Chim họa mi và súng đại bác...
Làm mới đề tài truyền thống
Ai đó thích thú câu: “Khi đại bác nổ thì họa mi ngừng hót”
(ngụ ý khi chiến tranh nổ ra thì không còn cơ hội cho tình yêu và nghệ thuật),
sẽ phải tự đính chính nếu đọc tiểu thuyết Hương của Nguyễn Thụy Kha,
một nhà văn mặc áo lính cả trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này. Văn học
viết về chiến tranh là một bộ phận lớn và quan trọng trong nền văn học hiện đại
Việt Nam từ 1945 đến nay. Nó vẫn tạo hấp lực khó cưỡng lại với người đọc hôm
nay vốn bị văn hóa/văn học đại chúng chi phối vì hàm lượng giải trí cao. Có những
cuốn sách viết về “chuyện cũ như trái đất”- chiến tranh - nhưng có tiếng vang
trên văn đàn năm 2022 như Vùng biên không yên tĩnh của Thương
Hà, Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt của Đoàn Tuấn, Hương của
Nguyễn Thụy Kha. Sứ mệnh hòa giải, hòa hợp dân tộc của nhà văn bằng ngôn ngữ
văn học là dấu chỉ định tính (từ tả trận đến tái nhận thức) của văn học về chiến
tranh những thập niên đầu thế kỷ 21. Nhưng người mở đường tài năng và tinh anh
không ai khác vẫn là nhà văn Nguyễn Minh Châu với tiểu thuyết Miền cháy (1977).
Một cái nhìn thấu thị của nhà văn khi tiên cảm được luồng lạch tư tưởng - tình
cảm thời đại: bước ra khỏi chiến tranh chúng ta cũng sẽ khó khăn không kém khi
bước vào cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, ác liệt. Vấn đề nhân tâm thời đại,
vấn đề tính người, vấn đề hoà giải, hòa hợp dân tộc đã được “xới lên” qua hình
tượng nghệ thuật tuyệt vời: Mẹ Êm.
Sự kiện văn học “Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc”,
do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (10/2017), là động hướng văn hóa -
tinh thần tích cực. Dẫu còn vài ba khúc mắc quanh co, song đại thể các nhà văn
Việt Nam ở trong và ngoài nước khi ý thức được cội nguồn dân tộc cùng con Rồng,
cháu Tiên đều mở lòng, nối vòng tay lớn, vì đại nghĩa, vì một nước Việt Nam hòa
bình, phồn vinh, “quốc thái dân an”. Biệt sắc mới của văn học về chiến tranh
hôm nay là ở sự mở rộng biên độ phản ánh (con người mang theo tinh thần đối thoại
về cuộc chiến tranh ra ngoài biên giới). Nhìn nhận và tái hiện chiến tranh trên
nền tảng tư tưởng tiến hóa, tiến bộ, nhân văn khi trái đất là ngôi nhà chung của
thế giới. Vì thế nên tiểu thuyết Hương đã tạo nên một hiện tượng
văn học, xuất bản đặc sắc khi được in với số lượng lớn và có sức lan tỏa (in lần
đầu 2.500 cuốn, trong đó có 1.000 cuốn dành chuyển tới bà con Việt Kiều hiện
đang sinh sống ở nước ngoài, đặc biệt ở Mỹ). Nhà văn Nguyễn Thụy Kha đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ của người nghệ sĩ ngôn từ khi viết về chiến tranh bằng
toàn bộ trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa.
Tột cùng văn hóa là con người
Có thể nói, tiểu thuyết Hương là thiên tình sử
trong chiến tranh. Theo cách nói khác thì súng đại bác cứ nổ, chim họa mi vẫn cứ
hót. Vì tình yêu là bất diệt. Câu chuyện tình tay ba, vốn cũ như trái đất, giữa
Lĩnh (người lính Giải phóng) với Hương (cô gái nhan sắc và tài hoa ở thành cổ
Quảng Trị ) và Bao (bác sỹ Quân lực Việt Nam Cộng hòa ) đã được Thơm (con
của Lĩnh và Hương) như là sợi dây, thứ hào quang kết nối và chiếu sáng những
góc đời sống còn khuất lấp. Kể từ khi Thơm chào đời đến khi trưởng thành trên đất
Mỹ, cô chỉ biết ông Bao là bố mình, còn chưa biết đến ông Lĩnh là bố đẻ. Nhưng
như dân gian nói “công đẻ không bằng công dưỡng”. Trái đất tròn và ngày càng
thu hẹp lại, mấy chục năm sau ông Lĩnh mới gặp lại con gái ruột của mình là
Thơm trên đất Mỹ (khi mẹ Hương mất rất lâu trước đó). Một cuộc bàn giao lịch sử
- tình nghĩa để Thơm về với bố đẻ, khiến ông Bao như đánh mất một cái gì
quý giá nhất của đời mình khi tóc trên đầu đã pha sương. Đúng là nếu có nước mắt
thì nước mắt dành cho ngày gặp mặt…
Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai là cảm hứng sống,
phương châm hành xử của dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống trong lịch sử hàng
ngàn năm “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn/ Lấy chí nhân thay cường bạo” (Nguyễn
Trãi - Bình Ngô đại cáo) và cũng là của thế hệ nhà văn chống Mỹ như Nguyễn
Thụy Kha. Đường đến hoà bình, chính nghĩa được xây đắp, mở rộng, nối dài không
phải bằng cái gì khác mà chính bằng “lòng hữu ái nhân loại” trên nền tảng nhân
tính/nhân quyền như là dấu chỉ của văn hóa tương lai, có thể hiểu là nhân
loại tính sẽ thay cho giai cấp tính chăng (?!). Tiểu thuyết Hương là
một “Romance” (bản tình ca bằng ngôn ngữ tiểu thuyết): “Hương ơi! Nhờ có tình
yêu của em, anh đã biết sống, đã dám sống đến tận cùng đời sống, sống thay cả
những người đã khuất. Tình yêu lai láng của em đã tràn ngập cả tuổi già của
anh. Đấy chính là bé Thơm. Vào một ngày đẹp trời nào đó anh sẽ bay theo em,
theo những người đã ngã xuống, trong đó có những người đã ngã xuống Quảng Trị
năm 1972. Rồi bé Thơm, bé Thiện sẽ kể chuyện chúng mình cho cháu Việt, cháu
Hoa. Rồi các cháu lại kể tiếp. Cứ thế mãi mãi”. Nhân vật Lĩnh nghĩ đến những
“truyền nhân” (thế hệ tương lai) sẽ kể chuyện tình yêu và lịch sử của một thời,
một đất nước. Nhưng không phải chỉ có “Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện
Nguyên Phong” như trước nữa. Thế hệ tương lai sẽ phải kể chuyện tình yêu - hòa
bình - hữu ái nhân loại trên nền tảng “chân - thiện - mỹ”. Tiểu thuyết Hương là
một trong những sắc thái của “nỗi buồn chiến tranh”. Nhưng là một nỗi buồn đẹp,
cần thiết để thanh lọc tâm hồn con người trong một thế giới quá nhiều nguy cơ
tàn phá và hủy diệt không chỉ bởi chiến tranh mà có thể vì “thủy hoả đạo tặc”.
Viết tiểu thuyết Hương, Nguyễn Thụy Kha thấm thía đến tận cách tơ kẽ tóc một
cách hiểu về văn hóa tối giản nhưng thâm hậu là “cách sống cùng nhau”. Vì thế,
cùng lúc nó mang âm hưởng kép: lời nguyện cầu cho hòa bình dân tộc và nhân loại;
đồng thời là bản “romance” tụng ca tình yêu, tình bạn, tình đồng bào, tình nhân
loại vượt lên trên hận thù chém giết do chiến tranh gây nên, tụng ca vẻ đẹp của
mỗi người là một hạt giống đẹp trong vườn ươm hòa bình, hạnh phúc.
Nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Kha, nếu có phân “chiến
tuyến” cũng chỉ là tương đối, nhất thời. Lĩnh (anh bộ đội Giải phóng) và Bao
(viên bác sỹ Quân lực Việt Nam Cộng hòa) chỉ là con người phận sự, công vụ có hạn
định về không gian - thời gian. Nhưng nhà tiểu thuyết tài giỏi là biết cách đi
tìm “con người trong con người”. Phẩm tính này của Lĩnh và Bao chỉ có thể bộc lộ
khi xuất hiện nhân vật trung gian là Hương. Rõ ràng, cách phát hiện từ góc độ
“người khác là tấm gương của mình” đã được tác giả vận dụng khi ghép ba nhân vật
vào trong “lồng tình yêu”. Chưa thật rõ tác giả có nung nấu giáo lý đạo Phật
hay không, nhưng trong cách viết thì hiển thị sự chú ý đặc biệt đến những “sat
- na” (kiếp đoạn) của nhân vật/ con người. Những góc khuất của tâm linh, thậm
chí bí ẩn của năng lực thông linh giữa người sống và người chết,
trong tiểu thuyết Hương được thể hiện có mức độ, khiến người đọc còn
lưu cái cảm giác “thèm”. Dù muôn đời sau thì con người, như một “tiểu vũ trụ”,
vẫn là một bí mật bất ngờ với nghệ sĩ ngôn từ. Nói “tột cùng văn hóa là con
người” như một định hướng nhận thức thì khi viết tiểu thuyết Hương, Nguyễn
Thuy Kha đã không bị lạc trôi ngòi bút của mình. Chân tủy của tiểu thuyết Hương chính
là cuộc đối thoại văn hóa, hay nói cách khác là sự chiến thắng của văn hóa
trong một thế giới đầy nguy cơ chiến tranh. Nhân vật Lĩnh là một người lính văn
hóa, một trí thức tham gia chiến tranh và góp phần xây đắp đường đến hòa bình
cho dân tộc và nhân loại bằng truyền thống văn hiến – văn hóa – nhân văn của
người Việt Nam “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
Kỹ thuật “giao hưởng”
Trong nghề văn, có một công thức như tiên đề trong toán học:
“Quan trọng không phải là viết về cái gì mà là viết như thế nào”. Đọc tiểu thuyết Hương độc
giả có được cái khoái cảm thẩm mỹ vì cách viết linh hoạt, biến hóa của một ngòi
bút kinh lịch đời sống và nghệ thuật, nên có sự pha trộn giữa các nhân tố kỹ
thuật như Romance, Drama, Bi kịch, Sử thi, Tâm lý , Trữ tình, Tương tác
(thơ/ nhạc/ văn xuôi).. Sự tìm tòi hình thức chung quy nhằm biểu đạt tối đa nội
dung. Viết Hương, nhà văn Nguyễn Thụy Kha, với tư cách một nhạc sĩ, dường
như đang kiến thiết một kiểu “giao hưởng” trong một cuốn tiểu thuyết ngắn, tuân
thủ tối đa nguyên tắc viết theo phép “tỉnh lược” (nên độ dài chỉ có 350 trang).
Ngoài phần Tự bạch và Vĩ thanh, còn lại 10 chương của tiểu thuyết
(đánh số từ I đến X), tựa như hai bàn tay với mười ngón tay tài hoa của
nhạc sĩ đang lướt trên phím (Digital) đại dương cầm. Không nói là cái gì dẫn dắt,
nâng đỡ cái gì, nhưng rõ ràng trong tiểu thuyết Hương âm nhạc với những
giai điệu (Melody) và thơ ca với những nhịp điệu (Rythme) đã làm cho “Romance”
bay lên bát ngát, lúc dìu dặt, lúc trầm hùng, lúc bi thương, cuối cùng là khải
hoàn ca trong đoàn tụ và nước mắt.
Văn phong của Nguyễn Thụy Kha trong tiểu thuyết Hương,
có ảnh hưởng của âm nhạc (về tiết tấu), của thơ ca (về hình ảnh), của
thông tấn báo chí (về lượng thông tin thời sự chiến cuộc). Sự trộn lẫn một cách
khéo léo các nhân tố trên khiến cho câu chuyện tình yêu (thiên tình sử - love
history) lúc như trôi trong mộng mị, lúc như hiển hiện trần thế, vừa xa vừa gần,
vừa hư vừa thực. Nếu nói không quá thì tiểu thuyết Hương của Nguyễn
Thụy Kha là một “truyền kỳ hiện đại”. Câu chuyện tình yêu (thiên tình sử) được
kể lại sau nửa thế kỷ (1972-2022). Dĩ nhiên là nhờ ân huệ của thời gian, của
hòa bình, của nhân tâm thời đại (thiên thời - địa lợi - nhân hòa), nên nhà văn
đã thành công với sáng tác mới, tiểu thuyết Hương, như một cột mốc của đại
lộ văn chương về chiến tranh thời hậu chiến.
Một cuốn tiểu thuyết đến được nhiều đích Thiếu tướng, nhà văn Hồ Sỹ Hậu Nguyễn Thụy Kha nói đây là cuốn tiểu thuyết viết về 81 ngày
đêm “Mùa hè đỏ lửa”. Tôi chưa đọc được cuốn tiểu thuyết nào về cuộc chiến khốc
liệt ở Thành Cổ, nên rất tò mò. Đọc hết cuốn sách, khi gấp lại, nhìn hình vẽ
bìa, tôi nhận ra biểu tượng của thông điệp mà anh đã gửi gắm vào cuốn sách:
Hãy mở lòng ra, nghe và nhìn từ hai phía. Xét về dung lượng, phần mô tả trực tiếp cuộc chiến đẫm máu
trong Thành Cổ chiếm tỷ lệ không lớn, nhưng cũng đủ để ta hình dung ra, từ việc
đưa tin theo cách “thông tấn”: giờ, ngày, tháng các cánh quân của mỗi phía vượt
chướng ngại ra sao giữa thành trì đổ nát, pháo hai bên bắn ra sao, mỗi bên tiến
thoái thế nào. Và cũng giúp ta hiểu sự gian truân, suy nghĩ của cả những người
lính Giải phóng và lính Cộng Hòa về cuộc chiến khi cái chết rình rập họ từng
phút từng giây. Suy nghĩ ấy được mô tả tại trận địa, và cả những lá thư gửi về
nhà. Trận chiến Thành Cổ đi qua với tất cả những gì sinh ra từ nó: bom, pháo,
mọi loại hỏa lực gầm thét... Rồi bị thương, chết chóc, những mộng mơ phụt tắt,
những nhân tài không thể trở về. Chính cuộc chiến cũng sinh ra tình yêu, tình
đồng đội và cả tình bạn của những người lính từ hai phía. Trận chiến khốc liệt
mà cuốn sách mô tả khiến ta suy ngẫm hơn là cảm giác rùng rợn. Tuyến nhân vật trong cuốn sách cũng thật logic. Những nhân
vật dù chỉ xuất hiện tưởng như thoáng qua, như Bruce với bài thơ You can
Hide viết tặng Bảo Ninh, hay hai người lính từ hai phía: Đào Chí Thành
và Nguyễn Thanh Quang, cho đến những nhân vật đi suốt truyện như nhạc sĩ
Lĩnh, cô người yêu Hương, bác sĩ Bao... đều “ẩn hiện” một cách hợp lý để xâu
chuỗi nên cốt truyện chặt chẽ. Kết thúc cuốn sách là một tình tiết có hậu: Những người còn
sống qua cuộc chiến, mà mỗi người trong họ đều có những sợi dây khác nhau cuộn
cột vào “Mùa hè đỏ lửa”, cùng vào trong một khung ảnh của nhiếp ảnh gia Đỗ.
Đó là hình ảnh của sự hòa hợp, sự đoàn viên. Không quên quá khứ, những quá khứ
để mà suy ngẫm, để hướng tới mọi sự hành thiện trong tương lai, chứ không phải
quá khứ để hận thù. Tôi biết Nguyễn Thụy Kha đã từng là lính thông tin, từng là
tù binh, được trao trả trên sông Thạch Hãn, từng đi móc cống (để nhớ về cống
ngầm của Paris mà Victor Hugo đã kể), rồi bốc vác ở bến Phà Đen, đứng máy gia
công mỳ sợi, đứng máy sản xuất nhựa tái sinh... Bởi vậy nên tôi có cảm giác
nhân vật Lĩnh trong Hương, một nhà thơ, nhạc sĩ tài hoa chính là anh; và
Hương trong mối tình Lĩnh-Hương chắc hẳn là người thật trong cuộc đời anh, bởi
vậy mới có bài thơ Mùa hạ Diễm với hoàn cảnh được mô tả đúng như trong tiểu
thuyết: Hương ơi! Áo dài trắng cây ghi-ta bé bỏng Chai la-de đầu tiên anh uống cùng đá lạnh tanh nồng mùi
máu, mùi xương. Rồi nhân vật họa sĩ Trần Lê An với những tác phẩm nổi tiếng:
Bão táp và sông thiêng, Khúc tráng ca thành cổ - bạn của Lĩnh trong tác phẩm,
ngoài đời cũng là bạn anh... Những cuộc gặp của Lĩnh với các văn nghệ sĩ nổi
tiếng như Nguyễn Tuân, Văn Cao, Trịnh Công Sơn... chính là những cuộc gặp
trong cuộc đời nhà văn. Một phần khá lớn trong cuốn sách, Nguyễn Thụy Kha nói về
các tác phẩm âm nhạc, thơ văn nổi tiếng, nói về những nghệ sĩ tài hoa trong
lịch sử thi ca của đất nước và cả nước ngoài. Những luận giải về con người và
tác phẩm của danh nhân, trong đó có một số tên tuổi mà không nhiều người đọc
biết như Bertolt Brecht, Pê tơ Phi; rồi tác phẩm điêu khắc Mùa xuân Vĩnh cửu
nổi tiếng của August Ro din..., những ghi chú trong ngoặc (... NTK) đôi khi
làm ta mất đi cảm giác đang đọc tiểu thuyết, thay vào đó là cảm giác đọc bài
phân tích về nghệ thuật. Những gì anh viết ra ngồn ngộn thông tin, với hàm lượng
tri thức, trí tuệ uyên thâm. Nhưng chính những trường đoạn đó làm cho cuốn
sách trở nên kén độc giả. |
5/3/2023
Bùi Việt Thắng
Nguồn: Văn nghệ số 9/2023
Theo http://baovannghe.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét