Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Tiếng thơ Phạm Đương nhìn từ cảm thức thời gian

Tiếng thơ Phạm Đương
nhìn từ cảm thức thời gian

Đời người, nhứt là đàn ông “có chữ” (ý thơ Cao Bá Quát), ai lại không muốn lập danh. Với Phạm Đương, bút danh Trần Đăng báo đã sớm “lập danh”, còn Phạm Đương thơ tuy xuất hiện muộn hơn nhưng cũng đã gặt hái được những thành công trong dòng chảy của thơ ca đương đại. Đọc suốt ba tập thơ của anh gồm: Bùn non (2005), Những bước chân gửi lại (2007) và Giờ thứ 25 (2012), không biết có phải vì là một nhà báo chuyên nghiệp (trọng thời gian, thời điểm phản ánh của một bản tin hay không), nhưng tôi thấy, đúng là thời gian đã trở thành một cảm thức, một ám ảnh thơ của Phạm Đương.
Bạn đọc hai câu thơ này:
giăng mắc những chiếc dây vô hình
nối về một vùng sáng trong mơ sót lại
(Gió dại)
Thời gian trôi qua như mơ, thời gian vô tình nước chảy, chỉ cơn mơ còn lại. Mơ mà thật, vì nó là thời gian. Nhưng thời gian đâu chỉ là thời điểm, thời khắc, là giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm… của nhà báo, mà nó là cái đã qua thời điểm, thời khắc, còn đọng lại, “sót lại” trong thẳm sâu vô thức của con người. Nhà báo trọng sự chính xác đến từng phút giây của sự việc phản ánh, nhưng sau cái phản ánh thực của dòng tin tức, trong lòng nhà báo chứa biết bao nhiêu nỗi đau, nỗi xót xa… của mẫu tin mình đưa nóng. Tin đó, sự kiện đó, nhưng chứa đằng sau nó là bao nỗi niềm. Thơ ở đó, Phạm Đương khuất sau Trần Đăng bắt đầu ở đó. Và nhà thơ bắt đầu nhìn nhận. Cảm thức thời gian trong thơ Phạm Đương phức tạp, đa chiều, nhiều lẽ… như chính cái sự đời phức tạp mà anh nhìn, cảm nhận qua những sự kiện báo chí với chức năng “thông tin và định hướng”. Thơ mất định hướng ư? Không đâu! Thơ dắt con người đi về bản chất đời, bản chất nhân văn của cuộc nhân sinh trên tầm nhân loại. Bản tin báo chí nào chẳng thế: thời gian, địa điểm, sự việc. Chấm hết. Còn thời gian trong cảm nhận của thơ thì quá đa chiều, phức tạp đến mức, ai cũng có thể phán: “Phi lý! Đồ điên!”. Thơ chính là cái thời gian phi lý, là cái thằng điên đầy chất người ấy. Thử cảm nhận, giải mã một vài khía cạnh thời gian thơ Phạm Đương…
1. Thời-gian-phi-thời-gian để tự nhìn nhận mình
Đó là cái “giờ thứ 25” anh tự thoát xác mình để làm một “tên khùng”, một “gã rồ” trước thơ: Bỏ lại mọi toan tính phía sau lưng/ anh có giờ thứ hai lăm khuya khoắt/ giờ thứ hai lăm ngọt nhạt/ giờ thứ hai lăm bồn chồn/ hai mươi bốn giờ đi qua nhìn anh bằng đôi mắt khác/ một tên khùng trong bóng đêm/ một gã rồ trước nến (Giờ thứ hai lăm). Cái “giờ thứ 25” ấy thực ra không thể gọi là “thứ 25” vì làm gì có thời gian đó, mà đó là cái thời gian anh nghỉ ngơi công việc thường ngày để sống với chính mình, sống thật với lòng mình: kim đồng hồ nhích dần đến khoảng tối/ nơi tôi có thể gặp lại khuôn mặt thật của mình/ sau một ngày sắm vai kẻ khác /…/ tôi hi vọng gặp lại mình một giây/ trước khi bắt đầu sắm vai kẻ khác (Những mảnh vỡ). Đọc Phạm Đương, ta chợt giật mình thon thót, vì hình như anh đã nói hộ chính ta cái 24 giờ không là ta ấy. Có những cái mà trong 24 giờ thường nhật ta tưởng thật, té ra lại là không, ta đã tự đào huyệt chôn mình cho dù đang ngả nghiêng, nói cười ồn ả: rồi mình xóa mình/ xóa cả chiếc bóng hờ bao năm tưởng thật/ xóa một màu trắng xóa/ rét run/ ồn ã nói cười ồn ã ngả nghiêng/ cố chôn trống vắng/ bằng những chiếc huyệt ồn/ làm sao lấp được? (Một ngày xanh). Sống thật với lòng mình trong cái khoảng thời gian phi thời gian ấy để những câu thơ thật sự là thơ, để cuộc sống trong veo cùng cuộc sống, để ta về lại với cái sơ nguyên bản thể của chính ta. Có thể đó là Nát bàn của Phật, Thiên đường của Đức Chúa Trời… Nhưng có lẽ đúng hơn, ít mơ hồ, xa xôi hơn tôn giáo, là chính cái Nát Bàn trong lòng của mỗi con người trần ai hướng thiện để tâm hồn không mảy may “nhiễm độc” bởi những lố lăng buôn Thánh bán Thần: anh chẳng đem lại gì cho em/ trong giờ thứ hai lăm khuya khoắt/ ngoài những câu thơ như khói thuốc/ những câu thơ không nhiễm độc bao giờ (Giờ thứ hai lăm). Chính cái thời gian “thứ 25” ngắn ngủi ấy sẽ “cứu rỗi” anh, “cứu rỗi” tôi, và thậm chí là cả nhân loại rộng lớn, cả vũ trụ bao la này còn biết mình được sống, còn thấy tương lai để mà sống giữa cuộc đời toàn cốt thép bê tông: ba phần tư ngày/ ba phần tư thời gian xoay vần trong tù mù /cơm áo/ hy vọng nửa chiều sót lại/ cứu rỗi những hố đen trên sao hỏa/ khỏi bị khỏa lấp bằng sắt thép (Một phần tư ngày). Không cần đến “một phần tư ngày” đâu, chỉ cần một sát – na “thứ 25” kia, ta biết thế giới vẫn còn tồn tại.
2. Thời gian theo dòng ký ức để nhìn nhận tình đời
Ngoài cái thời-gian-phi-thời-gian ấy, Phạm Đương vẫn thường đứng ở thực tại, đẩy cái thời gian lùi về quá khứ để nhìn nhận muôn mặt cuộc đời. Hình như với Phạm Đương, muốn nhìn nhận tình đời để thành thơ nhằm ghi lại cái điều mình cảm được trong một khoảnh khắc thời gian nào đó, anh cứ đẩy nó về quá khứ: Tình cờ gặp lại chú Năm đồng hương nơi đất Mũi/ bốn mươi năm xa quê/ chừng ấy thời gian đủ để quên nhiều thứ/ nhưng giọng Quảng thì không lẫn vào đâu được (Trên chiếu rượu với chú Năm đồng hương nơi đất Mũi). “Bốn mươi năm” lưu lạc, xa quê, mà giọng Quảng cứ y sì giọng Quảng, để từ cái chất Quảng ấy, anh nhận ra giá trị một con người, giá trị một đời người, giá trị của cuộc sống biến chuyển không ngừng nghỉ: hành trang mang theo là giọng bài chòi/ rơi rớt dọc đường cùng ghe bầu tắc ráng/ giờ chỉ còn câu vọng cổ/ mỗi câu hát một phận đời xa xứ/ lục bình trôi biết bến đỗ nơi nào (Trên chiếu rượu với chú Năm đồng hương nơi đất Mũi).
Cùng một thế hệ thơ, nhưng nhà thơ nữ trẻ hơn là Vi Thùy Linh thì phản ánh thời gian ngay trong thực tại “thế kỷ 21” mình đang đứng để chiêm nghiệm về không gian nhiều hơn là sự đẩy lùi thời gian về quá khứ: Ở thế kỷ 21, một bé trai hỏi Mẹ:/ – Mẹ ơi, Trái đất rộng lớn bằng nào?/ – Bằng ước mơ của mẹ về con/ – Còn Cha của con?/ – Người là một Thế giới (Vi Thùy Linh – linh). Còn Phạm Đương dù đang đứng ở thực tại “tuổi năm tư”, anh đã vội vàng đem  trừ “tuổi hai lăm” nơi “rừng săng lẻ” để bộc lộ ký ức của một thời những người lính Trường Sơn. Thơ Phạm Đương cứ hư thực, thực hư khi thời gian được cảm thức từ mặt sau thực tại: rừng săng lẻ năm ta hai lăm tuổi/ lá xanh hoa tím/ giờ tuổi năm tư/ hoa tím ngày xưa vẫn tím/ tóc ta nay đã sương mù (Ký ức).Và cũng trong thời máu lửa gian nan với “kỷ luật thép” của chiến tranh ấy, sau “bốn mươi mốt năm”, người đàn bà và người đàn ông ấy mới lại gặp nhau. Chứng kiến cuộc gặp gỡ éo le này trong hiện tại, Phạm Đương đã có những dòng thơ vô cùng xúc động khi anh đẩy câu chuyện lùi lại “bốn mươi mốt năm” xưa: Sáng nay nghe một chuyện không vui không buồn/ Người đàn bà sáu mươi tuổi bất ngờ gặp lại người tình cũ/ Trong trại an dưỡng thương binh nặng/ Một gã du kích cách đây đã bốn mươi mốt năm / Bà thì nhận ra ngay còn ông lơ đễnh như kẻ xa lạ/…/ trong đáy thẳm gã du kích năm xưa/ người ấy luôn luôn mười chín tuổi (Biện hộ cho những giấc mơ không có thật). Rồi lại gặp ký ức “hai mươi tư năm” của những người lính hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía Nam mà chính anh là người trong cuộc:
tôi gặp lại trong ký ức những hàng bia Đức Cơ
hai mươi tư năm vẫn một màu trắng xóa
(Những bông quỳ muộn).
Còn Vi Thùy Linh lại thường “khai phá nội tâm”, khám phá vũ trụ, nhân sinh ngay trong thời gian thực tại: Con đi dọc đất nước mình 7 tuần hối hả/ Tìm thêm được nơi chở che thiêng liêng: Chúa, các Thánh dưới sải tay thập tự/ Trái Đất ngơ ngác một ngày con trải rộng tán tán mây phẳng phiu tựa hồ/ Cha có thể dắt con lang thang trên ấy/ Khi soi gương và tắm, con thấy Cha, hình hài dung mạo đội kiếp trầm luân (Vi Thùy Linh – Thư gửi cha).
Đọc Phạm Đương, ta dễ nhận ra, sau cái hiện thực trụi trần của nhà báo Trần Đăng, anh là người nuôi thơ bằng ký ức, bằng những cái đã qua, mà 24 giờ trần ai có đi hết một phận người, cũng không thể nào gột sạch: có một vệt bùn trôi nhanh trong trí nhớ/ ô mô ô miếc gì cũng không tẩy được/ vệt bùn mọc rêu ký ức/ lấy nỗi nhớ ra mà giặt (Suýt nữa thì vỡ). Không chỉ có ký ức tha phương về lịch sử mở cõi của toàn dân tộc, quá khứ chiến tranh mà toàn dân tộc đã đi qua; trên bình diện rộng cả thế giới, Phạm Đương cũng dằng dặc phân thân bằng chính quá khứ nhân loại đã đi qua: chim khuôn ngọc quay về sau mùa di thực/ cây vô ưu ra hoa qua hai nghìn năm hành khất/ rơm rạ oằn lưng trong mắt người nghèo (sóng giêng hai). Ngay cả chuyện hạt thóc cổ khai quật được ở thành Dền nẩy mầm(!) trong hiện tại cũng được anh nối với quá khứ, với nhân loại bằng cái nhìn đối sánh để nâng tầm rộng của chiều liên tưởng thời gian, để cân bằng chính mình giữa muôn biến thiên của xa rộng cuộc đời: Những hạt thóc bị giam suốt ba ngàn năm/ giờ vẫn nảy mầm/ không một nhà tù nào có thể nhốt được khát vọng (Hạt thóc và bom). Giữa “Những hạt thóc bị giam suốt ba nghìn năm” và “Những trái bom mai phục trong đất ba mươi lăm năm trước”, cái thì “nẩy mầm khát vọng”, cái lại “bị xới tung lên vung vãi tội ác”, làm sao có thể cân bằng?: chúng ta đang đi trên những chiếc dây/ căng qua đời sống/ tìm sự thăng bằng giữa hạt thóc và bom (Hạt thóc và bom).
Về với cuộc sống đời thường, cả những chuyện trớ trêu, vặt vãnh hàng ngày, Phạm Đương vẫn cứ đẩy lùi thời gian về phía của ký ức. Mà một khi phủ lên chuyện thường ngày lớp sương của quá khứ, của ký ức, thơ Phạm Đương cứ đẩy người đọc về phía bồng bềnh của những liên tưởng, để bất chợt nhận ra một nụ cười thật buồn, một ý vị triết lý sâu cay qua cái giọng thơ tưởng cứ cợt đùa theo kiểu Phạm Đương: mười năm ở nhà chật/ lúc nào cũng canh cánh bên lòng/ không biết đêm nay có thằng bạn nào say rượu xin ngủ nhờ không?/…/ cả trăm bài thơ từ căn nhà chật/…/ ba tháng rộng cửa cao nhà/ rồi một năm tường cao kín cổng/ vẫn chưa thấy có đêm nào ngủ yên/ vẫn không thấy có thằng bạn nào say rượu/ xin ngủ qua đêm/ một câu thơ cũng không viết nổi/ bỗng thèm cái thời nhà chật/ hỏi có điên không?(Một thời nhà chật). Ai điên, ai tỉnh trong cái chuyện thường ngày này? Nhưng rõ ràng, nhà thơ chính là người tỉnh nhất. Tỉnh để nhận nhìn phía sau cái kín cổng cao tường kia, phía bên dưới của tòa nhà cao tầng kia,… ký ức của một thời – “Một thời nhà chật” mà tràn đầy nhân ái, ăm ắp những câu thơ.
Ký ức ám cả đến chuyện tình yêu “hai mươi ba năm”: em vẫn như hai mươi ba năm trước/ ám vào tôi không gỡ ra được/…/ hai mươi ba năm sau/ kem đã tan thành nước/ sao tôi còn nghe buốt (Hai mươi ba năm). Cả chuyện mới diễn ra chỉ có “ba trăm sáu tư ngày”: có một thằng đàn ông/ chẳng thèm buông nửa câu thề thốt/ lặng lẽ theo em cuối đất cùng trời/ đủ ba trăm sáu tư ngày/ chỉ trừ/ mùng một tháng tư (Cá tháng tư). Và… chuyện vợ chồng “bao năm qua”: bao năm qua/ anh luôn để ngỏ tất cả các lối vào/ không dựng trạm thu phí/ bởi anh tin vào sự lương thiện/ khi kẻ trộm vào nhà ta/ bằng những bước chân không hề lẻn/ ấy là lúc/ những chiếc khóa tâm hồn trở nên vô nghĩa (Nhè nhẹ). Kẻ trộm vào nhà một cách ngang nhiên “không hề lẻn” vì đã có “tín hiệu báo yên” của người trong nhà thì rõ ràng, không ai có tài nào “giữ của”, cho dù đó là “của quý” nhất trên đời. Khi mà niềm tin tuyệt đối vào sự lương thiện bị đánh tráo, thì “chiếc chìa khóa tâm hồn” cũng bị vô hiệu huống hồ là những chùm chìa khóa thật khóa chặt các tường rào, cổng ngõ, cửa nhà… Đọc những câu thơ bình thường này mà bỗng thấy “kinh”, thấy “rợn”. Phạm Đương đã làm được điều đó.
Trong khi đó, cách nhìn nhận về thời gian của Nguyễn Thế Hoàng Linh ít bị chi phối bởi những ám ảnh quá khứ. Nhà thơ trẻ này vẫn thường đặt mình vào thời gian thực tại cho dù ước mình “được chết” để “nằm im” cho thực tại “tuôn trào” cũng chỉ chết ngay trong thực tại: Giá mà được chết đi một lúc/ nằm im cho cuộc sống nhỏ tuôn trào/ nếu người ta tống ngay vào nhà xác/ cứ thế mà chết cóng cũng chẳng sao (Nguyễn Thế Hoàng Linh-Giá mà được chết đi một lúc). Tôi có cảm giác, thơ Phạm Đương chỉ cần đọc đã thấy thích, cảm được cái lạ rất bất chợt, mà chẳng cần nhọc công phân tích, vì những chuyện thường ngày anh viết ra, chẳng có gì là lạ. Tất cả đó, cứ đọc lên thấy xót, thấy vui, thấy hay, thấy lạ… Và đặc biệt là người đọc nếm được vị đắng triết lý cuộc đời qua cái giọng thơ không lấy gì làm nghiêm trọng của anh.
3. Lỡ nhịp thời gian
Cái vị đắng triết lý càng thấm đượm ở những bài thơ, những đoạn thơ viết về những hối tiếc, nuối tiếc đã vuột khỏi tầm tay trong dòng chảy thời gian:
năm mươi tuổi làm điều chi cũng muộn
ước điều chi cũng quá trễ tràng
(Đà Lạt).
