Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi dân tộc thiểu số đương đại

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong văn xuôi dân tộc thiểu số đương đại

Bước sang thế kỷ XXI, đất nước, dân tộc Việt Nam đứng trước những cơ hội cùng những thách thức lớn, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá. Văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới. Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam ngày nay cần thể hiện được những giá trị văn hóa chung, phổ quát của nhân loại nhưng cũng cần khẳng định được sự sáng tạo riêng của dân tộc mình góp phần làm phong phú, sâu sắc những giá trị đó. Vừa bảo vệ, kế thừa, làm giàu có truyền thống, nhưng đồng thời cũng phải chủ động hội nhập, chủ động lựa chọn, để tiếp thu được tinh hoa của văn hoá thế giới vốn đa dạng, nhiều giá trị tiên tiến.
Bản lĩnh bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế là một giá trị quan trọng của văn học nghệ thuật nói chung, văn xuôi dân tộc và miền núi nói riêng trong hệ giá trị văn học nghệ thuật hiện thời. Văn học bằng cách riêng, góp phần xây dựng con người mới và tạo nên tâm thức cộng đồng và duy trì sức mạnh của nền văn hóa dân tộc. Văn học trở thành tài liệu lưu giữ kho tàng văn hoá dân tộc. Việc giúp bảo tồn, phát huy, lưu truyền, giới thiệu, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc chính là một trong các giá trị quan trọng của văn học dân tộc thiểu số đương đại, góp phần tạo nên hệ giá trị văn học – nghệ thuật dân tộc và hiện đại.
Nói về tầm quan trọng của bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số, nhà nghiên cứu Phong Lê nhấn mạnh: “Thiếu cái đó – bản sắc dân tộc – tức là chưa có gì đáng nói cả, tức là chưa có cái để phân biệt họ với các nhà văn thuộc các dân tộc khác” [12; 220]. Có thể thấy, trong hai thập kỷ qua, số lượng tác giả văn xuôi ngày càng đông đảo, khiến cho bức tranh văn hóa các dân tộc thiểu số trong văn xuôi hiện lên trong các tác phẩm ngày càng đa dạng, phong phú. Trong tác phẩm văn học, bản sắc dân tộc không chỉ nằm ở đề tài, chủ đề mà nằm ở hầu hết mọi yếu tố cấu thành tác phẩm như: cảm hứng nghệ thuật, ngôn ngữ, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu…Tuy nhiên, bản sắc dân tộc trong văn học chỉ có giá trị thực sự khi nó được viết ra bởi những tình yêu mãnh liệt của nhà văn với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện sinh động qua việc phản ánh các phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hoá, tinh thần của đồng bào các dân tộc.
Có thể nói, qua sáng tác của nhiều nhà văn về dân tộc và miền núi đương đại, bức tranh về văn hoá các dân tộc thiểu số được mở ra sinh động và chân thực. Trong bức tranh ấy, các lễ hội, phong tục, nghi lễ vòng đời: từ chào đón một em bé ra đời, đầy tháng, cấp sắc – trưởng thành, lấy vợ đến việc đưa tiễn một người về với tổ tiên được thể hiện rõ nét.
Người ta thường nói, nhìn vào một cái chợ là biết cuộc sống sinh hoạt của vùng đất ấy. Ở đây, chợ phiên không chỉ cho biết đời sống vật chất mà còn thể hiện giá trị văn hoá, tinh thần đậm nét của người dân miền núi. Những phiên chợ tình – đặc trưng văn hoá của miền cao được miêu tả thú vị trong nhiều tác phẩm. Chợ tình Âu Lâm một năm chỉ họp một lần vào duy nhất một ngày: “Một năm một phiên chợ tình tìm đến nhau để ngồi thầm thì bao chuyện xưa và cả chuyện nay”;“Chợ ở đây không tranh mua tranh bán, không đuổi đánh nhau vì ghen hay thù oán. Đến đây mọi bực dọc đều đã khoả dưới song, mọi toan tính đều đã được cởi bỏ trên đường, chỉ đem đến đây con tim bồi hồi và những lời thầm thì ái ân tìm vào tai người xưa.” (Chợ tình – Cao Duy Sơn). Chợ hai bảy trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá – Đỗ Bích Thúy “Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau. Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được… Ở chợ, mọi người ta hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười”. Chợ tình – nơi những người yêu cũ không lấy được nhau gặp lại nhau, nơi những đôi trai gái trẻ mặc áo váy sặc sỡ đến để tìm đôi.
Nghi lễ hôn nhân là văn hoá quan trọng trong cố kết cộng đồng, duy trì nòi giống. Qua các tác phẩm văn học, có những phong tục về cưới hỏi đa dạng của các dân tộc thiểu số. Dân tộc Mông có cổ tục bắt vợ, người Thái đi ở rể: “Đúng mùa cây ban rụng hạt, Sừa giục bố mẹ nhờ ông mối đem một đôi rượu, một đôi gà đến xin phép bố mẹ Tươn làm lễ “Pay Khươi” để Sừa đến nằm ở Quản” (Hồn Piêu – Kiều Duy Khánh); người Tày để lấy được một cô dâu về cần sính lễ cho nhà gái “bao nhiêu gia sản dồn hết cho đám cưới ” (Đường quê – Nông Quang Khiêm); những cô gái gán nợ cưới trong Bao nhiêu một đứa đàn bà – Chu Thị Minh Huệ. Những cổ tục này là nguyên cớ của những hôn nhân không tự nguyện, không tình yêu, đẩy con người (cả phụ nữ, cả đàn ông) vào cuộc sống trớ trêu, bế tắc, phiền muộn: “Vợ nhìn hắn như nhìn bắp ngô treo trên gác bếp. Trong mắt nó có hờn giận, có thờ ơ, trống trải và bao điều khó hiểu tích nén suốt nhiều năm nhưng lại không có thứ mà hắn trông đợi” (Hồn xưa lưu lạc – Tống Ngọc Hân)…
Người phụ nữ lấy chồng phải trọn vẹn bổn phận làm vợ, làm dâu. Người miền núi vẫn còn nặng nề trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ lấy chồng, nhất định phải sinh con, mà là con trai. Người phụ nữ nào khi làm dâu cũng áp lực: “Làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột thôi…”. (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá – Đỗ Bích Thuý); “Mình tìm thêm cho bố nó một người vợ nữa. Phải đẻ một đứa con trai bố nó à, mình đã hứa với tổ tiên rồi, bằng mọi giá phải có một đứa con trai để sau này còn có người thờ cúng, có người giữ đất” (Gió không ngừng thổi – Đỗ Bích Thuý); “Mỗi lần mẹ đẻ một chị gái là bố lại chém vào cột nhà một nhát, đến khi có Phù cây cột không bị chém nữa” (Bóng của cây sồi – Đỗ Bích Thuý).
Những tín ngưỡng trong thờ cúng cũng được thể hiện sinh động trong nhiều tác phẩm: “Lễ cúng báo ma nhà về việc đi bắt vợ: “ma ông bà ăn con gà chưa biết đi trống, ma bố mẹ uống bát rượu ngô lấy lần đầu để nhận mặt đứa dâu mới… cho dâu mới nó bước vào cửa gỗ chính, sẽ sinh cho nhà họ Bàng đứa trai khỏe như cây gỗ Cò Chìa trên núi đá…”  (Hoa Sàng Jàng – Kiều Duy Khánh). Các nghi thức ma chay cũng được phản ánh trong nhiều tác phẩm… Tất cả những câu chuyện về nghi lễ, tập tục đó, đều có tác động mạnh mẽ tới số phận, cuộc đời, tâm trạng của nhân vật. Tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết… vẫn diễn ra, gây ra bao số phận khổ đau cho người phụ nữ: “Cứ một mùa xuân, Sài Cang lại có đến năm, sáu đám tảo hôn”. Ở đây “Chồng chồng vợ vợ, thông gia chồng chéo, quẩn quanh có trăm nóc nhà, rối tinh rối mù” (Dải vải chàm bịt mắt – Tống Ngọc Hân)… Những lễ nghi tốn kém khiến con người đã khốn khó càng rơi vào bi kịch: “cái nợ hai con bò từ đám ma bố Vừ để lại nặng quá, trả mãi không hết” (Lặng yên dưới vực sâu – Đỗ Bích Thuý); “Tôi chỉ nghe được tiếng thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai đám ma, trong nhà tôi hầu như không còn gì. Bò, dê, gà, lợn mổ để thầy mo cúng lễ hết, ngô lúa cũng hết” (Sau những mùa trăng – Đỗ Bích Thúy). Những hủ tục ấy ảnh hưởng đến cả tình duyên của chàng trai trẻ, dù “Súa thương Vừ, đồng ý để Vừ bắt về. Đỡ cho Vừ một ít bạc trắng” vậy mà cũng không thành đôi; cô gái Dao xinh đẹp “Dưới chân núi Sủng Nhỉ” vì bị ép lấy chồng trẻ con, để có những đồng bạc trắng trả món nợ cưới xin, tang ma của gia đình mà hoá điên (Nguyễn  Trần Bé); “Nợ cưới vợ chồng chất thêm nợ đám ma ông nội, bà nội, nợ cưới hai anh trai rồi nợ ngân hàng mua nương thảo quả mất mùa” (Hồn xưa lưu lạc – Tống Ngọc Hân) khiến người đàn ông Mông đành cắn răng bán hết những vật dụng gia đình, cùng với đó là những kỉ vật, những giá trị tinh thần từ đời cha ông để lại. Hắn bán cây khèn đại – thứ quý nhất trong các nhạc cụ người Mông, cây khèn mà hồn hắn, hồn vợ con hắn, hồn ba đời nhà hắn đều trú ngụ êm ái, thân thiết trong ấy.
Nhiều nhà văn bằng ngòi bút, đã lên án gay gắt những hủ tục, mê tín dị đoan. Vì “chẳng biết từ bao giờ, người Mông vùng này lại sinh ra cái thói kiêng kị là không cưới con dâu tuổi hổ cho con trai tuổi lợn, tuổi khỉ” (Con đường chưa đi –  Tống Ngọc Hân) cho nên đêm Dín lấy vợ là đêm Dín vĩnh viễn mất một con mắt. Do dân trí chưa cao, những người dân vùng sâu vùng xa, coi thầy cúng là có thể giải quyết mọi khó khăn của đời sống mà họ gặp phải. Nhưng nhà văn cũng lật tẩy ra rằng: “Thầy cúng về cúng đất mới. Cúng một trâu, nước vẫn chưa về khe. Cúng hai trâu, trẻ con vẫn ốm, khóc ngằn ngặt. Cúng mãi đất mới vẫn chưa thành đất quen. Cúng mãi chưa hết mộng mị. Cúng mãi người vẫn chưa về. Cúng hết lợn, hết gạo, hết rượu rồi. Điện vẫn chưa thấy”. (Núi vỡ – Tống Ngọc Hân)…
Tóm lại, những hủ tục lạc hậu vẫn đang tồn tại và đè nén lên thân phận con người, nhất là đối với người phụ nữ dân tộc. Ngày nay, xã hội đã hiện đại, tân tiến, nhưng người phụ nữ dân tộc luôn rất thiệt thòi, họ không được học hành, ít hiểu biết, ít cơ hội thể hiện năng lực, giải phóng bản thân… Có những lời oán than như tiếng thở dài tràn qua nhiều tác phẩm: “Đàn bà như cái cây nơi cổng trời. Bao nhiêu gió đi qua, đi lại, muốn táp, muốn dội vào hay quật ngã cũng được. Cây chẳng thể nào chống đỡ” (Bao nhiêu một đứa đàn bà – Chu Thị Minh Huệ); “Chị căm thù cái nhà này, nhưng đi đâu cũng không được… làm ma nhà họ Tráng rồi… thành ra cứ làm hòn đá kê chân cột thôi, làm con trâu, con ngựa, không được nói, chỉ phải làm” (Cuộc đời ngang qua cuộc đời – Chu Thị Minh Huệ); số phận của người phụ nữ Mông như “thìa gỗ nhà đám” “ai thích cầm thì cầm, thích đút đâu thì đút, thích ném đâu thì ném”. Đã lấy chồng, họ sống làm dâu nhà chồng, chết làm ma nhà chồng, chồng có chết cũng không được đi lấy người khác phải nén lòng trước tiếng khèn lá hàng đêm của người trai khác” (Sau những mùa trăng – Đỗ Bích Thuý)…  Nói chung, cuộc chiến giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ là một hành trình khó khăn, không thể ngày một ngày hai. Văn học thêm một tiếng nói bên cạnh những chế tài văn hóa: “Cuộc chiến đấu giữa con người với tập tục mà thần linh và tổ tiên quy ước, thật không dễ dàng” (Tống Ngọc Hân).
Tuy nhiên, dù có viết những những nghèo khó quẩn quanh, về những hủ tục lạc hậu nhưng những trang viết vẫn lấp lánh niềm hi vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn, về cái tình giữa con người với nhau.
Lễ hội là nơi thể hiện đặc sắc văn hoá dân tộc.
Các lễ hội như Gầu Tào chơi núi đầu xuân, hội Lồng tồng, hội Tung còn, hội giã cốm, đêm Hạn Khuống, những điệu múa, bài hát then, hát sli, hát lượn, những trò chơi dân gian, ném còn, ném pao… xuất hiện trong nhiều tác phẩm, là cái nền cho sự kiện cốt truyện, là không gian nghệ thuật để nhân vật xuất hiện. Có thể nói, tất cả những nét riêng trong bản sắc văn hóa dân tộc đều được đề cập đến trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số ở những mức độ khác nhau. Các lễ hội này là những sinh hoạt văn hoá, tinh thần của đồng bào, thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều tác phẩm qua việc làm dậy lên âm thanh, sắc màu, không khí cuộc sống sinh hoạt, lao động, văn hoá, con người của núi rừng dường như là tấm thổ cẩm hứng dệt được căn cước văn hóa, cá tính, vô thức tập thể đặc trưng của tộc người.
