Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

Chùm thơ song ngữ Anh - Việt của Mary Oliver

Chùm thơ song ngữ Anh
Việt của Mary Oliver

Mary Oliver (1935 – 2019) là một nhà thơ nữ nổi tiếng người Mỹ, tác giả của 17 tập thơ và 4 tập tiểu luận. Tác phẩm thơ của bà là đỉnh cao của thi ca dành cho thiên nhiên và gần gũi với cuộc sống hằng ngày của con người. Bà thường được so sánh với Walt Whitman (1819 – 1892) và Henry David Thoreau (1817 – 1862).
Chùm thơ sau đây được rút ra từ tập thơ Gió Tây: Thơ và thơ văn xuôi (West Wind: Poems and Prose Poems) do Houghton Mifflin Company, Boston, New York, xuất bản năm 1997. Bản dịch sang tiếng Việt là của nhà thơ, dịch giả Bùi Xuân. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Cây sồi đen
Phải rồi, không ai có thể viết được một bản giao hưởng,
hay một cuốn từ điển, hoặc thậm chí là một bức thư gửi cho
người bạn cũ, đầy nỗi nhớ thương và an ủi.
Không ai có thể chế ngự được âm thanh đơn lẻ nào dù đó là âm thanh của con chim giẻ cùi xanh
suốt ngày xoi mói và huýt sáo trên cành mà không có gió đưa gió đẩy.
Nhưng nói thật là sau một thời gian, tôi tái mặt vì khao khát
những thân hình vạm vỡ được bao bọc trong những lớp địa y.
và bạn không thể kéo tôi ra khỏi rừng cây, ra khỏi trọng tải
của những bờ vai và mái tóc xanh óng ánh.
Hôm nay là một ngày như mọi ngày: 24 giờ,
nắng nhẹ, mưa nhỏ.
Hãy lắng nghe, tiếng nói tham vọng, lo lắng chuyển trọng lượng
từ chiếc ủng này sang chiếc ủng khác – tại sao bạn không đi?
Bởi vì tôi ở đó, trong bóng tối rêu phong, dưới tán cây.
Và nói thật, tôi không muốn buông bỏ cổ tay
nhàn rỗi, tôi không muốn bán mạng sống của mình vì tiền,
tôi thậm chí không muốn ra ngoài trời mưa.
Black Oaks
Okay, not one can write a symphony, or a dictionary,
or even a letter to an old friend, full of remembrance
and comfort.
Not one can manage a single sound, though the blue jays
carp and whistle all day in the branches, without
the push of the wind.
But to tell the truth after a while I’m pale with longing
for their thick bodies ruckled with lichen
and you can’t keep me from the woods, from the tonnage
of their shoulders, and their shining green hair.
Today is a day like any other: twenty-four hours, a
little sunshine, a little rain.
Listen, says ambition, nervously shifting her weight from
one boot to another—why don’t you get going?
For there I am, in the mossy shadows, under the trees.
And to tell the truth I don’t want to let go of the wrists
of idleness, I don’t want to sell my life for money,
I don’t even want to come in out of the rain.
Mùa xuân
Sáng nay
có hai con chim
rơi xuống bên cây phong
như một búi lửa
một bánh xe lửa
một nút thắt tình yêu
chúng mất kiểm soát khi lao vút lên không trung
ép sát vào nhau
và tôi đã nghĩ
tôi muốn sống một cuộc sống yên tĩnh như thế nào
tôi muốn sống một cuộc sống nhẹ nhàng và thiền định như thế nào
những lời nói thận trọng cứ va đập vào nhau.
và tôi đã nghĩ-
như thể tôi đột ngột quay tròn, giống như một thanh bạc
như thể tôi run tay và nhìn kìa! chúng là đôi cánh –
của Đức Phật
khi người thức dậy trong khu vườn xanh tươi của mình
khi người đứng lên với thân thể châu báu mạnh mẽ
khi người rẽ ngoặt vào con đường dài vô tận đầy bụi đất
khi người buộc tóc bằng dải ruy băng và những cánh hoa
khi người mở rộng đôi bàn tay của mình ra với thế gian.
Spring
This morning
two birds
fell down the side of the maple tree
like a tuft of fire
a wheel of fire
a love knot
out of control as they plunged through the air
pressed against each other
and I thought
how I meant to live a quiet life
how I meant to live a life of mildness and meditation
tapping the careful words against each other
and I thought—
as though I were suddenly spinning, like a bar of silver
as though I had shaken my arms and lo! they were wings—
of the Buddha
when he rose from his green garden
when he rose in his powerful ivory body
when he turned to the long dusty road without end
when he covered his hair with ribbons and the petals of flowers
when he opened his hands to the world.
Những vì sao
Ở đây, trong đầu tôi, ngôn ngữ
cứ phát ra những tiếng động nho nhỏ.
Làm sao tôi có thể hy vọng được làm bạn
với những vì sao trắng thô ráp
những ánh sáng chói lọi và tiếng rít không phải bằng lời nói
mà là ánh hào quang thuần khiết?
Làm sao tôi có thể hy vọng được làm bạn
với khoảng cách không gian xa thẳm giữa chúng tôi
nơi không có gì, đã từng, được nói ra?
Đêm nay, ở rìa cánh đồng,
Tôi đứng yên, và nhìn lên,
và cố gắng để không nói nên lời.
Đó là niềm vui nào, mà gần như tìm thấy tôi?
Hòa bình đáng yêu nào?
Thế rồi, nó lướt qua, gió
náo động trên những cây sồi phía sau tôi
và tôi đã ngã trở lại, dễ dàng.
Trái đất có hàng trăm nghìn giọng trầm thuần khiết-
ngay cả con chim đêm xa xôi
khi nó nói về mối đe dọa, khi nó nói về tình yêu
trên những cánh đồng đen sì và lạnh lẽo.
Một lần, trong rừng sâu,
Tôi tìm thấy hộp sọ trắng của một con gấu
và nó hoàn toàn im lặng-
và tôi từng gặp một con rái cá sông, trong một cái bẫy thép,
và nó cũng hoàn toàn im lặng.
Chúng ta có thể làm gì
nhưng hãy tiếp tục hít vào và thở ra,
khiêm tốn và sẵn sàng, và ở vị trí của chúng ta?
Lắng nghe, lắng nghe, tôi nói mãi,
Hãy lắng nghe tiếng sông, tiếng diều hâu, tiếng móng ngựa,
tiếng con chim nhại, tiếng hoa củ cải Ấn Độ [1] –  
sau đó tôi nghĩ ra một vài từ, như một món quà.
Ngay cả như bây giờ.
Ngay cả khi bóng tối vẫn là bóng tối thuần túy, sâu thẳm.
Ngay cả khi các vì sao đã xoay tròn đôi chút, khi tôi còn đứng đây,
ngước nhìn lên,
hết lời nồng nàn này đến lời khác.
Stars
Here in my head, language
keeps making its tiny noises.
How can I hope to be friends
with the hard white stars
whose flaring and hissing are not speech
but a pure radiance?
How can I hope to be friends
with the yawning spaces between them
where nothing, ever, is spoken?
Tonight, at the edge of the field,
I stood very still, and looked up,
and tried to be empty of words.
What joy was it, that almost found me?
What amiable peace?
Then it was over, the wind
roused up in the oak trees behind me
and I fell back, easily.
Earth has a hundred thousand pure contraltos—
even the distant night bird
as it talks threat, as it talks love
over the cold, black fields.
Once, deep in the woods,
I found the white skull of a bear
and it was utterly silent—
and once a river otter, in a steel trap,
and it too was utterly silent.
What can we do
but keep on breathing in and out,
modest and willing, and in our places?
Listen, listen, I’m forever saying,
Listen to the river, to the hawk, to the hoof,
to the mockingbird, to the jack-in-the-pulpit—
then I come up with a few words, like a gift.
Even as now.
Even as the darkness has remained the pure, deep darkness.
Even as the stars have twirled a little, while I stood here,
looking up,
one hot sentence after another.
Gió Tây [2]
1. Nếu có kiếp sau ở thế gian này, anh có đi cùng em? Thậm chí là sau đó? Vì chúng ta phải là một cái gì đó, tại sao không cùng nhau. Hãy tưởng tượng! Hai viên sỏi nhỏ, hai con bọ chét dưới cánh chim hải âu bay trong sương mù! Hoặc, mười ngọn cỏ. Mười vòng cây kim ngân hoa nép sát vào nhau, ở mép Đường Đua! Những cây mận biển! Những bông tuyết rơi xuống khu rừng mùa đông, tạo ra âm thanh rất nhỏ, như khi chúng bám vào những cây thông phủ đầy bụi bặm. Hoặc, mưa – ánh sáng xám xịt chạy trên biển, chọc vào nó, vẽ lên nó, đến, suốt cả sáng lẫn chiều, từ sức trẻ và sự phong phú và vui vẻ của gió tây- kêu leng keng và chói tai trên những mái nhà của Provincetown[3].
2. Bạn còn trẻ. Vậy nên bạn biết hết thảy mọi thứ. Bạn nhảy xuống thuyền và bắt đầu chèo. Nhưng, lắng nghe tôi. Đừng phô phang, đừng bối rối, đừng nghi ngại gì cả, tôi nói thẳng với linh hồn của bạn. Lắng nghe tôi. Nâng mái chèo lên khỏi mặt nước, cho cánh tay của bạn nghỉ ngơi, và trái tim của bạn, và trí thông minh nhỏ bé của trái tim, và lắng nghe tôi. Ở đó có cuộc sống nhưng không có tình yêu. Nó không xứng một đồng xu cong, hoặc một đôi giày mòn vẹt. Xác của một con chó chết chín ngày chưa chôn là điều không đáng. Khi bạn nghe thấy, cách đó một dặm và vẫn khuất tầm nhìn, tiếng nước chảy xiết khi nó bắt đầu xoáy và khấy đục, cào cấu xung quanh những tảng đá sắc nhọn – khi bạn nghe thấy tiếng đập mạnh không thể nhầm lẫn – khi bạn cảm thấy sương mù trên miệng và cảm nhận phía trước là vách đá răng cưa, những con thác dài lao xuống và giận dữ – sau đó bạn chèo, chèo cuộc sống của bạn về phía nó.
West Wind
1. If there is life after the earth-life, will you come with me? Even then? Since we’re bound to be something, why not together. Imagine! Two little stones, two fleas under the wing of a gull, flying along through the fog! Or, ten blades of grass. Ten loops of honeysuckle, all flung against each other, at the edge of Race Road! Beach plums! Snowflakes, coasting into the winter woods, making a very small sound, like this as they marry the dusty bodies of the pitch-pines. Or, rain— that gray light running over the sea, pocking it, lacquering it, coming, all morning and afternoon, from the west wind’s youth and abundance and jollity—pinging and jangling down upon the roofs of Provincetown.
2. You are young. So you know everything. You leap into the boat and begin rowing. But, listen to me. Without fanfare, without embarrassment, without any doubt, I talk directly to your soul. Listen to me. Lift the oars from the water, let your arms rest, and your heart, and heart’s little intelligence, and listen to me. There is life without love. It is not worth a bent penny, or a scuffed shoe. It is not worth the body of a dead dog nine days unburied. When you hear, a mile away and still out of sight, the churn of the water as it begins to swirl and roil, fretting around the sharp rocks—when you hear that unmistakable pounding—when you feel the mist on your mouth and sense ahead the embattlement, the long falls plunging and steam- ing—then row, row for your life toward it.
Chú thích:
[1] Tức là hoa jack-in-the-pulpit, còn được gọi là hoa củ cải Ấn Độ.
[2] Gió Tây là Phần 2 của tập thơ Gió Tây: Thơ và thơ văn xuôi của Mary Oliver, gồm 13 bài thơ đánh số thứ tự từ 1-13. Chúng tôi xin trích dịch giới thiệu 2 bài (1 & 2).
[3] Provincetown là một thị trấn miền biển, thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
13/9/2021
Mary Oliver
Bùi Xuân dịch
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một cách tiếp cận thơ Thiền

Một cách tiếp cận thơ Thiền Thơ ca dân tộc có một bộ phận thơ Thiền đặc sắc. Nhiều bài thơ của các Thiền sư từ  thời  Lý (1010-1225) - Trần ...