Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2023

Cô nữ sinh đệ ngũ và bài thơ định mệnh

Cô nữ sinh đệ ngũ
và bài thơ định mệnh

Buổi sáng chủ nhật đầu tháng 5 năm 2007, sắc trời cuối hạ nhuộm màu ngọc bích, nắng thủy tinh long lanh dát vàng cột điện xi măng và vách tường những cao ốc, chênh vênh như muốn chọc thẳng lên trời cao. Trước cửa nhà hàng Hoàng Cung, đường Phan Đình Phùng Cần Thơ, quang cảnh nhộn nhịp hơn ngày thường. Sau khi uống cà phê xong, nhóm cựu học sinh Phan Thanh Giản giờ đây đã nên người: Nghê Hữu Chí – cán bộ hưu, Nguyễn Trung Quân – cựu hiệu trưởng, Nguyễn Công Đức – dược sĩ, Trần Văn Nở – luật gia… và tôi – giáo viên theo nghiệp văn.
Theo thông lệ, hàng năm hễ có dịp gặp mặt nhau – nhất là khi bạn cũ ở xa về, anh em quen làm theo chương trình có sẵn. Cả bọn mừng ngày tái ngộ, hẹn kéo nhau đi lai rai ở các quán bình dân ngoại ô, hay uống cà phê ở trung tâm thành phố, mong gặp bất chợt lại những bạn cũ để có dịp hàn huyên tâm sự. Xong xuôi, anh em tổ chức đi thăm hỏi sức khỏe, tặng quà cho các thầy, cô ngày trước đã dạy dỗ mình hoặc gia đình các vị đã mất, để xin đốt vài nén tâm hương tưởng nhớ ân sư. Mấy hôm trước, cả bọn đã đi viếng lại các di tích lịch sử trong thành phố như phần mộ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị và chùa Nam Nhã…
Sáng nay, trong nhóm có Nguyễn Trung Quân ở hải ngoại về thăm gia đình. Quân nguyên là Hiệu trưởng trường Trung học Phan Thanh Giản – Cần Thơ, rồi trường Nguyễn An Ninh – Sài Gòn vào khoảng cuối những năm 1960. Một vài anh em lục đục về nhà sau, khi thăm thầy học xưa dạy Anh Văn cho bọn tôi là Giáo sư Vũ Quới Chuyên ở đường Lê Lai, giờ đã già yếu chỉ ngồi một chỗ không thể đi lại. Thấy học trò cũ đến thăm và nghe nhắc lại chuyện ngày xưa, thầy chảy nước mắt…
Không dám làm mất thì giờ nghỉ ngơi của thầy, anh em xin từ giã và hẹn có dịp sẽ đến thăm thầy. Trong lúc anh em đi về hết, thấy còn sớm, Quân tranh thủ thời gian, gợi ý với tôi:
– Về nước lần này, mày ráng giúp tao một việc – bọn bạn cũ tôi gặp lại nhau là gọi mày, tao một cách thân mật tự nhiên như để hong ấm lại không khí bạn bè thân mật hồn nhiên như những ngày còn cặp sách đến trường.
– Chuyện bài thơ “Cây tre” ngày trước ở trường mình lúc học Đệ nhị cấp vẫn còn một tồn nghi, tao muốn được giải mã. Bây giờ, mày chở tao đến nhà Phạm Thị Hồng Hạnh, cô nữ sinh ngày trước được coi là tác giả bài Đường thi định mệnh ấy.
Làm nhiệm vụ tài xế xe ôm, tôi đèo Quân vòng vèo chạy qua khỏi cầu Nhị Kiều rồi quẹo trái, len lách cặp theo con đường nhỏ tráng xi măng dọc bờ sông Cái Khế ngang với chợ Mít Nài (nay là chợ An Nghiệp), tìm hỏi thăm ngôi nhà mang số 132/26 Hùng Vương – phường Thới Bình, thành phố Cần Thơ. Một phụ nữ trạc tuổi sáu mươi, nước da mặn mà, dáng nhanh nhẹ, mặt nở nụ cười, mời hai đứa tôi vào nhà sau khi cho biết chính chị là Phạm Thị Hồng Hạnh. Không ngờ thời gian nửa thế kỷ qua nhanh mà đã làm mất đi nhiều nét duyên dáng, yêu kiều của một cô gái giỏi văn chương như Hồng Hạnh.
Sau những lời xã giao nghi thức giữa chủ và khách, tôi dành thời gian cho Quân bắt đầu hỏi chuyện:
– Thưa chị Hạnh, qua bài viết của ông Huỳnh Cẩm Vân về bài thơ Cây tre đăng trên tập san của nhóm cựu học sinh Phan Thanh Giản ở hải ngoại, tôi xin hỏi chị đôi điều để được hiểu rõ hơn. Trước hết, xin hỏi thực chị, ai là tác giả bài thơ Cây tre dạo ấy.
– Thưa anh, chính tôi làm bài thơ ấy.
– Biết rằng Hồng Liên Đài là bút danh của chị được ký dưới bài thơ Cây tre. Nhưng theo ý kiến nhiều người, việc khẳng định một học sinh lớp Đệ ngũ (nay tương đương với lớp Tám) làm được bài thơ Đường có nội dung sâu sắc và đúng niêm luật khắt khe như vậy là chưa thật thuyết phục. Do vậy, bài thơ của chị sáng tác có được ai chấp bút không?
– Thưa anh, năm ấy (1958), tôi là học sinh đứng nhất lớp môn Việt văn.
Một hôm, giáo sư – họa sĩ Nguyễn Cường gợi ý: nhân nhà trường có ra tờ báo Bình Minh, học sinh nên viết bài gởi cho ban biên tập. Thầy sẽ nhận bài và chuyển hộ đến ban tòa soạn. Tôi yêu văn chương, thích làm thơ nhưng ban đầu còn ngại. Ba tôi nghe vậy, bảo tôi nên tham gia vì tôi đã được ba hướng dẫn về luật thơ Đường từ trước. Thế là tôi mạnh dạn làm một bài, nhờ thầy Nguyễn Cường gởi lên ban biên tập.
– Bác có góp ý gì với chị không?
– Tôi tự làm với nội dung tự phát từ đầu đến cuối, không có một ai thêm thắt ý kiến gì, và cũng hoàn toàn không có ý đồ chính trị. Vì yêu văn học, có học thơ Hồ Xuân Hương nên có thể bị ảnh hưởng, lại tính rắn mắt muốn làm thơ châm chọc chơi.
– Nhưng sao chị lại chọn đề tài là Cây tre.
– Bởi vì đi đâu cũng gặp hình ảnh cây tre, đâm ra chướng mắt mà làm chơi vậy thôi. Thực sự, tôi không chú ý đến gì ngoài việc học. Không ngờ về sau, người khác đọc, không hiểu rõ sự tình mới suy diễn ra tôi vịnh Cây tre là để chế giễu nền cộng hòa của Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ theo quan điểm chính trị. Bài thơ do chính tôi làm nhưng về mặt kỹ thuật, ba tôi có góp ý vài chỗ.
Hồng Hạnh chậm rãi trả lời xong, Quân tiếp nối vào chi tiết:
– Trong bài viết nói trên, ông Trịnh Cẩm Vân, một người bạn thân của bác trai có ý kiến riêng gì về bài thơ ấy nữa không. Nếu có, ý kiến ấy chính xác không?
– Nhìn chung, chú ấy nói đúng một phần. Nhưng về bút danh của tôi là Hồng Liên Đài, ký dưới bài thơ Cây tre, chú Cẩm Vân có vẻ quá khích khi bảo bút danh tôi giống như tên của một cao lâu hay khách sạn!
– Cũng như chị, tôi là một học sinh của trường Phan Thanh Giản. Tôi xin thành thật hỏi chị lại một lần nữa, có phải thật chính chị là tác giả bài thơ Cây tre.
– Tôi cũng xin khẳng định lại một lần sau cùng với anh là bài thơ ấy do chính tôi làm.
– Hồng Hạnh nghiêm lại sắc mặt nói tiếp:
Bài thơ ấy do tôi làm cũng như đứa con thân yêu do tôi cưu mang, sinh ra. Do vậy, tôi đã phải chấp nhận cả hạnh phúc lẫn khổ đau trong cuộc đời mà nó mang đến cho tôi.
Nói đến đây, tôi thấy khuôn mặt Hồng Hạnh lặng đi, giọng chị trở nên buồn buồn.
– Sau khi bị đuổi học, tôi lên Sài Gòn học lớp Đệ Tứ A (ngang với lớp Chín hiện nay), tại Trung học tư thục Tân Thịnh của giáo sư Phan Ngô – tác giả nhiều sách Giảng văn được ấn hành lúc đó, và thầy cũng vừa đứng lớp dạy Việt văn. Trong một giờ thực tập làm thơ, thầy Phan Ngô ra đề cho học sinh làm thơ để coi đứa nào có năng khiếu. Tôi mặc cảm là học sinh ở tỉnh lẻ mới lên, lại nhớ chuyện cũ vì làm thơ mà bị đuổi học nên ban đầu còn ngại. Nhưng sau đó, tôi cũng cố làm một bài thơ, đưa cho thầy đọc. Thầy Phan Ngô khen hay, chấm bài thơ tôi 18 điểm (lúc bấy giờ qui định giáo viên cho điểm học sinh trên mẫu số 20). Khi biết tôi là tác giả, thầy bảo tôi có khiếu văn chương. Nhưng khi thầy nói sẽ cho đăng báo bài thơ tôi vừa làm thì tôi bật khóc vì tâm trạng bàng hoàng nhiều nỗi của tôi lúc ấy. Về sau thầy Phan Ngô cũng biết Hồng Hạnh là tác giả bài thơ Cây tre và lý do phải bỏ nhà, lên học ở Sài Gòn.
Học được một năm với thầy Phan Ngô, trường Tân Thịnh không rõ vì lý do gì bị đóng cửa, tôi phải chuyển sang học ở trường tư thục Vương Gia Cần, và học Việt văn với thầy Vũ Hạnh (1).
Sở dĩ ông Trịnh Cẩm Vân và dư luận chung bảo còn tồn nghi là vì chưa hiểu rõ thực hư về bài thơ Cây tre, hoàn cảnh ra đời, tác giả chính thức và chủ đề tư tưởng của nó. Anh Nguyễn Trung Quân như nhắc lại mục đích anh đến và gặp Hồng Hạnh sáng nay và giờ đây anh đã thỏa mãn.
Năm học 1957–1958, Hồng Hạnh học lớp Đệ Ngũ (ngang với lớp 8 bây giờ), Quân và tôi học lớp Đệ Nhị nhưng khác ban. Vì là năm thi Tú Tài I nên dù đam mê văn nghệ, hai đứa tôi vốn là những con sâu “gạo” bị sa vào “mê đồ kinh sử” cho đến lúc nghe nổ ra sự kiện bài thơ Cây tre.
Bài thơ được gởi đến ban biên tập báo Bình Minh, anh Nghê Hữu Chí có nhiệm vụ liên hệ với Ty Thông tin Cần Thơ, xin kiểm duyệt… Khi báo Bình Minh in xong, sắp phổ biến, Ty Thông tin gọi điện thoại đến Hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản vì phát hiện ra bài thơ Cây tre có nội dung đặc biệt. Tác giả là Hồng Liên Đài, tức nữ sinh Phạm Thị Hồng Hạnh bắt đầu bị Cảnh sát theo dõi, và bị nhà trường gọi trình diện thường xuyên ở văn phòng Hiệu trưởng để trả lời những câu hỏi liên quan đến bài thơ:
Cây tre
Mượn danh dối thế, chúng chê dè
Quân tử gì nà, thứ giống tre!
Có mắt không tròng, hay cót két
Rụng chà trơ gốc, giỏi cò ke.
Dùng làm than củi trong giây lát,
Để lót vạc giường chắc dữ be,
Ngoài vỏ xanh um, trong trống phọc,
Kêu cho rền lắm, chẳng ai nghe!
Hồng Liên Đài
Một hôm, hiệu trưởng N. V. K cùng hai viên chức từ Bộ Giáo dục ở Sài Gòn xuống làm việc với tác giả bài thơ. Họ muốn có cuộc thẩm vấn để tìm ra xuất xứ, tác giả chính thức và động cơ sáng tác của tác giả… Lúc đầu, trước mặt Hồng Hạnh, họ tỏ ra nhỏ nhẹ:
– Ai đưa cho em bài thơ Cây tre? Hãy chỉ cho thầy. Với tư cách đại diện Bộ Giáo dục xuống đây, thầy hứa sẽ bảo đảm an toàn cho em, lo lắng cho tương lai việc học hành của em được tốt đẹp.
– Không có ai đưa bài thơ này cho em cả. Bài thơ Cây tre do chính em làm.
Hồng Hạnh nghiêm sắc mặt trả lời.
– Vô lý! Mới học lớp Đệ Ngũ, làm sao em đủ khả năng làm nổi bài thơ Đường luật như thế.
– Thưa thầy, theo em nghĩ: tài năng con người không phải lúc nào cũng đợi đến tuổi trưởng thành mới thể hiện. Vả lại, chương trình Việt văn lớp Đệ Ngũ có dạy những bài thơ Đường và cách làm thơ Đường luật cho học sinh. Do có học nên em đã làm bài thơ này.
– Khó tin được! Mới học làm thơ luật, em chỉ có thể làm những bài thơ “con cóc” thôi, chớ không đủ sức làm nổi bài thơ Cây tre với niêm luật chặt chẽ và ý tứ mạch lạc như thế. Hãy nói thật đi, ai đưa cho em bài thơ này?
– Em nói thật, không ai đưa bài thơ ấy cho em cả. Chính em làm, có gì em chịu. Em không biết nói gì khác hơn. Nếu thầy cứ bắt buộc em phải chỉ ra tác giả, e có lúc quẩn trí, em sẽ chỉ chính thầy là người đã đưa bài thơ đó cho em thì sao!
Thấy không hiệu quả, một “thẩm vấn viên” nổi cáu, đập bàn rồi hằn học với giọng lỗ mãng:
– Khốn nạn! Thầy thương em, muốn cứu đời học sinh của em. Không ngờ em quá ngoan cố đến thế. Bộ em muốn bưng bít để đi theo con đường Cộng sản phải không?
Riêng ông hiệu trưởng tỏ ra trầm tĩnh hơn, từ đầu đến giờ chưa nói câu nào, nhưng tỏ ra là một người am hiểu học sinh, ông nói:
– Em cứ bình tĩnh, không chi phải lo sợ.
Rồi ông chậm rãi tiếp:
– Làm được bài thơ Cây tre thì em cũng có thể làm được bất cứ bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú nào khác. Vậy ngay bây giờ, em thử làm một bài tại đây với đề tài tự do, rồi đưa cho các thầy xem.
– Dạ được, em sẽ làm theo ý thầy.
Hồng Hạnh thong thả trả lời.
Ông hiệu trưởng tin rằng diệu kế này sẽ dồn Hồng Hạnh vào ngõ bí, bắt buộc cô phải khai thật ra tác giả bài thơ Cây tre. Ông đi lấy giấy trao cho Hồng Hạnh ngồi làm ở một góc bàn gần cửa sổ và không quên nhắc lại cho cô: thơ Đường luật – đề tài tự do – thời gian 45 phút. Ông hiệu trưởng và hai viên chức bình thản ngồi uống trà, hút thuốc, trò chuyện… đợi xem kết quả mà họ tin là phần thắng sẽ thuộc về mình.
Phần Hồng Hạnh, cô vẫn giữ bình tĩnh, cùng với bản tính rắn mắt mà phớt tỉnh ngầm, trong đầu cô đã xuất hiện nhanh ra đề tài bài thơ: Cái diệm! Nhưng cô nghĩ lại chữ “diệm” quá lộ liễu nên đổi thành “cái chén”. Diệm, chén, cũng na ná nhau, cũng họ hàng và cùng nguồn gốc từ lò gốm.
Gần tiếng đồng hồ, bài thơ Đường do Hồng Hạnh mới sáng tác ngay tại văn phòng hiệu trưởng được đưa ra trình diện trước hiệu trưởng và hai viên chức đại diện bộ giáo dục:
Cái chén
Lò gốm ra lò trước mắt tôi,
Bát- tô- diệm- tượng, chất hằng ngôi.
Miệng còn lưỡi mất, thôi ăn nói,
Đít có trôn không, cố sống đời.
Ở chợ, dùng làm đồ bán nước,
Trong đình để đựng loại chè xôi,
Sắc màu kích cỡ, tùy người sắm,
Phòng đựng cơm thừa với cá ôi!
Hồng Liên Đài
Ba người chuyền nhau xem bài thơ. Đọc xong, sắc mặt họ như tái đi mà chưa ai nói được với ai lời nào. Riêng hiệu trưởng, như cố giữ bình tĩnh xem lại bài thơ Cái chén một lần nữa, ông bực tức lấy tay vò nhầu bài thơ, quăng vào sọt rác:
– Được rồi, bây sẽ nhận hậu quả đích đáng của bây về hành động, lời lẽ xuyên tạc chế độ cộng hòa và bôi bát Ngô tổng thống!
Mấy ngày sau, Phạm Thị Hồng Hạnh bị đuổi học sau một buổi họp hội đồng kỷ luật của nhà trường, cùng lúc với một số anh em học sinh có tư tưởng tiến bộ trong trường như: Nghê Hữu Chí, Đoàn Văn Thế, Huỳnh Hữu Khải (2) – những học sinh bị kết tội đã cố ý phổ biến bài thơ Cây tre mượn thơ văn tuyên truyền chống lại chính phủ quốc gia, dọn đường nối giáo cho Cộng sản.
Sau ngày giải phóng, Phạm Thị Hồng Hạnh phụ trách ban Tài chánh, phường Cái Khế trong một cơ quan uy tín của chính quyền cách mạng tại thành phố Cần Thơ cho đến ngày nghỉ hưu. Cuộc đời thực của tác giả bài thơ Cây tre đã khiến tôi không nguôi bâng khuâng tự hỏi: Do đâu một học sinh tài sắc, học giỏi, tâm hồn trong trắng hồn nhiên, một năng khiếu văn nghệ hiếm có lại bị những người đang làm giáo dục dập vùi không thương tiếc như thế?
Phải chăng vì thái độ trung thành mù quáng với chế độ mục nát của một số người háo danh vụ lợi, hay là vì nỗi nghiệt ngã muôn đời của “văn chương vô mệnh” như thi hào Nguyễn Du đã nói? Hay cuộc sống cay đắng truân chuyên của Phạm Thị Hồng Hạnh cũng là minh chứng hùng hồn lần nữa cho một đời “Bạc mệnh tài hoa”?
N.T
 
6/7/2020
Nguyễn Thanh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...