Đối với những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, bằng tình yêu tha thiết, các nhà văn dân tộc thiểu số luôn thể hiện niềm tự hào, trân trọng, ngợi ca các phong tục tập quán đẹp, bên cạnh sự lên tiếng về việc thay đổi, xoá bỏ những hủ tục không còn phù hợp, tác động tiêu cực đến thân phận, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vì suy cho cùng, văn học hướng đến xây dựng cuộc sống, con người tốt đẹp hơn. Cùng với đó, nhiều tác phẩm còn là tiếng nói đau đớn, xót xa và suy tư trăn trở trước dự cảm âu lo về sự suy tàn, mai một, mong manh của các giá trị văn hóa truyền thống trước sức tấn công của đời sống hiện đại.
Có một thực tế, khi bị tác động của nền kinh tế thị trường, giao lưu, tiếp biến văn hoá, mai một văn hoá truyền thống thì văn học cũng thể hiện những biểu hiện đó: từ hình thức như giới trẻ không còn thích mặc trang phục dân tộc, thay vào đó là quần bò áo phông (Núi vỡ – Tống Ngọc Hân), không còn thích nghề truyền thống (Rọ Tôm – Nông Quang Khiêm)… đến những biến đổi về “chất” người như: không hiếu kính với người lớn tuổi trong gia đình (Lửa khóc lửa cười – Tống Ngọc Hân), những cô gái dân tộc xinh đẹp như hoa của núi rừng mà thành cô gái hành nghề mát – xa, bán hoa (Ra phố – Du An, Ngõ trăng – Tống Ngọc Hân…); tình thầy – trò bị giải thiêng khi những cô học trò dân tộc xinh đẹp mỗi tối bị gọi lên phòng riêng của thầy giáo (Lứa không về – Du An)… Có những người đàn ông đáng tuổi ông như ông Tham hiếp dâm rồi giết chết một đứa cháu gái nhỏ trong xóm nghèo (Đá đắng – Phạm Thị Thuý Quỳnh); những người phụ nữ dân tộc có thể trở thành nạn nhân của buôn bán người (Dẻ trong Bông dẻ đẫm sương – Chu Thị Minh Huệ, Sênh trong Núi vỡ – Tống Ngọc Hân, Hoa trong Hoa bay – Chu Thanh Hương, Pà trong Đường về Sai Chản – Phan Đức Lộc)… Quả thực, nền kinh tế thị trường, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có tác động rất lớn đến đời sống : “Cái thuỷ điện vẫn chưa cho điện mà đã lấy đi của San Hồ quá nhiều thứ. Lấy đi cái nết na chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con gái San Hồ. Lấy đi cái ấm áp trong tình chồng nghĩa vợ. Những thứ ấy, không ai nhìn thấy” (Núi vỡ – Tống Ngọc Hân).
Trước sự tác động của cuộc sống hiện đại, các nhà văn có ý niệm về sự bảo toàn văn hoá truyền thống dân tộc. Chẳng hạn, Tống Ngọc Hân qua Hồn xưa lưu lạc thể hiện một nỗi niềm xót xa khi văn hoá truyền thống bị mất đi, bị cưỡng bức của văn hóa bên ngoài. Do đói nghèo, người đàn ông Mông phải bán tất cả những thứ đồ dùng cũ kĩ, cả những kỉ vật tình yêu, những báu vật, linh vật có từ thời cụ kị (như chiếc khèn), những “hồn xưa” sắc tộc cho những “bảo tàng” nơi miền xuôi, đến tận America, tận đẩu đâu nữa. Mất đi không gian sinh tồn, người dân “như con bù nhìn sau vụ gặt, chơ vơ trên thang ruộng”. Những nhân vật như ông Dừn, Lang bà trong Sình ca (Tống Ngọc Hân), ông già Sẩm Ky trong Đàn trời (Cao Duy Sơn)… là những đại diện cho con người luôn truyền giữ văn hóa đặc sắc của vùng miền. Sình ca chính là văn hoá phi vật thể, là “những câu hát đối đáp giao duyên, như kiểu ông bà cụ kỵ nhà ta ngày xưa hát Xoan, hát Ghẹo”. Ông Dừn và Lang bà đã sẵn sàng vượt qua khó khăn, định kiến, sự nghiệt ngã của tật bệnh để bảo vệ, gìn giữ, chứng minh giá trị và sức ảnh hưởng của sình ca. Lão mù Sẩm Ky thổi sáo lưu giữ ký ức cũ kỹ và xa xưa, mang trong mình mạch nguồn văn hóa vùng miền, như lớp trầm tích vọng về từ quá khứ đang được nối dài ở hiện tại, vang vọng tới tương lai. Trân trọng, giữ gìn văn hoá ấy cũng chính là cuộc trở về cội nguồn.
Nói chung, các tác phẩm ở mức độ khác nhau đã giúp lưu giữ, bảo tồn, ngợi ca văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng lên tiếng về việc đẩy lùi, xóa bỏ những hủ tục. Văn học còn giúp truyền thông văn hóa đến với cộng đồng độc giả ở vùng miền khác, quốc gia khác; khơi gợi sự hấp dẫn bản sắc văn hóa, kích thích trí tò mò, khám phá du lịch của cộng đồng.
Bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số còn thể hiện ở không gian sinh tồn của các tộc người.
Các tác phẩm văn xuôi dân tộc miền núi đương đại đã khắc hoạ khá rõ nét bức tranh thiên nhiên miền núi: vừa hùng vĩ, vừa nên thơ, hữu tình, lãng mạn, nhưng cũng có những khắc nghiệt rất riêng, lạ so với các vùng miền khác. Trong không gian sinh tồn ấy, cuộc sống của người vùng cao hiện lên đầy sinh động: cuộc sống lao động thường ngày với những công việc đồi nương, nhuộm vải, trồng lanh, xe sợi, vẽ sáp trên thổ cẩm, thêu thùa, khâu vá, xay ngô, nấu rượu ngô, ăn mèn mén, tắm suối, gội đầu nước gạo: “Mái tóc dài và đen nhỏng nhảnh thơm mùi nước gạo ngâm luôn buông dài… Tươn đội lên mái tóc vẫn “tằng cẩu” nhánh đen. Búi tóc có cái trâm bạc Sừa tặng ngày cưới vẫn còn sáng trắng như mảnh trăng liềm” (Hồn Piêu – Kiều Duy Khánh)…; những căn nhà đất, nhà gỗ, những căn bếp tối, những ô cửa sổ nhỏ từ căn buồng ngủ… Ở ngoài kia, những vạt cải, những cánh đồng hoa tam giác mạch, những cành đào, cành mận, mơ, lê, táo mèo… nở trắng xoá khi mùa xuân đến; đồi núi trập trùng, những con đường quanh co, vực sâu, sương và mây mù bao phủ; những chiếc váy sặc sỡ phơi trên bờ rào đá… Không hiếm gặp một vùng thiên nhiên, không gian sống của người miền núi trong nhiều tác phẩm, như: “Sông Dâng lấp lóa chở cả bầu trời mây bạc như một dòng thiếc”, “phía ấy mặt trời đang lên, từng thửa ruộng bậc thang như vòng tay chồng lên nhau lớp lớp” (Đàn trời – Cao Duy Sơn); Những chân ruộng bậc thang xinh xắn, những nương ngô thoai thoải sườn non, con trâu nghiêng nghiêng cùng người xiết mũi cày liếm vào chân đá… Có tiếng cối nước giã gạo thậm thịch đều đều êm ả, hội cát chăm ngày xuân rộn rã tiếng cười. Tiếng vó ngựa thanh bình dạo trên đường núi loà xoà mây trắng (Lắng lòng quê thương – Hà Phong)… Khung cảnh ấy đẹp yên bình, hoang sơ mà lãng mạn. Lối sống hòa hợp với tự nhiên là truyền thống ứng xử lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cho nên, khi một phần thiên nhiên, quang cảnh ấy mất đi thì các tác giả cũng thể hiện nỗi niềm tiếc nhớ: mỏi mắt tìm khắp các sườn non, vắng hẳn bóng những nương chàm biếc xanh màu lam ngọc, đều tăm tắp như trải thảm. Thiên nhiên rừng núi, không gian sinh tồn đặc trưng, cũng tạo nên nét riêng của miền núi. Cũng không quá khi nói những đoạn văn miêu tả quang cảnh thiên nhiên tạo nên nét hấp dẫn, mới lạ của mảng đề tài văn xuôi dân tộc và miền núi.
Bản sắc văn hoá còn thể hiện ở nhiều yếu tố như những giai điệu dân tộc, những hoạ tiết, trang phục dân tộc, kiến trúc nhà ở, ẩm thực, y học cổ truyền…  
Các tác giả dân tộc thiểu số viết về đời sống ẩm thực thường ngày của dân tộc mình trong nhiều tác phẩm: như người Mông thường có món mèn mén làm từ ngô, nấu và uống rượu ngô, ăn thắng cố, ăn phở chợ phiên; người Thái thích đồ nướng, thịt treo gác bếp, những người phụ nữ dân tộc thường khéo tay làm nhiều loại bánh… Ta thấy một niềm tự hào về văn hoá ẩm thực dân tộc mình. Chẳng hạn, nhà văn Hà Phong (Lai Châu) thường viết về món ăn dân tộc Thái với tất cả sự nâng niu, không xô bồ, phàm tục. Mỗi món ăn đều được tả chi tiết từ khâu chuẩn bị công phu, cầu kì; cách làm rồi thành phẩm: vị, hương thơm; cách thưởng thức… cùng với tình yêu, cảm xúc háo hức, thương mến đối với mỗi món ăn được nấu bởi mẹ, bởi người thân… Tác giả phân biệt những nét rất riêng của món ăn dân tộc mình, không lẫn với cái gì na ná: nhân được trộn gia vị của rừng là thảo quả chứ không phải hạt tiêu, còn hạt gạo thì đã được nhuộm đen nhánh bởi bột than của cây núc nác (chứ không phải bằng gạo cẩm, hay nhuộm gạo bằng tro rơm) (Cổ tích bánh chưng đen – Hà Phong). Đến cả không gian ẩm thực cũng rất đặc trưng Tây Bắc: ra ngồi ngoài “hạn khuống” để vừa ăn vừa ngắm nhìn trời đất bao la. Rồi uống lẩu kép dưới trăng, cùng nhau chuyện trò râm ran, cùng uống lẩu kép rồi hát… Có cả một trầm tích văn hoá ẩn chứa dưới những hương vị đơn sơ – những nguyên liệu đều của mảnh đất ấy, phù sa ấy, núi đồi ấy.
Âm nhạc dân tộc cũng là một yếu tố văn hoá xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn xuôi dân tộc miền núi đương đại. Những nhạc cụ, những chàng trai thổi sáo, thổi khèn hay… là những hình ảnh khá quen thuộc: Vừ trong Lặng yên dưới vực sâu – Đỗ Bích Thuý thổi sáo – những giai điệu hạnh phúc khi bên Súa, day dứt, buồn thương khi không lấy được người mình yêu; những điệu khèn hoang sơ, chơi vơi của núi rừng; những tiếng sáo, tiếng kèn lá, tiếng đàn môi gọi bạn tình suốt đêm… gợi về một vùng cao xa lãng mạn với văn hoá giao duyên rất đặc trưng. Chử trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá – Đỗ Bích Thuý xuất hiện với cây đàn môi và âm thanh du dương. “Tiếng đàn ấy May đã gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà người ta nữa”. Âm điệu réo rắt của tiếng đàn môi khiến tâm hồn của cô gái mới lớn là May xao động; khiến mẹ già với nỗi hoài niệm về tuổi thanh xuân bị mất mát bừng lên khát khao hạnh phúc riêng tư… Sừa trong Hồn Piêu của Kiều Duy Khánh đêm nào “cũng mặc bộ quần áo đẹp nhất, đem cái khèn bè đến dưới cầu thang nhà Tươn thổi. Tiếng khèn như có lửa khiến đôi má Tươn đã đỏ càng thêm ửng hồng…”. Dường như, có một người nghệ sĩ trong mỗi chàng trai miền núi, khi họ đều biết sử dụng nhạc cụ dân tộc, lấy đó để gửi đi tâm tư của mình.
Những làn điệu dân ca cũng được thêm vào, vừa góp phần thể hiện không gian nghệ thuật, vừa bộc lộ tâm lí nhân vật trong ngữ cảnh cụ thể. Nhân vật Xí trong Lặng yên dưới vực sâu – Đỗ Bích Thúy hát “Ngày trước bố mẹ ăn gì sinh ra anh/ Để em ngắm nhìn đôi má anh/ Lúc nào cũng tươi tắn…” cũng là lúc con tim biết yêu. Kía hát: Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo a về… Anh buông tay em, tay như rụng khi nhớ thương Dí mà không lấy được nhau (Con dê bốn mắt – Đỗ Bích Thúy). Nông Quang Khiêm ghém vào Nẻo về một làn điệu “iếu” của người Tày khi cô gái bị ép duyên: Bao giờ nai lìa rừng mới bỏ/ Lúc nào trâu lìa cỏ mới thôi/ Đổ nước cho đầy sọt mới lìa/ Đổ nước cho đầy vợt hẵng xa… Là câu dân ca Mông mở đầu tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy: Mưa ngâu thấm lên cây/ Gầu Mông trầm ngâm làm con dâu đường xa…, để thấy những số phận bi kịch bên những cột đá treo người… Những câu hát như gửi gắm cả tâm sự của nhân vật. Âm nhạc truyền thống của dân tộc thật sự là văn hóa, là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của con người. Và văn học đều nhận diện điều đó.
Trang phục truyền thống dân tộc cũng là một nét đẹp văn hóa tiềm ẩn, độc đáo được thể hiện trong các tác phẩm văn học. Phụ nữ dân tộc thường khéo léo thêu thùa trên thổ cẩm, đặc biệt là người Thái, người Mông. Những cô gái Thái làm khăn piêu, chăn đệm trước khi lấy chồng; Những cô gái Mông thêu váy áo đẹp đi chợ phiên. Phụ nữ Mông hay cuốn xà cạp nơi bắp chân, chiếc váy thổ cẩm có thể cầu kì hay đơn giản nhưng luôn có cái thắt lưng. Tất cả những chi tiết đó đều đi vào văn học: Bà Kia cũng đã chuẩn bị bộ váy áo đẹp dệt từ cây lanh đầu vụ. Dâu ngoan mặc bộ váy truyền thống này để ma nhà ưng nhận mặt, để từ nay biết se sợi lanh không bị đứt, ăn bát mèn mén biết thấy vị ngon” (Hoa Sàng Jàng – Kiều Duy Khánh); “Mẹ dạy Tươn tập thêu khăn Piêu từ lúc Tươn còn thấp như cái chõ xôi trên bếp. Cái khăn đầu tiên mẹ bắt phải thêu thật kỹ, thật đẹp. “Piêu đầu tiên là cái piêu để mọi người biết cái khéo của mày đấy con gái à. Nó là cái khăn linh thiêng nhất, là “Mặc Piêu” (khăn yêu) vì nó giữ cái hồn của người con gái đã làm ra nó… Piêu này chỉ để dành tặng cho người con trai mình hợp mình yêu, muốn cùng chung chăn chung gối. Tặng cái Piêu này cho người mình ưng thì nó sẽ giữ cái hồn của hai người lại với nhau mãi mãi” (Hồn Piêu – Kiều Duy Khánh)…
Trang phục liên quan sâu sắc đến tín ngưỡng của dân tộc. Khi một cô gái lấy chồng ngoại tộc: “Những đứa ấy, nếu không tự may quần áo mặc, thì chết đi, thần linh cũng không nhận. Nếu muốn được tổ tiên tha thứ, thì khi chết, phải mặc nguyên đồ trắng và chôn theo một ít lá chàm. Chỉ những người phụ nữ Dao khi chết mới được mặc bộ quần áo chàm” (Kiều mạch trắng – Tống Ngọc Hân).
Trang phục không chỉ là vật chứng của giá trị tinh thần, giá trị văn hóa vật chất truyền thống mà còn giúp thể hiện phẩm chất nhân vật, tình cảm giữa con người với nhau. Chiếc thắt lưng thêu trong (Ðợi mùa nắng ấm – Tống Ngọc Hân) vốn là vật quý của người phụ nữ dân tộc Mông. Nhưng vì cần tiền mua thuốc cho mẹ chồng mà Dâu bán đi; nhưng rồi người mẹ chồng đã lẳng lặng bán mớ ngô giống dành cho mùa sau để chuộc lại chiếc thắt lưng thêu ấy lại cho con dâu mình. Trong Chợ tình, đôi giày vải là kỉ vật tình yêu giữa Sinh và Ếm. Đôi giày do mú Ếm đã khâu tặng gần sáu mươi năm về trước. Đôi giày ấy lão đã đem theo bên mình “bằng cả mười lăm đời ngựa”. Đôi giày được lão Sinh hết sức nâng niu, giữ gìn như giữ gìn tình cảm sâu nặng với người con gái yêu mà không lấy được nhau. Lão luôn để đôi giày trong ngực áo, khi “vuốt nhẹ từng đường chỉ khâu, lão cảm giác như đang vuốt lên các ngón tay thon mềm mại của Ếm”, “giày này tay em khâu, anh chỉ đi cho một mình em nhìn thấy” (Chợ tình – Cao Duy Sơn). Hình ảnh đôi giày, câu chuyện về đôi giày vải giúp thể hiện tính cách thủy chung, nghĩa tình của người miền núi.
Bản sắc văn hoá thể hiện ở vẻ đẹp phẩm chất con người miền núi.
Người miền núi thuần hậu, chất phác, mộc mạc, thẳng thắn, hồn nhiên như đất trời, như cây cỏ. Họ sống nghĩa tình, cao thượng, chung thủy trước sau như một. Những điều này đều được thể hiện qua cá tính, phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của nhiều nhân vật trong các tiểu thuyết, truyện ngắn. Con người là nhân tố cốt lõi của văn hóa. Xây dựng hình tượng con người miền núi với cảm hứng trân trọng, ngợi ca cũng là một cách thể hiện niềm tự hào về đất và người, bản sắc văn hóa dân tộc.
Pa Mạc và mú Sắn Pì trong Đàn trời – Cao Duy Sơn là những hình tượng tiêu biểu cho con người miền núi, chất phác, mộc mạc, trong lành như nước suối đầu nguồn. Họ là hiện thân của bản mường, cộng đồng, là đại diện cho lòng nhân ái và sự bao dung. Pa Mạc hiền lành, chất phác, trung thực và nhân hậu, kiệm lời nhưng rắn rỏi, không bao giờ thất hứa với ai khi nhận lời, không bao giờ làm phiền ai. Pa Mạc dạy đứa con nuôi là Thức thành người ngay thẳng, chân thành và cứng cỏi. Mú Sắn Pì, người đàn bà cao lớn, xấu xí, kỳ dị lại là người yêu thương, bao bọc và bảo vệ đứa trẻ không phải con mình đẻ ra – là Thức còn hơn cả tính mạng của bản thân. Cũng như người đàn bà xấu xí trong Đường mưa – Tống Ngọc Hân, sẵn sàng chấp nhận đứa con riêng của chồng. Ngay cả khi phát hiện ra đứa bé bị hở hàm ếch ấy không phải con của chồng thì chị cũng dang tay đón nhận. Cũng như mẹ già Mao trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá – Đỗ Bích Thúy dành cả tuổi thanh xuân để nuôi hai con riêng của chồng khôn lớn bằng tất cả tình yêu thương. Thầy Hạc trong Ngôi nhà xưa bên suối – Cao Duy Sơn là hiện thân của sự hi sinh, tấm lòng cao cả ẩn mình dưới một thân hình bé nhỏ và thân phận đáng thương.
Người miền núi yêu ghét rạch ròi. Đã yêu thì nghĩa tình, chung thủy, cả đời không quên. Nhiều mối tình minh chứng cho điều đó. Trong đó, chuyện tình giữa Sinh và Ếm (Chợ tình – Cao Duy Sơn) là một câu chuyện cảm động và cũng tiêu biểu cho phẩm chất này của người dân tộc vùng cao. Sinh và Ếm như nhiều đôi trai gái khác, yêu nhau không lấy được nhau. Đến tuổi xế chiều, sau khi con cái trưởng thành, họ mới trở lại chợ tình tìm gặp nhau. Họ đến bên nhau không phải để hưởng thụ vật chất, cũng không phải để thỏa mãn bản năng, họ không tham lam, đòi hỏi mà chỉ để chia sẻ với nhau, được ăn với nhau bữa cơm đạm bạc rồi về. Lão Sinh và Ếm vốn là những người dân miền núi chân chất, lam lũ nhưng bên trong những chiếc áo chàm bình dị ấy là tâm hồn thật khoẻ khoắn và giàu có, là trái tim nhân hậu và ấm áp vô cùng. Họ sống và yêu mộc mạc nhưng nghĩa tình, chung thuỷ; giản dị nhưng nồng nàn, sâu sắc vô bờ bến.
Người miền núi còn mang trong mình tố chất của sức mạnh đại ngàn. Họ dũng cảm, giàu khả năng chịu đựng, hồi sinh, tái sinh như “khóm ngải tàn khóm ngải lại lên xanh”. Ở họ có một tình yêu thiết tha không bao giờ vơi cạn đối với con người và cuộc sống, có niềm tin bất diệt vào ngày mai tươi sáng “hết đêm sang ngày”. Nhờ sự nâng đỡ của niềm tin ấy, con người có thể chấp nhận những cay đắng tủi hờn của số phận, lặng lẽ sống trong u ám sương mù để đợi “đến ngày mặt trời mới lên trên đỉnh đầu ta”. Có thể xem các tác phẩm văn xuôi dân tộc thiểu số là những bài ca ca ngợi sức sống tiềm tàng của con người miền núi.
Tóm lại, con người và đời sống ở miền núi đều được các nhà văn đưa vào tác phẩm của mình qua những câu chuyện, hình ảnh tiêu biểu giàu tính chân thật, như đời sống vốn vậy. Người đọc, qua tác phẩm có thêm những hiểu biết về nhiều phương diện của đời sống tộc người, đồng thời cảm nhận tình yêu thiết tha của các nhà văn khi viết về những vẻ đẹp văn hóa truyền thống.
Có thể nói, những phong tục tập quán, những hội hè đình đám, những lối ăn lối mặc… đúng là nó mang vác hồn vía, tính cách, thói quen, tâm lí… dân tộc nhưng không phải là cái duy nhất. Tất nhiên, những yếu tố văn hóa mang tính bản sắc, dễ nhận diện thì được chú trọng miêu tả hơn. Tuy nhiên, văn hóa dường như nằm trong mọi yếu tố của đời sống. Bản sắc văn hóa, về bản chất không hoặc ít thay đổi nhưng không phải là một cái gì cố định, bất biến, mà có sự tái cấu trúc liên tục về chất liệu. Văn hóa không phải là cái thuộc về quá khứ. Văn hóa luôn thuộc về thì hiện tại, nó luôn đồng hành với con người, luôn luôn. Văn hóa ăn sâu vào tiềm thức, vô thức của nhà văn qua không gian và thời gian mà họ tồn tại. Và khi nhà văn giải phóng con người cá nhân của mình, dù ở mảng đề tài gì, thì nó vẫn hàm chứa văn hóa. Nói như Cao Duy Sơn “Cái hay nhất vẫn là cái mình chưa viết ra được”. Bởi bản sắc văn hóa vừa là cái được bộc lộ – cái đặc trưng nổi trội, dễ nhận ra, lại vừa là giá trị cốt lõi được ẩn giấu, chỉ có thể nhận diện khi được nghiên cứu rất sâu.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Chính qua ngôn ngữ, văn hóa được thể hiện. Có thể thấy, ngôn ngữ và giọng điệu văn chương của nhiều nhà văn đã rất thành công khi mang đặc trưng “người vùng mình”. Nhà văn có thể không sử dụng tiếng mẹ đẻ để sáng tác, nhưng cách tư duy, biểu đạt thì bằng lối nghĩ, lối viết của dân tộc, vận dụng những tinh hoa ngôn ngữ dân tộc mình. Nhà văn dân tộc thiểu số có thế mạnh trong khi khai thác “chất người miền núi” trong chính con người mình để thể hiện cội nguồn văn hóa. Do bản thân họ thấm đẫm hồn cốt, bản sắc của dân tộc mình mà tác giả người Kinh phải học hỏi, phải nhìn bằng con mắt khách quan. Giáo sư Phong Lê từng khẳng định rằng: “Không ai là người nói lên được tốt nhất thế giới tâm hồn và khát vọng của mỗi dân tộc bằng chính người viết của dân tộc mình… Chỉ có người viết dân tộc mới có khả năng làm ánh lên được những nét riêng trong cảnh sắc sinh hoạt, trong nét dáng tâm lý và ngôn ngữ con người dân tộc mà thôi”. [13; 264]. Sẽ thật đáng quý, nếu các nhà văn dân tộc thiểu số có thể sáng tác được song ngữ bằng cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt trong giữ gìn vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, của bản sắc văn hoá. Nhưng nhà văn dân tộc thiểu số cần vượt qua được giới hạn chủ quan để thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc ra cộng đồng quốc gia, khu vực, thế giới.
Khi cầm bút, bất kể nhà văn chân chính nào cũng tìm kiếm một cách thể hiện độc đáo, đổi mới phương thức trần thuật để tiệm cận đời sống theo ý tưởng sáng tạo của mình, nhằm tạo ra các tác phẩm có giá trị cả về nội dung và hình thức. Ngày nay, trong nghệ thuật thể hiện, những yếu tố hiện đại dần nổi trội hơn cho hợp với thị hiếu, thời đại và nội dung được phản ánh. Tuy nhiên, có vẻ như với mảng đề tài dân tộc, miền núi, dù nghệ thuật đã được đổi mới thì yếu tố truyền thống vẫn còn có những giá trị nhất định. Nhiều nhà văn vẫn khá chung thủy với lối kể chuyện truyền thống trong kết cấu tác phẩm, điểm nhìn, lời văn trần thuật… mà vẫn tạo nên được những tác phẩm giá trị. Bởi dường như, những lối kể chuyện quá hiện đại, phương Tây hóa đi xa tầm đón nhận của người đọc, nhất là người đọc dân tộc thiếu số, nên khó tạo được sức hấp dẫn và phần nào làm mờ đi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật thể hiện.
Một số tác phẩm mang lại ấn tượng như là “Những câu chuyện kể nghe như cổ tích” (Cao Duy Sơn) và hình ảnh những con người như bước ra từ cổ tích. Ngôn ngữ trong văn xuôi dân tộc thiểu số mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, tự nhiên như cây cỏ. Họ định nghĩa tổ quốc thật gần gũi và đơn giản thế này: “Đây là nhà của chúng mình, là tổ quốc của mình. Tổ quốc được bắt đầu từ chân cầu thang tì dưới mặt đất bắc lên sàn nhà” (Đàn trời – Cao Duy Sơn). Do sống gần gũi với thiên nhiên nên người miền núi thường so sánh con người với thiên nhiên và cấp cho thiên nhiên những đặc tính của con người. So sánh thường có xu hướng cụ thể hóa cái trừu tượng theo lối tư duy trực giác. Chẳng hạn, “Seo Mây đẹp như con chim công, đẹp cả bộ lông lẫn tiếng hót” (Hoa mía – Bùi Thị Như Lan). Giọng lão Mạc trong Đàn trời – Cao Duy Sơn “như mạch nước ngầm trào ra từ lòng núi, đi qua những ghềnh đá, những vực cao, những rừng sâu đầy những bất trắc rình rập”…
Các nhà văn cũng thường kế thừa, tiếp thu tinh hoa của thơ ca cổ, truyện thơ cổ, những làn điệu, những bài hát dân ca, vận dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, tiếng của dân tộc mình…, một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tác. Những vẻ đẹp ngôn từ này cùng với tình yêu tha thiết với văn hóa quê hương, với dân tộc đã góp phần thể hiện bản sắc dân tộc. Từ đó bản sắc dân tộc lên hương lên nhạc, tạo được sự mới lạ và sức hấp dẫn riêng với người đọc.
Nhà văn trẻ Nông Quang Khiêm để cố gắng giữ gìn vẻ đẹp văn hoá Tày, không chỉ thể hiện qua nội dung, về sự lưu giữ văn hoá trong quá trình bị cưỡng bức văn hoá, đô thị hoá… mà còn minh chứng qua vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Bởi ngôn ngữ luôn gắn liền và ẩn chứa giá trị văn hoá từ ngàn đời. Nông Quang Khiêm viết giản dị, thẳng thắn, thật thà, tự nhiên như lối nói, lối nghĩ của người dân tộc, kiểu như: “Đấy! Quả ớt nhìn ngoài thì đẹp, ở trong ăn cay đúng không” (Gió cuốn mây ngàn); hay lời mẹ già khuyên Xao tái giá “Mình đã từng lầm lỡ, giờ có người thương thì làm lại cuộc đời con ạ! Bố mẹ già rồi, thịt xương đã thơm mùi giun đất… con không thể ở mãi thế được” (Tiếng hú trên đỉnh Pù Cải). Anh còn khéo léo giới thiệu những làn điệu “iếu” (hát đối đáp giao duyên) của người Tày trong nhiều truyện ngắn. Những câu hát vừa là tâm trạng nhân vật, vừa góp phần gợi tả không gian diễn xướng: Mừa hâu nạn lìa đông chắng giá/ Mừa hâu vài lìa nhả cỏi thôi/ Tắc nặm hẩu têm cuôi cỏi piạc/ Tắc nặm hẩu têm bắc cỏi lìa… (Bao giờ nai lìa rừng mới bỏ/ Lúc nào trâu lìa cỏ mới thôi/ Đổ nước cho đầy sọt mới lìa/ Đổ nước cho đầy vợt hẵng xa); “Khằm hăn nọc khảm khắc roọng thương/ Khảm khắc bấu phần tối chắng liệc/ Khảm khắc cụng chứ điếp bặng làu/ Tê puồn nhằng mì mạy téc chấp/ Pì puôn pay cảu pù síp phương/ Đạo bạn nghĩa vạ căn thôi nớ/ Noọng pây cách bản vạ cần đai (Đêm nghe chim khảm khắc vọng thương/ Khảm khắc chẳng đủ đôi than thở/ Khảm khắc cũng buồn nhớ như ta/ Chúng buồn còn cây mà đậu/ Anh buồn đi chín núi mười phương/ Đạo bạn nghĩa từ nay thôi đoạn/ Em thôi về cách bản cùng người) (Nẻo về)… Những lời hát dân gian, những lời khấn trong nghi lễ cúng tế, Nông Quang Khiêm thường kèm theo song ngữ tiếng Tày, thể hiện rõ tính cổ truyền của phong tục, tập quán. Nhà văn trẻ cũng dùng nhiều đại từ nhân xưng bằng tiếng dân tộc trong tác phẩm: Pó (bố), Ềm (mẹ), Pú è (ông nát rượu), Bà nải (bà góa), thầy tào (thầy cúng), nàng Hương (người con gái thắp hương trong lễ hát Pụt). Tất cả gợi một không khí rất quê hương, bản xử, văn hoá dân tộc rất đậm đà. Tất cả đều thể hiện niềm tự hào của Nông Quang Khiêm về bản sắc văn hoá, về vẻ đẹp ngôn ngữ dân tộc Tày.
Những tác phẩm văn xuôi vừa có những cách tân, đổi mới về nghệ thuật cho phù hợp với thời đại, lại vừa kế thừa được thành tựu của giai đoạn văn học trước, phát huy được vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc là một yêu cầu, thách thức với các nhà văn đương đại.
Ngày nay, nhiều tác phẩm văn xuôi dân tộc và miền núi được chọn dịch và giới thiệu ra nước ngoài hoặc một số truyện tiếng Việt lại được đông đảo cộng đồng người Việt ở nước ngoài đón nhận. Điều này giúp mở rộng biên độ tiếp nhận và góp phần tạo nên sự giao lưu văn học, văn hoá. Đồng thời thể hiện sự cố gắng, tự tin hội nhập của các nhà văn Việt Nam với sắc màu và bản lĩnh riêng. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như truyện ngắn Hồn Piêu của Kiều Duy Khánh được dịch sang tiếng Anh và đăng tải trên báo Việt Nam News, tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy được dịch sang tiếng Hàn; tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn được nhận Giải thưởng Văn học Asean của Hoàng gia Thái Lan…
Tóm lại, với bản chất linh động và dân chủ của thể loại, văn xuôi có khả năng lưu giữ cái sinh động, phong phú của những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc ở mọi lĩnh vực, cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Không chỉ lưu giữ, bảo tồn, ngợi ca, tự hào về những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, mà văn học còn là một phương cách hữu hiệu đặc thù trong truyền bá, giới thiệu văn hoá dân tộc tới cộng đồng thế giới.
Nếu như các công trình văn hóa học, dân tộc học, sử học, nhân học, Việt Nam học, du lịch văn hoá… thường nghiên cứu bản sắc dân tộc từ góc nhìn đồng đại hoặc lịch đại với cái nhìn khách quan, không bao hàm thái độ của tác giả; thì trong tác phẩm văn học, các tri thức văn hóa truyền thống được lồng vào câu chuyện với các nhân vật và tình huống truyện và nhà văn thường bao giờ cũng gửi vào đó tình cảm, thái độ của mình dù ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Đó thường là tình yêu, niềm tự hào, trân quý với các giá trị văn hóa cội nguồn; hoặc nỗi lo lắng về sự mai một của các giá trị tốt đẹp, về sự hỗn tạp, lai căng văn hoá, về sự tha hoá, biến chất của con người trong thời đại mới; là tiếng nói phê phán, bài trừ những yếu tố văn hoá không còn phù hợp, ngăn cản sự phát triển của xã hội và tiến trình xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa hội nhập quốc tế.
Thực tiễn, văn xuôi dân tộc miền núi thế kỉ XXI đã mở rộng biên độ, thể hiện khá đa dạng, sinh động bản sắc văn hoá dân tộc, tuy nhiên cũng chưa thể toàn  diện. Văn xuôi dường như mới chỉ chú ý những nét bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo, tiêu biểu đã được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Thời kì hội nhập, cuộc sống số và cuộc cách mạng công nghệ đang biến đổi từng ngày thì những giá trị văn hóa cũng có ít nhiều biến đổi theo. Những biến đổi tinh vi của đời sống văn hóa, những góc khuất của đời sống văn hóa thực tiễn miền núi, dù đã được đề cập tới nhưng chưa được quan tâm nhiều, hoặc có thể văn học chưa kịp thời cập nhật, chưa khám phá ra hoặc đã chạm tới nhưng chưa “tới hạn”.
Cái đích cuối cùng của văn chương vẫn là truyền tải thật hiệu quả các vấn đề của cuộc sống đến với người đọc, góp phần xây dựng con người mới, bao gồm các giá trị nhân cách, tâm hồn mang cốt cách dân tộc trong thời đại mới. Bởi vậy, văn học phải hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, vừa giữ gìn, phát huy vừa hội nhập, hội nhập nhưng phải thể hiện bản lĩnh văn hoá dân tộc, không hoà tan trong sự giao lưu, tiếp biến văn hoá. Trên tinh thần ấy, các nhà văn để trở thành những “người giữ lửa”, người góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần gắn bó, thẩm thấu thật sâu vào cội nguồn truyền thống để hiểu tận tường đời sống văn hóa dân tộc, phải tìm thấy ở truyền thống văn hóa dân tộc mình cái hay, cái đẹp, phải yêu và có nhu cầu gìn giữ, phát huy, phát triển vốn văn hóa ấy qua sáng tạo nghệ thuật thì mới có những tác phẩm giá trị. “Văn hóa là thứ không thể bịa đặt, người viết không thể hư cấu. Vậy, để có thể viết được những tác phẩm văn học về dân tộc và miền núi, tác giả cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và thấm nhuần giá trị văn hóa của dân tộc”. [12] Nhưng nhà văn cũng cần có cái nhìn rộng mở, làm mới mình trong giao lưu văn hóa, sẵn sàng chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại, cải biến để phát triển văn hóa dân tộc, đảm bảo tinh thần hội nhập. Văn hoá nhân loại luôn có mẫu số chung hướng tới chân – thiện – mĩ. Văn hoá dân tộc là cái riêng, nhưng không thể đi ra ngoài cái chung. Chỉ có như thế, tác phẩm mới mang tầm thời đại, và được đón nhận bởi công dân toàn cầu, nhưng trước hết vẫn phải thể hiện tính dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc “Dù toàn cầu hoá hay quốc tế hoá mạnh mẽ tới đâu thì về phương diện văn hoá, thế giới không bao giờ chỉ là “phẳng”. Nếu như quốc tế hoá, toàn cầu hoá làm cho “thế giới phẳng” thì một xu hướng song trùng, đối trọng là “dân tộc hoá quốc tế” sẽ làm cho thế giới lúc nào cũng “gồ ghề” và đa dạng”[24].
Trong thời đại ngày nay, trước nhiều ngụy giá trị luôn tồn tại song song với giá trị đích thực, đòi hỏi nhà văn cần có tâm, có tài và bản lĩnh trong ý thức bảo tồn, phát huy, làm đẹp, làm giàu cho bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đó chính là con đường phát triển của văn học nói chung, văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần thể hiện bản lĩnh văn học, văn xuôi dân tộc trong thời kì mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hoàng Chí Bảo (2009), Hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong đổi mới, Tạp chí Cộng sản số 7 (175) năm 2009.
2. Lê Thanh Bình (2019), Hệ giá trị văn hóa Việt Nam và các tiêu chí phù hợp trong giai đoạn mới, http://tuyengiao.vn/
3. Hoàng Sông Gianh, Tiếng kêu của bản sắc văn hóa vùng cao, http://vannghequandoi.com.vn/
4. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học, Nxb. Dân trí.
5. Bùi Như Hải (2016), Truyện ngắn Cao Duy Sơn trong mạch nguồn truyện ngắn dân tộc thiểu số đương đại, https://vanhien.vn/
6. Lương Đình Hải (2009), Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, Số 10 và 11.
7. Chu Thu Hằng (2008),Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền núi, Báo Văn hóa số 1609 ra ngày 12/11/2008.
8. Dương Thu Hằng – Đào Thủy Nguyên (2011), Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam trên hành trình hội nhập, http://hcmup.edu.vn/
9. Dương Phú Hiệp (2014), Bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt, http://tonvinhvanhoadoc.vn, ngày 12/12/2014.
10. Nguyễn Văn Hiệu (2009), Tiếp cận hệ giá trị văn hóa Việt Nam từ góc nhìn xuyên văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 11/2009
11. Ngọc Lan (2006),  Inrasara – Viết như một công dân thế giới, Báo Thế thao – văn hóa, 14-7-2006
12. Nhiều tác giả (1998), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
13. Nhiều tác giả (1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945 -1975), Nxb Văn hóa, H.
14. Mai Thị Thùy Nhung, Khóc cho những giá trị đạo đức lụi tàn, http://vannghequandoi.com.vn/
15. Đào Thủy Nguyên, Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, http://vienvanhoc.vass.gov.vn
16. Lê Phương (2013), Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, đổi mới, https://vovworld.vn/
17. Hồ Sĩ Quý (2018), Mấy vấn đề về hệ giá trị văn hóa Việt Nam hiện nay, http://hdll.vn/
18. Lâm Tiến (2000), Văn học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc
19. Bùi Quang Thắng (2013), Hướng tới sự đa dạng trong hệ thống giá trị nghệ thuật ở Việt Nam, Tham luận hội thảo “Hệ giá trị văn hóa Việt nam trong thời kỳ hội nhập” do Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật tổ chức (tháng 5. 2013)
20. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp.HCM.
21. Trần Ngọc Thêm (2001): “Bản sắc văn hóa Việt Nam trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới” trong Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận (Lê Ngọc Trà tập hợp, giới thiệu), NXB Giáo dục.
22. Hữu Thỉnh (2009), Bàn về vấn đề giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa (Hội thảo “Tính dân tộc và tính hiện đại trong văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay”
23. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
24. Ngô Đức Thịnh (2011), Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập. Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/
25. Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo (Đồng chủ biên) (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại – một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
17/7/2021
Lê Thùy Giang
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoài Thanh và phương pháp phê bình ấn tượng Phê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) c...