Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Tự Lực Văn Đoàn 1

Tự Lực Văn Đoàn 1

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ
(Hoàn cảnh nước nhà nhìn tổng quát suốt khoảng tiền bán thế kỷ XX)
A.  Giai đoạn văn thân Cần Vương bế mạc
Giai đoạn này khởi đầu với cuộc nổi lên chống Pháp của Trương Định tại Chợ Lớn, Tân An, Gò Công vào năm 1862 và chấm dứt vào năm 1895 là năm Phan Đình Phùng chết vì bệnh kiết lỵ trong núi.
B.  Giai đoạn Canh tân và Đông Du (1985-1912)
Đầu thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đấu tranh dưới hình thức mới: giai đoạn Đông Du và Canh tân. Sở dĩ có cuộc chuyển hướng này vì các sĩ phu nước nhà đã rút được những bài học kinh nghiệm quý giá: các cụ biết rằng vì khí giới của mình còn quá thô sơ nên việc chống Pháp toàn bằng võ lực sẽ không thoát khỏi thất bại. Ấy là chưa kể ta gần như thường xuyên sống trong cảnh thiếu thốn về lương thực và tài chánh. Các cụ đã thấy gương Nhật Bản khoảng 1858 cũng bị lực lượng quân sự cơ giới Tây phương áp đảo, nhưng Nhật Bản đã hiểu ngay bài học tiến hóa, kịp thời canh tân để chưa đầy 50 năm sau trả đòn đánh bại nước Nga trong những trận hải, lục chiến ở Phụng Thiên và cửa bể Nhật Bản (1905).
Trong giai đoạn này ta có thể ghi chép những sự kiện sau đây:
1.  Về phương diện võ lực kháng chiến.
Cuộc khởi nghĩa Đề Thám vẫn tiếp tục chiến đấu du kích cho tới 1910. Ngoài ra chỉ còn những vụ âm mưu lẻ tẻ đánh phá các đồn trại, đầu độc hoặc mưu sát quân lính và nhà chức trách Pháp.
2.  Về phương diện canh tân
Thời bấy giờ phong trào Canh tân đã sôi nổi lắm ở Trung Hoa và những sách mới của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu được phiên dịch sang tiếng Việt. Lúc đó, Tăng Bạt Hổ, một chiến tướng Cần Vương tại Bình Định, sau khi thất bại bỏ đi chu du các nước Tàu, Nhật, lúc trở về cổ động các nhân sĩ xuất dương hoạt động cứu quốc. Phan Sào Nam liền cùng Tăng Bạt Hổ đi khắp Nam Bắc để liên lạc với các đồng chí và tuyên truyền việc xuất dương du học. Tại Quảng Nam, hai cụ họp các đồng chí để thành lập Việt Nam Quang Phục Hội (1904) tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm hội trưởng xuất bản cuốn Lưu Cầu Huyết Lệ Tâm Thư để cổ võ tinh thần cách mạng du học. Sau đó Phan Sào Nam và Tăng Bạt Hổ liền sang Nhật giao thiệp với các yếu nhân trong chính giới Nhật để sửa soạn đưa Kỳ ngoại hầu Cường Để sang Đông Kinh.
Cuộc cổ võ Đông Du này được hưởng ứng nhiệt liệt và các vị như Phan Chu Trinh, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Ngọc Can... đều tham gia xuất dương hoạt động.
Cuộc Đông Du này có hai mục đích cốt yếu: một là đào luyện nhân tài cách mạng, hai là mua khí giới gởi về giúp phe kháng Pháp trong nước.
Năm 1906, Phan Chu Trinh ở Nhật về, gởi một bức thư công khai cho chính phủ Pháp ngày 15-9-1906 yêu cầu phải thành thực cải cách cho Việt Nam. Kế đó các nhà Nho Duy tân ở Bắc Hà: Lương Ngọc Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Đặng Kinh Luân, Phan Huy Thịnh v.v.. thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội, ngay từ ngày đầu đã có ngay trên 1.000 học sinh. Tất cả cấp giấy bút, miễn học phí và học kiêm ba thứ chữ: Việt, Hán, Pháp. Đó là lần đầu tiên môn chữ Việt viết theo lối La mã được giảng dạy tại nhà trường, điểm này sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới việc giáo dục dân chúng. Một điểm mới lạ thứ hai nữa trong chương trình Đông Kinh Nghĩa Thục là học trò con gái có thể theo học cùng với con trai được, điểm này làm mầm cho sự cải tiến nữ giới.
Tóm lại một mặt Đông Kinh Nghĩa Thục theo đuổi mục đích canh tân những tập tục sinh hoạt của quốc dân, một mặt khác muốn bí mật đào luyện những phần tử ái quốc và tìm cách cho họ xuất dương hoạt động.
Vì có sự hưởng ứng nhiệt liệt của các giới, nên các nhà chức trách Pháp thấy lo ngại và trường Đông Kinh Nghĩa Thục chưa hoạt động đầy một năm đã bị đóng cửa. Các vị chủ trương đều bị đưa ra tòa và kết án tử hình, song vì có sự can thiệp của hội Nhân Quyền nên chuyển sang án đầy Côn Đảo.
C.  Giai đoạn quá độ (1912 - 1920)
Gọi là giai đoạn quá độ vì với giai đoạn này chúng ta chấm dứt một tình trạng xã hội cũ để bước sang một tình trạng mới, với những nhà lãnh đạo mới, nêu lên những tư tưởng mới.
Tới đây người Pháp đã nắm vững được tình thế trong quốc nội cũng như ngoài quốc tế. Người Pháp đã điều đình ký hiệp ước Nhật để chính phủ Nhật trục xuất các nhà ái quốc của ta ra khỏi nước họ, khiến các vị này đành trở về Hương Cảng Thượng Hải. Tại nước nhà, âm mưu khởi nghĩa của Duy Tân tại Huế (1916), của Đội Cấn tại Thái Nguyên (1917) đều bị bại lộ. Tuy phong trào khởi nghĩa trong giai đoạn này ít sôi nổi nhưng ta có thể nhận định những biến chuyển quan hệ sau đây:
1.  Trên phương diện kinh tế xã hội
Giai đoạn này (khoảng từ 1912 đến 1920) đã thúc đẩy mạnh mẽ xã hội Việt Nam bước sang một chế độ kinh tế và một thể thức phân hóa xã hội khác hẳn trước kia. Có điều cần phải nhấn mạnh rằng tại các xã hội Âu Tây những biến chuyển kinh tế xã hội đều do đà tiến nội tại của nó mà phá vỡ những cơ cấu cũ và thiết lập những tương quan mới, trong khi những biến chuyển tại xã hội Việt Nam lại được thúc đẩy do một nguyên nhân bên ngoài tức là sự đột nhập của lực lượng cơ giới tư bản đế quốc Pháp. Tại những miền rừng núi và đồn điền người Pháp cho khai khẩn các hầm mỏ và trồng các cây kỹ nghệ để lấy nguyên liệu chuyển về Pháp. Tại những thành thị, họ thiết lập nhiều cơ sở thương mại, vận tải và nhiều xí nghiệp kỹ nghệ để lợi dụng nhân công giá hạ.
Sự phát triển của nền thương mại và công kỹ nghệ này khiến xã hội Việt Nam phân hóa thành những tầng lớp như sau:
-  Lớp tư sản mại bản (làm trung gian cho tư bản đế quốc).
-  Lớp tiểu thương, tiểu công kỹ nghệ (phần lớn lớp này từ thôn quê ra thành thị lập nghiệp).
-  Lớp thợ thuyền vô sản (tại những xí nghiệp hầm mỏ)
2.  Trên phương diện tư tưởng và chính trị
Lý tưởng trung quân mờ nhạt, lý tưởng dân chủ và dân tộc giải phóng đột nhập mạnh mẽ vào tâm hồn người dân Việt vì những biến cố bên ngoài (cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Dật Tiên lãnh đạo, cuộc cách mạng vô sản (1917) tại Nga). Thêm nữa ngay tại trong nước, Toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn cởi mở chế độ (Thái độ ve vuốt đó để nắm vững dân chúng, mộ thêm binh sĩ sang Pháp cho cuộc chiến tranh 1914-1918, đồng thời mở quốc trái với khẩu hiệu: Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc).
Vì lý tưởng trung quân mờ nhạt, vai trò sĩ phu tới đây gần như chấm dứt hẳn, nhường sân khấu chính trị cho lớp người mới chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương, họ nêu cờ khởi nghĩa với lý tưởng quốc gia dân tộc hoặc tự do dân chủ.
D. Giai đoạn toàn thịnh của quan niệm quốc gia thuần túy (1920-1930)
Gọi vậy vì trong giai đoạn này chỉ có những phong trào quốc gia mới gây nổi những vang dội mạnh mẽ trong quần chúng Việt Nam. Ta có thể kể sự thành lập của những đảng phái chính trị sau đây:
1.  Phong trào Lập Hiến
Năm 1923, phong trào Lập Hiến được đề xướng trong Nam do các ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, cơ quan ngôn luận là tờ Tribune Indocinoise. Lập trường của phong trào công nhận sự hợp tác Pháp-Việt với những sự cởi mở cần thiết về chính trị và kinh tế khiến cho nước Việt Nam dần dần có thể theo kịp ngoại quốc.
Phong trào này đã gây được ảnh hưởng khá mạnh vào những năm 1924-1926: trong vụ tranh cử vào Hội đồng thuộc địa năm 1925, toàn thể những ứng cử viên lập hiến đều được trúng cử.
Phong trào cũng có tổ chức những cuộc phát động quần chúng như vào dịp tang cụ Phan Chu Trinh (tháng 3 năm 1926). Nhưng phong trào mất dần tín nhiệm vì sau này chỉ tranh đấu lấy quyền lợi thiết cận cho tầng lớp mà họ tiêu biểu như:
-  Đòi tự do gia nhập luật sư đoàn.
-  Đòi mở rộng luật lệ về việc gia nhập Pháp tịch (!)
-  Đòi tự do kinh doanh (để mở rộng nền công kỹ nghệ, thương mại mới phôi thai mà họ là những người nắm giữ).
2.  Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội
Năm 1925, một chi bộ Việt Nam của Hội Á Tế Á Nhược Tiểu Dân Tộc được thành lập tại Quảng Châu do Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong chỉ huy dưới quyền lãnh đạo tối cao của Borodine. Chính tổ chức đó sau này đổi tên là Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh Hội, dùng tờ tuần báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền bí mật. Cuối 1925 họ phái đảng viên về hoạt động trong nước, bí mật tổ chức tiểu tổ và trà trộn vào các phong trào quốc gia như Tân Việt Cách Mạng Đảng để lũng đoạn nội bộ. Tháng tư 1927, ban chỉ huy của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng phải dời sang Hồng Kông vì Tưởng Giới Thạch tấn công khủng bố các lực lượng Cộng sản tại Hoa Nam và Quảng Châu. Tại cuộc đại hội đầu tiên ở Hồng Kông của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội có sự bất đồng ý kiến giữa các đại biểu, phải đợi đến tháng 3 năm 1930 Nguyễn Ái Quốc mới thống được các ý kiến để đổi Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Tháng tư năm sau (1931) đảng này được Đệ tam Quốc Tế thừa nhận. Trụ sở Ban chấp hành trung ương được thiên về Sài Gòn.
3.  Tân Việt Cách Mạng Đảng
Cũng năm 1925 một đảng cách mạng có khuynh hướng quốc gia được thành lập tại miền bắc Trung Bộ thoạt lấy tên là Phục Việt sau đổi tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng, lãnh đạo bởi các sĩ phu đã chuyển sang tân học và đã từng bị đày đi Côn Đảo. (Các cụ Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên...) Đảng Tân Việt không chịu đi với đảng Nguyễn An Ninh trong Nam và cũng không chịu thống nhất lực lượng với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Ảnh hưởng của đảng khá mạnh vào những năm 1925-1926 trong những cuộc bãi khóa của học sinh, những cuộc biểu tình của dân chúng - như vào dịp tang cụ Phan Chu Trinh - để phản đối chính quyền bảo hộ.
4.  Việt Nam Quốc Dân Đảng
Năm 1927, một nhóm thanh niên ái quốc (Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống) thành lập tại Hà Nội “Nam Đồng Thư Xã”, chủ trương xuất bản những sách nói về cuộc Cách mạng Tân Hợi Trung Hoa, về Tôn Dật Tiên và Tam Dân chủ nghĩa, v.v...
Dần dần, những sách đó gây được ảnh hưởng trong quần chúng nên đã bị nhà cầm quyền tịch thâu và đóng cửa thư xã.
Từ đó nhóm Nam Đồng Thư Xã dưới ảnh hưởng của Nguyễn Thái Học đã chuyển thành một tổ chức bí mật và đến tháng 11-1927 Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Đảng này được tổ chức theo kiểu Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên, cũng đề xướng Tam dân chủ nghĩa để nhằm mục đích đuổi Pháp và thiết lập được chế độ Cộng hòa dân quốc. Tới đầu năm 1929 Đảng đã kết nạp được hàng ngàn đảng viên (học sinh, binh sĩ, phụ nữ). Tờ nội san bí mật của Đảng lấy tên là Hồn Cách Mạng. Chủ trương của Đảng là dùng võ lực và gây một phong trào khủng bố rộng lớn để trừng trị những kẻ có tội với quốc gia dân tộc. Ngược lại Đảng cũng bị sở mật thám Pháp theo dõi và đàn áp mạnh mẽ. Nhiều chỗ chứa bom cùng vũ khí khác của Đảng bị khám phá. Tình hình ngày một căng thẳng, ban chỉ huy của đảng biết trước thất bại cũng đành quyết định khởi nghĩa để “nếu không thành thân thì thành nhân” như lời Nguyễn Thái Học tuyên bố. Đêm 10-2-0930 cuộc khởi nghĩa bùng nổ tại Yên Bái, Lâm Thao và một vài tỉnh khác.
Kết cục khởi nghĩa đã thất bại: Nguyễn Khắc Nhu tuẫn tiết trại mặt trận Lâm Thao, Nguyễn Thái Học lẩn trốn. Sau cùng Nguyễn Thái Học cũng bị bắt để cùng với 12 đồng chí nữa lên đoạn đầu đài.
5.  Đảng Nguyên An Ninh
Tại Nam Bộ vào năm 1927 Nguyễn An Ninh thành lập đảng của ông tại Hốc Môn nhưng chỉ hoạt động được hơn một năm trời thì bị Pháp khủng bố tan rã. Nguyễn An Ninh bị đày ra Côn Đảo.
6.  Việt Nam Toàn Quốc Cách Mạng Đảng
Cùng vào năm 1927 cụ Nguyễn Hải Thần có thành lập tại Quảng Đông một đoàn thể lấy tên là Việt Nam Toàn Quốc Cách Mạng Đảng, kết tập một số phần tử xuất dương tản mát trên đất Trung Hoa nhưng sự hoạt động không thâu hoạch được kết quả gì đáng kể.
Trong khoảng thời gian này (1920-1923), tuy nước nhà đã có đủ màu sắc chính trị (quốc gia, quốc tế) nhưng chỉ những phong trào quốc gia là gây được ảnh hưởng đáng kể nên mệnh danh giai đoạn này là giai đoạn toàn thịnh của phong trào quốc gia tưởng cũng là đích đáng lắm.
E.  Giai đoạn tranh chấp giữa khuynh hướng Quốc gia và khuynh hướng Quốc tế vô sản (1930-1945)
Sau đợt bị đế quốc khủng bố đẫm máu 1930, phong trào quốc gia phải tạm ngừng hoạt động. Thời kỳ này lại đương bị kinh tế khủng hoảng, trí thức thất nghiệp, thợ thuyền, nông dân bị xô đẩy vào cảnh đói rét lầm than. Đó là những điều kiện khách quan rất thuận lợi cho phe vô sản hoạt động mạnh mẽ. Năm 1932, có nhiều vụ đình công, biểu tình nông dân nổi loạn tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi... Hàng ngàn người bị bắt hoặc bị đày ra Côn Đảo, nhưng đế quốc càng khủng bố thế lực đảng vô sản càng được bành trướng.
Cùng năm 1932 hàng ngũ vô sản mọc thêm một phái nữa: Đệ tứ quốc tế lãnh tụ là Tạ Thu Thâu. Đầu năm 1933, Đệ tam và Đệ tứ cùng liên kết để chủ trương tờ La lutte tại Sài Gòn, trong đó những người như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm (Đệ tứ), Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai (Đệ tam).
Khoảng 1936-1937 phong trào đấu tranh chống đế quốc bộc phát nhờ những biến chuyển của thời cuộc tại chính quốc Pháp. Nguyên vào thời này, trước hiểm họa chiến tranh có thể gây ra bởi Đức quốc xã, Đảng Cộng sản Pháp hợp tác với đảng Xã hội thành lập Mặt trận Bình Dân nắm chính quyền. (Ông Léon Blum, đại biểu của Đảng Xã Hội Pháp giữ chức Thủ Tướng, ông Marius Moutel, một trong những yếu nhân của đảng Xã Hội Pháp, nắm giữ Bộ thuộc địa). Vì thế mà tại nước nhà phe Đệ tam cũng muốn rập theo chiến lược ấy của Đảng Cộng sản Pháp.
Một cuộc khoáng đại hội nghị ở Quảng Châu (Trung Hoa), rồi ở Thái Hà Âp (Việt Nam) của những cán bộ xứ ủy và Trung ương đảng bộ đã quyết định thành lập một mặt trận chính trị gọi là Mặt Trận Phản Đế Cứu Quốc Giải phóng Đồng Minh Liên Hiệp, rập theo đúng lối tổ chức của Mặt Trận Bình Dân Pháp. Mặt Trận Phản Đế này ra đời vào tháng 5-1936 mà chính cương điều lệ chẳng khác gì Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, tức Việt Minh năm 1940.
Chú thích:
(1) Viết theo tài liệu của Nghiêm Xuân Hồng - Lịch trình diễn tiến của Phong trào Quốc gia Việt Nam - Quan điểm 1958.
(2) Các cụ vận động mua khí giới của Nhật, ngoại giao với Nhật, Tàu, Xiêm để được sự ủng hộ của các nước đó. Riêng cụ Phan Chu Trinh không chấp nhận chủ trương này nhưng vẫn tích cực hoạt động chung.
(3) Nhất là vào thời kỳ thế giới đại chiến 1914-1918, kỹ nghệ thương mại tại chính quốc bị ngừng trên không thể xâm nhập vào thị trường Đông Dương, bởi vậy các ngành công kỹ nghệ của người Pháp cũng như của người Việt ở nơi đây mới gặp dịp thuận tiện mà phát triển mạnh.
(4) Cùng vào năm 1930 Sô Viết Nghệ An bị Đệ tam Quốc tế lên án là manh động bỏ rơi. Nguyên do: Sau cuộc thất bại của Quảng Châu công xã năm 1927, Mao Trạch Đông rút về Hồ Nam nghiên cứu lại lý thuyết nông dân. Ông Ngô Đức Trí (con cụ Ngô Đức Kế) người lãnh đạo phong trào Sô Viết Nghệ An trước đây đã từng theo học ở Nga. Khi Đệ tam có sự mâu thuẫn nội bộ giữa Staline và Trolsky thì ông bỏ Nga về Paris. Nhờ có bọn lính thủy ủng hộ dấu diếm ông về được nước để lãnh đạo Sô Viết Nghệ An đúng lúc Staline chủ trương nhượng bộ đế quốc để hoàn thành cách mạng vô sản ở Nga. Vì vậy Sô Viết Nghệ An bị Đệ tam lên án là manh động và bỏ rơi. Đế quốc được mặc sức khủng bố suốt từ Nghệ An, Hà Tĩnh, qua Bình Trị Thiên, vào đến tận Quy Nhơn. Riêng ở Nghệ An tên chánh mật thám Marty - con rể Albert Sarraut - đã ra lệnh bắn hàng rẫy người xâu tay vào với nhau.
(5) Nguyễn An Ninh du học tại Pháp, đỗ cử nhân luật về nước cho ra tờ báo La cloche félée - Tiếng Chuông Rè (1927), rồi lên Tây Ninh giúp cho sự phát triển của đạo Cao Đài. Khi bị đày ra Côn Đảo đã một lần được tha, sau đó ít lâu lại bị bắt. Thực dân đày ông vì ghép ông vào tội liên lạc với Phan Văn Hùm, Đệ tứ. Cũng vì lý do này, tới Côn Đảo, ông bị phe Đệ tam hành hạ đến phát điên mà chết. Mả ông bị phe Đệ tam san phẳng. Mùa xuân 1958 kẻ viết tập sách này có dịp theo một phái đoàn ra thăm Côn Đảo, nhân đó tới viếng mộ ông khi đó được Chính phủ Quốc gia cho sửa sang lại.
II- Nhìn tổng quát nền văn học chữ quốc ngữ
từ khởi thủy cho đến tự lực văn đoàn
I.  Đầu thế kỷ XX, thời kỳ quan trọng trong Văn học sử nước nhà, đó là thời kỳ chuyển từ chữ Nho, chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ.
Trước thế kỷ XX, nền tảng văn học Việt Nam là chữ Hán và chữ Nôm là những thứ chữ chỉ có một thiểu số sử dụng, vì vậy sự phổ biến thật là hạn chế:
a)  Về hình thức: Phần nhiều chỉ có văn vần, ít văn xuôi.
b) Về nội dung: Trọng văn hóa Trung Hoa, và thường phổ biến tư tưởng Trung Hoa, ít chú ý đến văn minh Việt.
-  Không thực dụng, chỉ chú trọng từ chương.
-  Văn học là riêng của giới sĩ phu, ít đả động tới quần chúng.
Sự phát minh chữ Quốc ngữ đã có từ giữa thế kỷ XVII (cuốn tự điển đầu tiên về tiếng Việt in tại La Mã năm 1651) nhưng chữ Quốc ngữ qua mấy thế kỷ không làm thay đổi nền tảng văn hóa cũ vì thứ chữ này trong khoảng thời gian đó chỉ thu hẹp trong phạm vi truyền giáo mà thôi. Ngay đến khoảng giữa thế kỷ XIX (hai thế kỷ sau khi các Giáo sĩ đã đặt ra chữ Quốc ngữ), Nguyễn Trường Tộ với trí óc cách mạng bậc nhất thời đó vẫn hầu như chưa nghĩ đến cách sử dụng chữ Quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh, nên Ông chỉ đề nghị bỏ chữ Nho dùng Quốc văn mà Quốc văn này được viết bằng một thứ chữ Nôm dựa theo chữ Nho.
Phải chờ đến biến cố chính trị lịch sử là sự thành lập chế độ thuộc địa Pháp, chữ Quốc ngữ mẫu tự La tinh mới bắt đầu thông dụng, nền tảng văn học mới ở nước ta mới tạo thành để thích ứng với tình thế. Trong thời này, chữ Pháp và nền học Pháp đoạt dần ưu thế, chữ Quốc ngữ chỉ dạy sơ sài ở Tiểu học và Trung học, đến bậc Đại học thì chữ Quốc ngữ mất hẳn.
Nếu không tìm lối thoát, chắc chắn văn hóa Việt Nam phải chìm vào nô lệ.
Các nhà văn hóa thức thời chỉ còn biết bấu víu vào chữ Quốc ngữ để xây dựng nền văn hóa mới phát huy và cái hay cái đẹp của nền văn minh Việt, phổ biến những tư tưởng Đông, Tây để thích ứng với đời sống, như vậy vừa chống chọi được với nền văn hóa Pháp, vừa giữ vẹn được bản sắc dân tộc.
II.  Sự xây dựng nền tảng văn hóa mới, và triển vọng của nền văn hóa chữ Quốc ngữ
A.  Sự xây dựng nền tảng văn hóa mới
Chúng ta tạm chia ra làm ba thời kỳ:
a.  Thời kỳ khởi thủy: Đó là thời kỳ chập chững. Tác phẩm không ngoài chuyện vặt, kể ra một cách vụng về, lời văn non kém. Chúng ta thấy có:
-  Trương Vĩnh Ký, tác giả của Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, v.v...
-  Paulus Của, tác giả Chuyện giải buồn và đứng trông nom tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của nước Việt Nam.
b. Thời kỳ xây dựng (1900-1930): Trong thời kỳ này sáng tác văn nghệ rất ít, nhưng đã tạo được các thể văn này: văn dịch, văn báo chí (bình luận, nghị luận, tin tức), văn khảo cứu, văn thuật sự, văn tiểu thuyết. Thời kỳ này gồm các nhóm:
-  Đông Dương Tạp chí
-  Nam Phong
-  Một số tác giả biệt lập như Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Tuấn Khải, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Văn Ngọc.
c.  Thời kỳ phát triển: Thời kỳ này kể từ 1930 trở đi. Nền văn học mới phát triển mạnh mẽ, mọi văn thể xuất hiện, khuynh hướng rất nhiều: Phóng sự, kịch, tùy bút, truyện ngắn, truyện dài. Các tác giả: Lan Khai, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trong Phụng và các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
Thời kỳ này phát triển được cũng là nhờ thời kỳ xây dựng trước.
B. Triển vọng của nền văn học chữ Quốc Ngữ
Huyết thống, địa dư, phong thổ, khí hậu, lịch sử mật thiết hòa lẫn chung đúc nên hồn dân tộc biểu lộ bằng tiếng nói rồi ghi lại bằng chữ viết. Như vậy chúng ta thấy rõ ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và có quan hệ mật thiết đến hưng vong của giống nòi. Dân tộc càng văn minh tân tiến, càng phải chú trọng đến ngôn ngữ văn tự của mình. Lời nói cách viết có mạch lạc, mẹo mực có rõ ràng mới chứng tỏ trình độ văn hóa cao.
Trước khi phát minh chữ Quốc ngữ, lối chữ nôm của ta xưa có nhiều khuyết điểm, bởi không có quy chế rõ ràng, vả lại muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán nên chỉ một thiểu số học được. Tuy nhiên chữ Nôm vẫn là cố gắng của tổ tiên chúng ta mong thoát ảnh hưởng Hán để duy trì và xây dựng một nền quốc học độc lập.
Chữ Nôm do chữ Hán ghép thành nên biểu hiện sự tổng hợp cụ thể mật thiết của tinh hoa Việt và Trung Hoa. Nếu ta nhận định rằng chữ Hán từ thế kỷ thứ X trở đi đã thu hút tinh hoa của Ấn Độ (Trong thời này, Đường Tam Tạng đã sang Tây Trúc lấy kinh) thì ta có thể giả định chữ Nôm là một kết tinh của cả Ấn, Hán, Việt:
Kể từ thế kỷ thứ XVII mấy vị cố đạo dựa theo chữ La tinh chế ra chữ Quốc ngữ, người Việt đã có một lợi khí văn hóa vô cùng sắc bén. Thoạt tiên chúng ta phải ghi nhận rằng dân tộc nhà được cái may hơn các dân tộc láng giềng là khắp xứ từ Bắc chí Nam - trừ một vài vùng thổ âm nhỏ và số ít phát âm sai biệt - đều nói một thứ tiếng. Chuyển từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ chúng ta đã chuyển từ loại chữ biểu ý (écriture idéographique, chữ tượng trưng ý niệm) sang loại chữ tiêu âm (écriture phonétique, chữ nghe sao ghi vậy) dễ dàng, tiện lợi. Tương lai nền văn học chữ Quốc ngữ thực rực rỡ khó bề lường trước được. Trong số các học giả ngoại quốc nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt, ông Frey nêu một thuyết cho rằng tiếng Việt là mẹ các thứ tiếng trong hai tác phẩm: L’Annamite, mère des langues (1892) và Annamites et Extremes Occidentaux, Recherches sur les origines des langues (1894). Thuyết của ông Frey tuy táo bạo chưa được chứng minh nhưng ít nhất cũng chứng tỏ khả năng phong phú cố hữu của tiếng Việt. Gần đây một vị giáo sư Pháp khác, ông Gustave Meillon cho rằng tiếng Việt là một trong những thứ tiếng văn chương nhất, thi vị nhất, giàu âm điệu nhất thế giới.
Để làm giầu tiếng nói thì về văn học, triết học, chúng ta đã mượn ở kho từ ngữ Hán Việt, về khoa học chúng ta có thể trực tiếp mượn những từ ngữ Tây phương.
Chính là linh cảm thấy rõ tầm quan trọng của chữ Quốc ngữ mà Phạm Quỳnh nói: “Chữ ta còn, nước ta còn”. Nguyễn Văn Vĩnh nói: “Nước Nam ta sau này hay hay dở là nhờ ở chữ Quốc ngữ”. Bác sĩ Nguyễn Văn Luyện trong cuốn Le Vietnam, une cause de paix (1945) đã rất đại lượng và sáng suốt mà viết: “Si jamais la France aura a répondre devant le tribunal de l’humanité, elle pourra présenter le Quốc ngữ pour se disculper” (Nếu một ngày kia nước Pháp phải ra trước tòa án nhân loại, nước Pháp có thể đưa chữ Quốc ngữ ra để gỡ tội cho mình).
Sự quan hệ của chữ Quốc ngữ đối với dân tộc, Quốc gia Việt Nam đã dĩ nhiên là thế, nhưng phân tích sâu sắc hơn chúng ta sẽ nhận thấy: nếu chữ Nôm như trên đã nói, là kết tinh của ba nền văn minh Ân-Hán-Việt, thì chữ Quốc ngữ chính là biểu tượng hình thức tổng hợp văn minh thế giới:
Ý thức được khả năng vô tận của ngôn ngữ văn tự Việt Nam, chúng ta có quyền tin tưởng vào tiền đồ rực rỡ của nền văn minh dân tộc.
(Hai biểu đồ trên đây, tác giả ghi nhận theo ý kiến của bạn Việt Tử)
III.  Đông dương tạp chí
Ra đời từ 1913, tuy không xuất bản liên tiếp được như Nam Phong nhưng đã cố gắng ra hàng tuần nên góp được phần lớn vào việc xây dựng văn học. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương, Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục là hai biên tập viên đắc lực.
Nguyễn Văn Vĩnh (1982-1936) nhận thấy người mình cần phải tìm lối thoát cho văn hóa bằng cách rút tỉa các tinh hoa của văn học Âu Châu điều hợp với nền tảng tinh thần cũ, khơi mào những thể văn mới làm lợi khí cho văn học mới. Muốn công cuộc vĩ đại này được thành tựu thì phải có một chữ viết và một tiếng nói đủ khả năng hướng dẫn cuộc tiến hóa. Chữ Việt đã sẵn có nhưng còn ở thời kỳ phôi thai, ít ai tin ở sứ mệnh của nó. Kế đắc sách nhất ông dùng là cho dịch và in những bộ tiểu thuyết thật hấp dễ để ai cũng phải tìm đọc, cũng phải bàn tán, hoặc chưa biết chữ thì học để mà đọc: Chuyện Trê Cóc, Thơ Ngụ Ngôn, Miếng Da Lừa, Những Kẻ Khốn Nạn. Ba Người Lính Ngự Lâm Phảo Thủ... Qua thời đầu với ít khuyết điểm về văn dịch, sau đó ông đạt được một giọng văn hay, giản dị, tự nhiên, phong phú, vững vàng.
Trước đấy khi in bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, ông đã viết một bài tựa trong đó có câu “Nước ta mai sau hay hay dở cũng là nhờ ở chữ Quốc ngữ”. Câu nói bất hủ này đã là một lời tiên tri về cuộc xoay chuyển của văn hóa dân tộc sau này.
Quả nhiên sau đó chữ Quốc ngữ đã là một lợi khí sắc bén trong việc phát triển văn hóa mới và tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở.
Trong khi Nguyễn Văn Vĩnh theo Tây học và dịch những văn phẩm Tây phương sang tiếng Việt Nam thì hai văn hữu của ông: Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục là hai nhà thơ, dịch những tác phẩm Hán văn. Văn dịch của hai ông cũng rõ ràng, chân xác mà vẫn hoàn toàn Việt Nam. Bản dịch nổi tiếng của Phan Kế Bính là Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, của Nguyễn Đỗ Mục là Đông Chu Liệt Quốc.
Chúng ta có thể nói nhóm Đông Dương Tạp Chí dịch sách mà nên sự nghiệp, nguyên do cũng vì đã dịch để phổ thông chữ Quốc ngữ và xây dựng tiếng Việt, làm cho tiếng Việt “nên Câu, nên Đoạn, nên một Văn pháp” (lời ông Vĩnh). Trong các sách dịch nhóm đó lại khéo chọn những sách hấp dẫn, vừa phổ biến những tư tưởng tiến hóa, vừa đề cao nền học thuật cũ, để lấy làm căn bản nhóm Đông Dương Tạp Chí với ba ông Vĩnh, Bính, Mục đã dịch để xây dựng văn học vậy.
IV.  Nam Phong
Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương cùng với sự cộng tác của Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến. Xuất bản từ tháng 7-1917 đến cuối năm 1934 mới đình bản, tất cả được 210 số. Suốt 17 năm trường, Phạm Quỳnh tận tụy làm việc hô hào, cổ võ nền Quốc văn. Ta bảo tồn được Quốc hồn, Quốc túy, đồng thời thâu thái được tinh hoa học thuật Đông Tây, nền văn hóa ta trưởng thành và tiến bộ phần lớn là công của ông Phạm Quỳnh. Nhưng chúng ta cũng không quên phần bất lợi: Nam Phong ở một khía cạnh khác, là lợi khí chính trị của Thực dân.
-  Giữa lúc mọi tư tưởng, khuynh hướng, tổ chức cách mạng bị đàn áp gắt gao thì Nam Phong ra đời.
-  Thuyết Pháp-Việt đề huề, thuyết Trung Dung (tiến bộ cầm chừng) đã làm hao mòn chí tranh đấu quyết liệt của những phần tử ái quôc.
-  Nam Phong làm bội nhược chí tiến thủ cường tráng của thanh niên bằng những tiểu thuyết ngôn tình nhu cảm như: Hoa Đào Trước Gió, Chiếc Bóng Song The, Thuyền Tình Bể Ái, Vân Lan Nhật Ký, Song Hồ Ba Bể, Tố Tâm, Tuyết Hồng Lệ Sử.
Nhưng nhược điểm đó chẳng qua như vết hoen của thời đại, hào khí quật cường truyền thông của dân tộc không vì Nam Phong mà tiêu tan và vai trò tiền phong của Nam Phong trong công cuộc xây dựng nền văn học mới vẫn được hậu thế ghi nhớ.
V.  So sánh văn nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh
Giữa một thời khủng hoảng, học thuật cũ bị chà đạp, nền học thuật mới chưa có gì, các nhà văn và trí thức lúc ấy, trong đó có ông Vĩnh và ông Quỳnh đều đồng ý dùng chữ Quôc ngữ làm lợi khí xây dựng văn học mới. Muôn vậy phải làm cho Quôc ngữ được phổ thông và tiếng Việt trở nên phong phú, dễ hiểu.
Để đạt mục đích đó, ông Vĩnh đã dịch những bộ tiểu thuyết hấp dẫn nhất của Âu Tây như “Truyện Ba Người Lính Ngự Lâm Pháo Thủ”, “Qui-Li-Ve Du Ký”, “Những Kẻ Khôn Nạn” cùng những hài kịch của Molière...
Trái lại, ông Quỳnh đã dịch hoặc đã trứ tác những tác phẩm khó phổ biến nặng nề tư tưởng học thuật.
Nói rằng ông Quỳnh kém thực tế cũng không đúng hẳn. Phải chăng ông Quỳnh đi sau ông Vĩnh nên thấy rằng không cần làm một việc mà ông Vĩnh đã làm; ông Quỳnh theo một mục đích xa hơn trong việc xây dựng tiếng Việt, ông đã chuộng những vấn đề thật cao như: Văn Minh Luận, Học Thuyết Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Phật Giáo Lược Khảo...
Ông Quỳnh, tuy có dịch kịch nhưng không dịch hài kịch phổ thông, vui, hấp dẫn như ông Vĩnh mà dịch bi kịch dễ gây buồn nản (Le Cid, Horace..)
Khách quan mà xét, công trình của hai ông Quỳnh, Vĩnh cùng đáng tán thưởng như nhau. Phải có ông Vĩnh chuẩn bị trước cho tiếng nói rõ ràng, phong phú, có phép tắc. Và rồi phải có ông Quỳnh ra công tìm tòi để cho tiếng Việt, đủ chữ diễn tả mọi vấn đề học thuật. Hai ông không những chung một mục đích mà còn bổ túc lẫn cho nhau trong công cuộc xây dựng nền tảng văn học mới nước nhà.
Sau này chuyển sang thời kỳ phát triển, các nhà văn tiền chiến (1930-1945) đã thúc đẩy được nền văn học nước nhà tới mức khá phồn thịnh, chính cũng là nhờ thời kỳ xây dựng trước của hai ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh.
III- Một số văn hữu đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Tự Lực Văn Đoàn dù đặc sắc đến mấy cũng chỉ là thành phần của một trào lưu văn học nói chung trong một thời. Bởi vậy ở đây thiết tưởng chúng ta nên có một cái nhìn tổng quát để bao giồm những hoạt động văn nghệ đương thời. Chúng ta lần lượt xét:
Một nhóm đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Một vài nhà văn điển hình đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Một vài nhà thơ điển hình đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Mấy nhóm đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Nhóm Hàn Thuyên
Giữa ngày Nhật đặt chân lên mảnh đất Đông Dương để chia quyền lợi với Pháp, một số tri thức Đệ tứ đứng ra thành lập nhóm Hàn Thuyên.
Khác hẳn với Tự Lực Văn Đoàn nhóm này mở đầu bằng một loại biên khảo như Nguyễn Đức Quỳnh, với Lịch Sử Thế Giới, Gốc Tích Loài Người; Nguyễn Bách Khoa với Nhân Loại Tiến Hóa Sử, Văn Chương Truyện Kiều; Nguyễn Hải Âu với Kinh Tế Học Nhập Môn..., dịch thuật có Đặng Thái Mai, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đình Lạp, Chủ Thiên, Trương Tửu viết tiểu thuyết, Vi Huyền Đắc viết kịch; Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung trình bày bìa.
về phần biên khảo nhóm này muốn đi sâu vào mọi mặt lịch sử chính trị, học thuyết kinh tế theo quan điểm Mác-xít.
về loại sáng tác, Nguyễn Tuân có thái độ (qua giọng văn và qua các nhân vật của ông) đài điếm, quý phái, rất cổ kính, ưa khinh bạc, phóng túng.
Chu Thiên (tên thật là Hoàng Minh Giám) tả lại một thời dĩ vãng của trường ốc thời xưa, trong cuốn Bút Nghiên. Nguyễn Đức Quỳnh viết Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình tiểu thuyết giáo dục hướng thượng, phân tách cuộc đời một thằng bé nhà quê từ lọt lòng cho đến khi học tới lớp nhì A cần phải tranh đấu với bản thân và trường đời nhỏ bé ra sao?
Nhóm Xuân Thu nhã tập
Xuân Thu nhã tập là một nhóm văn nghệ gồm có Đoàn Phu Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, (nòng cốt) và những nhà thơ cộng tác hưởng ứng như Nguyễn Lương Ngọc, Đình Gia Trinh, Diệu Anh...
Những vở kịch hoặc dài hoặc ngắn của Đoàn Phu Tứ lời văn bay bướm tài hoa được sự hưởng ứng nồng nàn của tuổi trẻ.
Thơ của Nguyễn Xuân Sanh rất chau chuốt về kỹ thuật nhiều hình ảnh nhưng bí hiểm. Thơ Nguyễn Xuân Sanh mà không có lời giải thích của Đinh Gia Trinh bên cạnh thì thực khó có ai hiểu nổi những điều nhà thơ muốn nói.
Thí dụ hai câu dưới đây trích trong bài Buồn Xưa.
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
có nghĩa là: Buổi chiều trong hoa quỳnh, vẳng nghe nhạc, ngửi thấy hương trầm, trông thấy mi kỹ nữ của cả một thời xưa. Hồn ta say sưa vì đẹp dĩ vãng (hồn màu xanh tươi, ngát hương) chở mang dấu xiêm y của các mỹ nhân thời xưa múa khúc nghê thường.
Một vài nhà văn điển hình đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Các nhà tiểu thuyết
Lan Khai (1906-1946)
Chúng ta có thể nói Lan Khai là nhà văn đã khai thác truyện đường rừng trước tiên (Tiếng Gọi Trong Rừng Thẳm, Suối Đàn...). Về tiểu thuyết dã sử, nhiều nhà phê bình văn học đồng ý là Ai Lên Phố Cát là cuốn truyện dã sử giá trị nhất của Lan Khai. Ông có viết truyện xã hội nói về cảnh khổ sở của người dân Việt qua cuốn Lầm Than. Ông lại còn viết truyện phong tục đồng quê Cô Dung. Nhưng điểm trội ở Lan Khai vẫn là truyện đường rừng rồi đến truyện dã sử.
Nguyễn Triệu Luật (1903-1946)
Chuyên viết truyện dã sử và thường dùng tài liệu sử trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Tất Tố dịch). Tác phẩm: Bà Chúa Chè (1938), Loạn Kiêu Binh (1939), Chúa Trịnh Khải (1940), Hòm Đựng Người, Rắn Báo Oán (1941).
Phan Trần Chúc (1907-1946)
Ông vừa viết tiểu thuyết dã sử vừa viết biên khảo.
Tiểu thuyết dã sử: Lê Hoan (1939), Sau Lũy Trường Dục (1942), Hồi Chuông Thiên Mụ... Những cuốn biên khảo: Vua Hàm Nghi (1935), Vua Quag Trung (1940), Danh Nhân Việt Nam Qua Các Triều Đại (1942), Văn Chương Quốc Âm Về Thế Kỷ 19 (1944).
Vũ Trọng Phụng (1912-1939)
Ông viết phóng sự, tiểu thuyết ngắn và dài. Những tác phẩm của ông như Cạm Bay Người, Kỹ Nghệ Lấy Tây, Cơm Thầy Cơm Cô, Lực Sĩ, Giông Tố, Dứt Tình, Lấy Nhau Vì Tình, Vỡ Đê, Làm Đĩ, Không Một Tiếng Vang, Trúng Số Độc Đắc, Số Đỏ... đều do nhà Mai Lĩnh và Tân Dân xuất bản. Nhưng mọi người đều đồng ý rằng sự nghiệp của nhà văn tiền chiến này căn cứ vào hai tác phẩm xuất sắc nhất của ông: Giông Tố và Số Đỏ.
Ngô Tất Tố (1894-1954)
Ông là một nhà Nho. Ông viết hai loại chính: biên khảo văn học và sáng tác.
Loại biên khảo có Thi Văn Bình Chú, Lão Tử, Mặc Tử.
Loại sáng tác có Việc Làng, Tắt Đèn, nhưng đáng kể là cuốn Lều Chông vẽ lại cả một thời đại vàng son của một thế hệ Nho sĩ đã qua đi.
Nguyễn Công Hoan (1903-1977)
Ông viết những truyện trào phúng hoặc những truyện tố cáo nếp sống khắt khe của xã hội phong kiến. Tác phẩm: Thanh Đạm (1933), Lá Ngọc Cành Vàng (1934), Cô Giáo Minh (1936), Tắt Lửa Lòng (1936), Tấm Lòng Vàng (1937), Tơ Vương (1938), Bước Đường Cùng (1938), Tay Trắng Trắng Tay (1940), Trên Đường Sự Nghiệp (1941), Tranh Tối Tranh Sáng (1946), Ép Duyên (1948).
Một vài nhà văn về biên khảo, phê bình, dịch thuật
Phan Văn Hùm (1902-1946)
Sinh năm 1902 ở Búng, Lái Thiêu (Nam Phần), ông đứng trong lập trường Đệ tứ với Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch nên bị Cộng sản thủ tiêu vào năm 1946. Ông đã từng ra Hà Nội theo học ngành Công chánh, khi tốt nghiệp trở về Nam bộ làm vườn, không ra làm việc với Pháp. Năm 1929, vì ông là bạn của Nguyễn An Ninh, nên bị thực dân lấy cớ vụ lộn xộn ở Cầu Bến Lức bắt giam ông vào Khám Lớn Saigon. Năm 1933 ông qua Paris du học, đậu cử nhân triết học (tốt nghiệp ở Sorbonne). Về nước ông xuất bản tờ La Lutte và Đồng Nai. Năm 1937 ra ứng cử nhân viên Hội đồng quản hạt (Conseiller Colonial). Năm 1939 lại bị vào tù vì một bài trên báo La Lutte. Năm 1942 ra tù, ông bị đưa đi quản thúc ở Tân Uyên (Biên Hòa).
Trong tác phẩm “Ngồi Tù Khám Lớn” (Bảo tồn -1929), ông tả những cảnh não nề trong khám và lên án thực dân bằng một giọng văn căm hờn. Ông cho rằng đúng như lời Nguyễn An Ninh, vào tù trái tim sẽ nát như tương hay sẽ cứng như đồng: En prison le coeur se brise ou se bronze.
Những tác phẩm biên khảo của ông: Biện Chứng Pháp, Phật Giáo Triết Học (Tân Việt 1941), Vương Dương Minh (Tân Việt 1941), Nỗi Lòng Đồ Chiểu
Ông quả là một nhà biên khảo văn học giá trị, một học giả uyên thâm rất có công với nền văn học của chúng ta.
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)
Ông du học ở Pháp, đậu thạc sĩ Khoa học. Năm 1945 ông có tham gia Chánh phủ Trần Trọng Kim làm Tổng trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
Tác phảm đã xuất bản: La Sơn Phụ Tử, Lý Thường Kiệt, Danh Từ Khoa Học (Tự Điển).
Các sách biên khảo và chú giải có tính cách giáo khoa như: Hà Thành Thất Thủ, Thi Văn Việt Nam Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo...
Vũ Ngọc Phan
Ông là một nhà văn biên khảo và phê bình có giá trị. So với các nhà phê bình đồng thời như Thiếu Sơn, Trương Chính, Hoài Thanh... ông làm việc có hệ thống hơn cả.
Tác phẩm dịch của ông là An Na Kha lệ Ninh, Tiêu Nhiên Mỵ Cơ.
Năm 1942 ông viết bộ phê bình văn học Nhà Văn Hiện Đại gồm bốn tập. Ở đây ông không theo lối phê bình đại cương cũ, mà dùng phương pháp phân tách tỉ mỉ từng tác giả.
Hoài Thanh - Hoài Chân
Hai ông là tác giả cuốn Thi Nhân Việt Nam. Tác phẩm này có tính cách một cuốn thi tuyển kèm theo những lời giới thiệu khuynh hướng thi ca của từng thi nhân.
Nhượng Tống
Tên thật là Hoàng Phạm Trân. Có chân trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông viết báo, rồi viết văn dịch sách. Năm 1950 ông bị ám sát ở Hà Nội vì lý do chính trị.
Tác phẩm đã xuất bản: Lan Và Hữu (1940), Sử Ký Tư Mã Thiên (1944) (dịch trích diễm). Tây Sương Ký (biên chú), Ngự Điểu Vấn Đáp (dịch với Phạm Văn Hùm) nguyên tác của Đồ Chiểu; Đại Việt Sử Ký (dịch của Ngô Sĩ Liêm), Ly Tao (dịch thơ Khuất Nguyên), Nguyễn Thái Học...
Một vài nhà thơ điển hình đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn
Vũ Hoàng Chương
Tác phẩm: Thơ Say (1940), Mây (1943), Trương Chi, Hồng Điệp (1944), Rừng Phong (1954).
Bài dưới đây trích trong tập thơ “Mây”
Đời tàn ngõ hẹp
Gối vải mộng phong hầu,
Vàng son mở gác xép
Bừng tỉnh mưa còn mau
Chiều tàn trong ngõ hẹp
Mưa lùa gian gác xép
Ngày trắng theo nhau qua
Lá rơi đầy ngõ hẹp
Đời hiu hiu xế tà
Ôi ta đã làm chi đời ta
Ai đã làm chi lòng ta
Cho đời tàn tạ lòng băng giá
Sương mong manh quạnh chớm thu già
Mải mê theo sự nghiệp
Quá trớn lỡ giầu sang
Mưa rơi chiều ngõ hẹp
Lá vàng bay ngổn ngang
Dìu vương nhau mươi chiếc lá khô vàng
Xuân đời chưa hưởng kịp
Mây mùa thu đã sang
Giấc hồ nghe phất phới
Cờ biển nhịp mơ màng
Đường hoa son phấn đợi
Áo gấm về xênh xang
Chập chờn kim ốc giai nhân
Gió lạnh đưa vèo
Khoa danh trên gối rụng tàn theo
Nao nao đàn sáo phai dần
Hạnh phúc tàn theo
Nửa gối thê nhi lá rụng vèo
Song hồ lơ lửng khép
Giường chiếu ẩm hơi mưa
Chiêm bao giờ thoáng hương thừa
Tan rồi mộng đẹp
Ôi thời xưa
Ta đã làm chi đời ta xưa
Ta đã dùng chi đời ta chưa
Thiên thu ngờ sự nghiệp
Chiều mưa rồi đêm mưa
Gió lùa gian gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp.
Lưu Trọng Lư
Sinh năm 1919 tại làng Cô Lao hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (Trung Phần). Ông có viết tiểu thuyết (Cổ Nguyệt, Huyền Không Động, Chiếc Cáng Xanh) nhưng địa vị của ông là ở thi ca, ông là một thi nhân có những vần thơ sầu nhè nhẹ, với những hình ảnh vô cùng gợi cảm của thiên nhiên vạn vật. Tập thơ Tiếng Thu của ông xuất bản vào năm 1939.
Đọc bài thơ lục bát sau đây chúng ta phải đồng ý với Hoài Thanh - Hoài Chân mà thấy bóng người con gái quay tơ như ẩn sau màn mây mờ, biết có nàng nhưng không thấy nàng, và cũng đừng tìm nàng làm chi, cứ để mặc cho lòng trôi theo âm hưởng đặc biệt của bài thơ ngân nga dằng dặc buồn và đều như tiếng guồng xa. Sau khi đọc xong bài thơ ta thấy bát ngát một trời đất ta không hiểu, thi nhân cũng không hiểu.
Thơ Sầu Rụng
Vừng trăng từ độ lên ngôi,
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ.
Để tóc vương vần thơ sâu rụng,
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo.
Năm năm tiếng lục se đều...
Những ngày lạnh rớt gió vèo trong cây.
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay,
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông.
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng,
Thời gian lặng rót một giòng buồn tênh.
Và đây là những vần âm thanh dịu hiền và bâng khuâng của mùa thu:
Tiếng Thu
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô.
Hàn Mặc Tử
Tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 ở Đồng Hới. Cuộc sống của ông qua nhiều nghề: thư ký, nhà buôn, làm báo... vô cùng nghèo khổ. Năm 1936, sau khi du lịch Huế, Nha Trang. ông mắc bệnh hủi, rồi mất ở Quy Nhơn ngày 2-9-1940.
Trước khi mắc bệnh hủi, thơ ông có dáng hấp hiền dịu (Gái Quê 1936).
Chúng ta hãy đọc bài Tình Quê dưới đây trích trong tập trên:
Trước sân anh thơ thẩn,
Đăm đăm trông nhạn về,
Mây chiều còn phiêu bạt,
Lang thang trên đồi quê.
Gió chiều quên dừng lại,
Dòng nước luôn trôi đi,
Ngàn lau không tiếng nói,
Lòng anh dường đê mê.
Cách nhau ngàn vạn dặm,
Nhớ chi tới trăng thề.
Dù ai không ngóng đợi,
Dù ai không lắng nghe,
Tiếng buồn trong sương đục,
Tiếng hờn sau lũy tre.
Dù ai bên bờ liễu,
Dù ai dưới cành lên,
Với ngày xanh hờ hững,
Cố quên tình phu thê,
Trong khi nhìn mây nước.
Lòng xuân cũng não nề.
Nhưng từ sau ngày mắc chứng nan y, thơ ông đau khổ não nuột, hơi thơ mạnh bạo và có một bản sắc rõ ràng. Về loại thơ này dưới đây tóm tắt lời phê bình của hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam.
Trong “Thơ Điên’” của Hàn Mặc Tử, vườn thơ của người rung rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh.
Có những câu gần với ta:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ,
Đầy minh lốm đốm những hào quang.
Lại có những cảm giác với ta rất thường, với Hàn Mặc Tử lại rất ghê sợ:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng,
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Tập Xuân Như Ý là một ngôi đền thờ Chúa của Hàn Mặc Tử. Ở đây phảng phất không khí Athalie (vở kịch của Racine) ngộp vẻ huy hoàng, trang trọng, uy linh, huyền ảo. Với Hàn Mặc Tử thơ có một quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế và cũng để nối người ta với Thượng đế:
Đường thơ bay sáng láng như sao sa,
Trên lục trắng mười hai hàng chữ ngọc.
Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng cho thơ trào ra là chín tầng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao.
Tập thơ Cẩm Châu Duyên ghi sự gặp gỡ của thi nhân với một người con gái có cái tên khả ái là nàng Thương Thương. Có lẽ nàng yêu thơ Hàn Mặc Tử và Hàn Mặc Tử cũng không biết gì hơn về nàng, nhưng như thế cũng đủ để thi nhân đưa nàng vào tháp thơ. Thi nhân có khi mơ thấy mình như Tư Mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:
Đã mê rồi! Tư Mã chàng ôi,
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại,
Lòng say đôi má cũng say thôi...
Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao? Tỉnh dậy người thấy:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thơ kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa.
Mối tình với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mặc Tử viết ra hai vở kịch thơ: Duyên Kỳ Ngộ và Cẩm Châu Duyên. Ở Duyên Kỳ Ngộ, thi nhân diễn tả đến một chốn nước non thanh lịch chưa từng in dấu chân người.
Với lời hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân kết luận về Hàn Mặc Tử:
Người đã sống trong túp lều tranh, phải lấy bì thơ và giấy nhật trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến không sao nuốt được vì khổ quá. Đã trong cảnh cơ hàn lại thêm chứng bịnh kinh khủng. Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống là hững hờ bỏ quên, lúc mất rồi thì xúm lại kẻ khen người chê. Chê hay khen đều có cái gì như bất nhẫn.
Nguyễn Bính
Sinh năm 1919 ở Nam Định.
Thi phẩm đã xuất bản: Lỡ bước sang ngang, Mây Tần, Mười Hai Bến Nước, Tâm Hồn Tôi, Hương Cố Nhân. Thơ Nguyễn Bính rất gần ca dao, với những bài tình tứ nhẹ nhàng man mác, diễn đạt dưới thể lục bát. Chúng ta hãy đọc bài Lẳng Lơ dưới đây:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu,
Chờ em ăn giập miếng giầu em sang.
Đôi ta cùng ở một làng,
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh?
Em nghe họ nói mong manh,
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
Ai làm cả gió đắt cau,
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non.
Đoàn Văn Cừ
Xin tóm tắt lời của Hoài Thanh - Hoài Chân nói về ông:
Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ. Đoàn Văn Cừ biết nhận xét tinh vi lại có hồn thơ phong phú. Màu nét nào cũng ngộ nghĩnh vui vui. Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ vụt ngời lên như một vừng sáng giữa bức tranh:
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Và bao giờ cuối mỗi bài cũng có một vài câu khêu gợi. Cuối bài Chợ Tết:
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời bên quán trọ.
Cuối bài Đám Cưới Mùa Xuân:
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân,
Ca ánh ỏi trên cành xuân tắm nắng.
Những câu ấy khép vào một thế giới và mở ra một thế giới. Khép một thế giới thực, mở một thế giới mộng. Cảnh trước mắt vừa tan thì tình trong lòng cũng vừa nhóm.
Nguyễn Nhược Pháp
Sinh năm 1914 tại Hà Nội, mất năm 1938.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngày xưa (1935). Trong thi phẩm này ông đã làm sống lại cả thời xưa. Dĩ vãng trong thơ ông không nặng nề như Sử học, không tráng lệ mơ màng như ở Phạm Huy Thông, đây là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, ngộ nghĩnh.
Trong Sơn Tinh và Thủy Tinh, đây cảnh Thủy Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đôi năm mươi hòn ngọc trai.
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Thủy Tinh bị hụt bèn ra lệnh cho đồ đệ:
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quắp đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giờ như mác,
Tôm càng chạy quắp đuôi xôn xao.
Nụ cười của Nguyễn Nhược Pháp thật hiền lành, thanh tao. Những người, những cảnh khiến thi nhân cười và cũng khiến thi nhân mến. Thi nhân mến cô bé đi chùa Hương và san sẻ mọi ước mơ sung sướng, hay bâng khuâng của cô.
Người thông cảm nỗi niềm ly biệt với Mỵ Nương khi nàng từ biệt cha già, từ biệt kinh đô ra đi theo chồng:
Lầu son nàng ngoái trông lần nữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Một điều nhận xét nữa của hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân: Những câu thật tình tứ, ghép bên những câu thật buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở chỗ đó.
Vũ Đình Liên
Sinh năm 1913 tại Hà Nội, Thi cảm chính: Tình thương người và lòng hoài cổ. Hai nguồn cảm hứng này gặp nhau trong bài thơ kiệt tác Ông Đồ dưới đây:
Ông Đồ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bầy mực tầu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ không buồn thấm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
Phạm Huy Thông
Sinh năm 1918 ở Hà Nội.
Tác phẩm đã xuất bản: Yêu Đương (1933, Anh Nga (1934), Tiếng Địch Sông Ô (1935), Tần Ngọc (1937)...
Ngay cả khi tả những tình cảm buồn mơ, thơ ông vẫn huy hoàng tráng lệ:
Ta sẽ đưa binh Nam đi vùng vẫy
Khắp bốn phương trời đất mịt mùng tăm
Buồn mênh mông chuyển động tiếng loa gầm
Tiếng gươm ca, tiếng trống hồi ngựa hí.
(Giấc Mộng Lê Đại Hành)
Hương muôn hoa như êm đềm quyến luyến,
Vừng cây khuya nghinh gió dưới trăng ngà.
Nhưng đêm biếc rồi tàn giăng xuân biến,
Và vừng hồng sẽ tắm nắng chân mây xa.
(Anh Nga)
Chế Lan Viên
Tên thật là Nguyễn Ngọc Hoán, sinh năm 1920 ở Quy Nhơn.
Thi phẩm đã xuất bản: Điêu Tàn (1937). Trong thi phẩm này Chế Lan Viên đã nói lên nỗi đau khổ uất hận của giống Chàm bị tiêu diệt. Ông dựng lên cả một thế giới đầy sọ dừa, xương máu và yêu ma.
Chỗ này một yêu tinh nghe tiếng cầm canh, chợt nhớ nơi trần thế:
Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẫm khi tanh hôi
Tìm những “miếng trần gian” trong tủy cạn
Rồi say sưa, vang tiếng reo cười.
Nơi kia ông dựng lại cảnh chiến địa rợn rùng, xương trắng máu đào:
Đây chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét ầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
Cũng cần ghi chú thêm rằng sở dĩ chúng ta xét đến một số văn hữu đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn để có một cái nhìn tổng quát về văn học thời đó và cũng chỉ ở thời đó thôi (thời tiền chiến), còn từ sau kháng chiến hướng sáng tác của một số nhà văn, nhà thơ (Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông...) bỏ con đường dân tộc sang con đường duy vật, ca ngợi căm thù giai cấp thì đó là bước ngoặt của riêng họ, họ sẽ chịu sự phê phán của các nhà viết văn học sử sau này mà ở đây chúng ta không bàn đến.
Sau khi đã lần lượt xét những nhóm với một số nhà văn, nhà thơ điển hình đồng thời với Tự Lực Văn Đoàn, giờ đây chúng ta bắt đầu riêng xét đến Tự Lực Văn Đoàn.
IV - Tổng quát về Tự Lực Văn Đoàn
i. bối cảnh lịch sử
a. chính trị
Trên đây chúng ta đã xét tổng quát hoàn cảnh lịch sử của dân tộc nhà suốt khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Nay chỉ cần nhắc lại mấy việc chính xác với thời Tự Lực Văn Đoàn.
Từ năm 1926 trở đi Việt Nam Quốc Dân Đảng bành trướng mạnh. Thực dân khủng bố ráo riết. Ngày 10-2-1930 vì tiến thoái lưỡng nan, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa một cách miễn cưỡng “Không thành thân thì thanh nhân!” (Lời tuyên bố trước khi quyết định khởi nghĩa của lãnh tụ Nguyễn Thái Học). Ngày 17-6-1930 Nguyễn Thái Học cùng với mười hai đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1930-1935 làm phá sản tiểu thương. Đồng thời sự giảm bớt công chức đã được nêu lên thành vấn đề với danh từ “trí thức thất nghiệp”.
Văn hóa
Trên đây chúng ta đã nói đến công của hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh trong công cuộc xây dựng nền văn học chữ Quốc ngữ của nước nhà; song một mặt khác ta cũng không nên quên hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong Tạp chí do thực dân đỡ đầu với thâm ý dùng văn hóa để chống lại văn hóa (chống lại ảnh hưởng rất mực quan trọng của Đông Kinh Nghĩa Thục). Ngay số đầu Đông Dương Tạp chí có bài xã luận mạt sát những bậc lão thành cách mạng nặng lòng dân tộc như cụ Phan Bội Châu. Nam Phong tiếp nối Đông Đương Tạp chí, phổ biến Văn hóa Pháp, ve vãn dân chúng bằng cách cũng đề ra một hướng tiến bộ nhưng là một thứ tiến bộ cầm chân, mệnh danh là “hướng tiến bộ trung dung” lấy những tư tưởng phong kiến làm nòng cốt để che đậy dã tâm của họ.
Để chống lại liều thuốc ngủ “Pháp Việt đề huề” này, cụ Phan Sào Nam đã cho phổ biến những câu thơ như:
Nó coi mình như trâu, như chó,
Nó coi mình như cỏ, như rơm.
hay:
Ngày mong mỏi vài con ấm tử Đêm vui chơi một lũ hầu non.
Trang hoàng gác tía lầu son,
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân [1]
Sự thực chủ trương ru ngủ của hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong có làm mờ nhạt đi khá nhiều ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với “Tuyết Hồng Lệ Sử” dịch của Từ Trẩm Á, với giọng văn sướt mướt khóc chồng của Nữ sĩ Tương Phố (viết năm 1923).
Trời thu thảm đạm một mầu,
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em.
Trăng thu bóng ngả bên thềm,
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng.
Với giọng văn khóc vợ bi thiết không kém của ông Đông Hồ:
Cảnh năm trước vẫn là năm trước
Tình năm xưa đã khác năm xưa
Này trăng này núi này hồ
Mà người cùng ngắm bây giờ là đâu?
Sau cùng, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cả một liều thuốc độc làm lụn bại hết chí tiến thủ của thanh niên ta, khiến họ coi việc đâu khổ vì tình, chết vì tình, cao quý không kém gì cái chết vì nước, vì đạo.
Chính sách của thực dân khôn ngoan thật, thâm độc thật nhưng các nho sĩ của ta đã lợi dụng ngay Nam Phong để tương kế tựu kế cổ động kín đáo cho tinh thần yêu nước (Nguyễn Bá Học, Dương Bá Trạc, Sở Cuồng, Lê Dư...) Kể từ năm 1919 trở đi các trường cao đẳng về Luật, về Thuốc, về Sư phạm đã mở để đào tạo tại chỗ những cán bộ cần thiết cho guồng máy thống trị thực dân. Nhưng có mấy nhà tri thức cam tâm làm tôi đòi cho thực dân và quên hẳn giống nòi? Chính ở những trường trên thực dân đã đào tạo nên những Nguyễn Thái Học, Ký Con.
I. Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn
Lý do thúc đẩy bên trong
Trước tình trạng lụn bại của công cuộc cách mạng võ trang trước, cái tệ những tham quan ô lại, trước thái độ vị kỷ ươn hèn của một số người tân học lấy vợ đẹp, nhà lấu, ô tô làm lẽ sống duy nhất; và nhất là trước cảnh nghèo đói, dốt nát quá bi thảm của dân quê, một nhóm thanh niên thấm nhuần văn hóa Tây phương đã ý thức được vai trò lịch sử của mình, đứng ra thành lập Tự Lực Văn Đoàn năm 1932.
Điều kiện thuận tiện bên ngoài
Mấy năm trước đây khi Toàn quyền Robin đã cho ném bom triệt hạ làng Cổ Am vì tưởng Nguyễn Thái Học trốn ở đấy.[2] Tới năm 1930 thì Việt Nam Quốc Dân Đảng hoàn toàn tan vỡ, mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Các phóng viên Pháp được chứng kiến cảnh đó, khi trở về mẫu quốc cũng phải tuyên bố rằng không ngờ đồng bào họ ở hải ngoại đã sa đọa đến thế. Còn lòng người dân Việt thì khỏi phải nói, từ thành thị đến thôn quê không khí căm uất như dầu dội lửa đỏ.
Để mở nắp “sì hơi an toàn”, Robin nới rộng quyền tự do báo chí, đề cao tư tưởng xã hội. Khi đó chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) bên này có tờ Le petit populaire làm cơ quan tranh đấu. Chính vào dịp cởi mở đó, Tự Lực Văn Đoàn mới có được hoàn cảnh thuận tiện mà xuất đầu lộ diện.
Thành phần Tự Lực Văn Đoàn
Thành phần nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn gồm các nhà văn, thơ sau đây: Nhất Linh (Nguyên Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Thế Lữ (Nguyên Thứ Lê), Tứ Ly hay Hoàng Đạo (Nguyên Tường Long), Thạch Lam (Nguyên Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ khác như về họa có Tô Ngọc Vân, Nguyên Gia Trí, Nguyên Cát Tường; về nhạc có Nguyên Xuân Khoát; về kịch có Vi Huyền Đắc, Đoàn Phu Tứ; về phóng sự có Trọng Lang; về tiểu thuyết có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, về thơ có Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông...
Nội dung của hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay
Nội dung tờ Phong Hóa (1932-1937) cũng như tờ Ngày Nay (1935-1941) đại để gồm bốn phần như sau:
Phần xã luận
Phần tiểu thuyết
Phần trào phúc
Phần trông tìm (Khoa học thường thức)
Chủ trương Tự Lực Văn Đoàn
Chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn gồm hai phần: đả phá và xây dựng
Phần đả phá
Về chính trị
Tự Lực Văn Đoàn đả phá chính sách “chia để trị” của thực dân (Sự phân chia nước Việt Nam thành ba kỳ, việc chấn hưng Phật giáo, không vì Phật giáo mà cốt để gây tinh thần chia rẽ giữa người Việt theo Phật giáo với người Việt theo Công giáo); đả kích chính sách trụy lạc hóa thanh niên (chợ phiên cứu dân bị lụt để sa đọa thanh niên), phản đối sự thi hành lại hòa ước 1884, nghĩa là sự tái lập nha kinh lược Bắc kỳ; phản đối sợ tạo lập những Bộ không làm gì hết (riễu Bộ Kinh tế của Nguyễn Khoa Kỳ là giết hàng năm 9.000 ve sầu và 3.000 sầu đất); đả kích sự hống hác của tụi quan lại, kỳ hào; đả kích những ông dân biểu tư vấn thuộc loại “nghị gật” hoặc thuộc loại tay sai của thực dân “Chánh phủ biểu”.
1. Trên đây chúng ta đã xét tổng quát hoàn cảnh lịch sử của dân tộc nhà suốt khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Nay chỉ cần nhắc lại mấy việc chính xác với thời Tự Lực Văn Đoàn.
Từ năm 1926 trở đi Việt Nam Quốc Dân Đảng bành trướng mạnh. Thực dân khủng bố ráo riết. Ngày 10-2-1930 vì tiến thoái lưỡng nan, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa một cách miễn cưỡng “Không thành thân thì thanh nhân!” (Lời tuyên bố trước khi quyết định khởi nghĩa của lãnh tụ Nguyễn Thái Học). Ngày 17-6-1930 Nguyễn Thái Học cùng với mười hai đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1930-1935 làm phá sản tiểu thương. Đồng thời sự giảm bớt công chức đã được nêu lên thành vấn đề với danh từ “trí thức thất nghiệp”.
Văn hóa
Trên đây chúng ta đã nói đến công của hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh trong công cuộc xây dựng nền văn học chữ Quốc ngữ của nước nhà; song một mặt khác ta cũng không nên quên hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong Tạp chí do thực dân đỡ đầu với thâm ý dùng văn hóa để chống lại văn hóa (chống lại ảnh hưởng rất mực quan trọng của Đông Kinh Nghĩa Thục). Ngay số đầu Đông Dương Tạp chí có bài xã luận mạt sát những bậc lão thành cách mạng nặng lòng dân tộc như cụ Phan Bội Châu. Nam Phong tiếp nối Đông Đương Tạp chí, phổ biến Văn hóa Pháp, ve vãn dân chúng bằng cách cũng đề ra một hướng tiến bộ nhưng là một thứ tiến bộ cầm chân, mệnh danh là “hướng tiến bộ trung dung” lấy những tư tưởng phong kiến làm nòng cốt để che đậy dã tâm của họ.
Để chống lại liều thuốc ngủ “Pháp Việt đề huề” này, cụ Phan Sào Nam đã cho phổ biến những câu thơ như:
Nó coi mình như trâu, như chó,
Nó coi mình như cỏ, như rơm.
hay:
Ngày mong mỏi vài con ấm tử Đêm vui chơi một lũ hầu non.
Trang hoàng gác tía lầu son,
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân.[1]
Sự thực chủ trương ru ngủ của hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong có làm mờ nhạt đi khá nhiều ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với “Tuyết Hồng Lệ Sử” dịch của Từ Trẩm Á, với giọng văn sướt mướt khóc chồng của Nữ sĩ Tương Phố (viết năm 1923).
Trời thu thảm đạm một mầu,
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em.
Trăng thu bóng ngả bên thềm,
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng.
Với giọng văn khóc vợ bi thiết không kém của ông Đông Hồ:
Cảnh năm trước vẫn là năm trước
Tình năm xưa đã khác năm xưa
Này trăng này núi này hồ
Mà người cùng ngắm bây giờ là đâu?
Sau cùng, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cả một liều thuốc độc làm lụn bại hết chí tiến thủ của thanh niên ta, khiến họ coi việc đâu khổ vì tình, chết vì tình, cao quý không kém gì cái chết vì nước, vì đạo.
Chính sách của thực dân khôn ngoan thật, thâm độc thật nhưng các nho sĩ của ta đã lợi dụng ngay Nam Phong để tương kế tựu kế cổ động kín đáo cho tinh thần yêu nước (Nguyễn Bá Học, Dương Bá Trạc, Sở Cuồng, Lê Dư...) Kể từ năm 1919 trở đi các trường cao đẳng về Luật, về Thuốc, về Sư phạm đã mở để đào tạo tại chỗ những cán bộ cần thiết cho guồng máy thống trị thực dân. Nhưng có mấy nhà tri thức cam tâm làm tôi đòi cho thực dân và quên hẳn giống nòi? Chính ở những trường trên thực dân đã đào tạo nên những Nguyễn Thái Học, Ký Con.
Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn
Lý do thúc đẩy bên trong
Trước tình trạng lụn bại của công cuộc cách mạng võ trang trước, cái tệ những tham quan ô lại, trước thái độ vị kỷ ươn hèn của một số người tân học lấy vợ đẹp, nhà lấu, ô tô làm lẽ sống duy nhất; và nhất là trước cảnh nghèo đói, dốt nát quá bi thảm của dân quê, một nhóm thanh niên thấm nhuần văn hóa Tây phương đã ý thức được vai trò lịch sử của mình, đứng ra thành lập Tự Lực Văn Đoàn năm 1932.
Điều kiện thuận tiện bên ngoài
Mấy năm trước đây khi Toàn quyền Robin đã cho ném bom triệt hạ làng Cổ Am vì tưởng Nguyễn Thái Học trốn ở đấy.[2] Tới năm 1930 thì Việt Nam Quốc Dân Đảng hoàn toàn tan vỡ, mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Các phóng viên Pháp được chứng kiến cảnh đó, khi trở về mẫu quốc cũng phải tuyên bố rằng không ngờ đồng bào họ ở hải ngoại đã sa đọa đến thế. Còn lòng người dân Việt thì khỏi phải nói, từ thành thị đến thôn quê không khí căm uất như dầu dội lửa đỏ.
Để mở nắp “sì hơi an toàn”, Robin nới rộng quyền tự do báo chí, đề cao tư tưởng xã hội. Khi đó chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) bên này có tờ Le petit populaire làm cơ quan tranh đấu. Chính vào dịp cởi mở đó, Tự Lực Văn Đoàn mới có được hoàn cảnh thuận tiện mà xuất đầu lộ diện.
Thành phần Tự Lực Văn Đoàn
Thành phần nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn gồm các nhà văn, thơ sau đây: Nhất Linh (Nguyên Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Thế Lữ (Nguyên Thứ Lê), Tứ Ly hay Hoàng Đạo (Nguyên Tường Long), Thạch Lam (Nguyên Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ khác như về họa có Tô Ngọc Vân, Nguyên Gia Trí, Nguyên Cát Tường; về nhạc có Nguyên Xuân Khoát; về kịch có Vi Huyền Đắc, Đoàn Phu Tứ; về phóng sự có Trọng Lang; về tiểu thuyết có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, về thơ có Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông...
Nội dung của hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay
Nội dung tờ Phong Hóa (1932-1937) cũng như tờ Ngày Nay (1935-1941) đại để gồm bốn phần như sau:
Phần xã luận
Phần tiểu thuyết
Phần trào phúc
Phần trông tìm (Khoa học thường thức)
Chủ trương Tự Lực Văn Đoàn
Chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn gồm hai phần: đả phá và xây dựng
Phần đả phá
Về chính trị
Tự Lực Văn Đoàn đả phá chính sách “chia để trị” của thực dân (Sự phân chia nước Việt Nam thành ba kỳ, việc chấn hưng Phật giáo, không vì Phật giáo mà cốt để gây tinh thần chia rẽ giữa người Việt theo Phật giáo với người Việt theo Công giáo); đả kích chính sách trụy lạc hóa thanh niên (chợ phiên cứu dân bị lụt để sa đọa thanh niên), phản đối sự thi hành lại hòa ước 1884, nghĩa là sự tái lập nha kinh lược Bắc kỳ; phản đối sợ tạo lập những Bộ không làm gì hết (riễu Bộ Kinh tế của Nguyễn Khoa Kỳ là giết hàng năm 9.000 ve sầu và 3.000 sầu đất); đả kích sự hống hác của tụi quan lại, kỳ hào; đả kích những ông dân biểu tư vấn thuộc loại “nghị gật” hoặc thuộc loại tay sai của thực dân “Chánh phủ biểu”.
Về xã hội
Tự Lực Văn Đoàn đả pháp tinh thần hương đảng, tranh chấp thủ lợn, phao câu ở chốn đình trung; đả phá óc mê tín dị đoan; đả phá chế độ đại gia đình cùng tính cách hẹp hòi của luân lý Khổng Mạnh, bóp nghẹt tự do cá nhân (uy quyền tuyệt đối của cha mẹ, sự nô dịch pháp phụ nữ, gây nên những hủ tục ép duyên, gả bán, làm lễ, đa thê, sự tranh chấp gia tài); chế riễu những tập tục hủ lậu khác như Húi Tóc của ông Đỗ Thận, Hàm Răng Đen của ông Nguyễn Văn Tố.
Về văn học
Tự Lực Văn Đoàn đả kích loại văn chương sáo và rỗng cũ; đả kích lối văn “sướt mướt” sầu mây khóc gió; đả kích sự mất gốc của mấy người như Trạng La (La tinh) Nguyễn Mạnh Tường, Trang Mẹo Phạm Duy Khiêm chỉ chú trọng nói và viết tiếng Pháp[3]; chế riễu lý luận Mác-Xít Phan Văn Hùm, lý luận giây cà ra giấy muống của Phan Khôi. Mục Tin Văn Vắn của Lê Ta giọng châm biếm rất cay độc; mục Hạt Đậu Nhỏ để chỉ trích những cái dở, cái lầm trong các bài văn đồng thời.
Phần Xây Dựng
Về chính trị
Tự Lực Văn Đoàn đòi hỏi canh tân chống phong kiến, chống thực dân để tiến tới tinh thần dân chủ. (Sau 1945 Tự lực Văn Đoàn đòi hỏi Hiến pháp, đòi hỏi dân chủ thực sự, v.v...); đề cao vẻ đẹp cao quý về tinh thần vị tha của những con người hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc. (Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn).
Về xã hội
Tự Lực Văn Đoàn kêu gọi sự cố gắng và tham gia của lớp người mới vào sự cải thiện xã hội; ca tụng sự cố gắng nhân đạo hóa tư bản (như đời sống của vợ chồng Hạc trong Gia Đình).
Năm 1936 thành lập hội Ánh Sáng để bài trừ “Nhà hang chuột” và thay thế bằng những căn nhà rẻ tiền nhưng ngăn nắp sáng sủa (do hai kiến trúc sư Luyện và Tiếp vẽ kiểu). Những nhà ánh sáng này đã được dựng thành một kiểu mẫu trên bãi Phúc Tân kề Hà Nội. Sau này thực dân giải tán Hội này vì ngờ đó là một hoạt động chính trị trá hình.
Như vậy, Tự Lực Văn Đoàn luôn luôn gây cho mọi người nhất là thanh niên một thái độ quyết tâm phục vụ cho đời sống tinh thần và vật chất của giới bình dân nghèo khổ; tích cực truyền bá tinh thần vui sống để gột rửa mọi tư tưởng bi quan yếm thế do phong trào lãng mạn sướt mướt đương lan tràn trong dân chúng, nhất là trong giới thanh niên và phụ nữ.
Sau cùng việc cải cách y phục phụ nữ do Tự Lực Văn Đoàn đề xướng với những kiểu áo mới do họa sĩ Lemure (tức Nguyễn Cát Tường) vẽ có thể coi như một cải cách vừa có tính cách mỹ thuật vừa có tính cách xã hội. Ông Nguyễn Duy Diễn đã không nói ngoa khi ông viết trong cuốn Luận về Tự Lực Văn Đoàn của ông (xuất bản Thăng Long - 1958): “Sự cải cách này thực là một sự cải cách quan trọng, quan trọng không kém gì những cải cách lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội bởi nó đã phụng sự cho cái đẹp của nữ giới khiến cho cuộc đời chúng ta thêm muôn phần mỹ lệ”.
Ngày nay năm châu đều công nhận cái đẹp uyển chuyển kín đáo và có cá tính đặc biệt của kiểu áo Việt Nam, há chẳng phải do công của họa sĩ Lemur với Tự Lực Văn Đoàn?
Về văn chương nghệ thuật
Tự Lực Văn Đoàn đẩy mạnh các thể văn mới mượn của Pháp như phê bình, kịch, phóng sự, tùy bút, thơ mới...
Tự Lực Văn Đoàn là những người đầu tiên áp dụng cú pháp Tây phương, khai thác sự cải cách của Hoàng Tích Chu. Nguyên năm 1926, Hoàng Tích Chu từ Pháp về nước nhà mang theo hoài bão cải cách văn xuôi cho thoát ly khỏi lối văn biền ngẫu. Ông đã có dịp thực hiện hoài bão đó trên hai tờ Ngọ Báo và Đông Tây (khoảng năm 1932). Phàm có sự thay đổi lớn lao thì khó tránh được sự quá khích, nên văn Hoàng Tích Chu biệt lập thành một thứ văn cộc lốc. Tới Tự Lực Văn Đoàn thì lối hành văn đã uyển chuyển, trong sáng, nhẹ nhàng hơn nhiều.
về thi ca, Thế Lữ được xem như là người có công đầu trong phong trào thơ mới. Đem những cái rạo rực, bồng bột của Tây phương và thi ca Việt Nam thì có Xuân Diệu; và giữ được tính chất trào phúng đặc biệt Việt Nam có Tú Mỡ.

Về dịch thuật, trước Tự Lực Văn Đoàn, các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh thường chỉ chú trọng dịch các văn phẩm cổ điển, tới Tự Lực Văn Đoàn, những nhà văn cộng tác của nhóm bắt đầu dịch những chuyện ngắn nổi tiếng của các nhà văn Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nga, Nhật... (Thế kỷ XIX, XX). Ngoài ra còn những bản dịch các truyện dài Quốc tế: Vũ Ngọc Phan dịch Treasure Island của Stevenson, Anna Karénine của Tolstoy; Huyền Kiêu dịch The Good Earth của P. Buck; Tarlaria de Tarascon của Alphonse Daudet. Những nhà dịch thuật này thường là những cây bút tài hoa nên dịch phẩm có phần đặc sắc hơn thời trước.
Lợi khí đả phá: Tinh thần trào phúng
Khí cụ hiệu nghiệm nhất của Tự Lực Văn Đoàn là tinh thần trào phúng dưới đủ mọi hình thức: tranh khôi hài, truyện vui cười, kịch hoạt kê, điểm người và việc. Chỉ cần nhớ rằng Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh. đã thành nhân vật điển hình của cả mấy thế hệ liên tiếp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đủ hiểu sự thành công của họ rực rỡ biết chừng nào.
Hãy nhớ lại những bức vẽ riễu Phạm Lê Bổng đeo kim khánh, đội mũ cánh chuồn một cánh, những bức vẽ riễu Phạm Quỳnh nhảy một cái từ Hà Nội và Huế, những câu ca dao nổi tiếng:
Giấc Nam Kha khéo hữu tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình Thượng thư.
Gió đưa cành trúc la đà,
Một thuyền chật ních bài ngà Thượng thu.
Hãy nhớ lại những bài phỏng vấn không tiền khoáng hậu các quan lại đương thời như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định, đã khiến người đọc tuy cười mà dào dạt căm hờn.
Hãy nhớ lại một bức tranh khôi hài vẽ Lý Toét đưa đến biếu Thốn Sứ Châtel một con gà mái với câu chú ở dưới: “Vì biểu hiện của nước Pháp là con gà sống Gô-loa, xin biếu quý quan con gà mái cho có đôi”, để chỉ trích thói vô cùng mất nhân cách của một số quan trường dâng vợ hiến con để mong được thăng quan tiến chức.
Còn một câu chuyện có thật. Trong một bài: Tin vắn hàng tuần kia, nhà báo có nói đến “ông” Toàn quyền Catroux. Ty kiểm duyệt coi sự gọi “quan Đại Pháp Toàn Quyền đại thần” như thế là một sự sách mé, bèn xóa chữ “ông” đi mà điền chữ “quan” vào. Sau đó Ty kiểm duyện nhận được một bức thư phản kháng, trong đó nhà báo cho rằng Ty kiểm duyệt chỉ có quyền xóa văn chứ không có quyền chữa văn. Ty kiểm duyệt đàng xóa chữ “quan” nhưng vẫn xóa nguyên chữ “ông”. Báo lên khuôn và trước chữ “Toàn quyền Catroux” người đọc thấy ba cái chấm xác định chữ trên đã bị kiểm duyệt bỏ rồi. Toàn quyền Catroux biết chuyện đó mới thông tri cho Ty kiểm duyệt là từ rầy mặc nhà báo gọi mình bằng ông vì kiểm duyệt như thế chỉ là mắc mưu nhà báo và càng đề cao nhà báo trước mắt dân chúng.
Nhà xuất bản Đời Nay
Cùng với Phong Hóa, Ngày Nay, Tự Lực Văn Đoàn còn lập thêm một nhà xuất bản lấy tên là Đời Nay để xuất bản những tác phẩm của nhhững nhà văn trong nhóm hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn mua bản quyền tác phẩm (như Vi Huyền Đức, Vũ Ngọc Phan...) hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải thưởng văn chương hàng năm (Hàn Thế Du, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyễn Hồng.). Để chủ trương của mình được phổ biến rộng rãi thêm, nhà Đời Nay còn xuất bản một loại sách rẻ tiền bán giá đồng loạt 0$25 đặt tên là loại sách Lá Mạ) và đồng thời lại cho ra mắt một loại sách giáo dục trẻ em lấy tên là Sách Hồng.
VI. Ưu điểm và khuyết điểm của Tự Lực Văn Đoàn
Nhân vật điển hình
Con người điển hình thời Nam Phong với truyện dịch Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách... là những kẻ than mây khóc gió, sầu muộn ủ ê, đau tim, coi việc khổ vì tình, chết vì tình là những hành động cao quý chẳng kém gì các vị anh hùng liệt thánh.
Tới Tự Lực Văn Đoàn, con người điển hình của thời đại có thể thấy ở Dũng: lãng mạn tinh tế, giầu lòng nhân đạo vị tha, luôn luôn muốn vươn lên cái cao đẹp trong sáng.
Giá trị xã hội, chính trị
Có công đả phá phong kiến, nhưng việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ phải chăng là đả phá cường hào? Hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ là hình ảnh người dân quê chất phác nhiều hơn là hình ảnh cường hào. Cho nên có thể nói Tự Lực Văn Đoàn làm một việc mâu thuẫn với chính chủ trương của họ. Việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ đã gây chia rẽ giữa người thành thị và người thôn quê. Việc đả phá chế độ đại gia đình, đề cao cá nhân chủ nghĩa, đã đi quá trớn. Cho đến nay gia đình vẫn là cơ sở căn bản của con người. Phê bình óc quá khích đó của Tự Lực Văn Đoàn, giáo sư Dương Quảng Hàm có viết như sau đây trong V.N.V.H.S.Y. (tr, 454):
“. Phái ấy vì đã có thành kiến sẵn, nên chỉ trông thấy chỗ dở mà không trông thấy điều hay, thành ra trong sự mô tả, phán đoán có phần thiên lệch. Tỉ như tục đàn bà góa chồng ở vậy nuôi con. Đành rằng tục lệ ấy làm cho một số người đàn bà còn trẻ tuổi mà muốn tái giá (vì cũng có người thực bụng không muốn tái giá), nhưng vì sợ dư luận hoặc muốn giữ gia phong mà phải chịu cảnh lẻ loi lạnh lùng, tức là phải hy sinh cái hạnh phúc cá nhân; song cũng nhờ có tục ấy mà biết bao gia đình đáng lẽ, sau khi người gia trưởng mất rồi, phải lâm vào cảnh “vỡ đàn tan nghé” vẫn được đoàn viên vui vẻ: biết bao đứa con mồ coi cha đáng lẽ phải chịu số phận hẩm hiu, vẫn được nuôi dạy trông nom và thành người. Thật cái tục ấy đã gây biết bao là điều xả thân, tận tâm, biết bao người mẹ đáng cảm phục. Xem thế thì biết, trong sự phán đoán các tập tục xưa, ta cần phải đắn đo cẩn thận và xét cả mọi phương diện mới khỏi sai lầm”.
Giá trị văn chương, nghệ thuật
Nếu cho tới Hoàng Tích Chu tờ báo Việt Nam mới thành hình tờ báo thì chúng ta có thể nói cho tới Tự Lực Văn Đoàn tiểu thuyết Việt Nam mới ra hình tiểu thuyết.
Tự Lực Văn Đoàn đã tạo ra một không khí văn nghệ sôi nổi chưa từng có trên văn đàn Việt Nam.
Đã kết tinh được tấn bi kịch của giai cấp trung lưu Việt Nam giữa “Nho phong” và “Âu phong”.
Đã có sáng kiến cho xuất bản những số đặc biệt về Trung thu, về số Xuân gây muôn phần thi vị cho đời sống văn nghệ.
Lề lối làm việc
Đã biết tập hợp thành nhóm và làm việc có tính cách tập đoàn, nhưng lại sa vào khuyết điểm nặng óc bè phái. Rất ít khi Tự Lực Văn Đoàn khen những tác phẩm ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân), mà thường chỉ là cách phê bình bông đùa riễu cợt tàn ác nữa.
Thêm một điều ghi chú
Trên đây là những lời phê bình ưu khuyết điểm đúng mực khách quan. Chúng ta cũng nên biết thêm dư luận quá nghiêm khắc của Trương Tửu. Họ Trương kết tội Tự Lực Văn Đoàn là sản phẩm sì hơi cách mạng bằng phương tiện văn chương. Ông nặng lời đả kích lối văn chương mà ông mệnh danh là “Cách mệnh sa lông” đó. Ông lên án Lạnh Lùng của Nhất Linh là cuốn sách khiêu dâm và đáng ném ra khỏi tủ sách gia đình. Ông kết luận về cuốn sách đó: “Chỉ có những người nào có tư tưởng nhất định, tính nết độc lập mới tránh được sức thôi miên của những hình ảnh xấu xa và quyến rũ tả trong một cuốn văn bằng ngọn bút tài hoa.”
 [1] Qua một thời bôn ba hải ngoại, bị bắt, suýt bị tử hình, khi cụ Phan sau rốt bị thực dân đưa tới giam lỏng ở Huế, cụ lại nêu chủ trương “Pháp Việt đề huề”. Lẽ cố nhiên chủ trương “Pháp Việt đề huề” của cụ chỉ là một giai đoạn để có thì giờ thâm nhập được văn hóa Tây phương rồi sau đó sẽ “gậy ông đập lưng ông.” Nhiều nhà cách mạng còn nêu thêm một lý do: Sau khi đã qua Nhật, cụ hiểu thâm ý tàn ác của người Nhật, cụ thấy rõ đừng hòng nhờ vả gì ở người Nhật. Mãi sau này khoảng 1943-1945 người Việt mới được trực tiếp nhận chân những điều đó, khi người nhật tới hất cẳng Pháp ở Đông Dương và tung ra thuyết Đại Đông Á đường mật nhưng gian trá của họ. Càng nghĩ chúng ta càng thấy thương các bậc tiền bối cách mạng trong trường hợp các vị “tĩnh một mình”.
[2] Theo một vài dư luận giới cách mạng thì Robin cho ném bom xuống Cổ Am còn để triệt một anh hùng trong bóng tối nữa của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trần Cảnh. Chính ra tên họ thực nhà cách mạng này là Nguyên Đức Cảnh, vì là con nuôi của cụ Trần Mỹ, người làng Cổ Am nên đổi sang họ Trần. Trần Cảnh thoát chết trong lần ném bom của Robin, nhưng về sau cũng bị bắt. Lần đầu bị bắt này, liệt sĩ đã nhảy tự gác hai xuống, đã cắn lưỡi, đã lao mình từ tren xe lửa xuống đường mà không chết. Khi thực dân giải ông đến Saigon thì ông trốn thoát. Nhân dịp Tết Nguyên Đán kia, vị liệt sĩ của chúng ta tìm đường lần về quê ở Hưng Yên thăm bố mẹ thì bị bắt lần thứ hai.
[3] Cho đến nay ông Phạm Duy Khiêm còn coi thường khả năng diễn đạt tư tưởng của tiếng Việt, còn ông Nguyễn Mạnh Tường thì sự thực ông sử dụng tiếng Việt cũng trau chuốt như tiếng Pháp vậy.
Về xã hội
Tự Lực Văn Đoàn đả pháp tinh thần hương đảng, tranh chấp thủ lợn, phao câu ở chốn đình trung; đả phá óc mê tín dị đoan; đả phá chế độ đại gia đình cùng tính cách hẹp hòi của luân lý Khổng Mạnh, bóp nghẹt tự do cá nhân (uy quyền tuyệt đối của cha mẹ, sự nô dịch pháp phụ nữ, gây nên những hủ tục ép duyên, gả bán, làm lễ, đa thê, sự tranh chấp gia tài); chế riễu những tập tục hủ lậu khác như Húi Tóc của ông Đỗ Thận, Hàm Răng Đen của ông Nguyễn Văn Tố.
Về văn học
Tự Lực Văn Đoàn đả kích loại văn chương sáo và rỗng cũ; đả kích lối văn “sướt mướt” sầu mây khóc gió; đả kích sự mất gốc của mấy người như Trạng La (La tinh) Nguyễn Mạnh Tường, Trang Mẹo Phạm Duy Khiêm chỉ chú trọng nói và viết tiếng Pháp[3]; chế riễu lý luận Mác-Xít Phan Văn Hùm, lý luận giây cà ra giấy muống của Phan Khôi. Mục Tin Văn Vắn của Lê Ta giọng châm biếm rất cay độc; mục Hạt Đậu Nhỏ để chỉ trích những cái dở, cái lầm trong các bài văn đồng thời.
Phần Xây Dựng
Về chính trị
Tự Lực Văn Đoàn đòi hỏi canh tân chống phong kiến, chống thực dân để tiến tới tinh thần dân chủ. (Sau 1945 Tự lực Văn Đoàn đòi hỏi Hiến pháp, đòi hỏi dân chủ thực sự, v.v...); đề cao vẻ đẹp cao quý về tinh thần vị tha của những con người hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc. (Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn).
Về xã hội
Tự Lực Văn Đoàn kêu gọi sự cố gắng và tham gia của lớp người mới vào sự cải thiện xã hội; ca tụng sự cố gắng nhân đạo hóa tư bản (như đời sống của vợ chồng Hạc trong Gia Đình).
Năm 1936 thành lập hội Ánh Sáng để bài trừ “Nhà hang chuột” và thay thế bằng những căn nhà rẻ tiền nhưng ngăn nắp sáng sủa (do hai kiến trúc sư Luyện và Tiếp vẽ kiểu). Những nhà ánh sáng này đã được dựng thành một kiểu mẫu trên bãi Phúc Tân kề Hà Nội. Sau này thực dân giải tán Hội này vì ngờ đó là một hoạt động chính trị trá hình.
Như vậy, Tự Lực Văn Đoàn luôn luôn gây cho mọi người nhất là thanh niên một thái độ quyết tâm phục vụ cho đời sống tinh thần và vật chất của giới bình dân nghèo khổ; tích cực truyền bá tinh thần vui sống để gột rửa mọi tư tưởng bi quan yếm thế do phong trào lãng mạn sướt mướt đương lan tràn trong dân chúng, nhất là trong giới thanh niên và phụ nữ.
Sau cùng việc cải cách y phục phụ nữ do Tự Lực Văn Đoàn đề xướng với những kiểu áo mới do họa sĩ Lemure (tức Nguyễn Cát Tường) vẽ có thể coi như một cải cách vừa có tính cách mỹ thuật vừa có tính cách xã hội. Ông Nguyễn Duy Diễn đã không nói ngoa khi ông viết trong cuốn Luận về Tự Lực Văn Đoàn của ông (xuất bản Thăng Long - 1958): “Sự cải cách này thực là một sự cải cách quan trọng, quan trọng không kém gì những cải cách lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội bởi nó đã phụng sự cho cái đẹp của nữ giới khiến cho cuộc đời chúng ta thêm muôn phần mỹ lệ”.
Ngày nay năm châu đều công nhận cái đẹp uyển chuyển kín đáo và có cá tính đặc biệt của kiểu áo Việt Nam, há chẳng phải do công của họa sĩ Lemur với Tự Lực Văn Đoàn?
Về văn chương nghệ thuật
Tự Lực Văn Đoàn đẩy mạnh các thể văn mới mượn của Pháp như phê bình, kịch, phóng sự, tùy bút, thơ mới...
Tự Lực Văn Đoàn là những người đầu tiên áp dụng cú pháp Tây phương, khai thác sự cải cách của Hoàng Tích Chu. Nguyên năm 1926, Hoàng Tích Chu từ Pháp về nước nhà mang theo hoài bão cải cách văn xuôi cho thoát ly khỏi lối văn biền ngẫu. Ông đã có dịp thực hiện hoài bão đó trên hai tờ Ngọ Báo và Đông Tây (khoảng năm 1932). Phàm có sự thay đổi lớn lao thì khó tránh được sự quá khích, nên văn Hoàng Tích Chu biệt lập thành một thứ văn cộc lốc. Tới Tự Lực Văn Đoàn thì lối hành văn đã uyển chuyển, trong sáng, nhẹ nhàng hơn nhiều.
Về thi ca, Thế Lữ được xem như là người có công đầu trong phong trào thơ mới. Đem những cái rạo rực, bồng bột của Tây phương và thi ca Việt Nam thì có Xuân Diệu; và giữ được tính chất trào phúng đặc biệt Việt Nam có Tú Mỡ.
Về dịch thuật, trước Tự Lực Văn Đoàn, các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh thường chỉ chú trọng dịch các văn phẩm cổ điển, tới Tự Lực Văn Đoàn, những nhà văn cộng tác của nhóm bắt đầu dịch những chuyện ngắn nổi tiếng của các nhà văn Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nga, Nhật... (Thế kỷ XIX, XX). Ngoài ra còn những bản dịch các truyện dài Quốc tế: Vũ Ngọc Phan dịch Treasure Island của Stevenson, Anna Karénine của Tolstoy; Huyền Kiêu dịch The Good Earth của P. Buck; Tarlaria de Tarascon của Alphonse Daudet. Những nhà dịch thuật này thường là những cây bút tài hoa nên dịch phẩm có phần đặc sắc hơn thời trước.
Lợi khí đả phá: Tinh thần trào phúng
Khí cụ hiệu nghiệm nhất của Tự Lực Văn Đoàn là tinh thần trào phúng dưới đủ mọi hình thức: tranh khôi hài, truyện vui cười, kịch hoạt kê, điểm người và việc. Chỉ cần nhớ rằng Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh. đã thành nhân vật điển hình của cả mấy thế hệ liên tiếp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đủ hiểu sự thành công của họ rực rỡ biết chừng nào.
Hãy nhớ lại những bức vẽ riễu Phạm Lê Bổng đeo kim khánh, đội mũ cánh chuồn một cánh, những bức vẽ riễu Phạm Quỳnh nhảy một cái từ Hà Nội và Huế, những câu ca dao nổi tiếng:
Giấc Nam Kha khéo hữu tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình Thượng thư.
Gió đưa cành trúc la đà,
Một thuyền chật ních bài ngà Thượng thu.
Hãy nhớ lại những bài phỏng vấn không tiền khoáng hậu các quan lại đương thời như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định, đã khiến người đọc tuy cười mà dào dạt căm hờn.
Hãy nhớ lại một bức tranh khôi hài vẽ Lý Toét đưa đến biếu Thốn Sứ Châtel một con gà mái với câu chú ở dưới: “Vì biểu hiện của nước Pháp là con gà sống Gô-loa, xin biếu quý quan con gà mái cho có đôi”, để chỉ trích thói vô cùng mất nhân cách của một số quan trường dâng vợ hiến con để mong được thăng quan tiến chức.
Còn một câu chuyện có thật. Trong một bài: Tin vắn hàng tuần kia, nhà báo có nói đến “ông” Toàn quyền Catroux. Ty kiểm duyệt coi sự gọi “quan Đại Pháp Toàn Quyền đại thần” như thế là một sự sách mé, bèn xóa chữ “ông” đi mà điền chữ “quan” vào. Sau đó Ty kiểm duyện nhận được một bức thư phản kháng, trong đó nhà báo cho rằng Ty kiểm duyệt chỉ có quyền xóa văn chứ không có quyền chữa văn. Ty kiểm duyệt đàng xóa chữ “quan” nhưng vẫn xóa nguyên chữ “ông”. Báo lên khuôn và trước chữ “Toàn quyền Catroux” người đọc thấy ba cái chấm xác định chữ trên đã bị kiểm duyệt bỏ rồi. Toàn quyền Catroux biết chuyện đó mới thông tri cho Ty kiểm duyệt là từ rầy mặc nhà báo gọi mình bằng ông vì kiểm duyệt như thế chỉ là mắc mưu nhà báo và càng đề cao nhà báo trước mắt dân chúng.
Nhà xuất bản Đời Nay
Cùng với Phong Hóa, Ngày Nay, Tự Lực Văn Đoàn còn lập thêm một nhà xuất bản lấy tên là Đời Nay để xuất bản những tác phẩm của nhhững nhà văn trong nhóm hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn mua bản quyền tác phẩm (như Vi Huyền Đức, Vũ Ngọc Phan...) hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải thưởng văn chương hàng năm (Hàn Thế Du, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyễn Hồng.). Để chủ trương của mình được phổ biến rộng rãi thêm, nhà Đời Nay còn xuất bản một loại sách rẻ tiền bán giá đồng loạt 0$25 đặt tên là loại sách Lá Mạ) và đồng thời lại cho ra mắt một loại sách giáo dục trẻ em lấy tên là Sách Hồng.
VI. Ưu điểm và khuyết điểm của Tự Lực Văn Đoàn
Nhân vật điển hình
Con người điển hình thời Nam Phong với truyện dịch Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách... là những kẻ than mây khóc gió, sầu muộn ủ ê, đau tim, coi việc khổ vì tình, chết vì tình là những hành động cao quý chẳng kém gì các vị anh hùng liệt thánh.
Tới Tự Lực Văn Đoàn, con người điển hình của thời đại có thể thấy ở Dũng: lãng mạn tinh tế, giầu lòng nhân đạo vị tha, luôn luôn muốn vươn lên cái cao đẹp trong sáng.
Giá trị xã hội, chính trị
Có công đả phá phong kiến, nhưng việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ phải chăng là đả phá cường hào? Hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ là hình ảnh người dân quê chất phác nhiều hơn là hình ảnh cường hào. Cho nên có thể nói Tự Lực Văn Đoàn làm một việc mâu thuẫn với chính chủ trương của họ. Việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ đã gây chia rẽ giữa người thành thị và người thôn quê. Việc đả phá chế độ đại gia đình, đề cao cá nhân chủ nghĩa, đã đi quá trớn. Cho đến nay gia đình vẫn là cơ sở căn bản của con người. Phê bình óc quá khích đó của Tự Lực Văn Đoàn, giáo sư Dương Quảng Hàm có viết như sau đây trong V.N.V.H.S.Y. (tr, 454):
“Phái ấy vì đã có thành kiến sẵn, nên chỉ trông thấy chỗ dở mà không trông thấy điều hay, thành ra trong sự mô tả, phán đoán có phần thiên lệch. Tỉ như tục đàn bà góa chồng ở vậy nuôi con. Đành rằng tục lệ ấy làm cho một số người đàn bà còn trẻ tuổi mà muốn tái giá (vì cũng có người thực bụng không muốn tái giá), nhưng vì sợ dư luận hoặc muốn giữ gia phong mà phải chịu cảnh lẻ loi lạnh lùng, tức là phải hy sinh cái hạnh phúc cá nhân; song cũng nhờ có tục ấy mà biết bao gia đình đáng lẽ, sau khi người gia trưởng mất rồi, phải lâm vào cảnh “vỡ đàn tan nghé” vẫn được đoàn viên vui vẻ: biết bao đứa con mồ coi cha đáng lẽ phải chịu số phận hẩm hiu, vẫn được nuôi dạy trông nom và thành người. Thật cái tục ấy đã gây biết bao là điều xả thân, tận tâm, biết bao người mẹ đáng cảm phục. Xem thế thì biết, trong sự phán đoán các tập tục xưa, ta cần phải đắn đo cẩn thận và xét cả mọi phương diện mới khỏi sai lầm”.
Giá trị văn chương, nghệ thuật
Nếu cho tới Hoàng Tích Chu tờ báo Việt Nam mới thành hình tờ báo thì chúng ta có thể nói cho tới Tự Lực Văn Đoàn tiểu thuyết Việt Nam mới ra hình tiểu thuyết.
Tự Lực Văn Đoàn đã tạo ra một không khí văn nghệ sôi nổi chưa từng có trên văn đàn Việt Nam.
Đã kết tinh được tấn bi kịch của giai cấp trung lưu Việt Nam giữa “Nho phong” và “Âu phong”.
Đã có sáng kiến cho xuất bản những số đặc biệt về Trung thu, về số Xuân gây muôn phần thi vị cho đời sống văn nghệ.
Lề lối làm việc
Đã biết tập hợp thành nhóm và làm việc có tính cách tập đoàn, nhưng lại sa vào khuyết điểm nặng óc bè phái. Rất ít khi Tự Lực Văn Đoàn khen những tác phẩm ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân), mà thường chỉ là cách phê bình bông đùa riễu cợt tàn ác nữa.
Thêm một điều ghi chú
Trên đây là những lời phê bình ưu khuyết điểm đúng mực khách quan. Chúng ta cũng nên biết thêm dư luận quá nghiêm khắc của Trương Tửu. Họ Trương kết tội Tự Lực Văn Đoàn là sản phẩm sì hơi cách mạng bằng phương tiện văn chương. Ông nặng lời đả kích lối văn chương mà ông mệnh danh là “Cách mệnh sa lông” đó. Ông lên án Lạnh Lùng của Nhất Linh là cuốn sách khiêu dâm và đáng ném ra khỏi tủ sách gia đình. Ông kết luận về cuốn sách đó: “Chỉ có những người nào có tư tưởng nhất định, tính nết độc lập mới tránh được sức thôi miên của những hình ảnh xấu xa và quyến rũ tả trong một cuốn văn bằng ngọn bút tài hoa.”
KẾT LUẬN
Ngoài một số khuyết điểm trên, Tự Lực Văn Đoàn thực đã ghi được nhiều thành tích rực rỡ nhờ ở cách nhìn rộng rãi bao quát và tinh thần làm việc khoa học. Ảnh hưởng lớn lao của Tự Lực Văn Đoàn vào lối cảm nghĩ của thanh niên còn kéo dài mãi cho tới ngày nay. Sau sự tan rã của nhóm nầy, mọi người cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông trên văn đàn trong một thời gian khá dài.
Chú thích:
[1] Qua một thời bôn ba hải ngoại, bị bắt, suýt bị tử hình, khi cụ Phan sau rốt bị thực dân đưa tới giam lỏng ở Huế, cụ lại nêu chủ trương “Pháp Việt đề huề”. Lẽ cố nhiên chủ trương “Pháp Việt đề huề” của cụ chỉ là một giai đoạn để có thì giờ thâm nhập được văn hóa Tây phương rồi sau đó sẽ “gậy ông đập lưng ông.” Nhiều nhà cách mạng còn nêu thêm một lý do: Sau khi đã qua Nhật, cụ hiểu thâm ý tàn ác của người Nhật, cụ thấy rõ đừng hòng nhờ vả gì ở người Nhật. Mãi sau này khoảng 1943-1945 người Việt mới được trực tiếp nhận chân những điều đó, khi người nhật tới hất cẳng Pháp ở Đông Dương và tung ra thuyết Đại Đông Á đường mật nhưng gian trá của họ. Càng nghĩ chúng ta càng thấy thương các bậc tiền bối cách mạng trong trường hợp các vị “tĩnh một mình”.
[2] Theo một vài dư luận giới cách mạng thì Robin cho ném bom xuống Cổ Am còn để triệt một anh hùng trong bóng tối nữa của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trần Cảnh. Chính ra tên họ thực nhà cách mạng này là Nguyên Đức Cảnh, vì là con nuôi của cụ Trần Mỹ, người làng Cổ Am nên đổi sang họ Trần. Trần Cảnh thoát chết trong lần ném bom của Robin, nhưng về sau cũng bị bắt. Lần đầu bị bắt này, liệt sĩ đã nhảy tự gác hai xuống, đã cắn lưỡi, đã lao mình từ tren xe lửa xuống đường mà không chết. Khi thực dân giải ông đến Saigon thì ông trốn thoát. Nhân dịp Tết Nguyên Đán kia, vị liệt sĩ của chúng ta tìm đường lần về quê ở Hưng Yên thăm bố mẹ thì bị bắt lần thứ hai.
[3] Cho đến nay ông Phạm Duy Khiêm còn coi thường khả năng diễn đạt tư tưởng của tiếng Việt, còn ông Nguyễn Mạnh Tường thì sự thực ông sử dụng tiếng Việt cũng trau chuốt như tiếng Pháp vậy.
V- NHẤT LINH
Thân thế và sự nghiệp văn chương

Thân thế [1]
Tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh năm 1905 tại phố Huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thân phụ làm Thông phán Tòa Sứ, giòng dõi cựu nho.
Gia đình có bảy anh em sáu trai một gái, thứ tự như sau: Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) và Nguyễn Tường Bách.
- Học tập và lập chí (1905-1930)
Học trường Bưởi (1920) đậu trung học (1923), làm Thông phán tại sở Tài chính, ở đây gặp gỡ rồi quen thân với Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Viết những tác phẩm đầu: Nho Phong (1925). Sau Nho Phong đến những tác phẩm: Thôn Dã, Hai- Chi Em, Người Quay Tơ. Những tác phẩm này còn chịu nặng ảnh hưởng Nho giáo và do tác giả tự xuất bản lấy. Cũng vào năm 1925, ông xin thôi công sở, thoạt theo trường Thuốc được ít lâu bỏ Thuốc sang học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật. Năm 1927 du học Pháp. Đậu cử nhân khoa học. Khảo cứu thêm về văn học, báo chí, ấn loát, đến năm 1930 về nước.
- Hoạt động văn hóa xã hội (1930-1938).
Dạy học tại Tư thục Thăng Long. Bỏ dạy học đứng ra chủ trương tờ Phong Hóa đổi mới (kể từ số 14 trở đi ra ngày 22-9-1932). Lập Tự Lực Văn Đoàn(1933). Ra tờ Ngày Nay (1935). Khởi xướng Đoàn Ánh Sáng, xây nhà kiểu mẫu tại bãi Phúc Xá Hà Nội (1937). Viết các tiểu thuyết quan trọng của ông trong thời kỳ này.
- Hoạt động chính trị (1937-1948)
Lập Đảng Hưng Việt (1938) sau đổi thành Đại Việt Dân Chính (1939). Năm 1940 Pháp hàng Đức, chính phủ Pétain lên, tại Đông Dương Toàn quyền Catroux (chống Nhật) nhường chức cho Toàn quyền Decoux (nhân nhượng với Nhật). Nhật Bản tha hồ đặt căn cứ quân sự để tiến đánh Trung Quốc. Đại Việt Dân Chính Nguyễn Tường Tam hoạt động vào thời kỳ này. Năm 1942 ông trốn sang Trung Hoa đại diện cho Việt Nam Quốc Dân Đảng trong Cách Mạng Đồng Minh Hội. Năm 1945 về nước, tập họp nhóm Ngày Nay cũ cho xuất bản một cơ quan ngôn luận mới lấy tên là Việt Nam. Năm 1946 đại diện cho Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến giữ Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao. Là trưởng pháp đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị Việt Pháp tổ chức tại Đà Lạt. Hội nghị này bế tắc ngay từ phút đầu vì thực dân Pháp ngoan cố không chịu để Nam Bộ sát nhập Trung Bộ và Bắc Bộ. Bỏ sang Trung Hoa tìm một giải pháp chính trị khác cho nước nhà, nhưng thất vọng với Bảo Đại. Thêm vào đấy cái chết của Hoàng Đạo trên chuyến xe lửa từ Hương Cảng về Quảng Châu (thi hài được đưa xuống an táng tại trấn Thạch Long), càng khiến ông hết tin tưởng vào chính trị và quyết định rút khỏi chánh giới (1948).
-  Trở về viết văn:
Năm 1951 ông từ Trung Hoa trở về Hà Nội, tuyên bố không thuộc đảng phái nào, không hoạt động chính trị; sau đấy, ông vào Nam mở nhà xuất bản Phượng Giang tái bản lại những sách của Tự Lực Văn Đoàn. Lên nghỉ tại Đà Lạt một thời gian, đến năm 1958 “xuống núi” chủ trương “Văn Hóa Ngày Nay” tập đầu ra ngày 17-6-1958, bắt đầu cho đăng Cô Mùi, một truyện trong tập trường giang tiểu thuyết Xóm Cầu Mới. Văn Hóa Ngày Nay ra đến số 11 (tháng 5-1959) thì đình bản, truyện Cô Mùi còn dở dang.
Tháng 8-1959 giai phẩm văn nghệ Tân Phong ra đời (hậu thân của Văn Hóa Ngày Nay) nhưng không thấy Nhất Linh cho đăng tiếp truyện dài, chỉ thỉnh thoảng có truyện ngắn của ông.
Tân Phong tập 17 (tháng 3-1960) bắt đầu đăng Đỉnh Gió Hú nguyên tác của Emily Bronte (Wuthering Heights) bản dịch của Nhất Linh.
TÁC PHẨM
Tác phẩm của Nhất Linh có thể phân loại một cách tổng quát như sau:
-  Nho Phong, Người Quay Tơ là những tác phẩm đầu, còn nặng ảnh hưởng Nho giáo.
-  Đoạn Tuyệt (1935), Lạnh Lùng (1936) là những tác phẩm luận đề, bài Nho.
-  Đôi Bạn, Hai Buổi Chiều Vàng (tập truyện ngắn) là những tập truyện tình cảm nhiều tính cách lý tưởng.
-  Thế Rồi Một Buổi Chiều là tập truyện ngắn vừa tình cảm  vừa có tính cách xã hội. Những truyện trong tập truyện này gồm có như sau:
-  Thế Rồi Một Buổi Chiều: truyện tình cảm.
Sáu truyện này nhiều tính cách xã hội vì nói đến những cảnh khổ của kiếp nghèo:
-  Chết Dở
-  Nghèo
-  Hai Cảnh Ngoài Phố
-  Hai Vẻ Đẹp
-  Hai Chị Em
-  Tiếng Kêu Thương
-  Bướm Trắng: Viết theo lối thám hiểm nội tâm con người
-  Đi Tây: Truyện trào lộng
Viết chung với Khái Hưng:
-  Anh Phải Sống
-  Gánh Hàng Hoa
-  Đời Mưa Giá
Phân tích tác phẩm Đoạn Tuyệt
A.  Lược truyện
Đoạn Tuyệt chia làm ba phần:
Phần một (bảy chương): Giới thiệu các nhân vật chính. Loan, một cô gái mới yêu Dũng, nhưng bị cha mẹ ép gả cho Thân vì đã nhật lời từ khi Loan còn nhỏ. Dũng, con quan Tuần, có những hành vi quá táo bạo (làm cách mạng), ông Tuần sợ lụy đến mình nên từ con. Ngày gia đình Thân đem đồ lễ đến ăn hỏi, Loan đến căn gác trọ tồi tàn gặp Dũng, quyết tâm hỏi thẳng về tình yêu của chàng để nàng quyết định về chuyện hôn nhân kia. Dũng vốn yêu Loan nhưng khi biết Loan đã là vợ chưa cưới của người khác, không muốn gây thêm rắc rối cho đời Loan, chàng làm như chỉ coi nàng là bạn thôi. Loan thất vọng ra về. Lần thứ hai Loan đến Dũng thì chàng đã đi xa.
Trước ngày cưới Loan, một hôm Dũng về nhà ông giáo Lâm, vợ là Thảo. (Lâm, Thảo là đôi bạn chí tình của Dũng lẫn Loan). Vô tình Loan cũng vừa rảnh việc cỗ bàn lại chơi. Dũng toan tránh mặt mà không xong. Hai người gặp nhau bên lò sưởi, rồi cùng Thảo nâng cốc rượu ly biệt. Dũng lên đường gió bụi, Loan lên đường về nhà chồng. Ngày lên xe hoa, Loan có thoáng thấy Dũng trong đám đông. Đêm tân hôn Loan nghĩ đến Dũng trong khi đó chàng đáp chuyến xe lửa đêm đi Yên Bái.
Phần hai (mười hai chương): Những tình tiết xung đột giữa mới và cũ. Ông chồng (Thân) thì đần độn, tầm thường, mẹ chồng thì cay nghiệt, em chồng thì đáo để nhỏ nhen, vợ lẽ chồng thì ngu dốt mà lại muốn lăng loàn, các bà con nhà chồng thì về hùa nhau để khích bác hành hạ Loan. Sự đàn áp khắc nghiệt đến nỗi Loan sinh con trai mà hầu như chẳng có quyền gì về con. Khi con ốm nàng không được theo thuốc Tây. Bà mẹ chồng mê tín mang thằng bé đi chữa bằng tàn nhang nước thải đến khi chết còn đổ vấy cho nàng. (Trong họ nhà chồng chỉ có Đức, người em họ làm thầy thuốc ở nhà thương Hà Nội là hiểu được Loan).
Phần ba (mười chương): Tới một buổi tối kia Loan không muốn cho Thân tắt đèn để lẻn xuống với Tuất ở nhà dưới, hai người cãi nhau. Bà Phán ở buồng bên cũng sang để sỉ vả Loan. Cuộc xô xát gây go dần rồi tới mức Thân hăng máu cầm chiếc lọ đồng xông lại đánh Loan. Loan hốt hoảng cầm con dao rọc sách để đỡ. Thân mất đà ngã mạnh vào mũi dao mà chết. Vụ án giết chồng đưa ra công lý. Nhờ tài hùng biệt của luật sư biện hộ cho Loan về tội ngộ sát và kịch liệt lên án chế độ gia đình cũ. Loan được tòa tha bổng. Cuộc xung đột chấm dứt: mới thắng cũ, cá nhân đoạn tuyệt với gia đình.
Bà Hai (mẹ Loan) mất, Loan bán nhà trả món nợ ba ngàn đồng trước đây vay của bà Phán, rồi thuê nhà mở trường dạy học tư. Bị bên nhà chồng phá, việc dạy học thất bại, một lần nữa Loan đổi chỗ ở, dọn đến một căn nhà tồi tàn nhưng rất quý đối với Loan vì ở nhà đó, Loan có cảm tưởng sống cái đời của Dũng sống trước kia, độ Dũng mới từ bỏ gia đình. Ngày ngày Loan đến làm việc tại tòa báo Minh Nhật: đánh máy chữ, dịch những bài lặt vặt ở các báo Tây.
Dũng vẫn theo dõi cuộc đời của Loan từ ngày nàng lấy Thân. Chàng hối vì đã để cho nàng đau khổ. Chàng viết thư cho Thảo kể hết nỗi niềm và mong Thảo thu xếp cho Dũng được cùng Loan đoàn tụ. Lá thư ấy Thảo đưa cho Loan xem đúng vào một đêm giao thừa dạt dào gợi cảm. Đọc xong thơ, Loan từ biệt vợ chồng Lâm Thảo trở về nhà được yên tĩnh nghĩ đến cái sung sướng của mình. Thảo nhìn theo tinh nghịch bảo chồng: “Hiện giờ có một người sung sướng. Người đó đương đi ngoài mưa gió, quên cả mưa ướt, gió lạnh...”
B.  Loan và sự tiến triển tâm lý của nàng
Đoạn Tuyệt là truyện đời Loan. Thái độ Loan đã rứt khoát quyết liệt với cái cũ, ở ngay chương đầu. Khi cùng Thảo nhắc đến chuyện cô Minh Nguyệt vì gặp mẹ chồng ác mà tự tử. Loan phát biểu ý kiến của nàng về nếp sống tự do:
“Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Minh sống, muốn sống thì sao không thể một mình mình sống được, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường.” (tr.4)
Một chỗ khác, ý nghĩ thiết tha của nàng về một nếp sống tự lập:
Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn nghĩ thầm:
-  Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình địch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh, hợp với quan niệm mới của mình. (Tr.8).
Nghĩ thì thế, đến khi vào thực tế chính Loan cũng gặp hoàn cảnh y hệt cô Minh Nguyệt, mà nào Loan có thoát ly được?
Thoạt nàng đành chịu để cha mẹ mình ép gả cho Thân:
-  Vâng, con nhận rằng con mới quá, nhưng con đã đi học, không thể không cư xử theo sự học của con được. Bây giờ thì tùy quyền thầy mẹ.
-  Dầu sao thầy mẹ cũng chớ nên phiền muộn. Rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình thầy mẹ biết ý con nhất định về việc đó ra sao. (tr. 27).
Loan đã nhượng bộ cha mẹ vì chữ hiếu.
Khi về nhà chồng, nàng gắng yêu chồng mà không được vì Thân đần độn quá. Tuy nhiên thái độ của nàng cũng rất mực phải chăng, không có chi là lăng loàn. Loan đề nghị với Thân, nên xin bà Phán cho ra ở riêng. Thân không bằng lòng. Loan ghê tởm cho cái đời làm vợ giả dối của nàng, cho cái bổn phận nàng là cái máy đẻ, nhưng rồi cũng đành cam chịu. Theo Tây học, nhiễm đức tính thẳng thắn, Loan có thể cam chịu mẹ chồng mắng chửi vào mặt mình nếu bà cho đấy là lỗi, chứ nàng không chịu được những lời bóng gió, mát mẻ, xa xôi. Nàng đã thưa lại với bà Phán bằng một giọng chân thành:
-  Thưa mẹ, mẹ đã cho con về làm con, làm dâu, thì xin mẹ coi con như một người trong nhà, hay thì mẹ khen, có lỗi thì mẹ mắng. Con xin nhận lỗi và nhận những lời mẹ mắng con, dạy con. Bởi vì con biết đó không phải là những day dắt làm con đau khổ vô ích mà là những lời của một người mẹ vì yêu mà mắng (tr.77).
Lời nói của Loan dễ thương như vậy mà nào bà Phán có hiểu. Bà vân cho là Loan hay lý sự và và vân mát mẻ vân mỉa mai bảo Loan:
-  Tôi đâu dám mắng cô, mà ai mắng nổi cô ở nhà này, cô cứ dạy quá lời. Giỗ tết nhà tôi, cô không thèm biết đến thì thôi ai bắt. Tôi chỉ nói để cô biết từ rầy cô có đi đâu thì cô cho tôi hay, kẻo ở nhà này có kẻ ra người vào, lỡ mất mát cái gì thì một mất mười ngờ, người ta nói ra nói vào thêm khó khăn ra. (tr.78).
Như vậy là bà Phán nghi Loan khuân của về nhà bố mẹ đẻ. Khi Loan nói là biên mấy chữ để lại, thì đây là lời Bích - cô em chồng chứng tỏ hết cái nhỏ nhen của cảnh chị dâu em chồng:
-  Biên chữ thì ai xem được, nhà tôi có ai đỗ bằng nọ bằng kia như chị đâu mà bảo xem nổi.
Rồi quay mặt đi, nói một mình, nhưng có ý để Loan nghe rõ:
-  Hơi một tí là đem chữ ra khoe. (tr.78)
Ây cảnh Loan bị hành hạ ở nhà chồng là vậy, nàng vân cắn răng chịu đựng. Rồi cầm bằng như đời mình bỏ đi, nàng nghĩ đến gây dựng tương lai cho đứa con trong bụng.
Sự chịu đựng của Loan thực đáng khen và đúng như lời luật sư sau này cãi cho nàng:
“Buộc cho Thị Loan cái tội quấy rối gia đình ư? Chính Thị Loan lại là người tha thiết muốn được yên sống trong gia đình. (tr. 169).
Cương quyết, dứt khoát trong ý tưởng, nhưng lại biết hy sinh, nhân nại khi vào hoàn cảnh, sự tiến triển của tâm lý Loan rất uyển chuyển và rất “người” ở chỗ đó.
Minh Nhật là tờ báo vẫn binh vực phái mới thì không còn ai quấy rối nàng được nữa. Sự thắng của Loan đẹp ở chỗ thẳng thắn đích đáng và hoàn toàn tự lập.
C.  Mối tình lãng mạn của Loan, Dũng
Hình ảnh Dũng đã biến thành một ám ảnh đối với Loan từ đầu đến cuối truyện, ở ngay cuối chương đầu Loan đã thú thực tình yêu đó với Thảo:
Vậy chỗ chị em, em không giấu diếm, chị hẳn biết cái tình của em đối với anh Dũng. (tr.10)
Hai lần Loan đến nhà Dũng trước ngày quyết định lấy Thân.
Trong phòng cô dâu đêm tân hôn “Loan nhắm mắt lại, rùng mình nghĩ đến rằng đó là nơi chôn cái đời thơ ngây trong sạch của nàng” (tr.28).
Sự thực Loan có thiện chí muốn được yên thân vui với cuộc đời mới để quên mối tình với Dũng, mối tình không còn lý do tồn tại nữa.
“Loan cho việc đối đãi với mẹ chồng không phải là việc khó khăn. Việc cần thiết là làm thế nào yêu được Thân. Vì nàng có yêu Thân thì đời nàng từ nay mới có nghĩa lý.” (tr.60).
Khi Thân đặt tay lên vai Loan, hình ảnh Dũng lại hiện rõ rệt trong trí tưởng tượng của Loan (phản ứng khởi đầu). Đến khi Loan thấy Thân giải một miếng vải trắng lên chiếu “... nàng hiểu và cảm thấy tất cả cái mọi rợ trong cử chỉ của Thân lúc đó. Nàng mỉm cười khinh bỉ nghĩ thầm:
- Chỉ có sự trinh tiết của tâm hồn là đáng quý thôi.” (tr. 61)
Rồi suốt trong mấy tháng chung sống, Loan muốn yêu mà không yêu được. Thân tầm thường đần độn, cổ hủ quá thành thử cuộc hôn phối giữa Loan và Thân chỉ là mối tình của Loan với Dũng thêm phần xót xa. Trong cuộc đời làm vợ bất đắc chí của Loan, hình ảnh Dũng luôn luôn xuất hiện như một niềm an ủi.
“Chỉ có sự trinh tiết của tâm hồn là đáng quý thôi”, ý nghĩ thầm trên đây của Loan trong đêm tân hôn, Loan đã biểu diễn thành lời nói thực với Thảo, khi nàng còn trên giường bệnh sau lần đẻ khó khăn và vẫn đinh ninh rằng mình khó qua khỏi được:
- “Một người đàn bà như em mà lúc chết đến nơi không mảy may thương chồng, thương con! Chị tính như thế có đau lòng không... Vì Thân nào có phải là chồng em, đối với mọi người, em là vợ Thân. nhưng đối riêng với em, với chị, thì trước sau em chỉ là vợ Dũng, người vợ trong tinh thần của Dũng.” (tr. 104).
Nằm bên chồng, Loan nhớ đến Dũng, khi ôm con, Loan nhớ đến Dũng. Con chết, nhân một chuyến đi chơi, bất ngờ gặp Dũng giữa đường rừng. Dũng xin đi nhờ xe (của bà Huyện Tịch) về Việt Trì buộc thuốc, Loan những “thầm mong cho chiếc xe kia đâm vào thân cây hay hốc đá và tan tành ra như cám để nàng được hưởng một cái chết mạnh mẽ bên cạnh người nàng vẫn yêu mà lúc này nàng càng thấy yêu.” (tr. 109)
D.  Luận đề Đoạn Tuyệt
Trước hết chúng tôi hãy ghi nhận đây ý kiến của ông Phạm Thế Ngũ về Đoạn Tuyệt, tiểu thuyết luận đề:
“Tiểu thuyết luận đề là tiếng dùng để dịch thành ngữ Pháp Roman à thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống của một tác giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội nhân sinh. Nhà văn viết ra một câu truyện với chủ ý trình bày những nhân vật, dẫn dắt các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan niệm riêng của mình. Thật ra thì tác phẩm nào chẳng mang tư kiến của tác giả và có rất nhiều tiểu thuyết phản ảnh những quan niệm của tác giả, tuy nhiên vẫn không được coi là tiểu thuyết luận đề. Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ tác giả đã rõ rệt chủ ý bênh vực một quan niệm để chống lại một quan niệm khác và rõ rệt uốn nắn câu chuyện, khuôn đúc nhân vật để phục vụ cho chủ ý của mình...
Đoạn Tuyệt được coi là tiểu thuyết luận đề vì Nhất Linh trong tác phẩm ấy đã chủ ý rõ rệt bênh vực quan niệm sống mới của cá nhân, chống lại quan niệm sống cũ của gia đình và rõ rệt khuôn đúc các nhân vật, uốn nắn câu chuyện để cho cuối cùng chủ trương của ông đắc thắng, người đọc có cảm tình với cá nhân và đứng vào phe mới. Ông đã đưa một nàng Loan bỏ hạnh phúc cá nhân, hy sinh bước vào gia đình cũ, để lần lượt chứng kiến và làm nạn nhân cho tất cả những cái cổ hủ lạc hậu ngu muội, tức cười hay thê thảm có thể thấy trong tục lệ và tâm lý của giai đình cũ; Rồi đến bước cùng, nàng mắc tội oan giết chồng phải vào khám và ra tòa. Kết cuộc nàng được tòa thấu nỗi oan và tha bổng, Loan đắc thắng trước pháp luật, đắc thắng ở hạnh phúc cá nhân (Dũng trở về với nàng), lại đắc thắng trong cảm tình của độc giả thông cảm nàng, chia sẻ những nỗi khổ và tán thành quan niệm của nàng, tức là gián tiếp bênh vực cho luận đề của tác giả".
Vấn đề thời đại
Vậy ở Đoạn Tuyệt, tác giả nêu lên một vấn đề cấp thiết của thời đại: Vấn đề xung đột mới cũ. Ngay đến tác phẩm, tác giả có lời đề tặng như sau:
“Tặng KHÁI HƯNG tác giả ‘Nửa Chừng Xuân’, nhà văn cùng một quan niệm với tôi về xã hội hiện thời. Tặng các thanh niên nam nữ đã từng chịu những nỗi khắt khe của cuộc xung đột mới cũ.”
Nội dung cuộc xung đột mới cũ đó chúng ta đã cảm thấy ngay khi đọc mấy trang đầu. Nào tin cô Minh Nguyệt tự tử vì mẹ chồng ác; nào lời nói của Loan: “Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở...”, nào lời nói của Dũng:  ''Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi.”
Hãy lần dở Đoạn Tuyệt từ đầu đến cuối, chúng ta sẽ gặp những cái dở của xã hội cũ:
- Gia đình đàn áp cá nhân - Đại gia đình - mà đại diện là người gia trưởng - có toàn quyền đàn áp cá nhân, dư luận xã hội bao giờ cũng về phe gia trưởng. Dũng bị ông Tuần từ chàng giải thích hành động đó của cha.
“Thầy mẹ tôi dẫu đăng báo hay nói khắp nước Nam rằng không nhận tôi là con, tôi cũng vẫn là con, vì đã đẻ tức là con rồi, không nhận cũng vô lý như khi mới đẻ lại bảo rằng không đẻ. Vậy từ con chỉ là không chia của cho con nữa.
Tôi thiết gì của ấy. Tôi vẫn sẵn lòng không lấy. Hay nếu từ là để không muốn thấy mặt tôi nữa thì tôi vẫn sẵn lòng đi kia mà. Vậy từ chỉ có một sự ích lợi: là báo thù con vì ở xã hội ta, một người bị cha mẹ từ là một người bỏ đi, một người khốn nạn, đủ hết các tính xấu”. (tr. 16).
Con trai thì thế, về phía con gái như Loan, trong việc cưới xin chẳng hạn, thì cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy. Đây là lời Loan tự hỏi vào ngày Thân đem đồ lễ đến ăn hỏi:
“Sao nhà trai đến hỏi mà thầy mẹ lại không bảo mình đến nửa câu. Thế thì mình có hay không có ở nhà này, mình lấy chồng hay ai lấy chồng?” (tr. 23)
Sự uy hiếp của đại gia đình mạnh mẽ đến nỗi đứa con của Loan đẻ ra cũng không là con riêng của nàng:
“Loan chắc từ nay không có cách gì cho nàng thoát ra được, không những chỉ một mình nàng, đến ngay đứa con đẻ ra mà nàng cũng thấy nó xa nàng lắm. Nó không là con riêng của nàng nữa mà là của chung gia đình nhà chồng, mới ra đời đã thấy người ta lôi kéo đi, lôi về cái đời cũ, nàng biết trước rằng không sao ngăn ngừa được. (tr. 98-99)
Đời Loan bị nhục nhằn tù hãm là thế mà mỉa mai thay nàng không dám sử dụng biện pháp ly dị chồng vì:
“Chắc em không nói chị cũng đoán ra. Mẹ em không đời nào hiểu được cái khổ, nhất là cái khổ về tinh thần của em. Mẹ em không thể tưởng tượng em có thể bỏ chồng được! Nếu em bỏ chồng thì lại làm mẹ em đau lòng hơn là trước kia em không nghe lời mẹ em.” (Lời Loan nói với Thảo tr. 123)
Vì hy sinh cho mẹ, Loan phải lấy Thân, rồi qua bao nhục nhằn đau khổ, tới ngày kia Loan mắc tiếng oan giết chồng, bà Hai (mẹ Loan) vẫn chưa hiểu thấu thảm cảnh của con, bà khóc tay đấm vào ngực than vãn:
“Nó làm khổ tôi. Nó làm dơ diếu cả nhà tôi. Hai bác tính thôi hiếm hoi có mỗi một đứa con, cũng tưởng gây dựng cho nó nên người, tử tế, có ngờ đâu bây giờ tôi hóa ra mẹ một đứa con giết chồng. Nhục nhã chưa?” (tr. 153)
Trong gia đình mẹ đẻ với sự thương xót của tình máu mủ mà Loan còn bị đàn áp là thế, huống chi về nhà chồng nơi khác máu tanh lòng, nơi câu nói cửa miệng là “mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng”.
Người duy nhất có thể trực tiếp bênh vực Loan là Thân thì Thân chỉ là một người đàn ông ngu đần, không lý tưởng, không hiểu nổi những băn khoăn thắc mắc của vợ, luôn luôn sống như một vị thành niên dưới uy quyền của mẹ là bà Phán Lợi.
Vì vậy cuộc đời làm dâu của Loan, đơn phương độc mã, gặp biết bao cảnh đau lòng:
-  Mẹ chồng nàng dâu xô xát - Bà Phán Lợi luôn luôn muốn tỏ uy quyền chuyên chế của mình khiến Loan phải ngạt thở, bà luôn luôn gây xô xát để được dịp dầy vò Loan.
-  Chị dâu em chồng - Bích, cô em chồng, vô học, đanh đá, không bỏ lỡ một dịp nào để hoặc trực tiếp gây chuyện với Loan, hoặc “bỏ mắm bỏ muối” cho câu chuyện thêm lầm lẫn về phía Loan để dễ bề xúi bẩy mẹ và anh mà gây thêm sóng gió.
-  Họ hàng nhà chồng - Họ hàng nhà chồng cũng tự thấy có quyền hành hạ Loan. Loan vô tình vắng nhà hôm có giỗ. Bà Huyện Tịch, một người cô của Thân tìm cách “dội dầu vào đám lửa”.
Bà Tịch cười hỏi bà Phán:
-  “Thế nào cô trắng răng đã về rồi đấy ư?
Đấy tôi đã can chị, chị không nghe, cứ đi rước những thứ ấy về. Rước những hạng tân thời ấy về để nó làm bại hoại gia phong nhà mình. Nó học giỏi mặc nó chứ, nhà mình là nhà có phép tắc nề nếp.
Rồi quay sang nói với Thân:
Thế nào là dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Cũng tại anh cả, quen chiều vợ, để mặc nó làm gì thì làm, bây giờ thì nó đã quen thân, mất nết, chậm quá rồi... Hỏng” (tr. 79).
Bên lề cuộc đời Loan là hình bóng một vài phụ nữ khác đã đi bước trước cùng cảnh ngộ Loan:
Cô Minh Nguyệt tự tử vì mẹ chồng ác.
Cô Lệ Hồng cũng tự tử vì cảnh làm dâu.
Cô cả Đạm bị cha mẹ ép gả cho con một ông Chánh tổng giầu có ở quê nhà từ năm mười sáu tuổi. Khi về nhà chồng mấy lần bị mẹ chồng đánh chửi thậm tệ. Thoạt cô cả Đạm còn phản kháng về với bố mẹ đẻ, nhưng bố mẹ đẻ cũng đuổi cô về nhà chồng. Sau cùng cô cả Đạm đành chịu vào khuô vào phép nhẫn nhục như đau khổ ngấm ngầm. Rồi hầu hạ bà mẹ chồng ốm ho lao. Mẹ chồng chết, cô cả Đạm bị lây rồi cũng chờ chết.
Bên cạnh tấn thảm kịch mẹ chồng nàng dâu, còn những hủ tục khác của xã hội cũ như:
-  Trọng nam khinh nữ: Bà Phán chỉ biết quý cháu trai, còn việc mẹ nó - Loan - thập tử nhất sinh trên giường bệnh bà coi nhẹ.
-  Nạn đa thê: Khi Loan tuyệt đường sinh đẻ, Thân vụng trộm với Tuất, có mang rồi lấy Tuất làm lẽ. Khi sinh ra được thằng bé con trai, Tuất bèn tấp tểnh lộng quyền với Loan.
Ông Phạm Thế Ngũ có viết: “Việc cưới Tuất cho Thân là vừa để công nhận một sự hoang dâm, vừa để thay thế cho Loan đã hết đường sinh đẻ. Nhìn Tuất, Loan tủi cho cái phận đàn bà nói chung bị người ta mua về, hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Chế độ đa thê không thể có với quan niệm ái tình thanh cao và sự tôn trọng nhân phẩm người đàn bà.[7]
-  Những chuyện mê tính dị đoan: Bà Phán tin ở sự bán khoán, tin ở tàn nhang nước thải, chứ không tin ở thuốc Tây. về việc Loan ốm, bà Phán nói:
“- Tôi sợ thuốc Tây lắm. Vài ngày nữa khỏe mợ về nhà uống thuốc ta hơn. Để chốc nữa tôi đi lễ cầu cho mợ khỏi... Mai, lúc thay áo cho con, mợ nhớ đưa cho tôi cái áo để tôi đem ra chùa làm lễ bán khoán cho nó.” (tr.98)
Khi con nàng ốm, bà Phán đem giao nó cho một thầy bùa. Đứa bé ngày một gầy gò, Loan sinh nghi, đi hỏi chị em, mới biết phép chữa của bọn thầy bùa là cho uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm.
Thảm kịch tranh chấp giữa mới và cũ, sau rốt đưa đến
mối hàm oan giết chồng và đôi bên (Loan đại diện phái mới, bà Phán Lợi phái cũ) cùng ra trước tòa công lý, cũng là tòa án dư luận của thời đại. Qua lời buộc tội của ông Chưởng Lý, lời biện hộ của trạng sư, chúng ta thấy rõ thái độ của tác giả giữa hai quan niệm mới và cũ.
Ông Chưởng Lý kết tội:
“Thị Loan vì thông minh nên sinh ra kiêu hãnh không coi ai ra gì cả. Khinh mẹ chồng, khinh chồng, khinh bố chồng. Người nào thị cũng cho là vô học thức. Các ngài hẳn hiểu rõ cái hại đọc tiểu thuyết của những bọn thanh niên biết tiếng Pháp: một luồng gió lãng mạn cuối mùa thổi qua đã để lại biết bao tai hại.
Vì kiêu căng, vì lãng mạn lại vì so sánh những cảnh thần tiên thấy trong tiểu thuyết với các sự thực tầm thường trước mắt, nên Thị Loan tìm cách thoát ly.
Cho là Thị Loan muốn thoát ly nữa, nhưng thiếu gì cách. Thị không nghĩ thế. Thị nỡ giết chồng trong một lúc giận dữ...” (tr.162).
Ông xin Tòa trị tội thật nặng để bảo vệ nền tảng của xã hội là gia đình.
Trạng sư lần tìm nguyên nhân của thảm kịch gia đình đó:
“- Chính bà mẹ chồng đã giết cháu bà mà không biết. Bà lại còn đổ cho Thị Loan cái tội giết con! Đến nay, bà đổ cho Thị Loan cái tội giết chồng, nhưng bà có biết đâu, con bà chết là lỗi ở bà, lỗi ở cái luân lý trái mùa và quá ư nghiêm ngặt kia. Người có tội chính là bà mẹ chồng Thị Loan và cái luân lý cổ hủ kia.
Nhưng nếu vượt lên trên và nghĩa rằng, không kể đến cá nhân nữa, thì bao nhiêu những việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả mà là lỗi ở sự xung đột hiện thời đương khốc liệt của hai cái mới cũ” (tr.167).
Ông kết tội quan niệm “mua nàng dâu” cũ dã man chẳng khác gì chế độ nô lệ:
“Giữ lấy gia đình! Nhưng xin đừng lầm gia đình với giữ lại nô lệ. Cái chế độ nô lệ bỏ từ lâu, mỗi lần ta nghĩ đến không khỏi rùng mình ghê sợ! Ấy thế mà có ai ngờ đâu còn cái chế độ khốn nạn ấy trong gia đình An Nam.
Chắc các ngài sẽ sửng sốt cho lời tôi nói là lạ. Nhưng thử hỏi: bị người ta bỏ tiền ra mua về và bị coi như thuộc quyền sở hữu của người ta, như thế không là nộ lệ thì là gì nữa.” (tr. 168)
Phần cuối bài cãi, trạng sư dường như dời hẳn mảnh đất lý trí của nhà luật học mà sang hẳn miếng đất tình cảm, lời cãi thật thống thiết: “Thị Loan chỉ có một tội là tội cắp sách đi học để rèn tập tâm trí thành một người mới, rồi về chung sống với những người cũ, Thị Loan chỉ có mỗi một tội đó. Nhưng tội ấy, Thị Loan đã chuộc lại bằng bao nhiêu năm đau khổ.
“Tha cho Thị Loan tức là các ngài làm một việc công bằng, tức là tha cho một người đã bị buộc tội oan, tha cho một người đau khổ đã bị phí cả một đời thanh xuân và đã đem thân hy sinh cho cái xã hội mới cũ khắt khe này”. (tr.169)
Đó là luận đề mới cũ xung đột, luận đề chính của Đoạn Tuyệt xảy ra cho Loan là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết.
Thiết tưởng chúng ta cũng không nên quên một luận đề phụ ở một nhân vật phụ, ấy là thái độ chính trị của Dũng mà cũng là của tác giả. Luận đề phụ này hoàn toàn xuất hiện ở phần hai chương bốn của câu chuyện.
Một buổi chiều về cuối năm, Dũng dừng chân ít ngày ở đồn điền một người bạn thân tên là Độ. Bằng những lời văn giản dị nhưng rất gợi cảm, tác giả thuật lại tình cảm, ý nghĩ rồi lời đàm thoại của Dũng:
“Tiếng người gọi nhau ở dưới đồng đưa lên khiến Dũng nghĩ đến cái đời của dân quê, cái đời lạnh lẽo, vô vị kéo dài đã mấy ngàn năm. Đã mấy ngàn năm, họ sống như bám lấy mảnh đất già cỗi, xưa thế nào giờ vẫn thế, vui ít, khổ nhiều, bao giờ cũng thảm đạm như buổi chiều đông này, không hề khao khát một cảnh đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay.
Chiều hôm ấy Dũng cảm như thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân.” (tr..87)
“Dũng vẫn thấy mình là một người dân và cảm thấy cái thú man mác được hòa với đám dân không tên không tuổi, sống cái đời của họ sống, mong ước như họ mong ước, khác nào một cây cỏ lẫn vào trong muôn nghìn cây cỏ ngoài nội. Nhưng trong cái thú hòa hợp ấy có lẫn chút rạo rực, náo nức: vì chưa được thỏa nguyện về hiện tình của dân quê nên còn khao khát mà sự khao khát không diễn được nên lời ấy, nó bắt Dũng tin ở sự thay đổi, tin ở công việc Dũng làm trong bấy lâu và có lẽ còn làm mãi mãi, chưa biết bao giờ nghỉ.
Độ nhìn Dũng thương hại cho bạn bấy lâu sống cuộc đời gian nan, vất vả, phiêu bạt khắp bốn phương trời. Chàng gạt tàn thuốc lá thở dài, nói vẩn vơ một câu như để mong an ủi bạn:
-  Sống không nghĩ ngợi như bọn dân kia thế mà lại sướng.
Dũng đáp:
-  Tôi không nghĩ như anh, vì tôi tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ hơn lên được. Có lẽ họ đã quen với cái khổ lắm rồi, nên họ không biết khổ nữa, hay họ có biết cũng không tỏ ra được... Ta phải diễn ra cho họ và những sự ta mong ước cho họ, ta phải làm cho họ mong ước như ta. Tôi vẫn hằng mong ước dân quê đỡ phải chịu hà hiếp, ức bách. Ta phải tin rằng sự ao ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê cũng mong một cách thiết tha như ta”. (tr.88)
Vậy nói một cách tổng quát Luận đề chính của Đoạn Tuyệt là mới cũ xung đột, trong đó Nhất Linh kịch liệt đả kích quan niệm hôn nhân lỗi thời cũ, cùng những hủ tục khác và ông đòi giải phóng cá nhân khỏi xiềng xích cả gia đình. Cá nhân phải được tự do tự lập.
Luận đề phụ là thái độ của tác giả (qua nhân vật Dũng) về vấn đề cải thiện dân sinh. Tác giả tuy có theo nguyên tắc “Dân vi quý” của Mạnh Tử nhưng có thái độ tích cực hơn ở điểm đòi giáo hóa cho người dân biết ham muốn đời sống mới. Lòng ham muốn đó chính là động cơ thúc đẩy cuộc cách mạng dân sinh.
Phê bình Đoạn Tuyệt
I.  Kết cấu và động tác câu chuyện
A. Nhận xét tổng quát
Khởi đầu hãy xin đơn cử ra đây những dòng nhận xét ngắn gọn và xác đáng của ông Phạm Thế Ngũ, sau đó xin có ý kiến bình luận thêm.
Câu chuyện kết cấu khả giản dị. Chủ ý tác giả là trình bày cuộc xung đột giữa mới và cũ, giữa cá nhân và gia đình. Phần một là sự trạng xui nên nạn nhân phải bước vào hoàn cảnh xung đột. Phần hai là tất cả tình tiết của xung đột và phần ba là cuộc xung đột chấm dứt đưa đến mới thắng cũ, cá nhân đoạn tuyệt với gia đình. Mặt khác thì lại còn là một câu chuyện tình, có ý vị lãng mạn nữa. Phần một là mối tình của Dũng và Loan. Họ chia ly để phần hai Loan bước vào con đường bất hạnh và phần ba nàng ra khỏi cơn ác mộng trở về với Dũng. Thành ra một câu chuyện hóa hai. Ta có cảm tưởng như nếu chỉ trình bày một bức tranh xung đột xã hội thì thiếu hấp dẫn, nên tác giả đã đem mối tình của Dũng mà dàn lên trên cho có thi vị lãng mạn, rồi bằng sự quay về của Dũng mà tăng thêm phần vẻ vang và sung sướng cho sực đắc thắng của Loan.
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy cách kết cấu câu chuyện khá chặt chẽ và động tác khi khoan, khi mau, rất uyển chuyển, khiến câu chuyện giữ được vẻ hấp dẫn đặc biệt. Câu chuyện kết thúc bỏ lửng nhưng vẫn hé cho độc giả thấy cuộc đời toại nguyện của Loan được xum họp với Dũng sau này. Đúng như nhận xét của ông Phạm Thế Ngũ, lối giải kết bỏ lửng đó chính là đặc điểm của nghệ thuật mới vượt ra ngoài sáo xưa.
B. Một vài tình tiết không hợp lý
1. Một nét tâm lý của Loan
Ở ngay chương I phần một, tác giả đã cho chúng ta thấy cảnh Loan, Dũng gặp nhau với những cử chỉ ngôn ngữ tế nhị, chứng tỏ tình yêu kín đáo giữa hai người. Nếu chúng ta lại nhớ đến Đôi Bạn chỉ để tả mối tình kín đáo của Loan Dũng. Sang đến chương II của Đoạn Tuyệt, Loan đích thân đến thăm Dũng ở căn gác trọ tồi tàn của chàng. Dũng lúc đó đương sắp va-li để sửa soạn đi, Loan đã lò mò nhìn ra một cái ảnh nửa người của nàng chụp hai ba năm trước:
“Nàng lấy làm lạ vì nàng không hề tặng Dũng bức ảnh nào. Cảm động nàng nhìn bức ảnh của nàng mà Dũng có lẽ vì yêu nàng đã lấy trộm và lúc đi lại nhớ đem theo đi... Nàng thấy trong lòng man mác, sung sướng...” (tr. 14).
Vậy thì mối tình đó có, Loan Dũng và cả độc giả nữa, tưởng không còn ai nghi ngờ được nữa. Ây thế mà sau vài câu chuyện, Loan lại hờn giận nghĩ như sau:
“... Dũng nói luôn mấy câu nữa, nhưng nàng không để ý đến. Nàng đã biết được điều nàng muốn biết: là Dũng không yêu nàng, trước sau chỉ coi nàng như một người bạn.” (tr. 18).
Cả chương II, Nhất Linh tả tâm trạng thắc mắc của Loan về tình yêu của Dũng, điểm mà lẽ ra không ai còn nghi ngờ nữa, nhất là - tôi nhắc lại - khi chúng ta liên tưởng đến Đôi Bạn (Điều này dưới đây khi bàn đến Đôi Bạn tôi còn nhắc tới). Cho đến khi đọc hết chương II này, người ta có cảm tưởng như chứng kiến Loan đến gõ một cái cửa bỏ ngỏ rồi lại quay về mà than phiền rằng cửa vẫn đóng.
2.  Loan sinh con trai và bị mổ
Chương V phần hai, Loan sinh con trai nhưng suýt nguy đến tính mạng vì đẻ khó, phải mổ và hết đường sinh đẻ. Cả một sự kiện quan trọng như vậy, tác giả chỉ thuật lại sơ sài:
Cô đỡ nói:
- Bà ấy sốt, lúc đẻ khó khăn lắm, phải mổ. Nhưng bây giờ đã khỏi. (tr. 96)
Từ lúc mổ đến lúc khỏi sao nhẹ nhàng thế? Và lẽ nào Loan đẻ khó phải mổ mà Thân không hề biết? Lỏng lẻo ở chỗ đó.
3.  Loan hấp hối
Sang chương VI, Loan hấp hối, viết thơ gọi Thảo đến giường bệnh căn dặn trả dùm tiền thuốc và tiền buồng, nhờ bạn nói dùm với Dũng là đến phút cuối cùng, nàng cũng không quên Dũng. Sang chương VII, chúng ta đã thấy Loan đi chơi đền Mẫu với bà Huyện Tịch và suốt mấy giờ nàng được thỏa thích chạy chơi hết các đồi gần đền Mẫu.
Đã đành việc khỏi bệnh bất ngờ đó đã được sửa soạn trước ở chương VI:
Thảo đoán là vì có chuyện bực tức gì khác chứ không phải là vì bệnh trạng nguy kịch mà Loan thốt ra những câu chán nản ấy. Thảo xem ra Loan cũng không ốm nặng mấy, tuy bệnh kéo dài đã gần một tháng...” (tr. 102).
Tuy nhiên ta thấy vẫn chưa đủ và chương VI này cũng lỏng lẻo như chương V trên.
4.  Loan đi chơi đền Mẫu với bà Huyện Tịch
Bà Huyện Tịch là một người cô của Thân, xưa nay Loan vẫn ghét bà ta nhất vì bà hay súi bà Phán Lợi. Mới ngày nào bà Tịch cười hỏi Bà Phán:
“Thế nào, cô trắng răng đã về rồi đấy ư?
Rồi lại nói:
Đấy tôi đã can chị, chị không nghe, cứ đi rước những thứ ấy về. Rước những hạng tân thời ấy về để nó làm bại hoại gia phong nhà mình. Nó học giỏi mặc nó chứ, nhà mình là nhà có phép tắc nề nếp.
Rồi quay sang nói với Thân:
Thế nào là dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Cũng tại anh cả, quen chiều vợ, để mặc nó làm gì thì làm, bây giờ thì nó đã quen thân, mất nết, chậm quá rồi... Hỏng” (Chương II, phần hai, tr. 79).
Ây thế mà đến chương VII, Loan đã nghiễm nhiên được bà Tịch mời đi thăm đền Mẫu trên ô tô của bà y như chỗ thân tình, vẫn quý hóa nhau từ xưa đến giờ.
Đã đành có nhiều trường hợp trước ác cảm, sau cảm tình, nhưng sự biến chuyển tâm lý đó, đòi hỏi sự giải thích. Sự giải thích đã hoàn toàn không có ở đây. (Việc đi chơi xa này của Loan cần để có sự bất ngờ gặp Dũng bị thương và xe hỏng ở giữa đường rừng).
5.  Các chị em nhà chồng có dám nói mỉa Loan?
Chương XII phần hai, nhà chồng có giỗ:
“Loan ngồi riêng ra một nơi, cúi đầu yên lặng, không dự vào câu chuyện của chị em họ. Nàng biết trước rằng hễ có dịp gặp nhau là họ nói cạnh nói khóe nhau và đem những chuyện tư chuyện riêng ra nói cho hả dạ. Ngoài những chuyện ấy ra, họ cũng không biết chuyện gì, cũng như sống ở trên đời ngoài những cỗ bàn bếp nước họ cũng không còn chuyện khác nữa.
Gớm, chị trưởng hôm nay sao mà nghiêm trang thế?
Loan phải vội ngửng lên mỉm cười vì nàng biết là họ bắt đầu muốn sinh sự. Một cô nữa vừa mỉm cười, vừa nói tiếp:
- Nghiêm trang không đúng. Phải nói chuyện khinh khỉnh. Người ta là nữ văn sĩ kia mà, ai thèm nói chuyện với bọn quê mùa như các chị". (tr.140)
Chúng ta đã biết Loan là một cô gái thông minh có học, bướng bỉnh, lý sự lại khôn ngoan ở chỗ bướng bỉnh lý sự trong khuôn phép, trong lẽ phải (tỉ như lời nàng thưa lại với mẹ chồng (tr. 77). Chính bà Phán Lợi tuy ghét nàng mà vẫn phải gờm nàng. Bích là cô em chồng đành hanh, tuy có nhiều lần hỗn xược với nàng nhưng nàng khinh không thèm chấp. Loan như vậy liệu các chị em nhà chồng có dám nói mỉa nàng như trên không và Loan cố chịu mỉm cười im lặng không? Tôi tin là không! Vì vậy những nét tâm lý trên đây mất phần thống nhất.
6.  Loan và Thân dọn nhà lên Hà Nội
Chương I, phần ba.
Loan thấy Thân nằm bên cạnh, chốc chốc lại vật mình thở dài. Nàng biết Thân tức bực lắm, vì Thân chỉ đợi nàng tắt đèn đi ngủ là xuống nhà dưới với Tuất, vì từ hôm dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại nhà ở dưới Ấp, Tuất về quê vắng, hôm nay vừa mới lên. (tr.144)
Trong chương này có vụ ngộ sát. Tác giả muốn vụ ngộ sát đó xẩy ra tại địa phận Hà Nội chăng, nên mới có vài lời giải thích sơ sài là dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại nhà ở dưới Âp. Cho tới chương này độc giả mới đột nhiên được biết bà Phán Lợi vẫn có nhà trên Hà Nội. Nhà đó hẳn không nhà cho thuê bởi một lẽ rất giản dị là Thân và Loan dọn lên ở ngay khi nhà dưới Âp chữa lại. Như vậy khi cả nhà bà Phán Lợi ở dưới Âp thì nhà đó bỏ hoang? (Căn cứ vào các tình tiết trong truyện, độc giả nào cũng phải nhận rằng cả nhà bà Phán Lợi đều ở dưới Âp). Thành thử độc giả có cảm tưởng viết đến đâu thấy cần thêm chi tiết nào, tác giả tới lúc đó mới nhét thêm vài lời giải thích vào đó.
7.    Sự tình cờ đẫm máu
Sau cùng trong phần nhận xét về kết cấu và động tác này chúng ta cũng nên nhắc đến sự tình cờ đẫm máu ở chương I, phần ba.
Trương Tửu chê Đoạn Tuyệt là đã phải nhờ ở một sự tình cờ và một nhà văn khác đã chê lối giải quyết ấy là đẫm máu.
Hai ý kiến đó đều không phải là không sáng suốt. Kể ra khi đọc xong cuốn truyện, gấp sách lại ta cũng phải đặt câu hỏi: “Ngộ không xảy ra sự tình cờ đẫm máu thì cuộc đời Loan sẽ ra sao, nàng sẽ hành động cách nào để chuyển bại thành thắng cho quan niệm mới.”
Sở dĩ độc giả khi vừa đọc tới chương đó không kịp đặt câu hỏi, vì động tác chương này dồn dập, tình thế căng thẳng dần cho đến lúc tai nạn xẩy đến, lời văn thuật chuyện rất hấp dẫn. Chính phần nghệ thuật đã cứu vãn cho sự sơ hở của phần nội dung trong chương này.
II.  Nhận xét về sự tiến triển tâm lý của các nhân vật
1.  Loan
Tôi đã trình bày ở chương trên đây là sự tiến triển của tâm lý Loan rất uyển chuyển và hợp lý.
Ông Lê Hữu Mục viết trong cuốn Khảo Luận về Đoạn Tuyệt là “...Ông Nhất Linh đã thiên vị khi ông cho Loan ‘muốn yêu mà không thể được’, tuồng như ông cho rằng lời ấy không phải là ở Loan, nhưng là ở Thân với nét mặt và đời sống quá tầm thường của chàng. Ông có biết đâu lúc nào tâm hồn Loan cũng chứa đầy hình ảnh của Dũng thì còn yêu ai được nữa.” [14]
Không ai chối cãi tâm hồn Loan chứa đầy hình ảnh của Dũng, và sang thời mới, trai gái đã tương đối được tự do nhiều thì việc người con gái về nhà chồng mang theo trong lòng một vài vương vấn nào không có chi lạ. Tôi vẫn nghĩ rằng Thân có thừa ưu thế để xóa hình ảnh Dũng trong tâm hồn Loan, nếu Thân không quá đần độn, tầm thường như vậy. Sự tan vỡ kia Thân hoàn toàn không chịu trách nhiệm.
Phê bình tâm lý Loan, ông Phạm Thế Ngũ viết:
“Người đàn bà ở thời nào cũng vậy, như chúng ta nghĩ, bản tính dễ quen, dễ hòa đồng, dễ uốn nắn, lại thường lấy sự thành thật, sự mềm yếu mà dễ gây thiện cảm với chung quanh. Ở đây ta thấy một mẫu phụ nữ ít có: không thẹn thùng, không e dè sợ sệt, chủ quan, cứng cỏi, kiêu hãnh, lý sự, mới đến cùng. Nhất là về sau, khi đã thoát khỏi gia đình Thân, trở về nhà, bán nhà cửa, dẹp bỏ bàn thờ tổ tiên, một mình lặn lội vào xóm nghèo, mở lớp dạy học, rồi lại giải tán lớp học, vào làm báo, hàng ngày đi bộ trên một cây số để đến nơi làm việc: Loan trở nên một phụ nữ phi thường, một nữ siêu nhân. Tâm lý Loan vì thế có chỗ thiếu sự thực linh hoạt”.[15]
Nhận xét của ông Phạm Thế Ngũ thật xác đáng, nhất là việc dẹp bàn thờ tổ tiên, tôi sẽ đề cập ở phần bình luận đề. Ở đây có lẽ chúng ta phải nghĩ: Đoạn Tuyệt là một tiểu thuyết luận đề, Loan chính là một phụ nữ lý tưởng thời đó mà tác giả nêu ra để chuyển bại thành thắng cho phái mới. Sau khi Đoạn Tuyệt ra đời, dư luận có xôn xao, rồi rốt cuộc quan niệm cũ phải tỏ vẻ kiêng nể và có thái độ hiểu biết hơn với quan niệm mới, điều đó là công lớn của Nhất Linh bù vào cái tội quá khích của ông qua nhân vật Loan.
2.  Dũng
Thoạt xuất hiện một cách êm ả, bình thường, nhưng về sau chàng trở thành một nhân vật huyền bí, ẩn hiện bất ngờ. Chính hành tung bí mật kèm theo mối tình u uẩn của chàng với Loan đã làm độc giả có cảm tình nồng nhiệt với nhân vật này. Dũng trong Đoạn Tuyệt có phong độ một Phạm Thái tung hoành với chí lớn nhưng vẫn mang trong lòng hình ảnh của Trương Quỳnh Như.
3.  Các nhân vật phụ khác
-  Lâm, Thảo, đôi bạn tốt của Loan-Dũng, luôn luôn biết thương bạn, hiểu thấu những thắc mắc của bạn và hết sức an ủi giúp đỡ bạn khi cần.
-  Thân, một anh chồng tầm thường, ngu hèn từ nét mặt, cử chỉ đến ngôn ngữ.
-  Bà Phán Lợi, người mẹ chồng cay độc, khi thì mát mẻ, khi thì hung hãn nhưng tất cả những lời nói cùng hành động khác nhau đó đều vụ mục đích hành hạ Loan.
-  Bích, cô em chồng vô học, đanh đá v.v...
Mỗi nhân vật phụ đều có cá tính riêng và giữ được cá tính đó từ đầu đến cuối.
III.  Nhận xét về luận đề Đoạn Tuyệt
Luận đề mới cũ xung đột! Ở Đoạn Tuyệt, Nhất Linh dụng tâm quy tụ mọi tật xấu của xã hội cũ: nhưng quan niệm lỗi thời về hôn nhân, cưỡng ép trong việc gả bán, hạ thấp nhân cách của người đàn bà, nạn đa thê, cùng những hủ tục khác như mê tín dị đoan.
Tuy nhiên, ở Đoạn Tuyệt có những điểm quá trớn.
1.  Đối với mẹ chồng
Hãy nghe Loan đối đáp với mẹ chồng:
-  Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.
-  Tao có quyền, mày chửi lại xem nào?
Loan quay lại:
-  Tôi không quen chửi, chửi người khác tức bẩn mồm mình.
Ở Tòa ra, Loan xin lỗi mẹ chồng bằng một giọng ngang hàng:
-  “Tôi xin lỗi bà... còn như bà, nếu bà vẫn coi tôi như một kẻ thù, đó là quyền riêng của bà.”
Đọc nhưng đoạn như vậy chúng ta chẳng khỏi cảm thấy bùi ngùi chua xót. Bùi ngùi chua xót cho sự va chạm đau thương giữa Mới và Cũ. Bùi ngùi chua xót cho giá trị đạo đức cố hữu của dân tộc bỗng chốc bị phá hủy vùi dập. Đạo đức truyền thống của dân tộc là đạo hiếu, là kính lão đắc thọ. Bậc làm cha mẹ hầu hết để lại những gương hy sinh đáng quý. Còn việc mẹ chồng nàng dâu thường xảy ra bất hòa cũng là lẽ dễ hiểu chung cho cả Đông lần Tây (các bà mẹ thường cảm thấy tình mẫu tử bị xâm phạm, chia sẻ).
2.  Theo mới đến cùng
Theo Nhất Linh, tất cả những gì của xã hội cũ đều hủ bại, bởi vậy Nhất Linh đã để Loan đòi theo mới đến cùng. Sự thực có cái mới nào mà hoàn toàn ly khai hẳn cái cũ? Hiện tại luôn luôn bắt nguồn ở dĩ vãng để tiến triển vào tương lai. Mặc dầu cố tình thóa mạ cái cũ, mà vô tình đôi chỗ Nhất Linh vẫn để thoát ra những cái đẹp cố hữu của nếp sống cũ:
-  Tình bằng hữu đáng quý của Lâm, Thảo há chẳng phản ánh tâm hồn trung hậu của nếp sống cũ?
Hãy nghe lời đối thoại giữa Loan với con sen:
-  Thưa cô, miễn ở với cô có đủ cơm ăn là con xin ở mãi. Tiền công cô cho mấy tháng nay, con chỉ ăn quà và tiêu nhảm.
-  Thế còn chồng con chị?
-  Thưa cô, con chưa có cháu nào. Còn chồng con nói đi làm thợ mộc cũng đủ tiêu, con không cần phải lo.
Rồi con sen cười để che cảm động:
-  Ở với cô chẳng bao giờ sợ đói. Thế là đủ. Mà dẫu có đói đi nữa thì hai cô cháu cùng đói. Xin cô đừng ngại. (tr. 195).
Đó há chẳng là nghĩa tớ thầy vô cùng đáng quý của nếp sống cũ?
3.  Cá nhân quá trớn
Chỉ cần đơn cử đoạn văn sau này ở đầu chương X, phần ba:
“Loan mở cửa bước vào nhà rồi uể oải đặt mấy cái gói giấy lên bàn. Nàng vừa ở phố về, mua mấy thức lặt vặt để dùng trong ba ngày Tết vì, sáng ngày con sen đã xin phép nàng về quê. Đưa mắt nhìn gian nhà vắng vẻ, tự nhiên Loan thấy buồn bã lạ thường. Trong lúc năm hết Tết đến, Loan còn cảm rõ nỗi cô độc của nàng, một thân một mình sống trơ trọi; gian nhà này mỗi khi về nàng thấy ấm cúng bao nhiêu thì chiều hôm nay có vẻ lạnh lẽo bấy nhiêu.”(tr. 205).
Sự thực cảnh lạnh lẽo này đâu chỉ vì thiếu có con sen? Đó chính là cảm giác cô độc của một cá nhân, không còn cha mẹ, không còn họ hàng thân thích. Niềm cô độc đó lại càng rõ rệt, chua xót giữa một nếp tình cảm truyền thống: năm hết Tết đến, ai nấy ao ước được đoàn tụ trong không khí ấm cúng của gia đình. Tới đây liệu Loan có dám thực tình ca ngợi tự do cá nhân như một cái gì siêu việt tuyệt vời? Tới đây liệu Loan có thấy hối nếu nàng nhớ lại quan niệm quá khích của nàng khi xưa:
“Nó có đời của nó, nhớn lên nó phải hoàn toàn sống cái đời của nó. Theo lệ cũ, thì con mình cả đời chỉ quanh quẩn lấy mình thôi, quanh quẩn với những bổn phận trong gia đình. Khi bố mẹ còn trẻ thì bố mẹ bắt con theo ý mình, đến khi bố mẹ già, nếu bố mẹ không lo liệu lấy thân thì tất nhiên con nó phải bận mưu sự sống cho bố mẹ. Tôi muốn nó có lòng kính yêu tôi mà không bao giờ phải bận vì tôi.” (tr. 84).
Khi còn bé, cha mẹ dạy dỗ mình, khi đã trưởng thành mãi mãi cha mẹ là cố vấn cho mình. Và khi cha mẹ đã về già, bổn phận cao quý của kẻ làm con là phải nuôi nấng, săn sóc lo lắng đến sức khỏe của các người.
4.  Quá trớn trong quan niệm đả phá việc thờ cúng
Sau khi được tha trắng án, Loan trở về sống với cha mẹ. Ít lâu sau bà Hai cũng bị bệnh mà mất. Loan bán nhà, bỏ bàn thờ. Lời Loan nói với bà dì:
- Lư hương với cây nến cháu đã bán đi rồi, đấy chỉ là cái bàn không, cháu để lại cho chủ mới.
Cháu thì cháu chỉ biết thờ ở trong lòng. Cần gì phải thờ, cần gì phải người thừa tự. (tr. 185)
Đồng ý với quan niệm trọng nam khinh nữ phải bỏ, không cần lập người thừa tự, nhưng đâu có phải vì thế mà bỏ hẳn việc thờ cúng tổ tiên? Ông Phạm Thế Ngũ phê bình: ’’Còn như chủ trương chỉ thờ tổ tiên ở trong lòng như lời Loan nói thì hoặc là nguy biện hoặc là lý tưởng cao xa quá. Sự thờ cúng nào mà chẳng cần đến một tối thiểu hình thức lễ nghi. Không có hình thức bên ngoài thì rồi đối tượng bên trong cũng không còn nữa.”
IV.  Văn Chương Đoạn Tuyệt
Lời văn trong sáng, nhận xét tế nhị, gợi hình gợi cảm.
Cả chương V, phần một, Nhất Linh đã khéo gợi lại được cuộc gặp mặt với những rung động tâm tình tế nhị của những cặp tình nhân muôn thuở.
Những câu tả cảnh của Nhất Linh ít khi là tả cảnh thuần túy, thường có lẩn quất tâm tình:
Một buổi chiều về cuối năm, một buổi chiều êm như giấc mộng; mấy cây thông ở đầu hiên nhà đứng lặng yên đợi gió. (tr. 86)
Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên cánh đồng cỏ màu xanh già. Những thôn xóm rải rác dưới chân đồi hay bên bờ con sông trắng cong queo như đè nén dưới vẻ to tát của trời đất rộng rãi. Khói thổi cơm chiều của một vài nhà dân không còn có sức lên cao nữa, tỏa ra thành từng đám mầu lam ôm ấp lấy các mái tranh. (tr. 87)
Cảnh đêm giao thừa ở miền trung du, hòa với tình Dũng yêu Loan khi chàng tha thiết nhớ đến nàng, tất cả đã được Nhất Linh ghi thành những dòng vô cùng gợi cảm sau đây:
“Lờ mờ dưới ánh sao, giòng sông lẫn trong sương lạnh lẽo, mơ màng uốn khúc. Sau những chòm cây đen rải rác dưới chân đồi, đèn nến cúng giao thừa ở trong các nhà dân quê thấp thoáng ánh lửa vàng.
Dũng lắng tai cố nghe tiếng pháo ở những nơi xa xa rồi lại xa hơn đưa lại và tưởng tượng theo những tiếng pháo đó cứ mỗi lúc một đi xa mãi cho đến tận phía chân trời, nơi Loan ở.”(tr, 93)
Tổng kết về Đoạn Tuyệt
-  Kết cấu khá chặt chẽ, động tác uyển chuyển. Tuy nhiên xét kỹ thấy có những chi tiết lỏng lẻo.
-  Sự tiến triển tâm lý của các nhân vật (chính cũng như phụ) đều giữ được vẻ hợp lý.
-  Luận đề Đoạn Tuyệt: đúng ở phần bài bác những hủ tục, nhưng quá khích ở một vài điểm khác.
-  Văn chương Đoạn Tuyệt: trong sáng, gợi hình, gợi cảm.
Chú thích:
[11]. Chúng tôi theo cách chia thành từng thời kỳ có mạch lạc của ông Phạm Thế Ngũ tác giả “Bài Việt Văn Kỳ Thi Tú Tài” quyển III - Tài liệu theo ông Lê Hữu Mục tác giả “Thân Thế và Sự Nghiệp Nhất Linh”.
[12]. Chúng tôi biết danh từ “tình cảm” dùng ở đây hơi gượng ép, chỉ cốt để phân biệt với loại truyện ngắn tính các xã hội, để cập đến cảnh nghèo.
[13]. Tất cả những đoạn văn trích sau đây, đều căn cứ vào cuốn Đoạn Tuyệt do Phượng Giang xuất bản 1958.
[14]. Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài Quốc học Tùng Thư tr. 244- 245
[15]. Phạm Thế Ngữ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài quyển III - trang 241 - Phạm Thế Ngũ -Quốc học Tùng Thư
[16]. Lê Hữu Mục - Khảo Luận về Đoạn Tuyệt - tr. 65 - Khai Trí xuất bản.
[7]. Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài - Quyển III - tr 243 - Quốc học Tùng thư.
[8]. Cả nửa bài “Giây phút tranh lòng” (cảm đề truyện Đoạn Tuyệt) của Thế Lữ là nói đến giây phút trên đây của Dũng:
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran,
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Ta thấy xuân nồng khắp mọi nơi,
Bên đường rộn rã tiếng đùa cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm nọ,
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
Như cánh đồng xuân nhuốm nắng chiều,
Mắt lệ đắm trong miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu.
Cát bụi tung trời - Đường vất vả,
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy,
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân.
- VI - ĐÔI BẠN [18]
i. i. sơ lược câu chuyện
“Dũng vì vui anh em bãi khóa để tang cụ Phan Chu Trình về quê ở với cha là ông Tuần. Chàng sống ngột ngạt trong nếp sống đố kỵ và kiểu cách của một gia đình quan liêu. Chàng yêu Loan và Loan cũng yêu chàng, nhưng cả hai cùng không bao giờ ngỏ lời yêu ấy với nhau. Đồng thời chàng và Trúc, một người bạn thân nhất, vẫn đi lại với các đồng chí. Ông Tuần hỏi cô Khánh cho chàng. Chàng không chối từ. Gần ngày cưới, chàng và Trúc bỏ đi sang Tàu”.
Đây là cuộc sống của người thanh niên lãng mạn trong một khung cảnh ngột ngạt, tuy im lặng mà chứa đầy bão tố vì là một tổng hợp của những mâu thuẫn.
II.  Phê bình tổng quát
Đôi Bạn ra đời nhờ sự thành công quá rực rỡ của Đoạn Tuyệt. Ở Đoạn Tuyệt, Dũng là một nhân vật khi ẩn khi hiện, huyền bí. (Hãy nhớ lại cảnh chàng bị tai nạn ô tô, vẫy xe đi nhờ thì lại gặp xe Loan). Hành tung bí mật của chàng, sự tự đày đọa thân thể vì một lý tưởng nào đó mà tác giả chỉ phác qua, làm cho độc giả yêu say mê con người đó. Cho nên có thể nói: khai thác cảm tình của độc giả đối với Dũng với vòng hào quang lãng mạn của chàng, Nhất Linh đã viết Đôi Bạn.
Nếu trong Đoạn Tuyệt, vai chính là Loan thì trong Đôi Bạn vai chính là Dũng. Chúng ta ngạc nhiên thấy ở đây một cô Loan nhu mì yêu đương một cách hoàn toàn không vụ lợi, sung sướng với mối tình gần như tuyệt vọng của mình, khác hẳn con người kiêu hãnh và lý sự của Đoạn Tuyệt.
Ở Đôi Bạn trước hết, ta thấy trung tâm vũ trụ của Dũng là Loan và chính cả chàng nữa. Mỗi chương trong chuyện đều có ít nhiều dính dáng đến Loan.
Có thể nói Loan như một viên đa nam châm quy tụ tất cả những ý nghĩa của chàng. Yếu đến thế mà bằng một tình yêu vô cùng tế nhị, ta thấy từ đầu đến cuối chuyện, chàng không hề bao giờ ngỏ lời nói chuyện yêu đương với nàng. Cái lối “yêu tôn thờ” luôn luôn chơi ú tim với chính mình, với người yêu là một lối cực lỳ lãng mạn nhập cảng từ Tây phương vào. Yêu đến thế mà chàng không muốn lấy nàng, sợ tình yêu sau này sẽ phai lạt, sẽ không đẹp đẽ bằng tình yêu tôn thờ hiện tại.
Đó là một người luôn luôn đau khổ ngấm ngầm, nét mặt luôn luôn đăm chiêu, luôn luôn tự chuốc cho mình những nỗi đau khổ lẽ ra không có hay không nên có. Tình yêu giúp chàng tưởng tượng sẽ lấy Loan, sẽ về ở ấp Quỳnh Nê. Những câu hỏi cuối cùng: “Rồi sao nữa, cứ thế cho đến suốt đời ư?”. Chàng nghĩ đến sự suốt đời một cách ghê sợ và tưởng tượng ra một cuộc sống đều đặn buồn buồn, điều mà chàng ghét hơn hết. Ở đâu cũng đau khổ, cái gì cũng làm chàng đau khổ. Chàng là người không ưa băng bó vết thương lòng của mình lại, mà cứ tìm cách cấu xé thêm lòng mình ra với một vẻ thích thú mà ta thường thấy có ở những nhân vật chính của Dostoievsky. Tựa như người lên nhọt biết nặn ra là đau đớn mà cứ nghiến răng cố nặn để rồi nước mắt chan hòa và miệng xuýt xoa một cách khoái lạc.
Ở con người ấy, tâm trí hoàn toàn ly dị nhau và luôn luôn chống đối nhau. Với một lý trí vô cùng minh mẫn, chàng không ưa suy xét mà ưa cảm xúc. Vì thế cho nên đó là một con người rất ít hành động, tuy suy tính rất nhiều và mỗi khi hành động đều có tính cách liều lĩnh. (Hãy đọc lại lý do khiến Dũng và Trúc bãi khóa, rồi đọc đến đoạn Dũng trốn sang Tàu). Nhưng nếu hành động không thực tế, suy nghĩ liều lĩnh, trái lại đó là một nhà thơ hoàn toàn về lối cảm nghĩ. Chỉ một xúc động rất nhẹ nào đó cũng khiến chàng say sưa ngây ngất. Hãy đọc lại đoạn chàng trông thấy bóng cửa chan hòa ánh nắng in hình trong gương, hãy nhớ lại ý nghĩ của chàng sau khi qua bến đò Gió, đoạn ngồi uống nước trà, nghe mưa rơi... ta sẽ thấy chàng thanh niên ấy nghệ sĩ đến mức nào, cảm xúc của chàng mẫn nhuệ biết chừng nào. Bất cứ một chi tiết đẹp đẽ nào cũng làm cho chàng mơ mộng được: Một con bướm trắng bay lên trời xanh, những hoa cải vàng treo phơi trên dây thép, một đồng cỏ gió gợn.
Cuối cùng đó là một con người hay tủi thân vì rất nhiều tự ti mặc cảm và cũng lại rất nhiều tự thượng mặc cảm nữa. Chàng tự ti mặc cảm đối với đồng chí “cái giàu sang của tôi đối với tôi chỉ là một cái nhục”. Nhưng đối với các anh ruột chàng và những người ở cùng tầng lớp với chàng thì chàng rất nhiều tự thượng mặc cảm, chàng so sánh bà với một gốc cây cỗi, người ta đem khoe hôm thượng thọ. Chàng không hiểu vẻ mặt hồng hào, phì nộn và thỏa mãn của những kẻ đến dự lễ thượng thọ bà chàng. Chàng khó chịu vì cha chàng đêm đêm lẻn sang nhà bà Ba. Sau cùng chàng vô cùng khinh bỉ lề lối cư xử đối đãi giữa hai anh và hai chị dâu của chàng.
Về phương diện xây dựng, ta phải nhận rằng quyển Đôi Bạn lỏng lẻo hơn các tác phẩm của Nhất Linh nhiều. Dây liên lạc của mỗi chương với nhau hờ hững đến nỗi có thể coi đó là những truyện ngắn liên tiếp.
Truyện gần như không có cốt truyện.
Nhưng ta cũng phải nhận rằng chưa bao giờ ngòi bút Nhất Linh tế nhị như trong tác phẩm này. Nguyên bài đầu Nhặt Lá Bàng thay lời tựa cũng đủ để so sánh với bất cứ bài thơ nào. Rồi suốt những chương sau cũng vậy. Mỗi lần tác giả tả cảm xúc của Dũng, của Loan hay cả của Trúc nữa, ta lại thấy xuất hiện những lời thơ xuôi sao mà tinh tế và trữ tình, nhất là ở chương cuối cùng kể lại cuộc đi chơi từ biệt của Dũng và Loan trước khi Dũng lên đường.
(Ý kiến của Giáo sư Lý Quốc Sỉnh)
III.  Không khí Cách mạng trong Đôi Bạn
A. Những câu chuyện tình
Có thể nói Đôi Bạn là một tập truyện tình đan lát trên một nền hoạt động cách mạng bí mật.
1.  Mối tình Loan - Dũng:
Mối tình này là mối tình chính yếu trong truyện. Sau cùng Dũng cùng Trúc trốn sang Tàu.
2.  Mối tình Trúc - Hà:
Trúc là bạn học thân của Dũng. Không nhà, không cửa, không vướng víu đến ai cả. Trước đây hai người đã cùng nhau nhảy ra khỏi trường trong dịp bãi khóa, rồi Trúc trông coi ấp Quỳnh Nê cho Dũng. Trúc là một thanh niên vui vẻ, hồn nhiên nhưng không kém phần tế nhị, tính tình cao thượng vô tư.
- Tôi chỉ biết làm việc... làm việc, mình được vui thế không đủ à? Còn thóc ấy về phần anh Dũng hay về phần cô Loan chăng nữa, tôi không kể đến (tr.202).
Hà là con cụ Chánh Mạc, người làng Ý Dương. Hà cùng chị ruột (Phương), anh ruột (Cận) đều có tham gia cách mạng. Đã một lần Phương bị bắt tình nghi được tha, về nhà ít lâu mắc bệnh lao chết. Hà cũng mắc bệnh lao. Nàng nhí nhảnh vô tư, thái độ gia cách mạng của nàng cũng hồn nhiên.
Trúc sang Tàu. Hà ở lại với bệnh lao, với cảnh nhà nghèo túng.
3.  Mối tình Tạo - Phương:
Phương là chị Hà như trên đã nói. Hồi chưa bị bắt nàng thường nhanh nhẹn tươi cười đi hô hào các chị em buôn bán tẩy chay một cửa hàng Khách.
Tạo mồ côi cha mẹ khi còn học năm thứ hai trường Bảo Hộ. Một ông cậu làm án sát vì mến chàng nuôi cho ăn thừa tự. Ông Án mất đi, chàng chán dần cái cảnh ngồi bó gối giữ ngôi nhà thờ, làm cô cúng quanh năm, nghe các bà dì hạch sách. Rồi các dì chọn vợ cho Tạo, một cô gái vừa béo, vừa rô, vừa đen. Tạo bỏ nhà ra đi gặp Thái (một nhà cách mạng chân chính) cùng mấy người bạn khác. Chàng tham gia cách mạng từ đấy. Mối tình của Tạo với Phương cũng chỉ là một mối tình thầm kín thôi, vì Tạo nay đây mai đó, hành tung rất bí mật. Ngày đưa đám Phương, Cận thoáng trông thấy, Tạo quay mặt đi, vội lấy tay áo gạt nước mắt. Sau đấy, Tạo cũng chết cô quạnh ở một đồn điền kia vì bệnh sốt rét. Tính Tạo hay khôi hài, đến lúc gần chết chàng cũng vân vui. (Theo lời ông chủ đồn điền).
B. Tâm trạng Dũng khi đi vào con đường cách mạng
1.    Nhục vì cái giàu sang của mình
Là con quan, nhà giàu nhưng nhiều lần Dũng thú thật là chàng thấy nhục trong cảnh giàu sang bất nghĩa đó.
2.  Một tâm trạng trống rỗng thê thảm
Sau ngày bãi khóa Dũng về ở với ông Tuần. Tâm trạng của Dũng, cũng như của Trúc trong những ngày đó là cả một sự trống rông kinh khủng, một sự chán chường phát ớn lạnh. (Phải chăng vì cách mạng đương thời bị đế quốc đàn áp dữ dội nên mới có tâm trạng đau đớn ấy). Lời Dũng:
“No nê hết sức rồi. Nhưng nên uống cà phê vì cà phê lâu, mất được nhiều thì giờ hơn”
Muốn chiều cả anh lẫn chị, chúng tôi xin uống cả cà phê lẫn chè tàu. Cà phê trước, chè tàu sau.
Chàng tiếp theo:
Lưỡng cử lưỡng tiện vi, như thế vừa đau dạ dày, vừa đau bụng” (tr.58)
3.  Một chút hình ảnh dân quê đã xúc động lòng Dũng:
... Dũng châm một điếu thuốc lá hút rồi đưa mắt ngắm nghía đám nhà quê thảm đạm, quần áo xơ xác trước gió, đương đứng đợi bên bờ sông. Họ đứng yên không nói, vẻ mặt bình tĩnh, không nghĩ ngợi gì. Chuyến đò mà họ đợi sang, Dũng thấy là hình ảnh của cuộc đời; họ sinh ra, sống thản nhiên trong ít lâu, không hiểu vì cớ gì, rồi lại khuất đi, những người bộ hành một buổi chiều đông, qua bến đò in bóng trong chốc lát trên dòng nước trắng của cuộc đời chảy mãi không ngừng, (tr.68).
Phải chăng chính nếp sống bình thản, vô tri, vô giác đó của người dân quê đã thúc đẩy Dũng sau này gia nhập cách mạng để đem lại cho họ ý nghĩa của cuộc sống?
Một chỗ khác, ký ức Dũng nhớ lại cảnh cha chàng dập đầu một người nhà quê vào tường và tát luôn mấy cái nữa, mặc dầu trán và má người kia đã ướt đẫm máu. Dũng không khó chịu vì cha chàng độc ác đánh người, chàng khó chịu vì những người bị đánh không kháng cự lại, không lấy thế làm nhục. Dũng cho là có lẽ cha chàng không độc ác. Có lẽ vì quen tay thấy dễ tức thì cứ tức, dễ đánh thì cứ đánh.
Phải chăng vì thế mà sau này Dũng chủ trương hòa đồng với dân quê để khích động lòng ham muốn một cuộc đời tốt đẹp hơn ở họ.
(Xem Đoạn Tuyệt, chương IV, phần hai)
C.  Không khí cách mạng trong Đôi Bạn
Phản ánh đúng thời thoái trào của cách mạng vì đã bị đế quốc thẳng tay khủng bố tàn bạo. Không khí cách mạng rã rời, tẻ nhạt, Thái ám sát một ông Phủ không xong bèn tự sát:
“Dũng nghĩ đến Trúc và các bạn khác ở rải rác trong các làng quê, giờ này có lẽ cũng đương như chàng nghĩ đến Thái và ngẫm đến thân phận riêng của mình. Các bạn chàng đối với nhau chỉ mỗi một dây liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngả đường, sống theo một đời riêng, yếu ớt, rời rạc. Thỉnh thoảng lại nghe tin một người trong bạn chết đi hay bị tù tội rồi ai nấy trước số mệnh, chỉ việc cúi đầu, yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt mình’” (tr.101)
IV.  So sánh Đôi Bạn và Đoạn Tuyệt
A. Những điều Đôi Bạn bổ khuyết cho Đoạn Tuyệt
Đôi Bạn, như trên đã nói, ra đời nhờ sự thành công quá rực rỡ của Đoạn tuyệt. Đôi bạn tuy viết sau nhưng thuật lại thuở ban đầu của Dũng Loan ở chốn quê nhà.
1.  Gia đình Loan:
Về Loan, chúng ta được biết nàng là con bà Hai Hằng (ở Đoạn Tuyệt chỉ là Bà Hai). Cha nàng (ông Hai) là bạn học cũ của cha Dũng (ông Tuần). Vườn đất xung quanh nhà, ông Hai vì túng quẫn đã phải bán dần cho ông Tuần, chỉ còn giữ lại hơn một mẫu làm chỗ ở.
2.  Độ:
Ở Đoạn Tuyệt, chương IV, phần Hai, Dũng trên bước đường phiêu lưu có dừng chân tại đồn điền người bạn tên là Độ trong dịp cuối năm.
Cũng ở chương IV, phần Hai, trong Đôi Bạn, lý lịch của Độ được soi sáng thêm chút nữa: Độ là con của bà huyện Thanh Thủy. Bà Huyện là chị ruột của bà Hai.
3.  Trúc:
Ở Đoạn Tuyệt, chương IX, phần Ba, Dũng xuôi thuyền về đồn điền Độ nhưng tới Thanh Thủy thì tối, thuyền phải dừng lại. Trên thuyền có Trúc. Đây là một nhân vật vui vẻ, vô tư, rất đáng yêu. Nhưng phải đợi đọc Đôi Bạn chúng ta mới được rõ thêm: Trúc không còn người thân thích, là bạn học của Dũng, đã từng nhảy qua hàng rào nhà trường bãi khóa, rồi về trông nom ấp Quỳnh Nê cho Dũng.
B. Những điểm bất nhất giữa Đôi Bạn và Đoạn Tuyệt
1. Loan:
Ở Đoạn Tuyệt, Loan là một cô gái mới. Không e dè sợ sệt, chủ quan, cứng cỏi, kiêu căng, lý sự đến cùng. Ở Đôi Bạn, nàng quá ư thùy mị, đôi khi như thiếu tự trọng:
“Bên ông Tuần có mở tiệc thọ mừng cụ Bang, bà nội Dũng, Loan sang làm giúp từ sáng sớm; nàng cũng rối rít vui vẻ vì công việc nhà Dũng, nàng coi không khác gì công việc nhà mình”.
Có lẽ chúng ta phải viện cớ vì sự sai biệt tuổi tác giữa hai cô Loan. Loan trong Đôi Bạn mới mười bảy, Loan ở Đoạn Tuyệt đã tới tuổi trưởng thành. Nhưng nếu Loan trong Đôi Bạn mới mười bảy tuổi thì chúng ta phải nêu lên điểm này: nhiều chỗ đối thoại giữa Loan và Dũng ta thấy Loan già dặn quá. Tỉ như đoạn nàng và Dũng triết lý về bắt đom đóm:
“Dũng nhìn lên mặt trăng cao mà tròn, khuất sau lá cây. Ở thành phố nên Dũng thấy mặt trăng có vẻ buồn bã, hình như đương nhớ những quãng rộng rãi ở các vùng quê xa xôi, nhớ những con đường vắng gió thổi cát bay lên trăng mờ mờ như làn sương, nhớ những con đom đóm bay qua ao bèo, lúc tắt lúc sáng như những ngôi sao lạc biết thổn thức... Chàng dịu dàng nói với Loan:
- Thế mà mới độ nào, cô còn nhớ không, những đêm trăng sáng, chúng mình còn ngồi ở sân đợi có đom đóm bay qua rồi đứng lên reo: đom đóm xuống đây ăn cơm với cá.
Loan nói:
-  Hình như nó biết chúng mình đánh lừa hay sao nên nó lại càng bay cao già. Lạ thật, đến khi nhớn thì mình không biết là có đom đóm nữa. Tại mình không để ý.
Dũng nói:
-  Mình lại để ý đến những cái khác, đi tìm những con đom đóm khác và cùng đánh lừa cho nó xuống.
Loan mỉm cười:
-  Mà nó lại càng bay cao”.
(Phần Hai, chương IV, tr.118-119).
Ở Đoạn Tuyệt, Loan rõ ràng là một nữ sinh theo học chốn ngàn năm văn vật. Nhưng ở Đôi Bạn, Loan chỉ là một nữ sinh tỉnh nhỏ, nàng ra thăm Hà Nội lần đầu cùng với mẹ và Dũng; chính Dũng đưa Loan đi xem các phố.
(Phần Hai, chương IV, tr.112).
2.  Ông Bà Hai:
Ông Hai ở Đôi Bạn là một nhà Nho lỡ vận, phải chật vật để mưu lấy cuộc sống thừa ấy. Ông Hai đã phải lên Hà Giang dạy học ở nhà một người bạn học cũ làm bố chánh; ông đi có lẽ vài ba năm mới về, có Quýnh đi theo để hầu hạ. Quýnh là người anh cùng bố khác mẹ với Loan. Bà Hai thì vẫn quanh quẩn ở quê nhà với cuộc sống túng thiếu. Sang Đoạn Tuyệt, chúng ta chứng kiến một hoàn cảnh khác hẳn. Ông Bà Hai có cửa hàng bán chiếu ở Phố Mới. Việc vay của bà Phán Lợi ba ngàn đồng chưa đủ chút nào để giải thích sự thay đổi hoàn cảnh đó. Còn nhân vật Quýnh ở Đôi Bạn tuyệt nhiên không được tác giả nói đến một dòng trong Đoạn Tuyệt.
3.  Mối tình của Dũng đối với Loan:
Ở Đoạn Tuyệt, chương II, phần Một, Nhất Linh viết: “Dũng bùi ngùi nhớ lại, những ngày mới gặp Loan, mới quen Loan, nghĩ tới cái tình yêu Loan kín đáo lúc buổi đầu, nỗi thất vọng khi biết Loan đã là vợ chưa cưới của người khác... ” (tr.19).
Nếu đem đối chiếu với Đôi Bạn, tình yêu của Dũng Loan đâu chỉ đơn giản như vậy. Mối tình đó tuy kín đáo nhưng cũng thắm thiết lắm, lâu bền lắm, cũ kỹ lắm. (Loan, Dũng ở cùng quê, lại cùng xóm với nhau).
Cần thêm một nhận xét này nữa, ở Đoạn Tuyệt, Dũng khi ẩn khi hiện, vừa yêu Loan vừa hoạt động cách mạng thật sự, thành thử tâm hồn Dũng vừa trữ tình vừa hào hùng (như Phạm Thái). Ở Đôi Bạn, Dũng chẳng còn gì là huyền bí. Dây tâm linh quá tế nhị của Dũng ở mọi chương khiến độc giả nhiều khi tự hỏi: con người ủy mị như vậy làm sao ra đi làm cách mạng nổi?
Tổng kết về Đôi bạn
-  Đứng về phương diện văn chương, Đôi Bạn thành công rực rỡ ở nhận xét tâm lý tinh vi, tả cảnh vô cùng gợi cảm, lời văn trang nhã sáng sủa đẹp như thơ (nếu xét riêng từng đoạn).
-  Xét về động tác, thì động tác ở Đôi Bạn hết sức ngưng trệ, từ đầu đến cuối chỉ là những sự kiện được nêu lên để tác giả được dịp tả tình, tả cảnh bang ngòi bút lọc lõi. Vì vậy càng về sau người đọc càng có cảm tưởng được mời dự một bữa tiệc mà chủ nhân bắt phải ăn đến thừa mứa (dù là thức ăn ngon).
-  Thoạt viết Đoạn Tuyệt trước, ngòi bút Nhất Linh phóng khoáng như múa gươm trên khoảng đất rộng không người, không đồ đạc. Lẽ ra khi viết Đôi Bạn sau này ông phải đọc lại Đoạn Tuyệt mà nép mình trong cái khung cố định do chính ông đặt ra nó, để tránh những điều bất nhất đáng tiếc như trên.
LẠNH LÙNG
Để việc nghiên cứu Đoạn Tuyệt cho thuật hoàn hảo tưởng chúng ta cũng nên xét qua tác phẩm Lạnh Lùng đôi chút.
Lạnh Lùng bắt đầu đăng từ Ngày Nay số 16 ngày 12 tháng 7 năm 1936 đến số 38 ngày 13 tháng 12 năm 1936. In xong thành sách vào tháng Giêng năm 1937. Tác phẩm này xuất hiện sau Đoạn Tuyệt và trước Đôi Bạn.
Tóm tắt câu truyện như sau:
“Nhung một góa phụ trẻ tuổi, con một ông Nghè và con dâu một bà Án. Nàng yêu người giáo sư tên Nghĩa. Tuy vậy nhờ sự khéo giấu diếm, nàng vẫn được mọi người quý trọng. Và ngay trong những lúc say mê nhất nàng cũng vẫn giả dối được. Sau cùng chính bà Án biết sự giả dối ấy cũng đành lờ đi như không biết, để mặc nàng tháng tháng nhân danh đi thu họ mà gặp gỡ Nghĩa ở trên tỉnh’”.
Đây là tất cả cuộc sống ngột ngạt của một sương phụ còn trẻ tuổi vẫn còn yêu và được yêu mà bị dư luận gia đình, dư luận xã hội dồn vào chỗ thành một con người tiết hạnh bất đắc dĩ.
Nếu so sánh Đoạn Tuyệt với Lạnh Lùng, chúng ta thấy ngay những điểm hoàn toàn trái ngược nhau.
- Loan trong Đoạn Tuyệt theo mới đến cùng. Nhung trong Lạnh Lùng nhu mì nép vào khuôn khổ cái cũ.
- Bà mẹ chồng, chị em nhà chồng trong Đoạn Tuyệt là những hung thần (vì vậy Loan đoạn tuyệt với cái cũ), ở Lạnh Lùng không khí khác hẳn: mọi người nhà chồng đều quý mến Nhung, coi Nhung như bông hoa quý trang điểm cho đạo đức gia đình (vì vậy Nhung không thoát ly nổi, đành sống giả dối).
Tuy có những điểm hoàn toàn đối lập nhau nhưng cả hai tác phẩm kể trên đều vụ chung một mục đích: đánh những đòn chí tử vào quan niệm cũ.
Hoặc tích cực tranh đấu như Loan để thoát ly hoặc nép mình vào khuôn khổ đấy nhưng tiêu cực, hành động phản đối bằng cách lén đi vụng trộm ái ân, đằng nào thì những quan niệm cũ cũng bị sụp đổ.
Thâm ý của Nhất Linh chính là vậy.
Chú thích:
[18] Những đoạn trích trong bài này căn cứ vào quyển Đôi Bạn do Văn học Hương Anh xuất bản tại Ba Lê - 1951.
 [19] Cả nửa bài “Giây phút tranh lòng” (cảm đề truyện Đoạn Tuyệt) của Thế Lữ là nói đến giây phút trên đây của Dũng:
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan, Trong lúc gần xa pháo nổ ran, Rũ áo phong sương trên gác trọ, Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Ta thấy xuân nồng khắp mọi nơi, Bên đường rộn rã tiếng đùa cười, Động lòng nhớ bạn xuân năm nọ, Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
Như cánh đồng xuân nhuốm nắng chiều, Mắt lệ đắm trong miền cách biệt, Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu.
Cát bụi tung trời - Đường vất vả, Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân, Tưởng người trong chốn xa xăm ấy, Chẳng biết vui buồn đón gió xuân.
Doãn Quốc Sỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXPhiên bản 2

Phiên bản 2 CHƯƠNG 15 Khi anh trở về làm cảnh sát khu vực phường Đường Tàu thì em đã thành một con lưu manh thực thụ rồi. Sau vụ đốt chợ...