Một cách tiếp cận thơ Thiền
Thơ ca dân tộc có một bộ phận thơ Thiền đặc sắc. Nhiều bài
thơ của các Thiền sư từ thời Lý (1010-1225) - Trần (1225-1400) vẫn còn được truyền tụng đến
ngày nay, bởi vì nó chưá đựng vẻ đẹp tư tưởng và nghệ thuật rất riêng. Ảnh hưởng
Thiền khá rõ trong suốt tiến trình thơ ca dân tộc. Ngày nay vẫn có những nhà
thơ Việt Nam tiếp tục tiến trình ấy. Nhưng đọc thơ Thiền không dễ, cần
một cách tiếp cận khác với cách đọc thơ thế tục. Bài viết này xin thử
đề xuất một con đường đến với thơ Thiền, thay cho cách đọc cảm tính lâu nay.
I. Kệ và Thơ Thiền
Kệ là một hình thức văn chương nghi lễ cuả Phật
giáo, như Kệ dâng hương , Kệ dâng hoa , Kệ vô thường
buổi sớm.. Các Thiền sư thường làm kệ “ thị tịch “ để căn
dặn đệ tử trước lúc qua đời . Tiểu truyện về các Thiền sư thường có những bài kệ.
Những bài kệ ấy vưà nói về giáo lý Phật vưà chưá đựng chỗ độc đáo chứng ngộ cuả
mỗi người. Thiền Uyển Tập Anh nổi tiếng với những bài kệ
như Thị Đệ Tử cuả Thiền sư Vạn Hạnh, Cáo tật Thị chúng cuả
đại sư Mãn Giác. Khoá Hư Lục cuả Trần Thái Tông (1218 -
1277) có Kệ ngũ giới, Kệ bốn núi...
Về cơ bản, Kệ dạy giáo lý Phật bằng ngôn ngữ khái
niệm. Nhưng khi chuyển thành ngôn ngữ hình tượng , Kệ trở thành thơ
Thiền , ý nghiã tư tưởng chuyển hoá thành ý nghiã nghệ thuật.
Chẳng hạn
Bát Nhã chân vô tông
Nhân không, ngã diệc không
Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng. (1)
(Lý Thái Tông. 1028-1054)
Dịch:
“Bát Nhã” Thực vô tông
Người không, mình cũng không
Phật trước, nay, sau nữa
Pháp tính vốn tương đồng
(Ngô
Tất Tố dịch)
Bài kệ này chỉ diễn đạt giáo lý về Chân Như . Ngôn
ngữ kệ là ngôn ngữ khái niệm, không có hình tượng . Kệ cuả sư Vạn Hạnh đã có bước
chuyển hoá thơ .
Ngày 15 tháng 5 năm Thuân thiên thứ 9 (1018) sư không bệnh, gọi
đệ tử đến đọc bài kệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi (1)
(Vạn
Hạnh Thiền sư)
Sư lại bảo các đệ tử: - Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy
chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ. Một lát sau sư qua đời.
Lời của Thiền sư Mugaku nói với quân Mông cổ sau đây có cả chất
kệ và chất thơ. (2)
Gom toàn thể thế giới
Chẳng vừa một đầu gậy
Vạn pháp vốn là không
Vô thường và vô ngã
Lưỡi gươm bọn hung nô
Lấp loáng cắt xuân phong.
(Thiền sư Mugaku)
II. Một Cách tiếp cận thơ Thiền
Thơ Thiền là thơ tư tưởng. Cốt lõi tư tưởng thơ Thiền là giáo
lý Phật giáo. Vì thế muốn tiếp cận thơ Thiền, người đọc phải ít
nhiều có được căn bản tư tưởng Phật . Không có tri thức này thì
không thể cảm thụ thơ Thiền, vì mỗi bài thơ là một chứng ngộ tại thế về Chân
Như cuả Thiền sư.
Căn bản giáo lý Phật Giáo (3) là Tứ Diệu Đế, Mười
Hai Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, và thuyết vô ngã. Giáo lý
này được Đức Phật giảng dạy ngay sau khi Người thành đạo.
Tứ Diệu Đế là bốn chân lý cao cả do Phật đã tìm ra
. Đó là Khổ (dukkha),Tập (Samudaya), Diệt (Nirodha), Ðạo (Magga).
Bản chất cuả cuộc sống là khổ là bất toàn, vô thường, trống
rỗng, giả tạm . Sinh , lão, bệnh, tử, ngũ uẩn là khổ. Nguyên nhân cuả
khổ là khát ái , là dục vọng, là ý chí muốn sống, muốn tồn tại,
muốn tái sinh, muốn trở thành, muốn tăng trưởng, muốn tích lũy không ngừng. Bao
lâu còn khát ái trở thành, thì sinh tử luân hồi vẫn tiếp tục. Muốn tận
diệt khổ người ta phải diệt cội gốc chính của khổ là dục vọng, diệt tham,
diệt sân, diệt si. Chấm dứt khổ là Niết Bàn. Niết-bàn là Chân lý
tuyệt đối hay Thực tại tối hậu. Phật nói : “Đó là xa lánh trọn vẹn và tận
diệt chính tâm ái dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách
rời ra khỏi tâm ái dục.“ Niết-bàn có thể thực hiện ngay trong
cõi đời này. Để đạt tới Niết bàn con người phải tu tập theo Bát Chánh Đạo. Ấy
là Chánh kiến (thấy đúng), Chánh tư duy (nghĩ đúng),Chánh ngữ ( nói đúng),
Chánh nghiệp ( làm đúng ), Chánh mạng ( sống đúng ), Chánh tinh tiến ( siêng
năng đúng), Chánh niệm ( nhớ đúng), Chánh định (tâm an trụ).
Phật giáo còn nói đến luật nhân quả và nghiệp
báo. Trên đường tái sanh luân hồi, con người chịu ảnh hưởng của nghiệp. Vô
minh và Ái dục là nguyên nhân chính tạo ra Nghiệp. Chính Vô
Minh và Ái Dục là cội rễ của mọi tội ác. Nghiệp và Quả
đều tùy thuộc nơi Tâm. Hành động (Nghiệp) và hậu quả của hành động ấy (Quả) đều
do Tâm tạo nên . Mục tiêu tối hậu của người Phật tử là tận diệt Nghiệp. Trong
bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, có những lời dạy : “ Hãy gieo giống tốt, Ta sẽ
hưởng quả lành.”
Thuyết Vô Ngã (4) cho rằng ý tưởng về một bản thể
trường cửu bất diệt , gọi là Tôi, Ngã, cái Ta, hay Linh
hồn, chỉ là một niềm tin sai lạc . Cái mà ta gọi là Tôi hay Ngã chỉ
là một kết hợp của các uẩn vật lý và tâm linh, hoạt động tương quan mật
thiết lẫn nhau trong một dòng biến chuyển từng sát na, chịu chi phối của luật
nhân quả . Tất cả đều vô thường. Phật giáo phủ nhận hiện hữu của Ngã, linh
hồn, thượng đế. Sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn là do mười
hai nhân duyên : đó là Vô minh , nghiệp , Thức
,Danh sắc , Lục nhập , Xúc ,Thọ , Ái , Thủ , Hữu ,Sinh ,Lão , Tử . (5)
Nếu đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá
trình .Vô minh diệt thì Nghiệp diệt, Nghiệp diệt thì thức diệt,
thức diệt thì danh sắc diệt,.. cho đến khi sinh lão, tử, ưu bi khổ
não... diệt.
Đọc
thơ Thiền, người đọc sẽ nhận ra những tư tưởng căn bản trên nơi sự chứng ngộ
cuả các Thiền sư. Vì thế thơ Thiền trước hết là thơ tư tưởng, không phải là
thơ kiểu thơ phản hánh hiện thực hay thơ giãi bày tâm trạng
III. Thiền Tông (6)
Thơ Thiền thể hiện tư tưởng Phật giáo nhưng có những đặc
sắc riêng cuả Thiền .Thiền là
đạo giác ngộ hình thành qua kiến giải Trung Hoa , là cách tu chứng khác với Phật
giáo Ấn độ.
Thiền khởi từ Thiền thoại: ”Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”,
nghĩa là Phật giơ lên cành hoa, Ca Diếp nhìn cành hoa và mỉm cười. Ca Diếp đốn
ngộ tâm truyền , trực tiếp từ hành động cuả Phật , không qua kinh điển.
Phật phó chúc Thiền cho Ca Diếp, và từ Ca Diếp tâm ấn Phật được tiếp
tục truyền thừa đến tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, sơ tổ Thiền Trung Hoa. Bồ
Đề Đạt Ma ( -528) sang Trung Quốc vào năm 520, mang theo một thông điệp ,
được coi là tôn chỉ cuả Thiền :
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
(Truyền
riêng ngoài giáo/ Chẳng lập văn tự/Trỏ thẳng tâm người/ Thấy tánh thành Phật)
Thiền đặt nặng lý Giác Ngộ . Tu chứng theo Thiền là nỗ lực tự
chứng, nỗ lực tự mình, trong nội tâm mình, để ”Kiến tánh thành Phật”. Phương
pháp cuả Thiền là không dùng văn tự , mà tác động trực tiếp vào tâm.
Bởi vì ” Tâm tức Phật/ Phật tức tâm “ . Vô Minh , Nghiệp
quả , Ái dục cũng do tâm .Tứ Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên hoặc giáo
lý Vô Ngã chỉ là người hướng đạo trí thức vạch ra con đường
thực hiện sinh hoạt Phật giáo. Vì thế Thiền tập trung vào Phát tâm , an trú tâm
và hàng phục tâm.
Hai bộ kinh quan trọng cuả Thiền là kinh Lăng Già (
Lankavatara-Sutra) và kinh Kim Cang (7)
Kinh Lăng Già có thuyết “ Như Lai tạng” ảnh
hưởng đến toàn bộ Thiền tông. Như Lai tạng là “: Tất cả chúng
sinh đều tàng chưá Như Lai, tức là Phật tính. Phật tính bị khách trần
che phủ nên phải tu tập bích quán để trừ dứt khách trần cho Phật tính
thanh tịnh hiển lộ. Kinh Lăng Già chú trọng ở sự ngộ lý ,
nội chứng , rời bỏ ngôn thuyết , văn tự , vọng tưởng, nhấn mạnh tự tu, tự
ngộ, tự chứng để đạt tới cảnh giới “tự giác thánh trí“
Ý tưởng nền tảng cuả kinh Kim Cang là giáo lý về Tính
KHÔNG (8). Tất cả vạn hữu đang hiện hữu, tự tính của nó
là Không. Ý niệm Không không phải là hư vô , mà là trạng
thái vượt qua nhị nguyên tử - sinh , vượt qua hữu - vô , vuợt qua sắc tướng .
Đó là thể tính chân như cuả hiện hữu , là Như
Lai . Thực tướng ấy không thể diễn tả bằng ngôn ngữ,
cũng không thể dùng ý niệm để ý niệm , thấy Như Lai là thấy “thực tại vô tướng”
.
Người làm thơ Thiền có khi thể hiện cái nhìn cuả kinh
Hoa Nghiêm. Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến
cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, tất cả đều là Phật, tất
cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là
Pháp thân Phật. (9)
III. Thi Pháp thơ Thiền
Thơ Thiền được làm theo những nguyên tắc nhất định, có
thể gọi là thi pháp . Thực ra không có hẳn một trường phái thơ Thiền , vì thế
cũng không hề có lý luận về thi pháp thơ Thiền. Tuy nhiên, khi đọc thơ Thiền,
người đọc có thể nhận ra một vài đặc trưng trong phép làm những bài kệ - thơ Thiền
cuả các Thiền sư.
1. Thơ Thiền là kinh nghiệm tu chứng cuả Thiền sư, laø thôøi
khaéc saùng loaø cuả tâm thanh tònh , an nhiên, đạt
tới thực tại vô tướng, thể tính chơn như cuả hiện hữu. Ánh
sáng cuả sự chứng ngộ ấy tạo nên cái đẹp thơ .
2. Thơ Thiền được viết bằng kiểu ngôn ngữ vô ngôn, xuất
phát từ cách sử dụng ngôn ngữ cuả các Thiền sư. Đối với Thiền, ngôn ngữ được
xem là lừa dối và sai lạc để thấu hiểu chân lý. Kinh Lăng Già khẩn
thiết bảo ta rằng ngôn ngữ là một phương tiện hoàn toàn thiếu thích đáng để diễn
đạt và truyền đạt nội thể của Giác Ngộ. Kinh Kim Cang viết “Vô pháp khả
thuyết thị danh thuyết pháp”
(thuyết pháp là: không có pháp nào có thể thuyết
ấy là thuyết pháp). Thực tại vô tướng, thể tính chơn như không
thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý niệm.
Vì thế đọc thơ Thiền , người đọc phải tìm ra cách nói cuả tác
giả , nắm lấy diệu lý Thiền, vượt qua ngôn ngữ . Các Thiền sư phải trải qua vô
số thử thách ê chề mới đạt tới được tuyệt kỹ này. Cách nói vô ngôn có
thể gói trong những thí dụ sau (10) : 1. Nói nghịch, 2. Nói vượt
qua, 3. Nói chối bỏ, 4. Nói quyết, 5. Nói nhại,
6.Hét, 7. Phép im lặng, 8. Lý luận vòng
tròn.
Nói nghịch là cách noí nghịch lý. Phó Đại Sĩ nói :
Tay không: nắm cán mai
Đi bộ: lưng trâu ngồi
Theo cầu qua bến nước/
Cầu trôi nước chẳng trôi.
Nói vượt qua là cách nói thoát khỏi nhị
nguyên khẳng định và phủ định .
Nói chối bỏ là cùng một người, và cùng một câu hỏi,
lúc nói “có”, lúc nói “ không”.
Nói quyết cách nói lạc đề:
Một ông tăng hỏi Thiền sư Hoa Sơn (?): “ Thế nào là Phật”,
Sư đáp : “ Tôi biết đánh trống, tum đùng đùng”
Nếu hiểu vạn pháp (mọi hiện hữu) đều có Phật Tính , và Phật
tính hiện trong vạn pháp, thì dù trả lời lạc đề thế nào, hình ảnh
trong câu trả lời vẫn dẫn đến Như lai.
Nói nhại là nhại lại câu hỏi cuả người hỏi:
Một ông tăng hỏi Trường Sa: “Làm sao chuyển non
sông đất nước trở về cái tự kỷ?”
Sư đáp : “Làm sao chuyển cái tự kỷ thành non sông đất nước?”
Đối với các Thiền sư, lời nói, ngôn ngữ là một thứ
tiếng la, tiếng , kêu thoát ra từ sự thân chứng nội tại ; nó vô nghĩa, vì thế
muốn hiểu Thiền phải tự hiểu chính ta, không phải hiểu nghĩa của
ngôn ngữ phản chiếu những ý niệm. Thiền không thể nói được cho những
người chưa có tự chứng
3. Thơ Thiền sử dụng một số diễn tả đã thành “ điển “ cuả Phật
giáo, như điển hoá Thiền thoại; diễn tả cái Có và cái Không nhị
nguyên bằng những chữ như sát (giết chết) và hoạt (cho sống), đoạt (cướp
lấy) và dữ (ban cho), xúc (khẳng định) và bối (phủ
định), bằng từ vựng Phật giáo như khổ, dục, vô thường, vô
ngã, tâm, an nhiên thanh tịnh v.v...
Ta gặp hình ảnh diễn tả tư tưởng Phật quen thuộc
như : Tất cả các pháp là hữu vi, đều giống như sao đêm (tinh), như mắt
loạn(Ế), như ngọn đèn (đăng), như huyễn thuật (ảo), như sương mai (lộ), như bọt
nước(bào), như cơn mộng (mộng), như ánh chớp (điện), như đám mây nổi (vân).
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi
(Vạn Hạnh Thiền sư)
Hoặc:
Hết thảy pháp hữu vi
Như chiêm bao, huyễn thuật,
Như bọt nước, ảo ảnh,
Như suơng mai, điện chớp,
Hãy quán chiếu như vậy.
(bài kệ trong kinh Kim Cang )
Những hình ảnh quen thuốc ấy có nghiã riêng cuả giáo lý Phật. Tinh
tú biểu tượng cho cái thấy. Mắt bệnh là ví dụ cho tướng của đối
tượng. Ngọn đèn là thức uẩn. Huyễn thuật là cư
xứ, chỉ khí thế gian, Sương mai là ví dụ cho thân thể. Bọt
nước là thọ dụng. Chiêm bao là thời gian quá khứ. Điện
chớp là thời gian hiện tại. Vầng mây là thời gian vị
lai.