Những loài hoa khác nở vào cuối mùa cũng chẳng ai cho là muộn, là trái mùa. Nhưng hoa mai lỡ hẹn không rộ nở được vào dịp tết thì xem như đã vô duyên vì đã quá muộn màng, cho dù vẫn còn đó sắc vàng gắng gượng: Những đóa mai cuối mùa/ gượng vàng lên lần chót/ anh biết/ em đã lỡ một nhịp/ lỡ một nhịp/ bông vẫn vàng cây vẫn xanh chồi xanh chầm chậm/ chẳng hiểu vì sao/ mùa gọi mùa đi đàn chim sẻ chưa bao giờ trễ hẹn/ mất mùa lúa úa cả mùa cau hết nơi chim làm tổ (Một ngày xanh). Chỉ “lỡ một nhịp” thời gian thôi, tất cả rồi cũng vô tình đi qua tự nhiên như “cây xanh chồi”, như “mùa gọi mùa chim về đúng hẹn”, nhưng “lỡ một nhịp” dù chỉ là cái sát-na bé nhỏ trong thân phận người, là mất đi tất cả:
anh bị hất ra rìa cơn bão giá
chợt thấy mình chưa kịp nở đã già nua…
(Nhịp mùa).
Và cái cảm giác muộn màng giữa bóng đêm và ánh ngày này, cứ rờn rợn trong ta khi lỡ để trượt qua dù chỉ một phút giây trong dằng dặc kiếp người: Chỉ còn lại những bông quỳ muộn/ run lập cập/ trong bóng đêm/ nơi ánh ngày vừa tắt/ tôi muộn màng như một bông quỳ/ mơ giấc mơ sũng nước/ đêm mùa khô Tây Nguyên/ gió trôi ngược (Những bông quỳ muộn). Đã lỡ nhịp rồi, dù có cố mượn thời gian để “vá vết thương” thì vô tình anh lại cố tình rạch thêm vết thương lòng mà mỗi lần khâu là mỗi lần “đầm đìa” máu đỏ: anh như chiếc đồng hồ ngược/ mượn thời gian vá vết thương khuya/ ai đã rạch một đường hư ảo/ để anh khâu những nhát đầm đìa?(Ý nghĩ rách). Ôi! Dài rộng là thời gian, chữa lành vết thương cũng nhờ vả thời gian. Nhưng sao cái thời gian lỡ nhịp của Phạm Đương cứ mê hoặc ta bằng những ám ảnh của sự mất mát. Cái “đoạn trường lỡ nhịp” của Phạm Đương là những khoảnh khắc thơ độc sáng bằng một lối nói thẳng thừng mà có khả năng xuyên thấu, “cứa” vào lòng người đọc một cảm giác xót xa…
Có thể nói, nằm trong mặt bằng của thi ca đương đại qua đối chiếu sơ bộ với các thế hệ thơ từ 5x (Mai Văn Phấn) đến cùng lứa 6x với Phạm Đương (như Nguyễn Thanh Mừng) và các đại biểu của thế hệ trẻ hơn: 7x (Phan Huyền Thư) và 8x (Vi Thùy Linh, Nguyễn Thế Hoàng Linh), Phạm Đương vẫn có một giọng thơ riêng không trộn lẫn, ít nhất là trong phạm vi cảm thức về thời gian ở bài viết này. Nếu Mai Văn Phấn đột phá bằng một giọng thơ tự “cách tân” mình một cách mạnh mẽ; Nguyễn Thanh Mừng vẫn giữ “nguyên giọng” cổ điển dễ đọc, dễ hiểu; Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Thế Hoàng Linh khẳng định giọng thơ bằng một “tiếng nói mới của thế hệ thơ trẻ” sau thời kỳ đổi mới thì Phạm Đương lại chỉ “đổi giọng” một cách trình tự qua từng tập thơ. Thơ anh mới và lạ hơn so với Nguyễn Thanh Mừng nhưng cũng đễ đọc, dễ hiểu hơn so với Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh và Nguyễn Thế Hoàng Linh. Chính sự đa dạng giọng điệu này của từng tác giả, mỗi nhà thơ đã có những đóng góp đáng kể trong tiến trình đổi mới thơ ca đương đại. Và tất nhiên, trong đó có Phạm Đương.
13/7/2021
Mai Bá Ấn
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chế Lan Viên - Nhà thơ không thể lấy kích tấc thường mà đo được! Sinh thời, Chế Lan Viên đã nhiều lần như ông Trạng xứ ta làm tôn quốc t...