Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Số phận và ngày cuối cùng ở Budapest

Số phận và ngày
cuối cùng ở Budapest

Nhà văn, Tiến sĩ y học Nguyễn Lam Thủy sinh ngày 13.3.1956 quê quán huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; hiện thường trú tại Budapest, Hungary; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả của các tác phẩm: Quê hương (thơ, in chung, 2006); Ơn nghĩa cuộc đời (truyện ngắn và bút ký, 2016); Ngày cuối cùng ở Budapest (truyện ngắn và bút ký, 2016);… Vì bệnh tim nặng, ông vừa đột ngột qua đời ngày 14.7.2021 sau một ca mổ ở Đông Âu. Thương tiếc, tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Lam Thủy, Vanvn.vn xin trân trọng giới thiệu 2 truyện ngắn của ông.
Số phận
Sáng nay Phan ngồi mình trong tiệm cà phê bên hồ Genơve. Ly cà phê hơi nước cứ bốc nghi ngút, mắt Phan nhìn hồ, phố xá sao sạch và đẹp tuyệt vời, cuộc sống thật vương giã, phía bên kia hồ là dãy núi Alpơ trùng điệp, xa xa là đỉnh núi Mont Blanc đầy tuyết trắng.
Hồi bé Phan thường nghe mẹ gọi chị An, nên mấy chị em Phan gọi là dì An (ở xứ Nghệ em gái hay chị gái của mẹ đều gọi là dì). Mấy chị em Phan biết gọi vậy mà chẳng biết mối quan hệ họ hàng với dì. Nhiều lần Phan gạn hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, nhà mình có mối quan hệ họ hàng với dì An như thế nào hở mẹ? nhưng mẹ cứ lờ đi, như sợ chạm phải một điều gì rất hệ trọng. Trong bụng Phan cứ mong mẹ nói chẳng có họ hàng gì cả, để Phan có quyền nói điều đó với các bạn hàng xóm, cùng đội Thiếu niên Nhi đồng. Bởi sợ bà trước đây là địa chủ, kẻ bóc lột, là nguồn gốc phong kiến, đế quốc…   Tuy nhiên, cứ mỗi tuổi lớn lên, chắp nhặt từ câu chuyện của nhiều người, và nhìn cách sống, cư xứ với bà con xóm giềng có trước có sau, lại siêng năng cần cù lao động, hiền lành, ít  nói… của dì nên Phan bớt dần cái căm giận, thù oán, ghét bỏ…
Ba dì An sinh ra trong một gia đình làm ruộng nghèo khổ, cái nắng gió khắc nhiệt của mùa Hè từ tháng Năm đến tháng Chín.Từ tháng Chín những đám mây màu chì, nặng trĩu đưa những cơn mưa tầm tã suốt tháng này qua tháng khác từ biển đến dãy Trường sơn, cùng với đất cằn cõi quê Phan kiếm bát cơm hàng ngày không phải chuyện giản đơn. lớn lên cái tuổi 17, trốn không đi lính khố xanh thì lại bị Tây bắt đi làm cu ly. Tưởng được làm cu ly làm đường ở quê gần bố mẹ, nhưng không được thế, Tây bắt cả mấy trăm người dáng người lam lũ, hành lý tư trang chỉ là những túi nhỏ một vài bộ quần áo dồn lên tàu đi từ ga Vinh như đàn lợn. Tàu lầm lũi chuyển bánh giữa đêm khuya đi về phương Nam. Ai cũng khóc, người gào khóc, người thút thí, người thì khóc thầm, những giọt nước mắt tuôn từ đôi mắt ngầu đỏ lăn trên những gò má đầy xương. Mọi người thầm thì trong họng: -Vĩnh biệt quê hương! Đi bốn đêm ba ngày mới tới Đồng Nai, miền Đông Nam bộ, rồi từ ga tàu đi bộ hơn cả ngày mới đến một đồn điền cao su hoang vu, nơi rừng thiêng nước độc.
Hàng ngày từ sáng sớm tinh mơ cho đến tận hoàng hôn, ông phải làm việc vô cùng cực khổ, lúc thì cạo mủ, lúc khiêng những thùng mủ cao su nặng hơn cả cơ thể mình, mồ hôi chảy ướt hết quần áo, thức ăn nước uống khi nào cũng thiếu, lại thường xuyên bị cai đồ̀n điền hắt hủi, đánh đập.
Cảnh xa xứ, buồn, cực khổ, nhớ quê da diết, những lúc nghỉ việc ông thường đi lại với một gia đình cả vợ lẫn chồng rất tốt bụng người gốc Bắc cũng bị bắt đi phu mấy chục năm nay làm trong đồn điền cao su. Gia đình duy nhất có một người con gái khá xinh đẹp, hiền lành, nết na, giản dị, chất phát, có tâm hồn trong sáng, với thân hình trẻ trung, khỏe mạnh nhưng lại bị bệnh thong manh từ khi mới sinh ra – cả hai con mắt không nhìn thấy gì, không hề có khái niệm về màu sắc. Cùng cảnh ngộ nên ông được cả nhà quý mến, yêu thương đùm bọc, ông đem lòng yêu thương người con gái thong manh ấy và nên vợ nên chồng.
Vào khoảng cuối năm hai mươi của thế kỷ 20, không biết vì số phận nghiệt ngã và cay đắng hay nỗi nhớ bố mẹ, quê hương nghèo da diết, ông dẫn vợ về thăm quê, lúc đó bố mẹ, anh em chẳng còn ai nữa. Đúng năm đó gặp trận lụt rất to cuốn trôi nhiều đoạn đường tàu, tàu hỏa Bắc Nam bị ngưng trệ mấy tháng trời, nên cả hai vợ chồng đành ở lại quê và chẳng bao lâu sinh được một người con gái đặt tên là An.
Khi dì An được vài tuần tuổi, túp liều tranh xơ xác, rách nát không đủ che nắng mưa cho cả nhà, ông quyết đi ngược sông Lam, rồi lên ngàn Sâu (nơi cụ Phan Đình Phùng làm căn cứ khởi nghĩa chống Pháp) để chặt gỗ, tre, nứa về làm nhà cho vợ con. Trước lúc đi ông đặt chiếc túi nhỏ có một bộ quần áo, bao gạo, muối vừng xuống chiếc chõng tre, hai tay ôm lấy con hôn thắm thiết, rồi nựn con:
– Con ở nhà ngoan với má, ba đi mươi mười lăm hôm, về ba sẽ làm nhà cho con ở – rồi nước mắt ông dàn dụa chảy xuống hai gò má gầy đem xạm. Rồi quay sang vợ nói:
– Em ở nhà trông con, anh cố gắng về sớm với hai mẹ con.
Bà bồng con đợi hai mươi ngày, rồi cả tháng chẳng thấy chồng về, bà cứ ôm con khóc hoài, khóc mãi…
Sau đó, bà nghe tin ông đã bị cọp vồ mất xác ở trong rừng sâu. Nhà không có, chỉ có túp liều tranh xơ xác, mắt mù lòa, tiền bạc không, con còn quá nhỏ, bà buồn khổ thất vọng đến tuột cùng không biết trông chờ vào ai, cũng chẳng biết cách nào để quay trở về với ba má ở Đồng Nai. Vào một đêm đông không một chút ánh trăng, những vì sao lấp lánh xa xôi. Gió mùa đông bắc liên hồ lùa qua mặt sông mang giá lạnh ẩn ướt. Bà đặt dì An vào rổ lót rơm, rồi bế con lần mò theo tiếng sóng của dòng sông, mò dần từng bước ra bến sông. Đến dốc cao người bà quỵ xuống không đi được nữa vì đói và thương con, bà cố ôm con bò dần  tới gốc cây si, khóc nức nở cho con bú hết giọt sữa cuối cùng rồi đặt con ở đấy xuống sông trầm mình tự tử. Đêm khuya nghe tiếng trẻ con gào khóc thảm thiết, dân làng chạy ra chẳng thấy bà đâu, họ vội vàng đốt đuốc chia hai nhóm thượng nguồn và hạ nguồn của dòng sông tìm kiếm bà cho đến lúc chân trời ửng đỏ lấp sau những dãy sương mù dày đặc màu trắng đục, chồng xếp lên nhau đang trườn mình trên dòng sông đáng sợ. Những ngôi sao đang cứ lúc ẩn, lúc hiện mờ dần rồi tắt hẳn… sau ba ngày dân làng thấy xác bà, bụng sình nước, tay chân co quắp màu trắng nhợt, mắt mở to toàn một màu mờ đục nằm trên đống bùn ở dưới gốc cây bần lưa thưa cỏ dại cách bến sông vài ba cây số.
Ông cậu họ của Phan lúc đó hiếm con, xin xóm làng đưa dì An về nuôi, thương yêu chăm sóc như con đẻ của mình. Khi dì An lên năm tuổi, ông cậu có thêm một cậu con trai, cả họ hàng ai cũng mừng đặt tên là Phận. Hai chị em rất thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Càng lớn dì càng xinh đẹp, vóc người cân đối, thon thả. Mỗi khi dì cười đôi mắt nâu huyền lại bừng lên sức sống hăng say của tuổi trẻ, hồn nhiên, mũi cao thắng tôn hẳn trên khuôn mặt tròn màu trắng hồng, có mái tóc đen mượt mà dài đến thắt lưng lúc nào cũng tết thành quộn tròn, quộn vòng trên đầu thoang thoảng mùi hương xả lẫn với  của nắng và mồ hôi. Dì không những xinh đẹp, duyên dáng mà còn hát rất hay với chất giọng trong trẻo, mượt mà của dân ca xứ Nghệ làm say đắm dân làng với những khúc ca Ví dặm trong những đêm trăng sáng hát phường vải. Dì không những được các anh trai làng để ý, mà các làng xa trong huyện cũng tìm đến dì. Dân làng ai cũng khen dì tốt số, may mắn và có phúc, lại được sống trong gia đình nho giáo có truyền thống. Là phận gái nên dì An không theo con đường học hành, suốt ngày luôn tay luôn chân làm việc một cách say mê, vui vẻ những việc nặng nhọc giúp bố mẹ nuôi em trai ăn học, không nề hà bất cứ công việc gì từ trong nhà hay ngoài đồng ruộng. Mùa Đông dì thích chăm những luống rau trong vườn rồi thu hoạch rau đưa ra chợ bán, giêng hai đi cấy lúa, mùa hè bề bộn mùa thu hoạch, đêm đêm lại gánh nước sông Lam chống hạn vườn cam, chuối dưới cái nắng lửa miền Trung và gió Lào khắc nghiệt, nên trong vườn lúg nào cây trái vẫn tươi tốt sum suê. Mỗi lần em đi học xa về dì lại lo chu đáo cho em từ cái ăn, quần áo sách vở, tiền bạc…Rồi những lần em trở lại trường, dì đi bộ mười mấy cây số đưa em lên tàu mãi tận ga Vinh. Tuổi thanh xuân của dì qua đi lúc nào chẳng biết, chẳng bận tâm đến chuyện chồng con.
Năm 1944, cậu Phận học xong tú tài ở Huế, sau đó cậu đi đâu biệt tăm, làm gì chẳng ai biết cả, người thì bảo theo Tây đi qua Pháp, người thì bảo ở Sài gòn hay Tam Đảo… Thương nhớ em bao nhiêu năm dì lặng lội hết ra Hà nội, vào Huế và các nơi khác để tìm em, nhưng vô vọng.
Tháng chín, 1945 dì nhiệt tình tham gia đoàn quân cách mạng cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp, vui vẻ với lòng đầy trách nhiệm hiến dâng gạo thóc và của cải cho chính quyền Cách mạng. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ được vài năm cả hai ông bà ông cậu mất, để lại cho dì An ba mẫu ruộng, hai ngôi nhà năm gian, cùng với một người giúp việc. Năm cải cách ruộng đất, dì An bị quy là địa chủ bị đấu tố, tất cả tài sản bị tịch thu. Dì về dựng một túp lều tre cạnh nhà Phan ở, chấp nhận sống cuộc đời khốn khó về cả vật chất lẫn tinh thần, nhưng chẳng bao giờ kêu ca hay than oán ai.
Không còn ruộng vườn, hàng ngày dì lầm lũi với gánh hàng la ghim đi khắp các làng gần xa. Dân làng, những ai trước đây quen biết thì vẫn thương và ái ngại cho hoàn cảnh của dì, số đông còn lại ai cũng muốn tránh né. Với lũ trẻ con được dạy ở trường, địa chủ là giai cấp bóc lột “phải đào tận gốc, trốc tận rễ”, ấy thế bây giờ dì lại thành dân buôn bán – cũng là giai cấp bóc lột nên càng bị người ta căm ghét, khinh bỉ gấp bội phần.
Phan thì cảm thấy dì bình thường như những con người xung quanh mình, cần cù lao động, chẳng ngại nắng mưa, hàng ngày đi bán hàng chẳng dối trá lừa lọc ai bao giờ. Thỉnh thoảng dì sang nhà cho Phan cục đường đen, họa hoằn lắm dì cho Phan vài ba quả chuối rồi bảo tôi ráng học và chăm làm giúp đỡ mẹ. Dì còn bảo Phan:
– Học giỏi và ngoan, cháu thích gì dì sẽ tặng cháu, làm Phan phấn khích! Nhưng cuối cùng nghe bọn trẻ con trong xóm nói hoài, nói mãi về giai cấp bóc lột, dù đó là những điều nói không thật nhưng nghe nghìn lần Phan cũng phải tin, đâm ra sợ sau này không dám nhận quà của dì nữa. Chính quyền ra luật cải tạo thành phần bóc lộ̣t, không được buôn bán mà phải tham gia vào hợp tác xã, khi thì bóc lạc, làm nón, khi thì diệt chiếu, làm lò vôi…tất cả mọi việc ban đầu dì còn bỡ ngỡ nhưng dì không hề nà bất cứ việc gì đều tham gia nhiệt tình vui vẽ với lòng đầy trách nhiệm. Nhưng chính sách thì thay đổi thường xuyên mà hiệu quả lại kém, bởi những người tưởng mình có đầu óc thông minh tuyệt vời hơn người, nhưng chẳng hiểu gì về quy luật của Thiên nhiên, quy luật xã hội, đưa ra những khẩu hiệu: “Với mo cau với tấm lòng Cộng sản thay Trời đổi Đất, sắp xếp lại non sông”. Cuối cùng việc gì cũng chỉ được một thời gian ngắn sau đó đều thất bại vì duy ý chí, thiếu tính thực tế, dì chẳng có việc gì để làm, để sống.
Tôi nhớ rõ một chiều hè, gió Nam (gió Lào) chuyển sang gió Nồm (gió biển), túp lều của dì tự dưng bốc cháy, cả xóm chạy đến cứu chữa, ngọn lửa bùng lên cao hơn cả ngọn tre, người thì xúc cát, người thì múc nước sông dội vào nom như trò chơi, chẳng thấm tháp gì cả. Ngọn lửa lại bùng cao lên, có mấy người dân quân la toáng lên, đòi quẳng dì vào lửa. Bảo dì là phản động, đã cố tình làm sai luật của xóm trong mùa hè: khi có mùa gió Lào từ tám giờ sáng đến năm giờ chiều không được ai để lửa, đun nấu. Nhưng dì có đun nấu gì đâu, mà do những hòn than lúc sáng còn sót lại trong đống tro tàn.
Dì bò lăn, bò lóc van khóc thảm thiết, xin trời đất, xin bà con xóm giềng dập lửa cứu nhà và đừng giết dì. Hơn ba mươi phút sau toàn bộ túp lều chỉ còn những cục than hồng cứ rực lên theo từng cơn gió thổi, trơ lại mình dì nằm trên bãi đất và tiếng van khóc rên rỉ nhỏ dần vì đâu còn sức lực.
Bắt đầu từ ngày đó dì An chẳng còn túp lều để ở, chẳng còn tiền bạc, cũng chẳng có ai dám giúp đỡ dì. Dì đến ở dưới gốc cây bàng rất to ở cạnh lò vôi không còn hoạt động để tránh gió lạnh của mùa đông, hàng ngày đi lang thang xin ăn ở những làng xa, hoặc ra sông bắt cá, bắt cua. Mẹ Phan vẫn thỉnh thoảng lén cho dì bát gạo, củ khoai, củ sắn, những thức ăn thừa sau đám giỗ (hồi ấy ai biết tủ lạnh là cái gì?) tất cả đổ vào nồi đun lên thành món hổ lốn đưa cho dì, để ăn được nhiều ngày.
Bố Phan công tác xa, thỉnh thoảng ghé thăm nhà, đưa mẹ Phan vài ba đồng và bảo đưa cho dì An nhưng phải kín đáo, đừng để ai biết. Có nhiều lần Phan chứng kiến dì đói quá nhặt cả con chuột chết, gà toi ở bến sông đem về vặt lông và luộc lên chấm với muối ăn ngon lành. Dì ngày càng xanh xao, bủng beo, tàn tạ…chưa đến tuổi năm mươi nom dì già hơn tuổi bảy mươi. Dân  làng, xóm giềng lại xa lánh dì hơn.
Có lần bọn trẻ chăn bò nhịch ngợm thu nhặt những quả bom bi của Mỹ không nổ chất thành đống rồi dùng rơm rạ và củi khô để đốt, chúng nó lấp sau thân cây gạo to, bom nổ lúc dì đang bắt cua gần đó bị mảnh bom phạt vào đầu làm máu chảy xối xả, dì van khóc thảm thiết, còn bọn trẻ con chạy biến, chẳng có ai đến giúp dì băng bó viết thương. Dì chỉ biết dùng chiếc áo vá chằm vá đục ghì lên vết thương để cầm máu.
Năm 1966, chiến tranh ngày càng trở lên ác liệt, bến sông là nơi mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ. Cả xóm Phan phải đi sơ tán. Dì không muốn đi sơ tán, chỉ muốn sống bên bờ sông, hàng ngày còn có con cua, con cáy mà ăn, nhưng dân quân không cho dì ở lại, sợ dì làm gián điệp chỉ điểm cho máy bay Mỹ đánh phá. Dì cũng đành phải theo xóm làng. Lúc này dì sống ở bụi ngâu gần lều sơ tán của nhà Phan. Phan nhìn thấy đôi cẳng chân dì đen sì, lở loét, nước vàng rỉ ra, dì chỉ biết quấn giẻ rách hoặc lá chuối khô, đi đến đâu mùi hôi thối kinh khủng đến đó, có những khi thấy nhiều con giòi nhỏ cứ lúc nhúc ở vùng lở loét rơi xuống đất. Dưới con mắt của bọn con nít dì là con chó ghẻ hôi thối, đi đến đâu chúng ném đất, ném đá, chửi rủa, Phan thương dì lắm mà chẳng dám bênh dì, sợ bọn bạn bè bảo tôi đứng về phía giai cấp bóc lột. Có nhiều đêm Phan tỉnh gấc nghe tiếng dì than khóc:
– Ba má ơi, ba má bỏ con ra đi khi còn vài tháng tuổi, được bố mẹ đưa về nuôi yêu thương chăm sóc con, con đã làm lụng suốt đời để có nhà cửa, ruộng vườn, để người ta qui con là Địa chủ, làm đời con khốn kiếp đến cùng. Cả cuộc đời con chưa làm hạì ai bao giờ, chẳng biết lừa đảo, bóc lột… Ông Giời ơi, ông bà ơi, ba má ơi, bố mẹ ơi! Nếu thương con, cho con được chết, con khổ quá, con đau đớn quá, con nhục nhã quá!…
Sau một cơn mưa cuối Thu, vừa đói khát, vừa đau, vừa rét dì quằn quại không còn tiếng khóc than – chỉ nghe tiếng rên rỉ rất khẽ. Mẹ Phan nước mắt cứ ứa ra, cố bón cho dì được lưng bát cháo, đôi mắt dì mở ra lờ đờ, cố đưa bàn tay xương xẩu gày   gò nắm lấy tay mẹ Phan như muốn trăng trối điều gì và cảm ơn mẹ Phan dì lịm dần rồi tắt thở. Chiều hôm đó chỉ có hai thanh niên tình nguyện khiêng dì bằng một chiếc võng gai của nhà Phan buộc vào khúc tre dài ba mét. Chẳng có hòm, chỉ có manh chiếu mỏng… Đưa tiễn dì đi có mẹ Phan, mấy chị em Phan lon ton chạy theo, đứa nào cũng dùng tay bịt mũi vì mùi hôi thối từ thân thể và quần áo của dì bốc ra. Đi qua một đồi cát vẫn còn rất nóng, cỏ khô cứng, hơi nóng bốc lên những sợi ngoằng ngèo trong không khí.
Cái huyệt nhỏ được đào vội, những mảng đất nâu vàng vương vãi xung quanh. Mẹ Phan lẩm bẩm những điều gì và khóc, ném ba nắm đất xuống hình hài của dì, mấy chị em Phan cũng khóc và làm theo mẹ.
– Xin vĩnh biệt dì về nơi yên nghỉ vĩnh hằng!
Những xẻng đất được hất xuống, hình hài dì cứ vùi dần trong cát, nhưng chính nơi này sẽ là ngôi nhà vĩnh hằng thân yêu và có lẽ nơi đó là nơi sung sướng, hạnh phúc nhất của dì, chẳng còn đói khát, khổ đau, nhục nhã…
Đầu tháng 8 năm 1975, đất nước đã được thống nhất hơn hai tháng đúng lúc Phan về nghỉ hè, cả nhà Phan hân hoan, vui mừng và tự hào đón cậu Phận trở về làng với quân hàm Đại tá. Cậu về thăm nhà Phan và các nhà trong xóm và những người thân cũ. Đi với cậu còn có Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chính ủy Quân khu và nhiều người nữa với năm chiếc xe con không vào đường làng mà phải đỗ ngoài phố huyện. Thì ra cậu chính là người chỉ huy điệp báo của thành phố Sài Gòn-Gia Định cũ, từng nhiều lần quyết định sinh mệnh của hàng vạn người của phía bên kia. Vậy mà bây giờ trước mặt mẹ Phan và bà con xóm làng cậu đã òa khóc nức nở sau 31 năm trở lại thăm quê. Chiến tranh đã đi qua, hàng  triệu người ngã xuống, hàng vạn người tàn phế tâm hồn và thể xác và bao người còn sống vẫn nặng bao nỗi đau thương, vất vã, nhọc nhằn, có nhiều người ngậm ngùi tủi nhục, đau đớn suốt đời vì Tổ quốc. Những năm tháng đó cậu hiểu và biết tất cả những gì đã xẩy ra ở quê nhà, vì nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc giao cho, đã nén nỗi đau riêng của mình hơn ba mươi năm qua để làm tròn bổn phận của người lính.
Cả nhà tôi đưa cậu thăm mộ ông bà, ngôi mộ được dì An xây thành lăng-dù bao nhiêu năm rồi khu lăng vẫn khang trang và rất đẹp. Nhưng đến khi đi tìm mộ dì An, suốt cả buổi chẳng thấy đâu, mẹ Phan rất bối rối. Thời gian gặp thì ngắn, quan khách lại đông mẹ Phan làm sao kể được những  ngày cuối cùng và không thể nhớ chính xác khu mộ của gì yên nghỉ. Đã chín năm rồi chẳng có ai hương khói và chăm sóc mộ của dì. Cái nắng, gió và mưa của quê Phan, chỉ cần vài năm là ngôi mộ đã phẳng lì, chỉ biết khu dì nằm nhưng không biết mộ dì nằm ở đâu bây giờ?
Cậu bảo Phan đi mua cho cậu một trăm nhành hoa huệ trắng để viếng người chị suốt đời tần tảo nuôi cậu ăn học thành người. Nhưng đây đâu phải Sài Gòn, lấy đâu ra hoa huệ bây giờ? Cả huyện chẳng có lấy một cửa hàng hoa, đành hái hết hoa lan của cả mấy vườn trong xóm, tự tay cậu rắc hoa lan hết các mộ khu dì An nằm và rắc dọc con đường tiễn đưa dì về nơi an nghỉ cuối cùng. Cậu khóc lên nức nở:
– Em xin lỗi chị, em ngàn lần xin lỗi chị, chị hãy tha lỗi cho em! Em hiểu và biết tất cả những gì đã xảy ở quê hương. Chiến tranh mỗi người phải hy sinh theo mỗi cách khác nhau như thế đó chị à!
Sáng nay Phan ngồi mình trong tiệm caffe bên hồ Genơve. Ly caffe hơi nước cứ bốc nghi ngút, mắt Phan nhìn hồ, phố xá sao sạch và đẹp tuyệt vời, cuộc sống thật vương giã, phía bên kia hồ là dãy núi Alpơ trùng điệp, xa xa là đỉnh núi Mont Blanc đầy tuyết trắng. Cuộc đời Phan may mắn được đi nhiều nơi, nhưng làm sao quên sứ sở thân yêu của mình đã sinh ra và nuôi Phan lớn lên từ củ khoai, củ sắn ngọt bùi, từ tiếng hò ơ đêm trăng mẹ hát, từ câu Ví dặm, câu Kiều, từ cái nắng gió và mưa  khu Tư, từ cái thời thơ ấu đêm đêm thổn thức đau nhói nghe tiếng than khóc thảm thiết của dì An… Cho Phan biết yêu thương, biết căm giận, biết lẽ phải trái giữa dòng đời! Phan ngồi thẩn người, buồn nhớ thương nhớ bố mẹ, dì An, cậu Phận và bao người thân yêu đã đi xa rồi chẳng bao giờ gặp lại, nhưng trong lòng Phan bố mẹ, dì An, cậu Phận và bao người thân thương chẳng bao giờ mất, mà vẫn đi theo Phan đến cùng trời cuối đất, suốt cả cuộc đời. 44 năm chiến tranh đã đi qua, với ngần ấy thời gian không thể làm phai mờ đi những dấu vết của chiến tranh. Những ai đã sống qua những năm tháng ấy vẫn còn mang y nguyên nhiều nhức nhối, đau thương, mất mát… trong lòng!
Budapest năm 2000.
Gơnevơ, một sáng cuối Thu 2019
Ngày cuối cùng ở Budapest
Ra viện, bạn chở Long về nhà. Nhẹ nhàng đặt túi lên chiếc giường thân yêu sau hai tháng vắng Long. Long lặng người thắp nén nhang lên chiếc bàn nhỏ có ảnh Bố. Những nén nhang vẫn cháy chưa tàn, nước mắt Long lại tuôn trào. Bạn Long thấy vậy đành rủ Long đi thăm Budapest lần cuối cùng.
Qua quảng trường Những người Anh hùng, Nhà Quốc hội, Thành Những người đánh cá, đảo Margit, núi Gellért… nơi nào cũng sạch đẹp, tráng lệ, đủ các màu hoa rực rỡ. Khách du lịch nườm nượp đi lại.
Có lẽ Budapest là thành phố đẹp nhất của xứ Đông Âu. Người ta vẫn ví nó là Paris thứ hai. Giữa lòng thành phố có sông Đanuyt trong xanh chảy từ Bắc xuống Nam chia thành phố làm hai phần. Bên tả ngạn là thành phố Pest bằng phẳng với bao nhiêu nhà kiểu cổ, đa dạng về hình thức và kiến trúc. Bên hữu ngạn là thành phố Buda, núi đồi nối tiếp nhau, thấp thoáng bao nhiêu biệt thự sang trọng đầy tiện nghi.
Nhà thờ Matyás cao vút nằm cạnh khách sạn Hilton cùng với Thành Những người đánh cá sừng sững in bóng xuống dòng sông Đanuyt chứng kiến bao nhiêu thăng trầm của lịch sử Hung. Buda và Pest được nối liền bởi 9 chiếc cầu, cầu nào cũng đẹp và có kiến trúc độc đáo riêng biệt. Dưới lòng sông không biết bao nhiêu tàu du lịch, nhiều tàu dài cả trăm mét đầy đủ tiện nghi cho du khách đi hàng tháng dọc con sông mấy ngàn cây số…
Đã 7 năm sang Hung, lần đầu tiên Long mới cảm nhận cái đẹp tuyệt vời của Budapest, nhưng anh sắp phải xa rồi và mãi mãi không bao giờ trở lại.
Sau cùng, Long nhờ bạn đưa đến bờ sông Đanuyt phía dưới hạ nguồn ở Budapest. Năm nay mùa thu đến sớm, chưa đến độ giữa thu mà hai bên bờ sông cây cối đã chuyển sang màu vàng, thỉnh thoảng có những cây táo dại cho một màu đỏ rực. Chỉ những hàng bạch dương cao vút vẫn một màu xanh thẳm xào xạc với gió chiều hắt bóng xuống dòng sông lấp lánh dưới ánh nắng chiều thu rực rỡ. Thỉnh thoảng, những chiếc lá vàng rơi theo sông trôi về với biển Đen. Dòng sông lúc nào cũng lặng lẽ, êm đềm, nước trong xanh, những đàn hải âu cứ bay lên lượn xuống, đàn vịt trời chằm bẫm tìm thức ăn, trên trời cao những đàn quạ đen nháo nhác từ phương bắc đi tránh rét. Những chiếc xà lan chở đầy quặng mang cờ Đức hay Thụy Sĩ chậm chạp ngược dòng lên phía Bắc.
Long nhớ đến tuổi thơ, những chiều chăn trâu, thả diều trên bãi bồi sông Hồng, những nương dâu mượt mà xanh ngát, bãi ngô xanh, trổ cờ, phấn hoa cứ bay nhè nhẹ. Nước sông Hồng cuộn đỏ phù sa… Nhìn dòng sông  nước mắt Long lại tuôn trào, những tiếng nấc nghẹn trào qua cổ họng. Cái chết đang chờ Long từng ngày! Cái triết lý sống chết là một chuỗi liên hoàn theo một vòng khép kín, giống như mùa thu lá phải rơi để mùa xuân nẩy lộc đâm chồi. Ai cũng sinh ra từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi. Vẫn biết thế, nhưng cõi lòng Long tan nát khi nghĩ và nhớ thương mẹ.
Lớn lên Long không biết mặt bố. Hàng xóm vẫn bảo Long giống bố. Long cứ mường tượng bố theo bức ảnh mặc quân ngũ đặt trên bàn thờ. Khi chưa tròn một tuổi mẹ ẵm Long tiễn bố ở chân đê đầu làng. Chưa hết chiến tranh biên giới Tây Nam lại chiến tranh biên giới phía Bắc, bố mãi mãi ra đi chẳng bao giờ trở lại!
Mẹ Long cả một đời khốn khó, vất vả gian nan. Ông bà ngoại mất sớm, mấy chị em côi cút nuôi nhau.Đến tuổi đi lấy chồng, chồng cứ biền biệt đi xa và mất khi Long chưa đầy 3 tuổi. Mẹ vẫn còn trẻ nhưng ở vậy, chẳng đi bước nữa để nuôi Long khôn lớn. Năm nào cũng vậy, trước ngày giỗ bố, mẹ hái những nhàng hoa huệ trắng và cam quýt trong vườn, hai mẹ con đi tàu đêm lên Lào Cai, tiếng xình xịch, tiếng còi tàu xé tai cứ vang mãi trong đầu. Đến nghĩa trang còn sớm lắm, sương chưa tan, mẹ lặng lẽ chia những nhàng huệ trắng, trái cây cho chồng và đồng đội của chồng, khấn vái xin các anh phù hộ cho hai mẹ con mạnh khỏe, an lành, học giỏi!
Long học khá, nhưng nhà nghèo quá, cái xe đạp mẹ cũng không mua nổi, trường cấp III ở phố huyện xa lắm. Long thương mẹ, ráng học mỗi ngày đi bộ hàng chục cây số. Những ngày giáp tết Long nghỉ học, thức dậy 1 giờ sáng cùng mẹ và bà con xóm giềng lội bì bõm nước sông Hồng lạnh giá dưới mưa phùn gió bấc đưa gạo, từng củ su hào… lên thuyền ngược sông lên Hà Nội, bán ở gầm cầu Long Biên, công an thuế vụ lại đuổi bắt… Bán được hàng mẹ mua cho Long quần áo mới, sách vở… mừng lắm!
Tốt nghiệp cấp III không thi đại học, Long thương mẹ chăm chỉ làm ruộng vườn, đóng gạch sửa lại căn nhà rách nát. Có đợt xuất khẩu lao động đi Iraq, mẹ chạy chọt vay mượn 50 triệu đồng, qua bao nhiêu cửa xin cho Long đi được, mừng vô cùng. Sang đến nơi chưa đầy một tháng, đang bập bẹ học tiếng thì Mỹ đánh Iraq, lật đổ chế độ Saddam Hussein. Cả đội đi bộ hàng tuần trên sa mạc cát, ban ngày nóng 40-50 độ, ban đêm lại xuống âm độ, vừa đói vừa khát đến Kuwait chờ Liên Hiệp Quốc mua cho vé về nước.
Vê đến nhà, Long lại buồn chán lang thang không có tiền, không có công ăn việc làm mà nợ thì vẫn còn nguyên. Như cái trò đánh bạc, càng thua, càng cú.Nghe có dịch vụ đi Hung, Long lại nhờ mẹ vay tiền. Một lần nữa mẹ lại cố chạy vạy, vay 100 triệu đồng lãi suất 3% tháng. May mà chuyến đi trót lọt. Sang Budapest một tháng là hết hạn visa vì tiền ít Long không xin được visa lao động, nên không xin được giấy cư trú, Long đi bán hàng hiệu giả như Adidas, Nike… ở chợ trời Bốn Con Hổ, Budapest. Cứ mỗi lần thuế vụ, hải quan, công an đến là hồn lên tận trời xanh, vì chẳng có giấy cư trú và giấy phép bán hàng.
Có lần họ “đi càn”, không kịp chạy đành chui vào tủ bán hàng, nhờ bạn khóa tủ lại. Ngồi trong tủ như ngồi trên chảo lửa, người run bần bật, mồ hôi ướt đầm đìa, hồi hộp nghe tiếng chân bước thình thịch, rồi đến tiếng máy cưa điện réo lên như xé tai. Khóa tủ bị cưa, toàn bộ hàng hóa hải quan tịch thu còn Long bị bắt, lại phải ngồi cả tuần trong nhà giam công an quận. Long thấy cuộc đời quá vô lý.Người dân nghèo không đủ tiền mua hàng hiệu thật, họ chấp nhận mua hàng nhái mác, họ hoàn toàn biết, họ đâu bị lừa. Thế mà nhà chức trách lại cấm! Trong khi đó bọn chủ Adidas, Nike… là những nhà tư bản kếch xù lại được pháp luật bảo vệ, người đi kiếm từng bữa ăn thì lại bị bắt. Toàn cầu hóa đúng là một chính sách thực dân không cần đội quân xâm lược! Dòng chảy lợi nhuận cứ tuôn về những siêu cường, những nước nghèo lại càng thêm bần cùng.
Cũng có lần tan chợ đi về nhà, đang đứng ở bến xe buýt, bất ngờ nghe tiếng phanh ken két, hai công an nhảy ra khỏi xe tiến thẳng đến phía Long. Chưa kịp phản ứng, mà chạy thì cũng chẳng kịp. Họ hỏi giấy tờ cư trú, không có… đang ấp úng trả lời thì bị lôi lên xe công an luôn. Tưởng họ đưa Long về đồn, ít nhất 1 tuần bị giam ở đó! Không ngờ họ chở Long đến đoạn đường vắng, đuổi ra khỏi xe, cả hai người công an thi nhau khám từ đầu đến chân, bắt phải cởi cả giày. Có bao nhiêu tiền trong túi và một số giấu ở bít tất cũng bị lột sạch! Không hề có biên bản, không một lời giải thích. Họ thả Long ở đó, đúng vào lúc cơn mưa chiều ập đến, ướt sũng cả người. Sao mà đời đắng cay thế! Uất ức, căm giận nhưng biết kêu ai. Trên đời này ở đâu cũng có những kẻ đốn mạt, khốn nạn hơn nữa là người lẽ ra phải giữ gìn kỷ cương pháp luật lại đi trấn lột những kẻ cùng đinh! Đông Âu đã 20 năm thay đổi thế chế chính trị nhưng người dân vẫn ngỡ ngàng, bâng khuâng và tiếc nối.
Đã bảy năm sang Hung, nhưng Long chẳng biết nơi nào. Sáng sớm ra chợ, tối về nhà. Làm sao biết về văn hóa Hung, bởi tiếng chẳng sành. Bán hàng chỉ cần cầm máy tính tiền và chỉ trỏ là đủ, quan trọng là biết cách đếm tiền. Long quên sao được những mùa đông gian nan, vất vả, cực khổ… có những ngày giá rét âm 25ºC tuyết ngập đến đầu gối, mặc 4 quần, đi 5 đôi tất lại còn phải quấn 1 lớp nylon mỏng để chống nước thấm vào, đi giày lớn hơn 2 số mới xỏ chân vào được. Phải uống rượu vodka nhảy lò cò suốt ngày để chống lạnh.Mặt Long nhiều lần bỏng lạnh ứa máu, thâm sì. Nhưng mỗi lần khách đến là quên tất cả, lao đi như con thiêu thân tìm hàng cho khách. Cả mùa đông như thế từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều làm việc quên cả mệt nhọc, ngay cả người Hung ngàn đời quen chịu lạnh, họ cũng không làm thế được!
Cách đây 7 tháng Long cảm thấy phần bụng bên phải cạnh mạn sườn cứ nằng nặng, không đau, sờ gan không to, ăn uống vẫn tốt, da không vàng, mọi sinh hoạt bình thường. Nhưng linh cảm thấy có điều gì xấu đang đến với Long, thấy lo lo. Nhưng đi khám bệnh không có giấy tờ cư trú, không có bảo hiểm sức khỏe. Nếu đi khám mất cả trăm đô là chuyện bình thường, còn nằm viện mỗi ngày mất cả mấy trăm đô Long đâu có tiền, xoay mãi bạn thương tình cho mượn giấy cư trú và bảo hiểm. Đi thử máu mới biết Long bị viêm gan siêu vi B, nhưng chức năng gan vẫn bình thường, bác sĩ bảo với Long phải đi siêu âm. Kết quả gan hơi to, lá gan bên trái có khối u 3 cm. Bác sĩ quyết định cho Long chụp MR (chụp cắt lớp cộng hưởng từ) và sinh thiết tế bào gan – kết quả Long bị ung thư tế bào gan nguyên phát trên bệnh nhân viêm gan siêu vi B.
Khi biết vậy, Long đã gào khóc thảm thiết, thương mình thì ít, thương mẹ thì nhiều.Hai khoản nợ mẹ vay cho Long đi Iraq và Hung chưa trả hết.Bảy năm chưa về được thăm mẹ, 34 tuổi đầu chưa được một lần yêu, mà năm nào mẹ cũng giục về quê lấy vợ để giúp mẹ tuổi già. Để mẹ vui, Long cứ hứa hoài. Trong cơn đau tuyệt vọng những kỷ niệm vui, buồn, hạnh phúc, đau thương, vất vả, đắng cay… lại hiện về, nhưng bây giờ đối với Long tất cả đều đẹp, bởi đấy là cuộc sống! Cuộc sống thật đáng quí vô cùng! Long cầu khấn ông trời cho Long được sống, được tồn tại trên thế gian này, được về với mẹ. Không lẽ nào ông trời lại tàn nhẫn, phũ phàng với mẹ con Long đến thế!
Cái đêm chờ mổ dài như mấy chục năm, Long trằn trọc không hề chợp mắt, nhìn chai dịch truyền treo lơ lửng cứ chảy đều đều… Long thầm gọi mẹ nhiều lần. Mẹ ơi, lại một lần nữa mẹ lại phải vay tiền để tiễn con về nơi vĩnh hằng. Con sẽ không xa mẹ, nằm lại bên chân đê sau lũy tre làng…
Chín giờ sáng Long được đưa lên bàn mổ, thuốc mê truyền vào Long lịm đi trong giấc ngủ. Mãi 8 giờ tối Long mơ mơ màng màng thấy mình đang nằm trong phòng hồi sức cấp cứu. Cái bụng đau như dao đâm, chân tay đều bị trói vào giường, Long không còn sức để rên nữa, răng cắn lấy môi cố chịu đau, không cựa mình, Long nhớ lời bác sĩ dặn trước ca mổ qua chị phiên dịch:
– Sau khi mổ 3 ngày không cử động mạnh, cố đừng ho, đừng nấc… chỉ cần một cái nấc mạnh chỗ gan mới khâu có thể bục ra và chết ngay trong giây lát.
Bác sĩ, y tá thường xuyên ở bên cạnh Long. Máy đo nhiệt độ, điện tim, huyết áp, nhịp thở… cứ chạy đều hiện lên trên màn hình. Máu và dịch truyền cứ chảy liên tục.Thỉnh thoảng y tá, bác sĩ bơm thuốc giảm đau, chống nôn, chống nấc và kháng sinh vào chai dịch. Cái ống xông luồn vào trong ổ bụng cứ rỉ từng giọt máu tươi, nó đâm vào ruột gan hơn cả dao đâm…
Mổ được 2 tuần Long ra viện. Một tháng sau lại vào viện điều trị hóa chất.Mỗi lần truyền hóa chất, cả ngày lẫn đêm cứ nôn thốc, nôn tháo, đau cả ruột gan, váng đầu, trời đất cứ chao đảo xung quanh. Suốt cả đêm phải ngồi bệt gục đầu xuống toilet, có lúc lịm đi. Cũng sau mỗi lần truyền hóa chất được mấy ngày người lại sốt li bì, rũ rượi toàn thân, bạch cầu tụt xuống dưới 1.000. Bác sĩ lại tiêm cho Long những ống thuốc nhỏ 1 ml mà đắt gần 1.500 đôla để nâng bạch cầu. Qua 6 tuần điều trị hóa chất, Long trông như một cái xác không hồn, đầu trọc lốc không còn một sợi tóc, mắt thâm quầng sâu hoắm, đờ đẫn, da tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy.
Sau mổ gần 6 tháng, bác sĩ cho Long chụp Pet-CT (chụp cắt lớp có đánh dấu đồng vị phóng xạ) họ tìm ra những khối di căn nhỏ ở phổi và não. Những bác sĩ, y tá điều trị thương Long lắm. Bác sĩ trưởng khoa gọi Long vào phòng, ân cần nói:
– Bệnh của Long không thể chữa khỏi, Long nên về Việt Nam sống thêm một thời gian nữa. Nếu ở lại đây thêm một thời gian nữa, lúc đó Long không còn sức để về được nữa. Vả lại giấy tờ cư trú và thẻ bảo hiểm sức khỏe không phải của Long. Lúc Long làm sao, người bạn cho Long mượn giấy tờ sẽ rất phiền toái, mà chẳng những phiền toái mà còn rất phức tạp trước pháp luật.
Long cảm động òa khóc. Không ngờ tất cả khoa đều biết chuyện Long mượn giấy tờ để vào điều trị, nhưng họ đã không ngần ngại, đã dùng tất cả phương pháp và thuốc men đắt tiền nhất để cứu chữa cho Long. Chỉ tiếc họ bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo của Long.
Long gọi điện nhờ bạn xin giấy thông hành của Đại sứ quán để đi qua cửa khẩu Hung và mua vé về cho Long. Mấy ngày cuối cùng ở bệnh viện, bác sĩ, y tá đã tận tâm săn sóc Long, truyền dịch, máu, thuốc bổ… để Long đủ sức bay chặng đường mười ngàn cây số.
Trước mắt Long dòng sông cứ chảy, nó lặng lẽ hững hờ như dòng sông Hồng quê Long vào độ tháng ba. Còn một đêm nữa thôi, đường về sao mà thăm thẳm thế, hun hút gió heo may, tiếng sào sạc của bờ tre, có bóng mẹ gầy đang đứng ngóng trông…Ôi cái làng nhỏ êm đềm ven sông ấy sao mà duyên nợ, nghĩa tình với Long đến thế, nơi sinh ra và nuôi Long lớn lên nay lại chờ Long, để mãi mãi ru Long giấc ngủ ngàn đời.
15/7/2021
Nguyễn Lam Thủy
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tâm bão giữa trần gian hay một cách luận giải lịch sử dân tộc Việc tái hiện những nhân vật lịch sử thành hình tượng văn chương- nghệ thu...