4. Một bài thơ Thiền có thể có hai lớp nghiã. Lớp nghiã nghiã
tư tưởng, diễn tả sự chứng ngộ cuả tác giả về Chân Như, và lớp nghiã nghệ
thuật, do hệ thống hình tượng thơ gợi ra. Lớp nghiã này được hiểu theo cách hiểu
cuả cộng đồng, bằng tri thức ,văn hoá thẩm mỹ cuả cộng đồng . Hai lớp nghiã này
có khi đồng nhất, có khi là riêng biệt, tuỳ theo cách sử dụng kiểu ngôn ngữ cuả
Thiền sư. Nếu ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ dạy đệ tử, lời dạy trực tiếp cho người
chưa chứng ngộ, đó là kiểu ngôn ngữ đời thường, hai lớp nghiã này thường đồng
nhất. Nếu Thiền sư biểu lộ sự chứng ngộ , thì đó là kiều ngôn ngữ vô
ngôn, là tiếng kêu vô nghiã . Lúc ấy, nghiã tư tưởng và
nghiã nghệ thụật là tách biệt, có khi không có quan hệ gì với nhau. Vì thế những
cách đọc bằng phương pháp truyền thống, phân tích nhân vật trữ tình
, phương pháp Tiểu Sử, Phân Tâm Học , Phản ánh Luận , Cấu Trúc Luận … đôi khi bất
lực trong việc giải mã thơ Thiền
IV. Thử đọc một vài bài thơ Thiền
1. Thiền sư Không Lộ ( ?-1119 )
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời
(
Kiều Thu Hoạch dịch)
Hai câu đầu là trạng thái an lạc cuả Thiền giả. Chọn được đất rồng
rắn có thể ở được . Tình quê vui vẻ (lạc) suốt ngày, không gì hơn.
An nhiên, không vướng mắc sự đời, đó là trạng thái“Ưng vô sở trú “ .
Sự vật (long xà điạ), con người (tác giả), thời gian (chung nhật) cùng hợp nhất.
Lời thơ như là kể, là tự nói chuyện với chính mình, vì thế câu thơ không có chủ
thể trực tiếp cho hành động “trạch đắc“(chọn được), hành động “cư”(ở), và trạng
thái “lạc vô dư” (an vui không gì hơn ). Nếu tứ thơ tiếp tục phát triển theo hướng
miêu tả cuộc sống nhàn nhã thảnh thơi, thì chưa hẳn đã là thơ Thiền, bởi an vi,
“vô vi” cũng là cách sống cuả nhà Nho xưa, bài thơ sẽ trở thành thơ Nhàn cuả
nhà Nho.
Hai câu sau là phút toả sáng sự chứng ngộ. Có lúc lên thẳng
ngọn núi trơ trọi . Kêu một tiếng dài lạnh cả thái hư. Chứng ngộ Thiền
là tự chứng , tự nội tâm mình, đơn độc . Người tu Thiền phải chiến đấu quyết liệt
với chính mình, như người leo núi đơn độc. Núi ở đây có thể hiểu theo
cách Trần Thái Tông nói về “ bốn núi “ : sinh, lão, bệnh, tử . Núi
chính là ngũ uẩn , là vô minh, là nghiệp , là sắc
tướng vô thường mà người tu Thiền phải vượt qua để đạt đến Ngã
Không , đạt đến tự tánh. Theo Tổ Huệ Năng (11), tu Thiền là nỗ lực“ kiến
tánh thành Phật “. Chứng ngộ là thấy được tự tánh .
Con người, vũ trụ là một, “tất cả tức một, một tức tất cả”. Con
người có uy lực cuả vũ trụ. Bởi vì tự tánh bao hàm toàn thể
vũ trụ, tự do tự tại, đầy sinh lực sáng tạo, mà đồng thời cùng tự tri tự
giác.Vì thế Không Lộ Thiền sư kêu một tiếng dài làm cả thái hư lạnh
lẽo. Đó là cách nói biểu hiện sự chứng ngộ.
Trong thực tế sẽ chẳng có ai lên thẳng đỉnh núi cô độc
, ở đó một mình với chính mình, kêu dài một tiếng làm lạnh cả thái
hư .Tại sao hai câu đầu là tâm an lạc mà hai câu sau lại là trạng thái cô độc
tuyệt đối: đỉnh núi cô độc và con người cô độc trên đỉnh núi ? Tại
sao con người không ở yên trong an lạc mà lại lên thẳng đỉnh núi cô
độc kêu lên một tiếng dài , tiếng kêu tan vào thái hư? Rõ ràng là hai tình huống
ngôn ngữ không logic với nhau , thậm chí tương phản nhau . Người đọc nhận ra kiểu
ngôn ngữ vô ngôn , trong cách nói quyết. Tứ thơ là những hình
ảnh vô nghiã. Nó chỉ là tiếng kêu từ tâm chứng ngộ .Ngôn ngữ không
phản ánh hiện thực hay phản ánh con người nhà thơ..
Để hiểu hình ảnh núi , xin đọc bài kệ cuả thiền
sư Ranryô (12)
Thiền định và trì niệm
Như hai tòa núi lớn
Căn cơ người sai khác
Phật tánh vốn chung đồng
Kẻ lên được tận đỉnh
Thấy trăng chiếu muôn nơi
Thương người thiếu tín tâm
Mờ mịt giưã dốc ghềnh
RanryÔ giúp ta hiểu “kẻ lên tận đỉnh núi“
cuả Không Lộ Thiền sư là “đỉnh núi cuả thiền định và trì niệm “ ,
con đường dẫn đến giác ngộ. Đạt tới đỉnh núi là đạt tới chứng ngộ.
Bằng cách đọc theo phản ánh luận, kết hợp với việc
phân tích nhân vật trữ tình, và “tán “ thơ “, có người hiểu hai câu thơ cuả
Không Lộ Thiền Sư thế này: (13)
“ Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời “
Hai câu thơ cao khiết mà cô đơn lạ! Cái ý tưởng nào mà chợt đến,
chợt đi (có lúc), mà táo bạo (trèo lên thẳng) với tâm thế hết sức cô đơn (đỉnh
núi trơ trọi). Tiếng kêu ấy thảng thốt biết bao làm cho cả bầu trời rùng mình, ớn
lạnh. Phải chăng đây là khát vọng vươn tới cái cao cả, cái nằm ngoài giới hạn
cuả con người ?Phải chăng đây cũng là ước mơ cháy bỏng hoà đồng với thiên
nhiên, ngang tầm với vũ trụ? Dù sao thì hai câu thơ tự chắp cánh cho mình, một
thời đã làm run lạnh cả bầu trời ấy, đến nay vẫn làm chúng ta giật mình ngơ
ngác. Vì nó lớn lao quá mà rất đỗi thiết tha. Nó rất “con người”. ( tôi xin
không có lời bình về cách hiểu này )
Cái hay cuả bài thơ này là gì ? là sự thể hiện tư tưởng Phật hay
ở hình tượng và nghệ thuật thơ ?
