhất định phải bị khốn như Lục Tổn vào thạch trận của Gia Cát Lượng. Nhưng nơi thạch trận có Hoàng Thừa Ngạn mở lòng nhân, chớ nơi trảng tranh chỉ có giống người bốn chân “dĩ sướng thân vị bản”.
Cho nên vào rượng mà ca phải đề phòng, mà lên trảng tranh săng cũng phải đề phòng theo thủ tục.
Để khỏi bị lạc, du khách cứ theo dòng suối mà tiến lên. Suối chảy trong tranh, nhưng không bị tranh che khuất ánh sáng mặt trời như trong rượng mà ca. Lòng suối nhuộm được sắc xanh của tranh, sắc xanh của trời, lại điểm thêm những bóng mây trắng, tạo thành một cuộn gấm Thượng Hải màu thanh thu thêu hoa dệt lá.
Vừa đi vừa ngắm cảnh, không mấy chốc thì đến một nơi cần phải chú mục chú tâm mới vượt qua khỏi. Đó là ba đống đá chồng chất lên nhau, hô hê húch hĩu, có lỗ có hang. Trên thực tế thì rất vững vàng, nhưng trông qua thì dường như gập ghềnh gập gử. Người địa phương gọi là: Gọp.
Gọp này qua gọp kia chỉ một bước nhảy. Nhưng gọp có hơi cao, nước chung quanh có hơi sâu, nên cần phải vững đầu gối mới mong khỏi xuống cung rồng hầu kiện.
Nhảy qua khỏi ba gọp này thì cũng như Quan Vân Trường qua khỏi ngũ quan.
Du khách đi một chặng đường ngăn ngắn nữa thì thấy nơi triền núi, đá xẻ ra thành một cái hang lộ thiên nằm ngay trên đầu suối.
Hang hình khối chữ nhật. Cao ngó trật ót, rộng trên dưới ba thước, ăn sâu vào lòng núi chừng năm thước. Phía trước là nước suối. Trên đầu và hai bên hông là vách đá. Vách hậu đầu hơi lài lài. Hai vách hông đứng sững và bằng bặng như vách xây.
Hang đã ăn sâu vào triền núi, lại còn ăn sâu xuống lòng đất, tạo thành một cái hồ hình chữ nhật, sâu đến vài ba sải. Hồ mệnh danh là:
HỒ ĐÁ XẺ
Hồ và hang là một, như ngực với bụng đối với khúc mình con người. Để giản tiện hóa việc xưng hô, người địa phương gọi chung là “Hồ Đá Xẻ”.
Nước trên nguồn theo triền núi chảy xuống hồ. Nước trong như lọc. Đứng trên miệng hồ nhìn suốt đáy. Những bầy cá bơi lội trong hồ, trông thấy rõ ràng từng cái vảy. Lấy một cắc bạc quăng xuống hồ chúng ta nhận được cả những tia ánh sáng phát sinh. Hơi nước bốc lên mát lạnh. Trời nắng nực, đi mệt tháo mồ hôi, lên đến mé hồ liền thấy khỏe khoắn, khoan khoái.
Nước nguồn chảy xuống hồ, hồ tràn thành suối.
Suối lấy hồ làm nguồn, nên từ hồ đến Ninh Lộc, suối mệnh danh là Suối Đá Xẻ.
Và vì núi có đá xẻ thành hồ nên người địa phương gọi luôn là Núi Đá Xẻ.
Nơi triền núi phía bên phải hồ, một tảng đá xanh vừa rộng vừa lớn dô ra như một mái hiên. Dưới mái hiên nền đá bằng phẳng, có thể nằm được vài chục người. Người ta gọi là: Nhà Đá.
Những khách lên chơi hồ thường đến nghỉ ngơi và đụt mưa nắng.
Nơi triền núi phía bên trái hồ, lại có một cảnh vườn rộng và xanh tươi suốt năm. Trong vườn có đủ thứ trái cây. Nhiều nhất là cam.
Cam rất sai trái và trái rất lớn. Thấy cam chín đỏ mọng và hương bay thơm ngát, không ai không thèm. Nhưng chớ vội mà cực thân.
Cam ngọt lắm, ngon lắm. Ăn vào thích thú phi thường. Nhưng ăn xong thì thấy khó chịu trong cổ, nếu không bị sặc đến ngút hơi, cũng phải khạc đến rách cuống họng. Do đó người địa phương gọi là:
Cam Sặc hay cam Khạc.
Đó là giống cam có chất độc. Nhưng những người mê tín bảo rằng vườn kia vốn của quỷ thần, người đời xâm phạm, nên bị trừng phạt.
Vì bị cam làm khổ rồi, nên không ai dám nếm thử các giống trái khác.
Lên đây, cữ ăn trái rừng, nhưng có một món ăn khác rất ngon, rất bổ, quỷ thần không cấm người tri vị cũng không cấm bạn dân thiên. Đó là giống Chà Khé.
Chà Khé hình thù giống như cua biển và cũng lớn bằng cua biển. Thịt ngọt. Ăn sống được. Chúng nằm dưới gọp đá. Muốn ăn, chỉ có việc dỡ những hòn đá ở quanh suối, bắt bẻ đôi ăn với lá giang mọc đầy đường. Nếu có sợ vi trùng ẩn náu trong thịt thì nhúm lửa nướng như nướng cua. Ăn đến no, không sợ phá bụng cũng không sợ phát ách.
Không cần muối. Nhưng có tí muối tiêu nữa thì thật là “thơ bất tận ngôn”.
Bợm rượu mà vớ được chà khé thì không “dục tiêu sầu” cũng “thả tự do”. Mùi vị thật đặc biệt, không biết lấy món gì mà ví cho ổn.
Cho nên muốn hưởng hết thú vụ của Suối Đá Xẻ phải đi nhiều ngày. Đến Trường Bơi ăn cá. Lên rượng mà ca rình xem voi. Đến hồ Đá Xẻ thưởng thức chà khé. Đó là những món gia vị vào cảnh thiên nhiên của non nước, làm cho du khách thêm khoái mục khoái tâm.
Còn một điểm nữa khiến cho Suối Đá Xẻ có tiếng. Đó là sự linh ứng trong việc cầu đảo.
Truyền rằng những khi hạn hán, người địa phương thường đến Hồ Đá Xẻ, thiết hương án mà cầu. Cầu xong lấy một hòn đá ném xuống hồ. Mặt hồ đương im vung nổi sóng. Sóng động lòng hồ động luôn lòng trời in đáy nước.
Cũng như ở Ba Hồ quận Vĩnh Xương, lòng trời ở Hồ Đá Xẻ động thì không kíp thời chầy thế nào cũng có mưa.
Xưa bày nay làm, và làm thường có kết quả. Nên dù sống trong đời khoa học thịnh hành, người địa phương vẫn tin ở sự linh ứng của Thần Phật. Và Hồ Đá Xẻ khởi điểm của Suối Đá Xẻ nổi tiếng là linh thiêng.
G.
SUỐI CÁT
Ở phía Tây Núi Đá Xẻ, nằm trong địa phận xã Ninh Hưng.
Từ thôn Tân Hưng đi vô Đồng Nẩy thì đến Suối Cát.
Trên bờ dưới nước toàn cát. Và cát trắng phau phau.
Hết cát đến đá. Đá mọc ngổn ngang, trên bờ có dưới nước có. Hòn to hòn nhỏ, lớp ngửa lớp nghiêng, hình trạng bất nhất.
Suối cát chảy dưới đồng bằng.
Suối đá chảy trong rừng, và chảy dọc theo triền núi, khúc quanh khúc thẳng, khi chạy dọc khi đâm ngang. Nước chảy rất mạnh, tiếng nghe rào rào như gió tạt lá rung.
Rừng sâu thăm thẳm. Cây cao rậm che khuất cả bóng mặt trời. Phần nhiều là cây gió. Chen cùng cây, đá hòn hòn lớn như đống rơm, kỳ hình dị dạng. Nhưng tuyệt nhiên không có gai.
Cứ theo suối đi lên mãi thì đến Ao Bà.
Ao Bà đối với Suối Cát cũng như Hồ Đá Xẻ đối với Suối Đá Xẻ. Nguồn còn ở trên núi cao, song suối lấy Ao Bà làm khởi điểm.
Ao Bà rộng chừng ba bốn sào ruộng, và sâu không biết bao nhiêu, vì chưa ai dám xuống thử. Chung quanh ao, đá nằm ngổn ngang, lớp này chồng lên lớp nọ, thành hố thành hang.
Ao nằm dưới chân một ngọn thác cao, hai bên là núi.
Nước trên thác chảy xuống tiếng dội vào vách núi, nghe ầm ầm như sấm.
Nước thác chảy xuống ao, ao tràn chảy ra suối. Tứ mùa tám tiết không tiết nào khô.
Ở ngoài đi vào, nơi sườn núi phía bên hữu ao, có một tảng đá to lớn nhô ra như một mái hiên. Dưới mái hiên, một cái hang đá ăn sâu vào núi, cao rộng có thể chứa được vài ba chục người, trông như một cái nhà đá.
Nơi sườn núi phía bên tả ao, lại có một tảng đá rộng lớn và bằng phẳng như một bộ ván ngựa kê trên những gọp đá, dưới chân có nhiều hang hầm hố hốc thông thương với nhau.
Bộ phản ngựa đá nầy đối diện cùng ngôi nhà đá kia, nhưng nằm dưới thấp. Còn ngôi nhà đá thì ở nơi lưng chừng. Có thể ví nhà đá là trang thờ, còn phản đá là cái kệ để đứng làm lễ.
Cảnh tượng hùng vỹ hơn Hồ Đá Xẻ nhiều lắm.
Hồ Đá Xẻ là một vị quan văn, khoan hòa nghiêm chỉnh. Ao Bà là một vị tướng võ mạnh bạo, nóng nảy và lúc nào cũng muốn ra oai.
Cho nên đứng trước Ao Bà, lòng người có phần sờ sợ.
Ao Bà cũng như Hồ Đá Xẻ, rất linh.
Những người đi tìm trầm, vào đây đều phải dâng lễ vật cầu khẩn.
Người ta cầu bà Thiên Y A Na. Vì trầm hương, kỳ nam ở đất Khánh Hòa này đều của Bà cả. Bà cho ai nấy được. Nếu Bà không cho thì dù đứng trước cây trầm cây kỳ cũng không nghe thấy mùi hương.
Truyền rằng Bà thường đến nghỉ chơi nơi ao. Do đó mới gọi là Ao Bà.
Chung quanh ao đều là rừng sâu. Cây gió rất nhiều. Cây gió là giống cây sanh ra kỳ nam và trầm hương. Mà những nơi có nhiều trầm kỳ là những nơi có nhiều cọp. Truyền rằng một số cọp đó là những người ngậm ngải tìm trầm hóa thân sau khi ngải tan hết. Cho nên có nhiều con cọp trông thấy người, ứa nước mắt rồi bỏ đi. Nếu lấy ngải đốt xông thì cọp hiện nguyên hình người như cũ.
Nhưng đó chỉ mới “bách văn” chớ chưa mấy ai được “nhất kiến”.
Đối với Ao Bà, mặc dù phong cảnh kỳ mỹ, khách du quan ít người tới lui. Bởi vì chẳng những sợ cọp, mà còn ngại đường xa. Từ Suối Cát đến Ao Bà, phải mất ít ra cũng một ngày nếu theo bờ suối, và phải mất trọn một buổi nếu đi đường tắt băng qua rừng.
Cho nên biết tường tận Ao Bà chỉ có những người thợ săn, thợ rừng và những người đi tìm trầm.
Thời Tiền Chiến, vào khoảng 1935, 1936, có một tu sĩ khất thực, người Huế, từ Suối Cát đi vào rừng, ngồi nhập định bên một tảng đá cao bên bờ suối.
Khi tu sĩ vào rừng thì người địa phương trông thấy. Nhưng ai cũng tưởng tu sĩ vào ngắm cảnh rồi trở ra nên không ai lưu ý.
Cách mấy tháng sau thợ rừng đi làm súc trông thấy tu sĩ ngồi chết khô trên đá. Lý hương và đồng bào thôn Tân Hưng được tin liền kéo vào rừng chiêm ngưỡng.
Tu sĩ ngồi kiết già, đôi mắt nhắm, trông như một tượng gỗ. Không một mùi hôi, không một con ruồi một con kiến bu đậu. Tấm vải vàng khoác trên thân, chiếc bình bát đặt bên gối, trải nắng sương mưa gió, vẫn giữ hình sắc lúc tu sĩ bước vào rừng.
Đồng bào không dám rờ tay vào thi thể tu sĩ. mỗi người rinh một viên đá chất chung quanh thành một ngôi mộ cao rộng và kiên cố.
Từ ấy đường từ Suối Cát vào Ao Bà đã ít người đi lại càng ít thêm, vì người đời sợ quỷ thần và người chết hơn sợ cọp.
Ngoài những suối kể trên, Khánh Hòa còn nhiều nơi khác nữa. Nhưng không có danh và đường đi nguy hiểm. Nên du khách đến Khánh Hòa dù yêu mến phong cảnh đến đâu cũng chỉ đến Suối Cát, Suối Đá Xẻ rồi trở vào Nha Trang để đi tìm những nơi danh thắng khác.
V.
Ở Khánh Hòa thắng cảnh nhiều hơn cổ tích.
Thắng cảnh chúng ta đã xem qua những nơi có thể đến xem được.
Còn cổ tích thì có:
- Tháp Poh Nagar tức Tháp Bà chúng ta đã thấy rồi.
- Phế lũy Chiêm Thành ở vùng Bắc Vĩnh Xương. Thời Gia Long còn một đoạn. Niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) bị san bằng. Hiện không còn dấu tích.
- Bia Võ Cạnh, bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ Phạn. Theo các nhà khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để định biên giới của Phù Nam và Chiêm Thành.
Bia dựng dưới một gốc cổ thọ làng Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương, bị cỏ bìm phủ lấp không mấy người để ý (xem cước chú).
Đó là di tích của Chiêm Thành.
Còn của người Việt Nam thì có:
- Lục Đồn là một đồn bằng đất ở phía Đông Nam núi Trại Thủy. Chu vi 36 trượng 4 tấc, cao 7 thước 5 tấc. Không biết đắp thời nào. Sau khi Nguyễn Ánh thắng được nhà Tây Sơn, có tu bổ lại để phòng ngự mặt biển. Qua triều Minh Mạng, bị phá hủy. Hiện không còn dấu tích.
- Thành Diên Khánh ở cách thành phố Nha Trang 10 cây số về hướng Tây. Đây là một di tích lịch sử của người Việt Nam còn sót lại trên đất Khánh Hòa.
- Lăng Bà Vú ở Ninh Hòa.
A.
THÀNH DIÊN KHÁNH
Thành nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh (nay là thôn Khánh Thành, xã Diên Thạnh). Chung quanh đắp đất, chu vi 336 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tấc. Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên có vọng lâu tứ diện thông phong.
Ngoài thành có hào sâu 8 thước, rộng 4 trượng, và luôn luôn đầy nước do sông Cái tháo vào.
Để ra vào, trước các cửa thành đều có xây cầu vồng bằng gạch.
Chung quanh hào lại có lũy bao bọc và có trại canh gác.
Cho nên thành tuy bằng đất nhưng rất kiên cố. Địch muốn công phá không phải dễ dàng.
Thành Diên Khánh do Nguyễn Phúc Ánh xây đắp năm Quý Sửu (1793) [13].
Ban sơ, các cửa thành đều bằng đất, và có đến sáu cửa. Năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) lấp bớt hai cửa và xây bốn cửa gạch kiên cố. Đến thời Pháp thuộc lại lấp thêm hai cửa Tiền và Hậu. Hiện nay chỉ còn cửa Đông và cửa Tây.
Từ đời Gia Long đến cuối thời Pháp thuộc, Thành Diên Khánh là nơi đóng cơ quan đầu não địa phương của nhà Nguyễn.
Trong thành có Hành Cung của nhà vua, có dinh thự của các quan thủ hiến, có những Ty, Tào, đồn, trại. Tòa ngang dãy dọc, kèo chạm cột sơn... Quang cảnh thật trang nghiêm khang phú.
Phong quang rực rỡ nhất vào thời Thiệu Trị (1840-1847) Tự Đức (1847-1883).
Đến cuối triều Hàm Nghi, năm Ất Dậu (1885), nghĩa binh Cần Vương lấy làm cơ sở kháng chiến. Quân Pháp nã đạn đại bác vào tàn phá hết một số dinh thự [14]. Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp liền phá hủy vòng lũy và lấp cạn vòng hào ở quanh thành, lại triệt hạ cửa tiền và cửa hậu. Từ ấy cảnh hào hoa mỗi ngày mỗi giảm sút.
Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945) Nhật đảo chánh Pháp. Quyền cai trị giao cho Triều Đình Huế. Cơ quan tỉnh Khánh Hòa bỏ thành Diên Khánh, dời xuống Nha Trang. Cơ quan hành chánh phủ Diên Khánh dời vào thành. Lúc bấy giờ dinh thự đã hư quá nửa vì lâu đời. Quang cảnh thật tiều tụy.
Sang thời chiến tranh Việt Pháp, những công thự trong thành hoàn toàn bị phá hủy. Hiện nay dấu xưa còn lại chỉ có nhà lao xây đá ở gần cửa Đông!
Còn vòng thành bằng đất, trên 80 năm trời mưa nắng, không được bồi đắp, nên trụt thấp lần lần. Lại thêm bìm lau xâm lấn, trông không còn vẻ hùng tráng của ngày xưa.
Tuy vậy, đối với những người háo cổ, một viên gạch xưa còn sót lại vẫn là vật đáng giá vàng châu. Cho nên đã không đủ sức gìn giữ thành Diên Khánh cho trọn vẹn như ngày xưa, tưởng không nên nhẫn tâm phá hủy như thành Quảng Nam, Bình Định.
Truyền rằng từ ngày giặc Pháp đánh thành Diên Khánh, ngoài một số chiến sĩ ra, lương dân trong thành nhiều người bị thiệt mạng. Oan hồn không tiêu, hóa thành ma quái. Những đêm thanh gió mát, người ta thường trông thấy bóng ma đi thơ thẩn chung quanh dinh trại và hành cung. Có lắm người bị vương vẩy, phải cúng kính mới nạn khỏi tai qua. Hay quấy phá nhất là ba nữ quái, tục gọi là Ba Cô.
Ba Cô, cô nào cũng trẻ cũng đẹp. Nhiều khi hiện hình cả lúc ban ngày và nói cười như người sống. Những chàng trai trẻ không biết, có điều bất kính, thường bị bắt đau ốm có khi đến điên cuồng.
Quan Tỉnh lo sợ lập một am nhỏ ở trước dinh thờ phụng. Từ ấy bớt tác quái và ai cầu gì cũng linh thiêng.
Am ấy tục gọi là Am Cô. Thời Pháp thuộc, tất cả các quan đầu tỉnh đều tỏ lòng cung kính. Khói hương không mấy lúc tàn.
Dưới triều Thành Thái (1889-1907) một viên thừa phái trẻ tuổi, có tiếng là háo sắc, đổi vào làm Ty Niết Khánh Hòa. Thầy thừa ăn cơm tháng nhà bạn và mướn nhà ở riêng một mình.
Một đêm ngồi một mình, thấy có bóng người qua qua lại lại ở trước ngõ, dáng như chờ đợi cuộc hẹn hò. Thầy thừa bước ra xem thì thấy một người con gái có nhan sắc. Buông lời trêu ghẹo. Người con gái nhoẻn miệng cười. Lại gần cầm tay. Không chút kháng cự. Thích quá kéo vào nhà bày chuyện mây mưa.
Sáng hôm sau không thấy thầy thừa đến Ty, quan cho người đến gọi. Trước sau vắng vẻ. Xô cửa vào phòng, thấy thầy Thừa cùng một mụ ăn mày rách rưới bẩn thỉu ôm nhau nằm ngủ ngon lành. Đánh thức dậy, thầy thừa hoảng hốt, mụ ăn mày cũng hoảng hốt, bỏ chạy như người điên.
Sau khi bình tĩnh trở lại rồi, thầy thừa mới thú thật mọi nỗi. Ai nấy đều cho là bị ma mà mắc, trông gạch nát hóa vàng mười! Và ai cũng đoán chắc rằng là Ba Cô trừng trị để thầy chừa thói trăng hoa. [15]
Dưới triều Duy Tân (1907-1916) lại xảy ra một chuyện nữa, cũng như chuyện trên, khó tin rằng có, khó ngờ rằng không!
Thời bấy giờ cụ Đào Phan Duân, đậu phó bảng, người Bình Định, ngồi Tuần Vũ. Nhân ngày Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 (Gia Long phục quốc), cụ rước bạn hát Bình Định vào hát mừng. Các kép nổi danh trong tỉnh đều có mặt. Cầm đầu toàn ban là Bát Phàn, Cửu Khi và Chánh ca Đựng.
Ngày mồng 2, sau khi bái mạng ở Hành Cung rồi, thì khởi sự hát cho đến xế. Buổi chiều bạn hát nghỉ để dưỡng sức hát buổi tối.
Đèn vừa đỏ, trong dinh tuần vũ, các quan cùng thân hào nhân sĩ lo vào tiệc để rồi đi xem hát cho sớm. Ngoài rạp, đào kép đã vẽ mặt bận áo xong xuôi, ngồi đợi các quan ra khai mạc.
Bát Phàn, Chánh ca Đựng và Cửu Khi đương ngồi uống nước dưới trang Tổ, chợt thấy ba người thiếu nữ ăn mặc theo kiểu thành thị và toàn đồ trắng, má phấn môi son, đầu trần, tóc bỏ xõa, vẹt màn bước vào, tươi cười nói:
- Lũ bay ra làm tuồng cho chị em ta coi. Khi sáng mắc đi vắng không được thưởng thức tài nghệ Bình Định.
Mọi người đều tưởng là người trong dinh. Bát Phàn đáp:
- Chúng tôi không được lệnh. Nếu quý cô muốn xem sớm thì vào xin phép cụ.
- Lũ bay vào xin đi.
- Chúng tôi không dám.
- Chị em ta cũng không dám,
Nói rồi biến mất. Chừng ấy mới biết là ma.
Thấy trước dinh tuần vũ có am thờ, anh em nghệ sĩ hỏi ra mới hay ma đó là Ba Cô thờ trong am. Ai nấy đều thất kinh!
Câu chuyện không mấy chốc truyền khắp tỉnh Khánh Hòa rồi truyền ra đến Bình Định.
Lúc cụ Đào Phan Duân làm Tuần Vũ Khánh Hòa thì ông Nguyễn Đình Văn làm Án Sát.
Quan án đàn rất hay.
Một đêm quan đốt trầm, một mình ngồi gảy đàn, thì bỗng nghe tiếng họa từ trong vách đưa ra. Âm thanh tuyệt diệu. Quan ngờ rằng Ba Cô ngoài am trêu cợt, nên bình tâm chính ý ngồi gảy cho hết khúc đàn.
Khúc đàn dứt, một người đàn bà diễm lệ xô cửa bước vào. Quan án giật mình! Người đàn bà cười, nói:
- Thiếp không phải là một trong Ba Cô thờ nơi am, mà là người có lương duyên cùng quan án.
Nói đoạn, ung dung đến ngồi nơi kỷ và tiếp:
- Thiếp là ma, nhưng không có tà ý. Cảm phục tiếng đàn của quan lớn nên không nề u hiển, đến xin được kết duyên sắc cầm.
Người đẹp như hoa, giọng nói trong như ngọc. Trong đêm thanh vắng, không mấy ai có thể làm Liễu Hạ Huệ hay Nhan Thúc Tử, mặc dù biết đó là ma.
Cho nên quan án Nguyễn Đình Văn đã cùng người đẹp vầy cuộc ái ân, nơi văn phòng tĩnh mịch. Đêm này sang đêm khác, “đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm”. Nhưng người ngoài và cả vợ con trong nhà không một ai hay biết.
Một hôm quan án, sau buổi làm việc, đến chơi dinh Tuần Vũ. Cụ Đào cầm lại ăn cơm tối rồi đánh tổ tôm cho vui. Ông Nguyễn từ chối. Cụ Đào có ý bất bình. Ông Nguyễn phải đem chuyện kín của mình ra thú thật, và nói:
- Ban ngày đi đâu thì đi, làm gì thời làm. Nhưng từ lúc mặt trời lặn cho đến gà gáy sáng thì phải dành trọn cho nàng. Có việc thì phải báo trước. Nếu không tất bị nhiều chuyện cực lòng.
Cụ Đào tin lời, không nỡ ép.
Sau đó ông Nguyễn được thăng Phủ doãn Thừa Thiên. Người đàn bà ma cũng theo về Huế. Không bao lâu quan Phủ Doãn thất lộc. Không biết tại số hay tại ma [16].
Cuộc đời trải nhiều dâu bể. Những chuyện xưa, hoang đường cũng như thực hữu, đã cùng cung đình dinh trại trong thành Diên Khánh, theo mây khói tan vào cõi hư vô. Hiện nay cơ quan hành chánh quận đóng trong thành. Cảnh vật đã thay đổi mới. Những người qua lại hằng ngày cũng như những người đến thăm chơi chốc lát, không mấy ai đi sâu vào những lấp cỏ mờ rêu, để bâng khuâng chút lòng cảm cựu.
Gần đây Cổ Bàn Nhân đến viếng thành, có mấy vần cảm tác:
Thành cũ đìu hiu vách nắng mưa,
Phong quang một mảnh bể dâu thừa.
Cờ lau phất gió cung rồng lấp,
Búa nguyệt mài sương ngục thép lưa!
Theo mới bụi lầm xe ngựa mới,
Tìm xưa tro lạnh miếu am xưa!
Bên hào sen lụn chân dừng bước,
Tiếng địch chiều thu trận cúc đưa.
B.
LĂNG BÀ VÚ
Lăng ở thôn Mỹ Hiệp, cách quận lỵ Ninh Hòa chừng một cây số.
Kiểu thức rập theo các lăng vua ở Huế. Tuy không nguy nga tráng lệ bằng lăng vua, nhưng ở miền Nam Trung Việt không thấy ngôi mộ nào có thể sánh về quy mô cũng như về kiến trúc.
Lăng nằm dưới chân một ngọn đồi, mặt hướng về Đông Nam. Hình chữ nhật. Có ba lớp thành:
- Thành ngoại, chiều ngang chừng 12 thước, chiều vô ra chừng 20 thước, chiều cao chừng một thước năm. Ở mặt trước có chừa cửa. Hai bên cửa có hai trụ ba biểu đội hai con kỳ lân ngồi đối diện. Phía trong cửa một bức bình phong cao rộng đứng chắn ngang. Lưng thành cao hơn mặt thành và xây hình cánh cung.
- Qua khỏi bình phong đến lớp thành thứ nhì. Cao chừng một thước. Cửa thành núp sau bình phong, và hai bên cũng có hai con kỳ lân ngồi đối diện.
- Vào khỏi cửa đến lớp thành thứ ba ôm lấy phần mộ. Thành thấp. Phía trước có nhà bia khắc bài ký ghi công đức của người dưới mộ.
Trên mặt tường phía trong lăng đắp nhiều hình ảnh nhiều tranh cảnh, nét đắp tinh xảo, như lưỡng long triều nguyệt, ngư tiều canh mục, Trúc Lâm thất hiền...
Lăng này của vua xây.
Truyền rằng: [17] Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh. Chạy đến Mỹ Hiệp thì trời vừa tối. Bộ hạ vừa mệt vừa đói, Nguyễn Ánh lại thụ bệnh, không thể đi được nữa. Tình cảnh thật nguy khốn. Một người đàn bà trong thôn thấy vậy, đem về nhà cho ăn uống và lo thuốc thang. Nhờ đó mà thoát nạn.
Đến khi lên ngôi cửu ngũ, Nguyễn Ánh nhớ công ơn, muốn đền đáp, thì người ơn đã qua đời. Không rõ tên họ là gì nhà vua bèn phong hiệu là Nhũ Mẫu tức Bà Vú và truyền bộ Công đưa thợ vào xây dựng lăng. Nhà vua lại cấp cho một sở ruộng giao cho làng sở tại làm ruộng hương hỏa.
Mỗi năm đến ngày kỵ của bà, là ngày 12 tháng chạp âm lịch, quan tỉnh Khánh Hòa phải đứng ra chủ tế.
Lệ ấy từ ngày Pháp đô hộ Việt Nam, không còn thi hành nghiêm chỉnh. Và đến ngày toàn dân đứng lên chống Pháp, thì bỏ hẳn.
Ngày nay hương khói đã lạnh lùng mà phần mộ của bà cũng bị bìm lau lấp kín. Đường đi đến lăng lại bị phá hoại. Khách du quan muốn đến viếng không thể nào đi đến nơi!
Về Cổ Mộ Khánh Hòa còn nhiều như:
- Ngôi mộ ở sau trường Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương.
- Ngôi mộ ở trước chùa Kim Liên tại ấp Đông Dinh quận Diên Khánh.
- Vân vân...
Nhưng kiểu thức không có gì đặc biệt.
Ngôi mộ ở Võ Cạnh truyền là của một vị tướng bị tử trận, đầu bay từ nơi chiến trường về đến làng quê. Nhưng hỏi họ tên và thời đại, người địa phương ở gần mộ đều cười “thông qua”.
Còn ngôi mộ trước chùa Kim Liên của ai cũng không ai biết. Nơi bia chỉ khắc “Tổ khảo chi mộ” và hai bên khắc câu đối:
Thiên sanh tàng bạch cốt,
Vạn cổ giám trung trinh.
Nghĩa là:
Nghìn đời chôn cốt trắng,
Muôn thuở rạng lòng trung.
Mộ quay đầu ra Bắc, chân trở vào Nam. Lấy hòn Dữ ở Diên Khánh làm hậu đầu và hòn Đồng Bò ở phần đất Diên Khánh làm tiền án.
Theo cách phân hướng và tinh thần câu đối, thì người trong mồ là người có quyền vị của thời trước chớ không phải người bạch đinh.
Nhân nói về Lăng Bà Vú, cũng nói qua cho vui vậy.
VI.
NHỮNG NƠI THỜ PHỤNG
Coi như thắng cảnh cổ tích những nơi thờ phụng, như đền miếu, chùa chiền, xây cất đã trên trăm năm, hoặc dưới trăm năm mà có những dấu tích cũ, sự tích xưa đáng lưu truyền, hay có những phong cảnh đẹp, kiến trúc lạ đáng thưởng ngoạn.
Về phương diện tôn giáo không đề cập ở chương này. Nếu có nói qua, cũng chỉ để tô điểm cho cảnh vật mà thôi. Điều cốt yếu là đưa ra những cái xưa, cái lạ, cái đẹp, cái thú trong những cảnh vật hoặc đã mất hình nhưng còn bóng, hoặc đương còn hình tướng nhưng cái còn đó chỉ là hậu thân...
A.
ĐỀN MIẾU
Tỉnh Khánh Hòa, cũng như các tỉnh khác ở Trung Việt, thời xưa đều có đắp những đàn để tế Trời Đất, tế Núi Sông, tế Quỷ Thần, như:
- Đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
Đó là đàn tế Trời Đất, dựng năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Đàn lộ thiên. Hai tầng đắp bằng đất. Tầng dưới vuông 10 trượng 4 thước 5 tấc, cao 1 thước 3 tấc. Tầng trên vuông bốn trượng hai thước 3 tấc, cao 2 thước 5 tấc. Mặt xây về hướng Bắc.
Đàn Xã Tắc ở các tỉnh là hình ảnh thâu nhỏ của Đàn Xã Tắc ở Kinh Đô Huế.
Quan đầu tỉnh thay mặt nhà vua đứng tế.
- Đàn Tiên Nông ở ngoài cửa Đông thành Diên Khánh.
Đàn tế Thần Nông. Xây năm Minh Mạng thứ 13, sau khi xây xong đàn Xã Tắc. Đàn cũng bằng đất, một tầng. Vuông 3 trượng 6 thước, cao 2 thước bảy tấc.
- Đàn Sơn Xuyên ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
- Đàn tế Sông Núi. Xây năm Tự Đức thứ 5 (1852). Một tầng. Cũng bằng đất, cao rộng tương tự đàn Tiên Nông.
Những đàn nầy đã đổ nát từ ngày phong kiến nhường bước cho thực dân và hiện nay đã bị cào bằng thành bình địa không còn mảy may dấu tích!
Đó là những nơi tế tự dành riêng cho giai cấp cai trị địa phương.
Chung cho mọi tầng lớp nhân dân là các đền các miếu.
Những đền miếu quan trọng, tên được ghi vào sử sách, thân còn vững với nắng mưa, hiện nay không còn được mấy.
Ở Diên Khánh có:
- Miếu Thái Tử,
- Đền Thiên Y A Na,
- Miếu Văn Thánh,
- Miếu Thành Hoàng,
- Miếu Hội Đồng.
Ở Vĩnh Xương có:
- Miếu Sinh Trung,
- Đền Quá Quan.
Ở Vạn Ninh có:
- Đền Mã Cảnh,
- Đền An Lương.
Còn một số ít nữa, tên tuy không thấy trong sách vở, nhưng danh được miệng thế truyền đi xa, như:
- Miếu Cây Dầu Đôi, Cây me ở Diên Khánh,
- Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa, vân vân.
Những đền miếu này, quy mô không được rộng lớn, kiến trúc không có gì kỳ mỹ, cách trang trí cũng không lấy gì làm sang trọng xứng đáng với những vị thờ trong miếu trong đền. Lại thêm không được săn sóc thường xuyên, nên quang cảnh nhiều nơi hết sức tiêu điều ảm đạm. Người vãng cảnh nếu không nặng lòng cảm cựu thì không mấy ai có thể đứng lâu.
MIẾU THÁI TỬ
Ở tại Xuân Đài, thôn Phước Lương, xã Diên Phước.
Miếu đứng dưới chân Hòn Ngang, cuối Đồng Lớn. Bên cạnh có một bụi tre sum sê và trước mặt một con mương gọi là Mương Hai chạy quanh co từ thôn Đảnh Thạnh vào Đồng Lớn.
Miếu là một tiểu đình, mái ngói cột săn, từ điện thông phong, đứng che một tảng đá vuông vức, mỗi chiều trên một sải, nằm giữa một đám đá lởm chởm.
Trong miếu không có bàn thờ. Từ khí từ vật là một bàn cờ bằng đá có đủ bộ con cờ cũng bằng đá, một đôi giày đá và một bộ cối chày đá.
Truyền rằng tảng đá vuông kia là tượng của Thái Tử.
Hỏi Thái Tử là ai thì người địa phương đáp rằng là con vua Tần. Vua Tần tức là vua Chàm. Tên nhà vua là gì không ai biết. Hỏi vì sao lại lấy tảng đá làm tượng, cũng không ai biết vì sao. Chỉ xưa thờ sao nay thờ vậy.
Miếu đã trùng tu nhiều lớp. Truyền rằng rất linh thiêng. Trong vùng, mỗi lần có người gặp chuyện oan ức nan giải, thường đem nhau đến miếu thề thốt. Thề xong cầm chày đá giã vào cối, vừa giã vừa lặp lại lời thề. Nhiều khi rất linh ứng. Vì vậy nhân dân địa phương rất kính sợ, không ai dám xâm phạm và ít người dám đến gần.
ĐỀN THIÊN Y A NA
Ảnh: Huỳnh Nam

Thường gọi là Am Bà, ở trên hòn Qua Sơn tức Núi Chúa, trong thôn Đại Điền Trung, quận Diên Khánh. [18]
Truyền rằng bà Thiên Y A Na giáng trần tại đây, và hiển thánh tại núi Cù Lao. Cho nên ở Cù Lao có tháp ở đây có đền...
Đền lập đã lâu đời và đã trùng tu nhiều lớp.
Trong đền có thần tượng bằng mít. Thời kháng chiến chông Pháp tượng bị hư, nhân dân địa phương tạc lại một tượng bằng thạch cao, thay thế.
Ngôi đền không mấy đẹp. Nhưng phong cảnh chung quanh thật thanh kỳ.
Phía sau, núi cao đá dựng, cây cối vướng víu cùng khói mây.
Trước mặt, đồng lúa xanh bát ngát, và nhà cửa ẩn hiện trong vườn chuối bờ tre.
Sau núi có hang cọp. Truyền rằng xưa kia có một con cọp mun ẩn náu. Cọp tu nên rất hiền, không bao giờ phạm sát.
Trước đền có hai cây mã tiền, tức cây cổ chi sống lâu đời. Cội cao tàn cả. Dưới gốc cây có mộ ông Tiều bà Tiều là cha mẹ nuôi của bà Thiên Y. [19]
Thời thái bình, đền Thiên Y rất được du khách chú ý. Các tay phong nhã cũng thường đem nhau đến ngâm vịnh. Ai nấy đều khen là cảnh nên mộng nên thơ và đều say với cảnh:
Hương trầm thoảng vị gió đưa,
Mây trương cánh hạc nghìn xưa chập chờn.
VĂN MIẾU
Thờ đức Khổng Tử và tứ phối.
Ở thôn Phú Lộc, quận Diên Khánh.
Xây cất năm Gia Long thứ hai (1803). Trước kia ở phía trên nổng gò tục gọi Hòn Tháp [20]. Sau bị lụt xói sông Cái lở vào tận chân miếu, nên phải dời miếu xuống hướng Đông. Đó là vào năm Tự Đức thứ hai (1849).
Trước kia Văn Miếu cũng không rộng lớn lắm. Đến thời Pháp thuộc, nhất là sau khi chữ Hán cáo chung, việc tu bổ lơ là dần dần. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp thì bị sập đổ nhiều nơi. Hiện nay miếu chỉ còn là một ngôi nhà ngói ba gian hai chái, trung trung, và cũ kỹ.
Bên cạnh miếu, dưới gốc một cây cổ thọ, có một bàn thờ xây gạch. Đó là bàn thờ Chúa Sơn Lâm, tức là Cọp. Mỗi lần tế miếu, đều đem một tợ thịt heo ba sườn ra đặt nơi bàn thờ. Truyền rằng: Lúc miếu còn ở phía Tây, cũng như khi miếu đã dời sang Đông, hễ tế xong thì cọp đến tha thịt đi, cọp tỏ vẻ hiền lành như một con gia súc. Lại có lắm đêm cọp về nằm ngủ nơi bàn thờ. Ngủ đã giấc rồi đi chớ không bao giờ làm hại đến người hoặc súc vật.
Từ ngày bỏ cúng tế theo cổ tục, cọp không về nữa.
Khi xưa lựa thôn Phú Lộc để lập Văn Miếu, một là vì thôn ở bên nầy sông, đối diện cùng tỉnh thành ở bên kia sông, cách mà không xa, việc đi lại tiện lợi. Hai là vì thôn Phú Lộc là một thôn trù phú và có nhiều nhân vật có uy danh.
Trong thôn, gần Văn Miếu, có Trường Văn và Trường Võ. Cạnh trường võ có lò đúc súng, gọi là lò gang. Ở xóm Đông lại có lò làm giấy.
Nhờ vậy mà thời phong kiến thịnh vượng, thôn Phú Lộc nổi danh nhất Diên Khánh. Và con sông Cái được mang tên Phú Lộc vào sử sách, mặc dù sông chảy qua nhiều thôn.
Cũng nằm trong thôn Phú Lộc, miếu Hội Đồng và miếu Thành Hoàng.
MIẾU THÀNH HOÀNG
Miếu cất trên ngọn đồi Sơn Lâm, ở phía Đông Bắc Văn Miếu. Dựng năm Thiệu Trị thứ năm (1845).
Sơn Lâm là một ngọn đồi bằng đá đứng sững giữa đồng bằng. Hình tròn đỉnh nhọn. Cây cối sầm uất.
Bên đồi có một ao nước rộng chừng một sào.
Bóng núi ngã vào ao trông như ngòi bút lông chấm vào nghiên mực.
Do đó người địa phương gọi đồi là hòn bút, gọi ao là dĩa nghiên. Tức là Bút Sơn và Nghiên Trì.
Khi quan Tỉnh chọn ngọn đồi để cất miếu Thành Hoàng, các nhân sĩ trong thôn không bằng lòng, song phép quan không dám cãi. Đỉnh núi bị phá bằng. Cây cối bị đốn trụi để lấy gỗ làm miếu. Hòn Sơn Lâm không còn giữ được quang cảnh thâm u của nghìn xưa.
Truyền rằng: Trước khi hòn Sơn Lâm chưa bị xâm phạm thì trong thôn có nhiều người học hành phát đạt. Nhưng từ khi “ngọn bút bị tà” thì việc học lần lần bị sút kém và văn phong văn khí không còn thịnh vượng như xưa.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Nằm phía Nam miếu Thành Hoàng.
Cất năm Gia Long thứ mười lăm (1816) bằng tranh. Trùng tu năm Tự Đức thứ hai (1849) lợp ngói.
Ở Bình Định cũng có miếu Hội Đồng ở An Nhơn.
Nhưng ở Bình Định thờ khác, Khánh Hòa thờ khác.
Bình Định thờ Tam Giáo Đạo sư:
- Ở giữa thờ Phật với tượng Tam Thế.
- Phía tả thờ Tiên với tượng Tam Thanh.
- Phía hữu thờ Thánh với tượng Tam Tòa [21].
Còn ở Khánh Hòa lại thờ Thần: Dương thần và Âm thần. Có sáu bài vị:
- Hội đồng Thượng đẳng Dương Thần,
- Hội đồng Trung đẳng Dương Thần,
- Hội đồng Hạ đẳng Dương Thần.
- Hội đồng Thượng đẳng Âm Thần,
- Hội đồng Trung đẳng Âm Thần,
- Hội đồng Hạ đẳng Âm Thần.
Miếu ở Bình Định đã bị thời gian làm đổ nát rồi tay người hủy hoại từ lâu. Còn miếu ở Khánh Hòa gần đây đã biến thành trường.
Trước miếu hiện còn cây cổ chi tức cây mã tiền, sống lâu đời, thân cao tàn cả. Những gì của ngày xưa còn lại chỉ tìm thấy nơi gốc cổ thọ này.
TAM TÒA
Miếu ở phía Đông Miếu Hội Đồng. Không biết cất thời nào vì Đại Nam Nhất Thống Chí không thấy chép. Có lẽ do địa phương đứng cất nên không được sử sách ghi tên.
Ở Bình Định cũng có đền Tam Tòa, gọi là Tam Tòa Sơn Thần Từ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì đền này do người Chiêm Thành lập ra để tỏ lòng nhớ ơn Oai Minh Vương con thứ tám vua Lý Thánh Tông, vì đã có công giúp vua Chiêm dẹp yên loạn trong nước. Sau vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành đến cửa Thi Nại, lên đền cầu đảo và phong làm “Tam Tòa Sơn chi thần”. Đền ở trên núi Phương Mai, tại biển Quy Nhơn.
Nhưng theo lời các bậc phụ lão địa phương thì đền Tam Tòa Phương Mai do người Việt Nam lập để thờ chư vị thánh mẫu. Trên hết thờ:
- Đệ Nhất Thiên Thai,
- Đệ Nhị Thiên Đế,
- Đệ Tam Thiên Vị.
Rồi đến:
- Tây Cung Vương Mẫu.
Tiếp theo:
- Thập nhị tiên nương, tục gọi 12 bà mụ,
- Lục thập Bổn Mạng Tiên Bà.
Đó là chỉ nghe truyền, chớ hiện thời đền không còn mảy may dấu tích, nên không biết sách chép đúng hay lời trong thế gian đúng [22].
Còn Tam Tòa ở Khánh Hòa thì gồm có ba ngôi:
- Ngôi chính thờ bà Thiên Y A Na với mười bản sắc của vua nhà Nguyễn phong tặng.
- Ngôi bên tả thờ thần Bạch Mã.
- Ngôi bên hữu thờ thần Ngũ Hành.
Và theo lời các vị phụ lão địa phương thì đền gọi là Tam Tòa bởi vì đền gồm có ba ngôi vậy.
Đền không lấy gì làm đồ sộ nguy nga, song trang nghiêm thanh tịnh. Du khách bước chân vào đền tự nhiên cảm thấy bầu không khí linh thiêng huyền bí vây bọc chung quanh. Dù kẻ khinh bạc đến đâu cũng không dám hỗn xược phá phách.
Nhờ vậy nên trải nhiều cơn dâu bể, đền vẫn không bị hư hại bởi tay người.
MIẾU CÂY DẦU ĐÔI
Miếu ở ấp Phật Tỉnh, thôn Phú Ân Nam, cạnh Quốc Lộ số 1 về phía Nam.
Miếu thờ thần “Quan Đại Thánh”. Vì nằm dưới bóng Cây Dầu Đôi, nên người đời lấy tên cây mà gọi miếu.
Cây Dầu Đôi là một “cổ tích” của Khánh Hòa. Cây sống trên trăm năm. Một gốc hai thân. Mỗi thân lớn đến ba ôm và cao cũng đến mười lăm hai mươi thước, đứng song song như hai trụ kình thiên, trông thật hiên ngang ngạo nghễ.
Cây Dầu Đôi chẳng những là tên cho miếu mà còn làm tên cả cho vùng. Người ở các nơi bảo đến Phật Tỉnh thì có lắm người không biết là nơi nào chớ nói đến Cây Dầu Đôi thì không một ai không biết.
Người địa phương rất quý trọng Cây Dầu Đôi. Quý trọng vì tuổi tác vì lợi ích.
Chẳng những quý trọng mà còn kính sợ e dè. Đó là vì cây đứng cạnh miếu, mà miếu lại có tiếng rất linh.
Truyền rằng: Thời Pháp thuộc, có một lúc cả vùng Cây Dầu Đôi bị bệnh dịch hạch, người chết khá nhiều. Thần đạp đồng lên cho biết rằng có ba con quái thử to lớn đã đem tai nạn đến gieo rắc trong vùng. Chúng ẩn trong hang dưới bụi duối sau miếu. Thần ban cho ba đạo phù, bảo đem đốt ở nơi miệng hang, rồi đào miệng hang cho rộng , lấy vôi bột đổ vào. Chung quanh hang lại bao lưới. Nếu quái vật chết trong hang thì thôi, bằng chạy ra ngoài thì lấy vôi vãi lên mình và lấy gậy đứng xa mà đánh. Người trong thôn làm theo và giết được ba con chuột cống lớn tày bắp vế. Lại theo lời thần dạy, những nhà có người chết đều rải vôi, và người sống phải tránh xa trong một thời gian. Nhờ vậy mà nạn dịch dứt. Người trong thôn trước kia đã tin thần linh, từ ấy lại càng tin thêm.
Sau rồi mới biết ba con chuột kia vốn của viện Pasteur nuôi để làm thí nghiệm về thuốc trị dịch hạch. Ba con chuột bị sẩy. Nhân viên ở Viện chỉ tìm quanh quẩn trong vùng Nha Trang, không ngờ chúng chạy lên đến Diên Khánh.
Ngoài chuyện trừ bệnh dịch hạch rất khoa học, người địa phương mỗi lần có việc đến cầu đảo, Thần đều ứng vào mộng hoặc vào đồng vào cơ.
Nhưng lần lần lòng người tin khoa học hơn tin thần thánh, miếu Cây Dầu Đôi cũng lần lần bớt linh thiêng. Tuy vậy người địa phương đối với miếu với thần vẫn còn kính sợ, và hương khói vẫn còn đượm nồng.
MIẾU CÂY ME
Miếu thuộc địa phận thôn Phú Ân Nam, cách miếu Cây Dầu Đôi chừng vài trăm thước, bên cạnh đường Quốc Lộ số 1.
Thờ Phấn Nhĩ Quỉ Vương Thần Nữ, nhưng vì nằm dưới gốc cây me cổ thọ nên gọi là Miếu Cây Me.
Cây Me này sống đã lâu đời lắm, lâu đời hơn cây Dầu Đôi nhiều. Gốc to đến mấy ôm và ruột bộng. Tàn rộng, nhánh gân guốc khẳng khiu. Đây cũng là một món “đồ cổ” quý giá.
Miếu tựa cây me, cây me tựa miếu. Cây me nhờ miếu mà thiên hạ không giám xúc phạm. Miếu nhờ cây me mà tiếng bay khắp Bắc Nam. Nói miếu Cây Me thì ai cũng biết, chớ nói miếu thờ Bà Phấn Nhĩ Quỷ Vương thì không mấy người biết.
Miếu Cây Me linh có tiếng. Đi ngang qua, kẻ ngồi xe ngựa, phải xuống xe ngựa, kẻ đi bộ phải lấy nón cúi đầu.
Truyền rằng: Tả Quân Lê Văn Duyệt đi ngang qua miếu, cờ biển võng lọng nghênh ngang. Quân bẩm:
- Miếu linh thiêng, cúi xin ngài xuống võng. Tả Quân bảo cứ đi. Hai tên khiêng võng không dám cãi lệnh. Vừa tới ngang miếu thì bụng tự nhiên đau nhói ngã quỵ, tay phải thả võng để ôm bụng... Tả Quân bị té xuống đất. Đứng dậy phủi áo, cười:
- Tôi đi có việc gấp. Chị làm rắc rối làm chi thế, chị Phấn?
Hai người khiêng võng liền hết đau bụng. Tả Quân lên võng đi.
Câu truyện lan truyền, thiên hạ đã sợ càng thêm sợ.
Lại truyền rằng: Khi Khánh Hòa đã có xe kéo lên xuống Thành Diên Khánh và Nha Trang thì có nhiều chuyện kỳ quái xảy ra. Những anh phu xe đi gần đến miếu thì cắm đầu cắm cổ chạy chớ không dám ngó quanh. Một hôm một chiếc xe từ Thành về Nha Trang. Trên xe không người. Nhưng sau khi qua khỏi miếu, chậm bước ngoảnh lại thì thấy một mỹ nhân ngồi trên xe! Một hôm trời vừa chạng vạng, một chiếc xe kéo một thanh niên từ Nha Trang lên Thành. Khi gần đến miếu thì có một thiếu nữ xinh xắn xin cho đèo. Anh phu xe ham tiền, chàng thanh niên ham sắc, đều bằng lòng. Đi dọc đường, chàng thanh niên không giữ lễ. Khi đến gần tới Thành thì thiếu nữ biến mất, còn thanh niên thì bị hộc máu chết tươi. Anh phu xe hết hồn đau liệt giường hàng tháng v.v... Do đó hễ trời sắp tối thì không mấy ai dám đi ngang qua miếu. Rủi lỡ đường, mà thấy bóng đàn bà con gái thì lo chạy tránh.
Miếu hiện còn, nhưng bớt linh.
ĐỀN SINH TRUNG
Đền dựng trên núi Hà Ra, cạnh đầm Xương Huân về phía Tây Bắc, trong thành phố Nha Trang.
Dựng năm Đinh Mão (1807) triều Gia Long. Trùng tu năm Tự Đức thứ năm (1852).
Đền thờ 350 công thần của nhà Nguyễn đã bị tử trận hay bị mệnh vong vì bệnh trong lúc tranh hùng cùng nhà Tây Sơn. Phần đông là những người mất tại Khánh Hòa.
Tên trước kia Tinh Trung sau đổi là Sinh Trung.
Tuy là đền thờ công thần, nhưng quy mô không được rộng lớn. Cách thờ phượng ngó cũng sơ sài, đối với đền miếu của đồng bào bình dân thật không hơn không kém.
Nhưng phong cảnh rất mỹ quan [23].
Cạnh đền có cây cao. Trước đền có sân rộng.
Dưới chân núi, đầm Xương Huân láng lai và ăn thông ra sông Hà Ra, một nhánh của sông Nha Trang chảy ra biển. Bên kia đầm, khu Xương Huân và Xóm Cồn, nhà tôn chen nhà ngói. Và ngoài xa, ngó thẳng ra Bắc, núi nối liền núi, ngó xiên xiên xuống Đông, biển nối liền trời. Màu ngói sắc cây, bóng mây hơi nước..., lớp ẩn lớp hiện, nơi tỏ nơi mờ. Xa cũng như gần, một ngó đều thâu trọn vào mắt.
Ba mặt Đông, Nam, Tây thành phố Nha Trang mở rộng tận chân non, mặt biển. Cửa nhà chen chúc, đường rộn rịp xe chạy người đi. Những bồn hoa xinh xinh, những hàng cây rậm rạp. Đứng trên nhìn xuống, khách giàu tưởng tượng không khỏi ngờ rằng mình đương ngắm cảnh Hàng Châu tả trong vần thơ cổ: “Sơn ngoại thanh sơn lầu ngoại lầu”, mà Trường Xuyên phỏng dịch.
Xanh dờn non tiếp liền non,
Ngoài lầu hoa lại những còn lầu hoa.
Cảnh đã đẹp lại ở gần thành phố, cho nên khách phong lưu thường đến thưởng ngoạn.
Xúc cảnh sanh tình, người làng thơ thường lưu lại được nhiều giai tác.
Được nhiều người thuộc, có hai bài chữ Hán của cụ cử Nguyễn Tạo và nhà Nho Trần Khắc Thành:
DU SANH TRUNG TỪ NGẪU TÁC
Nhàn lai huề hữu thưởng xuân dương,
Lộ đáo Sinh Trung miễn lực cường.
Oanh chuyển hoa khai cung thắng khái,
Sơn triều thủy nhiễu nhập bình chương.
Lâu đài ngoại vọng văn minh hóa,
Tướng sĩ trung lưu tánh tự hương.
Tứ diện thanh quang đô khả ái,
Danh lam thiên tạo xuất tầm thường.
(Tr. K. Thành)
II.
Mích thắng xuân du khách tứ đồng,
Lưỡng tương huề thủ thượng Sanh Trung.
Hiến đồ nhập họa giang san sắc,
Sùng tự trường minh tướng sĩ công.
Tiếp ngạn lâu đài ba diệm giã,
Cách thôn gia liễu ấm thanh thông.
Danh đô huống thị phùng giai tiết,
Vô hạn di tình thưởng thức trung.
(Nguyễn Tạo)
Gần đây có mấy ông bạn yêu văn chương ở Bình Định và Quảng Ngãi vào Khánh Hòa, đến viếng đền Sinh Trung. Nhân cao hứng diễn hai bài thơ trên ra quốc ngữ:
DỊCH BÀI CỦA TRẦN TIÊN SINH
I
Mình dạo tìm xuân với bạn mình,
Sinh Trung lần bước bước thinh thinh.
Oanh ca hoa nở câu nhàn hứng,
Nước điểm non tô nét phẩm bình.
Hương khói ngạt ngào danh tướng sĩ,
Lâu đài thấp thoáng bóng văn minh.
Vời trông bốn bức phong quang trải,
Cao vút danh lam cảnh hữu tình.
Nguyễn Hoài Văn
II.
Tầm phương mình với bạn mình,
Sinh Trung thẳng bước thỏa tình đăng cao.
Oanh hoa giúp hứng thêm hào,
Non xanh nước biếc hiện vào bình chương.
Văn minh dợn bóng phố phường,
Danh thơm tướng sĩ mùi hương đậm đà.
Tranh treo bốn bức yên hà,
Xa vời thế tục một tòa danh lam.
Trần Thúc Lâm
DỊCH BÀI CỦA NGUYỄN TIÊN SINH
I
Tìm xuân bước khách nhẹ thinh thinh,
Viếng cảnh Sinh Trung bạn với mình.
Màu sắc nước non in nét họa,
Công lao tướng sĩ tạc đền linh.
Lâu đài tiếp biển hoa lồng thắm,
Dừa liễu kề thôn bóng rợp xanh.
Trong chốn danh đô vầy thắng cảnh,
Cảnh thêm giai tiết xiết bao tình.
Hồ Thăng
II.
Vui xuân khách cũng đồng vui,
Sinh trung dìu bạn lên chơi với mình.
Non sông vẽ bức tranh tình,
Hồn hương tướng sĩ đền linh ngạt ngào.
Biển lồng hoa thắm lầu cao,
Cách thôn dừa liễu dạt dào sóng xanh.
Danh lam ẩn bóng thị thành,
Gặp tuần giai tiết thỏa tình lãng du.
Nguyễn Đình Mẫn
ĐỀN QUÁ QUAN
Trong sách vở thì chép là Quá Quan từ.
Nhưng người địa phương gọi là Miếu.
Trong số từ miếu còn sót lại đến thời Pháp thuộc, đền Quá Quan là ngôi đền cổ nhất. Đền lập từ thời Hậu Lê, hoặc trong niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), hoặc trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786).
Đền ở thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương.
Cất dưới chân ngọn đồi tục gọi Núi Đá Lố hay Hòn Lố.
Kiểu thức cổ kính: Ba gian hai chái, mái ngói tường gạch, cây gỗ toàn danh mộc.
Phong cảnh kỳ tú.
Hòn Đá Lố, tuy nhỏ thấp, nhưng hình thù cổ quái. Đá mọc ngổn ngang và chồng chất lên nhau, gồ ghề hốc hĩu. Nhiều cây cổ thọ, hoặc gầy guộc khúc khuỷu, hoặc bóng cả thân cao, chen chúc trong đá, xấp xới quanh đền. Sắc đá màu cây trộn lẫn cùng màu vôi sắc ngói, được thời gian “châm chước” thành một bức tranh màu sắc dịu dàng nhịp nhàng. Sau lưng núi Đá Lố là núi Mặt Quỉ.
Gọi như thế là vì sườn núi đá mọc lởm chởm. Nhiều hòn kỳ hình dị dạng. Đứng xa trông vào thấy mắt miệng tai mũi, chỗ đen chỗ xám chỗ trắng chỗ xanh..., chỗ lõm chỗ lồi, u nầng nham nhở, giống như mặt quỉ Dạ Xoa.
Sau núi Mặt Quỷ, núi non trùng điệp.
Đền ngó vào Nam. Trước mặt có bàu sen rộng lớn nằm trên cánh đồng ruộng mênh mông. Xa xa hàng tre xanh bên bờ sông Cái, chạy từ Tây xuống Đông đoanh lộn quanh co như một con thanh long uốn khúc.
Phía Tây hòn Núi Chúa ở Đại Điền Trung nhìn xuống.
Phía Đông, biển Nha Trang và vùng núi Cù Lao với mấy ngọn cổ tháp nhìn lên.
Nhìn khắp bốn bên, mắt rộng lòng cũng rộng.
Đền thờ bà Thiên Y A Na.
Trước kia xuân thu nhị kỳ, các quan Tỉnh phải sang dâng lễ.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng khi xưa cống sứ nước Chân Lạp đi ngang qua đền, có vào bái yết.
Đó là một sự kiện lịch sử đáng ghi. Nhưng tiếc rằng không biết việc xảy ra vào thời đại nào. Tuy vậy cũng có thể đoán rằng sau khi chúa Nguyễn đã làm chủ lãnh thổ của nước Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp.
Thời bấy giờ con đường thiên lý chạy từ Nam chí Bắc, đến Khánh Hòa, phải đi ngang qua đền Quá Quan. Nếu từ trong đi ra thì đến thành Diên Khánh không xuống Nha Trang theo con đường Quốc Lộ số 1 hiện thời, mà qua sông Cái sang Phú Lộc, ra Đại Điền Đông, Phú Cấp, Xuân Phong... Nếu ở ngoài đi vô thì đến Lương Sơn, không qua đèo Rù Rỳ để vào Nha Trang như hiện thời, mà lại quày lên hướng Tây Nam, qua đèo Tam Đảnh ở Đắc Lộc, đi xiên xiên vào Xuân Phong... Con đường Thiên Lý ngày xưa chạy ngang qua trước đền Quá Quan để vào thành Diên Khánh. Đó là con đường Liên Hương số 1 của tỉnh Khánh Hòa ngày nay.
Biết rõ đường đi thì việc cống sứ vào bái yết đền Quá Quan không lấy gì làm lạ.
Nhưng sách Đại Nam nói rằng “Nhân việc cống sứ vào bái yết mà gọi tên đền là Quá Quan” thì chưa lấy làm ổn.
Theo lời các vị phụ lão địa phương thì bà Thiên Y A Na, từ Núi Chúa xuống tháp Cù Lao, hoặc từ tháp lên núi, đều đi ngang qua đền. Những lúc bà đi thì một luồng hào quang sắc xanh, lớn như một cây lụa trải, bay giữa lừng trời. Đến đền thì hạ xuống giây lâu rồi mới bay tiếp. Đền coi như một cửa quan Bà qua lại, nên mệnh danh là Quá Quan.
Có lẽ đúng như thế.
Đền đã bị súng đại bác của quân Pháp phá hủy năm Bính Tuất (1946) thời kháng chiến.
Cây cối trước kia bị phá một phần, ngày nay phá một phần nữa. Nhưng đá vẫn còn lỳ gan với nắng mưa.
Hiện nay tên “Quá Quan” trở thành một địa danh. Người phương xa qua lại, không ngờ trước kia có đền.
ĐỀN AN LƯƠNG
Ở thôn An Lương, quận Vạn Ninh.
Lập thời nào không rõ. Đây là một đền cũ nhất trong tỉnh Khánh Hòa. Các bậc phụ lão đoán chừng đồng thời cùng đền Quá Quan, vào khoảng Lê Cảnh Hưng.
Đền thờ Bà Thiên Y A Na, thần Bạch Mã, thần Thủy Hoàng và Thành Hoàng.
ĐỀN MÃ CẢNH
Ở tại đèo Cổ Mã cạnh đường Quốc Lộ số 1. [24]
Thờ thần Chúa Vàng và Chúa Sắt. [25]
Xây cất đời nào không rõ. Đã cũ và hư sập nhiều nơi. Nhưng hành khách ra vào đều tỏ lòng sợ sệt, mặc dù không biết rõ Chúa Sắt Chúa Vàng là vị thần nào, của ta hay của Chàm, và đã làm gì có lợi cho nhân dân mà được thờ phụng.
Phong cảnh nơi đền, trên non dưới biển, trông rất hữu tình. Song phần thì sợ Chúa thờ trong miếu, phần thì sợ Chúa ngoài sơn lâm, cho nên không mấy ai dám dừng chân thưởng ngoạn. Tuy vậy vẫn có thơ đề:
Chúa Vàng Chúa Sắt là ai?
Một tòa cổ miếu trong ngoài quạnh hiu!
Chim rừng chiu chít tiếng kêu,
Biển khơi hờ hững nước triều xuống lên.
Đường đời rộn bước đua chen,
Đèo cao vực thẳm ghe phen hãi hùng,
Gan vàng dạ sắt ai nung?
Nước non gánh nợ ai cùng chung lo?
Hương lòng dẫu tắt còn tro,
Mong sao vàng sắt giữ cho vững bền.
MIẾU LỖ LƯỜN
Miếu ở tại Hòn Đỏ ngoài vịnh Vân Phong, thuộc hải phận Ninh Hòa.
Miếu đã lâu đời do các ngư phủ làm lưới đăng thiết lập để thờ một vị nữ thần trên đảo. Danh hiệu nữ thần là gì không ai biết.
Bên miếu có một hang đá. Trong hang, vách có chỗ nổi lên hõm vào trông phảng phất như cơ quan sanh sản của phái nữ. Người địa phương gọi trại là Lỗ Lườn.
Hang do đó mà mệnh danh.
Miếu vốn không tên riêng, nên cũng mượn tên hang mà gọi.
Truyền rằng: Thần miếu Lỗ Lườn rất linh. Đến mùa làm cá, các ngư phủ phải sắm lễ vật ra đảo cúng tế. Nếu không thì chẳng những đánh không được cá mà còn gặp phải tai nạn gớm ghê.
Thần ăn thịt sống.
Xưa kia tế vật là một đồng nam hay một đồng nữ. Các chủ lưới đăng phải thay phiên nhau mà cung cấp. Người ta thường mua trẻ em của đồng bào thượng về tế thần.
Sau lệ tế người bị cấm và thay bằng lễ tam sinh. Bò heo dê làm thịt sạch sẽ nhưng để sống và nguyên con.
Tế xong, người ta về hết. Phẩm vật để y tại chỗ. Sáng hôm sau đến xem thì chỉ còn thấy những xương.
Việc cúng tế hiện nay vẫn còn. Nhưng không còn tế người hoặc tam sinh như trước, mà dùng đồ nấu nướng như mọi nơi.
Lễ vật tuy thay đổi, song có một nghi tiết từ xưa đến nay phải thi hành nghiêm chỉnh là: Cúng tế nơi miếu xong, vị chủ tế phải đến hang, trịnh trọng cầm khúc chày gỗ để sẵn thọc vào Lỗ Lườn ba lần, rồi mới lễ tất.
Tục này của người Chiêm Thành truyền lại.
Người Chiêm Thành có một bộ lạc thờ thần Linga (Dương vật) và thần Yoni (Âm vật). Tượng thần hiện còn thấy đôi nơi. Tại Musée Chàm Đà Nẵng hiện còn hai tượng lớn.
Lỗ Lườn tức là Yoni Việt Nam hóa vậy.
Lỗ Lườn còn gọi là Lỗ Đĩ Dàng.
Dàng là tên một vị thần của Chàm. Một số người Thượng cũng dùng tiếng Dàng để gọi thần linh.
Nhưng không hiểu tại sao gọi là Đĩ. Ở Vạn Ninh, tại thôn Vinh Huề có một cái bàu gọi là Lỗ Đĩ.
Bàu nằm trong một cánh rừng, hình bầu dục, rộng chừng năm sào ta, sâu lút một cây sào chận vịt. Cá, trạnh, ba ba, rùa... rất nhiều và rất lớn.
Tiếng Đĩ ở bàu này và tiếng Đĩ ở miếu Lỗ Lườn có lẽ đồng nghĩa. Nhưng cổ nhân thủ nghĩa như sao, chưa một ai giải thích được thỏa đáng.
Cách đặt tên miếu và nghi thức hành lễ ở Lỗ Lườn là ngoại lệ. Toàn tỉnh Khánh Hòa, trong đất liền cũng như ngoài biển khơi, không còn nơi thứ hai vậy. [26]
Đền miếu ở Khánh Hòa cũng như ở các tỉnh khác ở Trung Việt, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ trên lãnh thổ Việt Nam, đều lần lần bị triệt hạ hoặc bỏ hoang phế. Đến thời chiến tranh, những ngôi còn sót, lại bị tàn phá một lần nữa. Nên nay không còn được mấy. Và những di tích không được bảo tồn này, bị nắng mưa phũ phàng, e không thể tồn tại được lâu lắm.
Những đền miếu cổ, phần vật chất ngó không giá trị bao lăm, nhưng mặt tinh thần tưởng rất quan trọng. Bởi trước hết là của ông cha để lại, lẽ nào con cháu nỡ xem thường xem khinh. Sau nữa, những kiến trúc này không bị ảnh hưởng văn minh Âu Mỹ. Nhìn vào, các nhà khảo cổ có thể tìm được ít nhiều dân tộc tính Việt Nam.
Cho nên việc bảo tồn không phải không cần thiết vậy.
Chú thích:
[1] Đã nói rõ ở mục Sông Nha Trang.
[2] Phương Đình Dư Địa Chí do Ngô Mạnh Nghinh dịch, trang 161.
[3] Đại Nam Nhất Thống Chí do Nha Văn Hóa xuất bản, trang 88, quyển 10 và 11.
[4] Thuần Phu tiên sinh người ở Quảng Nam vào trú ngụ ở Nha Trang từ lúc bé và nhập tịch Khánh Hòa.
[5] Biển Nha Trang nhiều én, nên khách làng thơ gọi là Yến Hải. Đồng Bò ở phía trong Phước Hải.
[6] Thơ của Định Phong họa vận thơ Vịnh Nha Trang của Thuần Phu.
[7] 2, 3 Đã tả rõ ở đoạn trước: Chương Địa lý, mục Núi Non.
[8] Trà tỳ là tự thiêu.
[9] Xá lợi là những mảnh xương còn sót lại.
[10] Thơ của Trương Duyệt.
[11] Xem sự tích nơi Suối Tiên sau đây.
[12] Bà Tùng Trang cùng “đấng phu quân” không ăn ở với nhau đã lâu, nhưng vẫn còn là vợ chồng. Đến lúc già hai ông bà lại về ở Nha Trang chung một con đường, bà đầu trên, ông đầu dưới, mỗi người một giang sơn độc lập, không mấy ai biết đó là cặp vợ chồng.
[13] Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh Khánh Hòa.
[14] Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh Khánh Hòa.
[15] Chuyện này do cụ đề Ngô Văn Nhượng thuật lại.
[16] Câu chuyện quan án Nguyễn Đình Văn sống với ma, cũng như câu chuyện các ông bát Phàn, cửu Khi, chánh ca Đựng thấy ma, do ông bạn Thọ Nguyên, môn đệ thân tín cụ Đào Phan Duân kể cho nghe. Ông bạn cho biết rằng chính ông bạn được nghe cụ Đào thuật lại. Chuyện có vẻ Liêu Trai. Song cụ Đào là bậc túc nho tuổi cao đức trọng, lời nói của cụ không thể nghi ngờ được.
[17] Vì bia mờ quá không đọc được nên chép theo lời truyền.
[18] Phong cảnh đã tả rõ ở phần “Địa lý”, chương “Núi non”, mục “Núi Chúa”.
[19] Xem sự tích ở đoạn trước, mục “Tháp Bà”.
3 Xem sự tích ở đoạn trước, mục “Tháp Bà”.
[21] Có người lầm là Thánh Khổng Phu Tử. Đức Khổng là Thánh nhân. Còn Thánh thờ ở miếu Hội Đồng là Thánh thần, có quyền phép, hay phù hộ người mà cũng hay quở phạt.
[22] Vì thấy có chỗ khác nhau giữa Khánh Hòa và Bình Định nên chép lại cho vui.
Theo các vị phụ lão tin Thánh thì bà Thiên Y đại diện chư thánh trên thiên cung, coi ngó người thế gian từ Khánh Hòa ra Thừa Thiên, còn từ Thừa Thiên ra đến Thanh Hóa thì thuộc phạm vi bà Liễu Hạnh Công Chúa.
[23] Xem thêm phần “Địa lý” mục Núi Sinh Trung ở trước.
[24] Xem “Đèo Cổ Mã” ở phần địa lý, mục núi đèo.
[25] Ở Phú Yên tại núi Nhạn Tháp cũng có đền thờ bà Chúa Sắt, được các vua chúa nhà Nguyễn phong tặng là “Thượng Đỉnh Chúa Thiết Bà”. Thần thờ nơi đền Mã Cảnh không biết có phải vị thần thờ ở Phú Yên chăng. Vì trong đền không còn bài vị nên không thể tra cứu được.
[26] Ở Lỗ Đoi tại Thác Nhét thuộc quận Diên Khánh, khi ghe bè đi ngang qua chỉ lấy sào thọc vào mấy cái, chớ không có cúng tế như ở Lỗ Lườn.
(Xem chương Sông Ngòi ở phần II. Mục Sông Nha Trang về Thác Nhét - đã nói kỹ).
Quách Tấn
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm thức mùa trong ca khúc Văn Cao

Cảm thức mùa trong ca khúc Văn Cao Nhìn lại nền âm nhạc ca khúc Việt Nam thế kỷ XX, người ta thường nhắc đến ba tên tuổi được coi là nổi b...