Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Tự Lực Văn Đoàn 2

Tự Lực Văn Đoàn 2

VII- HOÀNG ĐẠO (1907 - 1948)
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Tường Long
Đạo hiệu: Phúc Vân
Các bút hiệu khác: Tứ Ly, Tường Minh, v.v...
Nguyên quán làng Cẩm Phô, nay thuộc xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ông nội làm tri huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (Bắc phần) và khi về hưu đã lưu cư tại đây, ông thân sinh là một nhà Nho không thành đạt và mất sớm, bà thân mẫu tần tảo buôn bán nuôi bảy người con, sáu trai một gái. Đến khi tất cả đều trưởng thành, bà cụ đi tu Đạo Phật, hiện trụ trì tại một ngôi chùa kế cận Sài Gòn.
Trong bảy anh chị em, ông là người thứ tư: 1) Nguyễn Tường Thụy, 2) Nguyễn Tường Cẩm, 3) Nguyễn Tường Tam tức Nhất Linh, 4) Nguyễn Tường Long, 5) Nguyễn Thị Thế, 6) Nguyễn Tường Lân tức Thạch Lam, 7) Nguyễn Tường Bách.
Ông sinh tại làng Hàn Giang, huyện lỵ huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (trên đường xe lửa Hà Nội - Hải Dương) ngày 11 tháng 10 năm Đinh Mùi tức ngày 16 tháng 11 năm 1907. Thuở nhỏ học ở trường huyện, ông tên là Nguyễn Tường Tư nhưng sau không đủ tuổi để đi thi nên gia đình khai tăng lên bốn tuổi, đổi tên là Nguyễn Tường Long và đổi ngày sinh là 3 tháng 4 năm 1903. Qua bậc tiểu học ông bị ốm nên tự học ở nhà. Năm 1924 thi đậu bằng Cao đẳng Tiểu học Pháp và liền đó đậu vào trường Luật Đông Dương tại Hà Nội. Tốt nghiệp năm 1927 ông vào làm Tham tá ngân khố Hà Nội. Tiếp tục học thêm, ông đậu Tú tài Pháp và chuyển sang ngạch Tư pháp, làm Tham tá lục sự năm 1929. Với chức vụ này, ông đã ngồi ghế lục sự khắp các tòa “Tây án” và vì thế đã có dịp sống ở khắp các tỉnh và thành phố từ Nam chí Bắc. Trong khi ở ngạch Tư pháp, đã có lần Chánh phủ Pháp bổ ông sang ngạch quan lại và bổ nhiệm tri huyện nhưng ông nhất thiết từ chối hành động mua chuộc này. Sau hơn mười năm ở ngạch Tư pháp, ông từ chức để chuyên tâm vào các hoạt động văn hóa và cách mạng.
Lập gia đình năm 1933, ông được bốn người con, ba gái một trai. Ông mất ngày 16 tháng 6 năm Mậu Tý tức 23 tháng 7 năm 1948 trên chuyến xe lửa từ Hương Cảng về Quảng Châu, thi hài được đưa xuống an táng tại trấn Thạch Long. Thời gian này, ông lưu trú trên đất Trung Hoa sau khi lực lượng quan sự của hàng ngũ cách mạng dân tộc bị Việt Minh cộng sản tiêu diệt trong cuộc nội chiến kéo dài suốt từ 1945 sang đến cuối năm 1946.
Sự nghiệp văn hóa
Năm 1932, sau khi đã hoàn toàn dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng, thống trị Pháp mở một cuộc thuyên chuyển lớn trong hàng ngũ viên chức bổn xứ, nhắm giai đoạn liên lạc giữa những người trí thức Việt Nam yêu nước. Nhưng đối với Nguyễn Tường Long việc đổi từ Sài Gòn ra Hà Nội lại là một dịp may để ông cùng với anh em hoạt động. Nghiên cứu những kinh nghiệm mang lại do cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học và tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, ông cùng anh ruột là Nguyễn Tường Tam và một người bạn là ông Trần Khánh Giư tức Khái Hưng tự vạch ra một con đường chiến đấu trường kỳ đi tới giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Đó là con đường huấn luyện quần chúng bằng báo chí. Năm 1933 bộ ba này nhận lại một tờ báo đang sắp chết là tờ Phong Hóa của một người bạn là Phạm Hữu Ninh. Bằng một kỹ thuật học được của báo chí tiến bộ châu Âu, bằng một lối hành văn mới và nhất là bằng giọng hài hước, họ đã làm cho tờ Phong Hóa sống lại và truyền bá rất mau. Chủ trương của bộ ba này lúc đầu là dùng nghệ thuật, văn chương để thu hút quần chúng, dùng cái cười làm khí giới để chen vào cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng “theo mới” và “tồn cổ” mà họ đứng hẳn vào khuynh hướng triệt để theo mới. Khi đã thu hút được quần chúng rồi, họ bắt đầu chuyển sang việc truyền bá những tư tưởng cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội, nhịp theo trào lưu tiến hóa của thế giới. Thanh thế của tờ báo càng lớn thì những người có tâm huyết có tài năng tìm đến hợp tác mỗi ngày một đông, và nổi bật nhất là Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ tức Nguyễn Thế Lữ.
Trong báo Phong Hóa, Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu là Tứ Ly. Sở dĩ ông chọn bút hiệu này là vì muốn đả phá thói mê tín bốc phệ, ông đã chọn giờ xấu nhất trong ngày là giớ Tứ Ly là tên hiệu. Thời kỳ này Tứ Ly rất ít khi viết những bài nghị luận chính trị, kinh tế hoặc xã hội mà chỉ chuyên về mặt đả kích. Bằng một lối văn hài hước, khi thì nhẹ nhàng thâm thuý kiểu nhà Nho, khi thì sâu cay độc địa kiểu những cây bút đả kích Tây phương, Tứ Ly đả kích tất cả những người và những việc mà ông cho là tiêu cực, là hủ bại, là cản đường tiến của xã hội. Bất cứ một chuyện nhỏ hay chuyện lớn ảnh hưởng quan trọng hay thoảng qua, tất cả đều có thể là những đầu đề cho Tứ Ly đả kích để đưa chủ trương “theo mới” những tư tưởng tiến bộ của mình ra: một vụ kiện tranh ngôi thứ, một biện pháp hành chính mới của thống trị Pháp, một thay đổi chức vụ trong Triều đình Huế, một viên quan bị tố cáo ăn hối lộ, một câu văn viết không rõ ý của một tờ báo khác, một tư tưởng nhai lại, thậm chí một nét mặt, một kiểu phục sức như cái mũi đỏ của Tản Đả Nguyễn Khắc Hiếu, cái búi tóc củ hành của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố... tất cả đều bị Tứ Ly đưa lên mặt báo, mổ xẻ để đả kích bằng cả lý luận lẫn giọng cười.
Báo Phong Hóa càng ngày có ảnh hưởng càng lớn. Mật thám Pháp dò biết Tứ Ly là linh hồn của cơ quan này nên đã ra lịnh đổi viên Tham tá lục sự Nguyễn Tường Long từ Hà Nội vào Đà Nằng nhằm tách rời ông khỏi bộ tham mưu. Nhưng trở lại miền Trung là Tứ Ly lại có thêm một dịp để đả kích chế độ cai trị cực kỳ khắc nghiệt của thực dân với những tay sai đắc lực của chúng trong hàng ngũ quan lại Nam triều. Vì thế, thực dân Pháp không còn cách nào khác là hạ lệnh đóng cửa tuần báo Phong Hóa. Lúc đó vào năm 1937.
Nhưng báo Phong Hóa chết, nhóm của ông đã có sằn nhà xuất bản Đời Nay để làm cầu liên lạc với người đọc qua những tác phẩm văn nghệ đã đăng trong báo đó. Thời kỳ này, Tứ Ly không có một văn phẩm nào để xuất bản. Ít lâu sau người anh thứ hai của ông là Nguyễn Tường Cẩm xin được ra một tờ báo khác là tuần báo Ngày Nay. Trong 18 số đầu, tờ Ngày Nay chuyên về hình ảnh và phóng sự với mục đích là tránh sự rình rập của thực dân Pháp. Từ số 19, tờ Ngày Nay bắt đầu đổi thể tài, chuyên về văn nghệ và Tứ Ly đổi là Hoàng Đạo để thỉnh thoảng viết một vài bài đả kích nhẹ nhàng. Ngược lại với bút hiệu chọn lần trước, với tờ Ngày Nay, Nguyễn Tường Long lấy giờ Hoàng Đạo là giờ tốt nhất trong ngày để thay cho tên Tứ Ly. Chính trong thời gian bắt đầu xây dựng tờ Ngày Nay, tác giả đã ghi chép một số những vụ xử án điển hình tại Tòa tiểu hình Hà Nội trong khi ông ngồi ghế Lục sự tại tòa này và đăng trong mục “TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA”. Dụng ý của ông khi viết mục này là vẽ lại cảnh sống cơ cực, trình độ thấp kém của người dân Việt Nam dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp qua sự xét định của tòa án Pháp, theo luật lệ của Pháp, thứ luật lệ mà người Pháp vẫn tự hào là nhất thế giới.
Qua nhiều lần thay đổi thể tài, phần văn nghệ dần dần được giới hạn và đưa từ trang đầu vào trang giữa rồi chuyển về những trang cuối của tờ báo, phần nghị luận chính trị kinh tế xã hội được tăng cường tùy theo tình hình chính trị và sự canh chừng của thực dân lúc đó. Cây bút nghị luận Hoàng Đạo càng ngày viết càng nhiều và không ngừng đưa ra những tư tưởng tiến bộ, giới thiệu những khuynh hướng chính trị và cách mạng trên thế giới, khảo cứu thực trạng của xã hội Việt Nam để dẫn dắt người đọc đi tới con đường cách mạng. Ông đã viết từng loạt bài nối tiếp, từ “Mười Điều Tâm Niệm” mà ông coi như kim chỉ nam cho thanh niên thời ấy..., đến Công dân Giáo dục để giới thiệu các chế độ chính trị, khuynh hướng dân chủ ở nước ngoài, cùng các chủ nghĩa chính trị, các đảng phái, từ chủ nghĩa Vô chính phủ đến chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản. Các vấn đề trong nước được ông khảo xét một cách minh bạch, từ đời sống nông dân sau lũy tre xanh đến những cảnh vật lộn cực khổ của lao động thợ thuyền ở thành thị, với những loạt bài “Bùn lầy nước đọng” và “Vấn đề cần lao”. Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp, ông đã có hoàn cảnh lên án cực kỳ nghiêm khắc chủ nghĩa thực dân xâm chiếm thuộc địa với loạt bài khảo cứu nhan đề: “Thuộc địa Ký ước”.
Trong báo Ngày Nay, ông cũng có viết một chuyện dài nhan đề Con Đường Sáng và một số truyện ngắn, nhưng ông chưa tìm ra được một lối viết truyện thích hợp. Sau này ông có để riêng một thời gian để nghiên cứu kỹ thuật về tiểu thuyết và ông đã xây dựng một số tác phẩm lớn nhưng đều phải bỏ dở vì những hoạt động cách mạng.
Có thể nói rằng, sự nghiệp văn chương của Hoàng Đạo ngừng lại cùng lúc với tuần báo Ngày Nay bị đóng cửa năm 1940, sau khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Và từ đó ông chuyên về những hoạt động cách mạng. Cuối năm 1940, vì tổ chức Đảng Đại Việt Dân Chính chủ trương xây dựng lực lượng lợi dụng các biến cố quốc tế để đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ triều đình Huế, xây dựng một nước Việt Nam Độc lập và Dân chủ mà ông cùng các đồng chí bị Pháp bắt giam và đưa đi đày tại trại an trí Vụ Bản thuộc châu Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Năm 1943 thực dân Pháp giải ông về quản thúc tại Hà Nội. Tháng 6 năm 1946, sau khi lực lượng cách mạng dân tộc bị kiệt quệ trong cuộc nội chiến chống Việt Minh Cộng sản, ông cùng các chiến sĩ Quốc Dân Quân rút sang Trung Quốc. Trú ở Côn Minh rồi sang Quảng Châu, ông bị bệnh đau tim và mất tại đó.
(Bản của Nhà xuất bản Tự Do).
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
(Những đoạn trích căn cứ vào bản của Nhà xuất bản Tự Do - 1958)
1.  Điều tâm niệm thứ nhất
Theo mới
Hoàn toàn mới, không chút do dự
A. Sơ lược nội dung:
Thoạt tác giả ghi nhận sự sực tỉnh của người dân Việt, sực tỉnh một giấc ngủ cổ hủ tự ngàn năm. Tỉnh giấc như vậy là điều đáng mừng. Trước khi đề cập đến nội dung và phương pháp của vấn đề theo mới, tác giả thoạt cực lực đả kích thái độ bảo thủ cũng như thái độ trung dung:
-  Phải bảo thủ muốn duy trì nếp sống cũ giản dị, chất phác, nên thơ: trai đọc sách ngâm thơ, gái ra vào canh cửi. Nhưng trong cuộc đời cũ bề ngoài nên thơ đó ngấm ngầm biết bao đau khổ. Nào trong gia đình thì cảnh khổ làm dâu, làm con, nào ngoài xã hội thì cảnh khổ của lũ người cùng đinh khố rách áo ôm chịu đủ thứ thiệt thòi.
-  Phái trung dung muốn dung hòa cũ mới. Nhưng phái này tất nhiên thất bại vì không thể dung hòa được:
“Hai cái văn hóa như hai dòng nước chảy trên một trái núi xuống, nhưng một dòng chảy về phía Đông, một dòng chảy về phía Tây, không sao hợp lại làm một được” (tr.20).
Sau khi đả kích hai phái thủ cựu và trung dung, tác giả đưa đến quyết định: phải theo mới, theo một cách quả quyết.
Theo mới đây là Âu hóa. Cứ cho du nhập văn hóa Âu Mỹ vào đất nước, rồi người dân Việt sẽ biết cách dung hòa mà chọn lấy những cái thích hợp hoặc bỏ những cái không thích hợp.
Mỗi hành động của ta phải là hành động của người có óc tân tiến. Sau khi hành động phải tự kiểm thảo ngay xem tư tưởng của ta có còn rớt cặn bã của óc thủ cựu hay không để liệu mà khu trừ ngay.
Ngoài ra ta còn phải luôn luôn nỗ lực giảng giải, dẫn dụ cho người xung quanh ta cùng theo mới.
Và sau hết tác giả kết luận, giọng nhiệt thành, đanh thép: “Nào những ai thành thực muốn cho nước ta, dân ta sống một đời sống... đứng cả dậy”.
B. Phê bình
Chúng ta đồng ý với Hoàng Đạo ở điểm ông đả kích những cổ hủ của phái cũ. Và cũng chỉ riêng những cổ hủ của phái cũ thôi, bởi có phải đâu tất cả cái cũ đều dở.
Chúng ta cũng đồng ý với Hoàng Đạo ở điểm ông đả kích thái độ lưỡng lự, rụt rè của phái trung dung. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên lầm nội dung của thuyết trung dung với thái độ rụt rè của những người theo thuyết trung dung.
Nếu trung dung là “tùy cảnh tùy thời mà xử sự, mỗi lúc một khác nhưng bao giờ cũng hợp với thiên lý, hợp với lẽ phải, không thái quá mà cũng không bất cập”, thì sao chúng ta có thể chê được?
Sau khi hô hào là phải hoàn toàn theo mới và theo mới không chút do dự, tác giả viết:
“Văn hóa Âu Mỹ đem sang trồng ở đất ta tự nhiên sẽ biến những điều hợp với tinh thần An Nam sẽ còn và nảy nở ra, những điều không thích hợp sẽ tự nhiên bị đào thải. Không nên lo, ta sẽ hóa ra người Pháp nửa mùa, nói tiếng Pháp lai căng. Dân tộc ta hàng ngàn năm bị văn hóa Tàu đàn áp mà vẫn giữ được tính cách riêng không đến nỗi hóa ra người Tàu cả. Vậy bây giờ ta đem văn hóa Tây áp dụng vào cuộc đời, mũi ta không đến nỗi lõ và ta không đến nỗi mất tinh thần riêng của ta”. (tr.22)
Cái gì đã khiến dân tộc ta hàng ngàn năm bị văn hóa Tàu đàn áp mà không bị “Tàu hóa”, cái gì khiến tác giả tin tưởng rằng văn hóa Âu Mỹ đem trồng xứ ta sẽ biến tính đi cho thích hợp? Phải chăng đó chính là năng lực đồng hóa làm nên cá tính của dân tộc nhà.
Giữ được cá tính dân tộc phải chăng là giữ được căn bản tinh hoa cái cũ?
Thu nhận văn hóa ngoại lai mà vẫn không bị ngoại lai đồng hóa, phải chăng vì chúng ta đã khéo biết giữ tinh hoa của cái cũ, làm chiếc đũa thần đồng hóa những cái mới? Và như vậy há chẳng là một hình thức của dung hòa?
2.  Điều tâm niệm thứ hai
Tin ở sự tiến bộ
Một ngày có thể một hơn
A. Sơ lược nội dung
Có tin ở sự tiến bộ, ta mới có thể lo hành động để đi tới sự tiến bộ được. Tin ở sự tiến bộ của người về phương diện luân lý cũng như về phương diện tinh thần và vật chất.
Tin ở sự tiến bộ của người vì người có lương tri:
“Ta cần phải tin rằng hết thảy mọi đẳng cấp trong xã hội không khác nhau vê lương tri, vê tinh thần, chỉ khác nhau về học thức. Từ người phu xe cho chí ông tiến sĩ, ai ai cũng vậy, đêu có thê thay đôi một ngày một hơn” (tr.29)
về mặt luân lý, tác giả tin rằng luân lý hiện giờ nhân đạo hơn nền luân lý xưa nhiều lắm, mà rồi về sau đây quan niệm của ta về phương diện ấy chắc chắn là sẽ hợp với nhân đạo hơn quan niệm của ta hiện giờ.
về mặt tinh thần và vật chất, tác giả nói điều cốt yếu là ta phải tin ở sự tiến bộ của khoa học. Theo ý tác giả, đời sống khoa học có nghĩa là đời sống cương cường, tác giả viết:
“Đời ta đương sống hiện thời là một đời khoa học: có cương cường mới sinh tồn được, còn nhu nhược ắt phải lần hôi đào thải” (tr.28).
 Phê bình
Xưa Mạnh Tử tin ở tính thiện của con người, ở đây Hoàng Đạo tin ở sự tiến bộ tất nhiên của con người. Tự huấn luyện cho có lòng tin ở đó, cố thực hiện lòng tin đó để nhân loại cùng tiến bước trên con đường văn minh, còn gì đáng quý cho bằng?
Điều tâm niệm thứ nhất hô hào theo mới, điều thứ hai tin ở sự tiến bộ, hai điều một và hai như bổ khuyết cho nhau ở cùng một quan niệm: tin ở văn minh khoa học hiếu động của Tây phương, đả kích văn minh chủ tĩnh của Đông phương:
“Văn hóa Tây phương hiếu động, cốt ở chỗ luôn luôn thay đôi, không lúc nào ngừng, còn văn hóa Viễn Đông cũ chủ tĩnh, luôn đứng dừng lại ở một nơi”.
(Điều tâm niệm thứ nhất - tr.21)
“Vê mặt tinh thần và vật chất, điêu cốt yếu là ta tin ở sự tiến bộ của khoa học. Đời ta đương sống hiện thời là đời khoa học”.
(Điều tâm niệm thứ hai - tr.28).
Hai điều tâm niệm thứ nhất và thứ hai này hợp với điều tâm niệm thứ bảy (Luyện lấy bộ óc khoa học) và điều tâm niệm thứ mười (Cần có trí xếp đặt) thành một “bộ bốn” để ca ngợi khoa học như một chiếc đũa vạn năng đã và đương xây dựng văn minh, hạnh phúc cho những dân tộc nào biết đến nó.
Hô hào cổ động đem ánh sáng khoa học đến đả phá những lề lối làm việc luộm thuộm lạc hậu, những mê tín dị đoan hủ lậu là điều khẩn cấp hợp lý của Hoàng Đạo vào thời ấy. Tuy nhiên dầu sao chúng ta ngày nay cũng phải nhìn vào vấn đều cho thấu triệt và ghi thêm rằng: khoa học không phải là vạn năng, khoa học không thể giải quyết được những vấn đề con người. Einstein đã ưu tư khổ não bao nhiêu sau khi hai trái bom nguyên tử đầu tiên hủy diệt ngót một triệu sinh mạng ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Ông há chẳng đã tuyên bố: kiếp sau thà đi bán bánh mì kiếm ăn còn hơn làm nhà bác học.
Câu nói cửa miệng của người Tây phương: “Khoa học không lương tâm chỉ là bại hoại của tâm hồn” (Science sans conscience n’est que ruine de l’âme). Nhà bác học vừa ra khỏi phòng thí nghiệm với bộ mặt chiến thắng thì liền bị ám ảnh bởi những hậu quả vô kể mà sự phát minh của ông có thể mang lại hạnh phúc hay đau thương cho nhân loại.
Hẳn cũng là thông cảm điều trên mà ông Phạm Thế Ngũ có đoạn viết về Hoàng Đạo như sau:
“Bởi vì con người khao khát tuyệt đối lại sống trong cõi thế đầy sự bất toàn này có quyền nhìn lên một lý tưởng toàn thiện toàn chân, thể hiện ở một tôn giáo để tìm một hướng đi cao siêu cho cuộc đời, một niềm an ủi tuyệt vời cho những nỗi đau khổ. Sự tín ngưỡng ấy không có chi là phản khoa học, trái lại được rất nhiều nhà khoa học chia theo. Mà chẳng nói ở phạm vi cá nhân về phương diện lý tưởng, nói ngay ra xã hội về phương diện thực tiễn nếu những mê tín nhảm nhí là có hại thì lòng tin vào một đấng chí công vô tư thưởng thiện phạt ác không phải là vô ích cho tinh thần đạo đức của dân chúng, cho phong hóa, cho trật tự xã hội. Ở đại hạt này, chúng ta không dám nói là Hoàng Đạo chủ trương vô thần, nhưng lời lẽ cực đoan của ông khiến người ta có thể hiểu rằng ông đã loại bỏ tôn giáo, đã không công nhận cho tôn giáo một lợi ích gì trong đời sống cá nhân hay xã hội”.
(Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú tài, quyển III Quốc học Tùng Thư - trang 273).
Điều tâm niệm thứ ba
Sống theo một lý tưởng
Sơ lược nội dung
Tác giả đả kích nếp sống các cụ đồ Nho xưa quá nô lệ cho những tư tưởng trong Tứ thư - Ngũ kinh:
“Các cụ Nho ta ngày xưa: hết đời này sang đời khác cứ bình tĩnh lần theo đường ấy, như con ngựa thấy cương cứ thẳng lối mà đi không lệch sang lối khác” (tr.31)
Rồi tiếng súng thần công của Tây phương đến phá đổ tòa lâu đài kiên cố của các nhà Nho, và các bạn trẻ sống vào buổi giao thời bị giằng co giữa hai lực lượng văn hóa cũ và mới:
“Giáo dục ở nhà trường đưa họ đi một nơi, giáo dục trong gia đình kéo họ về một nẻo, bao nhiêu nỗi băn khoăn, đau khổ đều vì sự tương phản ấy mà ra” (tr.33).
Trong tình trạng đó một số thanh niên không đủ can đảm chịu đựng được lòng băn khoăn bèn tìm quên lãng trong hoan lạc vật chất; một số khác không đủ can đảm tìm tòi nghĩa lý đời người cho đến cùng; chung cục cũng đành theo hoàn cảnh mà sống một đời vô vị.
Sau khi nhận định hai hạng người trên tác giả viết:
“Thanh niên ta không thể sống mãi như vậy được. Ta muốn đời ta có nghĩa lý, muốn cho dân ta một ngày một mới, một ngày một hơn, ta phải tìm một lý tưởng mà theo” (tr.33).
Đời có giá trị là đời có lý tưởng. Lý tưởng phải dựa vào những năng lực những tính chất cao quý của loài người. Có lý tưởng ta sẽ vui mà sống, tự hào mà sống.
Điều tâm niệm thứ tư
Làm việc xã hội
Sơ lược nội dung
Thời xưa, dưới trình độ nhà Nho, trí óc bo bo nhỏ hẹp trong gia đình, tầm mắt không vượt lũy tre xanh. Song thời đại văn minh cá nhân cần được giải phóng khỏi chế độ chật hẹp đó để gia nhập vào đoàn thể xã hội, đem hết tài trí ra làm việc cho xã hội, nâng đỡ những người yếu hèn khổ sở.
Phải đoàn kết để lập nên một sức mạnh mà bênh vực giúp nhau cùng tiến. Lập hội học để mở mang trí thức; lập hội thể dục để gây tinh thần bằng hữu, vừa để luyện tập cho than thể cường tráng; lập hội cứu tế để giúp đỡ những người khác, nuôi lấy một tinh thần nghĩa hiệp.
Điều tâm niệm thứ năm
Luyện tính khí
A. Sơ lược nội dung
Luyện trí não để mình thành người có học thức. Nhưng có học mà không có hạnh thì cái học đó cũng chẳng ích lợi gì hoặc có học nhưng đem áp dụng tài mình vào những dịp lừa bịp, bợ đỡ thì lại càng tệ hại hơn nữa.
Luyện tính khí để mình trở thành con người cương cường quả quyết, những khuynh hướng xả kỷ, nhân ái đè bẹp những khuynh hướng vị kỷ, đê hèn; luyện cho mình và cho người xung quanh mình có được tâm hồn cao thượng.
Luyện tính khí để can đảm chủ động, giữ gìn nhân phẩm chứ không nhẫn nhục ủy mị, hèn yếu: cương phải thắng nhu.
Luyện cho thân thể cường tráng để linh hồn minh mẫn, không sợ, không ninh, không ghét, vui vẻ và quyết đoán, luyện được tính khí như vậy là giữ được giá trị của con người.
B. Phê bình
Chủ trương của Hoàng Đạo ở đây là “cương” nhất định phải thắng “nhu” cũng nhiễm tính cực đoan, một chiều. Gandhi chủ trương bất bạo động đã được cả thế giới tôn sùng là bậc thánh, Krishna Chaitanya, một bậc thánh khác khuyên: “Hãy biết tự hạ hơn ngọn cỏ tầm thường, kiên nhẫn hơn một khúc gô, không đòi hỏi ai kính trọng mình mà mình thì kính trọng hết thảy chúng sinh”.
Phải có một sức mạnh tinh thần phi thường mới thực hiện được cái dũng dưới hình thức nhân nhục đó của thánh nhân.
Điều tâm niệm thứ sáu
Phụ nữ ra ngoài xã hội
Sơ lược nội dung
Ở đây tác giả tán thưởng vẻ kiều diễn của cô gái tân thời nhưng tác giả nhấn mạnh răng như vậy chưa đủ. Phụ nữ Au Mỹ họ đòi bình đẳng không những về quyền lợi mà còn về nghĩa vụ nữa, họ có mặt trong hầu hết các nghề nghiệp: cảnh sát, thượng thư, dân biểu, lãnh sự... Tác giả hô hào chị em phụ nữ nước nhà “cần phải mạnh bạo hơn nữa gom tài, gom sức để lập hội học, hội thể dục, hội cứu tế, đoàn hướng đạo... và những công cuộc khác bọn nam giới đương theo đuôi” (tr.51).
Như vậy xã hội sẽ được hưởng thêm những tấm lòng từ thiện xả kỷ bấy lâu ẩn núp trong gia đình.
Điều tâm niệm thứ bảy
Luyện lấy bộ óc khoa học
A. Sơ lược nội dung
Trong bài này tác giả cực lực đả kích óc mê tín dị đoan xưa và hô hào thanh niên phải luyện lấy bộ óc khoa học, tin ở sự mầu nhiệm của khoa học:
“vẫn hay khoa học hiện giờ không phải có phân giải được hết thiên tướng. Nhiều điều huyền bí vẫn còn nguyên là huyền bí. Nhiều luật thiên nhiên vẫn còn trong vòng mờ ám, chưa phát minh ra được. Song những người có óc khoa học đều tin rằng những điều còn huyền bí kia sẽ có ngày phán giải được, vì những điều ấy là sự phát dương của một luật thiên nhiên chưa minh hiển...” (tr.55).
Tác giả hô hào chúng ta chỉ nên tín phục chân lý của khoa học, chỉ nên tin là thật những điều mà khoa học đã chứng minh là thật.
Sau khi nêu những tỉ dụ tức cười về mê tín dị đoan, tác giả kết luận bằng lời hô hào khích lệ:
“Vậy bổn phận của thanh niên ta, không những là luyện lấy bộ óc khoa học mà còn phải luyện trí thức người khác cho trở nên có tính cách khoa học nữa.
Ta phải luôn nhớ rằng thiếu bộ óc khoa học, không thể có tiến bộ được” (tr.56).
B. Phê bình
(Xin xem phần phê bình Điều tâm niệm thứ hai ở trên)
Điều tâm niệm thứ tám
Cần sự nghiệp không cần công danh
A. Sơ lược nội dung
Tác giả đả kích thói chuộng công danh của người mình. Xưa kia đi học mong đỗ ông Nghè ông Cống để võng lọng nghênh ngang, nay thì đi học mong kiếm được chức quan tham, quan Huyện. Câu châm ngôn “Phi cao đẳng bất thành phu phụ” của nhiều thiếu nữ thực đáng cho ta ngao ngán không biết ngần nào.
Sau khi nêu gương sự nghiệp về cai trị của Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát (những vị này hoặc coi thường công danh hoặc không có công danh) tác giả khuyên bạn trẻ:
“Ta phải lúc nào cũng tự nhủ rằng công danh không đáng kể duy có sự nghiệp thôi” (tr.59)
“Ta phải chăm nom vun xới cho sự nghiệp của ta, ta sẽ được hưởng cái lạc thú vô song của một đời sống đầy đủ, của một đời có ích cho người chung quanh” (tr.60)
B. Phê bình
Ông Lê Hữu Mục có viết về Hoàng Đạo trong cuốn Luận đề Hoàng Đạo của ông như sau:
“Xuất thân trường Cao đẳng Pháp Chính, ông nhất định không ra làm quan như các bạn đồng liêu và đã dùng tất cả thời giờ của một ông Tham tá Lục sự để tranh đấu cho dân quê thoát khỏi sự bóc lột tàn nhẫn của quan trường, cởi bỏ những tập tục hủ lậu, những điều mê tín dị đoan để tự do sống trong một tổ chức hành chính và chính trị hợp lý”
Chúng ta thấy gương sáng của tác giả “Mười điều tâm niệm” chính là ở chỗ lời nói với việc làm là một.
Điều tâm niệm thứ chín
Luyện thân thể cường tráng
Sơ lược nội dung
Các cụ đồ Nho ta trước đây thường trọng văn khinh võ, yên trí rằng sức mạnh thân thể sẽ lấp mất sự sáng suốt của trí khôn. Có biết đâu câu châm ngôn xác đáng của Hy Lạp xưa đã nói: “Một linh hồn cường tráng trong một thân thể cường tráng”.
Luyện tập thể thao còn có ảnh hưởng lớn đến tính khí của ta nữa, nhiều đức tính của ta nhờ đó mà tăng tiến, lòng dũng cảm, trí kiên nhẫn, lòng tự tin, và sự biết phục theo kỷ luật. Vậy bổn phận của thanh niên là phải kết đoàn lại lập hội thể thao, luyện lấy thân thể cho cường tráng mà đạt tới những thành tích vẻ vang như người Đức, người Mỹ, người Nhật.
Điều tâm niệm thứ mười
Cần phải có trí xếp đặt
Dân ta sống hồn nhiên không biết giá trị của thời gian mà cũng không chịu vào khuôn vào phép, vào kỷ luật để mưu tồn những công cuộc to lớn lâu dài. Hãy noi gương người Âu Mỹ trong một công cuộc chung phải có tổ chức, xếp đặt để những phần tử đều có quyền hạn rõ ràng, có trách nhiệm phân minh, những phần tử ấy đều cùng hoạt động nhịp nhàng để mưu đạt mục đích chung. Hãy thay cái tinh thần luộm thuộm, cẩu thả của các cụ xưa, bằng phương pháp xếp đặt của người Tây để các công cuộc chung của chúng ta đạt được kết quả rực rỡ.
Tổng luận về Mười Điều Tâm Niệm
A. Phân loại
Căn cứ vào nội dung của từng bài chúng ta có thể xếp loại Mười Điều Tâm Niệm như sau:
1. Đề cao và khuyến khích tinh thần khoa học:
- Theo mới (điều 1)
- Tin ở sự tiến bộ (điều 2)
- Luyện lấy bộ óc Khoa học (điều 7)
- Cần có trí xếp đặt (điều 10)
2. Luyện tính khí và luyện thân thể:
- Luyện tính khí (điều 5)
- Luyện thân thể cường tráng (điều 9)
3. Lý tưởng sống:
- Sống theo một lý tưởng (điều 3)
- Cần sự nghiệp không cần công danh (điều 8)
4. Cùng làm việc cho xã hội:
- Làm việc xã hội (điều 4)
- Phụ nữ ra ngoài xã hội (điều 6)
Ở đây chúng tôi ghi nhận thêm một cách phân loại nữa của ông Phạm Thế Ngũ để học sinh tiên bề tra cứu:
- Thân thể: cường tráng (điều 9)
Con người - Trí não: óc khoa học (điều 7)
Óc xếp đặt (điều 10)
Tư tưởng - Tin vào sự tiến bộ (điều 2)
- Có một lý tưởng (điều 3)
- Xây dựng sự nghiệp (điều 8)
Hành động - Làm việc xã hội (điều 4)
- (cả giới phụ nữ) (điều 6)
Và ta có thể tóm tắt những cái cũ tệ hại thành một bảng đối chiếu như sau:
Con người cũ
- Thân thể: yếu đuối nhu nhược
- Trí não: óc mê tín dị đoan, cẩu thả, luộm thuộm
- Tâm hồn: mềm yếu, nhút nhát
Tư tưởng cũ:
- Không tin vào tiến bộ, đặt sự tân thiện mỹ ở quá khứ
- Không có lý tưởng tranh đấu. Xưa kia nhà Nho nhắm mắt tòng cổ, giờ đây nhiều người sống bơ vơ, vô lý tưởng
- Mưu công danh (địa vị, quan chức, bổng lộc)
Hành động cũ
- Chỉ làm việc cho bản thân hay cho gia đình
- Nhất là phụ nữ sống trói buộc hèn yếu.
(Xem quyển III, trang 270 – 271)
B. Tổng bình nội dung
Hầu hết những điều tâm niệm đều đả kích xã hội cũ mà đại diện là nhà Nho thủ cựu. Chúng ta đồng ý với tác giả ở thái độ sống phải có một lý tưởng, cần sự nghiệp, không cần công danh, cần làm việc với tinh thần khoa học... Nhưng về thái độ tác giả hoàn toàn đả kích những cái cũ và đề cao đến tuyệt đích khoa học thì chúng ta nên nghĩ rằng đó là thái độ hợp lý cho riêng thời tác giả. Vào thời đó tác giả cần phóng đại khía cạnh khoa học để đánh đổ những tập tục hủ lậu cũ, chúng ngăn cản bước tiến của dân tộc. Sự thực vấn đề cũ mới, vấn đề quá tôn sùng khoa học cần được nhận định lại cho sâu sắc và toàn diện hơn.
VIII- BÙN LẦY NƯỚC ĐỌNG [19]
Tiếp theo Mười Điều Tâm Niệm, đến tác phẩm Bùn Lầy Nước Đọng là tập nghị luận đặc biệt chú ý đến những vấn đề sinh hoạt của người dân quê, cả cuộc đời họ luẩn quẩn trong cảnh đói khổ, thối nát.
A. Kế hoạch về chính trị
Để chống lại với những sự thối nát của quan trường (sự lạm quyền, nạn hối lộ), Hoàng Đạo đề nghị biện pháp phân quyền cho hợp lý, trừng trị những nhân viên thối nát và giáo dục dân quê về phương diện pháp luật.
Để chống nạn trộm cướp làm cho dân quê luôn luôn sống trong tình trạng bất an, Hoàng Đạo đề nghị một tổ chức trị an chuyên nghiệp “có nhiệm vụ rõ ràng, có trách nhiệm hẳn hoi, hết sức tìm phương pháp ngăn ngừa những sự cướp bóc nơi thôn dã”.

Để chống óc xôi thịt, Hoàng Đạo đề nghị phá đình, bãi bỏ sự tôn ti, để mọi người được bình đẳng ngồi chiếu ngang nhau. Đình sẽ là một nhà họp sạch sẽ cao ráo, dân chúng thường lui tới để bàn luận về việc làng, mưu những ích lợi chung.
Hoàng Đạo đòi ban bố những quyền tự do dân chính. Theo ông muốn nâng cao trình độ của dân quê không gì bằng bảo đảm cho họ những quyền tự do, dân chủ.
B. Kế hoạch về kinh tế
Muốn cho nền hành chính và chính trị được vững vàng, điều quan hệ là phải đặt nó trên một căn bản kinh tế vững chắc.
Hoàng Đạo công kích chế độ thuế má nặng nề của thực dân bóc lột một cách dã man người dân quê.
Hoàng Đạo công kích chính sách của thực dân cố tâm dìm các công nghệ Việt Nam, cấm nhân dân nấu rượu, nhưng lại bắt mọi người uống rượu của hãng Fontaine, đồng thời lại cho phép tự do hút thuốc phiện để cho sinh lực dân trí bị hao mòn.
Hoàng Đạo tố cáo sự đồi bại, sự bất công trong việc quản cấp công điền, sự nguy hại của chế độ đồn điền mà quyền chiếm hữu chỉ ban bố cho người Pháp hoặc một vài người Việt có công lớn với Chính phủ Pháp.
Sau cùng Hoàng Đạo tố cáo nạn cho vay nặng lãi ở thôn quê của bọn trọc phú. Có khi họ ăn lãi đến 20% nếu con nợ cần tiền.
Để đối phó với những khuyết điểm trên, Hoàng Đạo đã đưa ra những ý kiến rất cụ thể về những vấn đề chỉnh đốn thuế vụ, nâng cao tiểu công nghệ địa phương, bênh vực quyền lợi của công nhân tại các đồn điền, tiêu diệt nạn cho vay nặng lãi bằng cách nới rộng và bình dân hóa những nông phố ngân hàng. Thành lập nhiều nông đoàn để tương trợ lân nhau, giáo dục dân quê.
Có áp dụng được những điều tối thiểu như vậy mới bảo đảm được đời sống ấm no, hạnh phúc cho dân quê.
B. Kế hoạch về giáo dục
Nều giáo dục ở thôn quê cần phải được triệt để phổ thông, Hoàng Đạo đề nghị một chương trình giáo dục đại cương gồm hai điểm căn yếu:
1. Phổ biến pháp luật:
Để người dân quê ý thức được quyền lợi, ý thức được nhiệm vụ của họ.
2. Truyền bá tinh thần khoa học:
Phổ biến những điều thường thức về vệ sinh, về y khoa, luyện cho người dân bộ óc tối thiểu về khoa học, để họ sống một cách lành mạnh.
Tổng luận về Bùn Lầy Nước Đọng
Ở đây chúng ta thấy Hoàng Đạo thiết tha với thân phận đám dân quê nghèo đói dốt nát biết là chừng nào. Những vấn đề ông nêu lên, những giải pháp ông đề ra rất sát với thực tế.
Đọc Bùn lầy nước đọng ta còn thấy rùng mình về thái độ đàn áp ngu dân của lũ thực dân cướp nước và càng đem lòng cảm phục tâm tình cao thượng ưu thời mẫn thế của Hoàng Đạo.
CON ĐƯỜNG SÁNG
Con Đường Sáng là tiểu thuyết luận đề của Hoàng Đạo. Trong tác phẩm này ông muốn miêu tả một thanh niên nhà giàu, có học bơ vơ trước ngã ba thời đại vì không biết mình đi đâu, nên chỉ còn biết lấy sự chơi bời trác táng làm mục đích. Nhưng trước cuộc sống lầm than của đám dân quê, Duy cảm thông và dần dần giác ngộ, chàng trở về đồn điền cùng với người yêu là Thơ, bắt đầu xây dựng hạnh phúc mình trong sự hy sinh làm việc để nâng cao đời sống của đám người nghèo khổ.
Trong tác phẩm này, lời văn của ông tuy vẫn có phần trong sáng, gợi hình gợi cảm nhưng cách bố trí những tình tiết câu chuyện không được uyển chuyển và hấp dẫn như tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh.
TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA
Hoàng Đạo tỏ thái độ nhiệt thành trong việc cải tạo thôn quê ở hai tập lý thuyết Mười Điều Tâm Niệm, Bùn Lầy Nước Đọng và ở tiểu thuyết luận đề Con Đường Sáng nhưng về phương diện nghệ thuật sáng tác thì ông thành công hơn cả ở tập Trước Vành Móng Ngựa. Có thể nói đây là một thứ vui cười ở tòa án xếp thành những vở kịch nhỏ rất linh động.
Nhân vật thường xuyên là:
-  Ông Chánh Ân: khi vui tính, khi hắc búa
-  Thông ngôn: cũng vậy
-  Ông Biện lý: thường thường vui tính, ưa khôi hài
-  Các bị cáo: có tính cách quốc tế: Việt, Tây đen, Tây trắng,
Tàu; có đủ các hạng người: công chức, ăn cắp, ông Nghị, ông Đồ và những người dân quê nghèo đói, khi thì láu lỉnh, khi thì ngớ ngẩn
Ở tác phẩm này Hoàng Đạo đã chứng tỏ ông có con mắt nhận xét thật tinh tế.
Ông miêu tả những cử chỉ ngôn ngữ hoặc láu lỉnh hoặc ngây thơ dớ dẩn đến tức cười của lũ người phạm pháp bị ra trước vành móng ngựa và chính ở nơi này ẩn dưới những nụ cười thông minh đó, ông đã lần lượt phô bày những mâu thuân đến rơi lệ của một chế độ pháp trị, vô nhân dưới thời thực dân.
Bài Chỉ Vì Con Chó Săn dưới đây, tác giả đã khéo tả cho ta thấy hình ảnh một tiểu nhân cậy thế hầu ông đội Tây và hình ảnh “nhỏ mọn” của một ông phú lít An Nam:
Chỉ vì con chó săn
Bùi Độ Diễm, có bộ mặt gân guốc bướng bỉnh của một anh bếp hầu một viên đội Tây, phải buộc vào tội thóa mạ viên chức nhà nước lúc đương hành sự.
Chắc Diễm thường được trông “quan” đội - mà Diễm được cái hân hạnh làm bếp - ra uy hống hách với bọn lính ở dưới quyên “quan”, nên Diêm coi thường bọn “phu lít” mà Diễm nhầm là lính tập.
Sự nhầm lẫn ấy đưa Diễm ra trước Tòa.
-  Bẩm con không dám đánh ông ấy ạ.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Thế sao áo người ta lại rách?
BÙI ĐỘ DIẼM: - Bẩm tại ông ấy ngã xe đạp. Thấy xe đạp con không có đèn, ông ấy đuổi con, chặn đường thế nào mà húc ngay phải vệ đường ngã sóng soài ra. Nêu con không đến đỡ dậy, thì ông ấy bắt thế nào được con.
ÔNG BIỆN LÝ: - À, ra làm ân nên oán đấy.
VŨ VĂN TƯ: - Người nhỏ và gầy, co ro trong chiếc áo bành tô rộng, để ý lắm mới trông thấy bộ mặt hốc hác, có vẻ khó khăn. Giả thử đem để bên một viên đội xếp, bên Anh hay bên Mỹ thì vị tất đã cao quá đầu gối họ. Trông bộ dạng viên phu lít Tư, người ta mới hiểu cái thái độ quật cường của Diêm.
-  Hôm ấy tôi “xe vít” ở phố “Dô lăng”, tôi thấy “oong anh đi dên” “lúy” đi xe đạp không có “lúy me”.
VIÊN THÔNG NGÔN: - Biết tiếng Tây thì có nói tiếng Tây bằng không thì nói tiếng ta, chớ đừng bắt chước ông nghị “phút, a lapoóc” như thế (cử tọa cười).
VŨ VĂN TƯ: - Vâng (chỉ vào Diễm). Tên này đi xe đạp không có đèn, tôi bắt mang về bóp, rồi nó đưa tôi về nhà nó ở phố Sinh Từ, về đến đấy nó chạy thẳng vào nhà, cho vợ ra “xin” tôi. Tôi không nghe, nó bèn ra sừng sộ, đấm tôi hai cái vào ngực, vỡ cả đồng hồ, gẫy cả bút chì, rồi nó giật cuốn sổ tay của tôi lủi vào nhà mất.
Tư phanh áo bành tô, chỉ vào chỗ áo rách, lấy cái bút chì gãy và lấy cái đồng hồ quả quýt vỡ mặt kính để lên tay:
- Đây, quan xem. Tang chứng còn rành rành ra đây.
ÔNG BIỆN LÝ: Đồng hồ và bút chì của anh bị thương, còn anh có bị thương không?
VŨ VĂN TƯ: - Bẩm không việc gì. Duy nó bảo con là đồ chó săn, nên con xin quan tòa làm tội nó.
BÙI ĐỘ DIỄM: - Bẩm quan thực con oan. Con không bảo ông ấy là chó săn. Còn cuốn sổ tay, ông ấy đánh rớt xuống đất, vợ con nó nhặt được đem giả, thế là chúng con tử tế lắm rồi.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Dễ thường anh đợi người ta cảm ơn nữa chắc? Anh còn điều gì nói nữa không?
BÙI ĐỘ DIỄM (ngập ngừng): - Bẩm... quan đội con thường bảo ở bên Pháp, phu lít, mật thám lại thích cho người ta gọi là chó săn tốt, phanh ly-mê (fin limier) (cử tọa cười).
ÔNG CHÁNH ÁN: - Đây không phải ở bên Pháp. Bốn mươi quan tiền phạt.
Lần sau, trước khi dùng chữ dịch, chắc Diễm phải nhớ rằng mình ở bên An Nam.
Bài Hai Nghìn Quan Tiền Tây dưới đây rất linh động ở cách đối thoại, rất cảm động ở những nhận xét tỉ mỉ về những người dân cùng khổ và nhẫn nại ở chốn bùn lầy nước đọng. Tất cả cái phi lý, lạnh lùng của công lý thực dân thể hiện trong bài này. Tình cảnh người dân Việt thật đáng thương và càng đáng thương ở thái độ nhẫn nại của họ. Không khí dí dỏm, ngộ nghĩnh, đùa cợt vụt biến. Chúng ta đi vào một thể giới của căm uất bi phẫn. Quan tòa, thông ngôn ở đây cùng đáng ghét.
*
Hai nghìn quan tiền Tây
Không có gì buồn và chán nản bằng một phiên tòa xử “tù rượu”, nghĩa là những người bị cáo về tội buôn rượu lậu. Cũng không có gì làm cho ta nghĩ ngợi bâng khuâng hơn.
Một dãy người khốn khó, ốm yếu, áo nâu tã, váy đụp, không dám ngồi hẳn lên chiếc ghế dài để riêng cho tội nhân, sợ làm bẩn mất ghế của nhà nước, một dãy người hốc hác, hôi hám như những tang chứng hoạt động của sự lam lũ, nheo nhóc ở nơi bùn lầy nước đọng, trông tưởng như một lũ ma đi hiện hồn lẻn trách thầm cái phú quý của những người khác.
Mày có nấu rượu lậu không?
-  Bẩm có.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Phạt hai nghìn quan tiền Tây.
Sự thất vọng và tính nhẫn nại đều hiện cùng một lúc lên nét mặt gày gò, xanh xao của một người nông phu rét run trong manh áo mỏng sờn vai, vá nhiều chỗ. Anh ta đã rời vòng móng ngựa còn quay cổ lại như muốn nài điều gì, nhưng có lẽ biết rằng cũng vô ích nên lại bước chân đi.
-  Mày có cơm rượu lậu không?
-  Bẩm, con không nấu rượu lậu...
-  Nhưng người ta bắt được bã rượu ở nhà mày.
-  Bẩm có
ÔNG CHÁNH ÁN: - Hai nghìn quan tiền phạt.
Bị cáo nhăn, một bà lão già kêu van:
-  Bẩm, con già nua... quan thương cho...
VIÊN THÔNG NGÔN: - Già nua mặc kệ, về việc đó, không ai thương xót đâu. Ra!
Bà lão thở dài, nước mắt rung rung muốn khóc, cố van lơn:
-  Bẩm, những hai nghìn, con nghèo khổ, con lấy đâu con giả?
VIÊN THÔNG NGÔN: - Tòa xử rồi. Không bằng lòng thì chống án. Đi! Đi ra!
Thấy bà lão trù trừ, viên thông ngôn quát:
-  Đội xếp đâu? Lôi nó ra!
Người đội xếp sấn sổ lại, kéo bà lão ra ngoài, để đến phiên người khác.
Một người đàn bà, váy đụp, áo tứ thân rách, vừa đứng dậy vừa vạch yếm cho con bú.
-  Mày có cơm rượu lậu không?
-  Bẩm không.
-  Nhưng người ta bắt được bã rượu ở nhà mày.
-  Bẩm không ở ruộng con đấy ạ.
-  Thế là đủ rồi.
-  Bẩm ruộng con cách nhà con xa lắm. Người ta thù con, người ta bỏ vào đấy ạ,
-  Có biết ai bỏ không?
-  Bẩm không.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Hai nghìn quan tiền phạt.
Rồi kết tiếp nhau, năm sáu chục người nhà quê ra chịu tội. Ông chánh án không lần nào phải nghĩ ngợi khi lên tiếng:
-  Hai nghìn quan tiền phạt.
Sau cùng đến một người gù lưng ra van lạy:
-  Bẩm, con tàn tật, tật...
-  Tàn tật mặc anh, có cơm rượu lậu không?
-  Bẩm có
-  Anh đã bị án hai lần rồi. Sao lại còn phạm nữa?
-  Bẩn con chỉ có nghề làm rượu. Con tàn tật bỏ nghề ấy thì con chết đói mất
-  Không biết, Hai nghìn quan tiền phạt.
Bài Anh Hùng Mạt Lộ cho ta thấy cảnh nhà Nho suy tàn gặp cái phi lý của công lý cấm phổ biến giáo dục. Một bức tranh ghi được đầy đủ những nét điển hình của một nhà Nho hết thời, để cười ra nước mắt:
Anh hùng mạt lộ
Nguyễn Xuân Bi là một nhà Nho, cứ trông ông ta cũng đủ biết. Từ cái áo the sờn vai xúng xính, cái khăn lượt chững chạc cho đến dáng điệu, ngôn ngữ, ông đều để lộ vẻ nhà Nho lúc quẫn.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Thế nào, anh có nhận tội không?
BI: - Bẩm, chúng tôi làm gì nên tội?
ÔNG CHÁNH ÁN: - Không có tội sao lại ra đây?
BI: - Bẩm không biết. Chúng tôi chỉ biết theo lễ nghi của cổ nhân dạy bảo lũ trẻ... học đạo thánh hiền.
ÔNG CHÁNH ÁN (đắc thế) - Chính thế. Anh dạy học không có giấy phép. Anh muốn dạy đạo thì dạy, nhưng phải có giấy phép nhà nước cho.
BI: - Bẩm, vài đứa học trò nửa người nửa ngợm, làm gì mà phải phép với tắc.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Anh dạy mấy đứa?
BI: - Bẩm, sáu đứa.
ÔNG CHÁNH ÁN (lại đắc thế): - Sáu đứa thì còn nói gì nữa. Lệ chỉ có năm đưa học trò mới không phải xin phép.
BI: - Bẩm, năm với sáu thì khác nhau cái gì? Thật tình chúng tôi không hiểu.
ÔNG CHÁNH ÁN: (mỉm cười) - Tôi cũng không hiểu. Nhưng luật pháp là luật pháp. Duralex, sed lex.
Một ông Tây nói tiếng La tinh cho một người An Nam thông chữ Tàu nghe, thì còn hiểu nhau làm sao được.
Ông Bi chỉ lấy cái mỉm cười ngây ngô đáp lại ông Chánh án.
ÔNG CHÁNH ÁN (tuyên án) - Chiều theo Nghị định ngày 14 tháng 5 năm 1924, phạt Nguyễn Xuân Bi trăm quan tiền Tây. Còn bút nghiên, giấy, mực bắt được, tòa tịch biên. Mà từ rầy, không được dạy học như thế nữa, nghe!
BI (não nùng) - Vậy đạo thánh hiền, chúng tôi cũng không được dạy à?
ÔNG THÔNG NGÔN: - Tòa tuyên án rồi, thôi đi ra.
Bi lặng lẽ đi ra, trên nét mặt hiện về thất vọng chán nản và nhẫn nại. Bi ngửa mặt lên trời tắc lưỡi thở dài: ý chừng y tự nhắc đến câu: “Ta hồ! ngô đạo suy- hĩ” của Đức Khổng khi xưa.
Trông Bi lúc bấy giờ có vẻ bi thương ảo não như cái biển hiệu của một thời đại tàn tạ, điêu linh.
Thỉnh thoảng tác giả cũng cho chúng ta gặp một sự phi lý ngộ nghĩnh và nhân đạo. Giá tất cả nhân loại đối với nhau phi lý như thái độ của ông Vĩnh Thái dưới đây thì cuộc đời dễ thở biết mấy.
Năm trăm bạc
Xúng xính trong chiếc áo the mới Nguyễn Văn Cầu, cu- li xe, thỉnh thoảng lại liếc nhìn ông Trần Văn Chương, đứng nhỏ xíu ở giữa ghế trạng sư, như anh ta sợ ông trạng sư biến mất thì không còn ai bảo vệ cho nữa vậy.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Anh bị khép vào tội ăn cắp năm trăm bạc, có không?
NGUYỄN VĂN CẦU: - Bẩm, ăn cắp thì quả con không ăn cắp. Chỉ có cụ Vĩnh Thái bỏ quên trên xe con cái ví đựng năm trạc bạc, con đã trót lấy con tiền...
ÔNG CHÁNH ÁN (mỉm cười): - Lấy của người, cầm tiêu thế gọi là ăn cắp. Sao anh không đem số tiền bắt được trả lại ông cụ hay nộp trên sở cẩm?
NGUYỄN VĂN CẦU (thực thà) - Bẩm con nghèo.
Cử tọa cười, Ông Chánh án cũng cười. Duy Cầu ngơ ngác lấy làm lạ. Ý giả anh ta nghĩ làm cu-li xe kiết xác mà vớ được năm trăm bạc, bảo đem lên sở cẩm nộp, thì chẳng khác gì bảo ông Lý Toét đừng toét, bảo ông Bang Bạnh đừng bạnh, hay bảo ông Tôn Thất Bình đừng tán dương ai nữa vậy.
Ông cụ Vĩnh Thái là người mất tiền, có lẽ cùng đồng ý với bị cáo, vào khi người ta gọi vào làm chứng, một nụ cười bí mật nở ra sau bộ râu bạc phơ của ông cụ.
ÔNG CHÁNH ÁN: - Ông bỏ quên trên xe của bị cáo một cái ví?
ÔNG VĨNH THÁI: - Vâng
ÔNG CHÁNH ÁN: - Trong ví có năm trăm đồng bạc?
ÔNG VĨNH THÁI: - Bẩm không. Chỉ có năm đồng thôi.
ÔNG CHÁNH ÁN (ngạc nhiên): - Chỉ có năm đồng?
ÔNG TRẠNG SƯ TRẦN VĂN CHƯƠNG: - Vâng, chỉ có năm đồng.

Cụ Vĩnh Thái từ trước đến giờ vẫn chỉ nhận có thế. Cụ là một nhà giàu ở Hà Nội, năm trăm đồng bạc đối với cụ không là bao nhưng đối với Nguyễn Văn Cầu thì thật là to. Cụ nghĩ như vậy, nên thương Cầu nghèo không nhận mất năm trăm đồng mà Cầu lấy của cụ. Như vậy ý cụ đã định cho Cầu số tiền ấy, thiết tưởng tòa cũng lượng cho mà làm án nhẹ cho một người cu-li nghèo khổ. Còn tiền 495 đồng kia, cụ Vĩnh Thái đã không nhận thì là tiền vô chủ. Mà đã làm tiền vô chủ, thì người bắt được đem nộp ở Cẩm hết hạn một năm sẽ có quyền lấy về làm của mình. Vậy xin Tòa lên án cho Cầu cái quyền ấy. Ngoài cái quyền ấy tòa lại gia thêm cho Cầu bốn tháng nhà pha. Ở bốn tháng nhà pha rồi được lĩnh số tiền 495 đồng về tiêu, nên Cầu bước ra khỏi vành móng ngựa, còn được lũ bị cáo nhân ngồi trong tòa nhìn theo bằng con mắt thèm thuồng.
Chú thích:
[19] Phần này chúng tôi căn cứ theo ý kiến của ông Lê Hữu Mục trong quyển Luận đề về Hoàng Đạo của ông – Nhận Thức – Huế 1957
IX- KHÁI HƯNG (1896 - 1947)
Khái Hưng tên thật Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, con cụ Tuần phủ Trần Mỹ, rể cụ Tổng dốc Lê Văn Đính. Ông con người anh cả là Trần Xuân và hai em giai là Trần Tự và Trần Tiêu. Ông theo học ở Albert-Sarraut, đỗ Tú tài ban Cổ điển rồi ra dạy học ở trường Thăng Long, tính tình khoáng đạt vui vẻ.
Năm 1930, Trần Khánh Giư bắt đầu viết cho tờ báo của Chu Mậu, viết những bài xã thuyết hoặc truyện vui hàng tuần. Năm 1931, ông gặp Nguyễn Tường Tam ở trường Thăng Long, cả hai bàn cách sáng lập một tờ báo có chủ trương rõ rệt.
Ngày 22 tháng 9 năm 1932 tờ Phong Hóa đổi mới ra đời. Khái Hưng bắt đầu viết tiểu thuyết. Hồn Bướm Mơ Tiên (1933) là tác phẩm đầu tay của ông. Cho tới năm 1940 ông đã viết được nhiều tác phẩm.
Giai đoạn 1940 - 1945 giai đoạn đấu tranh chính trị, ông bị Pháp bắt giam năm 1941 ở lao xá Vụ Bản.
Sau vụ đảo chính Nhật, Ngày Nay kỷ nguyên mới ra đời (1945) ông viết Xiềng Xích tập truyện dài kể cuộc đời chốn lao tù, bị tra tấn dã man của chiến sĩ cách mạng. Khi Việt Minh nắm chính quyền. Nhất Linh ở Tàu về, ông viết báo Việt Nam của Quốc Dân Đảng. Theo tài liệu của ông Tú Gầy, đăng trong Tâm Tình số 1 thì khi cuộc kháng chiến bùng nổ, ông về quê ngoại ở làng Dịch Diệp, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, rôi bị công an Việt Minh bắt giam tại “Cải hối thất chính trị phạm Liên khu III” ở Lạc Quần (Trực Ninh). Ông bị chúng thủ tiêu ở bến đò Cựa Gà thuộc Phủ Xuân Trường vào năm 1947. Chúng hành quyết ông bằng hai phát súng lục cho xác vào bao tải rồi đẩy xuống sông cho mất tích. Tác phẩm của ông đại loại có thể tạm xếp như sau:
A. Tiểu thuyết dài:
1. Tiểu thuyết lý tưởng:
a. Hồn Bướm Mơ Tiên (ái tình lý tưởng nhuộm màu tôn giáo)
b. Nửa Chừng Xuân (ái tình lý tưởng nhuộm màu nhân tính)
c. Trống Mái (ái tình lý tưởng về cái đẹp của thể chất, tỷ như pho tượng đẹp)
2.  Tiểu thuyết có tính cách lãng mạn tiểu tư sản (Loại này cũng là biến thể của loại trên, chỉ thiếu tính cách lý tưởng):
-  Những Ngày Vui
-  Đẹp
-  Thanh Đức (Băn khoăn)
2.  Tiểu thuyết phong tục:
-  Thoát Ly
-  Thừa Tự
-  Gia Đình
3.  Tiểu thuyết tâm lý:
-  Hạnh
4.  Tiểu thuyết dã sử:
-  Tiểu Sơn Tráng Sĩ
B.  Kịch
-  Tục Lụy
-  Đồng Bệnh
C.  Những tập truyện ngắn:
-  Dọc Đường Gió Bụi
-  Tiếng Suối Reo
-  Đợi Chờ
-  Đồng Xu
D.  Truyện loại sách hồng:
-  Ông Đồ Bể
-  Cóc tía
-  Đạo Sĩ..
Dưới đây là những ý kiến của chúng tôi về riêng ba truyện được xếp loại là tiểu thuyết lý tưởng.
HỒN BƯỚM MƠ TIÊN
A. Lược truyện
Ngọc sinh viên trường Cao đẳng Canh Nông, một thanh niên thông minh, lạc quan, giàu tình cảm từ Hà Nội về nghỉ hè với bác là sư cụ chùa Long Giáng. Tới đây Ngọc gặp chú tiểu Lan mà chàng nghi là gái. Sau bao ngày quan sát, dò xét, mối nghi ngờ của Ngọc càng sâu đậm hơn. Rồi một hôm, sư cụ chùa Long Giáng sai Lan mang bánh và chè sang tạ sư ông bên chùa Long Vân, Ngọc cũng xin phép đi theo chú Lan. Vì trời mưa, Ngọc và Lan phải ngủ lại chùa Long Vân. Ngọc muốn ép Lan cùng ngủ với mình, đôi bên người lôi đi kẻ kéo lại, áo dài áo ngắn của Lan đều tuột cúc. Ngọc bỗng kêu rú lên một tiếng buông tay Lan ra. Chàng thoáng thấy ngực Lan quấn vải nâu.
Lan sợ hãi bỏ trốn. Ngọc chạy theo xin lỗi. Ngọc tỏ tình yêu với Lan và nguyện sẽ vì nàng hy sinh hết thảy, kể cả ái tình tuyệt vọng của chàng. Thái độ quân tử của Ngọc làm Lan rất đỗi cảm phục, Ngọc bỏ chùa về Hà Nội. Một chiều chủ nhật, Ngọc từ Hà Nội đạp xe lên Bắc Ninh thăm Lan (mấy lần trước chàng chỉ đạp xe đến chân đồi chùa Long Giáng rồi quay trở lại). Ngọc hứa là suốt đời yêu Lan bằng tình yêu lý tưởng và xin phép Lan mỗi lần nghỉ học được lên chùa gặp Lan rồi quay trở về:
“Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như thế. Tôi xin viện Phật Tổ thề với Lan rằng suốt một đời tôi, tôi sẽ trung thành thờ ở trong tâm trí cái linh hồn dịu dàng của Lan.
Gia đình? Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ mà tiểu gia đình của tôi là... hai linh hồn của đôi ta, ẩn núp dưới long từ bi Phật Tổ.
Yêu là một luật chung của vạn vật mà là bản tính của Phật giáo. Ta yêu nhau, ta yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng, Phật Tổ cũng chẳng cấm đoán đôi ta yêu nhau như thế”.
Và đôi tình nhân đã biết đồng hóa tình yêu vào tình yêu tôn giáo đó, từ biệt nhau trong một cảnh chiều tịch mịch đầy lá rụng.
“Ngọc từ giã Lan, dắt xe đạp xuống đồi. Bấy giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả sắp rơi vào quãng êm đềm tịch mịch. Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh co lượn khúc dưới chân đồi.
Gió chiều hiu hiu
Lá rụng!”
B. Phê bình
Trong truyện Atala của Chateaubriand, Atala yêu Chactas nhưng vì trót hứa với mẹ nàng sẽ đi tu, nàng chết vì tình yêu ấy. Ở Hồn Bướm Mơ Tiên ta cũng thấy Lan nhắc đến lời hứa với mẹ. Điều này chúng ta thấy phi lý. Vào bất cứ thời đại nào, người mẹ Việt Nam có thể buộc con phải hứa sẽ thành chiến sĩ cách mạng chứ không bao giờ buộc con phải thề đi tu thành “ni cô” như vậy.
Chúng ta có thể như một số nhà phê bình (trong số có ông Vũ Ngọc Phan) nêu câu hỏi: trẻ như Ngọc, đẹp như Lan, lãng mạn như cả hai, con đường từ Hà Nội đến chùa Long Giáng lại không xa lắm, liệu Ngọc có giữ nổi lời hứa chăng? Nhưng dù sao chúng ta cũng phải công nhận là tác giả đã dừng lại ở chỗ đáng dừng, khiến câu chuyện tình ngạt ngào hương lý tưởng.
Cái thú của bản văn này chính là sự hiếu kỳ, ban đầu bị khích động ở trong lòng Ngọc rồi nó nhóm dần cảm tình của Ngọc đối với Lan. Và sự hiếu kỳ càng tăng, càng muốn điều tra ra tông tích chú tiểu Lan, Ngọc càng mắc vào bả tình mà không hay. Khi chàng biết được Lan là gái thì ý nghĩ về nàng đã chiếm cứ toàn thể tâm hồn Ngọc rồi.
Chúng tôi rất đồng ý với ông Trương Chính là với những tác phẩm sau, nghệ thuật của Khái Hưng đã điêu luyện lắm, nhưng Hồn Bướm Mơ Tiên vẫn giữ mãi hương vị êm dịu, ngào ngạt của những bông hoa đầu mùa. Chẳng khác gì “Lettre de mon moulin” của Alphonse Daudet so với những tác phẩm về sau của cùng tác giả.
Nửa chừng xuân
I. Lược truyện:
Truyện gồm ba phần:
PHẦN THỨ NHẮT
Mai từ quê nhà - Ninh Bắc - tới Hà Nội tìm em là Huy đương học năm thứ ba tại trường Bảo Hộ. Hai chị em đên nhà ông Phán Hai, ông bác họ nhưng bị ghẻ lạnh. Hôm sau Huy vào trường, Mai ra ga Hàng Cỏ để trở về quê. Nàng quyêt định chuyên này sẽ bán nhà để lây tiền cho em tiêp tục học. Trên chuyên xe lửa nàng gặp Lộc:
“Thưa cô, cô có phải cô Mai, con cụ Tú Ninh Bắc không?
Mai ngước mắt lên rồi hỏi:
-  Thưa ông, sao ông biết tôi?
Chàng kia cười:
-  Thế ra cô quên tôi rồi, tôi là Lộc...
Mai vui mừng hỏi:
-  Cậu Lộc, con quan huyện Kim Anh?
-  Vâng, chính tôi là Lộc, Nhưng thầy tôi không làm tri huyện nữa. Thầy tôi đã thăng đến án sát và mất rồi.
-  Khổ! Thế cậu bây giờ làm gì?
-  Tôi làm tham tá ở Hà Nội
Mai cười:
-  Chóng nhỉ! Mới ngày nào!
Lộc đỡ lời nói luôn:
-  Đã bảy tám năm nay rồi, cô còn bảo mới ngày nào.
Bảy năm về trước, quan huyện Kim Anh có mời cụ Tú Lãm đến dạy hai cô con gái học chữ Nho. Bấy giờ cụ Tú đã gặp lúc quẫn bách vì luôn mấy năm buôn gỗ bị thua lỗ, cái vốn dăm, sáu nghìn đã gần khánh kiệt, nên thấy người bạn xưa muốn tìm cách giúp đỡ thì nhận ngay.
Cụ Tú lúc đó góa vợ nên đưa cả con gái lên huyện cho tiện đường dạy dỗ, còn Huy thì Cụ đã cho trọ học ở nhà ông Phán Hai ở Hà Nội.
Trong hai năm, mỗi lần nghỉ lễ, hoặc nghỉ hè, Lộc về chơi nhà đều gặp Mai. Khi ấy Mai mới 11 tuổi mà Lộc thì đã lớn và theo học ở lớp ba trường Trung học Tây.
Lộc coi Mai như một người em nhỏ và yêu quý Mai lắm, mỗi lần ở Hà Nội về mua quà cho hai em thức gì thì mua cho Mai thức ấy.
Mai nhẩm ôn lại chuyện xưa, mủm mỉm cúi xuống nhìn guốc nói:
-  Thế ra ông là anh Lộc của em đấy?"”
Mai đã cảm động buột mồm nói ra câu quá thân mật. Chính với câu nói thân mật đó, tác giả đã sửa soạn cho chúng ta thấy cảm tình của hai người đới với nhau sẽ một ngày thêm nặng nề sau này.
Vẫn trên chuyến xe đó, khi rõ tình cảm của Mai, Lộc nhất định giúp Mai một số tiền là 20 đồng để phòng khi chưa bán được nhà thì hãy tiêu tạm. Mai cương quyết từ chối mà không xong.
Việc bán nhà cho Hàn Thanh quả không xong, Mai còn đang phân vân, thì vừa hay Lộc tìm đến nàng.
Thái độ trang nhã, cao thượng của Lộc đã làm Mai tin cẩn và cùng chàng lên Hà Nội. Lộc thuê một căn nhà ở phố Yên Phụ, bên hồ Trúc Bạch để hai chị em Mai ở, Huy tiếp tục việc học.
PHẦN THỨ HAI
Trong thời kỳ ba tháng đầu, Mai ở chung với em, không ngày nào Lộc không đến thăm, tình cảm mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu đã đổi ra tình yêu. Bà Án (mẹ Lộc) phản đối cuộc nhân duyên này vì bà đã hỏi con quan Tuần cho Lộc để cuộc nhân duyên được môn đăng hộ đối. Lộc nhờ một cụ già giả vờ làm mẹ đến tác thành cuộc hôn nhân giữa chàng và Mai. Câu chuyện vỡ lỡ, bà Án lập kế ly gián, gieo nghi ngờ vào đầu Lộc rồi trực tiếp đến gặp Mai, đuổi khéo nàng ra khỏi nhà mặc dầu khi đó nàng đã có mang.
Mai nhẫn nhục làm cô hàng quà. Huy bị ốm thập tử nhất sinh, may nhờ Diên mời đốc-tờ chữa giúp nên chẳng bao lâu Huy khỏi bệnh. (Diên là một gái giang hồ, em Diên là Trọng bạn học với Huy, Diên coi Huy như em, ông đốc-tờ là tình nhân của Diên).
Mặc dầu trải bao lầm than khổ cực, Mai vẫn đương đầu được mọi cám dỗ, nàng từ chối lời hỏi của ông Đốc Minh, từ chối tình yêu của họa sĩ Bạch Hải.
PHẦN THỨ BA
Năm năm qua. Ông Tham Lộc đã thành ông Huyện Lộc. Vợ chàng, con gái quan Tuần - bị hai lần hữu sanh vô dưỡng, tính tình trở nên gắt gỏng, đôi khi hỗn láo cả với mẹ chồng.
Trong khi đó Huy đã thành tài và được bổ đi dạy học ở Phú Thọ. Sống cùng với Huy là Mai, cháu Ái (con Mai) và ông Hanh, người lão bộc trung thành.
Vì một sự tình cờ gặp họa sĩ Bạch Hải mà Lộc hiểu rõ hết nỗi oan khổ của Mai. Bà Án lên tận Phú Thọ tìm Mai, những mong mang được cháu Ái về nhưng thất bại.
Lộc lên tìm Mai, gặp lại người cũ trên đồi, rồi qua một đêm hàn huyên bên lò sưởi, tình cảm của Mai từ giận hờn tủi cực chuyển dần sang tha thứ, thương yêu.
Nhưng tình xưa dù nặng, Mai vẫn vì hạnh phúc thanh danh của người yêu mà hy sinh ái tình của ngàng, dù nàng mới... nửa chừng xuân.
Tình yêu cao thượng của Mai, lòng hy sinh cao đẹp của Mai đã giác ngộ Lộc, đã mặc khải cho Lộc thấy một đường sống mới vị tha, đầy dũng cảm và hy sinh.
“Đời anh từ nay sẽ không riêng của anh nữa, anh sẽ vì người khác mà sống, vì người khác mà anh sẽ bỏ cái đời an nhàn phú quý mà dấn than vào cuộc đời gió bụi...”
I. Phê bình tâm lý nhân vật
(Những dòng trích sau đây theo cuốn Nửa Chừng Xuân, Phượng Giang - 1953)
MAI
Nàng là vai chính duy nhất trong Nửa Chừng Xuân. Được hưởng nền giáo dục khoáng đạt của cha (cụ Tú Lãm) nàng giữ lòng biêt ơn, tha thứ và yêu thương rộng lớn, Chính vì vậy cả cuộc đời nàng là lịch sử cuộc đời hy sinh vì kẻ khác, hâu như không bao giờ nàng nghĩ đên mình.
Mai, một người chí giàu lòng hy sinh
Dưới đây là câu chuyện giữa Mai và Lộc trên xe hỏa:
“- Thưa ông lúc này là lúc phải liều. Thế nào em cũng phải để em Huy học đến nơi đến chốn, mà muốn được thế chỉ còn một cách là bán nhà.... Vả nếu ông lo ngại cho em thân gái thì ở đâu mà không lo ngại. Ở nhà quê đã chắc đấu tranh khỏi bọn cường hào hà hiếp? Dau sao em vẫn nhớ lời nguyện vọng cuối cùng của thây em: là để em Huy học thành tài và trở nên người hữu dụng.
Lộc mỉm cười:
-  Nhưng còn cô?
Mai ngơ ngác:
-  Em không hiểu.
-  Tôi hỏi còn cô thì trở nên gì? Từ nãy đến giờ tôi chưa hề thấy cô tưởng đến cô.
-  Tôi ấy à?
Mai hơi lấy làm lạ, Vì thực ra cũng không mấy khi cô tự nghĩ đến cô...” (tr.34)
Lời Mai nói với bà Án:
“.. Trong lúc quẫn bách, con đã toan lấy một ông Hà cự phú, không phải là để tìm chỗ nương thân, vì con xin thú thực, con không hề tưởng đến thần con, nhưng chỉ cốt giữ được lời hứa với cha con lúc lâm chung: là thay cha nuôi em ăn học thành tài và trở nên người hữu dụng” (tr.130).
Mai, một người tình giàu lòng hy sinh và chung thủy
Trước hết, Mai yêu Lộc không phải vì Lộc giàu sang mà vì cái đẹp tầm hồn của Lộc:
“Thực vậy, từ ngày nàng gặp Lộc đến nay, trái tim nàng đã nhiều lần hồi hộp vì những tính tình cao thượng, những cách hành vi quân tử của chàng. Nàng chỉ mong có dịp báo đáp ơn sâu...” (tr.80)
Và trong khi nghe lời trần tình thành thực của Lộc ngỏ ý muốn lấy Mai làm vợ, đây ý nghĩ thầm của Mai:
“Thì ông không biết rằng cái thân này, cái linh hồn này đã là của ông rồi hay sao? Hà tất ông còn phải xin, phải van” (tr.81)
Tin ở chân giá trị tình yêu cao thượng, trong sạch của mình, Mai bất chấp lễ nghi. Đây là lời tác giả nói về Mai:
“Kể ra chàng cứ thú thực với Mai rằng mẹ chàng không bằng lòng cho chàng kết hôn cùng Mai, nhưng ngoài Mai ra, chàng không thể yêu được một người nào khác thì có lẽ Mai cũng vì nàng mà hy sinh hết trinh tiết cùng danh dự, hy sinh cả cái đời thanh niên” (tr.80)
Là người tình chung thủy, Mai vượt mọi cám dỗ, ngay cả trong hoàn cảnh đen tối nhất (cự tuyệt ông Đốc Minh, tránh họa sĩ Bạch Hải). Tình yêu của nàng với Lộc sâu xa đến nỗi sau năm năm xa cách, giận hờn mà khi thoáng thấy màu giấy viết thơ biết ngay là thơ của Lộc:
“Huy toan nói dối là bức thơ của bạn. Song hình như đọc được tư tưởng của em và muốn tránh cho em một sự nói dối vô ích. Mai cười gượng:
-  Anh ấy vẫn dùng thứ giấy viết thơ ngày xưa nhỉ?"” (tr.192)
Cái linh động ở nhân vật Mai còn có ở chỗ nàng rất “người”. Nàng có giận hờn tủi hổ về cách ăn ở tệ bạc của Lộc, cùng thái độ tàn nhẫn của bà Án nhưng rồi sau đó lại xúc động từ tâm.
Khi bà Án lên Phú Thọ tìm nàng, bà đã hai lần bị Mai mỉa mát. Lần thứ nhất khi hai người mới chạm trán nhau:
“Kìa chào mợ! Mợ đi chợ về?
Mai chắp tay đáp lễ rồi ngây người đứng im.
Bà Án cười vui vẻ hỏi:
-  Mợ quên tôi rồi?
Mai cũng cười chua chát trả lời:
-  Bẩm cụ bao giờ con quên được cụ...” (tr.231)
Lầ thứ hai khi Mai mời bà Án ăn cơm:
“Huy bảo chị:
-  Ây em đã hết sức mời cụ nhưng cụ từ chối.
Mai mỉm cười:
-  Hay cụ chê nhà chúng cháu nghèo, cụ khinh chúng cháu là con nhà hạ tiện”” (tr.232)
Nàng cũng chỉ nói vậy cho vợi bớt nỗi sầu uất chứa chất trong lòng, còn thái độ thường xuyên của nàng tuy cương quyết đấy nhưng lễ độ, nhân ái.
Rất giàu tình cảm nhưng lý trí sáng suốt, nàng biết nhìn xa trông rộng, khuyên Lộc đừng tìm cách nối lại duyên xưa với nàng mà nên trở về với trách nhiệm nặng nề của chàng.
Tình cảm và lý trí quân bình như vậy, tâm hồn rộng rãi giàu tình thương, giàu hy sinh như vậy, Mai thực sự là một người đàn bà hiếm có, cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nàng ý thức được rõ rệt giá trị của nàng:
“Lộc ngắt:
-  Thế còn em? Em không phó thác vào anh sao?
Mai mỉm cười:
-  Không, em khác. Ở đời có phải ai ai cũng hy sinh được đâu?” (tr.258)
Điểm phi lý trong vai Mai và cũng là điểm phi lý của câu chuyện là:
-  Mai đã từng gặp bà Án ở huyện Đông Anh khi ông Tú dạy học ở đấy, vậy mà nàng đã quên mặt bà Án đến nỗi Lộc có thể nhờ một người đàn bà khác giả làm mẹ mà ngay lúc đó Mai không một chút nghi ngờ.
-  Suốt trong thời gian đã là vợ Lộc, ở ngay Hà Nội, việc con dâu đi lại thăm mẹ chồng là một việc tất yếu phải có, mà tuyệt nhiên ta không thấy Mai làm truyện đó.
LỘC:
Nếu tâm lý vai Mai được tác giả dựng chặt chẽ bao nhiêu thì vai Lộc lỏng lẻo bấy nhiêu. Tâm lý Lộc biến chuyển theo ba đợt tương ứng với ba phần của câu chuyện.
Đợt một:
Trong phần thứ nhất câu chuyện, Lộc xuất hiện như một Kim Trọng hào hoa phong nhã, tư tưởng phóng khoáng, hành vi vô tư lợi. Việc chàng tìm đến Ninh Bắc gặp Mai rất đúng tâm lý chàng trai bắt đầu yêu.
Đợt hai:
Trong phần thứ hai câu chuyện Lộc nhờ một bà cụ giả làm mẹ để xin hỏi cưới Mai cho chàng. Thế là tiểu gia đình này gồm: Lộc, Mai và Huy. Nhưng sang phần này Lộc biến thành một người đàn ông nhu nhược, ích kỷ bản tính, ghen một cách mù quáng.
Nhân danh chữ hiếu, chàng nép mình chịu khuất phục quan niệm cũ của mẹ:
Bà Án xỉa vào mặt con:
À mày dở văn minh ra với tao à? Tự do kết hôn à? Mày không bằng lòng nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ gả chồng phải tìm chỗ môn đăng hộ đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Với bọn cùng đinh à? Mày làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên, mà là một thằng con bất hiếu. Nghe chưa?
Lộc thấy mẹ giận dữ quát tháo, liền cúi đầu tạ lỗi và xin cam đoan vâng lời mẹ dạy. Xưa nay Lộc vẫn là người con có hiếu” (tr.69)
Nghi Mai có ngoại tình, chàng đã mắc mưu mẹ một cách quá ngây thơ (vì cái thơ nặc danh ký tên NG.Y).
Đọc xong chương “Mẹ con”, chúng ta phải đi đến kết luận rằng: Cái thẳng thắn và trong sáng của tâm hồn Mai biểu lộ rõ ràng hồn nhiên như thế mà Lộc vẫn còn nghi ngờ, chàng thực là một người hết sức tầm thường. Đã đành một người sáng suốt có thể trở thành u tối, một người quảng đại có thể trở thành thiển cận hẹp hòi, nhưng sự biến chuyển tâm lý đó phải được giải thích bằng những sự kiện.
Vai Lộc của Khái Hưng sụp đổ chính vì không có sự giải thích đó. Lộc ở phần I với Lộc ở phần II như hai nhân vật khác biệt hẳn.
Đợt ba:
Khi gặp họa sĩ Bạch Hải, được họa sĩ cho biết hết nỗi oan tình của Mai. Lộc hối hận, rồi viết thơ cho Huy. rồi bà Án lên Phú Thọ gặp Mai. rồi Lộc gặp Mai trên đồi. Lộc xuất hiện phần thứ ba này không những nho nhã đáng mến như phần thứ nhất, mà còn đáng thương nữa, vì cảnh chàng bị dày vò bởi hối hận.
Chợt tự nhiên tới đoạn cuối chương sau cùng, tình yêu cao cả của Mai đã giác ngộ, Lộc tìm thấy con đường lý tưởng phải đi:
“Lộc mắt lim dim cố tìm chân lý trong những ý tưởng phức tạp của Mai.
Trong đầu bỗng hiện ra hình ảnh một chàng thanh niên cứng cáp, quả quyết, theo đuổi việc xã hội, những việc mà tất phải đem hết nghị lực tài trí ra mới làm nổi..''” (N.C.X. tr.279)
Sau đó Lộc nói với Mai:
“. Đời anh từ nay sẽ không riêng của anh nữa, anh sẽ vì người khác mà sống, vì người khác, anh sẽ bỏ cái đời an nhàn, phú quý mà dấn thằn vào một cuộc đời gió bụi."” (N.C.X.tr.280).
Sự biến chuyển tâm lý của Lộc ở đây cũng phi lý như ở phần hai. Ây là không kể hình ảnh ‘ dấn thân vào cuộc đời gió bụi.”” hoặc “. trong khi ấy tại một nơi hẻo lánh, một thiếu phụ yêu chàng, đương mong mỏi ở sự hành động của chàng, đương đếm từng bước chàng đặt trên đường đời.”” (N.C.X. tr.297) đều là những hình ảnh sáo rỗng, lãng mạn một cách rẻ tiền.
Một người nhu nhược như Lộc liệu có thể nhất đán trở thành một chiến sĩ của hỷ xả như vậy? Một người sống thuần về tình cảm như Lộc liệu có thể nhất đán cương quyết xa Mai mãi? Nhận xét của Vũ Ngọc Phan không phải là không có lý: Ông Vũ đã lý luận về đoạn này như sau:
“Lần đầu Lộc gặp Mai xin nàng tha lỗi, Mai còn tỏ vẻ lãnh đạm, nhưng đã để cho Lộc cầm tay, lần thứ hai, Lộc trở về nhà Mai, Mai đã có thể ngồi suốt đêm để kể nỗi lòng với Lộc; vậy nếu Lộc cứ lên Phú Thọ, luôn luôn đã có đứa con trai là thằng Ái bắc cầu cho đôi bên, cặp vợ chồng ấy có thể nào xa nhau mãi được? Sự tái hợp chỉ là một sự rất thường”.
Tóm lại Khái Hưng đã thất bại khi dựng vai Lộc và sự đổ vỡ của vai này đã làm suy giảm khá nhiều giá trị tư tưởng của tác phẩm.
HUY:
Tuy là vai phụ nhưng Huy cũng nêu được tấm gương lớn về đức tính khẳng khái, thẳng thắn. Điều đáng quý ở Huy là trong cảnh túng quẫn vẫn không thèm nhờ vả ai, cắn răng chịu đựng, nhưng lúc thắng thế chàng lại đầy lòng tha thứ. Thái độ điềm tĩnh, lễ phép khi chàng tiếp bà Án ở Phú Thọ, thái độ nhân đạo của chàng đối với Lộc ở chương “Trên đồi” chứng tỏ chàng thật xứng đáng là em Mai.
BÀ ÁN:
Bà là người đại diện cho phái cũ nệ cổ, nên bà quá chú trọng đến việc môn đăng hộ đối và nhất quyết liệt Mai vào hạng liễu ngõ hoa tường. Bà yên trí Mai sắp sửa làm hại đời con bà như con diều hâu định ăn thịt con gà con. Bà rất mực thương con nhưng nghiệm và cương quyết. (Bà thương con theo quan niệm của bà).
“Thế thì mày giỏi thật... Mày dối tao, mày đánh lừa tao...
Giời ơi! Đẹp mặt! Ông tham con quan Án mà làm những việc khốn nạn như thế. Nếu bên quan Tuần mà biết chuyện này thì mày bảo sao? Thì tao còn mặt mũi nào hở thằng kia?
A! Thằng này giỏi thật, vượt quyền cha mẹ. Không còn biết ngũ luân ngũ thường là gì nữa...” (tr.107)
Trong chương “Hội kiến” bà Án đã rất tàn nhẫn với Mai, buộc nàng phải dứt tình với Lộc cũng chỉ để bảo vệ hạnh phúc cho con bà. Sau này bà lên Phú Thọ tìm Mai để xin cháu Ái về, bà đã phải rất mực nhún nhường và có nhiều câu nói thành thực khiến ta cảm động. (Chương “Cháu Ái”)
Khi đọc hết cuốn truyện, ta thấy chỉ tại quan điểm mới cũng khác nhau chứ thực tình bà Án không hẳn hoàn toàn đáng ghét.
Các vai phụ khác cũng đều rất thành công.
ÔNG HẠNH:
Người lão bộc trung thành, thực thà, chất phác một hình ảnh Việt Nam thuần túy và cổ sơ giữa một xã hội đã pha nhiều cái mới do ảnh hưởng Tây phương.
HÀN THANH:
Nhân vật điển hình, cường hào trọc phú.
DIÊN:
Cô gái giang hồ có hảo tâm, không muốn bạn (Mai) cũng sa ngã như mình.
CỤ TÚ LÃM:
Chúng ta không thể quên hình bóng một vai phụ khá quan trọng là cụ Tú Lãm, cha Mai và Huy. Mặc dầu cụ Tú không thực sự xuất hiện trong chuyện, bởi một lẽ giản dị là cụ đã mất, nhưng Mai và Huy (nhất là Mai) là hồi quang trung thành của nền giáo dục của cụ, nên ta không thể không nhắc đến cụ.
Cụ đã xuất hiện gián tiếp qua những hồi ức của Huy, của Mai hoặc lời giới thiệu của tác giả.
Một mẩu đời dĩ vãng chạy qua trí nhớ Huy: những lời giối giăng của cha nói với Mai:
“Lẽ tất nhiên, ai cũng phải chết. Các con không nên buồn. Lúc nào cũng phải vui thì mới đủ can đảm, nghị lực mà sống ở đời. Hai con nên theo gương cha. Cha vui đến giờ cuối cùng. Cha hy vọng thế nào các con cũng làm vẻ vang cho cha, cho linh hồn cha ở nơi chín suối. Cha hy vọng rằng thế nào em Huy cũng học thành tài và trở nên một người hữu dụng cho xã hội. Cha mất đi chẳng còn của cải gì để lại cho hai con. Cha chỉ có ba thứ gia bảo này ông cha để lại cho cha, nay cha truyền cho hai con mà thôi. Là giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch, và đem hết nghị lực ra làm việc’” (tr.12).
Lời giáo huấn của cha mà Mai hằng nhớ:
“Những khi nàng tưởng tượng tới cha thì lại nhớ đến lời phụ huấn: Ở đời không có sự gì xấu hơn sự quên ơn. Cừu nhân ta không sợ bằng ân nhân. Ta chỉ lo sẽ xảy ra sự khiến ta không trả được ơn, chứ đối với kẻ thù thì không có thứ khí giới nào mạnh bằng lòng hữu ái. Lòng hữu ái ấy, nếu ta đem ra đối đãi với ân thì chẳng hóa ra ta đặt ân nhân ta ngang hàng với kẻ địch của ta ư?” (tr.80)
Vậy Mai biết nhớ ơn, hay tha thứ, có lòng yêu thương rộng lớn chính là nhờ giáo dục của cụ Tú, một nền giáo dục phóng khoáng, lãng mạn như lời tác giả công nhận. Chúng ta đã thấy một trong những động cơ chính thức thúc đẩy Mai yêu Lộc là lòng biết ơn:
“Thực vậy, từ ngày nàng gặp Lộc đến nay, trái tim nàng đã nhiều lần hồi hộp vì những tính tình cao thượng, những hành vi quân tử của chàng. Nàng chỉ mong có dịp báo đáp ơn sâu" (tr.80)
Nàng những mong báo đáp ơn dầy đó một cách xứng đáng, một cách phi thường:
“Nhưng người ấy là Lộc mà Mai kính yêu, thì dẫu có xin nàng hết cả những đặc quyền, đặc ân nàng cũng chẳng từ chối'’” (tr.81)
Và khi Lộc đã thú thực cùng Mai vì chữ Hiếu mà chàng không dám đường hoàng cùng nhau chung hưởng hạnh phúc, Mai đã thốt ra câu nói lột được hết tinh thần phóng khoáng lãng mạn của nền giáo dục của cụ Tú:
“Em chỉ tiếc rằng ngoài những tư tưởng Nho giáo, thầy em lại dạy em biết yêu người ở ngoài vòng lễ nghi”” (tr.103)
Vậy cụ Tú cũng là môn đồ Khổng học nhưng tri thức, tư tưởng cụ đã vượt hẳn ra ngoài vòng kiềm tỏa của Nho giáo. Cụ cũng là nhân vật lý tưởng tiền phong dung hòa giữa cũ và mới. Vì đâu mà cụ Tú có được thái độ phóng khoáng và lãng mạn cấp tiến đến thế? Cụ có hoạt động trong Đông Kinh Nghĩa Thục? Cụ có từng xuất dương (sang Tàu hay sang Nhật chẳng hạn) và do đó có dịp tiếp thụ trào lưu tư tưởng mới?
Không thấy tác giả nói rõ. Thoáng những mẩu hồi ức chúng ta chỉ biết cụ Tú đã có một thời buôn gỗ và là bạn cũ của cha Lộc:
“Bảy năm về trước, quan huyện Đông Anh có mời cụ Tú Lãm đến dạy hai cô con gái học chữ nho. Bấy giờ cụ Tú gặp lúc quẫn bách vì luôn mấy năm buôn gỗ bị thua lỗ, cái vốn dăm sáu nghìn đã gần khánh kiệt, nên thấy người bạn xưa muốn tìm cách giúp đỡ thì nhận lời ngay” (tr.29)
Ở đoạn Mai và Huy sắp bỏ nhà Lộc ra đi, tác giả có nhắc đến cụ Tú nhưng cũng không cho ta biết rõ gì hơn về dĩ vãng của Cụ:
“Cho hay tính liều lĩnh, tính lãng mạn cũng là một tính di truyền ở nhà cụ Tú. Cụ khi xưa vì cái tính ấy mà mấy lần gia thế thăng trầm, rồi đến bị khánh kiệt gia sản. Mai với Huy cũng chỉ vì phẫn uất, vì tự do không chịu được một sự khinh mạn mà sắp liều sống đời phiêu lưu” (tr.141)
Mai là linh hồn của câu truyện, nền giáo dục của cụ Tú là linh hồn của Mai, vậy mà tác giả chỉ nói sơ sài về cụ Tú như vậy, kể cũng là một khiếm khuyết của câu truyện.
II. Vài ý nghĩa về truyện Nửa Chừng Xuân
1. So sánh Mai trong Nửa Chừng Xuân với Loan trong Đoạn Tuyệt
Nếu đem so sánh hai cô gái cùng thời đại này chúng ta thấy:
A. về học thức:
Mai: Chỉ biết đọc biết viết đủ dùng và chịu đậm ảnh hưởng nền giáo dục Nho giáo - thứ Nho giáo phóng khoáng của cha.
Loan: Có một trình độ Tây học khá vững (nàng học đến năm thứ tư Trung học) và hoàn toàn đối lập với ý kiến gia đình.
B. về tính tình, thái độ:
Mai: Ý thức được hành động và trách nhiệm của mình. Dịu dàng, chừng mực, lý trí tình cảm quân bình.
Loan: Cũng ý thức được hành động và trách nhiệm cùa mình. Bướng bỉnh theo mới đến cùng. Lãng mạn quá trớn về hành động cũng như về tư tưởng. Bị suy động bởi tình cảm nhiều hơn.

Chính vì tính Mai như vậy nên tình tiết câu chuyện đời nàng chuyển biến hợp lý và nhịp nhàng. Ngược lại chính vì tâm lý Loan như vậy nên nàng bị bao vây bởi hoàn cảnh, tác giả phải cầu cứu đến sự bất ngờ đẫm máu làm lối thoát.
2. Xét về sửa đổi đoạn kết của tác giả về sau:
So sánh truyện đăng trên báo với truyện in thành sách, ta thấy chương cuối mà tác giả đặt tên là “Bên lò sưởi” là chương được thêm vào sau. Có lẽ tác giả thấy trong truyện Lộc đóng một vai thảm bại quá: thiếu tinh thần tranh đấu, thiếu đức thành thực, nhu nhược, đa nghi. Ở chương cuối cùng này tác giả cho thấy, nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của tình yêu của Mai với lòng hy sinh cao thượng của nàng, nên Lộc tìm thấy cho mình một đường lối sống. Thiện chí của tác giả thực rõ ràng, nhưng chính vì thế mà vai Lộc vốn đã đổ vỡ lại càng đổ vỡ.
“Đổi lòng yêu gia đình ra lòng yêu nhân loại, đem hết nghị lực tài trí ra làm việc đời” nói thì dễ biết mấy, nhưng giả sử ông huyện Lộc thay đổi nếp sống bênh vực dân tất nhiên không khỏi bị thượng cấp, tay sai của thực dân và chính thực dân nghi kỵ, ở địa vị làm quan huyện của Lộc, với tính tình nhu nhược cố hữu của chàng, liệu chàng đứng vững trước đầu gió được bao lâu?
Hay chàng bỏ quan, xông pha mưa gió như Dũng, xa hẳn gia đình?
- Hoàn cảnh cũng như cá tính của Lộc đâu có như Dũng mà thoát ly như vậy được?
Thành thử tất cả cái thiện chí luân lý của tác giả ở chương cuối chỉ là một thứ hoa hữu sắc vô hương, làm mất tính cách nhất trí của tâm lý nhân vật và sự xây dựng cốt truyện vì vậy thành máy móc, gượng ép.
Theo ý chúng tôi nếu tác giả để nguyên như cũ, dừng lại ở chương Lộc Mai từ giã nhau ở trên đồi, độc giả sẽ ngậm ngùi biết mấy. Kết cục ra sao, để mặc mỗi độc giả tùy ước muốn chủ quan của mình mà tưởng tượng lấy.
Chú thích:
[20]  Ý tưởng ngộ nghĩnh ấy - ta cho là ngộ nghĩnh - chỉ là kết quả một nền giáo dục quá theo nhân đạo, quá theo lý tưởng của cụ Tú Lãm, một nền giáo dục có thể gọi là lãng mạn (N.C.X. tr 81)
- X - TRỐNG MÁI
Câu truyện
Trống Mái là truyện một cô gái giàu sang học thức (Hiền) yêu vẻ đẹp cân đối của thân hình một chàng thuyền chài chất phác (Vọi). Vẻ đẹp quyến rũ của Hiền đã xúc động Vọi. Anh chàng Vọi đáng thương này biết ghen tức những vẫn nặng tự ti mặc cảm trước Lưu, người ban trai ở chốn kinh thành của Hiền. Rồi qua đi một mùa tắm, năm sau khi Hiền ra Sầm Sơn thì được biết Vọi đã chết trong một buổi “đi nghề”. (Như vậy là thời gian câu chuyện xảy ra vừa đúng một năm).
Nhân vật
HIÊN: - Nàng là một cô gái mới ngoài 20 tuổi lãng mạn một cách táo bạo, ưa thể thao, giỏi bơi lội và đẹp. Vì được mẹ (bà Tham Hậu) nuông chiều, nàng có nhiều ngôn ngữ cử chỉ quá trớn. Nhận xét tổng quan tính cách của Hiền thì nàng là một cô gái vô tâm, nông nổi, thay đổi ý kiên như chong chóng.
Dưới đây là đoạn tác giả giới thiệu một cử chỉ lố lăng của Hiền với mẹ:
- Hiền!
- Dạ!
- Mặc xong chưa, sao lâu thế?
- Xong rồi đấy ạ
Hiền từ trong buồng ngủ vội bước ra, cúi rạp đầu xuống chào theo điệu ca kịch trên sân khấu. Bộ áo tắm màu xanh non rất ngắn để hở cặp đùi hồng hào, cái ngực trắng bong và cái lưng lằn những bắp thịt khiến bà mẹ hơi chau mày (tr.11)
Đây là một cảnh khác trên bãi cát:
Nàng ông lấy mẹ vừa cười vừa hôn:
-  Mẹ tha lỗi cho con nhé.
Chung quanh kẻ cười mát, người bĩu môi. Những bà đứng tuổi cho Hiền là Tây quá, quay lảng đi thì thầm nói chuyện với nhau để tỏ ý khinh bỉ.
Thấy thế Hiền càng làm già, nhảy theo nhịp khiêu vũ quan mình mẹ. Đoạn, ngả đầu chào rồi cắm cổ chạy thực mau về phía nhà khách sạn lớn (tr.17).
Nàng thay đổi ý kiến như chong chóng, điều này chính nàng cũng tự công nhận trong một bức thư gửi cho bạn là cô Oanh:
“Em vẫn dễ đổi ý kiến như khi còn đi học, tuy ngày nay em đã già hơn thời ấy những hai, ba tuổi...” (tr.56).
Tác giả không bỏ lỡ dịp nào để giới thiệu vẻ đẹp cân đối của Hiền:
“Hiền tuy không mặc quần áo trẽn, song thấy có gió mát mà bãi biển lại ướt nên nàng cũng tập chạy để được mệt và thở. Những vạt áo và ống quần lụa đồng màu cốm non, gió thổi ép vào thân thể làm nổi hẳn bộ ngực và hai cái đùi tròn của Hiền” (tr.43).
Bà Tham Hậu góa chồng, nhà giàu, sinh hạ được hai con gái, cô cả (chị Huyện Đài) đã lấy chồng và đã sinh một trai một gái, Hiền là út. Hiền có những cử chỉ quá trớn như trên, mà bà Tham Hậu không mắng bảo được vì:
“Tuổi bà quá gấp đôi tuổi Hiền, nhưng tính nết bà vẫn trẻ như tính nết Hiền. Chẳng thế, hôm đến một hiệu Tây mua áo tắm, bà lại vui vẻ nhờ Hiền chọn một bộ: bà biết rằng những kiểu áo Hiền ưng bao giờ cũng dễ coi và hợp thời trang” (tr.12).
VỌI. - Vọi là một anh dân chài chất phác có thân hình nở nang cân đối, đẹp như một pho tượng Hy Lạp (hợp với sở thích của Hiền). Anh mồ côi cha từ thuở nhỏ. Bác Bật - cha anh - ngày đó cùng bạn chài ra khơi thả lưới, lưới bị mắc, bác Bật lặn xuống gỡ thì bị cá mập ăn thịt.
Sự quê mùa của Vọi đến mức khi anh thấy Hiền đánh răng tưởng đó là thuốc ruộm răng trắng. (xem tr.153)
Đây là vẻ đẹp của Vọi lần đầu tiên xuất hiện dưới mắt Hiền, đẹp theo nhà hội họa, nhà điêu khắc, nhà thể thao:
“Hiền ngạc nhiên: nàng thấy một nhà lực sĩ cường tráng, mỹ lệ như một pho tượng cổ Hy Lạp. Nàng không lưu ý đến mà rám nắng mà chỉ ngắm nghía những nét nhịp nhàng cân đối của một tấm thân thể hoàn toàn. Vọi lại có khuôn mặt đều đặn, cặp mắt hơi xếch và sang, cái cằm vuông và lồi, khiến chàng nổi hẳn trong bọn dân chài nặng nề, kém thông minh” (tr.20).
Vọi đẹp trai nhưng tính nết lại hay bẽn lẽn, thẹn thùng, nhiều cô trong làng thường trêu ghẹo anh, hoặc đi sát vào anh hoặc ve vãn. Có lần, Vọi đưa Lưu ra khơi trên mảng của anh. Vì ngầm ghen với Lưu, lại bực tức vì nhiều lần bị Lưu chế giễu, Vọi lởn vởn có ý định chặt đứt các mối lạt cho các cây bương trôi phăng mỗi cây đi một ngả, Vọi sẽ bơi vào bờ, Lưu sẽ chết đuối. Vọi vô tội. Nhưng sau đó căn bản Thiện thắng, Vọi lại vui cười dựng buồm đưa Lưu trở về.
Các nhân vật phụ khác:
LƯU: - Sinh viên trường Luật luôn luôn có thái độ khinh rẻ những người quê mùa như Vọi. Ghen với Vọi nhiều khi Lưu trở thành nhỏ nhen, bịa đặt ra câu chuyện không đâu để bảo cho anh đánh cá hiểu rằng cô Hiền không cảm động gì về anh ta hết.
PHỤNG: - Cũng là một cô gái mới giàu sang, có cảm tình với Lưu nhưng lại không được Lưu để ý.
BÁC GÁI BẬT (mẹ Vọi) - Mẹ Vọi thật thà chất phác. Nhiều khi có những cử chỉ cầu lợi đặc biệt của những người nhà quê nghèo, đang thương hơn đáng trách.
VÒI - Em gái Vọi, cô bé quê ít tuổi nhưng tinh ranh, v.v...
Tư tưởng
Trống Mái trước hết là câu chuyện tình, tình vô tư và khách quan của Hiền, tình âm thầm tuyệt vọng của Vọi. Nhưng lẩn trong chuyện tình đó có phần tư tưởng. Vậy tư tưởng Trống Mái ra sao?
Trống Mái đề cao nếp sống khoẻ mạnh của con người hoạt động nhịp nhàng giữa thiên nhiên và đả kích nếp sống thuần trí thức nhưng yếu hèn. Có khỏe mạnh mới mong được bình đẳng với kẻ thống trị mình (thời đó là Pháp).
Hiền nghĩ thầm:
“Muốn bình đẳng phải đồng đẳng. Mà trước hết cần nhất phải đồng đẳng về thân thể tráng kiện’” (tr.14).
Hiền thành thực - dù chỉ thành thực trong một thời gian ngắn - muốn lấy Vọi vì cuộc đời hoạt động khỏe mạnh giữa thiên nhiên của Vọi thật đáng ca ngợi, và cảnh trái ngược đáng bỉ là “"cảnh nhỏ nhen lụi sụi, trưởng giả: chồng già đời mài đũng quần trên ghế các công sở, nào bị người trên quở mắng, nào phải tự hạ nịnh nọt kẻ nọ kẻ kia, trong khí ấy thì vợ vênh vang xe nhà ô tô ra phết bà lớn bà bé, với những bộ cánh sặc sỡ lòe loẹt” (tr.67).
Hiền cảm thấy rõ ràng cả một đời nên thơ của kẻ sống trong vạn vật, sống với vạn vật. Mỗi một cử chỉ của mình, mỗi một câu nói của mình đều liên lạc nhịp nhàng với cỏ cây, với đất nước, với ánh sáng; với không khí bao bọc quanh mình. Mỗi một hành vi của mình có một ý nghĩa, một nghĩa triết lý sâu xa, cái hành vi không giả dối vì nó vừa cần phải có để nuôi sống tâm than, vừa làm cho tấm thân nở nang khỏe mạnh (tr.68).
Mà hễ nói đến Sầm Sơn là thế nào cũng nhắc đến tên Vọi. Có lẽ Hiền làm thế chỉ cốt để trêu tức, để hạ cái tính kiêu hãnh của mấy chàng công tử, mấy chàng sinh viên: Đem cái đẹp nở nang của thân thể, cái sức mạnh đều đặn của gân cốt để đối với cái tinh thần ủy mị, cái tri thức cóp nhặt trong sách mà bọn kia không lúc nào quên giảng diễn khoe khoang (tr.183).
Phê bình nhân vật
HIÊN: - Chúng ta thấy Hiền có những ngôn ngữ cử chỉ tự do quá lố với mẹ ở trên. Đọc suốt cuốn truyện, nàng còn nhiều ngôn ngữ táo bạo. Một lần trên bãi tắm trước mặt Hồng bạn nàng, nàng đột nhiên hỏi Vọi:
““Giá tôi lấy anh, rồi chúng ta ra làm nhà ở bãi Lãn này cùng nhau chuyên nghề chài lưới thì anh có bằng lòng không?””
Chỗ khác, sự trắng trợn của Hiền đượm tính chất tình dục khi nói về hai con bướm vờn nhau:
““Thấy Vọi nhìn theo đôi bướm, nàng nói:
- Ở Hà Nội tôi chưa từng thấy có giống bướm đẹp như thế, một cánh xanh lam tươi như thế.
Vọi yên lặng ngẫm nghĩ, Hiền nói:
-  Rõ chúng nó ngốc quá nhỉ, đuổi nhau đã hai ba giờ rồi đấy” (tr.84).
Hiền là cô gái ý thức được sắc đẹp của mình nên vô cùng kiêu hãnh? Lưu, sinh viên trường Luật được bao nhiêu cô mê, được bao gia đình có con gái chào đón, Lưu cố công theo đuổi Hiền mà vẫn bị Hiền “bốp chát” luôn, coi chẳng ra gì. Như vậy thì Hiền yêu Vọi - hãy tạm gọi đó là tình yêu - cũng như nàng yêu một đồ vật đẹp, cả chỉ có thể coi Vọi là quá chất phác, quá ngu si nàng mới có thể dám trắng trợn hỏi “Giá tôi lấy anh... thì anh có bằng lòng không?”. Câu hỏi đó còn là một hình thức của kiêu hãnh vì “xưa nay nàng vẫn hay nghĩ đến những sự khác thường, thích làm những việc mà người ta không làm được hay không dám làm” (tr.66)
Hai chương XVII, XVIII nói đến tiệc trà do Hiền tổ chức hồi năm giờ để mời các bạn đến nghe nàng kéo violon. Việc nàng mời Vọi đến giữa đám bè bạn nam nữ trưởng giả đó để làm bia cười, là một việc làm vô ý thức, mặc dầu nàng có thiện ý khác.
Nhưng cái đáng ghét nhất là thái độ vô tâm tầm thường nông cạn đến phi lý của Hiền. Có cảm tình với Vọi là thế, đã đi mảng ra khơi với Vọi, dạy Vọi tập bơi theo lối mới, mời Vọi đến dự tiệc trà... Ấy thế mà sau tiệc trà, bốn hôm không gặp Vọi (vì Vọi sốt) nàng đã hoàn toàn quên anh chàng, coi như ở Sầm Sơn không hề có Vọi (tr.133). Vụ hè năm sau “vào Sầm Sơn đã gần nửa tháng mà không một lần nàng nhớ đến người năm trước đã làm cho vụ nghỉ của nàng đỡ buồn tẻ” (tr.189).
Mãi đến hôm cùng Lưu, Phụng lên hòn Trống Mái, thấy chữ V.H đục sâu vào đá Hiền mới liên tưởng đến Vọi.
Phụng tinh quái nói giỡn:
-  Hay chị lại đặt một tiệc trà mời anh ấy đến dự?
Hiền vui mừng reo:
- Ồ, phải đấy! Vậy ta đên mời anh Vọi đi.
Dứt lời nàng đi thẳng, Lưu và Phụng đưa mắt nhìn nhau rồi thong thả theo sau”” (tr.191).
Đọc đến đây ta thấy Hiền chẳng còn gì là đẹp, tâm lý nhân vật hoàn toàn đổ sụp vì sự phi lý đó.
Tư tưởng của Hiền cũng nông cạn như những hành động của nàng:
“Ừ, họ cứ nói, cứ bàn suông rằng không nên phân đẳng cấp. Vậy sao ta lại không thể là vợ anh Vọi được? Anh Vọi và ta đều không thuộc đẳng cấp nào cả. Vì đã không chia đẳng cấp thì còn gì có đẳng cấp? Nhưng nếu người chồng có trí thức không làm cho sung sướng bằng người chồng kém trí thức?”” (tr.69).
Nhưng hỏi Hiền có thực bình dân để dám lấy Vọi, người thấy thuốc đánh răng cho là thuốc ruộm răng trắng, người mà khi đến dự tiệc trà được tả như sau:
“Một người nhà quê đi chân không, đầu chụp cái khăn lượt cũ, mình mặc chiếc áo lương dài, rụt rè tiến vào phòng, ngơ ngác sợ hãi nhìn quanh””.
Thành thử những tư tưởng khác về sau của Hiền chỉ là những tư tưởng giả trá.
“Sẵn có một nền học vấn lãng mạn. Hiền bài trí rất mau ra một cuộc đời đầy đủ, êm đềm: Hai vợ chồng cùng đẹp khỏe, chỉ biết yêu nhau và làm việc bằng chân tay”” (tr.135).
Có lẽ chính tác giả cũng thấy chỗ cực đoan của tư tưởng đó nên đã có lần tác giả để Hiền nghĩ:
“Cái đẹp của hình thức khó cảm được trái tim của người có tri thức, nếu cái đẹp hình thức ấy không chứa một tâm hồn tương đương.
Nhưng Hiền liên miên nghĩ tiếp luôn: “Biết thế nào là tương đương? Tâm hồn không hẳn là tri thức. Có tri thức mà gian trá, lừa dối tàn ác không bằng có một tâm hồn ngây thơ thô lỗ mà thành thực’”.
Chỗ này chúng ta đồng ý với Hiền! Gì bằng tri thức và hình thức tương đương. Những người ngây thơ thành thực như Vọi ai mà chẳng quý, như vời những dữ kiện đã nêu lên chúng ta vẫn thẳng thắn hỏi: Yêu quý đến chuyển sang tình yêu trai gái, Hiền có thực dám lấy Vọi và tìm thấy hạnh phúc trong chuyện lứa đôi đó?
VỌI. - Sự tiến triển tâm lý ở Vọi khá hợp lý.
Đây là lúc sắc đẹp của Hiền sau một thời gian gần gũi đã có tác động đến tâm hồn chất phác của Vọi. Anh đã biết đi dạo mát trên bờ biển và nhận xét thiên nhiên một cách tình tứ. Anh nói với bà Hậu và Hiền:
“Thưa bà, thưa có bàn chân đặt lên cát ướt sáng loáng như bạc’”.
Trái tim xúc động nhưng vẫn là xúc động chất phác: “Vọi tuy khuyên nàng nên đi đường biển cho chóng chẳng về trễ “bà, cậu” mong mỏi chờ cơm. Nhưng chàng vẫn lấy làm sung sướng được ở bên nàng lâu hơn một lát nữa: Cái sung sướng ấy chẳng một lần nào Vọi nghĩ đến và tìm hiểu xem cội rễ từ đâu”” (tr.98).
Rồi vụ hè hết, những người nghỉ mát rời khỏi Sầm Sơn, Vọi nhớ Hiền... Tác giả tả tâm lý Vọi ở đoạn này vừa nhẹ nhàng vừa bình tĩnh mà thật là đúng:
“Đã hơn nửa tháng, ngày hai buổi, sáng và chiều, Vọi vẫn thản nhiên cùng phường bạn ra bãi xóm Sơn, bãi Sầm Sơn đánh rút hay lên mảng đi đánh lộng, đánh khơi. Nhưng cái lòng yêu nghề, cái vui sướng tung lưới ở ngoài biển rộng, cái ham thích mạo hiểm phiêu dạt lang thang mấy ngày trời trên làn sóng dữ, Vọi không còn có nữa”” (tr.166).
Nhưng đôi chỗ tác giả cũng để cho tâm lý Vọi đến chỗ tinh tế quá, mâu thuẫn với bản tính chất phác của anh. Tỉ như ở chương XXVIII, Vọi dừng bước trước hòn Trống Mái, nhìn mảnh vỏ dừa khô nhớ lại một cảnh âu yếm rất lãng mạn:
“Hôm ấy cô Hiền bảo Vọi đưa đi coi dãy núi Đường Trèo. Khi trở về Hiền kêu khát nước, tức thì Vọi chạy vào làng mua được một quả dừa đem đến. Không có cốc, có bát, Hiền phải cầm quả dừa dốc ngược nước vào miệng. Uống xong nàng cười ngất đưa chỗ còn lại cho Vọi. Trong đời Vọi thật không lần nào Vọi được uống một thứ nước dừa ngọt và dịu như thế, phảng phất mùi thơm hơi thở và mùi phấn hồng bôi môi.'’” (tr.173).
Lần đó dừng bước trước Hòn Trống Mái, ngắm nhìn mảnh vỏ dừa khô Vọi đã bưng mặt khóc rưng rức.
Một lần khác, một chiếc lá lộc vừng đỏ rơi vào lòng Vọi khiến Vọi kinh hoảng kêu: “Trời ơi, cô HiềnV”. Vì màu chiếc lá rụng đỏ sẫm như màu vỏ xó vừa nhắc chàng nhớ tới bộ áo tắm Hiền thường mặc (tr.178).
LƯU. - Nhân vật này cũng giữ được tâm lý thống nhất từ đầu đến cuối, khinh rẻ những cuộc đời nghèo hèn. Duy có một điều khiến người đọc phải thắc mắc: không lẽ một sinh viên trường Luật (xin nhớ là thời này sinh viên đương được trọng vọng lắm lắm) mà kiên nhẫn, nhiều khi mất hết lòng tự ái đến thế?
Lưu đến sớm nhất trong tiệc trà được bà Hậu khen. Lưu cười trả lời:
-  Thưa Cụ, Thánh nhân đã dạy: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”
Hiền lẩm bẩm (Lưu có nghe thấyj.
-  Nhạt (tr.112).
Đây là đoạn Hiền muốn rủ Lưu, Phụng cùng đi thăm Vọi ốm. Lưu thoạt kiếm cớ thoái thác. Hiền cáu.
Lưu cười gượng:
-  Cô nóng quá, cô còn chẳng sợ lây nữa là tôi thân danh một nam nhi dõng cảm.
-  Hiền vẫn còn căm tức và chẳng hiểu sao nàng cảm thấy nàng ghét Lưu về đủ các phương diện. Nàng díu đôi lông mày nhìn đi nơi khác và bật lên tiếng cười the thé chua chát, cay độc lạ lùng.
-  Đi thì đi, không đi thì thôi, làm gì mà phải dở những thân danh nam nhi dõng cảm ra như thế, nó có vẻ... (tr.139)
Phê bình tình tiết câu chuyện
Tình tiết câu chuyện được bố trí như sau:
Phụng có lòng yêu Lưu nhưng Lưu không để ý, Lưu yêu Hiền nhưng thường lại bị Hiền nhạo báng hắt hủi nữa; Hiền có cảm tình với Vọi nhưng Vọi chỉ là một anh phường chài chất phác đần độn. Nhiều khi Lưu gần Phụng, tỏ vẻ thân mật với Phụng những mong gợi lòng ghen của Hiền nhưng Hiền dửng dung. Tuy nhiên mối tình giữ Lưu và Hiền có cơ thành tụ. Tác giả hé cho ta thấy sự thành tựu đó ở chương XX:
“. Vâng, sao vắng mặt em Sầm Sơn lại buồn tênh được?
Lưu không để ý đến câu nói của Hiền, chàng chỉ nhận thấy chữ “em” lần đầu thốt ra ở miệng người mình yêu nghe thấm thía đến tận tâm hồn khiến một lúc lâu chàng yên lặng mơ màng sung sướng." (tr.126).
Hiền liếc mắt nhìn Lưu, cảm thấy Lưu đẹp lên bội phần và đương mỉm cười âu yếm nhìn mình (tr.127).
Và ở đoạn kết:
Trong bọn đó tất nhiên phải có Lưu, người vừa chiếm số một trong kỳ thi năm thứ ba trường Luật và có lẽ chiếm cả số một trong những người hy vọng chiếm trái tim có Hiền (tr.187)..
Mối tình Lưu - Hiền thì hợp lý, nhưng mối tình Hiền - Vọi có thể được chăng? Sự thực mối tình đó chỉ là một sản phẩm của một trí tưởng tượng quá bồng bột của Hiền, đúng hơn là của tác giả.
Đó là một mối tình lý tưởng chăng? Lý tưởng là cái gì cao đẹp mà người ta ao ước đạt được hoặc có thể ôm ấp để an ủi. Mối tình Hiền - Vọi chỉ là một mối tình không tưởng vì nó phi lý quá. Rồi mai đây ta theo kịp trình độ văn minh tri thức của nhân loại, anh dân chài của ta cũng có một trình độ tri thức đáng kể thì câu chuyện sẽ lại khác hẳn.
Chúng ta hãy đọc đoạn cuối của câu chuyện, tiện thể đặt vài lời để phê bình. Hiền đến thăm Vọi, biết tin Vọi đã chết vì cá nhà táng như cha anh xưa (cái chết của Vọi cũng gượng ép):
Hiền cầm ba tờ giấy năm đồng đưa cho bác Bật:
-  Chúng tôi đài... (Thái độ cho tiền này sao mà khinh mạt!)
Người đàn bà khổ sở đưa tay đỡ lấy tiền mếu máo nói:
-  Ơn này tôi biết làm thế nào trả được.
Hiền buồn rầu đáp lại một câu rất bí mật:
-  Tôi là một người có tội, dẫu làm phúc bao nhiêu cũng không chuộc được tội ác đau, bà ạ. (Sự hối hận của một cô gái vô tâm và nông cạn như Hiền, kéo dài được bao lâu?).
Đoạn nàng đứng dậy chào bác Bật, rồi cùng Lưu và Phụng ra về. Vòi tiễn đến cổng, Hiền ghé tai thì thầm bảo cô bé nhà quê láu lỉnh:
-  Khi nào em cần chị giúp điều gì, thì cứ lại đằng nhà.
Đến hòn Trống Mái, Hiền cảm động quá, ngồi xuống đồi, hai tay ôm đầu nghĩ ngợi. Phụng cùng ngồi xuống thở dài ứa nước mắt lẩm bẩm:
- Chỉ tại mình! (Phụng nói câu này vì mấy tháng trước đây vào mùa đông, nàng ra sửa nhà gặp Vọi. Vì ghen tức xa xôi nàng nói dối Vọi là Lưu Hiền đã chính thức ăn hỏi, khiến Vọi phải thất vọng.
Lưu đứng tựa tảng đá nhìn ra xa (Lưu hoàn toàn thản nhiên với cái chết của Vọi).
Ngoài kia tiếng sóng vẫn rầm rộ đổ hồi.
Như trên chúng ta đã xét mối tình Hiền - Vọi trong Trống Mái là mối tình không tưởng; tư tưởng ẩn trong truyện Trống Mái ca ngợi nếp sống bình dân không phân chia giai cấp, ca ngợi nếp sống khỏe mạnh của con người hoạt động nhẹ nhàng giữa thiên nhiên và đả kích nếp sống thuần trí thức yếu hèn. Tư tưởng đó đẹp lắm, ai cũng đồng ý, nhưng tư tưởng đó lại muốn được thể hiện ở Vọi chỉ có đức tính thật thà chất phác nhưng hoàn toàn thiếu tri thức, ở Hiền một cô gái vô tâm, kiêu hãnh, nông cạn. Chính những nhân vật bất toàn đó làm sụp đổ những tư tưởng đẹp trên. Vậy ưu điểm Trống Mái chúng ta phải tìm thấy đâu?
Ưu điểm Trống Mái
Đây là một khúc trường ca, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi cuộc sống vất vả nhưng phóng khoáng của những người dân chài giữa khoảng trời cao biển rộng.
Với những địa danh xóm Sơn, khe Thờ, hòn Buồm, núi Mè, núi Đầu Câu... Với những danh từ chuyên môn: đánh rút, đánh mảng, đánh khơi. tác giả đã khéo gợi một bối cảnh chài lưới rất linh động.
Đẹp nhất là những đoạn tả cảnh với những nhận xét tỉ mỉ, đôi khi cảnh tình hòa hợp, dưới đây chỉ xin trích mấy đoạn đặc sắc nhất:
“Về phía Đông Nam, nơi chân trời mặt nước, những đám mây nặng nề, đặc biệt từ từ đùn lên và phản chiếu ánh chiều tà trở nên sắc tím hung, phớt màu vàng thắm da cam (tr.31).
Bỗng Vọi rùng mình? Trăng vừa từ trong đám mây đen ló ra, gieo ánh vàng lóng lánh xuống mặt biển ngoài bài Khe Thờ, ở khoảng giữa Hòn Buồm và núi Gầu Cao.
Bóng hòn Trống in xuống tảng đá bệ và gối lên đầu hòn Mái. Bóng Vọi cũng nằm dài theo song song với bóng tảng đá chênh vênh (tr.41).
Trời đã tối hẳn vì là một đêm hạ tuần, vì mãi chín mười giờ trăng mới mọc. Rặng đèn điện trên đường cao chiếu ánh xuống những đợt sóng thành những tình trạng rất lạ lùng: có lúc trông giống một đoàn quái vật vẩy dát lân tinh. Chúng gầm hét đuổi nhau, biến đi, hiện ra mãi mãi không cùng” (tr.123).
Tổng kết
Phần tả người, tả cảnh, tả tình đặc sắc, nhưng một tác phẩm không phải chỉ cần có thế, còn phần tư tưởng đó tuy đẹp nhưng tiếc thay đã hoàn toàn sụp đổ ở những nhân vật bất toàn.
Trống Mái là tiểu tưởng lý tưởng của Khái Hưng chăng? Nếu cố tình gán ghép là thế, thì Trống Mái là cuốn tiểu thuyết lý tưởng đuối nhất so với hai cuốn trước: Hồn Bướm Mơ Tiên và Nửa Chừng Xuân.
Phải chăng vì thế mà ngày nay tuy có thể là vẫn còn được đọc nhưng ít người chú ý đến Trống Mái?
XI- PHỤ LỤC TRÍCH
Đoạn tuyệt
Loan và Dũng
Một buổi trưa chúa nhật, về mùa đông. Trong gian phòng ấm áp, bốn người ngồi quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài, mưa bụi lặng lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi, cành lá nặng nề, ướt át.
Nghe có tiếng trẻ rao báo ngoài phố, bà giáo Thảo nhìn ra vườn hỏi chồng:
  -  Cậu đã mua báo hôm nay chưa?
Ông giáo Lâm đáp:
 -  Mua rồi, tôi quên không đưa mợ xem
  -  Thế họ có đăng tin gì thêm không, cậu?
  -  Không.
Thảo quay về phía một cô thiếu nữ ngồi ở ghế đệm dài, rồi hỏi:
- Thế nào, chị Loan đã biết tin cô Minh Nguyệt tự tử chưa?
Loan đáp:
- Tôi biết rồi, biết trước khi họ đăng báo, vì tôi có quen cô ta. Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử.
Thảo nhìn bạn mỉm cười:
- Chị nói dễ quá. Còn chồng, còn con...
Loan ngắt lời:
- Cô ấy chưa có con.
- Vâng thì cô ấy chưa có con. Nhưng còn chồng... con gái đã bỏ chồng là mất cả một đời rồi còn gì. Mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi, cô Minh Nguyệt cho đời mình là hết hy vọng.
Loan nói:
- Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường.
Thảo thấy bạn nói có vẻ giận dữ, mỉm cười đáp:
- Chị đã biết ở xã hội mình, lấy chồng là lấy cả gia đình nhà chồng. Nếu không muốn thế thì chỉ có một cách là không lấy chồng nữa hay là chọn người nào không có gia đình mà lấy.
Rồi nghĩ đến việc riêng của Loan, thấy Loan hiện đang bị bố mẹ ép lấy một người mà Loan không thuận, Thảo liền ôn tồn nói tiếp:
- Nhưng nào mình có được tự ý kén chọn đâu mà bảo kén chọn.
Từ nãy đến giờ, Dũng ngồi sát lò sưởi, loay hoay xếp lại mấy thanh củi, không nói một câu. Thấy hai cô bạn bàn tán mãi về một câu chuyện đã cũ kỹ, chàng liền quay lại nói:
Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi, muốn yên ổn thì đừng nghĩ đến nữa.
Thảo đáp:
- Anh thì anh cần gì gia đình mà bảo nghĩ đến. Còn chị Loan nay mai phải về nhà chồng, chị ấy không để tâm sao được.
Rồi nàng mỉm cười tinh nghịch:
  -  Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia đình như anh.
Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt nghĩ đến nhân duyên của nàng. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học thuở nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà. Việc này nàng thấy cha mẹ nói từ hồi nàng mới để tóc. Hai nhà trong mười năm trời nay vẫn đi lại thân mật, hai bên cha mẹ đã định ước cho Thân và Loan lấy nhau. Loan vẫn nhất quyết không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng, sẽ được sung sướng, an nhàn. Nhưng chỉ vì Loan càng ngày càng thấy cái tình của mình đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bạn bè như trước kia. Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình.
(Đoạn tuyệt - Phần thứ nhất - Chương I)
Hai quan niệm
Buổi chiều khi ăn cơm xong, bà Hai bảo con:
-  Con đi với mẹ ra phố hàng Đào.
Loan hỏi:
-  Thưa mẹ, mẹ muốn mua gì cơ ạ.
-  Mua ít vải may áo cho cô... Cô ưa thứ nào thì đi với tôi mà chọn.
-  Nhưng thưa mẹ, con đã đủ áo mặc chẳng cần phải mua thêm, tốn tiền.
Bà Hai nói:
-  Nhưng lúc cần tốn thì phải tốn. Con thích nhung hay gấm?
-  Thưa mẹ, con ghét cả hai thứ. Ăn mặc xuềnh xoàng thế nào xong thôi; vì những áo cũ của con còn dùng được vài năm...
Bà Hai ngắt lời:
-  Cái cô này gàn lắm. Thôi, mặc áo rồi đi không có lại tối.
Loan vẫn vờ ngây thơ hỏi:
-  Nhưng may rồi để đấy, không bao giờ mặc đến thì mất tiền toi vô ích.
Bà Hai gắt:
-  Cô này định trêu tôi đấy à?
Loan trả lời vắn tắt:
-  Thưa mẹ, không.
Rồi nàng cúi đầu yên lặng một lúc lâu. Bà Hai đoán là con sắp giở chứng, vội dịu lời bảo:
-  Thôi cái đó tùy cô.
Loan ngửng đầu nhìn thẳng rồi thong thả nói:
-  Vâng thì xin mẹ để tùy con, và nhân thể mẹ để tùy con định có nên lấy chồng hay không nên lấy chồng. Con đã nhiều lần thưa với mẹ rằng con không thể...
Bà Hai giận dữ:
-  À, cô không thể... Cô phải biết cô lớn rồi, cô phải biết nghĩ chứ!
Loan vẫn ung dung từ tốn:
-  Thưa mẹ, chính vậy. Chính vì con lớn, con biết nghĩ nên con mới thưa cùng mẹ rằng con không thể về làm dâu nhà ấy...
Bà Hai nói:
-  Dễ thường cô tưởng chuyện chơi sao?
Loan đáp:
-  Không, con không cho là chuyện chơi. Con cho là một chuyện rất quan hệ trong đời con, mà chỉ quan hệ đối với con mà thôi.
-  Còn tôi? Ra cô không coi lời hứa của tôi vào đâu cả.
-  Thưa mẹ, sao mẹ hứa với người ta, trong bao nhiêu năm mẹ nhận lễ của người ta. Nếu mẹ nghe con ngay từ trước? Người ta đến ăn hỏi, mẹ cũng cứ nhận, lỗi đó không phải ở con, vì mẹ không cho con hay. Việc của con mà thầy me coi con như là không có ở nhà này.
Bà Hai vẻ mặt hầm hầm:
-  À, ra bây giờ cô lại mắng cả tôi. Phải, tôi tự tiện, nhưng cô phải biết, vì lẽ gì nên tôi mới tự tiện chứ. À ra mất tiền cho ăn học, để cô văn minh, cô về cãi cả bố mẹ... Hỏng!...
Bỗng thấy chồng đi qua hiên, bà Hai lên tiếng:
-  Này ông, ông lại xem con ông nó mắng tôi kia kìa.
Ông Hai quay lại mắng con:
-  Không được hỗn!
Loan nhìn ra đáp:
-  Thưa thầy con không hỗn. Không bao giờ con dám vô lễ với mẹ con. Nhưng ít ra mẹ con cũng để con nói chuyện phân bày phải trái về việc rất quan hệ đến đời con.
Ông Hai nghiêm nghị nhìn con rồi bảo:
-  Việc ấy thầy mẹ định rồi và sẽ lo liệu thu xếp cho cô, cô không phải bàn. Cái thói ở đâu, hễ mẹ nói câu gì là cứ mồm một mồm hai cãi trả lại xa xả. Văn minh vừa vừa chứ, người ta mới chịu nổi!
Loan cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi nàng nói giọng cương quyết:
-  Thưa thầy me, thầy me cho con đi học, thầy me không thể cư xử với con như con vô học được nữa. Không phải con kiêu ngạo gì, đó chỉ là một sự tự nhiên. Lỗi ấy không ở con. Phân bày phải trái với bố mẹ không phải là bất hiếu như ý con tưởng.
Thấy me ứa nước mắt khóc, Loan quay lại nói riêng với bà Hai:
-  Thưa me, con xin lỗi me đã làm me phải phiền lòng. Nhưng còn hơn là để me buồn khổ mãi mãi. Nếu con không cắp sách đi học, con sẽ cho lời me là một cái lệnh không trái được, con sẽ như mọi người khác bị ép uổng, rồi liều mình tự tử. Đó mới là bất hiếu. Chớ nói rõ để me biết chỉ làm phiền lòng me chốc lát mà thôi. Thầy me giận con, vì thầy me không thể tưởng tượng được rằng làm phận con lại dám cả gan trái lời bố mẹ. Con cho thế mới là phải đạo.
Ngưng một lát, Loan nói tiếp:
-  Vâng, con nhận rằng con mới quá, nhưng con đã đi học, không thể không cư xử theo sự học của con được. Bây giờ thì tùy quyền thầy me.
Ông Hai, bà Hai tuy thấy con nói có lý, nhưng không khỏi ngạc nhiên, lo sợ. Ông bà mang máng thấy con mình xa cách hẳn mình, thành một người ở xã hội khác hẳn cái xã hội Việt Nam bình thường... Ông Hai, bà Hai thuộc về hạng trung lưu, vốn sinh nhai về nghề buôn chiếu, chỉ biết theo những tục lệ của ông cha để lại, không hề để ý đến rằng ở trong xã hội hiện có một sự thay đổi to tát. Từ ngày cho con gái đi học, ông bà mới dần dần tiếp xúc với sự thay đổi đó. Đến nay, trước một việc quan trọng, ông bà càng cảm thấy rõ và lo sợ mà nhận ra rằng con mình không cùng một quan niệm về cuộc đời như mình nữa, cách biệt xa lắm.
(Đoạn tuyệt - Phần thứ nhất - Chương III)
Một quan niệm cách mạng
Một buổi chiều về cuối năm, một buổi chiều êm như giấc mộng; mấy cây thông ở đầu hiên nhà đứng lặng yên, đợi gió.
Dũng và Độ, hai người thẫn thờ, không nói, ngả đầu vào lưng ghế, nhìn khói thuốc lá từ từ lan ra ngoài nhà rồi tan vào quãng không.
Trên bàn phủ vải trắng, có để một chai rượu mùi, hai cái cốc đầy rượu và một đĩa quả: sắc thủy tinh trong, pha với màu xanh, vàng, đỏ của trái cây diên ra một quang cảnh ấm áp.
Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây lướt thướt trên những cánh đồng cỏ màu xanh già. Những thôn xóm rải rác dưới chân đồi hay bên bờ con sông trắng cong queo như bị đè nén dưới vẻ to tát của trời đất rộng rãi. Khói thổi cơm chiều ở một vài nhà gần không có sức lên cao nữa, tỏa ra thành từng đám màu lam ôm lấy các mái tranh.
Tiếng người gọi nhau ở dưới đồng đưa lên khiến Dũng nghĩ đến cái đời của dân quê, cái đời lạnh lẽo, vô vị kéo dài đã mấy nghìn năm. Đã mấy nghìn năm, họ sống như bám lấy mảnh đất già cỗi, xưa thế nào giờ vẫn thế, vui ít khổ nhiều, bao giờ cũng thảm đạm như buổi chiều đông này, không hề khao khát một cảnh đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay.
Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiệu cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân.
Quanh năm xuôi ngược, dừng chân lại ít ngày ở đồn điền một người bạn thân, ngồi nhàn nhã uống cốc rượu tiễn năm trong một tòa nhà gạch sang trọng. Dũng vẫn thấy mình là một người dân và càng cảm thấy cái thú man mác được hòa với đám dân không tên tuổi, sống cái đời của họ sống, mong ước như họ mong ước, khác nào một cây cỏ lẫn trong muôn nghìn cây cỏ ngoài nội. Nhưng trong cái thú hòa hợp ấy có lẫn chút rạo rực, náo nức, vì chưa được thỏa nguyện về hiện tình của dân quê, nên khao khát mà sự khao khát không diễn được nên lời ấy, nó bắt Dũng tin ở sự thay đổi, tin ở công việc Dũng làm trong bấy lâu và có lẽ làm mãi, chưa biết bao giờ nghỉ.
Độ nhìn Dũng thương hại cho bạn bấy lâu sống cuộc đời gian nan, vất vả, phiêu dạt khắp bốn phương trời. Chàng gạt tàn thuốc lá, thở dài, nói vẩn vơ một câu như để mong an ủi bạn:
-  Sống không nghĩ ngợi như bọn dân kia thế mà lại sướng.
Dũng đáp:
-  Tôi cũng nghĩ như anh, vì tôi tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ hơn lên được. Có lẽ họ đã quen với cái khổ lắm rồi, nên họ không biết khổ nữa, hay họ có biết cũng không tỏ ra được... Ta phải diễn tả ra cho họ thấy và những sự ta mong ước cho họ, ta phải làm cho họ mong ước như ta. Tôi vân hằng mong ước dân quê. đỡ phải chịu hà hiếp, ức bách. Ta phải tin rằng sự ao ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê cũng ước mong một cách tha thiết như ta.
(Đoạn tuyệt - Phần thứ hai - Chương IV)
Tấm thảm kịch
Mợ tắt đèn!
-  Để tôi đọc nốt đoạn này đã. Cậu cứ quen như ở ấp. Bây giờ mới hơn tám giờ, ở Hà Nội ai lại ngủ sớm.
Nói vậy song không phải vì Loan muốn đọc sách nên để đèn sáng. Tuy mắt nàng nhìn vào trang giấy, nhưng trí nàng để vào những chuyện đâu đâu. Thỉnh thoảng nàng lại với con dao díp để ở đầu bàn và thong thả đưa dao rọc sách, mắt vân nhìn vào trang giấy như một người đương xem mê mải.
Loan thấy Thân nằm bên cạnh chốc chốc lại vật mình, thở dài. Nàng biết Thân bực lắm, vì Thân chỉ đợi nàng tắt đèn đi ngủ là xuống nhà dưới với Tuất, vì từ hôm dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại nhà ở dưới ấp, Tuất về quê vắng, hôm nay vừa mới lên.
-  Sao bảo mợ tắt đèn, mợ lại không tắt đèn?
-  Ô hay! Cậu cứ đi ngủ đi, tôi cần đèn để xem sách.
-  Mợ để đèn tôi không ngủ được.
-  Cậu xoay mặt vào tường mà ngủ.
Loan hơi lấy làm lạ về câu nói gắt gỏng và lần đầu có ý trịch thượng của mình đối với chồng. Là vì bị bắt nạt lâu, đến khi muốn chống cự lại thì bao giờ cũng làm quá để tỏ ra rằng mình không thể chịu nhịn được nữa. Loan đã đến cái thời kỳ ấy. Mới hơn một tuần lễ nay, nàng có cái ý tưởng rằng: hễ người ta còn dễ bắt nạt, thì người ta còn bắt nạt mãi, và muốn cho người ta vị nể mình, thì không gì hơn là chống cự lại. Loan có ngờ đâu rằng làm như thế, chính là bắt đầu bất phục tùng cái chế độ hiện có trong gia đình. Loan đã đến thời kỳ không cần nữa, nên nàng không hiểu được cớ sao bấy lâu nàng đã chịu nhịn được như thế. Nàng vẫn tự hỏi:
-  Cái gì bắt ta phải đau đớn, khổ nhục mãi mãi?
Cái cớ hy sinh để được vừa lòng mẹ trước kia bây giờ không đủ sức mạnh để dìu dắt nàng nữa. Nàng chỉ nhận thấy bấy lâu nàng đã hèn nhát sống theo tục lệ, không có cái can đảm phá tan những tục lệ mà cái học của nàng đã cho nàng biết được rằng đáng bỏ, đáng phá.
-  Tôi bảo mợ không nghe à? Phép ở đâu thế?
-  Tôi xin cậu để yên cho tôi xem. Cậu muốn tắt đèn thì ra mà tắt.
Yên lặng một lúc rồi Loan thấy chồng giật lấy quyển sách ở tay nàng vứt mạnh xuống đất. Loan đặt con dao lên bàn, cúi xuống nhặt sách, phủ bụi rồi lẳng lặng giở ra đọc, làm như không xảy ra sự gì cả. Loan thấy Thân ngồi nhỏm dậy, liền quay lại hỏi:
-  Cậu làm gì thế?
-  Mợ không được láo.
-  Tôi láo cái gì?
Thân đập mạnh hai tay xuống chiếu quát:
-  Mợ cãi à?
Rồi tiện chân đạp mạnh vào lưng Loan, làm Loan ngã lăn xuống đất. Nàng vừa lóp ngóp dậy đương vấn lại tóc thì ở ngoài nhà có tiếng bà Phán:
-  Làm cái gì mà huỳnh huỵch trong ấy thế? Có dạy vợ thì lúc khác hãy dạy, để yên cho người ta ngủ.
Loan nói:
-  Ai dạy ai? Động một tí thì dạy. Tôi không cần ai dạy tôi.
Thân cầm cái gối lăm le ném vào Loan:
-  Phải, có thế mới là đồ mất dạy.
Loan đáp:
-  Mất dạy là đánh người đàn bà yếu ớt, hèn nhát một lũ...
Bà Phán vội quá, đi chân đất vào buồng, nhìn Loan hỏi:
-  Mợ nói gì thế?... Mày nói gì thế, con kia?
Loan quay mặt vào trong không đáp. Bà Phán nói tiếp:
-  Bà thử đánh mày một cái tát xem mày còn bảo là hèn nhát nữa không?
Loan nói:
-  Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.
-  Tao có quyền, mày cứ chửi lại xem nào.
Loan quay lại:
-  Tôi không quen chửi. Chửi người khác tức bẩn mồm mình.
Lần đầu bà Phán thấy một câu như vậy ở miệng Loan nói ra. Bà nhảy chồm lên, hai mắt tròn xoe rồi sấn lại nắm lấy Loan tát túi bụi. Con Bình thấy có tiếng động chạy vào xin hộ Loan:
-  Con lạy bà, lạy cậu tha cho mợ con.
Bà Phán ngừng tay ngoảnh lại:
-  Tha gì, đánh cho chết!
Rồi bà vừa thở vừa bảo Thân:
-  Tao không thèm tát nữa bẩn tay. Mày dần xác nó ra cho tao.
Loan vuốt tóc ngửng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng:
-  Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai. Bà đánh tôi, tôi không...
Nói chưa dứt lời, Loan giật mạnh tay ra, đứng lùi lại sau. Bà Phán ôm lấy ngực rồi nằm vật xuống giường kêu:
- Trời ơi! Nó đánh chết tôi!
Loan nói:
-  Bà đừng vu oan.
Rồi thấy Thân chạy lại, Loan bảo:
-  Tôi xin cậu đừng chạm vào người tôi.
Vừa nói hết câu thì một cái đấm mạnh vào ngực làm Loan chau mày, cúi gục đầu vào tường, rồi người nàng bị đẩy ngã lăn xuống đất. Nàng cố sức đứng dậy đi lùi vào góc giường và cảm thấy cái phẩm giá mình lúc ấy không bằng phẩm giá một con vật.
-  Mợ muốn sống thì đứng lại!
Bà Phán đã ngồi dậy, trỏ tay, mồm nói:
-  Đánh chết nó đi cho tôi. Chết đã có tôi chịu tội.
Loan vẫn lùi. Thân hục hặc nhìn quanh, rồi tiện tay cầm ngay lấy cái lọ đồng sấn lại phía nàng. Loan thấy Thân đã đến gần mình, trong lúc hốt hoảng liên vớ ngay con dao díp rọc sách để ở bàn định giơ đỡ. Thân như con hổ dữ đạp đo một cái lọ đồng đập vào Loan. Loan né mình tránh được và trượt chân ngã xuống giường, con dao cầm chắc trong tay. Thân quá đà cũng ngã mạnh vào người Loan, Loan thấy cái cán dao ấn mạnh lên tay nàng và Thân kêu lên một tiếng. Con sen cũng kêu theo:
-  Trời ơi, cậu giết chết mợ con rồi!
Loan buông dao, rút mạnh tay đứng dậy, còn Thân thì nằm ngửa ra hai tay ôm ngực. Bỗng Loan mở to mắt nhìn một vết đỏ loang trên áo Thân. Nàng sợ hãi đưa tay lên che mồm, bông dừng lại: mấy ngón tay nàng vấy máu đỏ lòe.
Loan đứng sững không nhúc nhích trong lúc bà Phán kêu gọi thất thanh. Bích, Châu và Tuất ở ngoài chạy vào ngơ ngác, rồi xúm quanh chô Thân nằm. Loan vẫn đứng yên mê man, bên tai nàng văng vẳng tiếng nói cuống quít lẫn với tiếng kêu khóc. Bà Phán đứng lên quay lại nhìn Loan, Loan suốt đời không quên được hai con măt của bà Phán nhìn nàng:
-  Con bà mà chết thì mày bỏ xác mày với bà.
Một y sĩ ở gần đó thấy tiếng kêu chạy lại. Mọi người đều dãn ra. Y sĩ cúi xuống xem xét một lúc rồi lăc đầu nói:
-  Trúng tim... cụ cho đi trình cẩm và bảo người về nhà tôi lấy thuốc và bông lại đây ngay. Cụ cho thuê xe đưa ông vào nhà thương.
Nhưng nghĩ một lát, y sĩ lăc đầu nói:
-  Không kịp.
Loan hiểu ngay, liền chạy vội lại chô Thân nằm. Thấy bà Phán kêu rú lên xua tay đuổi, y sĩ vội nói:
-  Không sao, cụ cứ để bà ấy đến.
Vì chàng biết rằng Thân không còn sống được mấy lúc nữa.
Loan ngồi ghé bên giường nhìn Thân, Thân lúc bấy giờ mặt đã xám lại, hai con măt nhìn hết cả tinh thần.
-  Tôi xin lôi cậu.
Loan ngừng lại vì nàng vừa thấy Thân trợn ngược mắt và y sĩ thốt ra một câu bằng tiếng Pháp:
-  Thế là hết!
Y sĩ cúi mình, giơ tay vuốt mắt Thân. Loan phải đứng dậy, lùi ra phía sau để nhường chỗ cho bà Phán và Bích cùng Tuất. Thấy cái cảnh chồng nằm chết tự tay mình, với mấy người xúm quanh khóc lóc thảm thiết, Loan ngồi gục xuống bàn, mắt mở to nhìn thẳng ra trước mặt. Nàng lẩm bẩm:
-  Đó, kết quả của một đời nhẫn nhục, đau khổ.
Rồi hai dòng nước mắt từ từ chảy xuống má.
(Đoạn tuyệt - Phần thứ ba - Chương I)
Tiếng nói của Trạng sư
Trạng sư bắt đầu cãi, tiếng nói to lớn làm át cả những tiếng thì thào trong phòng. Tuy không biết tên ông trạng sư, nhưng thấy ông còn trẻ và nói mấy câu đầu có vẻ thiết tha, Dũng đã vững tâm và mừng cho Loan có người hết lòng cãi hộ và cãi bằng một giọng hùng hồn cảm động.
Trạng sư đem hết lẽ ra để chứng minh rằng Loan không định tâm giết chồng, chỉ vì Thân muốn đánh Loan và vô ý ngã vào con dao. Ông đọc giấy chứng nhận của thầy thuốc khám nghiệm rồi kết luận:
-  Loan không giết chồng! Điều đó là một sự tự nhiên rồi. Giấy chứng của đốc tờ, lời khai sự thực của con sen đúng với lời khai sự thực của bị cáo nhân, đã tỏ ra một cách rõ ràng rằng, những lời khai khác hẳn nhau của gia nhân người thiệt mạng toàn là những lời vu khống vì thù ghét. Còn như Thị Loan cầm dao, đó không phải là một cái tội. Cái lọ đồng kia có thể làm chết người. Thị Loan có quyền giữ mình, giữ mình bằng cách gì cũng được.
“Tôi vừa nói đến chữ thù ghét, và nếu tôi không lầm, thì lúc nãy ông chưởng lý cũng nói rằng cả nhà ghét Thị Loan. Nhưng không có gì tỏ rằng lỗi đó về cả phần Thị Loan.
“Người ta lại ghét Thị, đó không phải là một chứng cớ rằng Thị kiêu hãnh. Thị Loan là một cô gái có học, nghĩa là một cô gái đã tiến, nhưng tiến không phải một nghĩa với lãng mạn. Thị Loan là một cô gái mới mà đã vui lòng nghe theo lời mẹ đi lấy một người chồng cổ, sống trong một gia đình cổ. Tôi nói thế là dựa theo chứng cớ hẳn hoi”.
Rồi trạng sư giơ ra một tờ giấy và nói tiếp:
-  Đây là bức thư của Thị Loan viết cho một người bạn là bà giáo Thảo hiện có mặt tại đây. Tôi xin đọc một câu của Thị Loan viết trong đó: “Em sẽ sống như mọi người khác, em sẽ cố thuần thục, lấy gia đình chồng làm gia đình mình, coi bố mẹ chồng như bố mẹ đẻ, biết đâu em không thấy được hạnh phúc ở chỗ đó”.
“Đấy các ngài nghe rõ chưa? Thị Loan muốn yên mà người ta không để Thị yên.
“Tôi không muốn nhắc đến người đã thiệt mạng, mà nhất là nhắc đến một cách không hay ho cho người đó, nhưng cái ngài hãy nhìn lại Thị Loan ngồi đây; một người có nhan sắc như Thị Loan...”
Nghe tiếng cười trong phòng, trạng sư nhắc lại câu đó:
-  Phải, tôi cần nhắc đến nhan sắc của Thị Loan. Thị Loan có học thức, có nhan sắc, đương vào độ chan chứa lòng nguyện ước về một cuộc đời tốt đẹp, thế mà vì hiếu với cha mẹ đã vui lòng lấy một người chồng dốt nát và bao năm đã cố yên vui với số phận mình. Và hơn nữa, Thị Loan, một cô gái mới, vì không có con nên đã lấy vợ lẽ cho chồng để gia đình nhà chồng có người nối dõi! Một người như thế không phải là một gái non quay cuồng như ông chưởng lý đã nói.
“Trong bao nhiêu năm, Thị Loan đã chịu bao nhiêu điều khổ sở cay đắng. Tôi chỉ xin nhắc lại việc đứa con trai Thị Loan chết oan”.
Rồi trạng sư kể lại việc bà Phán giao đứa cháu cho thầy cúng: câu chuyện đó, Thảo đã kể cho ông ta biết một cách rành mạch:
- Chính bà mẹ chồng đã giết cháu bà mà không biết. Mà lại còn đổ cho Thị Loan cái tội giết con! Đến nay, bà đổ cho Thị Loan cái tội giết chồng, nhưng bà có biết đâu, con bà chết là lỗi ở bà, lỗi ở cái luân lý trái mùa và quá ư nghiêm ngặt kia. Người có tội chính là bà mẹ chồng Thị Loan và cái luân lý cổ hủ kia.
“Nhưng nếu vượt lên trên, và nghĩ rộng ra không kể đến cá nhân nữa, thì bao nhiêu những việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả, mà lỗi ở sự xung đột hiện thời đương khốc liệt của hai cái mới, cũ.
“Ta không thể không nhận thấy điều đó. Chính người Pháp đến đây để đem văn hóa Tây phương, chính người Pháp đã dạy họ những lý lẽ mới, đã cho họ những quan niệm mới về cuộc đời.
“Ông chưởng lý có nói rằng người Pháp đến đây để giữ lấy nền tảng dân bảo hộ, và nền tảng ấy là gia đình. Tôi cũng nhận như thế. Nhưng ta đã hết sức dạy cho họ tiến thì phải cho họ tiến lên. Giữ họ lại là một việc thất sách, mà giữ lại cũng không được nào.
“Xã hội An Nam bây giờ không như xã hội An Nam về thế kỷ thứ 19. Gia đình bây giờ không thể để nguyên như gia đình về thế kỷ trước được nữa. Ở các nước Viễn Đông, Nhật, Tàu, Xiêm, nhất là nước Tàu thủy tổ của nền văn hóa Á đông, cái phạm vi gia đình bây giờ cũng không như trước kia nữa.
“Giữ lấy gia đình! Nhưng xin đừng lầm giữ gia đình với lại giữ nô lệ. Cái chế độ nô lệ bỏ từ lâu, mỗi lần ta nghĩ đến không khỏi rùng mình ghê sợ! Ây thế mà, có ai ngờ đâu còn cái chế độ khốn nạn đó trong gia đình An Nam.
“Chắc các ngài sẽ sửng sốt cho lời tôi nói là lạ. Nhưng thử hỏi: bị người ta bỏ tiền ra mua về và bị coi như thuộc quyền sở hữu của người ta, như thế không là nô lệ thì là gì nữa
“Bà mẹ chồng Thị Loan, vì vô tình, vì thói quen lưu truyền đã dùng đến cái quyền đó cũng như trăm nghìn bà mẹ chồng khác ở xã hội An Nam.
“Những người đã được hấp thụ văn hóa mới đã được tiêm nhiễm những ý tưởng về nhân đạo, về cái quyền tự do cá nhân, lẽ cố nhiên là tìm cách thoát ly ra ngoài chế độ đó, ý muốn ấy chánh đáng lắm. Nhưng thoát ly không phải dễ dàng như ta tưởng. Ngoài những người nhẫn nại sống trong sự phục tùng như Thị Loan đây, biết bao nhiêu người không chịu nổi cái chế độ cay nghiệt ấy đã liều mình hy sinh cho thoát nợ”.
Trạng sư rút trong cặp ra mấy tập thuật trình cũ có đánh dấu bút chì đỏ và đọc vài đoạn thí dụ:
- Đó, các ngài coi, chính chúng ta mới là có tội lớn. Cho họ học cái mới mà không tạo ra cho họ một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của họ.
“Buộc cho Thị Loan cái tội giết người ư? Thị Loan không giết người!
“Buộc cho Thị Loan cái tội quấy rối gia đình ư? Chính Thị Loan lại là người tha thiết muốn được yên sống trong gia đình.
“Thị Loan chỉ có mỗi một tội là cắp sách đi học để rèn luyện tâm trí thành một người mới, rồi về chung sống với người cũ. Thị Loan chỉ có mỗi tội đó. Nhưng tội ấy, Thị Loan đã chuộc lại bằng bao nhiêu đau khổ.
“Tha cho Thị Loan tức là các ngài làm một việc công bằng, tức là tỏ ra rằng cái chế độ gia đình vô nhân đạo kia đã đến ngày tàn và phải nhường chỗ cho một chế độ gia đình khác hợp với cái đời mới bây giờ, hợp với quan niệm của những người có học mới.
“Các ngài tha cho Thị Loan tức là tha cho một người đã bị buộc tội oan, tha cho một người đau khổ vì đã bị phí cả một đời thanh xuân và đã đem thân hy sinh cho cái xã hội mới cũ khắt khe này”.
Tiếng trạng sư im bặt, Dũng nhìn thoáng thấy Thảo ngồi cạnh Lâm đương đưa khăn lên thấm nước mắt. Đến lúc ông chánh án hỏi bị cáo nhân có muốn nói gì thêm không, Loan lạnh lùng đứng dậy, ra vịn vào vành móng ngựa và thong thả nói:
- Trạng sư đã nói thay cho tôi. Những ý tưởng về mới, cũ, trạng sư vừa phân bày rất đúng với tình cảnh bọn chị em bạn gái mới chúng tôi. Tôi tiếc rằng chính tôi là người ở trong cảnh mà không có giọng hùng hồn để nói cho mọi người cảm thấy rõ những nỗi thống khổ mà chúng tôi đã phải chịu. Không phải tôi cốt để tòa rủ lòng thương riêng đến một mình tôi, vì tôi đã đành cam chịu lấy hết các thứ hình phạt mà xã hội bắt tôi phải chịu. Tôi nói cốt để chị em gái mới, đến đây nghe, biết rằng nếu các chị muốn được hưởng hạnh phúc với chồng con, thì điều trước nhất, các chị em phải tìm cách sống một đời riêng, một đời tự lập, tránh sự chung sống với bố mẹ, họ hàng nhà chồng và nhất là cố vượt hẳn ra ngoài quyền của cha mẹ chồng thì mới mong gia đình hòa thuận.
XII- NỬA CHỪNG XUÂN
Một người lão bộc
Cơm nước xong, dưới ánh lù mù ngọn đèn Hoa Kỳ đặt trên ngưỡng cửa, hai người ngồi nói chuyện ở ngoài thềm nhà trên. Mai ngẫm nghĩ đến công việc rất hệ trọng đã dự định nên ngập ngừng chưa dám ngỏ lời cùng người lão bộc, mà Mai kính mến như một người trong họ. Con chó già năm dưới chân Mai, hình như cũng đoán rằng sắp xảy ra sư việc phi thường, đặt mõm lên liếm bàn tay Mai. Trong đêm tối, Mai ngắm cặp mắt sáng sủa của con vật trung thành, tưởng như có long lanh giọt lệ thì lấy làm cảm động vô cùng, cúi xuống thì thầm, như nói chuyện với một người bạn:
- Chúng ta sắp sửa phải rời mái nhà này rồi.
Con vật tuy không hiểu lời chủ, nhưng chắc cũng đoán được chủ đương có điều gì lo nghĩ, nên thong thả đặt mõm vào lòng chủ để tỏ ý an ủi. Còn người lão bộc thì cất giọng run run hỏi Mai:
- Cô định rời đi đâu vậy?
-  Tôi sắp bán nhà đây, ông Hạnh ạ!
Ông lão hốt hoảng lo sợ:
-  Cô bán nhà?
-  Phải, tôi bán. Ông Hạnh ơi, đó cũng là một sự bất đắc dĩ. Ông tính ruộng vườn không còn, tiền của cũng không thì lấy gì ăn tiêu mà chả bán nhà?
-  Không được, việc ấy tôi xin cô. Bán nhà đi thì còn đâu là nơi thờ tự cụ Tú. Tôi theo cụ Tú ngày cụ còn giàu có, nhờ cụ mà các cháu tôi đều biết dăm ba chữ. Trước khi cụ mất, cụ dối dăng giao cho tôi trông nom cô và cậu Huy. Việc ấy tôi nhất định không để tuỳ ý cô được.
-  Vậy, ông để tôi chết đói hay sao?
Người lão bộc cúi đầu ngẫm nghĩ rồi nói:
-  Thế này này, thằng cả nhà tôi đi lính khố đỏ, tôi được làng cấp cho mấy mẫu ruộng. Vậy có lẽ cùng đủ gạo ăn. Chưa cần phải bán nhà.
Mai cảm động chảy nước mắt, gượng cười đáp lại:
-  Tôi cảm ơn tấm lòng tốt của ông...Nhưng còn việc học của em Huy thì ông nghĩ sao?
Người lão bộc giã đầu suy nghĩ rồi hỏi:
-  Phải có bao nhiều tiền?
-  Ít ra cũng phải mỗi tháng một chục bạc.
-  Thế thì khó lắm nhỉ?
-  Vậy ta phải liều chứ biết sao. Rồi sau này em Huy làm nên có tiền, ta lại tậu đất, ta lại làm nhà ta hay hay ta lại chuộc lại nhà cũng được.
Ông lão Hạnh không trả lời, hai bàn tay ôm trán: ông ta đương cố tưởng tượng ra ở trong trí chất phác cái cảnh gia đình tàn ác, cửa nhà cầm bán. Cái nhà này ông Hạnh đã ở hơn hai chục năm nay, từ ngày chưa có Mai và Huy, ông ta thuộc từng cái xà, cái rui, từng chỗ gỗ rác, gỗ mọt, từng viên gạch vỡ, từng gốc tường sứt, bây giờ ông sắp sửa phải rời nó để đi nơi khác, để nhường lại cho người chủ mới, họ đem đồng bạc đến mà cưới, mà chôn biết bao những kỷ niệm của một nhà, biết bao sự vui, sự buồn, sự mừng, sự giận của gần một trăm năm. Cái nhà ấy ông ta ở đã lâu ngày, nên coi như nhà của mình vậy. Nay thấy cô chủ ngỏ lời đem bán đi thì ông ta bỗng có cảm tưởng bị ức hiếp, bóc lột.
-  Ông Hạnh!
Lão bộc nghẹn ngào, cất giọng khàn khàn:
-  Cô bảo gì?
-  Ông khóc đấy à? Ông dở hơi lắm. Can chi mà khóc. Nếu ông tĩnh tâm mà nghĩ kế giúp tôi thì còn hơn ngồi mà thương mà tiếc cái nhà này.
Ông lão trách Mai:
-  Cô còn trẻ người non dạ lắm! Cô tính năm nay tôi ngoài sáu mươi tuổi đầu rồi, chả mấy chốc mà đã xuống lỗ...
Rồi khi tôi gặp cụ Tú ở dưới đất, tôi biết ăn nói ra sao?
Mai gắt:
-  Thôi, ông đừng ngăn tôi nữa, tôi đã quả quyết rồi.
-  Còn cậu Huy? Việc này tùy ở cậu Huy chứ?
-  Em Huy cũng bằng lòng rồi. Vậy chỉ nhờ ông có chút việc, ông tìm hộ tôi một người mua nhà.
(Trích chương “Bàn việc nhà” - Phần một)
Hội kiến
Bà Án đăm đăm ngắm nghía Mai từ đầu đến chân, khiến Mai lo sợ, hai tay nắm chặt lấy lưng tựa ghế. Bà Án gật gù thong thả nói:
-  Tôi nghe nói cô cũng biết chữ nghĩa, cũng học đạo thánh hiền thì phải?
Mai biết bà Án bắt đầu khai chiến, quả quyết ngửng đầu lên đáp lại:
-  Bẩm bà lớn có thế. Thuở nhỏ con có được học chữ nho và khi thầy con ngồi dạy học ở nhà quan huyện Đông Anh, con cũng có theo học với các cô con quan huyện.
Bà Án vẫn nhớ rành rọt cái thời kỳ ở huyện. Bà cũng không quên được nét mặt và dáng điệu Mai nhưng bà không muốn nhớ tới, nên nghe Mai nhắc lại chuyện cũ, bà tìm cách nói lảng ngay:
-  Năm nay cô bao nhiêu tuổi?
-  Bẩm bà lớn, con hai mươi.
-  Cha mẹ cô làm gì?
Nghe bà Án lục vấn như bắt một người có tội cung khai một điều. Mai cũng nén lòng tức mà trả lời cho xong xuôi:
-  Bẩm cha con đậu tú tài và đã mất rồi. Mẹ con cũng qua đời.
Bà Án cười:
-  Thảo nào!
Hai chữ thảo nào đi liền sau một tiếng cười khinh bỉ làm cho Mai ứa nước mắt. Nhưng bà Án sợ Mai không hiểu, lại nói tiếp luôn.
-  Con có cha như nhà có nóc. Cô là gái mà mồ côi cha mẹ thì tránh sao cho khỏi được sự lầm lỡ.
Mai tái mặt, cất tiếng run run đáp lại:
-  Bẩm cha con cũng mới mất, con vừa đoạn tang. Ý chứng bà lớn cho con là một đứa vô giáo dục?
Bà Án không trả lời, đăm đăm nhìn Mai, khiến nàng sợ hãi cúi mặt. Bà hỏi:
-  Vậy cô có được cha cô thương yêu không?
-  Bẩm bà lớn, cha con thương con lắm.
-  Vậy chắc cô hiểu tình cha con thế nào thì tình mẹ con cũng thế, có lẽ tình mẹ con còn khăng khít âu yếm, thân mật hơn nhiều.
Mai biết là bà Án nói năng gang thép và chỉ bầy mưu cốt đưa mình vào tròng, nên yên lặng cúi đầu không dám trả lời hấp tấp. Thấy Mai đứng im, bà Án lại nói:
-  Đem chuyện mẹ con tôi mà nói với cô, tôi thực lấy làm ái ngại. Vì một là cô không muốn hiểu, hai là không đáng nghe. Thằng Lộc nó muốn nói tốt cô đến đâu với tôi, song tôi nhất định cho rằng ở ngoài vòng lễ nghi, vượt hẳn quyền thúc bá thì dầu sao người con gái cũng không thể là một người con gái có đức hạnh được. Bởi vậy, đã mấy lần tôi định đến đây nói rõ mọi lẽ cho cô hiểu, mà tôi vẫn ngần ngại không muốn đến.
Mai đưa vạt áo lên lau nước mắt, bà Án mỉm cười:
-  Cô đừng vội giận. Thà rằng mất lòng trước thì rồi sẽ được lòng sau, cô ạ. Và tôi đến hôm nay mục đích chỉ cốt cùng cô nói hết các lẽ phải trái, hết mọi điều gần xa. Vậy cô nên ôn tồn, tĩnh tâm mà nghe tôi thì hơn. Cô khóc có ích gì?
Mai lau ráo nước mắt. Lòng phẫn uất của nàng đã lên đến cực điểm. Linh hồn lãng mạn của nàng đã bắt đầu bồng bột.
-  Cô ngồi xuống đây, đứng thế mỏi chân, vì câu chuyện của tôi nói với cô còn dài.
Mai lẳng lặng kéo ghế ngồi:
-  Con xin phép bà lớn.
-  Được, cô ngồi. Ban nãy tôi hỏi cô có hiểu lòng cha nhất là lòng mẹ thương con đến bậc nào không? Tình cốt nhục dẫu loài cầm thú còn có, huống chi là người.... Chả nói thì cô cũng thừa biết rằng Lộc là con một của tôi thì tôi lại càng thương lắm.
Bà cảm động, ngừng lại mở chiếc hộp nhỏ lấy trầu ra ăn rồi tiếp:
-  Tôi chỉ có một mình nó là trai.... vì thế tôi muốn nó phải là người hoàn toàn.
Mai mỉm cười, ngắt lời:
-  Bẩm bà lớn thế nào là người hoàn toàn?
Bà Án thong thả dẫn từng tiếng đáp lại:
-  Cô không biết thế nào là người hoàn toàn? Điều thứ nhất là phải trai không trộm cắp, gái không ở thỏa.
Bà vừa nói vừa nhìn Mai, nhưng Mai cũng chẳng vừa, rất lễ phép trà lời:
-  Bẩm bà lớn nếu chỉ cần có thế thì ông tham nhà hẳn là một người hoàn toàn.
Bà Án điềm nhiên, làm như không lưu ý đến lời hỗn xược của Mai, nói tiếp luôn:
-  Nếu tôi đoán không sai, thì cô kính trọng và yêu mến con tôi lắm.
Mai cố tâm kiên nhẫn, nhưng đến đây thì nàng không thể giữ được nữa, nức lên khóc. Bà Án lắc đầu:
-  Cô nên noi theo gương tôi, ôn tồn mà nói chuyện chứ khóc có ích lợi gì?
Mai kể lể:
-  Nếu bà lớn hiểu được tấm lòng luyến ái của con, thì bà lớn không nỡ khinh bỉ con. Bẩm bà lớn, vì con yêu anh.... vì con yêu ông Lộc mà con đã hy sinh hết cả danh tiết cùng tính mệnh của con. Sau khi thầy con mất đi, con tưởng ở trên đời con chỉ còn yêu có một người là em Huy con, ai ngờ giời lại run rủi con gặp ông Lộc.
Bà Án vờ hỏi:
-  Vậy ra cô có em nữa đấy?
-  Vâng, em con đương theo học năm thứ tư trường Bảo hộ. Em con nó coi con không những như một người chị mà thực như một người mẹ. Mà đối với em, con có thể hy sinh tính mệnh để em con được sung sướng... Bẩm bà lớn, bà lớn có cho phép con kể lại đầu đuôi câu chuyện hầu bà lớn nghe không?
-  Được, cô cứ kể.
-  Bẩm bà lớn, sau khi nhà con bị sa sút, cha con mất đi thì chị em chúng con bị bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà thì không bán được, con thì bị một người cường hào định hà hiếp, em Huy con thì vì không có tiền giả học phí sắp bị đuổi. Trong lúc quẫn bách, con đã toan lấy một ông Hàn cự phú, không phải để tìm chỗ nương thân, vì con xin thú thực, con không hề tưởng tới thân con, nhưng chỉ cốt giữ được lời hứa với cha con lúc lâm chung là: thay cha nuôi em ăn học thành tài và trở nên người hữu dụng.
Bà Án không muốn để Mai trông thấy mình biểu lộ sự cảm động, liền vội gạt.
-  Tôi hiểu cô rồi, nhưng....
-  Bẩm bà lớn, con xin phép bà lớn được kể hết đầu đuôi câu chuyện. Trong khi con bị quẫn bách như thế thì con gặp anh, xin bà lớn cho phép con gọi anh là anh, tuy con chẳng xứng đáng với cái hạnh phúc ấy, trong khi ấy con gặp anh Lộc con. Anh con nhận được con là con gái ông thần học của các cô. Rồi anh đem lòng luyến ái con, cứu giúp con và em con. Chúng con được ngày nay thực là nhờ ở anh con, dẫu con ở lại thế nào cũng khó mà cân đối được cái lòng hào hiệp ấy. Huống chi anh con chỉ xin con có một điều là lấy anh con, là yêu mến anh con. Một hôm anh con đưa một bà đến, nhận là mẹ, và bà ngỏ lời hỏi con cho anh....
Bà Án tức giận mắng:
-  Thằng con bất hiếu bất mục đến thế?
-  Bẩm bà lớn, vì anh con, nào con có vượt ra ngoài vòng lễ nghi đâu? Mà nếu, bẩm bà lớn, vì anh con, có phải hy sinh đến lễ nghi nữa, con cũng cam chịu.
Bà Án mỉm cười vì bà nghe Mai nhắc đi nhắc lại mãi chữ hy sinh thì bà đã lưu ý đến chỗ nhược điểm của bên địch rồi. Bà định sẽ xoay hết chiến lược về phía đó.
Nhưng bà còn vờ hỏi:
-  Tôi nghe chuyện cô thì hình như cô cũng thấm hiểu lễ nghi, đạo đức của thánh hiền lắm.
-  Vâng con hiểu! Nhưng thưở xưa cha con còn dạy con còn nhiều điều mà cha con cho là hay hơn, và quý hơn cà những điều lễ nghi.
Bà Án bĩu môi:
-  Hay hơn! Tôi đây hủ lậu, vẫn tưởng sự quy nhất của ta là lễ nghi, là ngũ luân ngũ thường, là tứ đức tam tòng của đàn bà. Vậy những điều hay của cô đó là những điều gì thế?
-  Bẩm bà lớn, lòng thương người và lòng hy sinh.
-  Có lạ gì điều đó. Chính là điều nhân của đạo nho.
-  Bẩm bà lớn, vâng, chính thế, nhưng điều nhân của đạo nho ta, cũng chỉ là điều nhân trong phạm vị nho giáo mà thôi.
Bà Án mỉm cười:
-  Cô biết rộng lắm. Nhưng có lẽ biết rộng như thế cũng chưa hay ho gì cho cô. Cô thấy ai cô cũng thương thì nguy hiểm cho cô lắm. Tôi chỉ thú thực với cô rằng tôi hủ lậu, nghĩa là tôi chỉ trọng có: lễ, nghĩa, trí, tín. Thí dụ như thằng Lộc con tôi, tôi đã hỏi con quan Tuần cho nó rồi, đã có đủ các lễ dạm hỏi tử tế thì dẫu sao tôi cũng không thể thất tín được, không thể bội ước được.
Mai nghe tái mặt, đứng dậy ngập ngừng:
-  Bẩm bà lớn.... sao anh Lộc.... không cho con biết.
Bà Án cười:
-  Cô còn lạ gì bọn đàn ông đang tuổi chơi bời!
Mai không nói, chỉ ứa hai hàng nước mắt. Bà Án lại bịa thêm:
-  Có phải không, cũng có điều tôi theo lễ nghi, cũng có điều tôi không theo. Như cha mẹ thì vẫn bắt ép con lấy vợ mình chọn, chứ tôi, bằng lòng, tôi mới hỏi đấy.... Thôi, nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Bây giờ thế này này. Làm trai lấy năm lấy bẩy. Tôi cũng chẳng bắt nó phải bỏ cô, nhất là cứ như lời nó thú thực với tôi, cô lại đương thai nghén. Nhưng đến tháng tám này, tôi cưới vợ cho nó, mà nếu bên nhà gái họ biết nó có nhân tình nhân ngãi, thì ai người ta chịu để yên. Vậy cô nghe tôi, tôi sẽ cấp vốn cho cô đi tìm một nơi khác ở tạm ít lâu, rồi khi nào nó cưới vợ cả về đã, tôi sẽ cho phép nó cưới cô làm lẽ.
Mai căm tức cười mũi:
-  Bẩm bà lớn nhà con không có mà đi lấy lẽ.
Bà Án thở dài:
-  Cái đó tùy cô! Nhưng đến tháng tám này, thế nào tôi cũng cưới vợ cho con tôi. Tôi cam đoan với cô rằng thế nào tôi cũng cưới được vợ cho con tôi.
-  Vâng, cái đó là quyền ở bà lớn.
-  Đã cố nhiên.
Mai toan làm ra mặt lãnh đạm. Nhưng không thể chống nổi với lòng cảm xúc, đứng bưng mặt khóc. Bà Án lẳng lặng ngồi nhìn, cố không tỏ chút động tâm. Mai lau nước mắt rồi ngập ngừng nói:
-  Bẩm bà lớn.... người vợ chưa cưới của anh Lộc con, nếu chẳng lấy anh con thì cũng lấy được người khác. Còn con thì trinh tiết, tính mệnh.... Cả một đời con, con đã gửi vào anh con.... con không thể lấy ai được nữa. Không phải con sợ mất, sợ thiệt sự gì cho anh con, nhưng xa anh Lộc, thì con không thể sống được. Mà con chắc anh con cũng yêu con như con yêu anh con. Vả lại bà lớn đã biết đâu người vợ chưa cưới của anh con yêu anh con, nhất là anh con thì thực không yêu người ta chút nào, vì nếu anh yêu người ta thì đã chả yêu con.
Vậy nếu bà lớn cho phép chúng con lấy nhau, bà lớn sẽ gây hạnh phúc cho ba người: cho anh con và cho cả con quan tuần nào đó. Trái lại bà lớn không cho phép con thì không biết ba cái đời ấy sau này ra sao. Nhất là con, không biết sẽ sa vào cái hang sâu vực thẳm nào. Vì con xin thú thực với bà lớn, con không thể nào yêu chồng người khác được. Thà con chết còn hơn lấy lẽ. Lương tâm con không cho con làm những điều vô nhân đạo như thế.
Bà án ngẫm nghĩ rồi mỉm cười nói:
-  Ông cha ta lấy vợ lẽ là thường chứ. Có hề gì.
-  Bẩm bà lớn, nhưng con thì con không thế được. Con yêu ai thì con chỉ muốn người ấy là người yêu hoàn toàn mà thôi.
-  Vậy ra cô yêu Lộc lắm.
-  Bẩm, hà tất bà còn phải hỏi.
Bà Án cười khanh khách rồi nói:
-  Tôi lấy làm lạ cho cô quá. Cô bảo cô yêu con tôi. Cô lại khoe cô giàu lòng hy sinh, thế mà cô chỉ nghĩ đến cô, chứ cô không hề tưởng đến con tôi!
-  Bẩm bà lớn, sao bà lớn lại bảo con không tưởng đến anh con.
-  Này, cô phải biết. Con đường tương lai của thằng Lộc còn dài. Thế nào nó cũng xuất chính nay mai. Tôi hỏi con quan tuần tỉnh kia là người có thế lực cho nó là tôi đã xét kỹ lưỡng lắm. Quan tuần còn trẻ, bước hoạn đồ còn dài, sau này con tôi tất phải nương tựa vào bố vợ mới mong chóng thăng quan tiến chức được. Nếu trái lại, tôi để nó tự do kết hôn với cô, thì không những nó mất chỗ nương tựa mà nó lại mang tiếng chơi bời bậy bạ, lấy người không xứng đáng, tránh sao được nốt xấu trong ly lịch. Đây cô nghĩ xem, nếu quả cô yêu con tôi và cô giàu lòng hy sinh thì chả còn sự hy sinh nào to bằng, quý bằng, cao thượng bằng sự hy sinh này. Vì cô sẽ giúp cho tương lai của người cô yêu.
Mai tức nấc lên, đã toan cãi lại, nhưng không tìm được lời kháng nghị, nên chỉ đứng nức nở khóc. Mãi sau cùng nàng mới ôn tồn nói:
-  Bẩm bà lớn, xin bà lớn xét lại cho con được nhờ, con có phải người bậy bạ đâu, cha con cũng đỗ đạt, nhà con cũng là một nhà đời đời theo Nho giáo.
-  Đành thế, nhưng người ngoài người ta biết đâu. Thôi, tôi hiểu rồi, cô chẳng yêu con tôi đâu. Chẳng qua cô chỉ muốn làm bà lớn đấy thôi. Phải bà Tham rồi ít nữa lại bà Huyện. To lắm!
Mai đứng khoanh tay vào ngực mỉm cười nói:
-  Bẩm bà lớn, còn kém bà Án một tí.
Bà Án hầm hầm tức giận đập tay xuống bàn:
-  A con này hỗn thực! Mày phải biết bà gọi đội xếp đến tống cổ mày đi bây giờ, không khó gì đâu!
Mai lẳng lặng ra gọi anh xe, người nhà bà Án:
-  Bẩm bà lớn, anh xe đó, bà lớn truyền cho gọi đội xếp.
Bà Án biết Mai chẳng vừa, khó mà dùng oai quyền được, ngồi thử nghĩ tìm mưu kế khác. Một lát bà thong thả đứng dậy bảo Mai:
-  Nhiều lời vô ích. Rồi tôi sẽ bảo thằng Lộc nó tự xử. Thôi chào cô.
Mai hoang hốt chạy theo, kêu van kề lề:
-  Lạy bà lớn, nếu bà lớn không rủ lòng thương con thời xin bà lớn thương đến đứa bé nằm trong bụng mẹ nó. Bẩm bà lớn, tình mẫu tử... Bà lớn thương anh Lộc con làm sao thì con sẽ thương con của con làm vậy.... Bẩm bà lớn, nó đã làm gì nên tội, mà nó chịu khổ ngay từ lúc ở trong bụng mẹ nó. Nếu bà lớn đuổi con đi, con bơ vợ lưu lạc thì không biết số mệnh con sau này sẽ ra sao. Bẩm bà lớn, hai tính mạng ở trong tay bà lớn, xin bà lớn nghĩ lại cho.
Bà Án hơi cảm động, nhưng cố giữ mặt lãnh đạm:
-  Về làng mà đẻ!
Mai cười gằn:
-  Người ta sẽ bảo con chửa hoang.
Bà Án bĩu môi:
-  Người ta bảo! Cần gì người bảo?
Mai đứng phắt dậy, lạnh lùng đáp:
-  Bẩm bà lớn, thôi được. Tôi không ngờ! Thực là tôi không ngờ... Tôi không ngờ bà lớn lại là sắt đá. Bẩm bà lớn, xin phép bà lớn... Bà lớn chỉ là một người ích kỷ. Bà lớn theo Nho giáo mà bà lớn không nhớ câu: “Kỷ sở bật dục, vật thi ư nhân”.
Bà Án mỉm cười, khinh bỉ:
-  Chữ nghĩa cũng khá đấy! Hữu tài vô hạnh!
-  Thôi bà không cần nhiều lời. Tôi sẽ đi. Tôi rời cái nhà này ngày hôm nay. Trách nhiệm nặng nề sau này bà chịu lây.
Bà Án ngơ ngác hỏi:
-  Trách nhiệm cái gì?
Mai mỉm cười lắc đầu:
-  Tôi quên, không, chẳng có trách nhiệm gì hết! Vì hai mạng hà tiện này có chết đi nữa, lòng bà lớn cũng không rung động.
Hai giọt nước mắt nhỏ trên gò má răn reo. Bà Án thong thà ngồi xuống ghế:
-  Cô im ngay!
Ngẫm nghĩ một lúc, bà nói:
-  Trước khi cô đi, cô lại đằng nhà, tôi sẽ giúp cô một số tiền, xứng đáng với sự hy sinh của cô, với tấm lòng hào hiệp của cô, và khi nào cô có cần điều gì đến tôi giúp, cô cứ lại nhà tôi, bao giờ tôi cũng sẵn lòng giúp cô.
Mai lạnh lùng:
-  Cảm ơn bà lớn, nhưng tôi không phải hạng ăn xin.
Bà án chỉ lưu ý đến một việc là Mai đi, nên lại hỏi như để nhắc:
-  Vậy bao giờ cô đi?
Mai cười:
-  Thưa bà lớn, một lời đã hứa thì bao giờ cũng phải giữ. Tôi nói nội nhật ngày hôm nay thì chắc không phải ngày mai. Bà lớn cứ yên lòng. Trong năm điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bà lớn viện ra ban nãy. Có hai điều tôi trọng nhất là: nhân và tín. Bà lớn không lo tôi thất tín.
Bà Án lộ vẻ vui mừng, kể lể:
-  Cô nên nghĩ đến lão già này tuổi tác chỉ có một trai. Nếu nó say hoa đắm nguyệt mà sinh ra bất hiếu bất mục, thì tôi đến buồn mà khô héo, mà chết mất. Đó là một sự hy sinh cuối cùng mà tôi xin cô ban riêng cho tôi.
Mai mỉm cười:
-  Vâng bà lớn nói đúng. Tôi có thể hy sinh được chứ bà lớn thì khi nào lại phải hy sinh vì một đứa con gái ti tiện. Thôi được! Bây giờ bà lớn xin tôi ở lại, tôi cũng không nghe lời kia mà. Biết đâu con bà lớn lên lại không giống bà lớn?
Mai ngẫm nghĩ nhớ lại cử chỉ, ngôn ngữ của Lộc mấy hôm trước, trong lòng ngờ vực. Bà Án đứng dậy ra về:
-  Thôi chào cô. Tôi xin cậy ở cô. Chốc nữa lại đằng nhà, thế nào cũng lại đấy. Nhà tôi ở phố H...
Mai tiễn bà Án ra tới cổng rồi quay vào trong nhà ngôi phịch xuống ghế, bưng mặt khóc.
(Trích chương “Hội kiến” - Phần hai)
Cháu Ái
Ái chơi ô tô ở chung quanh nhà. Trí tưởng tượng của trẻ con rất dễ dàng mà rất có tài khiến một vật hay một việc trở nên sự thực như ý muốn. Ái chỉ một mình lượn vòng tròn trong miếng đất, mà mắt nó trông thấy biết bao thứ vô thanh. Mồm nó kêu luôn: «Bí bo? Bí bo!» là một cái kèn ô tô rất tốt, hai tay nó khuỳnh ra làm như hệt người tài xế lái ô tô, chân nó giậm xuống đất bành bạch đề bắt chước tiếng bánh xe lăn trên đường đá. Thỉnh thoảng nó dừng lại quay ra hỏi một cái thân cây bên hàng giậu:
Có lên xe không?
Nó lại trả lời ngay một câu hỏi tưởng tượng:
-  Đây đi Phủ Đoan sáu hào... Không được! Giá nhất định sáu hào, không bớt một xu, không đi thì thôi.
Rồi nó cắm đầu chạy.
-  Bác tài ơi, cho tôi lên với.
Ái đứng lại quay cổ nhìn sang hai bên, hỏi:
-  Ai gọi xe đấy?
Có tiếng trả lời ở cổng:
-  Tôi!
-  Mấy người.
Sau một dịp cười, bà Án - vì người ấy chính là bà án, - đáp:
-  Có hai người thôi.
-  Vào mà đi!
-  Nhưng cửa đóng khóa vào sao được?
-  Vậy đứng ngoài đợi một tí để em gọi ông Hạnh cho nhé.
Ái lại mồm kêu bí bo, chân giặm bành bạch lượn về lối sau. Một lát nó cùng ông Hạnh đi ra. Ông lão bộc nhác trông thấy bà khách có một người đàn ông vận áo lương theo hầu, thì đoán chắc là quý khách, liền cung kính chắp tay chào:
-  Lạy bà ạ! Thưa bà hỏi gì à?
-  Không dám. Ông giáo có nhà không, ông?
-  Thưa bà, cậu giáo tôi đã đi dạy học, cũng sắp về đây. Vì tàu đã ngược thì cũng đến quá mười giờ rưỡi rồi.
Lúc bấy giờ chiếc ô tô hàng chạy qua cổng.
Ông Hạnh liền trỏ vào bà Án:
-  Đấy, xe Tuyên đấy! Gần mười một giờ.
Rồi ông ta vừa mở khóa vừa nói:
-  Thưa bà, vì cả nhà đi vắng tôi lại bận dọn cơm ở dưới bếp, nên phải đóng khóa cổng, sợ em Ái ra đường.
Bà Án có vẻ thất vọng, ngơ ngác hỏi người lão bộc:
-  Vậy cô.. Vậy bà chị... ông giáo cũng đi vắng à?
-  Thưa bà, cô Mai?
Bà Án chưa kịp trả lời, ông Hạnh đã tỏ ý buồn rầu và nói luôn:
-  Thưa bà, kể thì là bà Tham cơ đấy, nhưng cô tôi không cho gọi là bà Tham, bắt cứ phái đọc tên tục ra như thế.
Bà Án làm bộ không hiểu:
-  Thế à? Vậy cô... Vậy bà ấy đi vắng ư?
-  Nhưng mời bà cứ vào chơi. Ý chừng bà nuốn mua sơn hẳn thôi. Cô tôi cũng sắp về.
Ông Hạnh đưa khách vào và anh người nhà vào sân rồi lại toan khóa cổng, thì bà án vội gạt đi:
-  Thôi được, ông để tôi coi cháu cho, chả cần phải đóng cổng.
-  Thưa bà chả dám... Nhưng mời bà vào chơi trong nhà. Thưa bà, bà hỏi cậu giáo tôi có việc gì thế? Hay bà đến mua sơn?
Bà Án đương ngẫm nghĩ tìm câu trả lời, thì Ái lượn ở phía sau ra, vẫn cái mồm “bí bo! bí bo!”. Thấy bà Án đứng cười, nó vội kêu:
-  Kìa! Xe ô tô bóp còi mà không tránh!
Bà Án cúi xuống toan bế Ái lên, nhưng Ái giật mạnh tay ra:
-  Ô kìa! Sao lại ôm ô tô?
Bà Án cười:
-  Ô tô ngoan nào, tôi hôn cái nào!
Ái vỗ tay cười hét lên:
-  Ô tô lại ô tô ngoan! Mà ai lại hôn ô tô bao giờ?
(Trích chương “Cháu Ái - Phần ba)
Bên lò sưởi
Lộc hai tay ôm đầu đăm đăm ngẫm nghĩ.
Trong lò trên đống tro tàn màu trắng xanh, mấy mẩu củi cháy dở đã tắt hẳn. Mai lại nói:
- Đấy anh coi, ta mới tưởng tới mà cuộc đời tương lai ta muốn cùng nhau gây dựng đã hiện ra khắt khe, ghê gớm biết bao. Huống nữa là ta sống thực trong cuộc đời ấy.
Lộc thở dài cúi mặt như sợ không dám nhìn Mai: Những lời lẽ phân trần quá hợp lý của Mai khiến chàng ngờ rằng Mai không còn yêu chàng nữa. Cái giọng bình tĩnh dễ dàng của Mai chàng cho là không phải giọng ái tình. Chàng có hiểu đâu rằng thống khổ trong mấy năm trời đã làm cho Mai trở nên kiên nhẫn và biết phục tòng số mệnh. Chàng có hiểu đâu rằng những lời đắn đo trước sau của Mai, Mai đã từng bao phen tự thì thầm trong những đêm dài đằng đẵng. Những ý tưởng kia, Mai đã suy đi xét lại hàng nghìn hàng vạn lần thì làm gì nay Mai không diễn đạt được chu đáo. Mai nhớ những đêm giá rét một mình ngồi bên đống than hồng sau khi Huy đi ngủ. Nhưng nào Lộc có hiểu tình cảnh một người thiếu phụ xa chồng. Chàng chỉ thấy đêm khuya lạnh lẽo và cảm thấy vì thiếu tình yêu của Mai mà lòng chàng lạnh lẽo hơn tiết trời đông. Tương lai chàng tưởng tượng hình dung ra một con đường vạch giữa bãi cát trắng, mông mênh trơ trụi và đưa chàng đến một nơi vô định mịt mù. Sẽ sẽ chàng bảo Mai:
-  Em lý sự quá!
Mai cười đáp lại:
-  Không, em không lý sự đâu. Em chỉ bàn hết điều phải, điều trái với anh thì thôi. Chúng ta không nên sợ lẽ phải, anh ạ. Anh thử nghĩ lại mà xem. Ngày nay mới có hai người chịu đau khổ, là anh và em. Nếu ta đi trốn thì ta cũng chẳng bớt khổ, có lẽ ta còn khổ hơn, mà ta làm cho biết bao nhiêu người vì ta bị khổ lây: đằng anh thì cụ Án, vợ anh, con anh, bạn bè anh, đằng em thì em Huy. Vậy sao ta không vì người khác mà hy sinh ái tình cùng hạnh phúc của ta. Ta hy sinh hạnh phúc mà ta mới tưởng sẽ được hưởng thì ta càng nên hy sinh lắm.... Em không biết anh nghĩ sao, chứ em, hễ em thấy anh sung sướng thì em cũng sung sướng nhất là từ nay trở đi, vì nay em không ngờ vực bụng anh chút nào nữa. Vậy anh nên vui vẻ mà gánh vác trách nhiệm của anh, anh làm hết bổn phận của anh đối với gia đình và xã hội. Trong khi ấy, ở một nơi xa xăm, một người anh yêu và yêu anh sẽ luôn luôn tưởng nhớ tới anh và ngày đêm mong mỏi cho anh sung sướng.
Như đã bày tỏ hết các lẽ, Mai chờ câu trả lời của Lộc. Nhưng Lộc không đáp chỉ đăm đăm nhìn lò đầy tro tàn mà ngẫm nghĩ đến những lời Mai nói.
Bỗng Mai rùng mình, thấy hai bàn chân tê buốt. Nàng bảo Lộc:
-  Chắc anh rét lắm.
Lộc chưa kịp trả lời, nàng đứng dậy xuống nhà. Một lát sau, nàng mang lên một ôm củi, rồi lúi húi nhóm lửa. Lò nóng nên lửa bén rất mau. Chẳng bao lâu củi đã lách tách nổ. Có tiếng gà gáy. Mai hỏi Lộc:
-  Anh không buồn ngủ?
-  Không.
Gà gáy sáng rồi đấy.
Lộc vẫn yên lặng nhìn lò sưởi... Mai đăm đăm suy xét. Rồi hình như sực nghĩ ra nàng bảo Lộc:
-  Ờ này! Sao hai ta lẩn thẩn lại cứ quanh quẩn mãi trong vòng ái ân, trong sự sum họp nhỉ. Ta không yêu nhau ở ngoài sự sum họp được ư?
Lộc mắt lim dim cố tìm chân lý trong những ý tưởng phức tạp của Mai.
Trong đầu Lộc bỗng hiện ra hình ảnh một chàng thanh niên cứng cáp quả quyết theo đuổi việc xã hội, những việc mà tất phải đem hết nghị lực và tâm trí ra mới làm nỗi. Trong khi ấy, một nơi hẻo lánh, một thiếu phụ yêu chàng đương nhớ tưởng tới chàng, đương mong mỏi ở sự hành động của chàng, đương đếm từng bước chàng đặt trên đường đời.
Rồi Lộc nói:
-  Cái ý tưởng cao thượng ấy sẽ làm cho anh phấn khởi. Phải, thở than, buồn bực có ích chi! Cái đời tẻ ngắt của anh mà anh cho là hết hy vọng, anh sẽ cam đoan với em rằng vì em nó sẽ thành một đời đầy đủ.
Thất Lộc mặt đỏ bừng và mắt long lanh, Mai lo lắng:
-  Anh không nên nghĩ xa xôi quá. Anh sung sướng là em sung sướng rồi.
Lộc như mê man:
-  Nhưng em ạ, sao anh không nghĩ tới xã hội, đem hết nghị lực, tài trí ra làm việc cho đời. Rồi thỉnh thoảng hưởng một vài giờ thư nhàn mà tưởng nhớ tới em, mà yêu dấu cái hình ảnh dịu dàng của em, cái linh hồn cao thượng của em. Trời ơi! Anh sung sướng quá, anh trông thấy rõ rệt con đường tương lai sáng sủa của anh rồi. Đời anh từ nay thế nào rồi cũng đổi khác hẳn. Đời anh từ nay sẽ không riêng của anh nữa. Anh sẽ vì người khác, anh sẽ bỏ cái đời an nhàn phú quý mà dấn thân vào một cuộc đời gió bụi. Anh đã trông thấy hiện ra trước mắt những sự cay cực lâm than đương đợi anh. Nhưng anh không ngại, vì có em.
Lộc ngước mặt nhìn Mai:
-  Em sẽ là người an ủi và khuyến khích anh.
Mai mỉm cười.
Trong lò sưởi ngọn lửa đỏ tươi vui vùn vụt bốc lên. Bụi than văng lấm tấm như hoa, tiếng củi cháy lách tách reo vui. Hạnh phúc như bao bọc, như âu yếm hai tâm hồn khoáng đoạt, đã siêu thoát ra ngoài vòng tư tưởng nặng nề, u ám.
Ngoài đường có tiếng người đi chợ sớm.
Mai trông qua khe cửa ra sân trước bảo Lộc.
-  Kìa! Giời sáng rồi anh ạ.
Lộc ôn tồn nói:
-  Thôi, anh đi, anh vui vẻ mà đi. Chúng ta sẽ xa nhau, mỗi người sống riêng một cuộc đời. Đời em, anh chắc sẽ được yên lặng. Còn đời anh, anh nói sắp sửa đổi khác hẳn, anh chưa biết rồi nó ra sao. Anh chỉ biết anh sẽ mãi mãi được sung sướng, vì anh tin rằng ngày ngày, tháng tháng lúc nào em cũng âu yếm nghĩ đến anh, như thế cũng đủ an ủi anh rồi... Em ở xa anh, nhưng tâm trí hai ta lúc nào cũng gần nhau, thì trọn đời hai ta vẫn gần nhau.
Tia vàng ánh sáng mặt trời xiên qua khe cửa, Lộc tưởng tượng ngoài kia cảnh vật đương tưng bừng đón chào một ngày quang đãng...
Doãn Quốc Sỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...