Có thể thấy rằng, cái hay cuả bài thơ thể hiện ở tính độc
đáo trong cách diễn tả sự chứng ngộ Phật và ở hình tượng thơ mới lạ . Ở Thiền ,
sự chứng ngộ cuả mỗi Thiền sư là sự chứng ngô riêng , độc đáo và đột khởi, đốn
ngộ. Không Lộ Thiền sư cũng chứng ngộ như thế: lên thẳng đỉnh núi cô độc, kêu
dài một tiếng làm lạnh thái hư. Đó là ý nghiã tư tưởng. Ý nghiã nghệ thuật cuả
hình tượng thơ lại đem đến cho người đọc những mỹ cảm khác .Đó là vẻ đẹp tâm hồn
dung dị cuả nhà thơ hoà mình trong đời sống dân dã , đằm thắm trong cái tình
quê suốt ngày vui không gì hơn. Hình ảnh nhà thơ có lúc đã từng lên
thẳng đỉnh núi cô độc, kêu một tiếng dài , âm vang làm lạnh thái hư. (Những người
ở rừng ở núi thường dùng tiếng kêu dài , hú dài để gọi nhau) Có lẽ nhà thơ đã
khám phá ra sức mạnh cuả chính mình trong thiên nhiên và trong thái hư (vũ trụ)
. Bài thơ gợi ra hình ảnh một Thiền sư ở giưã cuộc sống, giưã thiên nhiên , vưà
ung dung giản dị , vưà mạnh mẽ phi thường , vượt lên tất cả , hoà nhập tất cả
, “tất cả tức một, một tức tất cả”.
2. Thiền sư Mugaku (14) là
người sáng lập Thiền
Tông Nhật Bản . Sư sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc, ngộ Thiền từ 12 tuổi . Năm
1275 quân Mông cổ tràn vào Trung Quốc . Mugaku lúc ấy đã xuất gia, di tản
khỏi chùa. Một năm sau chiến sự lại tràn đến, sư ở lại chuà . Khi ấy Mugaku
đang tĩnh toạ tại chánh điện, quân Mông Cổ tràn vào. Chúng kề gươm vào cổ ngài
mà uy hiếp. Ngài điềm nhiên đọc một bài kệ , quân Mông Cổ hạ gươm rồi
rút lui. Bài kệ như sau:
Gom toàn thể thế giới
Chẳng vừa một đầu gậy
Vạn pháp vốn là không
Vô thường và vô ngã
Lưỡi gươm bọn hung nô
Lấp loáng cắt xuân phong.
(Thiền
sư Mugaku)
Trước hết bài kệ là cách sư Mugaku trả lời cho sự uy hiếp cuả
quân Mông Cổ. Chúng lấy cái chết để đe doạ Thiền sư. Ngài noí: toàn thể thế giới
là quá nhỏ, gom toàn thế thế giới chẳng vưà một đầu gậy. Mọi hiện
hữu (vạn pháp) đều là Không , vậy sự hiện hữu cuả Ngài là vô ngã, nào có
nghiã gì. Nếu lưỡi gươm tàn bạo cuả quân Mông có lấp
loáng, cũng chì là cắt vào gió xuân , cắt vào Không . Lời cuả sư chỉ
ra rằng, sức mạnh vật chất tàn bạo cuả quân Mông Cổ, dù có chém đầu
ngài, cũng chỉ là vô nghiã . Vì chúng là Không, và chúng đối diện với Không . Nội
dung tư tưởng cuả bài kệ là triết lý tính Không về bản thể cuả hiện hữu vô
thường vô ngã cuả Phật.
Cái hay cuả bài kệ là ở chỗ Thiền sư đã làm hiển lộ sức mạnh,
uy lực cuả sự chứng ngộ, con người , vũ trụ là một, tự do, đầy sinh lực sáng tạo
. Đối diện với sức mạnh ấy , quân Mông Cổ phải buông gươm.
Nhưng bài kệ còn hay ở hình tượng thơ được nhà sư dụng để thể
hiện tư tưởng Phật. Nó vưà tạo ra cái thẩm mỹ, vưà bộc lộ trình độ giác ngộ và
uy lực cuả tác giả
Gom toàn thể thế giới
Chẳng vừa một đầu gậy
Cả thế giới gom lại chẳng vưà một đầu gậy , con người này có tầm vóc
, uy lực lớn lao mạnh mẽ đến thế nào! Con ngưới ấy có thể gom cả thế giới lại,
và cả thế giới là quá bé nhỏ trong tay con người . Một tứ thơ như vậy quả là lạ. Nó chưá đựng sức mạnh Phật
.
Lưỡi gươm bon hung nô
Lấp loáng cắt xuân phong
Tứ thơ cuối sáng lên một cái đẹp nghệ thuật khác : lưỡi gươm lấp
loáng cắt gió xuân. Tất cả sự tàn bạo cuả quân Mông Cổ trở nên vô nghiã vì cắt
vào Không, nhưng tứ thơ có sự chuyển nghiã , tất cả sự tàn bạo , đẫm máu, thăng
hoa thành cái đẹp “ lấp loáng trong gío xuân “. Không còn máu chảy ,
đầu rơi , tang thương, chết chóc. Sức mạnh tàn bạo cuả sự chết chuyển hoá thành
sức mạnh sáng láng cuả sự sống ( muà xuân )
Nghiã tư tưởng (Thiền) và nghiã nghệ thuật cuả tứ thơ có sự
chuyển hóa đột ngột , mạnh mẽ , mới lạ . Ở bài này sử dụng ngôn ngữ đời thường
, lời thơ là lời Thiền sư nói với quân Mông Cổ, vì thế nghiã tư tưởng và nghiã
nghệ thuật có thể trùng với
nhau.
3. Mãn Giác đại sư (1052-1096)
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân lai bách hoa khai
Sự trục nhân tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bốn câu đầu là hình ảnh diễn tả tính chất vô thường , vô
vọng, cuả hiện hữu trong không gian , thời gian. Cuộc sống luôn vận động trong
nhân duyên, có sinh thì có diệt, luân hồi mãi trong cõi sinh tử . Xuân đến rồi
xuân đi , hoa nở rồi hoa rụng. Sự việc cứ trôi đi trước mắt .Tuổi già đến trên
đầu. Bản thể cuả hiện hữu là vô thường , chẳng có gì tồn tại . Con
người chẳng thể níu kéo được gì, chẳng thể níu kéo tuổi xuân cho mình .
Hai câu cuối là sự chuyển hoá lạ lùng, như được thốt
ra từ sự chứng ngộ . Đừng tưởng xuân tàn thì hoa rụng hết . Hoa vẫn nở
đấy : Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân. Mãn Giác đại sư đã vượt
qua vô thường, vượt qua tử sinh, vượt qua luân hồi. Đại sư đã
nhìn thấy cành mai nở trước sân , như Ca diếp mỉm cười chứng ngộ khi
nhìn thấy đức Phật giơ cành hoa lên . Mãn Giác đại sư
cũng đang mỉm cười . Cành mai ấy là cành mai tư tưởng, sáng lên một cách lạ
lùng trong bóng tối cuả vô thường đã lùi lại phiá sau. Đó là ý nghiã
tư tưởng Thiền cuả bài kệ.
Đọc bài thơ này bằng phương pháp cấu trúc luận, Như Huy có những
kiến giải thú vị về ý nghiã bài thơ, nhưng Như Huy chưa phát hiện ra sự chứng
ngộ cuả mãn Giác (15)
Ở bài kệ này, ngôn ngữ là lời “ thị đệ tử “, là lời dạy bảo
trực tiếp, ngôn ngữ đời thường . Nhưng lời dạy ấy được diễn tả bằng hình ảnh, tạo
nên tứ thơ , Kệ trở thành thơ . Hình tượng nghệ thuật cuả thơ mang đến một ý
nghiã khác. Đó là cái nhìn thanh xuân cuả một người tuổi già đã đến trên đầu .
Trong cái nhìn ấy muà xuân tồn tại mãi, sự sống vẫn tươi tắn , cái đẹp vẫn tồn
tại, dù tất cả vẫn qua đi như một quy luật không cưỡng lại được. Tứ thơ “Đêm qua, sân trước, một cành mai.” Là một tứ thơ mới lạ cả về
nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ. Nhà thơ chọn trong trăm hoa rụng một cành
mai tươi nở . Cái đẹp trong ý thức sáng tạo cuả nhà thơ là cành mai, là muà
xuân, là tuổi trẻ, là sự sống và một niềm tin vĩnh cửu. Đối với người Việt Nam ,
cành mai luôn là hình ảnh gần gũi cuả mọi nhà mỗi khi xuân về, chẳng bao giờ
thiếu muà xuân trên đất nước trăm hoa này. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại
sao bài thơ gắn kết lâu bền trong thi ca dân tộc và trong tâm hồn
người Việt như vậy.
4. Thơ Thiền Bùi Giáng (16)
Thơ Bùi Giáng có tư tưởng Thiền. Bùi Giáng nhận ra
“ tinh thể đười ươi “ trong thân phận người .
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Trong Thiền Luận, Daisetz Teitaro Suzuki nhắc
đến Thiền Thoại sau: Khi Ngưỡng Sơn ( 804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư
Hồng Ân giảng như vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người
hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng.
Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một
tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi , ta với ngươi cùng đối mặt
nhau đây”. Bùi Giáng thay khỉ bằng đười ươi, tạo ấn tượng mạnh
hơn vì đười ươi hay cười. Đó cũng là hình ảnh nghệ thuật Bùi Giáng tự vẽ chân
dung cuả chính mình
Đoạn thơ trên biểu hiện tâm hồn , tính
cách , kiều nói năng rất Thiền cuả Bùi Giáng . Bùi Giáng nhận ra Phật
Tánh trong hình hài đười ươi cuả người , cuả tôi.
“ người cũng là tôi , tôi cũng là người , ấy rằng tinh thể đười ươi “
. Vũ trụ, thời gian là nhất thể, tự tại, không sinh diệt: “ một
cũng là ba , là hai , là một ; mai , mốt cũng là hôm nay “. Sự giác ngộ
như thế là bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đấn đại ngộ . Bùi Giáng không nhìn tha
nhân như người khác mà nhìn tha nhân trong cùng một bản thể
Phật tính , không nhìn tha nhân như người cuả thế giới khác , vũ trụ khác,
mà nhìn tha nhân trong hiện hữu thường hằng, quá khứ- hiện tại -
tương lai - không gian - thời gian là một .Trong một tương quan như thế, người
đọc thấy Bùi Giáng an nhiên ngay trong cuộc sống thực tại
Cái hay cuả đoạn thơ ấy là kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng. Ngôn ngữ
như bông đuà. Nói chuyện tư tưởng thâm sâu cuả sự chứng ngộ mà tếu
táo chẳng đâu ra đâu, lẫn lộn lung tung. Thực ra Bùi Giáng cố ý xáo trộn ngôn
ngữ, dùng cách nói vòng ( kiểu ngôn ngữ cuả các Thiền sư ), tạo ra
sự xáo trộn trật tư logic cuả ngôn ngữ đời thường, xáo trộn không
gian, thời gian, đạt tới sự diễn tả tư tưởng.
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Để hiểu câu thơ này, cần sắp xếp lại ngôn từ theo logic cuả
ngôn ngữ đời thường . một-hai-ba (không gian) -mốt-mai-hôm nay (thời gian) , tất
cả là một. Vạn pháp là một Phật tính . Phật tính hiển hiện trong vạn
pháp. Tuy nhiên đoạn thơ không phải là tâm thế đốn ngộ cuả Bùi Giáng. Bùi
Giáng chỉ mượn tư tưởng Thiền để thể hiện cá tính sáng tạo cuả mình, một cá
tính tài hoa. Vì thế thơ Bùi Giáng là thơ cuả một nghệ sĩ tài
hoa, khác với những bài kệ / thơ Thiền cuả các Thiền sư.
5. Thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn (17)
Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ trẻ. Thật đáng ngạc nhiên vì Tập Suối
reo cuả anh là một tập thơ Thiền . Trong tình hình người trẻ làm thơ hiện
nay , thì sự chọn lựa ấy cuả Trần Ngọc Tuấn là sự chọn lưạ đầy khó
khăn. Trần Ngọc Tuấn không phải là một Thiền sư, anh vẫn đang sống lăn lộn giưã
đời, vì thế Suối Reo là thơ của đời ánh lên sắc Thiền ,
thơ của một con người còn đang “ qua dốc sương mù “
“ Gánh củi qua dốc sương mù
Mồ hôi giọt gịot gió ù ù bay
Nghìn tia nắng dệt trang ngày
Bước chân hoan hỉ , đêm này lửa reo “
Sống là gánh lấy bao nhiêu nỗi vất vả như người
gánh củi . Ngày đêm phải vượt qua con dốc sương
mù và đương đầu với gió ù ù bay. Nếu nhìn nhận cuộc đời như thế
, tác giả sẽ chuyển bài thơ thành tâm tình thở than. Thế
nhưng Qua Dốc Sương Mù lại rực rỡ ánh sáng của sự
thăng hoa. Đó không phải là thứ ánh sáng thiên nhiên của nghìn tia nắng,
hay ánh sáng của đêm lửa reo , mà là ánh hào quang của Phật. Nỗi
vất vả , thống khổ trở thành con đường hạnh ngộ. Qua dốc sương mù là
vượt qua vô minh , vượt qua khổ ( Diệu đế I ). Người gánh củi
kia tỏa ánh hào quang của Phật trong
“ bước chân hoan hỷ ‘. Bài thơ
không miêu tả hiện thực gánh củi mà tả khỏanh khắc chứng ngộ đầy hỷ
hoan trong ánh sáng toả ra từ Tâm Bát Nhã. Hiện thực đuợc nhìn bằng Trí
Huệ Bát Nhã
( Prajna ) . Đó là ý nghiã tư tưởng cuả bài thơ.
Người ta có thể hiểu bài thơ khác đi qua cách đọc phản
ánh hiện thực. Bài thơ là cái nhìn lạc quan , là tấm lòng nhân hậu Trần Ngọc
Tuấn đối với người gánh củi. Bài thơ cũng là một bức tranh tả cảnh
gánh củi vất vả, trên nền thiên nhiên rạng rỡ , trong ánh sáng ấm áp
cuả bếp lửa gia đình do củi mang laị , từ đó nói đến một tiến trình
tư tưởng tích cực, suy từ sự vất vả đến hạnh phúc mà người
gánh củi đạt được.
Ở bài thơ này, Trần Ngọc Tuấn chưa đạt đến các nói cuả Thiền
sư. Ngôn ngữ thơ không phải là kiểu ngôn ngữ vô ngôn cuả Thiền , vì thế nghiã
tư tưởng và nghiã nghệ thuật có thể chồng khít lên nhau, không tinh
ý khó có thể nhận ra ý nghiã Thiền cuả bài thơ. Dầu vậy bài thơ cũng
có được những tứ thơ hay và ngôn ngữ nghệ thuật tinh ròng . Sự kết hợp Tứ Tuyệt
với Lục bát tạo nên màu sắc thẩm mỹ riêng, vưà có cái cô đọng tư tưởng cuả Tứ
Tuyệt, vưà có cái mền mại thanh thoát cuả Lục Bát, vưà có sự sang trọng cuả tư
tưởng vưà có sự dung dị dân dã cuả hồn thơ.
6. Thơ Thiền Phạm Thiên Thư
Tôi chưa có dịp nói đến những kinh Phật được Phạm Thiên thư
phổ thơ như Qua Suối Mây Hồng - Kinh Ngọc (thi hóa Kinh Kim
Cương), Hội Hoa Đàm - Kinh Hiền ( thi hóa Kinh Hiền Ngu, 12 ngàn câu
lục bát), Suối Nguồn Vi Diệu - Kinh Thơ (thi hóa Kinh Pháp Cú)
Chỉ xin thử đọc một đoạn trong bài Đưa Em Tìm Động Hoa
Vàng cuả Phạm Thiên Thư (PTT) xem thơ Thiền cuả Phạm Thiên Thư có thi vị
thế nào . Đặc sắc thơ PTT là thơ tình có vị Thiền . Điều
này lạ. Bởi vì tình là khổ luỵ. Thiền là cắt đứt nghiệp chướng. PTT đã tạo nên
sự kết hợp này thế nào ? xin đọc
21
Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
22
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Nội dung đoạn thơ là câu chuyện tình yêu, là những lời yêu
PTT gửi đến người tình, nhưng những ý tứ Thiền lại hiển lộ rất rõ
trong cái nhìn , trong ngôn ngữ , trong tâm thức nhà thơ : phù vân , sương
, mù , đoạn trường . Trong khổ thơ này PTT không dụng ý thể hiện tư tưởng
Thiền , nhà thơ chỉ mượn từ ngữ, ý tứ để diễn tả tâm trạng yêu.
PTT nhìn người yêu mà suy gẫm, lúc nằm , lúc về , hình
hài ấy, dáng vẻ ấy : môi thanh xuân đào lý đấy , tay đơm muà hè, gót dời hoa
xuân. Nhưng mà hiện hữu ấy , tóc ấy chỉ là phù vân; lệ ấy , dáng ấy
mong manh như sương. Em tuy đẹp , tuy dào dạt đào lý, dào dạt yêu thương trong
mắt lệ, em giưã cội thu xanh , giưã vàng phố mây trời, nhưng chỉ là
vô thường , chỉ là khổ ( đoạn trường ) chỉ là vô minh(
mù ) , là hư huyễn( phù vân ) . Trái tim nhà thơ thốt lên nỗi
buồn thương không sao ngăn được. Nhà thơ kêu lên nhiều lần “ thì thôi “,
chấp nhận thực tại, để rồi buộc phải nói lời ly tan “ thôi thì
thôi nhé” .Bản chất cuả hiện hữu là thế , và tình yêu, dù thăng hoa đẹp đẽ thế
nào cũng không thoát ra được. Phạm Thiên Thư- người tình, chỉ còn
mong
“Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu “
Thiền vị đem đến những giá trị thẩm mỹ gì cho thơ PTT ?
Thơ PTT sang trọng, thanh cao là nhờ ở Thiền Vị. PTT cũng viết
về đoạn trường, chia li, cũng viết về mắt , về môi , về dáng đứng, dáng nằm cuả
người con gái, nhưng tuyệt nhiên không nhuốm mùi nhục thể, tuyệt nhiên không rực
lưả dục vọng. Cũng là nước mắt, cũng là ly tan, nhưng không có hờn ghen oán
trách tình phụ, không bi luỵ tang thương. Thiền vị làm thăng hoa thơ tình PTT
Thật khác xa với cái nhìn tang thương bi đát cuả Nguyễn Gia
Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc
“…Ngọn tâm hoả đốt dầu nét liễu
Giọt hồng băng thấm ráo làn son…
…Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo dầu bến mê…
…Phong trần cả đến sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này…”
Sự khác biệt ấy là ở chỗ PTT đã “ ngộ” được chân lý Thiền, trong khi Nguyễn Gia
Thiều còn đang ngụp lặn ở bến mê
Thật thú vị nếu tiếp tục đi sâu hơn nưã trong việc xem xét ảnh
hưởng cuả Thiền trong thơ ca. Chẳng hạn Nguyễn Du trong bài Lương Chiêu
Minh thái tử phân kinh thạch đài cho biết ông đã từng đọc hàng
ngàn biến kinh Kim Cang.
Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh.”
(Ta đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang, những ý nghĩa sâu kín trong đó phần nhiều
ta không rõ. Đến hôm nay tới đài chia kinh này mới biết rằng Vô tự chính
là Chân kinh)
Tuy nhiên điều ấy nằm ngoài phạm vi cuả bài viết này: Một
cách tiếp cận thơ Thiền.
Quả là nếu tiếp cận đúng hướng thơ Thiền , người đọc có thể
thưởng thức được những giá trị, những khoái cảm thẩm mỹ đặc biệt mà thơ Thiền
đem lại. Nhìn trong quá trình phát triển, những bà Kệ thuần tính cách nghi lễ,
khi được diễn đạt bằng ngôn ngữ hình tượng biểu cảm, đã chuyển hoá
thành thơ .Thơ Thiền cuả các Thiền sư có sự chuyển hoá ấy. Và khi
Thiền thâm nhập được vào trái tim nhà thơ thế tục, Thiền
vị tạo nên cái đẹp mới lạ trong những áng thơ, có khi đọc không hiểu, song
vẫn có thể cảm nhận được qua hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ như thơ Bùi
Giáng, Phạm Thiên Thư. Con đường phát triển ấy còn nhiều hưá hẹn cho thơ ca Việt
Nam.
Chú thích:
(1) Thiền Uyển Tập Anh
(2), (12), (14) “101 Giai Thoaïi Thieàn” – Thomas
Cleary – Nxb Tp Hồ Chí minh 2001. Tr.144
(3) “Đức Phật Đã Dạy Những Gì” - Hòa thượng WALPOLA RAHULA
-Thích Nữ Trí Hải dịch - 1998
(4), Bài thuyết pháp thứ 2 của Đức Phật Anattalakkhana
Sutta - Kinh Vô Ngã Tướng
(5) Thập nhị nhân duyên: Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên
sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi không lay động dưới tàng cây Bồ Đề. Trong đêm cuối tuần, Ngài xuất thiền và suy niệm về Thập Nhị Nhân
Duyên (Paticca Samuppada), đó
là Vô minh, nghiệp, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão, Tử.
(6), (10), (11)Thiền Luận - SUZUKI
(7) “Tìm hiểu về Thiền Tông Phật Giáo Trung Hoa”.-Nguyễn
Tuệ Chân - nxb Đà Nẵng 2006.tr34
(8) “Giới thiệu và giải thích đề
kinh Kim Cương Bát Nhã “ -Thích Thái Hòa
(9) “Giới thiệu Kinh Hoa Nghiêm” - Hoà Thượng
Thích Trí Quảng
(13) “Thơ văn Lý Trần” – Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường-
Nxb Giáo dục 1999. Tr.63
(15) Đọc thêm: Như Huy – “Thêm hai cách đọc bài thơ/ kệ
"Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền Sư”, www.tienv,org
(16) Đọc thêm: Bùi Công Thuấn – “Bùi Giáng, ai người chia xẻ”
.www.vannghesongcuulong.org.vn, hoặc www.damau.org.
(17) Đọc thêm: Bùi Công Thuấn – “Một mình ra khơi“
(về tập Suối Reo của Trần Ngọc Tuấn, Nxb Hội Nhà Văn 2006).
Bài này đã đăng trên Văn Nghệ Trẻ ngày 28/1/2007.
27/10/2007
Bùi Công Thuấn
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét