Gặp Nguyễn Minh Châu 35 năm trước
Vợ chồng nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Thị Doanh, năm
1961
Đó là một chiều thu Hà Nội, tháng 10 năm 1984. Chị Thiếu Mai,
người nhiều năm phụ trách trang Lý luận - phê bình của báo Văn Nghệ, hẹn
tôi đi thăm nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ở báo Văn Nghệ có ba nhà văn mà
tôi chịu ơn là anh Từ Sơn và các chị Thiếu Mai, Ngọc Trai - những người
đã ưu ái đăng những bài phê bình đầu tiên của tôi ba năm trước đó. Chị
Thiếu Mai biết tôi ra Hà Nội sau khi báo Văn Nghệ đăng bài tôi viết về
tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh
Châu.
Từ nhà chị Thiếu Mai ở ngõ Hạ Hồi,
chúng tôi đạp xe về khu tập thể Văn Nghệ Quân đội gần đường Lý Nam Đế. Hà Nội
trong những ngày kỷ niệm 30 năm giải phóng Thủ đô, đường phố rực rỡ cờ hoa, người
và xe nhộn nhịp. Hòa bình đã chín năm, lại thêm hai cuộc chiến tranh biên giới,
đời sống còn kham khổ, nhưng lòng người vẫn bình tâm và hy vọng một thay đổi sẽ
sớm đến với đất nước.
Lòng tôi hồi hộp chờ gặp Nguyễn Minh
Châu. Sáu năm trước, trong thời gian học ở Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, khi đến
dự buổi nói chuyện của giáo sư Hoàng Như Mai ở Thư viện Hà Nội về tiểu thuyết Miền
cháy vừa ra đời, tôi chỉ nhìn thấy nhà văn từ xa mà chưa được nói chuyện với
ông.
Nguyễn Minh Châu tiếp chúng tôi thân tình và ân cần ngay từ
phút đầu tiên. Đó là một căn hộ tập thể khiêm nhường, hơi ít ánh sáng, nhưng ấm
cúng. Bà Nguyễn Thị Doanh, vợ của nhà văn, cũng ngồi tiếp chuyện. Ông hỏi thăm
công việc của tôi ở Sài Gòn, nhắc đến những nhà văn mà ông quen biết đã chuyển
hẳn vào sống trong đó. Ông hỏi tôi có biết Nguyễn Thanh ở Cà Mau không, ông
thích những truyện ngắn viết về đồng bằng sông Cửu Long của nhà văn này. Tôi bảo
có biết nhưng chưa gặp. Về sau, gặp gỡ ở Cà Mau, Nguyễn Thanh rất vui khi nghe
tôi kể lại chuyện này.
Biết điều tôi quan tâm nhưng
không dám nói, chị Thiếu Mai hỏi: “Anh thấy bài viết Phương về tập truyện của
anh thế nào?”. Ông trả lời không đắn đo: “Đó là một bài viết có văn hóa phê
bình. Giá như có nhiều dịp gặp nhau, Phương sẽ hiểu tôi hơn và viết kỹ hơn”. Rồi
ông trầm ngâm: “Đọc những bài phê bình như vậy, lòng mình được chia sẻ, được
thúc giục tiếp tục cầm bút. Trái lại, có những bài phê bình khiến mình khổ tâm,
muốn buông xuôi”.
Khuôn mặt và giọng nói Nguyễn
Minh Châu buồn lặng khi ông kể cho chị Thiếu Mai và tôi nghe câu chuyện buổi
sáng mà ông trực tiếp tham dự. Đó chính là hôm diễn ra Đại hội Văn nghệ thủ đô
Hà Nội. Trong bài phát biểu có tính cách chỉ đạo, một nhà lãnh đạo văn hóa -
văn nghệ lúc đó nói trước các đại biểu: “Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
đăng gần đây trên báo không có ‘vấn đề’ như thường ta hiểu mà đặt ra những vấn
đề cho chúng ta phải suy nghĩ. Tuy không đồng đều, nhưng nhìn chung, đó là những
truyện ngắn hay. Những suy tư, những nét đi sâu vào tâm lý là những nét khám
phá mới của tác giả, riêng tôi hoan nghênh, nhưng tác giả còn ‘ngắm’, chưa thực
sự vào cuộc, tham gia với một lòng tin mãnh liệt những vấn đề mà tác giả đặt
ra. Nói tóm lại, đứng về một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì tác giả mới
thành công một nửa, còn một nửa, chúng ta chờ đợi”[i]. Bài viết này có đăng trên trang nhất
báo Văn Nghệ ngày thứ bảy, 06-10-1984, với nhan đề “Văn nghệ Hà Nội,
bộ mặt của cả nước” (sic).
Lúc này tôi mới e dè góp tiếng: “Thật
ra thì trong ý kiến đó cũng có mặt khẳng định giá trị truyện ngắn của anh. Vả lại,
ông ấy phải nói như vậy để cân đối những luồng dư luận trái ngược nhau”. Nguyễn
Minh Châu cười: “Phương chỉ sống ở miền Bắc vài năm, chưa hiểu hết thâm ý của
phê bình ngoài này. Ông ấy nói như vậy có nghĩa là cho rằng tôi đang đứng bên lề
đời sống. Sáng nay tôi ngồi nghe mà như đang bị kiểm điểm, nhiều đồng nghiệp
quay lại nhìn mình, vậy là mình được cho điểm 5/10 đó”. Chị Thiếu Mai chen vô:
“Vậy là xem như anh đạt điểm trung bình, thi đỗ rồi”. Chúng tôi cùng cười vui vẻ.
Về sau này
tôi cứ tiếc mãi là phần vì bận việc, phần vì e ngại mà chị Mai và tôi đã từ chối
lời mời của ông bà ở lại dùng cơm tối để nói chuyện nhiều hơn. Hai năm sau, tôi
sang học ở Moskva nên không còn dịp gặp lại Nguyễn Minh Châu lần nữa. Ở xa, tôi
vẫn đọc kỹ những truyện ngắn mới, những bài bình luận, trả lời phỏng vấn của
nhà văn và vẫn thường hỏi thăm nhà phê bình Vương Trí Nhàn về sức khỏe của ông.
Đầu năm 1988, giữa lúc cuộc đổi mới xã hội và đổi mới văn học
ở giai đoạn mở đầu đầy hứng khởi, Nguyễn Minh Châu phát hiện bệnh nan y và phải
vào miền Nam chữa bệnh. Tháng tư năm đó, từ chùa Pháp Hoa, ông viết bài báo có
nhan đề “Hòa đồng cùng nhân loại”. Trong bài báo ấy, nhà văn kể lại một kỷ niệm:
khi chiến tranh phá hoại của Mỹ vừa chấm dứt, ở một tỉnh bắc Trung Bộ, ông chứng
kiến những người lãnh đạo địa phương phải thức thâu đêm để bàn việc có nên cho
phép các xã mở lại chợ hay không, vì e ngại tư tưởng “con buôn” có thể làm hư hỏng
những người dân anh hùng của một vùng đất anh hùng. Nhưng mặc cho sự níu kéo của
tinh thần duy ý chí, quy luật cuộc sống đã cất lên tiếng nói của nó, như sự ghi
nhận của nhà văn: “Không hề chờ đợi nghị quyết của tỉnh ủy, dân trên vùng thượng
du lũ lượt, kĩu kịt gánh sắn xuống biển đổi lấy cá, lấy muối, dân làm ruộng bắt
đầu tìm nơi rèn thêm lưỡi cày, dao, liềm… Khắp các làng xã, chợ búa cứ sống lại,
cứ đông đúc mãi lên như một lời tuyên ngôn của đời sống”. Nhà văn nhận xét: “Chúng
ta đang sống trong cái thời những người anh hùng và các đức thánh đang phấn đấu
để trở thành người bình thường giữa cõi đời”[ii].
Tôi tìm đọc loạt bài “Ngồi buồn viết mà chơi” của Nguyễn Minh
Châu, sau này được chọn in trong tập Trang giấy trước đèn. Có một câu chuyện
ông kể ám ảnh tôi mãi. Một buổi sáng sớm ông đạp xe từ nhà đến trụ sở Hội Nhà
văn, khi đi ngang ga Hàng Cỏ ông nghe thấy một người đàn bà đang kêu khóc. Bà ở
quê lên, dẫn theo hai đứa con nhỏ, bảo con ngồi chờ để mẹ giặt tã, khi bà quay
lại thì đứa lớn đã bị bắt cóc. Sân ga nhốn nháo, mọi người nhìn bà thương cảm,
nhưng ai cũng mải lo việc của riêng mình. Ông dừng xe đạp đi tìm một người công
an nhưng cũng không giúp gì bà được. Trong giờ giải lao cuộc họp, ông kể với mọi
người câu chuyện đã thấy và nhận được thái độ khó chịu của một người đồng nghiệp
cấp trên[iii].
Nghe tin Nguyễn Minh Châu từ trần, tôi có viết một bài tiễn
đưa ông. Một tờ báo của người Việt ở Nga, định đặt tên là Lửa Ấm, nhận lời
đăng bài đó, nhưng vì thiếu kinh phí, báo không ra được. Tôi nhớ mãi một chi tiết
trong bài viết của bà Nguyễn Thị Doanh: một ngày bà đưa ông đi khám bệnh ở Sài
Gòn, khi ra về, ông đau quá không đi nổi phải đứng tựa vào một gốc cây trên đường
để thở. Tôi hình dung, trong bao nhiêu người Sài Gòn đi đường sáng hôm ấy, liệu
có ai tưởng tượng được người đàn ông ốm yếu bên lề đường kia là một văn tài của
dân tộc, một người cho đến giây phút cuối đời không rời ngòi bút vì cái Đẹp và
điều Thiện.
Về sau này tôi không viết thêm được gì về Nguyễn Minh Châu,
nhưng lần gặp năm 1984 đó luôn khắc sâu trong tâm thức tôi. Trong những năm
1990 tôi đã hướng dẫn thành công ba luận văn về sự nghiệp của ông: Vũ Bích Vân
viết về truyện ngắn, Lại Thị Hồng Vân viết về tiểu thuyết, Đinh Thị Thanh Thủy
viết về bình luận văn học của Nguyễn Minh Châu. Tôi có nhờ giáo sư Tôn Phương
Lan chuyển cả ba luận văn đó tặng bà Nguyễn Thị Doanh để làm kỷ niệm.
Trong bài báo “Hòa đồng cùng nhân loại” nói trên, Nguyễn Minh
Châu tỏ ra nhạy cảm khi đề phòng điều mà ông gọi là “trò chơi đổi mới” và cảnh
báo: “Cuộc ‘thoát xác’ đầy đau đớn, đầy cực nhọc này liệu chúng ta có thể làm
được hay chỉ làm hình thức, làm cho có vẻ, và mãi mãi Việt Nam vẫn chỉ là một
con ngài nằm khoanh tròn trong chiếc kén, đầy bưng bít, để gặm nhấm đồng thời cả
tinh thần tự ti và sự kiêu ngạo” [iv].
Sau hơn 30 năm, thực tiễn văn học cho thấy những hạt giống của
niềm hy vọng đã được gieo trồng, nhưng nỗi lo của Nguyễn Minh Châu vẫn còn là một
câu hỏi chưa có lời giải đáp trọn vẹn. Thiết nghĩ đó cũng là lời nhắc nhở cần
thiết đối với những người làm văn học hôm nay, khi tưởng niệm 30 năm ngày mất của
Nguyễn Minh Châu.
Bài viết tham gia Hội thảo khoa học Nguyễn Minh Châu và
tiến trình Đổi mới văn học, Viện Văn học (tháng 10/2019)
Chú thích:
[i] “Văn nghệ Hà Nội, bộ mặt của cả nước”, Báo Văn Nghệ số 41, ngày 6-10-1984, tr. 10.
[ii] Nguyễn
Minh Châu: “Hòa đồng cùng nhân loại”, Tạp chí Văn, TP Hồ Chí Minh, số 2,
năm 1988, tr. 3.
[iii] Nguyễn Minh Châu: “Ngồi buồn viết mà chơi”, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, số 4 - 1989, tr. 10.
[iv] Nguyễn
Minh Châu: “Hòa đồng cùng nhân loại”, Bđd, tr. 4.
27/10/2019
Huỳnh Như Phương
Theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét