Hà Nội - Văn hóa và phong tục 2
Chương II (B)
VĂN HÓA TẮM
Tắm cũng thiết yếu như ăn, uống, ngủ, yêu, vui chơi v.v… Từ
thượng cổ đến giờ, tắm được coi như sự săn sóc, vệ sinh thân thể con người, làm
cho các giác quan được tỉnh táo, hài hòa. Tắm còn có nghĩa làm cho thân thể và
tâm hồn trong sạch, như được sống và tươi tốt trở lại. Do đó, tắm lại có nghĩa
thiêng liêng. Tắm thỏa mãn sự thư giãn, sự trở về cội nguồn hoan lạc, yên ổn,
âu yếm, vuốt ve… Tắm thầm nhắc đến sự lặn, ngụp và xua đẩy những cặn bã của sự
mệt nhọc. Trong Truyện Kiều, Thúc Sinh trở về quê sau một chặng đường gió bụi.
Hoạn Thư đã chuẩn bị cho chồng "Tẩy trần vui chén thong dong" và một
bữa tắm "tẩy Trần". Nàng nghĩ thầm trong bụng: "Thứ nhất e kẻ
ngà ngà, thứ nhì e kẻ đường xa mới về”. Trước ngày cưới, cô dâu và chú rể cũng
tắm cầu kỳ với nước có mùi thơm của hoa mùi hoặc hương nhu thơm mát và thánh
thiện.
Giáp Tết, mọi người tắm "tất niên" để đón năm mới đầy
thanh xuân và phồn thịnh. Cũng trong truyện Kiều, còn có những dòng: "Buồng
the phải buổi thong dong Thang lan rủ bước, trướng hồng tẩm hoa Rõ ràng trong
ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên…" Cụ Nguyễn Du đã tả cô
Kiều tắm với tấm lòng nâng niu và ca ngợi cái cơ thể không có mảnh vải nào của
cô Kiều với cái đẹp tuyệt đích. Lịch sử và văn hóa Việt Nam còn ghi lại những
giờ phút tắm mát của Tiên Dung công chúa dẫn đến cuộc gặp gỡ huyền thoại mà dữ
dội với Chữ Đồng Tử. Ở các đình, chùa, trước ngày lễ và tổ chức đám rước, người
ta lấy nước giữa dòng sông về tắm cho tượng của Phật và các thần thánh. Nếu là
nữ thần thì sẽ do chị em phụ nữ đảm nhiệm việc tắm. Lẽ dĩ nhiên nước tắm phải
có mùi thơm thực vật và xạ hương. Trước khi lên đàn Nam Giao tế lễ trời đất,
vua và các quan cũng phải tắm rửa sạch sẽ. Ca dao Việt Nam nhấn mạnh: "Muốn
tắm mát lên ngọn sông đào". Người ta lại nói: "Ăn no, tắm mát, rủ
nhau đi nằm”. Đó là cái mơ ước bình dị mà sâu xa chúng ta ai chẳng qua cái đận
9-10 tuổi cởi truồng tắm trong mưa. Người ta có thể tắm ở khắp nơi: sông, suối,
ao, hồ, giếng… ở các nơi miền trung du, cách xa sông, người ta thường tắm ở giếng.
Những năm 1949 -1950, bộ đội đóng quân ở các vùng Phú Hộ, Vũ Yến, Lạn Dương rất
ngạc nhiên về phong cách tắm ở đây. Anh bộ đội tắm ở giếng. Anh ta được thành
giếng cao chừng 60 cm che chắn. Ngay lúc đó, ở thành giếng bên kia có cô gái
cũng tắm, cúi lom khom, giơ tay sang phía anh bộ đội: “Cho em xin ít xà
phòng". Anh bộ đội bối rối, liền nói: "Vâng. Tôi để xà phòng ở đây,
chị cứ dùng": Anh liền vội vàng cầm quần áo khô, trở về đơn vị với cái quần
đùi ướt sũng. Cô gái vui, hồn nhiên, gọi các cô khác ra cùng tắm. Họ cười ầm
lên, múc nước té nhau.
Ở các nơi miền núi, phong cảnh thật đẹp: mây, núi, cây răng
các cô gái Thái tắm ở suối rất tự nhiên. Cô mặc chiếc váy dài đen bóng, đi ra
suối. Nước đến đâu, váy được vén đến đấy. Ra đến giữa suối, váy được vén từ từ
lên tận đầu. Cô thỏa chí vẫy vùng với làn nước. Rồi trong quá trình lên bờ, chiếc
váy lại được kéo xuống. Lên đến bờ suối thì chiếc váy đã được buông xuống tận
bàn chân. Cả quá trình tắm là một màn múa. Cô đã biểu diễn màn múa một bông hoa
lúc tỏa ra, lúc khép lại. Cùng với cái thân thể là kiệt tác của cô, màn múa như
đã tạo ra một vẻ đẹp nín thở. Ở những chỗ ít người qua lại, các cô gái Thái
không tắm như thế. Họ cởi phăng tất cả ra, vắt váy, áo lên cành cây bên suối, rồi
trần truồng, nhảy ào xuống tắm, nô đùa với nhau. Cảnh này gọi là cảnh "tắm
tiên".
Trên đời có vô vàn kiểu tắm. Người ở cao nguyên Tây Tạng coi
việc tắm là điều linh thiêng. Họ chọn ngày, giờ tất lành, rủ nhau đi tắm. Đặc
biệt là từ ngày 6 đến 12 tháng bảy lịch Tây Tạng, mọi người làm lễ tắm. Nam, phụ,
lão, ấu cùng tắm chung với nhau ở những khúc sông, khúc suối. Với họ, tắm là
tái sinh để đón nhận những điều tốt lành mới. Họ đều không mặc quần áo gì cả.
Người ta cũng chẳng rụt rè gì mà ngắm nhìn những công trình kỳ diệu của tạo hoá
phơi bày la liệt. Như thể nhìn ngắm lá, cây, hoa cỏ vậy. Họ tin rằng sau khi tắm,
những cô gái không xinh cũng trở nên nhan sắc. Người ấn Độ cảm thấy rất hạnh
phúc khi được tắm nước sông Hằng lúc mặt trời mới lên, đó đúng là giờ phút linh
thiêng. Tắm xong họ lên bờ, múa hát như điên dại rồi lại xuống tắm. Cứ như vậy
nhiều lần.
Ở Nhật Bản có nhiều nhà tắm công cộng. Trước đây, cả nam lẫn
nữ cùng tắm chung. Nhà tắm công cộng ở Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng thế giới từ mấy thể
kỷ nay. Nhưng buồng tắm sang trọng có các cô gái phục vụ rất ân cần. Nhưng rất
đắt tiền vì những buồng tắm kiểu này cũng là những nơi ăn chơi rất mực mà cũng
phong tình rất mực. Trung Quốc còn giữ lại được di chỉ các khuôn viên những bể
tắm phù hoa của Dương Quí Phi, Đường Minh Hoàng và bãi tắm của Tây Thi. Người
Trung Quốc gọi các cô gái đang tắm là những bông hoa đăm nước: "tẩm
hoa". Xưa nay, các nhà thơ, hoạ sĩ nổi tiếng trên đời đều trân trọng đề
tài về những cảnh tắm và đã có nhiều bài thơ cũng như những bức tranh bất diệt
về tắm.
Có những kiểu tắm như tắm rượu, tắm sữa, tắm dầu, tắm nước dừa,
tắm sữa dê có xạ hương, tắm bia, tắm nước trà, tắm trong bồn tắm băng vàng, tắm
hơi v.v… Các cô dâu Italia thường đi tắm ở những đoạn suối mà ngày xưa các vị
thần đã tắm. Khi ra về, cô đinh ninh là mình không phải là người trần thế nữa,
rồi mới về nhà tiếp chú rể. Khánh du lịch nước ngoài đến Việt nam thường ao ước
được đến tắm tại những khúc suối huyền thoại ở Mộc Châu, Sơn ra…
VĂN HOÁ THUYỀN
Chiếc thuyền là linh hồn muôn thuở của sông nước, cho nên,
con thuyền gắn bó khăng khít với văn hoá của cộng đồng. Người được gọi là
"sông nước, đò giang đã từng" là con người từng trải, xuôi ngược. Ở
nước ta, nơi nào cũng có bóng dáng những con thuyền: thuyền Nghệ An, thuyền
đuôi én Tây Bắc, thuyền miền chiêm trũng, thuyền tam bản, thuyền sông Hương
thuyền chùa Hương, ghe trên sông nước Cửu Long, thuyền buồm Hạ Long, thuyền
mành, thuyền thúng, thuyền độc mộc sông Đà, thuyền Vác, thuyền Đinh, thuyền phiến…
Thời đánh Mỹ, có con đò của mẹ Suốt. Đò với thuyền là một, có
điều chúng khác nhau về kích thước, cách bố trí, cấu tạo và hoàn cảnh mà thôi.
Hình ảnh con thuyền rất đẹp và nên thơ, bay bổng. Ta thử tưởng tượng xem, nếu
trên mặt Hồ Tây mênh mông mà không có mấy con thuyền thấp thoáng thì cảnh đẹp
cũng bị kém đi. Có những ngày mưa, nhà thuyền Hồ Tây nghỉ Những chiến thuyền bị
buộc vào cột, sóng đánh bồng bềnh, xích kêu loảng xoảng, gợi nhớ đến cái cảnh:
“Thuyền buộc sông mưa, ngựa dừng trang khuyết" trong thơ cổ. Tuổi ấu thơ,
các em bé thả thuyền giấy xanh đỏ để rồi những con thuyền thần kỳ ấy sống trong
tâm tưởng cái em cho đến khi già.
Thuyền chùa Hương đưa khách vào Thiên Trù, hoa gạo trên cây
rơi xuống làm cho con thuyền và cảnh sông nước chùa Hương cũng đẹp hơn lên.
Thuyền trong thơ Nguyễn Công Trứ được tả: Lênh đênh một chiếc thuyền nan. Một
cô đào hát, một quan đại thần. Con thuyền chăm chỉ: “Thuyền đi xuân sớm, thu
chiều. Nắng trang nghiêm hạ, mưa tiều tuỵ đông”… Người Nghệ Tĩnh hát rằng:
"Hoa đến kỳ thì hoa phải nở, Thuyền đầy người thì thuyền phải sang sông, Bắt
được duyên thì em phải lấy chồng"… Con thuyền là thân phận: "Thân em như
chiếc bách giữa dòng". Rồi: "Đời em, sông cái, chiếc thuyền
nan". Người con gái đi lấy chồng trong thơ Nguyễn Bính đã dặn cô em gái:
"Chị giờ sống cũng như không.
Coi như chị đã qua sông đắm đò!"
Trong Truyện Kiều có viết:
"Thuyền tình vừa ghé tới nơi
Thì đà trâm gãy, bình rơi bao giờ!"
Nghĩ cho cùng, mỗi con người là một chiếc thuyền tình. Con
thuyền tâm sự: "Bén hơi chỉ một chuyến đò Anh xẩm hát", "Lời
phân ly em chưa cạn, mà con thuyền nó đã quay đi”. Có người lại nói: "Em
như chiếc lá ngược xuôi giữa dòng". Cô gái trách chàng tai: "Có lần
anh muốn sang sông. Anh ưng anh để con đò đi mất". Và cứ chiều chiều, anh
lại hát khúc suông hời. Nhưng chính người con gái lại tự cho mình là chiếc thuyền
bị lật giữa trường giang dông bão.
Con thuyền gắn bó với sự phân ly, nhớ nhung. Trong sách Quốc
văn giáo khoa thư lớp dự bị những năm 1938-1939 có tả: "Ôi cảnh biệt ly
sao mà buồn vậy với minh hoạ một người trên bờ, kẻ ở dưới thuyền đứng nhìn
nhau. Cũng có cảnh như người lính thú đời xưa từ biệt vợ: “Bước chân xuống thuyền
nước mắt như mưa”. Nhà thơ nặng tình: "Em tiễn chân anh đến tận thuyền”. Lại
nữa: "Người ở bên sông, đứng đợi đò". Non khóc mưa xuân nước đợi thuyền.
Thuyền hoa, son phấn đợi…" Nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết về tâm sự của chiếc thuyền:
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh Giữa dòng nước cuộn hoá lênh đênh Lưng khoang
tình nghĩa giường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. Con thuyền cũng vô
cùng anh dũng. Năm 1952, một số chiến sĩ cách mạng Việt nam bị nhà cầm quyền
Pháp bắt giam ở nhà tù Côn Đảo đã bí mật đan thuyền bằng nứa và trám thuyền bằng
nhựa cây để trốn khỏi Côn Đảo về với phong trào cứu nước. Chẳng may, sóng gió lớn
thuyền lại không đạt yêu cầu kỹ thuật nên đã bị đắm. Họ đã hy sinh. Mồ của họ
là biển cả.
Những năm chống Mỹ, nổi lên hình ảnh bà mẹ Suốt lái đò chở bộ
đội và dân quân qua sông Nhật Lệ ngày đêm, coi bom đạn của giặc như những trận
mưa mà thôi. Để phục vụ chiến dịch, những ghe, thuyền miền đồng bằng sông Cửu
Long và ở các kênh, rạch Nam Bộ đã trở nên những đoàn quân vận tải khổng lồ,
hùng hậu, góp sức vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Những con thuyền đã
ghi một nét son vào lịch sử dân tộc.
Trong tín ngưỡng dân gian, còn lưu truyền bài văn chầu bà Mẫu
Thoải kèm với những nét diễn xướng chèo đò: "Lênh đênh một chiếc thuyền rồng.
Khi êm trôi, cô bẻ lái, lúc sóng to… cô cầm vững tay chèo… lên tiếng hò
khoan"… Người ta còn có rất nhiều câu cửa miệng về con thuyền: "Sông
sâu chớ lội, đò đầy chớ qua", "Thuyền theo lái, gái theo chồng",
"Cây đa, bến cũ con đò năm xưa”, "Nước }ên đến đâu, thuyền lên đến đấy”,
Đò dọc quan câm, đò ngang không chéo, "Ngồi thuyền rồng, không chồng cũng
hỏng". Lại nói một chút về con đò Trương Chi - chàng lái đò nghèo nhưng thổi
tiêu thật hay. Nàng My Nương mê tiếng hát của chàng. Họ yêu nhau. Nhưng vì sư
chênh lệch quá xa, cũng như có sự can thiệp quyền uy mà họ không lấy được nhau.
Chàng Trương Chi trẫm mình xuống dòng sông. Hồn chàng nhập vào cây gỗ bạch đàn.
Người thợ tiện lấy khúc gỗ bạch đàn duyên nợ này về tiện một chiếc chén uống
trà, dâng lên quan tể tướng, là cha đẻ của nàng My Nương. Đêm khuya thanh vắng,
nàng My Nương róc nước trà vào chén thì thấy chiếc đò bơi trong chén cùng anh
Trương Chi ngâm khúc tâm tình. Nàng rỏ mấy giọt nước mắt xuống làm tan mất chiếc
thuyền tình Trương Chi. Nàng muốn chết theo con thuyền. Đó là một trong những
câu chuyện đẹp nhất của tình sử Việt nam. Tổ tiên của chiếc thuyền là mảng, bè,
thuyền độc mộc. Chính những con thuyền còn làm giàu cho phôn-cơ-lơ bằng cách
làm nảy sinh ra một số những làn điệu “đò đưa” sóng sánh. Đất nước chúng ta nhiều
biển, sông dọc ngang. Những con thuyền bình thường làm ăn chăm chỉ và giữ nước.
Thuyền An Tiêm chở dưa đỏ, con thuyền Trương Chi… là những hình ảnh và tâm tình
đằm thắm của dân tộc chúng ta.
VĂN HOÁ ĐŨA
Cô gái vừa mới về nhà chồng, còn e ấp. Lần đầu tiên ngồi vào
mâm cơm của gia đình nhà chồng, bà mẹ chồng bảo cô gái: "Con so đũa cho em
đi”. Đôi đũa là cả sự thiêng liêng của cái buổi ban đầu.
Người ta đon đả mời một người khách vào ăn cùng: "Vào
đây nào, thêm bát thêm đũa mà, ngại gì". Bạn bè then thiết khuyên nhau:
"Năm nay, ông bà cũng cố lo cho cháu X. đi, cho nó như đũa có đôi mới ổn
được”. Cần phải “trả đũa” nghĩa là phải có hành động đáp lại cái hành động mà
người ta đã tác động đối với mình. Có người khoe: "Tôi đã ăn mòn bát mòn
đũa ở cái làng Mông Phụ đó, làm sao tôi không yêu nó chứ!". Ca dao có câu:
Bây giờ chồng thấp vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng
Lại như: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh"? Đũa còn
biểu hiện sự gắn bó: "Bao năm bát đũa bỏ nhau sao đành". Đòi hỏi quá
cao, được cho là: "Đũa mốc chòi mâm son"? Bà lão bảo: "Nó ăn phải
đũa bọn láo toét nên mới hư hỏng như vậy". Vợ chồng không hoà thuận gọi là
cái cảnh: "Đũa chẳng ra đũa, bát chẳng ra bát". Đũa cả là đôi đũa lớn,
dài, bẹt, dùng để ghế cơm, xới cơm. Có nơi gọi là đũa cái, đũa mẹ. Đũa dùng để
ăn rượu nếp nhỏ và ngắn hơn đũa thường. Đũa bông là đôi đũa được vót 7 hoặc 9
ngấn lởm chởm, rồi cắm lên quả trứng luộc trên bát cơm cúng người chết. Trong
những bữa ăn tiệc lớn ở cung đình, có một chức quan riêng phụ trách việc phát
đũa cho từng người dự tiệc, gọi nôm là quan đũa, là chuyên viên của mật vụ. Đôi
đũa thật thân tình và năng động. Chúng có thể gắp khuấy, vớt, rẽ, gỡ… thức ăn,
rồi đưa lên miệng tiện và gọn nhẹ, dù thức ăn ở dạng nào: rắn mềm, dai, cứng
v.v… Chúng là sự kéo dài của 5 ngón tay. Người dùng đũa chỉ cần một bàn tay mà
thực hiện được đủ mọi động tác trong khi người châu Âu phức tạp hơn, bữa ăn của
họ cần đến cả dao và dĩa. Trong việc dùng đũa, người ta tránh những hiện tượng
như: chống đũa xuống mâm; đũa chiếc dài, chiếc ngắn; gắp thức ăn quá nhanh hoặc
liên tục; gõ đũa lên mâm bát lanh canh; dùng đũa gắp cặp díp, bới món ăn, múa
đũa, khoắng canh v.v… Ở nước ta, có nhiều loại đũa: đũa mộc, đũa tre, đũa sơn,
đũa ngà, đũa mun, đũa nhôm, đũa bạc v.v… có những đôi đũa cầu kỳ khắc chữ Thọ,
hoặc tên họ như chữ Trần, Phạm… có khi lại sơn hình hoa lá. Một bó đũa thường
là 10 đôi hoặc 12 đôi.
Đũa tre là thông dụng, phổ biến và rẻ nhất. Các thầy tướng
xưa bảo: Người cầm đũa bằng ba ngón tay là người dễ tính, cầm bốn ngón là người
có lòng nhân từ, cầm năm ngón là người giỏi giang, thận trọng. Xưa ở xóm Linh
Quang (Cuộng), nay ở vào phố Trần Quý Cáp, sau ga Hà Nội, là cả một phường làm
đũa, có phố Hàng Đũa. Nơi đây sản xuất đũa, đưa đi bán khắp nơi. Ngày nay, việc
sản xuất đũa đã được công nghiệp hoá. Năm 1990, Việt nam xuất khẩu đũa sang
Rumani. Công ty kinh doanh đũa là SADAU của Sài Gòn Đắc Lắc đã ký kết liên
doanh với Đài Loan một hợp đồng sản xuất đũa trong 10 năm. Năm 1992, ta đã xuất
khẩu sang Đài Loan 700 triệu đôi đũa tre. Năm 1993- 1994, ta đã xuất khẩu 3 triệu
đôi đũa bồ đề (bằng gỗ bồ đề)… Đũa được dùng ở Trung Quốc đã 8.000 năm. Người
Triều Tiên thích đũa kim loại. Đũa Nhật Bản ngắn hơn đũa Việt nam. Trung Quốc
cũng có đủ loại đũa như ở nước ta. Có những đôi đũa được chạm, khắc rất tinh vi
mang cả những tình tiết trong các pho truyện cổ cô dâu Trung Quốc đi lấy chồng
mang đôi đũa quý của mình về nhà chồng. Năm 1995, ở Thượng Hải đã mở nhà bảo
tàng đũa. Triển lãm lần đầu đã trưng bày 1.200 đôi đũa Trung Quốc với 800 loại
khác nhau. Có cả những đôi đũa rất quý bằng ngọc bích, bạc, vàng có chạm khắc
những bức tranh cổ và những chữ viết thảo của các danh nhân. Người ta giữ lại
được cả những đôi đũa bạc từ thế kỷ 17. Ngày mồng 4 tháng tám, ở Nhật Bản, mọi
người sống trong bầu không khí náo nhiệt của ngày hội đũa. Trong ngày hội, có
nhiều cuộc tế lễ rước, tỏ lòng biết ơn thần đũa đã phục vụ con người hạnh phúc.
Cũng có nhiều trò chơi giải trí. Những năm 710 đến 794, đũa mới chỉ được sử dụng
trong cung đình. Sau đó đến các gia đình quý tộc, rồi mới đến bàn dân. Cứ đến vụ
xuân (tháng tư), nhân dân có tục lệ thay đũa mới. Người Nhật thường dùng đũa
làm bằng gỗ bạch dương. Trong cung đình chỉ dùng đũa có một lần. Sau này, trong
dân cũng hình thànhtập quán này. Đũa của nhà vua ngắn, của các quan dài hơn một
chút. Đũa của dân thì ngược lại. Đũa của cha mẹ dài hơn của các con. Đũa của chồng
dài hơn đũa của vợ. Đôi đũa gắn bó thân thiết với đời sống của mọi người. Chúng
ăn đời ở kiếp với mọi người. Chúng là họ hàng của văn hoá ẩm thực. Chúng đóng
góp một nét đẹp trong nền văn hoá truyền thống dân tộc.
CÁI QUẠT
Từ phương Đông, cái quạt du nhập sang phương tây. Châu Âu máy
móc và lý trí gọi cái quạt là chiếc bình phong nhỏ di động, dùng để quấy đảo
không khí, làm cho mát. Châu Âu cũng có nhiều quạt. Đặc biệt, giới quý tộc dùng
nhiều quạt rất cầu kỳ vì họ coi chúng là một loại đồ trang sức năng động và tế
nhị: quạt có đăng ten, quạt lụa màu, quạt có gương, quạt có đá quý quạt đồi mồi
v.v… Phụ nữ và nhất là các bà mệnh phụ hay dùng quạt để nhìn kỹ một hiện tượng,
dáng nét nào đó mà vẫn không trắng trợn hoặc sỗ sàng. Trong các màn trai gái
yêu nhau kiểu mèo vờn chuột, cái quạt lẳng lơ đã thể hiện được nhiều điều xuất
sắc Chiếc quạt mở ra một phần hay toàn phần che ngang bộ ngực thiếu nguỵ trang,
cầm ngược, cụp lại xòe ra từ từ, huơ lên, hạ xuống v.v… đều là những tín hiệu
quan trọng mà chỉ người trong cuộc mới giải mã được. Cái quạt còn dùng để nguỵ
trang, đánh lừa, nũng nịu đối phương. Tại bảo tàng Louvre (Pháp) có lưu trữ nhiều
loại quạt của thế kỷ 17, 18. Bảo tàng Manhattan giữ nhiều bức danh hoạ có các
thiếu nữ cầm quạt của nhiều thời đại. Bức nổi nhất là bức "Cô gái cầm quạt"
của hoạ sĩ Barthe Marisat. Bức hoạ này vừa được lưu ý về cô gái đang ở trạng
thái nóng nực, vừa được lưu ý về cái quạt được xoè ra, say sưa hết cỡ.
Nước ta là một trong những quê hương của cái quạt. Ở Hà Nội
xưa, tại phố Hàng Quạt có đình Phiến Thị (chợ quạt), cũng gọi là đình Hàng Quạt,
có thờ tổ sư nghề làm quạt họ Đào, người làng Đào Xá, Ân Thi, Hải Hưng. Chính
dân Đào Xá đã ra Kẻ Chợ lập phường làm quạt và dựng lên ngôi đình này. Gần đây,
quạt Hưng Yên, quạt Phù Ủng, quạt Hữu Bằng (Lúa)… là có tiếng nhất. Có rất nhiều
loại quạt: quạt trầm hương, đồi mồi, lá nan, lông gà… Quạt hầu bóng, quạt thằng
Bờm, quạt lễ quạt rước quạt tiến, quạt kéo, quạt thước v.v… Quạt kéo có cánh
1m80 x 0, 70m, lợp vải và có hệ thống dây cho một người kéo, làm mát được không
gian rộng. Nó xuất hiện ở Hà Nội từ năm 1914. Quạt thước dài chừng 45cm dùng
cho những người có tuổi ở nông thôn. Nó vừa che nắng vừa che mưa, đuổi chó. Cho
nên, còn gọi là quạt đánh chó. Năm 1944, nhà văn Nguyễn Tuân mặc áo gấm, khăn
đóng, tay cầm cái quạt thước to xòe ra, vào quán TAVERRNE ROYALE, được mọi người
xúm xít lại nhìn ngắm, trầm trồ. Đặc biệt là những khách người Pháp đánh giá rất
cao cách ăn mặc này kèm cái quạt thước độc đáo.
Nói về cái quạt, chỉ cần đọc bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
là đủ:
Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự ngày xưa
Chành ra ba góc, da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Thì thào ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
Chuyện chị em chỉ nói nhỏ được với nhau gọi là "chuyện
sau cái quạt". Đơn vị bắn pháo cao xạ đầu tiên của Việt nam đã ra lệnh:
"Bắn rẻ quạt" tức là bắn toả để đạn rải ra, chặn máy bay địch. Ở một
vài cấu trúc chạm trổ trong những đình chùa có những chi tiết từ không gian hẹp
mở ra không gian rộng gọi là chi tiết rẻ quạt. Người con lấy làm sung sướng được
săn sóc mẹ trong những lúc nóng bức cũng như những lúc lạnh lùng được gọi là
"quạt nồng ấp lạnh". Người con trai được quạt cho người con gái hoặc
ngược lại, người cầm quạt cảm thấy mát mẻ hơn người được quạt: Dễ ai rấp thảm,
quạt sầu cho nguôi. Cái quạt giấy Việt nam, dù to dù nhỏ bao giờ cũng chỉ có
17, 18 nan. Chưa bao giờ có quạt 16 hoặc 19 nan. Hồ Xuân Hương đã rất đúng khi
viết:
Mười bảy hay là mười tám đây!
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Tình yêu của đôi lứa đến mức: Để cho cái quạt long nhài là đến
cái mức tan nát, vô phương cứu chữa. Vị trọng tài cao quý của võ sĩ Sumô Nhật Bản
tay cầm quạt chỉ huy, ra lệnh, chỉ định người thắng, kẻ thua. Nó đại diện cho
quyền uy và chân lý. Trong những cuộc múa Chăm của đồng bào Chăm, múa quạt là một
đỉnh cao. Cái quạt trong tay các vũ nữ là con công, gà, phượng, rồng, bướm, là
gió, mây, là tất cả… Vai giáo đầu của chèo bao giờ cũng cầm cái quạt trong tay
để giãi bày, giở bài thơ ra ngâm, hơi che mặt nghiêng nghiêng làm duyên. Khi
thi đỗ, Lưu Bình trở về thấy người yêu đã biến mất. Trong tay cầm cái quạt
không biết mở ra hay cụp vào. Chàng bỗng vung quạt lên và ngâm một câu "sổng"
bất hủ và ngơ ngác: Nàng bỏ đi đâu? Phòng loan lạn li ngắt… Trong vở "Tuần
ty đào huế" anh Tuần Ty trong tay chỉ có một cái quạt. Bên anh ta là vợ
chính thức và người vợ "nhặt" yêu quý đang đánh ghen với nhau. Anh phải
can ngăn dàn xếp. Cái quạt đã giúp anh che bên nọ, chắn bên kia. Cái quạt đã
giúp anh lột tả được những giây phút bối rối, năn nỉ, bực mình, vui vẻ, hối hả,
dàn hoà v.v… Cái quạt thật trung thành với anh. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng thề
bồi với cô Kiều cũng xòe quạt. Quạt này gọi là quạt thề, quạt ước. Nó giúp chủ
nó thể hiện trạng thái tâm hồn vui sướng hay sầu muộn, điên loạn hoặc mơ hồ hoặc
chói chang sắc lạnh. Có lúc lại chập chờn mê sảng. Cái quạt có giá trị biểu đạt
rất lớn trong nghệ thuật chèo vì nó được sử dụng triệt để. Cái quạt Việt nam vừa
được dùng để quạt mát vừa là vật trang trí rất quan trọng và thật đáng yêu. Thật
vậy cái quạt giấy 1 7 hoặc 18 nan được nhuộm bằng nước vỏ cây với màu hồng nâu
nhạt thân thiết của Hưng Yên hay Hữu Bằng (Lủa) vẫn có duyên nhất, phổ biến nhất,
tiện dụng nhất: Hồng hồng má phấn duyên vì cây Chúa dấu, vua yêu một cái này…
CÁI VÕNG
Cái võng là từ cái thuyền linh hồn của sông nước mà ra. Võng
liên quan đến trẻ thơ, thời thơ ấu, sự bú mớm; lời ru ạ ời; sự chăm sóc ân cần
và vồ vập của người mẹ đối với đứa con. Câu “Ba gian nhà nhỏ đầy tiếng võng biểu
thị không khí ấm cúng, thân thương tha thiết của gia đình Việt nam. Nhà nào có
tiếng võng kẽo kẹt là eo niềm vui sinh sôi. Với tiếng võng bay bổng, bà ru cháu
trong trưa hè vời vợi là cả hình ảnh và âm thanh không thể nào quên trong một đời
người. Những giây phút hạnh phúc nhất của người mẹ khi con còn nhỏ là ru con ngủ.
Đã có bà mẹ ở trạng thái điên loạn khi đứa con nhỏ bị chết, cứ đu đưa cái võng
không. Cánh võng không trẻ, cũi không chỉ là cái cảnh đau buồn. Chiếc võng đầy
lời ru đẹp, êm ái lấy trong ca dao. Từ những năm 1935 trở về trước, ở các gia
đình Việt nam, nhất là ở nông thôn, nhà nào cũng có 1 đến 2 chiếc võng, có nhà
thơ đã viết:
Những trẻ nhỏ nôi đưa hay nằm võng
Sớm hay chiều đều mượn cánh cò bay…
Cái võng giản dị, được đan bằng sợi đan se kỹ, dài chừng hơn
2 mét, rộng chừng 1 mét rưỡi, dễ dàng giăng rộng ra và nó tự động cụp lại. Thân
võng kết thành những hình thoi gọi là mắt võng. Hai đầu không kết lại mà là những
sợi dây hợp lại tạo thành một cái vòng hình bầu dục. Vòng hình bầu dục này là đầu
cùng của võng được mắc vào một miếng gỗ có đường rãnh loam sâu xuống gọi là guốc
võng. Một sợi dây thừng thật chắc có hai đầu. Một đầu buộc vào cột nhà, một đầu
khác buộc vào guốc võng. Người ta giăng võng ra, nằm xuống và đưa đi đưa lại.
Cái võng cũng là phương tiện gọn nhẹ để được thư giãn một cách lý tưởng. Đã nằm
võng, hoặc ít hoặc nhiều, đều phải đưa cho thoáng mát. Đã có anh chàng nghiện
rượu thách mọi người:
Đố ai đánh võng không đưa
Ru em không hát, anh chừa rượu tăm…
Và anh ta luôn nắm phần thắng. Có nhiều loại võng: võng tiến
vua, vông đào (điều), võng đơn, võng kép, võng dân dã, võng nhà quan, võng mộc
v.v… Thời hậu Lê, có loại võng giống kiểu cái cáng của đội quăn dưới thời vua
Quang Trung đã giúp đỡ nhiều cho cuộc hành quân thần tốc lịch sử. Nhất là trong
các cuộc trường kỳ chống pháp, bộ đội và dân quân ta đã dùng võng để tải thương
binh, chuyển lương thực, phương tiện phục vụ chiến đấu. Những chiếc võng thừng
đang dần dà được thay thế bằng những chiếc võng vải buộc dây dù. Những chiếc
võng này thật kỳ diệu và thiêng liêng. Vải võng là chiến bào, còn dùng để liệm
khi người chiến sĩ ngã xuống: "Ao bào thay chiếu, anh về đất”? Và đất mẹ
gào lên, nhận đứa con yêu quý trở về với đất trong bom đạn. Cái võng trở thành
một bản hùng ca không bao giờ quên của dân tộc, bản hùng ca thế kỷ.
Trong cuộc kháng chiến. chống Mỹ, giữa rừng mưa bom đạn ở Trường
Sơn, tình yêu của những người lính trẻ gắn liền với những kỷ niệm của một thời
không bao giờ quên: "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, hai đạn ở hai đầu
xa thẳm“. Chiến tranh đã kết thúc được hơn hai mươi năm, những người chiến sĩ của
một thời bom đạn nay trở lại chiến trường xưa để tìm hài cốt đồng đội đã bật
khóc khi thấy cảnh một người lính trẻ nằm ở chiếc võng. Anh đặ hy sinh mà không
ai biết. Các đơn vị cũng đã rút lui sau một trận đánh ác liệt. Hai thân cây
trong rừng nay đã cao hơn nhiều và chúng vẫn giữ hai đầu võng, cái võng rách mướp
vẫn đu đưa theo gió.
Ngày xưa, các quan đi võng điều, có hai người lính đội nón dấu
khiêng hai đầu. Ông Nghè về vinh quy bái tổ cưỡi ngựa hoặc nằm võng. Bà Trạng
cũng nằm võng đi theo sau. Đó là: võng anh đi trước bước nàng theo sau và cũng
là cái cảnh: "Tình tang võng ngứa công hầu"? có chuyện, hai vị trí sĩ
nằm trên hai chiếc võng kề nhau do bốn người khiêng. Các vị đó hoạ thơ hoặc
đánh cờ tướng với nhau trên đường đi.
Ở các đình, chùa, các nghệ nhân đã lấy một phần hình ảnh cái
võng mà chạm trổ nên những hoạ tiết tranh trí hoành tráng rồi bơhép lại thành
cái cửa võng sơn son thếp vàng. Cái võng gắn với ca dao, với bầu sữa mẹ, với
quê hương đất nước. Nó in một dấu ấn đậm đà trong văn hoá Việt nam.
NGÕ
Các làng xã ở ta thường có những cái ngõ thân thương, ấm
cúng. Ngõ là nơi mà những người trong cộng đồng nhỏ sinh sống, đi lại, giao tiếp
với nhau. Nó cũng có tâm hồn, tình cảm, có cái duyên thầm. Nhan sắc của nó có
màu dĩ vãng. Có khi nó vui hẳn lên. Cũng có khi nó ngơ ngác như qua một cuộc
phân ly. Ở nông thôn, mỗi ngõ có vài xóm. Mọi người sống với nhau, tắt lửa tôi
đèn có nhau. Cái ngõ được đánh dấu bằng một cái cổng xây đơn giản, cái cổng bằng
tre, một rặng cây hoặc một cây cổ thụ ở ngay bên cạnh. Vì vậy, có ngõ "cổng
xây", ngõ "gốc gạo"…
Ở làng Bưởi, khoảng giữa làng Nghĩa Đô và làng Dâu có một cái
ngõ mà khắp vùng đều biết tiếng. Đó là ngõ Noi. Nó ăn sâu hun hút vào con đường
dẫn tới làng Cổ Nhuế. Nó đã nổi tiếng từ lâu về vẻ đẹp của nó. Nó hình thành bởi
hai rặng tre xanh tươi bám chặt lấy nhau, chồng chéo lên nhau ở bên trên, để lại
một con đường nhỏ dài chừng 100 mét. Những cây đầu ngõ được vít xuống như một
cái cổng tò vò, như cái cổng chào thiên nhiên hoành tráng. Những cây tre hai
bên đường rủ xuống che kín cả quãng đường vào ngõ. Đây là nơi tránh ánh nắng mặt
trời gay gắt của những ngày hè oi ả. Gió từ mọi phía thổi vào cứ mát rượi. Về
phía trái, gần ngõ Noi là một mảnh vườn xanh mướt, có những luống hoa được
trang điểm xung quanh bằng những hàng cỏ tóc tiên. Đó là vườn của nhà báo Phùng
Bảo Thạch. Ngay bên phải ngõ Noi là một cái vườn hoa lớn nhất vùng được gọi là
Vạn hoa trang, nghĩa là cái vườn này có rất nhiều loài hoa cho cả bốn mùa. Những
hoa thơm cỏ lạ đều có trong vườn này. Đây cũng là nơi gặp gỡ của những tao nhân
mặc khách. Đứng ở ngõ Noi, nhìn ra cây gạo chùa Dâu và cây đa An Phú của làng
làm kẹo mạch nha. Những ngày hè, mọi người ở xung quanh và cả những người ở Kẻ
Chợ (Hàng Ngang, Hàng Đào…) về đây nghỉ ngơi, ngắm cảnh, mua hoa. Những cặp
tình nhân cũng rủ nhau đến đây để tâm sự với nhau những lời như “Thương ai về
ngõ vắng" hoặc như: "Ngõ cũ chiều nay em lại về"… Cái ngõ Noi
này đã gây cảm hứng cho nhà thơ Hoàng Cầm có được hai câu thơ rất hay trong kịch
thơ Kiều Loan nổi tiếng của ông: Tôi đứng chờ thu xanh biếc ngõ Thấy ông ôm mặt
khóc Tần phi… Nhà văn Phùng Bảo Thạch tâm sự: "Trong lòng tôi sẵn có chất
liêu trai là nhờ có cái ngõ Noi cạnh nhà. Nên gọi nó là ngõ Tương tư mới phải…"
Hình ảnh cái ngõ chiếm một vị trí đáng kể trong quan họ. Chẳng thế mà có hẳn một
bài hát làm cho mọi người cứ thao thức. Đó là bài: "Ra ngõ mà trông…"
Người ta trông ngóng nhau, đợi nhau, đi đi lại lại, ngắm cái ngõ mà tìm nhau,
mà bồn chồn, kháp khởi, hy vọng và có lúc cũng thất vọng…Người ta dặn dò to nhỏ
với nhau ở cái ngõ. Cái ngõ gắn liền với họ. Hình ảnh cái ngõ này thật thân thiết
với họ. Ở Hà Nội cũng có rất nhiều ngõ. Vì thành phố cần phải làm nhiều con đường
to, nhỏ. Cũng cần xây dựng nhiều khu phố.
Do vậy, có nhiều khu nhà ở được mở cửa ra ngoài đường. Cũng
có nhiều cụm nhà ở phải lui vào bên trong, hình thành nhiều cái ngõ. Có những
cái ngõ được xây lên tử tế, có cổng tò vò: thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau?
Cũng có cái ngõ được đặt tên theo một bụi găng, duỗi. Ngõ Trại Găng là như vậy
có khi gọi là ngõ chỉ vì nó có con đường đi sâu vào bên trong. Ngõ Trại Găng ở
khu Bạch Mai xưa có mấy xóm gồm những người dân lao động nghèo, những phu kéo
xe, những người làm trong lò lợn thành phố. Ở đây có lò võ có phường múa sư tử
nổi tiếng, có khách sạn Đồng Lợi. Sau này bãi đua ngựa của Tây chiếm đất nên
khách sạn Đồng Lợi phải dọn lên phía nhà ga. Ở ngay gần ngõ Trại Găng là ngõ
Văn Chỉ. Một thời gian, nhà văn Nguyễn Đình Lạp ở trong ngõ này, viết phóng sự
"Ngoại ô" và một số truyện.Sau đó một thời gian, ông lại chuyển sang
ngõ Nghè Bô ở ngay bên cạnh. Nhà văn Nguyễn Đình Lạp có cô em gái thật xinh,
tên là cô Tuyên. Nhà thơ Nguyễn Bính đem lòng yêu mến cô. Ông đã đi lại mòn hai
cái ngõ này và làm rất nhiều bài thơ tại đây. Đi xuống một chút nữa là Ngõ Bò,
là nơi cư trú của nhà thơ Đinh Hùng. Đối diện với Ngõ Bò là nhà của thi sĩ Vũ
Hoàng Chương. Gần chợ Mơ có ngõ Giếng Mứt. Xưa, đây có cái giếng nước trong và
ngọt nên gọi là giếng Mứt. Ngõ Quỳnh có hồ Quỳnh, chùa Quỳnh. Ngõ Cống Trắng
phía sau Khâm Thiên ngập ngụa và lầm than. Nhưng nhà thơ đau khổ mà lạc quan Trần
Huyền Trân đã tả nó thành cái Ngõ Trúc mơ mộng, xinh đẹp và đa tình: "Ngõ
hoang đá nở dăm màu bướm Đây lúc đôi mùa đưa tiễn nhau…" Người ta gọi ngõ
Cống Trắng là ngõ "Thương cảm". Ngõ Hàng Bún, ngõ Yên Ninh xưa kia chỉ
có mấy gia đình ngâm giá bán, họ ở cùng làng với nhau rồi cùng rủ nhau ra Hà Nội.
Họ sống với nhau như ở quê nhà. Họ sang nhà nhau cứ như vào nhà mình, săn sóc
nhau, bàn nhau cách làm ăn rất thân mật. Buổi trưa ngõ yên tĩnh lạ lùng, đến nỗi
nghe rõ tiếng chim cu gù nhau. Nơi đây thật sự là cái cảnh làng trong phố.
Ngõ Chùa Liên Phái là cái ngõ ngoằn ngoèo đi ngay bên cạnh
ngôi mộ xây của cô Ba Tý, Hàng Bạc (mộ phần vẫn còn nhưng không được nguyên vẹn).
Ngõ Đồng Nhân có mộ cô Tư Hồng (nay không còn nấm mộ mà nằm vào sân Trường Phổ
thông cơ sở Bạch Mai). Hà Nội ta còn rất nhiều cái ngõ nổi tiếng đã đi vào ca
dao như: Ngõ Sầm Công, ngõ Vạn Thái, ngõ Tạm Thương ngõ Trạm, ngõ Phất Lộc, ngõ
Trúc Lạc, ngõ Sơn Nam, ngõ chợ Khâm Thiên, ngõ Cấm Chỉ, ngõ Mai Hương, ngõ Huy
Văn, ngõ Văn Chương, ngõ Hội Vũ, ngõ Thổ Quan, ngõ Trung Phụng, ngõ Yên Thái,
ngõ Trung Yên v.v…Nhiều khi cái ngõ là "quảng trường La Mã" của trẻ
em, chúng đến đây họp mặt, đùa vui, chơi bi, chơi đáo… nhất là vào những đêm
trăng cổ tích. Với người lớn, cái ngõ là nơi gặp gỡ, bàn tán một chuyện, nơi
đón nhau, nơi ly biệt nhau. Cũng là nơi hò hẹn tình tự… Vì vậy mà nó trở nên
thiêng liêng. Người ta hay nói: "Vui từ trong ngõ vui ra ", "Ngõ
nhà ai thơm ngát hương đưa”, "Ai về ngõ lạnh bước mau mau". Nhà thơ
Đinh Hùng viết:
Chuyên tâm tình dưới hoa thiên lý
Còn lối bâng khuâng ngõ trúc đào.
Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện tâm sự: "Tôi bắt đầu yêu
quý và say mê cái ngõ ở xóm tôi từ thửa bé, rồi yêu đến cái đình, cái chùa… rồi
sau này trở thành kiến trúc sư, tôi phải cảm ơn cái ngõ". Rồi đây, những
cái ngõ thân thương, rêu phong ghi kỷ niệm của nhiều mảnh đời sẽ mất dần. Chúng
sẽ chỉ còn trong sương khói ký ức. Chúng là chứng nhân lịch sử của một cộng đồng
nhỏ. Chúng ta, chẳng ai là không nhớ đến và yêu quý cái ngõ…
CHỌN HOA HÂU KIỂU TRUYỀN THỐNG
Xưa kia, đã từ lâu rồi, các hội làng đều có chọn hoa khôi,
hoa hậu, nhưng không ồn ào, nhộn nhịp như bây giờ và cũng không cần phải cân,
đo, đong, đếm.
Ví dụ như hội làng Đồng Ky chọn 16 nữ chưa chồng khiêng kiệu;
hội làng Cả ở Bưởi chọn các cô gái khiêng long đình; hội Chữ Đổng Tử tuyển các
cô gái chấp kích; hội Tràng Yên chọn 4 cô gái chít khăn vành dây vàng, thắt
lưng xanh v.v… Những cô gái được chọn kể như vào diện hoa hậu, á hậu hoặc non một
chút. Việc chọn này được tiến hành lặng lẽ.
Người ta quan sát các đối tượng được chọn hàng năm trời và có
so sánh giữa người này với người khác. Đứng đầu là một, hai vị chức sắc lịch
lãm, hiểu đời và tài hoa cùng với những vị quân sư "quạt mo" của họ.
Việc tuyển chọn được tiến hành theo các tiêu chuẩn: thanh, sắc, tài, duyên. Sắc
tài duyên thì dễ hiểu. Còn thanh thì rộng nghĩa hơn, nó gồm: nụ cười, vẻ cười,
dáng điệu, cử chỉ, đi đứng tiếp xúc v.v… và nhất là tiếng nói, cách nói năng:
Người xinh tiếng nói cũng xinh, Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn. Về sắc
nhấn mạnh vẻ đẹp hiền hậu, nhẹ nhàng như kiểu mặt Phật. Mắt phượng, mày ngài. Mắt
phải dài, sắc kiểu "nhãn trung hữu thuỷ". Lông mày phải bóng, có dáng
nét con ngài " trường mi hâu tố mao" nghĩa là lông mày dài và rõ nét
thì có hệ thống lông tóc phồn thịnh. Da trắng như trứng gà bóc, dáng cao, mỏng
mày hay hạt.
Còn trẻ tuổi mà đã mập sẽ bị coi là "gà mái đoảng”.
Chân dài sẽ nhanh nhẹn, xốc vác, thanh tao mà dữ dội về đường
chăn gối. Đẹp mấy mà chân đi vòng kiềng, chữ bát hoặc "vơ rác" không
được chọn. Mặt trái xoan dễ được chấp nhận hơn cả. Môi đỏ, mũi cao, má hồng,
răng đen đều là quan trọng. Lông mày sắc cũng được đánh giá cao:
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.
Eo thì phải thắt đáy lưng ong. Người như vậy vừa khéo chiều
chồng lại khéo nuôi con. Bụng lép, ngực cao, lưng chữ cụ, vú chữ tâm là lưng
không thẳng đuỗn, vú cao và nhọn. Trong các hội làng cũng có tuyển hoa khôi
nam. Đó là các "cô" mà người ta gọi là "Đĩ đánh bồng” do nam giới
đóng giả. Đúng ra, ngày xưa, người ta chọn 2, 3 người con trai có dáng có sắc,
nhanh nhẹn cầm cái que tròn, sơn son thếp vàng, đánh vào một cái ống kẹp bao vải
đựng bột xạ hương. Người con trai ăn mặc giả con gái đệm vú thật to, đập vào
cái bao thơm cho bột tung ra, bay lên như kiểu bây giờ vẩy nước hoa quanh kiệu
thánh cái ống thơm ấy gọi là "hinh bổng" (gậy thơm). Động tác đập vào
bao thơm gọi là đánh hinh bổng. Sau này thấy khó gọi và sai lệch chữ nghĩa mà gọi
là "nữ đánh bổng” rồi “Đĩ đánh bổng”. Cũng về sau này, người con trai giả
gái đeo trống cơm, vừa đi vừa lúng liếng. Lúc làm ra vẻ thẹn thùng, lúc làm ra
vẻ lẳng lơ.
Có một năm ở làng Cả, vùng Bưởi việc chọn những người đẹp
không được mọi người tán thưởng. Người ta nghi có ông trong ban giám khảo thiên
vị một cô gái có bộ ngực mênh mông. Sau ngày hội, đám trai làng thường kể vè:
Quan viên chẳng biết khen chê
Cứ vú ấm giỏ là phê "nhất làng.
Ạ ỜI TÌNH RU
Thu ngồi xuống ghế công viên. Chị mệt rũ qua mấy ngày nằm
trên xe lửa chen chúc, ồn ào, ngột ngạt. Xuống ga lại đúng vào lúc 1 giờ sáng.
Nghe lời khuyên của mọi người, chị ngủ gà ngủ gật cùng với một số hành khách
trong ga, đợi đến khoảng năm giờ sang mới vào thành phố. Chị phải đi một cuốc
xích lô rồi ghé vào công viên. Chị soi gương, sửa lại mái tóc, nghỉ ngơi cho tỉnh
lại một chút rồi mới tính đến chuyện đi tìm địa chỉ theo giấy giới thiệu của
anh bạn nhà báo. Chị say sưa ngắm nghía những dãy nhà cao vút, dựng lên như những
con tàu đậu bến. Những lâu đài lát đá hoa, những ngôi nhà màu sắc, sừng sững
như trong chuyện cổ tích, vườn hoa xinh xắn và mát rượi…
Tất cả đều tươi đẹp và hấp dẫn khiến chị cứ ngắm mãi không
chán mắt. Phong cảnh lạ đưa đến cho chị những ý nghĩ cảm động. Đặc biệt, đây
đúng là cái vườn hoa làm nên hai câu hát thật đẹp:
Công viên bừng trong giấc nắng.
Chuyện chúng mình ngày xưa…
Đến nhà chủ, Thu được đôi vợ chồng trẻ tiếp đãi thật ân cần.
- Mời chị. Nhà báo M.Đ giới thiệu chị đến đây với chúng tôi tức
là chị ở cấp "siêu" rồi - Anh chủ nhà nói.
Chị vợ nói tiếp:
- Mời chị vào nghỉ và coi đây như nhà mình.
Hai vợ chồng gia chủ còn trẻ. Họ tranh nhau lấy cốc chén, mở
chai nước ngọt, đưa khăn mặt cho Thu, xếp đặt hành lý và giường chiếu… Căn
phòng bỗng nhộn nhịp hẳn lên. Họ hỏi khách cần những gì để đáp ứng ngay. Họ cố
gắng làm sao để Thu được thoải mái. Ngày mai, nhà văn hoá thành phố khai mạc
liên hoan hát ru. Chị là ca sỹ được mời đến dự mà cũng là đến dự thi. Đó là một
cuộc liên hoan độc đáo, giới nhạc sĩ khai thác, nghiên cứu, sưu tầm và phổ biến
những bài hát ru ở nhiều nơi trong cả nước. Những người có tâm huyết lo lắng
nhiều về tiếng hát ru, tiếng ạ ời vời vợi muôn thuở thưa thớt. dần. Các bà, các
chị đã quên bẵng đi cái thiên sứ ru hời của mình. Tình trạng này làm cho
"đồng ruộng” di sản văn hoá của dân tộc bị bạc màu. Liên hoan được hưởng ứng
nhiệt hệt. Nhiều bà mẹ tuổi cao đến bảy mươi cũng hăng hái tham gia cùng với
các ca sỹ trẻ măng.
Nhạc sĩ X.H nổi tiếng, có mặt trong ban giám khảo cũng lên
thi mấy bài hát ru thật sâu lắng. Vé chỗ ngồi đã được bán hết từ mấy hôm trước.
Người ta phải kê thêm ghế phụ. Thu đã chuẩn bị kỹ hành trang của mình. Chị đã
có một cái vốn khá phong phú để thể hiện những bài hát ru của mình. Trong những
lần đi biểu diễn, chị đã qua nhiều nơi, học tập các cụ già, các nghệ nhân và
thuộc chừng năm mươi đến sáu mươi bài. Nhưng chị để tâm hồn nhiều vào những
cánh cò bay lả bay la hay vô tận, một vài đoạn hay nhất trong Lỡ bước sang
ngang, trong Truyện Kiều, Đồng tiền Vạn Lịch, những lời ru xa xưa mà chỉ vài
nét cũng đã gây xao xuyến lòng người như: Trèo lên cây bưởi hái hoa; Ra đường
người tưởng còn son, về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. Bao giờ trạch đẻ ngọn
đa; Bao giờ anh lấy được nàng. Trên trời có đám mây xanh… Anh Trang cùng mấy chị
hàng xóm chuyện trò với khách như thể với những người bạn quen biết từ lâu. Mọi
người hỏi chuyện xung quanh những bài hát được khen ngợi hết lời của Thu và về
cuộc liên hoan hát ru ngày mai. Từ trong bếp chị Trang nói vọng ra:
- Nem rán xong rồi đấy nhé!
Thu tưởng như lời nói của chị Trang có cả mùi thơm phức của
các món ăn đặc biệt, ăn một miếng là nhớ mãi. Cuộc trao đổi vẫn tiếp tục sôi nổi
ồn ào. Bỗng có tiếng cháu bé khóc thét lên. Chị Trang xin lỗi, vào bế con và
cho con bú. Đứa bé mọc răng. Mẹ nó ru mãi vẫn không nín và không chịu bú. Anh
Trang liền tranh lấy ẵm con, ra hiệu cho vợ tiếp khách thay mình. Anh bế đứa bé
trên tay không được gọn gàng, đu đưa một cách vụng về. Nó vẫn không nín. Anh bảo:
- Cháu nó quen bà ru cơ! Hôm nay bà cháu về quê…
Hai vợ chồng chủ nhà sốt ruột. Một phần vì đứa con khóc càng
to. Một phần ngại làm phiền lòng khách.
- Anh đưa cháu cho em nào. Em sẽ cố dỗ cho cháu nín.
Thu vừa nói vừa chìa tay đỡ lấy đứa bé. Đứa bé tưởng mình nằm
trong vòng tay của mẹ nó. Nhưng rồi nó hiểu ra, thấy mình lầm. Nó lại càng khóc
thét lên. Thu liền đu đưa đứa bé, mắt dịu dàng nhìn bé và cất lời ru vời vợi… Đồng
tiền Vạn Lịch, anh thích bốn chữ vàng. Công anh dan díu với nàng bấy lâu Bây giờ
nàng lấy chồng đâu… Khi xưa thề thốt một hai Giờ đây ghé nón ngang vai chàng
chào… Ngủ đi con… ạ ơi… Bồng bông… Bồng bồng bế bế bồng bồng. Cò con theo mẹ ra
sông đắm đò Đắm đò ướt hết thân cò Cò con cò mẹ lò dò sang sông… Giọng Thu mượt
mà. Chị thật say sưa. Trong tâm hồn chị náo nức những áng dân ca bâng khuâng,
tiếng võng trưa hè, làn gió sầu vĩnh cửu… Những cái đó chào mời sự sáng tạo,
làm cho lời ru của chị trở nên bay bổng, đượm buồn mà ngọt ngào tha thiết. Chị
hoà nháp vào tâm trạng của những nhân vật huyền ảo trong những câu hát ru truyền
qua nhiều đời người. Chị làm sững lại cái nỗi đau xót của cặp vợ chồng Vạn Lịch.
Bản thân chị cũng từng là con cò theo mẹ qua sông… Tiếng ru của chị xuất thần,
du dương hơn bao giờ hết. Thế là, từ lúc nào không biết, cả gian phòng, gian bếp
trở nên im phăng phắc, tràn ngập tiếng ngân nga trầm bổng xa xôi, mơ hồ, đắm đuối…
Mọi người bị những lời ru thôi miên đến thẫn thờ, lại thêm mấy
bà láng giềng ùa sang ngồi chật kín cả gian phòng. Chị Trang ngồi trên ghế, hai
tay bắt chéo trước ngực ngả người về phía Thu. Giọng hát xao xuyến cứ cuồn cuộn
chảy như một dòng suối, tắm cho đứa bé, làm cho nó nín bặt rồi ngủ. Sự thực,
Thu chưa có được niềm vui làm mẹ. Chị ẵm đứa bé trong tay, nhớ đến lời mẹ ru ma
tưởng tượng ra tất cả. Chị cũng nghĩ đến đứa con sau này của mình. Chị mê mệt
ngắm cái mũi Hy Lạp rất xinh, đôi môi đỏ tươi và mớ tóc đen nhánh của đứa bé.
Chị sung sướng đến cực điểm được biết là việc biểu diễn của mình đã ru được đứa
bé tiên đồng ngủ ngon giấc.
- Ôi sao cô hát hay thế.
- Mai vào thi, cô định hát bài gì nào? Chắc là cô phải đoạt
giải nhất. Cô hát hệt như mẹ tôi ru tôi ngày xưa, có điều hay hơn nhiều - Bà Ba
xuýt xoa khen rồi đến nắm lấy tay Thu.
Bà ngẩn ngơ lần cổ tay, vuốt tóc vỗ lên vai Thu. Chị ca sĩ
cũng bâng khuâng như người say rượu chẳng nghe thấy tiếng mọi người khen ngợi
mình: Chị nhấm nháp cái nỗi mềm hưng phấn âm thầm mà dữ dội do đứa bé mang lại.
- Cô ơi! Ngày mai cô cứ hát những bài ru này. Tiếng hát có thể
ru ngủ được các cháu bé và ngay cả người lớn nữa. Người lớn cũng cần ru đấy - Một
bà khác nói.
- Thu ơi! Hôm nay chị ru được cháu ngủ, nhưng ngày mai trở
đi, khi chị trở về nhà thì ai ru được cháu nhỉ?
- Em sẽ dạy chị - Thu cười, tươi tắn mà mơ màng.
- Chị có thể dạy tôi nhớ lời ru. Nhưng cái giọng hát, làm sao
tôi có được? Và cả cái dáng dấp ru cháu?… Sẽ có băng cát sét giúp chị thêm.
- Không được đâu…
Mấy hôm sau, đứa bé nằm trong lòng mẹ. Nó áp mặt vào bầu vú mẹ
nó, nghe những lời hát ru qua băng cát sét ghi những tiết mục hát ru của buổi
liên hoan. Trong đó, có mấy bài hát ru do Thu biểu diễn. Ôi? Chỉ mấy bài hát ru
nhẹ nhàng ấy mà có đủ cả đêm trăng sáng, bụi tre xào xạc, lời trao duyên rồi
trách móc, hờn dỗi, đằm thắm, tha thiết, trao tình… Bao nhiêu hình ảnh và âm
thanh cứ xoắn lấy nhau mà bập bềnh trôi nổi… Tuy cũng vẫn cái giọng của Thu,
nhưng không hay được bằng cái buổi Thu ru cháu nhỏ con chị Trang ạ ời tình ru sẽ
còn mãi vơi thời gian
NHỚ MỘT LỜI RU
Đó là vào khoảng năm 1949, đường qua ghềnh Quệt Tuyên Quang
thường có nhiều người đi qua. Họ là những bộ đội, cán bộ đoàn thể, những người ở
dưới xuôi lên. Họ đi men theo bờ con sông Lô, đi mãi vào sâu trong phía rừng,
qua một trại làm giấy mới dựng lên của những gia đình người làng Bưởi. Từ chỗ
này, họ lại toả đi nhiều nơi: Chiêm Hoá, Cầu Hai, Quảng Nạp, quán ông già… Người
ở phía trên đi xuống, người phía dưới đi lên, cứ nườm nượp. Họ đều phải nguỵ
trang bằng lá cây, cành cây. Bên những quãng đường mới hình thành này mọc ra mấy
cái quán nhỏ đơn sơ. Đó là những quán nhỏ để người qua lại dừng chân uống bát
nước, ăn quà bánh hoặc hút điếu thuốc lào. Cũng có người uống một, hai chén rượu
trắng gọi là có chút "phừng phừng" để hăng hái lên đường. Nghỉ ngơi
xong, họ đi tiếp. Vui nhất là khi có một nhóm "tuyên truyền" sà vào
quán. Nam có, nữ có, họ mang theo mấy cây đàn, cây sáo, cười cười nói nói… Họ
hát những bài ca kháng chiến và láy đi láy lại những đoạn:
Ngàn bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi… vang lửng câu quyết chiến…
Bước ta đi… theo tiếng xuất quân oai hùng…
Quê hương ta… đẹp lắm…
Mọi người đều xúm lại, vây lấy cái quan Họ hát theo vào, cùng
vỗ tay. Trẻ có, già có. Nhạc sĩ Bùi Công Kỳ ôm đàn ghi ta, nhảy ra ngoài, trình
bày bài hát: "Ta là gươm tráng sĩ… "? Anh được hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một lúc, nhóm tuyên truyền phải lên đường ngay. Người đi, kẻ ở nhiệt tình vẫy
tay, chào hỏi nhau, hẹn gặp lại như những người đã thân thiết từ lâu… có những
buổi yên ả, bờ sông vắng, quán thưa khách. Chị chủ quán "nghiệp dư"
lui vào phía liếp bên cạnh, nằm võng ru con. Chị đưa võng, kẽo kẹt, ru con bằng
đủ các làn điệu. Chị cũng ru cả chính trị nữa với cái giọng trầm trầm rất “truyền
cảm. Nào là những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều, Lỡ bước sang ngang… Nào là
những bài ca dao chấp chới những cánh cò cánh vạc…có lúc chị nhắc đến một vài
nơi thân yêu của chị:
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu, nạm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò…
Rồi đến:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng…
Hỏi ra mới biết, chị là người ở phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội lên
đây. Chị có dáng một cô giáo tản cư, sắc sảo hiểu biết rộng, nhẹ nhàng lịch thiệp.
Chị có cái vẻ đẹp của nhiều nơi cộng lại. Các chú lính trẻ rất kính mến chị,
luôn giúp đỡ chị. Họ phát hiện ở chị có nhiều điều bí mật đáng quý. Chị là người
Tày, nhưng chị sinh ra ở Lạng Sơn mà được ăn học tại Hà Nội từ bé. Vốn liếng tiếng
Pháp của chị khá tốt. Chị hay đọc sách. Lại một điều bí mật nữa, chị là con một
viên quan cấp cao của chế độ cũ. Nhưng ông cụ lại được cách mạng giác ngộ và đi
theo kháng chiến. Tổ tiên của chị làm quan triều Lê, được triều đình cữ lên cai
quản miền núi và trở thành những người con xứ Lạng… Chị giúp đỡ trông nom việc
gia đình cho chồng miệt mài vào những công việc của kháng chiến. Chồng chị là một
cán bộ cao cấp của Chính phủ Cụ Hồ. Ông rất có uy tín với nhân dân trong nước
và cả nước ngoài. Ông lại là một học giả trẻ… Chiều hôm đó, quán đỏ lửa. Tôi đến
chào chị để đêm đi. Công tác theo đơn vị. Lẽ dĩ nhiên là phải giữ bí mật. Tôi lặng
lẽ bước vào quán, thấy chị đang thiu thiu, mơ màng, nửa thức nửa ngủ… Tôi ngồi
yên, tôn trọng những giây phút này… Chị cất nhẹ lời ru:
Non sông kháng chiến trường kỳ
Mẹ theo tiếng gọi…õ.ơ… quên thì phấn son…
Lời ru cứ nhắc đi nhắc lại, lúc gần gũi lúc xa xăm và nhỏ dần…
Tôi lặng người, thưởng thức âm điệu và nội dung sâu sắc của lời ru. Dư vị của
nó ngân đi ngân lại trong tôi. Một niềm vui đượm chút buồn man mác lan toả
trong tôi. Tôi thấy lúc này đây, chị là một thiên thần, là một huyền thoại. Chị
là một người trong triệu người thời đại có một cuộc đời như thế, có một tinh thần,
một khát khao như thế trong một thoáng lịch sử của dân tộc. Biết hy sinh, biết
chờ đợi là một huyền thoại. Trong lời ru, lấp lánh những ký ức của thời xa xưa
hào hùng, những đau thương oán hận của dân tộc, có tiếng gọi của cha ông thùa
trước, những tiếng vẫy gió của lịch sử. Tôi đã sưu tầm nhiều bài hát ru, nhiều
ca dao… Nhưng, giờ đây mới thật sự có được một ấn tượng mạnh. Chị nằm ôm con,
chiếc võng đu đưa, đi lại. Xa xa, dòng sông chảy như lụa, mấy tàu chuối trong
vườn phất phơ, lửa trong bếp bập bùng. Xa chút nữa… có tiếng súng… Tất cả, tất
cả đều là hiện thực. Nhưng khi lời ru tuyệt vời vừa được cất lên, tất cả đã trở
nên huyền thoại… Một lát sau, chị dậy. Tôi từ biệt chị. Chị bảo: "Luôn nhắn
tin về nhé…". Thế rồi nhiều năm tháng trôi qua, tôi là chuyên viên văn
hoá. Tôi gặp chị, lúc này chị đã lên bà. Bà mời tôi đến thăm phòng triển lãm
tranh của bà. Bà đã trở thành hoạ sĩ và đã có triển lãm riêng với chừng 30 bứa
tranh màu dầu… Trong đó, có một bức bà vẽ về cái quán tản cư khi xưa. Cái quán
toàn tre, nứa bên sông có người mẹ ru con trên võng… bên cạnh bức trong này có
dòng chữ: "Tuyệt đối không bán”… Tôi lại gọi bà bằng chị. Chị mời tôi uống
cà phê, nhắc lại một chút xíu cái dào ngày xưa. Chị nói là thính. Tôi chẳng nói
gì, chỉ đọc khẽ: Non sông kháng chiến trường kỳ… "Mẹ theo tiếng gọi quên
thì phấn son…". Chị cúi xuống, xúc động Một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề,
đến bên cạnh bàn, cúi nhẹ người chào tôi. Chị ngước mắt lên, bảo: "Con
chào chú Hoàng đi… một giờ nữa mẹ về…". Người con chào tôi rồi đi. Chị nói
với tôi: “Đấy thằng bé nằm võng năm xưa mà chú khen nó có đôi má như hoa hồng
mà lại ngọt ấy Bây giờ nó là tiến sĩ mỹ học". Tôi bảo: vâng… tôi tin tưởng
vào nh úng người như chị, như con cháu chúng ta… Tôi có niềm tin mà"…
Chương III
mấy khuôn mặt
NÀNG HUÊ
Ở gần hồ Hoàn Kiếm, về phía đường Bảo Khánh đi lên một chút,
có ngôi đền Hàng Trống. Ngôi đền hai tầng giản dị, màu vàng. Những ngày rằm, mồng
một, lễ, Tết, các con công đệ tử, khách thập phương tập nập đến lễ bái, khói
hương nghi ngút, chẳng lúc nào dứt. Khi xưa, ở nơi đây đã có vài lần tổ chức hội
thi đàn đáy. Đàn đáy là loại đàn đặc biệt có cần dài 1m20 với khuôn thùng đàn
hình chữ nhật khổ 0, 03 x 0, 18 x 0, 09m. Không có mặt hậu. Đàn có ba dây gọi
là đàn ca trù hoặc đàn ả đào tiếng đàn có thể đanh, cũng có thề mềm, nhấn nhá,
bâng khuâng. Tiếng đàn đục trầm, sâu lắng. Cuộc thi thu hút sự có mặt của nhiều
thầy đàn các nơi như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội…
Thôi thì đủ mặt anh tài. Tiếng đàn đáy chỉ được bộc lộ hết
cái “hồn” của nó khi nó đàn cho giọng hát và tiếng phách của đào nương có điểm
tiếng trống chầu hào hoa, phong trần. Vì vậy, thầy đàn phải có sự giúp đỡ của
đào nương và người đánh trống chầu. Các đào nương nuột nà, phấn son, xiêm áo đi
lại xênh xang làm ngây ngất cả một vùng. Đẹp như ả đào mà lại. Nhưng chưa hết,
các nàng còn là những con sơn ca. Tiếng hát của họ có thể an ủi được cuộc đời
làm cho mọi người xao xuyến, ngất ngây. Chính vì vậy mà các danh sĩ, những
khách văn chương ưa đàn hát cũng không thể không tụ tập lại ở nơi đây để tìm ý
thơ, nét nhạc, để say sưa đóng vai những người khách đa tình. Thảng hoặc có
chàng trai ăn mặc bảnh bao, nói nhẹ nhàng: "Xin quý đào nương cho nghe khổ
giai nhân nan tái đắc… chót yêu hoa nên dan díu với tình…", lời thỉnh cầu
của chàng trai được đáp ứng tức khắc. Nơi đây cũng được gọi là xóm Hàng Hoa.
Vào những năm 1900, nước hồ còn ăn vào phố Hàng Trống. Các gia đình trong phố bắc
cầu ra ngoài hồ, tắm giặt, rửa rau, vo gạo… Xa xưa hơn nữa, nơi đây nguyên là
thôn Cựu Lâu, kéo dài ra tận khu vực mà sau này là những phố Tràng Tiền, Hàng
Khay. Đất tài hoa, xướng ca luôn luôn có tiếng đàn tiếng phách. Khôn khí thơm lừng
hương hoa, son phấn. Mảnh đất này sinh ra Nguyễn Thị Huệ. Nàng là con gái một vị
quan thái y. Nàng có tư chất thông minh từ nhỏ nên cha cho theo đòi đèn sách và
trở thành một cô gái giỏi văn chương, thông kinh sử. Nàng mê ca hát. Những
phách giòn tan của nàng reo lên làm cho các bậc đàn chị trong xóm phải ngẩn
ngơ. Lại nữa, nàng quá xinh đẹp, sắc nước hương trời. Không thiếu gì những sĩ tử
hào hoa phong nhã, nhưng khách văn chương ngấp nghé, mến mộ.
Nhưng, thật không may, năm nàng 16 tuổi, người cha qua đời, mẹ
lâm bệnh nặng. Cảnh nhà sa sút, nàng phải theo chị em trong xóm luyện tập ca,
múa và hành nghề để nuôi mẹ, nuôi em. Mới vào nghề mà tài năng nhiều mặt của
nàng đã vượt qua các chị em đến mức không có đọi thủ. Giọng hát và tiếng phách
của nàng đã giây nên những vương vấn, bâng khuâng thấp thoáng trong các ngõ xóm
bên mặt hồ lau lách… Chất giọng ngọt ngào dáng múa lung linh, danh tiếng của
nàng vang dội gần xa, khắp kinh thành. Dạo ấy, phủ chúa mở tiệc lớn. Giáo phường
được cử vào hát múa cho nhà chúa. Thấy nàng có tài sắc siêu nhân đi đứng có lời
thơ tiếng nhạc, lại giỏi thơ văn, chúa ra lệnh giữ nàng ở lại trong phủ. Nàng
khóc với cả kép đào. Ông này nói lớn: "Nàng là người của tôi". Ông liền
bị lính xách nách, vứt ra ngoài đường. Về sau, ông chán đời, không đánh đàn nữa,
không đệm đàn cho tiếng hát bất cứ một ca nương nào. Chỉ khi nào đàn cho nàng
Huệ hát thì tiếng đàn mới đích thực là tiếng đàn của tâm hồn ông. Ông bỏ nghề
đàn, đi lang thang. Chúa Trịnh phong cho nàng Huệ là Ngọc Kiều phu nhân, trông
coi ban nữ nhạc. Chúa lại sai làm cho mẹ nàng một ngôi nhà nhỏ để nàng đi về
cho tiện. Đến khi đứng tuổi, nàng xin phép chúa cho về ở hẳn tại ngôi nhà này để
phụng dưỡng mẹ già. Nàng vẫn tiếp tục nghiệp cầm ca. Nơi ở của nàng lại là nơi
đi lai của những bậc danh cầm, danh ca một thủa. Khi nàng từ giã cõi đời, nơi
đây trở thành một ngôi đền gọi là đền Đông Hương. Nàng được dân chúng thờ cúng
với danh hiệu Đông Hương thần nữ.
Cùng với câu chuyện kể trên, trong dân gian còn có một chuyện
nữa kể về nàng. Câu chuyện như sau: Đào nương Nguyễn Thị Huệ bị bọn hoạn quan bắt,
nạp cho phủ chúa, ghép vào tội nữ nhạc. Nàng được chúa nể vì nâng niu. Chính
phi của chúa rất đỗi lo sợ vì nàng có thể chiếm mất địa vị của bà. Bà rắp lòng
hại nàng. Bà gọi nàng đến cung riêng của mình, chuyện trò thân mật, kết nghĩa
thành chị em. Điều này làm cho chúa rất hài lòng. Một hôm, bà ép nàng uống rượu
có pha gan công khiến nàng vừa bị say, vừa bị đầu độc. Bà chính phi liền lệnh
cho bọn tay chân khiêng nàng đi, chôn sống. Chôn xong, mọi vết tích được xoá đi
rất kỹ. Âm mưu này được xúc tiến rất bí mật. Khi chúa nhớ tới hỏi đến nàng thì
các quan đều nói là nàng đã bỏ ra đi một lúc nào đó mà chẳng ai hay biết, và rồi,
nhà chúa cũng quên nàng đi. Chỉ có những chị em ca nương, những người yêu mến
nàng, yêu tiếng hát của nàng nhỏ những giọt nước mắt thương tiếc mà thôi. Không
ngờ, được ba năm sau, bà chính phi bị bệnh điên dại, lúc mê, lúc tỉnh. Thỉnh
thoảng, bà lại vừa nói vừa khóc: "Đáng thương quá… sao mà nó lại đẹp đến
thế, lại hát hay đến thế… Đến ta cũng phải mê nó"… Nhiều thầy thuốc giỏi
khắp nơi được vời đến cũng không chữa chạy nổi. Một hôm, vào một buổi chiều, quần
áo tả tơi, bà chạy ra khỏi cung, tới bên bờ hồ, chỉ đúng vào cái nơi mà mấy năm
trước bọn tay sai của bà đã chôn Thị Huệ rồi hét to lên: "Đây này, nó nằm
đây. Ta đã giết nó… Trời ơi… Ta đã giết em…" Hét xong, bà ngã vật xuống, tắt
thở.
Đêm đó, những người yêu mến nàng đã đào chỗ đất ấy lên. Họ thấy
nàng Huệ. Hài cốt của nàng được xếp vào một cái tiểu sành và được đem chôn ở dưới
nền nhà của nàng. Và ngôi đền được lập nên để hương khói cho nàng. Mọi người thắp
những nén hương để tiếc thương nàng và để nói lên rằng tài hoa và nhan sắc của
nàng là bất tử, và cái chết oan khiên bi thảm của nàng được ghi vào bia miệng
muôn đời… Đền Hàng Trống bây giờ, chính là đền Đông Hương ấy.
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi thì bố mất. Mẹ ông là vợ
ba, phải bỏ nhà ra đi cùng cô con gái nhỏ. Bà là một ca sĩ tài hoa, nhan sắc.
Bà ra đi với tấm lòng của một người mẹ cao cả, phi thường đến nỗi cuộc đời chật
hẹp không hiểu nổi.
Từ đó, cậu ấm Hiếu sống với người anh cùng bố khác mẹ. Lúc 5
tuổi, cậu đã biết đến câu: “đường hoa son phân đợi”. Cậu được học nhiều có khiếu
văn thơ và cuộc đời xê dịch theo đường hoan lộ nay đây mai đó của người đỡ đầu.
Vì vậy ông được dạy dỗ theo khoa cử của nghiệp nhà khoa bảng đã sáu đời làm
quan.
Nhưng đến lúc cậu mười lăm, mười sáu tuổi, cảnh nhà lâm vào
thế túng quẫn, nghèo khổ. Năm mười bảy tuổi, đã có bài đăng báo. Cậu ấm cựu học
được rất nhiều qua tiếp xúc với những cuốn sách của phương Tây được dịch qua
Hán văn. Chính những cuốn sách đó đã thổi vào ông nhiều tư tưởng mới mẻ. Thế là
trong ông đã được thổi lên những trận mưa Âu, gió Á. Hành trang của Tản Đà ngổn
ngang nỗi lòng với làng Khê Thượng, Bất Bạt, Hà Tây, lòng say mê vẻ đẹp của đất
nước, lòng yêu quý mọi người, về hình ảnh tài hoa và đầy bi kịch của người mẹ
và em gái, mong muốn làm một việc gì giúp nước mà không được, cái nghèo đói dữ
dội luôn bám chặt lấy mình… ông đi khắp nơi, từ Nam chi Bắc, vừa làm thơ văn, vừa
làm kẻ giang hồ phiêu bạt. Ông gắn cuộc đời của mình vào số phận đất nước.
Trong khoảng 20 năm, từ 1915-1935, ông đã trải qua nhiều công
việc mệt nhọc, đầy khó khăn: làm thợ, làm văn, làm chủ bút nhiều tạp chí, dịch
thuật, mở nhà xuất bản để tự nuôi mình. Ông cam chịu nghèo nàn, vất vả sống tự
do phóng khoáng chứ không chịu đi làm quan, mặc dù một số những người họ hàng
thân thích và bạn bè sẵn sàng thu nhận hoặc tiến cử ông.Cuộc sống no đủ, giàu
sang không cám dỗ được ông. Trong khoảng 20 năm này, ông đã viết hàng loạt tác
phẩm đồ sộ với nhiều hình thức: thơ, văn, báo, dịch thuật biên kịch, làm các
bài hát cho các kiểu diễn xướng dân gian và ca kịch cổ truyền… Ở mặt nào ông
cũng thể hiện được sự sắc sảo, có góc cạnh, độc đáo, tài hoa, tràn đầy tình cảm
với con người và cuộc sống. Ông có cách nhìn, cách hiểu, cách nói riêng của
mình. Chất và lượng những cuốn sách và những trang báo của ông làm rực rỡ cả một
thời kỳ.
Nhà thơ Xuân Diệu đã viết: Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu
cho thơ Việt nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhân đã có can đảm làm thi sỹ một
cách đàng hoàng, bạo dạn. Ông dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi…
".Ta có thể thấy cái tôi của ông đắt giá vì nó cũng là cái tôi của đại đa
số. Cái vui, cái buồn, cái giận dữ, cái hờn dỗi của ông cộng hưởng với cái vui,
cái buồn, cái hờn dỗi của mọi người. Bài thơ "thề non nước" của ông
đã làm rung động tâm hồn bao thế hệ. Ai nấy đều thuộc lòng là vì nhân dân lúc ẩn,
lúc hiện đều có một lời thề son sắt, thương nước non tươi đẹp bị chà đạp và quyết
chí trả nợ non sông, tô điểm non sông cho con cháu mai sau. Cái lời thề mà tất
cả mọi người Việt nam đều có trong lòng đó thống nhất với đầu đề và nội dung
bài thơ "Thề non nước". Ông cũng kêu gọi mọi người bồi lại Bức dư đồ
đã rách nát qua 4 bài thơ tha thiết… trình bày rằng bản đồ của đất nước bị rách
nát, chúng ta phải quyết tâm bồi lại và hy vọng, tin tưởng sẽ làm được công việc
vá trời lấp biển đó. Bài "Thề non nước", "Bức dư đồ” cùng với một
số bài thơ, văn khác đã không chỉ có mặt trên sách báo mà còn được dùng vào những
bài hát, dùng cho ngâm vịnh, biểu diễn ca trù, xẩm… để chúng lan toả đến tận
các bến tàu, quán chợ, các ngõ ngách hẻo lánh khắp đạt nước. Sau hai bài thơ
đó, ông lại bổ sung thêm một loạt những bài theo điệu Đò đưa, Hành Vân, Cổ bản,
Xâm chợ, Xâm nhà trò, Nam Ai, Tuồng… Những bài hát đó được khắp nơi yêu mến. So
với thời gian lúc đó, chúng rất mới mẻ, làm cho tiếng phách, tiếng đàn và cách
hát cổ truyền cũng trở nên thanh tân, tươi mát, gần gũi với cuộc sống. Ông có
tâm huyết và đi nhiều nơi. Đến đâu cũng say sưa với cảnh với người. Cảnh những
người đáng yêu hoặc đáng thương đều được ông đưa vào thơ. Ông tả phong cảnh thật
tài tình mà bay bổng:
Một dãy lau cao làn gió chạy
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha
Ngoài xa trơ một đống đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà…
Ông tả tình thì sâu lắng, đầy hình ảnh và nhiều nhạc tính, kịch
tính:
Một đôi kẻ Việt, người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ Việc quân vương
Duyên nợ tình kia dở dang
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngàn thu khói hương…
Thơ kể chuyện của ông làm người đọc xúc động, say mê và bâng
khuâng cùng dư vị của nó:
Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh Một phút trần ai
Uớc cũ, duyên thừa có thế thôi
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây cách xa mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lôi cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng giăng chơi…
Tản Đà say mê con mắt Phú Yên, tiệc xòe Văn Bán, giọng ca xứ
Huế, các món ăn đặc sản từng vùng… ông đưa việc thưởng thức và cách chế biến
các món ăn lên mức nghệ thuật, lên mức văn hoá ẩm thực. Riêng thịt chim, ông
cũng tìm đến: chim sào, chim ngóng chả, chim hấp cách thuỷ… ông thưởng thức các
món ăndân tộc rất sành đã đành, ông còn nhấn mạnh thức ăn phải ngon lúc ăn phải
là lúc "ngon", người ngồi ăn với mình cũng phải "ngon". Ông
cho biết cửa hiệu nào có các sản phẩm đáng lưu ý về chè tàu, thuốc lá, rượu cúc
cháo gà, gỏi cá… Ông trân trọng từng ngọn rau bí, rau sắng, quả cà xứ Nghệ… Ông
nổi tiếng hơn cả là về thơ tình có chất hiền hoà, êm dịu, nhẹ nhàng mây nước,
bình dân. Nhưng phong lưu và trang nhã:
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mây lá năm hồ hết
Hờ hững, ai xui thiếp phụ chàng…
Thơ ông nhiều bài buồn, sầu lắng nhiều lúc lại hờn dồi, trách
móc. Ông hay lấy cái ta ra làm nhân vật chính. Nhưng, đúng hơn là cái chúng ta.
Vì ông hoà cái thân thế quá khốn khổ của ông vào thân thế của mọi người mà ông
yêu: chồng người đốt than, người yêu của ông, mẹ ông, những người mạt hạng, cô
gái trong kỷ niệm, cô gái hái hoa đào, cô hàng cau, Mỹ Thâu, cô Tây về già, cô
gái nhà chài, cô hái dâu… Bốn người tình qua cuộc đời của Tản Đà với 4 cuộc
tình: Tình yêu thất Vọng, tình yêu lãng mạn vô vọng, tình yêu kỷ niệm thời thơ ấu
và tình yêu nghệ sĩ. Tất cả đều có kết cục bi thảm. Tản Đà cũng được ca ngợi về
mặt văn xuôi bóng bẩy, sâu sắc, tha thiết, nhiều lượng thông tin, thành thực,
ngây thơ mà lại cũng rất thơ.
Ngoài ra, Tản Đà còn dịch vào khoảng 100 bài thơ Đường Nhiều
bài thơ dịch của ông được coi là phổ biến nhất, được nhắc đến nhiều nhất, được
đăng đi, đăng lại nhiều nhất. Trong khoảng hai mươi năm (từ 1915 đến 1935) và
ngay cả đến bây giờ, hầu như chưa ai có được những bản dịch vượt được ông. Đặc
biệt là những bài dịch như: Hoàng Hạc Lâu, Biệt hữu nhân Giang hành, Dạ Vũ, Thu
giang tông khách, Khuê oán, Thiên Thai… Ông uyên thâm Hán học. Ông thích xê dịch,
đa tình. Ở ông, yêu, vui, buồn đều cực đoan, gần như đến mức điên dại, ngông cuồng,
thấm chất nghệ sĩ. Xét về con người và tác phẩm, ông là một trong những nhà văn
hoá có bản lĩnh và bản sắc độc đáo của Việt nam. Ông đứng sừng sững trong nền
văn học Việt nam như là một hiện tượng. Ông đáng được xếp vào ngồi hầu rượu 28
vị thánh hiển linh của Việt nam trong Việt điện u linh. Có người cho rằng tác
phẩm của ông như một người đàn bà đẹp. Tuy vậy, người đàn bà đẹp nhất trên đời
cũng chỉ có thể cho ta những cái gì mà họ có như Thôi Oanh Oanh đã nói trong
truyện Tây Sương Ký có mùi son phấn mà nổi tiếng. Xưa kia, Napoléon trong lần đầu
tiên gặp Goethe, ông ta nói với thi hào: "Ông là một Con Người…"
Thi sĩ Tản Đà cũng là một Con Người…
NHƯ HOA
Đêm ngày mồng hai tháng mười một, năm Giáp Tý, sau khi đóng
xong vai Thị Mầu lên chùa phục vụ Đại hội Thông tin quân đội tại Bắc Giang, Như
Hoa xếp lại vài chục bó hoa được tặng trong và sau lúc diễn, chị vội vàng tẩy
trang, ăn suất bồi dưỡng rồi lên xe về Hà Nội cùng với 9 diễn viên. Ô tô phóng
nhanh, về đến cầu Chui gần Gia Lâm thì tai nạn ập đến. Chiếc xe bị lật đổ. Một
tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Các nạn nhân được đưa về trạm xá địa phương rồi
về bệnh viện Việt Đức.
Sáng ngày hôm sau, từ bệnh viện, tin báo đi cho biết nghệ sĩ
chèo Như Hoa đã mất. Thư từ, điện chia buồn khắp nơi gửi về tới tấp và liên tiếp.
Cả nước biết được tin này rất nhanh chóng. Người nọ bảo người kia tất cả những
người yêu hát chèo trong cả nước và cả ở nước ngoài, ai mà không được nghe tiếng
hát hoặc đã học tiếng hát của Như Hoa. Người nghệ sĩ cần mẫn này đã từng hát rất
nhiều bài trong các chương trình, lại đảm nhiệm luôn cả nhiệm vụ dạy hát chèo
trên làn sóng điện của Đài Phát thanh tiếng nói Việt nam mỗi tuần một buổi
trong suốt từ những năm 1958 cho đến cũng không ai quên nổi những buổi dạy hát
đậm đà đó với những bài "Lới lơ" man mác, có đoạn “lưu không”: tinh…
tinh… tinh… chát… rồi ngả sang: "Ai xui là xui cây lúa… chín… í a… chín ngập…
đồng”. Đến buổi khác lại hát “Sắp qua cầu”, "Sắp đường trường”, "Chức
cẩm hồi văn “truyện năm cung”?… rồi đến “Sổng”, "Hát văn”…
Cũng không phải là ít người có thể dạy hát chèo trên làn
sóng. Nhưng, Như Hoa được chọn. Giọng của Như Hoa là giọng chèo trong sáng, mượt
mà, tròn vành rõ chữ, chân chất "đổ hạt” xênh xang, dân dã mà kiêu sa. Hơi
chèo và giọng chèo này đu đưa, ngân nga một dư vị ngọt ngào. Chúng lấp lánh
hình ảnh những cánh đồng như lụa, dòng sông Cầu, những đình chùa, miêu mạo xứ
Kinh Bắc. Nơi mà một làn gió cũng mang điệu dân ca. Tiếng hát của Như Hoa có sự
say đắm, có chút, buồn pha màu sương khói. Như Hoa thường không nguôi nhắc lại.
"Mẹ em mất đi khi bà còn rết trẻ". Chị luôn nhớ lời bà láng giềng nói
với chị: "Khi xưa, mẹ cô đẹp và hát hay lắm. Tiếng hát của bà làm cho cả
vùng Bắc Ninh này say mê"… Chính tất cả những điều đó đã hoà tan vào tiếng
hát của Như Hoa làm cho nó có những vần ví riêng biệt.
Nghệ sĩ Như Hoa đã ngừng thở, nằm trên chiếc bàn bệnh viện.
Các chị em trong tổ chèo đứng quây xung quanh bàn như hàng rào danh dự để tránh
mọi sự ồn ào xô đẩy, chen lấn của một số người muốn đến nhìn mặt chị, làm khó
khăn cho công việc khâm liệm. Chị Phương Nhung vợ nhạc sĩ Vũ Thanh trang điểm,
son phấn cho chị, sửa lại đôi lông mày cong và dài. Mấy chị em khác mang trang
phục của vai Thị Mầu lên chùa mặc cho chị. Thế là Như Hoa được mặc yếm vàng màu
mỡ gà, áo dài đỏ màu hồng, thắt lưng xanh màu hoa lý, khăn chít cài hoa… Mớ tóc
được để đuôi gà vắt Vẻo. Chị Phương Nhung chỉnh lại phục trang, đặt một cái quạt
vào tay Như Hoa. Rồi mọi người đặt cô Thị Mầu Như Hoa vào áo quan như thể Như
Hoa còn sống vậy chị ở tư thế chuẩn bị diễn vai kịch của mình. Chỉ đến mấy tiếng
trống là Như Hoa sẽ ra chiếm lĩnh sân khấu Nhưng, Như Hoa nằm bát động, xung
quanh chỉ là nước mắt, tiếng khóc và hoa. Thương quá và yêu quá ở một số nước
phương Tây, người ta chôn một vài diễn viên hoặc mệnh phụ nổi tiếng với một vài
cuốn sổ tay hoặc mấy lá thư tình. Ở ta, Như Hoa được chôn với đầy đủ phục trang
của vai diễn Thị Mầu thì thật là độc đáo.
Đám ma Như Hoa đầy hoa, kéo dài suốt dãy phố Phủ Doãn rồi lan
toả ra những dãy phố khác cho đến tận nghĩa trang Văn Điển. Hai bên đường, ở
nơi nào cũng đầy người. Mọi người đứng kín cả những gác hai, gác ba, gác bốn để
nhìn kỹ xe tang và đưa mắt chào vĩnh biệt. Chúng tôi mang vòng hoa viếng, đi từ
phố Bảo Khánh để đến nơi Như Hoa nằm chỉ có một quãng đường ngắn mà phải đi mất
15 phút vì đám đông chen lấn nhau dữ dội quá. Chúng tôi cứ bị dạt đi hết chỗ
này đến chỗ khác như bị lạc trong biển người. Thật là một hiện tượng. Sau đó,
chừng vài tháng, những điện văn, thư từ, những bài thơ tiếc thương Như Hoa từ mọi
miền lại tới tấp gỉ ri về Đài Phát thanh tiếng nói Việt nam, là nơi mà Như Hoa
làm việc và gia đình Như Hoa.
Anh Cầm Phong là chồng chị có cho tôi xem hàng chồng những bức
thư gửi đến anh, tỏ lòng thương xót và quý mến Như Hoa. Có bức thư viết:
"Như Hoa đã không chỉ là đứa con của xã Liên Sơn, huyện Tiên Sơn Bắc Ninh
nữa mà đã là ca sĩ, kịch sĩ của cả đất nước rồi.
Nhà thơ Vân Trình đã viết: Tiếng hát Như Hoa Như những cánh
hoa Theo làn sóng điện bay khắp gần xa Mang niềm vui đến mọi nhà Cho những trái
tim thêm tươi thắm Cho cuộc sống thêm hài hoà Cả những tâm hồn còn tràn trề nước
mắt Tiếng hát này cũng có thể lau khô… Đúng vậy, tiếng hát của Như Hoa đã nuôi
sống được tinh thần con người, một nghệ sĩ đích thực mới làm được điều đó. Về mặt
biểu diễn, Như Hoa chỉ diễn một số vai mà mình thích. Chúng hợp với tạng của chị
như những vai nữ chính trong các vở đường về trận địa", "Con đường hạnh
phúc”, sao đổi ngôi vai Mẹ Đốp trong Quan âm Thị Kính, vai Thị Mầu trong Kim
Nham, vai Chị Dậu trong Tắt đèn… Vai nào chị cũng diễn được rất xúc động. Đó là
tài năng của chị đã nói lên được sự xúc động của mình. Những vai diễn của chị đều
ngẫu hứng, tài tử, toả sáng như lời lão nghệ sĩ Năm Ngũ nhận xét. Như Hoa là học
trò yêu của những cây cao bóng cả làng chèo: Bà Cả Tam, bà Dịu Hương, bà Phẩm,
Hoa Tâm, ông Năm Ngũ…
Ông Đinh Khắc Ban là một trong những cây đàn đáy hàng đầu của
Việt nam nhận được tin Như Hoa mất, ông đờ đẫn một lúc lâu rồi mới bảo:
"Ôi! Nó là con chim, trước khi chết nó đã hót hay lắm…" Những năm
1963-1964, Như Hoa đã sang biểu diễn ở Campuchia và Trung Quốc vài lần. Và lần
nào Như Hoa cũng nhận được sự hoan nghênh đặc biệt hiếm thấy ông cục trưởng Cục
nghệ thuật út Chon, bảo: Tiếng hát của Như Hoa đầy thuyết phục và mỏng manh.
Người nghe như được gặp một Bự gì trọng đại lắm…" Như Hoa còn hát được
Quan họ, Xa Mạc, Bồng Mạc. Có điều Xa Mạc chị đưa thật não nùng. Hơn ba năm
sau, chiếc tiểu đựng nắm xương cô quạnh của Như Hoa được mang về làng quê Tiên
Sơn. Cả làng xóm chôn rộn hẳn lên. Mọi người đến thăm hỏi. Cả những người làng
bên cạnh cũng sang. Trong làn khói hương nghi ngút, mọi người thương cho Như
Hoa nhưng cũng tự hào vì họ có được Như Hoa. Chúng ta đã mất Như Hoa. Nhưng, những
lớp trẻ đã tiếp nhận tiếng hát của Như Hoa và tiếp bước Như Hoa. Ngày nay, mỗi
khi có tiếng trống chèo, có điệu Lới Lơ hoặc thấy Thị Mầu xuất hiện, chúng ta
không khỏi chạnh nhớ đến Như Hoa. Có được một nghệ sĩ vừa hát, vừa đóng kịch,
nhan sắc và tài hoa của đất Kinh Bắc như Như Hoa thật đáng tự hào. Như Hoa đã hết
lòng vì nghệ thuật mà nghệ thuật cũng đã làm cho Như Hoa được sống lâu hơn
trong lòng người ngưỡng mộ.
THANH THANH HIỀN
Năm 1994, các chiến sĩ trên đảo Trường Sa nói với nhau:
"Thanh Thanh Hiền làm náo động cả đảo. Hiền đổ bộ lên đảo và các buổi biểu
diễn liên tục của Hiền luôn gây nên những đợt sóng vỗ tay không dứt”. Chưa bao
giờ đảo Trường Sa lại sống động với sự có mặt của các đoàn văn công hoặc đoàn
ca nhạc nào đến đảo như lần ấy. Là một diễn viên đa năng, tài sắc, nhỏ nhẹ tha
thiết thanh xuân có dáng dấp một nữ thuỷ thần, Hiền vượt biển, đến đảo biểu diễn.
Và cuộc biểu diễn này được coi như là một sự kiện. Sao vậy? Vì Hiền đáp ứng được
sự khao khát nhiều mặt: cải lương, dân ca, nhạc nhẹ, nhạc rock, kịch… Riêng về
cải lương, Hiền biểu diễn được cả đào chính, đào lệch, đào thương và đào lẳng.
Mà tất cả đều ở đỉnh cao của thành công. Phần nhiều các chiến sĩ đều đã được
xem Hiền diễn cải lương và ca nhạc trên vô tuyến truyền hình. Tuy vậy, họ vẫn
ngỡ ngàng. Họ chưa thấy một người diễn viên nào lại cóđược một chân trời biểu
diễn rộng lớn như vậy. Đảo đã tặng Hiền huy chương chiến sĩ Trường Sa và Hiền
xúc động sáng tác một số bài thơ về đảo để tỏlòng biết ơn.
Thanh Thanh Hiền ca cải lương từ khi mới bập bẹ. Lên sáu tuổi
học đàn hát. Mười ba tuổi đã trở thành diễn viên Nhà hát Cải lương Trung ương.
Sau đó, Hiền là sinh viên duy nhất đặc biệt của trường Đại học Sân khấu đã đạt
điểm tối ưu ở cả ba môn: ca, diễn, múa. Lúc 15 tuổi, Hiền đã diễn thành công
vai xuất sắc một nhân vật có số phận éo le, phức tạp đầy bi kịch. Nhân vật đó
đã có được một tuyên ngôn âm thầm: "Người ơi! Ta lặng nghiệp phong trần".
Thế rồi, tiết mục này đẩy nhà hát phải tăng thêm nhiều buổi biểu diễn. Hiền đã
luôn luôn làm mọi người phải ngạc nhiên về sự đằm thắm và thanh xuân trong biểu
diễn của mình. Năm 1991, Thanh Thanh Hiền đoạt giải Tài năng trẻ, rồi lần lượt
đoạt thêm một giải khác. Rồi Hiền diễn vai chính trong chừng 20 vở cải lương để
trở thành ngôi sao cải lương không có đối thủ ở miền Bắc và miền Trung. Một số
nhạc sĩ mời Hiền hát những ca khúc cách mạng. Hiền có một đình duyên, hàm răng
xinh đều mắt phượng, lông mày quét ngang, đã hoá thân vào cô du kích, cô gái
Tày thực sự mà hư ảo hát lên những bài Bắc Sơn, Nhớ chiến khu… Hiền hát với giọng
trầm lắng, có ngọn lửa bên trong, và thêm vào đôi cánh của sự ngợi ca nhớ
nhung, bi tráng. Lại có thêm một chút mơ mộng, tâm linh làm cho giọng hát và
phong thái biểu diễn khác hẳn với mọi ca sĩ khác, bừng lên cái khí thế thúc giục
lòng người. Hiền đóng vai Thị Mầu trong vở kịch có tên là "Khát vọng bi
thương", đã gặt hái được hiệu quả cặp díp cả về sân khấu lẫn điện ảnh. Đạo
diễn Trần Phương quả là có con mắt tinh đời, đã chọn Hiền đóng vai Thị Mầu. Người
ta bảo Trần Phương cao tay về việc chọn diễn viên Hiền vào vai Thị Mầu làm
nghiêng ngả cả chiếu chèo. Thị Mầu của Hiền không chỉ lẳng lơ mà còn lột tả được
tình yêu mãnh liệt với những đường nét vờn, chào, khao khát, quyến rũ đầy chất
đời, mà cũng thiêng liêng nữa, vì các thần thánh cũng yêu đương dữ dội như người
trần thế. Thuỷ Tinh còn yêu Mỹ Nương đến tận bây giờ và mai sau kia mà. Nhưng đến
lúc Thị Mầu lã chã nước mắt thương con thì thật cảm động. Trường đoạn này có
cái sắc thái của Truyền kỳ mạn lục, có pha chút thánh thiện. Cảnh Hiền ca cải
lương, sắm vai Dương Quý Phi trước lúc uống thuốc độc tự tử là một cảnh độc đáo
nhất, mà cũng là cảnh biểu thị được toàn phần tài toa của Hiền. Người ta thấy
Hiền đôi mắt xa vời chìm vào hương khói. Động tác lắc vai làm cho khán giả lạnh
toát cả người. Động tác cúi xuống đầy nét hoa mỹ sao mà nặng nề thế. Hiền lột tả
đến tận cùng trạng thái tình cảm của người đẹp nát đá tan vàng lâm vào bi kịch
không lối thoát: rối bời, yêu thương, nhớ nhung, buồn tủi, giận hờn, nuối tiếc…
với một gam màu giọng kim pha cổ, mượt mà, nồng ấm, bi thương… Cảnh diễn độc
đáo này, từ 65 năm trở lại đây chỉ có hai người diễn được và ca được đến đỉnh
hoàn thiện là quái kiệt Phùng Há và Thanh Thanh Hiền. Nó đựng nên một bầu trời ảm
đạm có thác nước dữ dằn, có máu lửa, có tiếng gió thê lương, tiễn một giai nhân
sang thế giới bên kia.
Những năm gần đây, ngoài việc biểu diễn cải lương và ca nhạc
trong nước, Thanh Thanh Hiền được mời đi biểu diễn ở Thái Lan, Lào, Phần Lan,
Na Uy; Thuỵ Điển. Ở đâu Hiền cũng gây được ấn tượng sâu đậm làm say đắm lòng
người. Hiền đã đưa những nét đẹp trong ca kịch Việt nam vào vườn hoa nhạc kịch
của thế giới. Hiền còn trẻ, còn đi xa. Hiền phối hợp nhịp nhàng dáng dấp, con
tim và trí tuệ với nhau để tạo ra được cái vẻ đẹp tổng hợp đến mức huyền ảo. Hiền
diễn và hát bằng tâm hồn, đó là một nghệ sĩ giàu có về tình cảm và ý chí, có sự
nhạy cảm tinh tế. Hiền có cái mũi bán Hy Lạp, nét phúc hậu phương Đông. Hiền có
nét suy tư Do Thái, học nhiều, đọc nhiều và còn sáng tác thơ. Hiền là một ngôi
sao sáng trên bầu trời sao nghệ thuật của sân khấu Việt nam.
ANH LUÂN TRỨNG
Những năm sau Cách mạng tháng Tám 1945, anh Luân sống phóng
khoáng đó đây. Anh ít học nhưng hiểu biết về cuộc sống vì anh va chạm với đủ lớp
người. Anh có thể và đã là thợ cắt tóc, thợ giặt là, buôn bè buôn chuyến buôn vải,
buôn trứng… Người ta gọi anh là con dao phay pha. Có lúc anh rất nhiều tiền, có
lúc "ba đào" không một xu dính túi. Anh có tài xoay xoả, cái
"xoay xoả" mà cuộc đời cho phép nên anh bình tĩnh, đàng hoàng ngay cả
những lúc gặp khó khăn. Có điều anh thường mê đọc sách, báo, truyện… và xem cải
lương, tuồng chèo. Bần cùng, anh mới phịu xem kịch nói. Anh thuộc nhiều chương,
hồi trong Tam Quốc, Thuỷ Hử, Đông Chu Liệt Quốc v.v… có lúc anh nói: "Tớ
thương Đơn Hùng Tín, tớ thích Kinh Kha"…
Anh không có tài kể chuyện nên kết bạn với anh Bội, là công
nhân nhà máy thuốc lá, hay kể chuyện ngày xưa rất duyên và đủ mọi tình tiết lấp
lánh. Những điều anh Bội kể ra cứ nhảy múa trong đầu óc anh, mặc dù đó là những
chuyện mà anh dễ đọc. Anh thuộc rất nhiều bài thơ. Cả thơ mới, thơ cũ, thơ chữ
Hán, mặc dù anh không biết chữ Hán. Anh giao du rất rộng, bạn của anh có cả những
ông nọ ông kia, trí thức, nhà văn nhà thơ, bác xích lô, những người ngổ ngáo,
bác Yên bán bánh quế, bác Chín bán mía tiện mía cả hai tay cứ như múa kiếm…
Trong số bạn của anh có một điểm giống nhau là họ đều là những người phóng
khoáng và có một vài điểm đặc biệt nào đó, hoặc trong đời họ có một vài sự
tích. Như kiểu nhà văn X. chuyên viết những chuyện tình dào dạt nhưng đứng trước
phái yếu là đỏ mặt và tìm đường lảng tránh, bác Phổ Đất lừng danh cả khu an
toàn Quảng Nạp, yên Thông những năm xưa. Lại như bác Chín Khế thổi kèn đám ma
hay đến nỗi chinh phục chín cô vợ ở chín làng khác nhau tại vùng Bưởi. Trong số
bạn đông đảo của mình, anh thân thiết nhiều nhất với giới văn nghệ sĩ, đặc biệt
là các nhà văn, nhà thơ mà tác phẩm của họ đã làm cho anh xiêu lòng. Anh cho rằng
những người đó “nhả” ra những bài văn, hay thơ có ích cho cuộc đời. Do đó, là
những người chơi được. Nhưng họ sống nghèo nàn. Họ lại cần phải có những cái
"dư" thi mới tìm được những điều hay, điều mới. Họ sống quá vất vả…
Không no cơm ấm áo thật sự thì còn đâu mà có thể "dư" được. Các cụ
nói rất đúng: “Lập thân tối thị hạ văn chương”. Anh hạ quyết tâm giúp đỡ họ về
nhiều mặt. Anh luôn mời các bạn văn, thơ đến nhà chơi để anh được học hỏi và tạo
điều kiện cho họ gặp nhau trao đổi “ý kiến, bàn luận văn chương và đủ mọi chuyện
trên đời. Những buổi họp mặt “tao dân” như vậy đều do anh đứng ra bố trí, tổ chức,
đài thọ mọi chi phí một cách hào hiệp kể cả cơm rượu lại còn giúp thêm tí chút
để bạn bè có tiền tàu xe đi lại. Nhà anh bao giờ cũng có một vài bạn văn ở lại
làm thực khách. Có người ở lại một thời gian tương đối dài. Ai cũng quý mến
anh, cảm ơn anh và bầu anh làm Mạnh Thường Quân. Để có tiền giúp đỡ mọi người,
đỡ đần một số tác phẩm ra đời anh phải ra tay buôn bán trong nhiều hoàn cảnh
khác nhau. Có lần, người ta gặp anh đi buôn vỏ dó tại phố Ẻn (Phú Thọ) bán cho
người làng Bưởi làm giấy đó lụa in những tập thơ văn đặc biệt có chữ ký của tác
giả có lần, gặp anh buôn trứng ở bến Phà Đen. Anh đã "phất" một dạo đủ
nuôi chừng 10 người thực khách. Mọi người được nghe anh kể lại các mẩu chuyện về
đời anh, vui có, buồn có.
Tên Luân Trứng được đặt trong lúc này. Trong công việc buôn
trứng, anh tỏ ra rất sành. Anh là người chưa bao giờ bị bọn lái buôn ranh ma đếm
thiếu và không hề nhận lầm những quả trứng kém phẩm chất. Anh chỉ cần trông và
nâng quả trứng lên là có thể biết được là trứng chưa ấp hay đang ấp dở… có dạo
anh em ngạc nhiên thấy anh thường hay sang giúp đỡ nhà bà láng giềng ru ngủ chú
bé Đan bằng một giọng ru vời vợi qua những câu như: đồng tiền Vạn Lịch anh
thích bốn chữ vàng" hoặc những câu trong "Lỡ bước sang ngang"?
Vì bé quen rồi, có được nghe mấy câu ru của anh bé mới chịu ngủ.
Dạo đó (1959-1969), nhà thơ Nguyễn Bính mới viết xong vở chèo
cô Son với sự động viên và giúp đỡ của anh Việt Dung là phó giám đốc Sở Văn
hoá, phụ trách nghệ thuật. Anh được lĩnh tạm ứng 300 đồng. Nhưng anh nợ trên
400 đồng nên phải chi tiêu dè sẻn. Anh qua phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm và sà vào
hàng thịt chó. Đó là một cửa hiệu nhỏ nhìn ra cái vườn hoa nhỏ rất vắng người
lui tới. Những người tới đây thường là những khách bần cùng, vì đó là vườn hoa
sau nhà Hoả Lò. Chếch một chút là chùa Bích Lưu, am thanh cảnh vắng có nhà sư
bán một loại tương nổi tiếng gọi là tương của sư cụ chùa Bích Lưu. Trước cửa
hàng có kê một tủ kính bày ớ a nhựa mận, một đĩa lớn bầy khúc thịt chó luộc cắt
ngang với mấy khúc dồi, ít chanh giềng…Vào nhà hàng, anh Nguyễn Bính chỉ dám gọi.
một cút rượu và băn khoăn tính đến gọi thêm một chút gì qua loa cho đỡ cơn
thèm. Bỗng từ bên trong có người nói: "Cháu ơi! Dọn tất cả ra cho ông
khách mặc áo đại cán nhé!”. Lát sau chú bé dọn đến cho nhà thơ hầu như tất cả
các món mà nhà hàng có, làm cho khách hàng lúng túng, không hiểu ra sao. Hay là
có sự lầm lẫn chăng. Mọi băn khoăn được giải quyết ngay lập tức khi anh Luân chạy
ra ôm lấy anh Nguyễn Bính và reo lên: "Cố nhân, cố nhân". Anh tiếp:
Bẵng đi một thời gian, vật đổi sao dời.
Ta mừng gặp mặt, ta mừng cố nhân chén rượu.
Kẻ này "đói” chữ nghĩa chứ không nghèo tấm lòng. Kết
giao với các nhân tài là một việc đẹp đẽ. Xin vài ngày để anh sửa soạn cho vở
cô Son thật hay.
- Anh đã xem vở cô Son rồi à?
- Có anh bạn đưa cho tôi xem. Xem xong tôi “đổ” đấy
- Thế à? Cám ơn anh. Tôi không biết anh ở đâu mà đưa anh xem
trước.
- Này. Đọc xong tôi xúc động quá. Anh nêu lại câu chuyện cô
Son tài sắc yêu anh khoá Hồng. Khi anh này đi thi thì cũng đúng lúc cô ta bị ép
vào kinh làm cung phi của Minh Mạng. Mười lăm năm sau vua mới nhớ ra và vời
nàng đến gặp mặt. Nhưng trong cuộc gặp gỡ lứa đôi, cô Son phải bịt kín hai con
mắt. Cái lệ luật quái ác này được đặt ra vì nghe đâu Minh Mạng không muốn để
phái đẹp phải thất vọng khi thấy mình quá xấu xí (ông bị bệnh đậu mùa). Ông muốn
cho cung phi tưởng tượng ra một thiên tử đẹp như hoa. Cô Son đã vi phạm luật lệ
đó, giật tung băng the khi gặp Vua. Cô thuyết phục Vua bằng những lời thông
minh. Vua đành phải tha cô và cho về quê cũ ở ven Hồ Tây. Về đến quê, cô còn phải
trải qua nhiều cay đắng rồi mới gặp lại người yêu cũ. Khoá Hồng vẫn say mê cô,
bỏ án từ quan về làm dân đen sống nghèo nàn lam lũ với cô Khi cô mất, mọi người
thương cảm dựng lên miếu "Cô Son"… Tôi xin có hai câu đúc kết vớ vẩn
cho cả câu chuyện:
"Mười lăm năm mới biết mặt chồng
Tên son đỏ mà cuộc đời đen tối…"
Hay! Hay tuyệt! Anh không được nói đó là hai câu kết vớ vẩn.
Họ chuyển các món ăn ở ngoài bàn vào buồng trong để vừa mừng gặp lại nhau giữa
một thực khách với một Mạnh Thường Quân. Chừng nửa giờ sau, anh Luân có một yêu
cầu với anh Bính. Anh nói:
- Tôi biết anh bạn từ trước đến nay chỉ làm thơ tình, thơ
lãng mạn, ví vu…Nay tôi muốn có quả rải mùa ở anh. Anh hãy làm cho tôi mấy câu
thơ quảng cáo cho cửa hàng của tôi được đông người đến ăn, rất khó, tôi lại chỉ
tin anh mới làm nổi.
- Tôi sẽ làm.
Anh Luân sai em bé mang ra tờ giấy hàng mã màu vàng, lọ mực
và một chiếc que tre, anh Bính nghĩ một lát rồi viết:
"Không qua Bông Nhuộm thì thôi
Hễ qua chốc lát, xin mời tới đây”
Cổ truyền có món thịt cầy
Xào lăn, yến, chả, bóng, cay khôn bì…"
Anh Luân vui quá, vỗ đùi đen đét, mời thêm bạn mấy chén rượu
và tự thưởng cho mình một chén vì đã phát hiện ra đúng người làm được bài thơ
mình mong đợi. Anh cho dán bài thơ lên tủ hàng. Lại qua nhiều năm, tháng…Anh
Luân đi nơi khác sinh sống bằng nhiều nghề. Nhưng đến giờ, anh vẫn giữ kỹ cái tờ
giấy hàng mã màu vàng đã biến màu có bốn dòng thơ quảng cáo chính cống mà lại rất
thơ ấy. Đó là bút tích của người bạn thân, là tác giả của các bài "Chân
quê, tương tư", "Cô lái đò", "Ghen", "Cô hái
mơ" v.v… đó là kỷ niệm của tình bạn. Anh còn gọi là tình văn chương. Thỉnh
thoảng có dịp, anh lại giở bài thơ ra xem, rồi trân trọng xếp lại và cất đi,
coi là của "gia bảo".
BÀ LÝ TẾ
Bà Lý Tế đã 92 tuổi, (năm 1995). Mắt bà đã kém Lắm nhưng vẫn
đi lại được đàng hoàng. Bà về ở một gian nhà thờ họ ở Quốc Oai mà bố bà là trưởng
họ. Từ những năm 1931, bà đã mở rạp Tam Kỳ hí viện, nay ở khu Kim Mã, gần chùa
Kim Sơn và sau đó vài năm lại mở 10 gian hát ả đào, cách rạp hát chừng vài trăm
mét. Tam Kỳ hí viện diễn cả tuồng, chèo, cải lương.
Rạp có hai đoàn diễn một đoàn lấy tên một diễn viên chính là
Anh Đệ và một đoàn là Tạo Lý. Các diễn viên bổ sung cho nhau. Họ thường diễn được
cả ba loại và luân lưu diễn ở khắp các tỉnh và các miền quê, miền núi. Mỗi đoàn
gồm chừng 40 người. Trước tiên, bà chủ Lý Tế là một giai nhân, vì yêu nghề mà bỏ
tiền ra, chiêu hiền đãi si.
Bà được nhiều Mạnh Thường Quân giúp đỡ. Các vị chức sắc từ
cao đến thấp đều sẵn sàng giúp đỡ bà mở rạp và ra mặt khách thập phương, không
có người đàn ông nào mà bà có cảm tình lại không yêu bà. Cả Hà Nội, nhất là khu
vực gần Kim Mã đều biết bà. Với sự chỉ huy của bà, các buổi biểu diễn nhất thiết
phải có mặt từ hai đến ba đào kép hạng nhất gọi là kép "hoa" hoặc đào
"hoa" là những người tài hoa, nhan sắc làm cho khán giả mê mệt, như
bây giờ người ta gọi là diễn viên ngôi sao.
Khi họ ra diễn, tiền tung lên sân khấu như mưa. Bà tính đến
hiệu quả của buổi diễn. Có buổi được cô Hoa Tâm hoặc bà Ái Liên sang diễn cho rạp.
Chủ rạp khuyến khích các diễn viên nổi tiếng tiếp xúc với mọi người và cử những
đào hát xinh đẹp và tài năng đi “ngoại giao” và nhận các suất diễn. Họ nhận những
suất diễn ở các phủ, huyện, xã hoặc ngay cả trong các dinh thự, phủ đường, các
hội hè đình đám.
Cũng có nơi chỉ có vài người diễn, hai người hoặc một người.
Đó là những suất diễn "thiêng". Những việc ngoại giao lớn quan trọng
hoặc chuyên xoay xoả sao cho luôn có tiền nuôi nhau do chủ rạp đảm nhiệm. Hoa
Tâm và Ái Liên đều là chủ của hai gánh hát. Họ cũng là hai diễn viên
"vàng". Nhưng họ sẵn sàng diễn giúp Tam Kỳ hí viện. Cũng có thể vì
yêu cầu đặc biệt mà vài diễn viên nổi tiếng được “tiếng bo” qua lại giữa các
gánh hát. Họ có thể nhường diễn viên này cho gánh hát nào đó trong một thời
gian ngắn. Đó cũng là một kiểu mà bây giờ gọi là Makerting hoặc là "chuyển
nhượng cầu thủ".
Có lần, rạp mời ông Đinh Khắc Ban, đào Đàm Mộng Hoàn và cụ
Trúc Hiền để mở một màn dạo chầu văn không chê vào đâu được trước khi diễn vở
chính. Mà thế thật. Tiếng đàn đáy của ông Đinh Khắc Ban là tiếng đàn giang hồ số
một. Tiếng trống chầu của cụ Trúc Hiền phải đổi bằng giá của cả một cơ ngơi nhà
cửa, ruộng vườn và sự hi sinh của vợ con cụ trong suốt nhiều năm mới có được.
Còn Đàm Mộng Hoàn thì khỏi phải nói. Đó là con chim oanh mỏng manh nhưng hót
hay mà hai hãng đĩa hát Fathé và ASIA phải tranh nhau mời mọc và gọi nàng là
viên ngọc của làng ca sĩ. Bà Lý Tế bảo rằng lớp biểu diễn đặc biệt này là để
“chiều” những vị khách sành và làm say lòng khách, nói chung để có được lòng
tin. Chủ rạp rất biết giá trị của từng người, thậm chí cả từng câu hát, dáng
múa. Bà biết rõ tâm lý tác phong và cuộc sống riêng tư của từng người. Bà luôn
nhắc nhở các diễn viên là diễn đẹp thế mới có thể nuôi nhau được. Những Lê
Chiêm, Sĩ Tiến, hề Năm Ngũ, kép Thi, kép Nhã… thường có những suất diễn cho bà.
Nghĩa là bà huy động được tất cả những đào, kép hạng nhất và siêu hạng của Hà Nội
và cũng đón được những anh tài ở miền Trung và Sài Gòn ra. Do đó, Tam Kỳ hí viện
mới có thể cạnh tranh được với Quảng Lạc, Hiệp Thanh và một vài rạp chớp bóng.
Thế rồi, vi vật đổi sao dời… Tam Kỳ hí viện chỉ còn một nhóm.
Tuy vậy, họ vẫn đến diễn cho các đơn vị bộ đội cách mạng. Ông Lý là chồng bà đã
mất. Bà đi bước nữa với một vị chỉ huy cao cấp trong quân đội. Ông có lòng với
sân khấu và say đắm bà… Ngày nay, ở địa điểm gần chùa Kim Sơn (Kim Mã) chỉ còn
vết tích một mảng tường có bốn chữ Tam Kỳ hí viện và gần đó còn có vết cũ của
mười gian phòng hát ả đào, để đánh dấu một vùng đã từng là nơi nhộn nhịp ngựa
xe, tài tử giai nhân, tối nào cũng vút lên những giọng hát cùng đàn sáo xôn
xao. Những tích hát như: Duyên chị tình em, Dự Nhượng đả long bào, Giang tả cầu
hôn, Kiều, Nhị độ Mai, Toà án lương tâm, Lã Bố hí Điêu Th quyền, Tông Trân Cúc
Hoa, Phan Trần, Hoàng Trờn, Mộ cô Phương… không bao giờ vắng khách…
Sau Tết Ất Hợi (1995), bà chủ rạp Tam Kỳ hí viện xưa đến thăm
lại bức tường có bốn chữ Tam Kỳ hí viện. Bà đã 92 tuổi, không còn nhìn rõ nữa.
Nhưng trí nhớ của bà còn tốt lắm. Bà đã lui về quê từ lâu với hai bàn tay trắng,
chỉ còn giữ lại làm kỷ niệm một hòm đạo cụ bằng gỗ và cây đàn cổ. Tuy vậy, chiếc
hòm gỗ đó còn chứa cả nỗi niềm hân hoan siêu tuyệt. Suốt đời bà chỉ bỏ tiền ra,
xoay xở mọi cách để nuôi anh em diễn trò chứ không hề xà xẻo của anh em một đồng
xu. Tôi cảm động lắm về điều này, đến nỗi chẳng nói được nên lời. Bà nói thêm:
- Mình vì anh em, làm cái nghề múa hát này để mua cái vui,
cái buồn bất tử… Bà nói sâu sắc mà tinh nghịch.
Hai đứa con của chồng bà được bà nuôi nấng từ bé nay đã trưởng
thành. Chúng coi bà như mẹ đẻ. Những đào kép khi xưa làm việc với bà chẳng còn
mấy. Bản thân bà không có con. Bà biết những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Lê Văn
Trương, Nguyễn Bính… thường là thực khách của bà. Rạp hát cũng là nơi mà cái bạn
văn chương đó đến viết văn và hoàn thành những bản thảo. Bà lại bảo, nếu không
có mặt của các đào nương, son phấn và những sự trông nom chăm sóc, vuốt ve chiều
chuộng tuyệt vời của cái mùi trần thế nồng nàn thì làm sao mà có nhà văn giỏi…
Bà Lý Tế sống trong cô đơn và kỷ niệm. Tuy vậy, bà vẫn mang theo mình một mối
khát vọng siêu phàm về sân khấu. Khát vọng này không bao giờ rời bà vì bà cũng
không muốn rời nó.
CÁI TẾT CỦA NHÀ THƠ QUANG DŨNG
Năm đó, vào khoảng 1945-1960, gia đình anh Quang Dũng Tây Tiến
(xung quanh hàng xóm gọi anh như vậy) ở một căn nhà nhỏ, hẹp ở phố Lý Thường Kiệt.
Ngoài giờ làm việc ở cơ quan, anh chẳng mấy lúc có nhà. Anh đi khắp nơi, hết đến
nhà bạn này lại đến nhà bạn khác. Anh rất nhiều bạn. Nhiều bạn và những người
quen thường mời anh đến nhà và mời anh ăn những bữa cơm dưa muối. Anh dễ ăn. Có
bữa chỉ vài củ khoai luộc cũng xong. Anh nói đùa là đã ăn mấy củ nhân sâm. Anh
còn đi thư viện đọc sách và la cà ở các hàng quán hoặc bị hút vào đám xẩm, một
trận cãi nhau…
Đi đâu với anh cũng là làm việc cả. Anh nghe nhiều, nhìn nhiều,
giữ lấy những hình ảnh, những âm thanh rồi tổng hợp lại thành những chất liệu để
dùng dần trong sáng tác thơ, văn. Anh gọi là đi nhiều để “nạp điện” rồi mới “nhả
điện” được. Tôi ngạc nhiên vì anh đã dùng nhiều từ kỹ thuật chính xác và đắt
khi nói chuyện với tôi. Thì ra, anh biết tôi đang theo đuổi công việc về kỹ thuật,
khoa học. Và tôi cũng hiểu rằng anh Quang Dũng mày mò đến nhiều mặt: khoa học,
kỹ thuật, y học, công nghiệp, mỹ nghệ thủ công… Cái gì cũng tò mò, muốn biết và
học hỏi.
Hôm đó là trưa 30 Tết. Anh về nhà sớm và hạ quyết tâm ở với
gia đình suốt 3 ngày Tết cho trọn vẹn (anh nói vậy). Anh về nhà, cửa nhà còn ngổn
ngang. Chị Thạch, vợ anh đang bận túi bụi. Chị đang thổi xôi và cũng còn đang bực
bội với cái tội lớn của nhà thơ là đã để kẻ cắp móc mất một số tem, phiếu mấy
tuần trước đó. Chị bảo: "Ông đã chẳng giúp đỡ gì cho vợ con, lại
còn…". Anh cười, xua tay:
Người ơi! Ta nặng nghiệp phong trần
Tôi nguyện dâng đời hết tuổi xuân
Tình bạn nơi tim, tôi kính giữ
Mặc dầu trôi nổi áng phù vân…
Chị dịu đi và trình bày một loạt vấn đề. Nào là chồng được 13
cân gạo, vợ 10 cân gạo, lương chẳng bao giờ đủ cả. Năm nay, chị lại thổi xôi.
Anh Quang Dũng nói: "Thế là có bánh chưng rồi. Bà dỡ xôi ra lá, cho một ít
nhân vào giữa, gói lại như chiếc bánh chưng vuông thành sắc cạnh, đem nấu lên một
lát. Thế là ta cũng có bánh chưng như ai, lại không phải đun lâu tốn củi”. Chị
Thạch cười: "Ông thật khéo bày trò", rồi làm đúng như vậy. Năm ấy,
nhà chị có 12 các bánh chưng cải tiến. Tối 30 Tết, anh mở hàng cho vợ và các
con, mỗi người một phong bao giấy đỏ. Chị Thạch cảm động bảo các con: “Phong
bao của bố đấy”. Cũng có nghĩa là thơm thảo thôi chứ không có nhiều. Sau đó, mọi
việc trong nhà lại do chị Thạch đảm nhiệm. Anh treo bức tranh Tết lên tường. Gọi
bức tranh này là "Tĩnh vật" hoặc "Cúc vàng" đều được cả.
Trong bức tranh này, anh vẽ mấy quả cam mọng vàng nằm trong đĩa. Cạnh đó là mấy
bông cúc vàng xòe ra. Xa một chút là ông phỗng bằng giấy ở các chợ quê xưa. Bức
tranh này anh vẽ từ mấy hôm trước, không ai biết. Nó gây một xúc động mạnh. Hoạ
sĩ Phạm Viết Song thích bức tranh lắm, gọi nó là bức "Hương xưa". Hoạ
sĩ Văn Đa ngắm bức tranh hàng nửa tiếng đồng hồ và gọi là bức "Hồn dân tộc".
Thế là xong. Anh ra hẳn một góc riêng. Anh thổi sáo. Anh thổi mỗi bài chỉ một
đoạn. Mà là đoạn anh thích nhất. Thôi thì đủ cả những: “Hòn vọng phu", Hà
nhật quân tái lai, Si na nôi u ru, Biệt ly nhớ nhung, Trở lại Sôriăngtô…
Anh ra ngoài phố một lát, đúng 12 giờ, khi pháo giao thừa nổ
ran mới về nhà "xông đất”, nói một vài lời chúc mừng vợ con, hy vọng năm mới
gia đình sẽ được khoẻ mạnh, và nhất định sẽ nhấm khá hơn năm cũ.
Sáng mồng một Tết, anh "xuất hành" đi thăm chùa.
Lúc về nhà gặp nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến chúc Tết và biếu hai chiếc bánh
chưng. Nhà viết kịch Huỳnh Chinh cũng biếu anh hai chiếc bánh. Tối mùng một Tết,
anh cầm bút viết đoạn đầu của bài thơ "Đường chiều thứ bảy”. Bài thơ này,
sau được đăng trong tập, "Mây đầu ô” của anh. Đó là một bài thơ dài mang
âm hưởng một trường ca, gồm 195 câu in trong 10 trang khổ 13 x 19cm. Bài thơ ấy
đồng thời cũng là một bản nhạc, là bức tranh mà cũng là một khúc tâm tình. Nó kể
lại quãng đời của một cô gái trong triệu người thời đại: Người thiếu nữ hay hát
bài hát ưa thích mỗi khi lên hoặc xuống thang gác. Cô yêu một anh cán bộ quân đội
đang chiến đấu ngoài mặt trận. Anh đã ngã xuống trong chiến đấu, không trở về.
Ngày hoà bình lập lại, cô bé xưa đi bên người chồng mới. Cô thấy cuộc đời to, rộng
và đã có bao nhiêu người thân yêu đã hi sinh cho mình, cho Hà Nội rực rỡ. Bài
thơ đã có tiếng vang nó ngậm ngùi mà lóe lên những tia nắng lạc quan. Nó là một
bản Sonate bi hùng mà chỉ có một nhà thơ lớn và đầy tài hoa mới viết nổi. Ngày
mồng bốn Tết, anh Quang Dũng lại hăm hở đi nơi này nơi nọ, chẳng mấy lúc có
nhà. Anh đến với mọi người, với người quen, người chưa quen. Anh có duyên làm
quen với bất cứ ai và rất dễ xúc động. Tâm hồn cử mỏng manh và rung rinh. Anh
tâm sự với tôi: "Phải biết làm quen và học tập những người giỏi hơn
mình".
Chương III ( B)
LỆ THANH
Lệ Thanh sinh ra ở làng Văn, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 10 tuổi, cô bé theo gia đình lên ở gần cửa Đông và học trường Hàng cót. Cô
thường xin tiền mẹ cùng cô bạn thân tên Bích đi xem xi-nê ở rạp Văn Lang, Hàng
Bạc. Năm 11 tuổi, bất chấp gia đình ngăn cấm, cô vào học hát ở gánh hát Quốc
Hoa đồng ấu. Đến năm 15 tuổi, cô đã là một diễn viên chính thức, theo đoàn đi
diễn khắp nơi: Gia Lâm, Tạm Thương, Khâm Thiên, Bạch Mai, Đào Duy Từ, Lạc Thành
Tài, Tân Thành Ban v.v… rồi đi các tỉnh. Ông chủ rạp Quốc Hoa, Phó Đức Hanh là
một con người tài hoa, đã sớm phát hiện ra Lệ Thanh có đủ 4 yếu tố quan trọng:
thanh, sắc, tài, duyên.
Năm 16 tuổi, Lệ Thanh đã đóng được vai chính trong các vở
Chiêu Hoàng - Trần Cảnh, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, Lá gan nhi nữ, Chiêu Quân… Qua mấy
vở diễn này, Lệ Thanh được đánh giá cao về nghệ thuật nhả chữ, ngừng lặng, luyến
láy…Đó là những điều cần thiết nhất đối với những diễn viên cải lương. Nhưng 3
năm sau, Lệ Thanh mới "chín" trong những vai diễn sở trường của mình
vì đã biểu hiện rõ nét được sắc độ tình cảm và cung bậc tâm hồn của vai diễn.
Do đó vai Lý Chiêu Hoàng của Lệ Thanh đã làm cho khán giả bâng khuâng. Sao lại
đẹp đến thế nhỉ? Đẹp về mọi mặt. Ở sân khấu cải lương bao giờ cũng phải
“cài" vào một đào chính thật đẹp. Vẻ đẹp trên nét mặt, thân hình, dáng điệu
của đào cải lương không giống như ở tuồng, chèo, kịch nói mà nó phải là vẻ đẹp
sương khói, thanh tao như ở diễn viên ba lê Lệ Thanh có được cái nét đó, nó nặng
hẳn về tâm hồn, tâm linh, dào dạt một nỗi niềm…
Lệ Thanh không chỉ đẹp về hình thể mà còn về cách diễn, lời
ca. Cô học được ở liền chị Bích Hợp, có gục gác từ Kinh Bắc, sự trong sáng, ấm
áp, vui trẻ và ở liền chị L.K cái giọng kim pha cổ mượt mà, dài rộng. Cô cặm cụi,
chăm chỉ, say sưa học lấy những "miếng" của người khác một cách tham
lam, thèm thuồng để biến chứng thành của mình. Sau khi thành công vai Lý Chiêu
Hoàng, Lệ Thanh cùng với đoàn trôi nổi khắp nơi trên các nẻo đường lưu diễn. Cuộc
sống lấy ngày làm đêm với thân phận đào kép. Cũng có ngày chỉ ăn một bữa. Nhưng
Lệ Thanh không vì thế mà không hiến cả cuộc đời mình cho nghiệp cầm ca. Lệ
Thanh vẫn cứ diễn được nhiều vai, càng học được nhiều điều từ các diễn viên lớp
trước.
Lệ Thanh chói sáng qua những vai chính trong các vở: Điêu
Thuyền, Mộng hoa Vương" Dương Quý Phi, Đát Kỷ, Chiêu Quân, Thôi Oanh Oanh,
Lục Vân Tiên. v.v… Để diễn được những vai này, Lệ Thanh đã phải học cả những
bài côn, quyền, đao, kiếm. Riêng với vai Điêu Thuyền, cô đã thành công rực rỡ
vì Điêu Thuyền của Lệ Thanh là tổng hoà phức tạp của nụ cười nước mắt, tình cảm,
bạo lực, tình yêu, e ấp, dịu dàng… Lệ Thanh hiểu rằng con người Điêu Thuyền yểu
điệu mà dũng mãnh. Nàng lấy son phấn làm chiến trường, lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy đôi mắt nũng nịu để giăng cạm bẫy…mang lại chiến thắng về cho mình. Nàng đã
biến thành thần nữ. Vai Điêu Thuyền chỉ được rớm chút nước mắt thôi. Để nước mắt
đầm đìa là thất bại.
Lệ Thanh đã đóng được một vai Điêu Thuyền hoàn hảo đến nỗi những
lớp người sau chưa ai vượt nổi chị. Cũng như hơn 70 năm trở lại đây, đóng Thị Mầu
không ai vượt được Hoa Tâm, đóng Chu Du, Quan Công chưa ai vượt được Sĩ Tiến. Đến
đóng vai Thôi Oanh Oanh trong truyện Tây Sương lại càng phải đẹp, rất đẹp. Lại
phải nhạy cảm, trí tuệ Trong lúc quấn quít bên nhau, người yêu của Thôi bảo:
"Tịch dương đẹp vô cùng". Thôi đáp ngay: “Nhưng cũng sắp hoàng
hôn"… Như tác giả Tây Sương tả: "Thôi Oanh Oanh có cặp mắt mơ màng của
con phượng ư? Nếu nói là mắt phượng thì còn là thường, đôi mắt của Thôi là đôi
mắt của con phượng vừa mới tỉnh giấc (Sơ tỉnh phượng) thì mới là tuyệt trần".
Lệ Thanh đọc kỹ truyện Tây sương” Và học hỏi nơi các nhà văn. Lệ Thanh với đôi
mắt của con phượng vừa tỉnh, lung linh, môi mềm, mắt ướt. Nhưng khi đóng vai Mỵ
Châu trong vở My Châu - Trọng Thuỷ, Lệ Thanh lại có gam màu một tâm hồn chất
phác, ngây thơ, trong trẻo như nước suối. Những năm kháng chiến chống Mỹ, Lệ
Thanh theo đoàn đi diễn khắp các thành thị, nông thôn. Nhiều khi diễn trên mâm
pháo, trong bom đạn, ở ngay trên mặt trận pháp. Tuy Lệ Thanh đã trở thành một
diễn viên nổi trội trên các sàn diễn cải lương ở Hà Nội, lòng ham học hỏi về
nghệ thuật cải lương vẫn làm cho các đồng nghiệp phải kính nể.
Lệ Thanh nhớ lại một kỷ niệm sâu sắc Đó là những năm
1951-1952, có một số diễn viên Nam bộ nổi tiếng như Tư Chơi, Phùng Hà, Kim Cúc,
Năm Châu, Kim Thoa…đến Hà Nội. Họ không những nổi tiếng ở khắp nước mà còn nổi
tiếng ở cả nước ngoài như Hồng Kông, Pháp… Họ chỉ ở lại tháng một tuần lễ mà họ
đã làm cho hành trang cải lương của Lệ Thanh phong phú lên rất nhiều về mọi mặt.
Lệ Thanh học những người thầy từ quê hương của cải lương đến một cách triệt để,
không biết mệt mỏi. Các nghệ sĩ lớn miền Nam thật tuyệt. Âm thanh những bài hát
của họ đẹp và mạnh đến nỗi có thể gây ra gió bão trên sân khấu. Từ trên sân khấu,
nó ào xuống thính giả, làm tung bay tóc họ, bắt trái tim họ phải rung động.
Rung động vì niềm tự hào về thiên tài của con người.
Cộng với những gì có trong mình, Lệ Thanh cũng mấp mé được
trình độ của họ. Như vậy, cũng đủ để chị có được vài dòng trong những trang sử
vẻ vang của nghệ thuật cải lương Việt nam. Để diễn được vai một bà mẹ bên sông
Hồng, Lệ Thanh kết thân với nhiều bà mẹ, nhiều bà bủ mang hoá thân của Ỷ Lan,
cô Tấm…Chuẩn bị cho vai Trưng Trắc, Lệ Thanh đã đọc sử sách, đã sang tận Cổ
Loa, tần ngần đứng bên đền My Châu, giếng Ngọc… Lệ Thanh lại vào bảo tàng lịch
sử, chạm tay vào mặt trống đồng…Tất cả là để xây dựng một nhân vật hào hùng,
chói sáng, thiêng liêng, bay bổng, rực lửa…
Năm 1972, chính cái ngày bom đạn địch phá sáp cả ngôi nhà của
chị là lúc chị đang đóng vai Trưng Trắc ở Hà Bắc. Sau đó, chị lại đóng một loạt
vai chính trong các vở Dòng suối trắng, Y Ban và nàng tiên, Dạ khúc mình yêu
v.v… đặc biệt, vai bà mẹ Cam-pu-chia trong vở Hai phương trời thương nhớ đã đem
đến cho chị chiếc huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985. Đến
năm 1988, Lệ Thanh vẫn còn diễn và hát được rất hay. Nhưng chị quyết định ngừng
diễn. Chị trao lại những vai tâm huyết của chị như Kiều Nguyệt Nga, Thôi Oanh
Oanh, Hồng Nương, Phương Hoa, Trưng Trắc… cho các học trò của mình. Một thời
gian, chị làm chủ nhiệm khoa cải lương của trường Cao đẳng nghệ thuật sân khấu.
Các học trò của chị đã không phụ lòng chị, họ đã gây được ấn tượng mạnh trên
các sàn diễn khắp nước và cả ở nước ngoài bằng những vai diễn do chị truyền lại.
Lệ Thanh đã giới thiệu cải lương Việt nam trong hai cuộc
Festival tại Liên Xô cũ và Trung Quốc. Báo chí Trung Quốc gọi chị là ngôi sao
sáng hấp dẫn. Ở Liên Xô cũ người ta gọi chị là Bà hoàng. Lệ Thanh được đánh giá
là đã có được nhiều vai diễn xuất thần. Nhất là những khi chị "đổ” 6 câu vọng
cổ chị đã làm cho cả rạp xôn xao hẳn lên rồi bỗng lặng đi vì tài năng kỳ diệu của
chị. Nay, chị đã nhiều tuổi. Chị dịu dàng, ít nói, sống thiên về nội tâm. Cử chỉ,
giọng nói, ánh mắt, nụ cười vẫn đằm thắm, sinh động, tình cảm. Nghĩa là còn
tràn đầy cái đẹp. Những người có duyên nợ với sân khấu vẫn thường coi chị là một
kho kinh nghiệm để khai thác, để nghe chị kể về những dặm đường sân khấu, có thể
hát lên được mà cũng có thể khóc lên được.
ANH TRẦN HOẠT
Sau một vài chuyến đi tham quan phong cảnh ở Boóc-đô (Pháp) về,
tôi thấy trên bàn có một lá thư mà phong bì thuộc vào loại dùng cho thiếp báo hỉ
hoặc mời dự cưới bán ở phố Huế, Bờ Hồ gì đó ở Hà Nội. Chữ viết trên phong bì được
nắn nót đến cầu kỳ: “Vạn hạnh kính thưa ông nhà báo X…". Tôi bóc thư xem,
được biết người viết lá thư này là một phụ nữ Việt nam. Chị đã đến tìm tôi mấy
ngày hôm nay mà chưa gặp. Chị lại phải về Paris ngay nên khẩn khoản xin tôi cố
gắng thu xếp đến Paris để chị được gặp. Nếu tôi không đi thì tuần sau chị lại
quyết định bỏ cả một tuần lễ đến gặp tôi. Chị sợ tôi túng thiếu nên gửi lại cả
tiền tàu xe cho tôi. Tôi lại giở thư đọc tiếp:
"Âu cũng là duyên phận của cái kiếp phù du". Tôi muốn
được gặp ông. Tôi luôn luôn nghĩ về Hà Bắc, Hà Nội, Sài Gòn, về những xóm quê
nghèo nàn của tôi ở cả hai miền Nam Bắc… Tôi được xem bài báo của ông viết
trong đặc san “Quân đội nhân dân” về anh Trần Hoạt… Tôi cảm động quá, tôi khóc
mấy ngày nay…
Ông có viết rằng anh Trần Hoạt sinh năm 1917, người Hà Bắc là
đất Kinh Bắc xưa. Nơi đó đẹp lộng lẫy trong ý nghĩa về địa dư lịch sử và cả
trong hoài niệm. Đó là vùng đất hào hoa, anh Hoạt yêu mến tuồng chèo, quan họ từ
rất sớm đến nỗi… 8 tuổi đã bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi gắt gao của nghệ thuật
truyền thống…
Năm 1984, ông được phong danh vị nghệ sĩ nhân dân…" Tôi
cũng chỉ còn nhớ mang máng bài viết nói trên vì tôi viết nó đã từ lâu. Nhưng
qua những dòng thư, tôi thấy người viết có một nỗi niềm đặc biệt đây. Tôi liền
tới địa chỉ đã ghi trong thư. Sau hồi chuông, một cô gái đến hỏi tôi:
Ông tìm ai ạ?
Tôi là X. muốn đến gặp bà L.
Vâng, mời ông. Cô tôi có nhà.
Được dẫn qua hai phòng sang trọng rồi đến một phòng nhỏ bình
dân. Đó là phòng của chị L. Sau vài lời giới thiệu, chủ nhà tiếp tôi niềm nở
quá mức, như kiểu người ta gặp được ân nhân vậy. Bà chủ mặc bộ quần áo bà ba kếp
mịn đã được âu hoá và gia công khéo đủ để ngang hàng với những mốt quần áo ở
quê hương thời trang này. Chị L. đã hơn 50 tuổi nhưng trẻ hơn nhiều so với tuổi.
Nhìn chị, người ta có thể biết được chị đã từng là trang nhan sắc một thời. Chị
mời tôi uống nước nụ vối và ăn chè bà cốt. Chị nói: "Xin anh cho tôi được
coi anh như người ruột thịt. Anh có viết rằng trước khi trở nên một đạo diễn kịch,
anh Trần Hoạt đã giang hồ khắp chốn và đã qua hàng chục nghề, cho nên trong anh
tràn ngập những mảnh đời và: mẫu người xanh tươi. Với cái vốn "đời” phong
phú, anh đã góp nhiều dáng vẻ rực rỡ cho nền sân khấu ở nước ta… Nay tôi xin được
bổ sung vài nét nữa về nghề nghiệp khi xưa của anh…"
Anh Trần Hoạt làm đủ mọi nghề. Thoạt đầu, anh đi bán tơ Vũ Tạo,
đánh giày, chào hàng, thầy ký… có dạo, anh cùng tôi đi bán tranh Tết cho một
nhà buôn để lấy tiền hoa hồng. Anh có thuật mời khách mua tranh. Anh giới thiệu
tranh bằng kể chuyện, bằng những nét tuồng, chèo, ca trù… Với bộ tranh Ngưu
Lang Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu
Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu Chức Nữ
Hai bên cầu ôm mặt khóc thành mưa… Nhiều khi anh làm cho khách mua tranh cảm động
hoặc phấn khởi hẳn lên. Tôi không kịp thu tiền. Có dạo, qua tôi anh Hoạt quen một
số chị em ca kỹ phường Dạ Lạc. Anh an ủi chị em và làm thầy dạy tiếng Pháp cho
chị em để họ kiếm sống được hơn cho đỡ khổ. Một số chị em bị bắt bỏ bóp, anh
thương hại chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho chị em ra bằng cách đứng ra bảo
đảm nhận là chồng. Anh nói rất khéo làm mủi lòng cả những kẻ độc ác. Đôi khi
xen vào chất pha trò, đùa vui hoặc kể chuyện bịa. Anh gọi đùa cái công việc nói
trên là nghề làm chồng thuê. Mà nào có ai phải thuê công anh đâu. Anh với tay cả
vào những cảnh đời rất "bụi" mà lại trong sáng, cao thượng. Có khi chị
em muốn tặng anh chút quà nhỏ, anh không hề nhận, mặc dù cuộc sống của anh rất
túng bấn. Chính anh đã dạy cho L. đánh đàn dây và hát ả đào. Anh dạy cho L. biết
cái đẹp của nghệ thuật siêu việt này và thấy cuộc đời còn có ý nghĩa. Anh dạy để
L. và các bạn của L. biết rằng quê hương ta đẹp lắm nhưng cũng nghèo lắm. Dạo ấy,
thú thực, tôi yêu anh ấy lắm. Nhưng anh còn mải bước giang hồ. Anh sống có tâm
hồn, nhiều giấc mộng và cũng sống cái lối "không biết đến ngày mai"
nên anh không đáp lại. Cũng không phải là anh khinh tôi. Anh thương tôi thì
đúng hơn. Chính anh cũng đáng thương. Thời gian trôi qua, một anh cai khố đỏ
người ở mỏ Hòn Gai đã lấy tôi, rồi cùng tôi phiêu bạt sang Pháp. Cuộc đời xô đẩy
mà… ông nhà tôi vừa mới mất năm ngoái. Dù luôn được động viên nhập quốc tịch
Pháp, nhưng chúng tôi cương quyết giữ quốc tịch Việt nam. Việc làm này cũng gây
cho chúng tôi nhiều khó khăn. Nhưng chúng tôi được yên ổn về tâm hồn. Khi được
đọc bài báo của anh, tôi đã khóc nhiều. Khóc một con người cao thượng mà tài
hoa nhiều mặt, giàu lòng ưu ái đối với con người. Ngày nào tôi cũng thắp hương
và thỉnh thoảng mời hai ông bạn Kỳ, Ngọc cùng một số bạn bè cùng nhau tổ chức một
đêm hát ca trù. Đào nương là tôi. Bao giờ tôi cũng trả bài thầy tôi bằng bài
"Hồng hồng tuyệt tuyệt, mới ngày nào không biết cái chi chi…" Nay tôi
đã già, thỉnh thoảng gom góp chút ít biếu vào quỹ kiều bào yêu nước xây dựng tổ
quốc và thường giúp vui những buổi họp mặt hoặc biểu diễn văn nghệ. Coi đó là tấm
lòng để xứng đáng với quê hương xứ sở, với mái chùa, giếng nước… Quả thật tôi
không bao giờ nguôi nhớ cái làng Đình Bảng tươi đẹp, nam thanh nữ tú của tôi. Đấy
anh xem gia bảo nhà tôi treo ở trên tường chỉ là một chiếc đàn đáy và một chiếc
đàn nguyệt…
Chị L. nói một mạch, chẳng cần để ý đến ai, tưởng chừng như
chị phải nói cho bằng hết mà nếu ngừng lại sẽ bị mất dòng cảm hứng mà quên mất
phần nào những ý định cần bộc lộ ra cho thoả lòng. Chị nói nhiều lúc như bị ốp
đồng rồi chị khóc. Trong tiếng khóc của chị vừa có vị cay đắng, vừa có cả những
điều mừng mừng tủi tủi, lại xen cả nỗi niềm sung sướng thật khó tả và chị sực
nhớ ra là chị đang tiếp tôi, chị xin lỗi tôi lâ đã nói hết cả phần của tôi. Chị
lại tiếp: "Anh có tấm lòng thật quý hoá với ông anh của tôi, ông thầy của
tôi, người mà tôi yêu. Anh ấy cũng được mọi người yêu quí chẳng có thế lại được
là nghệ sĩ nhân dân…"
- Thế chị có còn nhiều bà con bên nhà không ạ? - Tôi hỏi.
- Chẳng còn ruột thịt gì nữa. Nhưng trong họ ngoài làng, tôi
nhớ tên từng người. Tôi nhớ từng búi tre gai nhà ông Ba Bò, bờ đê thả trâu, đám
rước ngày hội, cổng tam quan, gác chuông…
- Cảm ơn chị đã cho tôi thêm một số chi tiết rất quý để viết
một bài báo. Nếu chị cho phép tôi lấy tên bài báo là "Người tình của anh
Trần Hoạt"…
- Như vậy là quá vinh dự cho tôi. Đó là điều tôi mơ tưởng.
Nhưng tình yêu là phải cả hai bên. Anh ấy cao cả và trong sáng quá. Mà tôi cũng
không muốn buộc anh vào cuộc đời tôi, vì tôi sợ anh sẽ khổ. Tôi yêu anh và mong
cho anh đạt được mọi giấc mộng của anh. Đúng ra, anh cũng yêu tôi. Không yêu
tôi làm sao được: “Anh Hai không yêu, tôi lấy đạo bùa qua lời anh ư phải
yêu": Đó là bài hát mà cũng là thực đấy anh ạ.
- Tôi nghĩ đó cũng là tình yêu chị ạ. Tình yêu cao hơn một
chút và mở rộng…
Chị L. cám ơn lời nhận xét của tôi. Với động tác bai tay chắp
lại, chị vái. Tôi hiểu ngay, chị vái anh Trần Hoạt, vái quê hương, làng Đình Bảng
của chị… Trên đường trở về nơi làm việc, lòng tôi nao nao một cảm giác dễ chịu,
yên tâm và có chút tự hào.
HAI CON NGƯỜI TÀI HOA
Trần Hoạt là một số ít trong những người mở đầu cho việc hình
thành nghề đạo diễn kịch nói ở Việt nam. Ông đã được phong tặng nghệ sĩ nhân
dân ngay từ đợt đầu. Đó là một con người của Kinh Bắc. Lúc mới 6 tuổi, ông đã bỏ
nhà ra đi theo một gánh tuồng rồi phiêu bạt khắp Trung, Nam, Bắc. Là con người
làm nghề tài hoa, tận tuỵ, ông có công phát hiện ra nhiều tài năng sân khấu,
giúp đỡ và hướng dẫn nhiều diễn viên thành tài. Trong công việc đạo diễn sân khấu,
ông rất hiểu nghiệp đời. Khi ông học tập ở nước ngoài, một số tiểu phẩm của ông
được các đoàn kịch Trung Quốc sử dụng. Các đoàn kịch như: Kịch nói, tuồng,
chèo, cải lương đều đến trèo kéo ông. Ngay cả mấy đoàn ở các tỉnh xa và nghiệp
dư cũng luôn "mai phục" để đón ông về đoàn mình. Có điều là phải luôn
luôn có rượu cho ông. Khi đạo diễn, cạnh ông bao giờ cũng có thêm một chiếc ghế
để chai rượu và chiếc chén. Ông bảo: "Không có rượu thì không làm được gì
hết". Năm đó, ông là đạo diễn của vở “Hương Mới” cho nhà máy thuốc lá
Thăng Long. Lại đúng vào lúc luôn có báo động máy bay địch nên không mua được
rượu về cho ông. Một kỹ sư của nhà máy phải lấy cồn ra pha rượu cho ông. Một lần,
tôi mời ông và ông Văn Cao đến nhà uống rượu. Ông Văn Cao nhận trang trí phông,
cảnh cho vở kịch. Đây là hai ông bạn rượu hợp ý nhau vì cả hai đều là đệ tử
trung thành của thần rượu. Hai ông cứ uống lai rai suốt từ 2 giờ chiều đến 12
giờ đêm. Họ vừa uống, vừa nói đủ chuyện trên đời. Họ bập bềnh, say lại tỉnh, tỉnh
lại say. Lúc nói to, lúc nói nhỏ. Có lúc ha hả, lúc lại đăm chiêu như muốn
khóc, tranh cãi bàn luận. Từ chén thứ hai trở đi, ông Văn Cao thường không dùng
đồ nhắm hoặc dùng ít.
- Tớ cho hai cái vở kịch ấy chỉ đáng cho vào sọt rác.
- Cũng có một chút mê ni (đáng khen) đấy…
- Không. Tác giả chưa vivre la vie mà mới chỉ là fréquenter
la vie - (chưa sống cuộc đời mà mới chỉ đi thăm cuộc đời).
- Thế mà tớ nhận làm đê-co (trang trí) cho họ đấy.
- Tuỳ cậu. Với tớ, không sướng lắm. Vở kịch viết thật thà quá
như cái kiểu bài thơ rau muống: Trong vườn có đám rau xanh Đó là rau muống để nấu
canh đấy chứ… Thế mà là thơ à? Tớ thấy tác giả không có chất "ngọc",
mà chỉ toàn là gạch. Mà đã là gạch thì có nung mãi cũng chỉ là gạch… Nghệ thuật,
nó khó tính lắm chứ?… Phải có cái thương cảm nhân thế. Phải có tấm lòng…
Tôi bảo: "Hai anh là cả một thư viện sống". Ông Văn
Cao không đồng ý và nói: "Tớ chỉ là một vò rượu quốc lủi"
Thế rồi, tôi cứ ngồi hầu rượu, chạy đi chạy lại, tiếp tế rượu
và đồ nhắm. Nhưng chủ yếu là lắng tai nghe các ông. Nhưng các ông cũng đòi tôi
phải kể lại những chuyện về rượu và chuyện tiếu lâm bên trời Tây cho các ông
nghe.
- Phải bình đẳng chứ. Chúng tớ nói cho cậu nghe về chuyện của
chúng tớ thì cậu cũng phải "cung" ra cho chúng tớ nghe với…
- Thu năng lượng của nhau như cái kiểu người Trung Quốc phát
và thu "công lực" ấy. Các ông bỗng đùng đùng đề nghị phải có thịt chó
cho nó thêm hương vị. Thịt chó được mua về ngay. Tôi không thích nên không ăn.
Ơ? Sao cậu không ăn mộc tồn?
- Tại sao?
- Tôi không khoái lắm. Nó hôi hám.
- Chắc lại là con cầu tự. Ăn thịt chó vào, "cậu" giận
cậu về chùa chứ gì?
- Cậu nói lại đi nào. Cậu bảo thịt chó hôi hám à? Một người
đàn bà đẹp ở tuổi 40 cũng có mùi hôi hám đấy chứ. Nhưng, người ta mê cái hôi
hám tuyệt vời đó hơn cả các cô gái 16, 17 tuổi… Cậu chẳng hiểu cái gì cả à, mà
có điều thịt chó mà không có chất "cồn"! vào là "vứt"
- Đúng đấy.
Trong bữa rượu, tôi đã biết được nhiều điều ở hai ông. Nếu
các ông không say khướt, thì tôi không thể nào "thó" được những câu
chuyện thật hay, thật lạ ma chẳng bao giờ các ông chịu nói ra cho bất cứ ai. Đó
là những câu chuyện dọc ngang chất "sống", tươi nhây nhẩy. Các ông là
những người luôn thích thú và ngỡ ngàng với những điều mới mẻ, sinh động. Nhìn
nhiều, nghe nhiều, đi nhiều, suy ngẫm nhiều… là những điều giúp các ông trở
thành Trần Hoạt và Văn Cao… Trước kia, trong thời Pháp thuộc, ông Trần Hoạt đã
từng làm qua nhiều nghề: chạy cờ, bán Vũ Tạo, đánh giầy, bán tranh, thầy ký, thầy
dạy đàn đáy và hát ca trù, đóng kịch… Tôi tính có chừng 30 nghề. Có dạo, ông
quen một số ca kỹ phường Dạ Lạc. Một số chị em bị bắt bỏ bóp (bốt cảnh sát ngày
xưa) ông thương hại họ, chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho họ được ra bằng
cách bảo lãnh, nhận làm chồng. Ông gọi đó là nghề "làm chồng thuê" -
Kỳ thực, có ai thuê ông cũng không nhận một xu nào.
Trong chừng 10 tiếng đồng hồ, hai ông đã đánh đổ chừng 3 lít
rượu. Đến 12 giờ khuya, chị Băng đi xích lô đến đón Văn Cao về. Chị trách tôi
đã để ông uống say. Nhưng, có trời mà ngăn được. Ông bảo trong khi say, trong
ông nảy ra những tứ hay cho thơ, nhạc, hoạ, ông có đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, tửu.
Tôi cũng phải thuê xích lô, đưa ông Trần Hoạt về nhà ở phố Lò Sũ. Ông đã quá
say. Nhưng sáng hôm sau, chừng 8 giờ, ông đã ngồi dựng vở Bức Tranh mùa gặt của
Trần Vượng. Và bên cạnh ông, vẫn là chai rượu.
NỮ THẦN ÁI TÌNH VÀ NỮ THẦN SẮC ĐẸP CỦA VIÊT NAM
Trung Quốc suy tôn Nữ Oa là nữ thần ái tình của họ. Cùng ở một
khu vực và có nhiều truyền thuyết giống nhau, thần ái tình của Việt nam cũng là
Nữ Oa. Nữ Oa Trung Quốc và Nữ Oa Việt nam có nhiều điều giống nhau về cơ bản: rất
nặng về chất huyền thoại, Nữ Oa có nhiều phép thần thông đã nặn ra con người bằng
đất sét vũ trụ rồi phả vào đó một linh hồn, Nữ Oa đội đá vá trời v.v… Nữ Oa là
tượng trưng cho sự sinh thực và phồn thịnh. Do ở cái thời hỗn mang chi sơ, số
người chết nhiều hơn người sống gấp bội nên việc phát triển nòi giống là vô
cùng quan trọng, vì thế người ta thờ cái "của quý" của Nữ Oa. Ở Việt
nam, chất phong tình và sinh thực được đẩy lên mức quá cao.
Chuyện kể rằng: Cái "bộ phận" của ông Tứ Tượng bắc
qua một cái ao lớn ba sào đất làm cầu cho mọi thành viên của đám cưới nguyên
thuỷ đi từ bờ ao bên này sang bờ ao bên kia. Vì ông cầm hương vô ý, tàn nhang
rơi xuống làm cho chiếc cầu vững chắc ấy bỗng nhiên "rụt" lại, hất hết
mọi người xuống ao. Nữ Oa biết được, đã nhanh nhẹn đưa cái "của quý"
của mình ra hứng lấy cả đám người, thế là mọi người ngoi ngóp trong cái túi càn
khôn của Nữ Oa và được cứu sống.
Truyền thuyết này còn sót lại đến ngày nay qua sự biến dạng
trong sự tích "Ông Đùng bà Đà" và trong trò chơi "Cái nỏ lường…"
Còn nữ thần sắc đẹp của ta thì eo lẽ không ai xứng đáng hơn là công chúa My
Nương, con gái vua Hùng thứ 18. Tóc xanh viền má hây hây đỏ Miệng nàng hé thắm
như san hô Tay ngà trăng nõn hai chân nhỏ Mê nàng bao nhiêu người làm thơ. Xứng
với sắc đẹp nát đá tan vàng của nàng chỉ có những ai sánh ngang được với các bậc
thánh thần. Số người đến cầu hôn được chọn lọc kỹ đến nỗi chỉ còn hai chàng ưu
tú nhất là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, là tượng trưng cho hai con người tinh hoa, đẹp
đẽ và tài hoa tuyệt vời của hai vũ trụ bao la và thơ mộng: núi rừng và biển cả.
Trong cuộc đua tài, Sơn Tinh đã giành chiến thắng. Vì người đẹp My Nương mà Sơn
Tinh và Thuỷ Tinh đánh nhau suốt bao nhiêu đời và cho đến tận bây giờ. Sắc đẹp
My Nương đã gây ra sự tranh giành thần thánh, không tiền khoáng hậu và sự tích
này được đời đời nhắc nhở, biến thành thơ, ca và lời vần ví không nguôi: Vua
Thuỷ Tề dâng nước đánh Sơn Tinh Núi và sông - tranh nhau một chuyện tình…
CHỊ TÂM HÁT "SUÔNG HỜI"
Chị Tâm là một liền chị quan họ đã nổi tiếng từ lâu chị thường
được mời trong các cuộc thi, được mời hát những bài hát hay mà khó hát, hát
"sửa" khi người khác hát hỏng. Giọng hát của chị là một thứ giọng hiếm.
Ngoài sở trường về hát quan họ, chị còn hát được cả tuồng, chèo và các làn điệu
dân ca. Những chất liệu này hợp nhau lại thành những vi lượng làm cho những bài
hát quan họ do chị hát thêm phần hoa mỹ, đậm đà, lại xen chút huyền bí liêu
trai. Dáng chị mảnh khảnh cái kiểu mỏng mày hay hạt, thoáng mùi thơm quê mùa.
Chị có thể hát hết đêm này đến đêm khác làm cho người nghe không thể quên được.
Vì tiếng hát của chị có thể là kể về một cuộc tình, một tâm trạng đầy kịch
tính, một con sông xanh, một tâm hồn ngẩn ngơ say đắm, một niềm vui nhẹ vương vấn
âu sầu v v… Chúng gieo vào lòng người một nguồn thơ ca, một nỗi niềm thấm vào tận
xương.
Tôi có cái sung sướng được gọi chị bằng chị trong khi mọi người
đều gọi chị bằng bà vì chị đã đến cái tuổi 70 rồi. Tôi vẫn nghĩ là chị chưa
già. Tôi đến Văn Tương qua mấy xóm ngõ khúc khuỷu. Đây rồi, cái bể cạn có hòn
non bộ. Bước mấy bậc là lên đến nhà. Đó là một ngôi nhà ba gian hai chái từ đời
xưa để lại với hai mảng tường rêu phong. Dưới cái cuốn thờ có dán một tờ giấy đỏ
viết chữ “Tâm”, kiểu chữ Hán do chính tay chị viết bằng mực nho. Cô cháu bé nhỏ
mời tôi ngồi đợi và đi tìm chị. Tôi hơi nóng ruột vì phải ngồi đợi khá lâu Tôi
được biết, gần đây chị luôn đi thăm các bạn bè làng trên xóm dưới. Chị thường
không có ở nhà ban ngày. Chị được mời đi chỗ này, chỗ khác hoặc mời đi dạy hát
quan họ. Cuộc sống của chị hiện nay chỉ còn chữ "Du" và
"Ca", nghĩa là đi chơi và hát, chẳng phải lo nghĩ gì về cơm áo. Đã có
những người trước đây mê tiếng hát của chị ở khắp nơi gửi tiền về nuôi chị. Kể
cả những người hiện sống ở nước ngoài. Cũng có thể gọi họ là những "nhân
tình" của chị. Cho phép tôi dùng từ này và nói thêm: tình nhân của chị quá
nhiều. Còn như yêu bóng yêu gió hoặc phải lòng tiếng hát của chị thì không kể hết.
Thật buồn cười, có nhiều người chẳng ăn thua gì mà vẫn cứ yêu chị. Do vậy, chị
thường đối đãi hào phóng với các bạn hoặc họ hàng, thường biếu tiền, quà bánh
hoặc lễ vật cho các đình, chùa…
Gặp tôi, chị bảo ngay:
"Nhà báo lại có điều gì dạy bảo?"
- Em đâu dám- Tôi nói.
- Chắc lại gạ chị hát chứ gì? Chị đã qua mùa lá rụng rồi.
Sợ tôi không hiểu, chị liền giải thích một mạch: "Người
quan họ có 4 mùa. Lúc từ 13 đến 15 tuổi là lúc hát được rồi mà còn run, còn xấu
hổ, là lúc ở vào mùa xuân. Từ 18-19 tuổi, tiếng hát đã "mẩy", sóng
sánh là đang vào hạ. Từ 20 đến 30 tuổi, tiếng hát đã có "thuật" đánh
đổ được người nghe. Đó là mùa thu. Từ trên 30 tuổi, đã thấy ngại ngùng để vào
đông, cũng là mùa "lá rụng". Còn chị đã 70 tuổi là đã qua mùa lá rụng
rồi".
- Không phải. Nghệ thuật hát quan họ của chị vẫn là 20 tuổi.
Mắt chị còn lúng liếng, dáng đi vẫn nhanh nhẹn và sang lắm.
- Thôi nào. Nói khéo lắm. Hôm nay chị không hát quan họ mà
hát bài "Suông hời"
Chị bày ra mấy thanh bánh đậu xanh rồng vàng. Tự tay chị pha
trà mời tôi cùng uống. Chị pha trà điệu nghệ: Cho nước cốt, nước hai và ba vào
chén tống rồi mới róc chén quân. Sau ít phút, chị nhấn giọng rồi đứng dậy hát:
“Đò ai đi… Ơ đậu bến không về… Đợi nhau thương nhớ ơ…ơ… suông hời mà phấn son.
Suông hời, tình suông a… mà vẫn gọi… con đò tình lênh đênh… Ba mươi phút nên bổng
suống trầm… suông hời…i…ơ". Dáng chị mảnh mai, siêu siêu thanh nhã và bay
bổng… ấy, chính cái hình hát đó cộng với tình yêu nghệ thuật đàn hát quyện vào
với nhau tạo nên chị Tâm. Tôi nhấp chén trà. Trong tôi, cứ tơi tả một nỗi buồn
da diết. Tôi khen chị hết lời. Chị bảo: "Phải có duyên phận với bài hát mới
hát hay được…" Lúc chia tay, chị vỗ vai tôi:
- Thôi coi như sắp hết năm cũ rồi. Sang năm mới, chị chúc em
chỉ nghe bài hát của người xưa cho nó có cái hương vị thôi. Còn với cuộc sống,
em hãy tránh khúc "Suông hời"…
- Chị Tâm ạ, không tránh được đâu. Có khúc suông hời thì mới
thành con người dấn thân cho văn học nghệ thuật được.
Chị nở nụ cười rạng rỡ. Cái nụ cười của con người tài hoa rất
mực thật nồng ấm và ân cần…
ÔNG TRÙM THỊNH
Kép Thịnh quê ở Kim Động - Hưng Yên, là một trong những đất
chèo cổ nổi tiếng. Mười sáu tuổi, ông đã là kép hát. Ông theo phường đi khắp
nơi lang bạt kỳ hồ. Nhưng, cứ đi, cứ hát mà cuộc sống vẫn vất vả nhọc nhằn. Nhiều
khi tưởng chừng như không còn cách nào sống được nữa. Tuy vậy, vẫn có nhiều người
yêu mến tiếng hát của ông đã làm cho ông khắc phục được những khó khăn chồng chất
để hành nghề với quyết tâm "sinh ư nghệ, tử ư nghệ". Nghèo đói chẳng
nghĩa lý gì. Cái quan trọng là được góp phần vào cái cảnh náo nhiệt, tưng bừng
của những buổi diễn, những giây phút gặp mặt nhau, đào đào, kép kép đưa được tiếng
đàn, tiếng hát đến với bà con. Các diễn viên cũng rất phấn khởi, được đồng bào
mến mộ, trả công cho họ qua những nụ cười, những bộ mặt rạng rỡ, phơi phới. Thế
là đủ để vui rồi.
Phường phải đi xin hát ở nhiều xóm làng, ở các đám hội. Riêng
kép Thịnh và một, hai đào kép chính còn phải đi hát cho các nhà giàu mở tiệc
chúc thọ hoặc ăn khao. Cũng có những lần đến diễn hầu trong phủ đường, huyện đường
Kép Thịnh là một kép đa tài, hát hay được nhiều làn điệu. Ông diễn được đủ loại
kép. Kép chính như Từ Thức, Tất Chánh, Lưu Bình, Thúc Sinh… Kép lệch như Tuần
Ty, Sở Khanh. Đóng lão như Huyện Tể, ông Mãng, đồ Điếc. Đóng hề như thầy đồ,
hương Câm… Các vai diên của ông đều hay, đạt hiệu quả cao, mẫu mực, có góc cạnh.
Nhân vật cứ nổi lên như một bức tượng sống. Điều đó nhờ ở chỗ kép Thịnh gạn lọc
những chi tiết, giữ lấy những chi tiết chân thực, có bổ sung thêm những nét hoa
mỹ đầy ngẫu hứng, sáng tạo ông còn giữ trong bộ nhớ của mình nhiều làn điệu “độc”
ít người biết đến hoặc gần như bị thất truyền. Ví dụ như làn hát vãn gọi là Vãn
Non Mai say đắm thì đến giờ ở ta chỉ còn một, hai người biết đến. Phong cách diễn
của ông rất thanh tân. Khi thì phóng khoáng kiểu hàng hoa, lúc lại giữ chặt
khuôn khổ. Người ta không thể hỏi ông để biết ông có sở trường về những làn điệu
nào. Vì hầu như tất cả những làn điệu chính ông đều hay hát cả. Lúc hát, tâm hồn
ông dấy lên những ngọn sóng lúc phai, lúc thắm, lúc lại vơi đầy… Bài nào ông
hát cũng ra "màu", long lanh sắc nét. Đạt đến trình độ này là rất
khó. Người sáng dạ cũng phải cần cù, luyện tập 4, 5 năm. Nhưng với ông, ông nhảy
phốc một cái là đạt được tới điểm cao đến khó hiểu. Ông còn miệng hát, tay đàn
chầu văn với giọng cao bi tráng. Khi đó, ông say như bị ốp đồng. Đó cũng là tài
năng của ông. Chẳng thế mà trong một cuộc thi hát với những bậc anh tài ở trại
Ngọc Hà, ông đã đạt điểm cao nhất. Nhiều người đã phát ghen lên mà bảo:
"Thật xấu hổ, chúng ta đã phải thua một tên hát rong quê mùa, mặt búng ra
sữa".
Với người có nghệ, chính cái chất chân quê chân chất và giang
hồ tứ hải đó cộng lại là rất hiếm, là vô địch. Nó mang chất dân ca nguyên thuỷ.
Ông là tay đánh trống chèo mẫu mực, thường khuyên các học trò: "Có thể vụng
chèo một chút. Nhưng phải khéo trống".
Nhưng tài nghệ cao nhất về sử dụng nhạc cụ của ông lại là kéo
nhị. Anh em gọi tiếng nhị của ông là tiếng nhị siêu phàm. Dạo ấy, ông Lê văn Ly
muốn đến xin vào kéo nhị cho phường hát. Nhưng khi tới, nghe thấy tiếng nhị của
ông, đã bỏ ra về ngay và lẩm bẩm: "nghe tiếng nhị của trùm Thịnh mới biết
tiếng nhị của mình chỉ là tiếng kéo cưa lừa xẻ".
Vào những năm 1958-1959, ông Ly là một trong vài cây nhị hay
nhất nước. Tiếng nhị của ông Thịnh là sự phối hợp hài hoà giữa nhiều yếu tố.
Trong đó có mây nước bập bềnh, có hương hoa gió bụi, tử, biệt, sinh, ly, yêu
đương mòn mỏi… Cũng chính tiếng nhị của ông đã khiến một nữ diễn viên chèo mê
ông và trở thành vợ ông. Đã thành một cái lệ tình tứ, âm thầm và mãnh liệt, cứ
mỗi lần chuẩn bị ra sân khấu, vợ ông lại ngóng nhìn nơi hai bên cánh gà, nhìn
vào mắt ông, say sưa. Ý nói: "Mình ơi, em thế này đã được chưa? Ông cũng
nhìn vợ, vừa trìu mến vừa có vẻ kiểm tra lại vai diên, gật đầu nhè nhẹ. Có
nghĩa là: "Được đấy em ạ… Xinh lắm". Nhưng rồi một buổi, vợ ông bị ốm
trong cảnh nghèo xơ xác Bà ốm dai dẳng, không có tiền thuốc thang, chữa chạy.
Người nữ diễn viên này rất mực yêu chồng. Bà bảo: "Có tiếng nhị của anh là
sống được rồi… cho em nghe suông vậy…". Thế là ông lại mang nhị ra kéo để
cho bà vui. Ông bảo là để quên đời, quên bệnh tật. Có điều trong những giây
phút này, tiếng nhị của ông càng hay, càng thiết tha một màu sắc tâm linh. Rồi
một hôm, bà thấy khó chịu lạ thường. Bà lại muốn nghe tiếng nhị của ông. Ông liền
kéo "…Ôi…thì đôi ta… chút nghĩa… mà…a… đèo bòng…". Ông kéo bài
"Duyên nợ phải chiều"… Đến nửa chừng thì bà lả đi như một tàu lá úa rồi
tắt thở… Ông buông nhị, ôm lấy bà và khóc: "Mộng hết ta người phải biệt
nhau…"! Thế là từ đó ông không kéo nhị nữa. Ông giận duyên, tủi phận và né
tránh cái tiếng nhị oan nghiệt vận vào mệnh của ông. Chừng 30 năm sau, mãi đến
năm 1959, một ông bạn tri kỷ khuyên ông hãy giải lời nguyền xưa, nằn nì ông kéo
cho nghe một đoạn. Ông nể quá, kéo một đoạn thật say. Ông bạn vái: "Thưa,
xin thế là đủ chỉ cần trần ai một khúc…". Ông Thịnh rớm nước mắt.
Ông Thịnh sớm đã phải bỏ quê, ra diễn cho rạp Sán Nhiên Đài
(sau là rạp Kim Lan) ở ngõ Sầm Công. Cái ngõ này nổi tiếng là có nhiều chuyện ở
Hà Nội. Như vậy cũng không phải chỉ diễn ở Hà Nội mà vẫn phải đi lưu diễn ở nhiều
nơi. Đã nhiều bài hát của ông được thu vào đĩa hát của hãng Pa thé và ASIA. Người
ta đi lùng mua kỳ được những đĩa chèo của kép Thịnh và đào Tiêm. Ông đã soạn
nhiều vở chèo và làm thầy chèo (như bây giờ gọi là đạo diễn). Ông được cả gánh
hát và nhiều người trong nghề kính nể gọi ông là sư phụ, là ông trùm Thịnh. Tuy
vậy, cuộc sống vẫn cứ thanh bần cho đến khi ông qua đời. Cả cuộc đời vì nghề,
ông đã dạy dỗ được nhiều lớp diễn viên chèo cho cả nước. Ông đã giúp đỡ nhiều
cho Ban nghiên cứu nghệ thuật sân khấu của Bộ Văn hoá trong việc nghiên cứu, giữ
gìn và phát triển nghệ thuật chèo truyền thống. Tên tuổi ông đã được ghi trong
Bách khoa từ điển sân khấu Liên Xô (cũ) xuất bản năm 1959 trong mục sân khấu Việt
nam. Riêng về nghệ thuật chèo mà nói, ông trùm Thịnh là một "Con Người"
viết hoa. Sân khấu Việt nam và nghệ thuật chèo của ta tự hào có một nghệ nhân
như ông trùm Thịnh.
CHỊ HOA TÂM
Dạo ấy chừng những năm 1942-1943, cả mấy làng Bưởi, người ta
thường hay kể chuyện về một nhân vật đặc biệt là "Mít sờ" Hoa Tâm. Số
là ở ngay giữa chợ Bưởi, dựng lên một rạp hát có tên "Quảng Tâm San"
Chủ của rạp hát lúc nào cùng huyên náo đó là bà Hoa Tâm. Gọi nó là rạp cải
lương cũng được mà gọi là tuồng cải lương cũng được. Vì họ diễn cả những tích
xưa với mũ áo, cân đai sặc sỡ, mà cũng diễn cả những tích mới với nhân vật ăn mặc
Tây, đeo ca vát. Rạp hát tối nào cũng kín chỗ. Chủ nhật có thêm một xuất diễn
ban ngày, chủ rạp thường đi bên cạnh người chồng của mình là một anh Tây lai
tên là Louis Aubourg. Anh chàng vừa giàu vừa đẹp trai này rất kiêu hãnh là đã lấy
được cô đào hát có tài năng và sắc đẹp xuất chúng. Anh ta đã hạ được hàng loạt
những đối thủ là những kẻ giàu sang, các quan huyện, quan phủ trẻ tuổi để giành
được Hoa Tâm. Việc quản lý rạp hát, Hoa Tâm giao cho ông thầy tuồng Năm Ngũ và
kép Sinh. Hàng đêm, Hoa Tâm có vai diễn. Điều này không có không được. Ban
ngày, thỉnh thoảng Hoa Tâm vào làng Yên Thái, đến chơi kết bạn với kép Thuyên
là kép nổi tiếng về hát tuồng. Chủ rạp Quảng Lạc phải đưa ô tô về, đưa kép
Thuyên đi diễn rồi lại trả kép Thuyên về tận nhà. Hoa Tâm cũng làm quen với kép
Tước hát tuồng ở xóm Ao Ngang và ông Ninh là hoạ sĩ vẽ truyền thần…
Hoa Tâm nhận mấy bà già trong xóm là mẹ nuôi và thường có
quà, bánh, vải, nhãn biếu các bà. Hoa Tâm thèm tình mẹ, yêu làng Bưởi, hay xúc
động và có lòng thương người. Nhưng khi gặp mặt, dân trong mấy xóm rất niềm nở
chào Hoa Tâm và chị cũng nhanh mồm nhanh miệng chào hỏi lễ phép, lịch sự với mọi
người. Dân làng Bưởi rất thích xem những tích diễn của rạp như: Trương Viên,
Quan âm Thị Kính, Giang Tả cầu hôn, Tra án Bàng Quý Phi, Phương Hoa, Huyện Trường
và cô Cúc, Mộ cô Phượng, ông già mật nết, Hoa rơi cửa Phật, Kiều… Những tích
này hầu như ai cũng thuộc, họ xem đi xem lại nhiều lần, không biết chán.
Mọi người rất có cảm tình với rạp Quảng Tâm ban và cũng rất
có cảm tình với chủ rạp. Hoa Tâm ăn mặc cực kỳ sang trọng rất “a la mốt” (à la
mo de). Nhưng mọi người cho rằng gọi Hoa Tâm bằng bà thì hơi già. Bà ta cứ tưng
tưng, rất trẻ, như là cô học trò mắt sáng, môi tươi vậy. Gọi bằng bà không hợp.
Anh Vũ Trọng Hành là em ruột nhà văn Vũ Trọng Can bảo nên gọi Hoa Tâm là
"mít sờ" Hoa Tâm. Tiếng Anh "mít sờ" là cô gái mà. Và từ đó
ai cũng gọi Hoa Tâm là "mít sờ" Hoa Tâm. Như vậy, nó có vẻ hay hơn, lạ
hơn, Tây hơn, tình hơn…
Quảng Tâm ban đã đưa sân khấu đến chợ Bưởi, làm náo nhiệt cả
mấy làng Bưởi. Nó đi đầu cho sự thành hình một vài nhóm cải lương và kịch nói
nghiệp dư của cả một khu vực sầm uất, đông dân. Hồi ấy, Lại Phú Cương còn trẻ lắm.
Ông không bỏ một đêm diễn nào của rạp Quảng Tâm ban. Sau này, ông là một nghệ
sĩ kịch nói và diễn viên điện ảnh khá nổi tiếng. Trong nhà chị Hoa Tâm, trên
các mặt tường treo la liệt những bức tranh thuỷ mạc, tranh Tàu, chị yêu những bức
tranh này lắm và luôn ngắm nghía chúng. Hoa Tâm là con gái một gia đình cố nông
ở Kim Động, Hưng Yên. Từ nhỏ, cô bé đã hát hay và hát được nhiều làn điệu chèo,
tuồng, cải lương, quan họ, hát ru… Năm 13 tuổi, có gánh hát xin cho cô được
thoát ly gia đình, đi theo gánh. Cô được nuôi cơm, có nhiệm vụ trông trẻ, giặt
giũ rồi được học hát, học múa. Qua vài năm trời gió bụi, giọng hát của cô được
coi là một chất giọng quý hiếm. Sắc đẹp lại trở nên lộng lẫy. Ai cũng muốn làm
thân với cô. Cô không bao giờ phải trả tiền cho những bữa quà như kiểu bánh cuốn,
bún ốc, bún chả… Vì bao giờ và ở đâu cũng có người tranh trả tiền cho cô. Cô
quyết tâm học nghề hát chèo. Học bất cứ những gì cần cho một vai diễn từ bất cứ
ai. Học những diễn viên cao tuổi. Học các bạn trẻ. Lúc nào cô cũng nhiều bạn. Cả
bạn trai lẫn bạn gái. Nhưng bạn trai nhiều hơn. Trong đó có nhiều nhà văn, nhà
báo, hoạ sĩ, thi sĩ…
Sức hấp dẫn của cô rất cao. Nhưng chính cái tài và cái sắc của
cô cũng mang lại cho đời cô nhiều lao đao, cay đắng. Đời cô bao giờ cũng là một
mảnh trăng khuyết. Cô nói vậy. Năm 21 tuổi, cô đã trở thành một ngôi sao không
có đối thủ, ít nhất là với Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Hà Đông, Bắc
Ninh… Chị nổi lên, rực rỡ, cuốn hút trong Tuần Ty - Đào Huế xuý Vân giả dại, Thị
Mầu lên chùa… Ba vai chính: Đào Huế, Xuý Vân, Thị Mầu trong kho báu chèo là để
cho Hoa Tâm diễn. Còn có những vai diễn này ra sân khấu thì người ta còn nhắc đến
cái tên Hoa Tâm. Chị nói sử:
Kim Nham chàng ơi!
Đường công danh đã đành mê mải
Nhưng tuổi xuân có trở lại bao giở
Hay tình riêng chàng đã phôi pha Để cho thiếp tháng năm mòn mỏi…
Người ta không bao giờ quên được khi Hoa Tâm nói lệch rồi vắt
sang bình thản:
Cau non tiện chũm lòng đào
Trầu têm cánh phượng, thiếp trao cho chàng.
Tiếng hát của chị kèm theo dáng đi tơi tả, lệch chênh, những
bước đi lá rụng hoa rơi. Những bước đi của Hoa Tâm trên sân khấu đều là múa cả.
Nhưng ở vài vai diễn khác, những bước đi của chị lại thanh thoát mà có cái dáng
dấp đĩnh đạc của một cành cây nặng trĩu quả ngọt. Đến lúc chị hát đúm:
"Ta về xẻ tấm ván dày
Bắc cầu sông Cái…cho mẹ thầy sang chơi."…
Thì sóng gió nổi lên ào ào, lòng chị xáo động và tràn đầy
khát vọng. Rồi lại ngẩn ngơ, bâng khuâng: Người đâu đến ở chùa này… Cổ kiêu ba
ngấn, lông mày nét ngang… Hoa Tâm ngẩn ngơ, nồng nàn, sầu muộn, cô đơn, nhưng
phấn khích, lâng lâng. Những mảng diễn của chị đều đã thành mẫu mực cho các vai
diễn kế tiếp sau chị. Các trường học, các lớp huấn luyện đều phải trích ra những
dáng nét, động tác phong cách hát, nói, cười, của chị mà dạy cho các học sinh.
Với chị, khi nhạc nổi lên, tiếng hát của chị cất lên theo đã làm cho người ta
sung sướng, vui, buồn, háo hức. Trong lòng người nghe thấy tràn đầy nước mắt,
tình yêu và sự dằn vặt.
Chính vì chị hát được cả tuồng, cải lương, quan họ, ả đào…
nên tiếng hát của chị mới có nhiều màu sắc, nhiều cung bậc, đa dạng và thanh
tân. Các vai diễn của chị thường bồng bềnh một hào quang lãng mạn làm say lòng
người. Rồi về sau này, đã có nhiều lớp diễn viên kế tiếp chị cũng đều bắt chước
chị, học chị mà trình diễn. Nhưng cho đến bây giờ (1998), vẫn chưa có ai đạt được
đến 8/10 của chị. Cung đàn tình duyên của chị luôn náo nhiệt, tưng bừng đầy ngẫu
hứng suốt từ thời trẻ cho đến khi về già chị rất yêu đại thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Còn một chi tiết. Đó là khi Thủ đô được giải phóng, trong những ngày đầu, đoàn
chèo Lạc Việt gặp khó khăn về tài chính, chị đã không ngần ngại bán đi tất cả
những tư trang của mình còn lại để giúp đỡ đoàn tồn tại. Chị đã góp vào việc
đào tạo, bồi dưỡng và truyền nghề cho một loạt diễn viên sáng giá như Thanh Trầm,
Bích Nhuần, Tuyết Nga, Nguyệt Nga… Hoa Tâm dạy họ từ việc vấn khăn đến động tác
xòe quạt đưa mắt. Chị vui lòng truyền lại cho lớp trẻ những ngón nghề bí mật mà
đáng lẽ ra phải sống để bụng, chết mang theo. Lúc chị già yếu trên giường bệnh,
chị bảo: tôi nặng khúc ân tình với cuộc đời. Mặc dù cuộc đời đã làm tôi đau khổ
chị nói vậy được vài tuần rồi ra đi vĩnh viễn.
ÔNG HAI CHÂU
Không khí tưng bừng của ngày Tết Nguyên đán còn Ngần như
nguyên vẹn. Làng Triều Khúc vào hội sớm hơn hẳn những năm trước. Năm nay, dân
làng làm ăn có chiều hướng khá hơn. Đêm ngày mồng 5 tháng giêng, hầu như chẳng
nhà nào ngủ. Họ tất bật làm cỗ bàn, bánh trái để đem ra cúng ở ngoài đình. Những
đồ cúng đó lại được đem tất cả về nhà sau một hồi hương thắp và chia cho các
cháu gọi là lộc. Gia chủ chỉ làm duyên với ông Từ một đĩa xôi nhỏ hoặc phẩm oản
quả chuối. Việc cúng bái này không tốn kém gì mấy, cũng là bày vẽ ra mà ăn.
Khoảng 9 giờ sáng ngày mồng 6 tháng giêng là ngày tế Thành
Hoàng. Ở Triều Khúc, Thành Hoàng cũng là Vua (Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương).
Nhân dân rất tự hào với những dấu vết về bãi luyện binh của Phùng Hưng khi xưa
còn lưu lại với những mô, những gò đống nhấp nhô thực mà mờ ảo ở phía sau ngôi
đình cổ kính. Sau một tràng pháo nổ giòn, mọi người trang nghiêm làm lễ tế
Thành Hoàng. Họ mặc những bộ quần áo lễ ngày xưa nhiều màu sắc rực rỡ, đội mũ,
đi hia, những nhân vật chính biểu diễn những động tác được khoe trương với những
nét múa chậm chạp và kéo dài. Ban hành bát âm xúng xính áo "thụng màu lam,
cứ những làn điệu lúc hùng hồn, bi ai tha thiết lúc lại là dòng đời chảy xuôi
duyên ngắn nợ dài. Khói hương nghi ngút, trong làn ánh sáng mờ mờ, mọi hình ảnh
và màu sắc của các hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, mâm ngũ quả, đồ tế, những
ngọn lửa nến v v… pha trộn lại với nhau hợp thành một vẻ đẹp kín đáo huyền bí,
sương khói… thật khó tả. Ngoài sân đình, dưới chân chiếc cột cao treo lá cờ ngũ
sắc với những miếng lưỡi hổ màu trắng bạch phất phơ.
Đó là một công báo về ngày lễ hội. Cũng chính dưới cái cột cờ
sơn đỏ ấy có một đôi nam nữ nắm lấy tay nhau thật chặt, tưởng chừng như không
thể nào rời nhau ra được. Họ lại hơi ngả thân vào nhau. Họ nhìn nhau như muốn
quên cả đất trời. Cái trường đoạn này diễn ra quá lâu đã làm cho những người ở
phía ngoài bỏ cả xem gà chọi và đấu vật mà để mắt nhìn về phía họ. Đôi nam nữ
đã trở thành hai nhân vật nổi bật, hiếm có. Bốn thanh niên nam nữ cười rộn lên,
xôn xao bàn tán với nhau, chỉ trỏ. Đám đông trở nên nhộn nhịp. Họ vẫn cứ nắm chặt
lấy cổ tay nhau như sợ một trong hai người sẽbay đi đâu mất, mặc những tiếng xì
xào những ánh mắt châm chọe từ bốn phía đưa tới. Họ chẳng biết trời đất là gì nữa.
Mà lại có vẻ mỗi lúc càng say sưa hơn.
Người đàn ông chừng 70 tuổi, mặc áo the, khăn nhiễu. Ông sống
bằng nghề khảm trai và nghề làm thao, may và làm cả kiểu áo bào rồng phượng, mũ
mãng, hia dùng cho diễn viên chèo, tuồng. Thỉnh thoảng, có một đợt gió nhớ
nhung quá khứ nào đó đem lại ông lại gấy mấy cung đàn nguyệt hoặc hát mấy bài
quan họ. Giọng hát của ông trong trẻo, tươi mát và mạnh mẽ như cái hồi còn trẻ.
Tên ông là Hai Châu ở xóm Cầu. Người đàn bà khoảng trên sáu mươi tuổi, mặc áo
dài, quần đen, chít khăn nhung. Bà tên là Năm Diệu ở xóm Hạ Long Giang vùng
Lim.
Người đàn bà này thuộc loại mà mọi người cho rằng họ có đến
cái tuổi 60 chăng nữa vẫn còn xuân sắc. Họ quen nhau từ cái thủa mười tám đôi
mươi khi cả hai cùng sống ở vùng Lim và rủ nhau đi hát quan họ hết làng này đến
làng khác trong suốt tháng giêng. Họ là những vị liền anh liền chị được kính nể.
Họ yêu nhau trong suốt thời gian dài nhưng không lấy được nhau. Thế rồi, cuộc đời
xô đẩy, kẻ Bắc người Nam, nàng ở lại Lạng Giang với chồng con, chàng phiêu bạt
sang Triều Khúc. Và từ mấy năm nay, họ đã đặt ra cái lệ được chấp hành một cách
nghiêm chỉnh và trang trọng.
Cứ hàng năm, ngày 6, 7 tháng giêng, bà Năm Diệu sang Triều
Khúc dự hội đình, là thượng khách của ông Hai Châu. Ngày 13, 14 tháng giêng,
ông Hai Châu lại tới hội Lim thăm bà Diệu và một số liền anh liền chị, bạn hồi
trai trẻ. Năm nay, cũng như mọi năm, ông Hai Châu đã chuẩn bị đón bạn từ mấy
hôm trước. Ông đã dành riêng một chiếc nhẫn vàng một đồng cân để đeo vào ngón
tay run rẩy của bà Năm Diệu làm quà. Đây là thành quả của sự cố gắng làm lụng
và sự tiết kiệm của ông. Ông cho rằng nhất định ông phải tặng bà món quà đó. Nếu
không, ông sẽ vô cùng xấu hổ về cái sự, "Tu mi nam tử" của ông - ông
nói thế. Họ vẫn đứng với nhau một lát nữa như hai pho tượng rồi dắt nhau rời khỏi
đám đông, đi qua một lối nhỏ loanh quanh eo điểm những rặng cúc tần. Họ vẫn nắm
tay nhau bước cao bước thấp về xóm Cầu. Họ chỉ biết có nhau và không để ý đến bất
cứ cái gì hoặc người nào ở quanh họ. Bước vào nhà, họ rời tay nhau. Vẫn những cặp
mắt nhìn nhau không rời. Ông Hai Châu chỉ cho bà Năm Diệu xem hòn non bộ, mấy
chậu lan, những cây cảnh được tỉa, uốn theo những thế rất cầu kỳ và nên thơ,
chiếc lồng chim lên nước có hai con bạch yến nhảy nhót… Tất cả đều là những tác
phẩm tài hoa của ông Châu, ông luôn hỏi:
- Bà có thích không?
- Thích.
Ông lại dắt bà Năm đến gần hai cây si, một cao một thấp đứng
cạnh nhau mà ngả nghiêng như đang trong cơn gió mạnh. Ông bảo:
- Bà này, đây là cây có cái dáng "Người ơi người ở đừng
vê". Tôi đã đưa những tiếng hát của chúng mình vào hai cái cây này đấy. Bà
có thích không?
- Cứ phải hỏi mãi! Ông Hai Châu hiện giờ đang ở đây. Gian nhà
bé nhỏ nhưng gọn gàng, có vườn, có cảnh, ông sống một mình. Vợ ông đã mất từ
lâu. Hai đứa con trai đã ơ riêng và đi đây đi đó luôn. Nghe đâu họ làm ăn cũng
khấm khá.
Ông pha trà có cho thêm mấy nhánh ngâu mưa thu vào rồi mời bà
Diệu:
- Bà uống đi. Một năm mới lại gặp nhau. Quý quá. Thật vô giá.
Thế nào, có vất vả không? Trời ơi Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn… Nhưng
thôi, gặp nhau là bao nhiêu ưu phiền tan biến hết - ông nói nhát gừng và như thể
đang khóc.
Ông Hai Châu và bà Năm Diệu nắm tay nhau. Thật là tình yêu
không có tuổi, say đắm, cuồng si và mờ ảo. Đó là tình yêu đích thực. Cả hai người,
họ không nói nhiều về tình yêu, cũng không kể lể dài dòng, phù phiếm. Họ chỉ biết
có nhau. Thật là may mắn cho tôi là một nhà báo luôn săn đuổi những chuyện vui
buồn âm thầm mà mãnh liệt xảy ra ở khắp nơi để dự trữ cho cái niềm vui quá
nghèo nàn của tôi. Tôi đã tìm mọi cách làm quen với ông Hai Châu. Sau nhiều lần
qua lại với nhau, ông coi tôi như là người bạn thân để thổ lộ nỗi niềm. Ông kể
chuyện bồ cũng chẳng rầy la tôi điều gì mỗi khi tôi tò mò vặn vẹo mọi chi tiết.
Có hôm tôi vào đề: “Hát quan họ là hát về tình yêu. Các tác giả phương Tây cho
rằng hát quan họ là một loại ca hát dân gian, đầy chất phong tình, đầy cái đẹp.
Nó ăn nhập với tiếng hát của nhân loại. Họ không mấy đả động đến cuộc sống của
các liền anh liền chị. Nhưng một số nhà nghiên cứu của ta, họ cứ bắt chước nhau
mà viết quanh đi quẩn lại một vài chi tiết. Nào là các liền anh liền chị quan họ
không lấy nhau. Hát để vui xuân, tình bạn của họ thật trong sáng, đứng đắn,
không bao giờ xảy ra cái gọi là trai gái. Họ kính trọng nhau, quý mến nhau, chỉ
giữ ở mức tình bạn v.v… Tôi thật suy nghĩ về cái khoản này lắm". Ông liền
nói ngay: "Chúng tôi quý nhau, tình yêu của chúng tôi trong sáng.
Vâng"
Ông bỗng nhỏm dậy, nói to lên như trong một cuộc tranh cãi và
có cái vẻ cửa quyền:
- Còn thì vứt, vứt hết những lời nói đó đi cho tôi. Chúng tôi
làm ăn vất vả để đủ cơm ăn áo mặc. Chúng tôi hát là chúng tôi yêu đấy. Có yêu mới
hát. Hát cho mình, cho người mình yêu, cho người mình đang khát khao. Hát để tỏ
tình đấy.
Vâng, ông nói có lý.
- Nó phong tình đấy! Này nhé:
"Cổ tay em vừa trắng lại vừa tròn
Đã cho ai gối nên mòn một bên…"
Chúng tôi hát và hàng ngày chúng tôi làm nông nghiệp và nghề
thủ công, trao đổi buôn bán. Chúng tôi hát được mọi người yêu quý và cung phụng
ăn uống, phí tổn. Nghĩa là tiếng hát của chúng tôi phải hay để có người nghe,
có khách hàng, có lộc… Chúng tôi hát bài "Lúng liếng", rồi đến bài
"Vào chùa chải chiếu ra", có câu "Muốn kết a phú lợi tình là
nhân… duyên…" thế không phải là rõ ràng thanh thiên bạch nhật tất cả rồi
à. Giời sinh ra thế mà…
- Vâng! Vâng!
- Chúng tôi tình tang đấy. Anh tình tang, ả tình tang. Có điều
là xã hội còn phong kiến, xã hội muốn kín đáo, chúng tôi nên kín đáo. Chúng tôi
tình tang rất mực. Lại còn cái câu "Yêu nhau cởi áo cho nhau" ư?
Chúng tôi hát như sau: "Yêu nhau…" nghỉ một lát, đến hai từ "cởi
áo" lại nghỉ một lát, rồi mới đến: "cho nhau"? Như thế là có
nghĩa lắm đấy. Anh cởi áo cho ả, ả lại cởi áo cho anh. Về đến nhà, cả hai bên đều
nói dối cả đấy”. Đó là lời nói dối cho phép…
Ông yên lặng một phút, tợp một hớp rượu. Trong lòng ông chan
chứa những điều muốn nói ra. Chúng cứ tranh nhau để được thổ lộ đến nỗi làm cho
ông lúng túng. Ông như bị ốp đồng. Ông liền hát lên bài: "Ngồi tựa mạn
thuyền" và "Còn duyên" với lời ca của cái thuở xa xưa… Tôi cũng
cảm động đến ngạc nhiên và không ngớt lời khen ông. Quả thực, ông hát quá hay.
Tôi chưa bao giờ được nghe ai hát quan họ hay đến như vậy, mặc dầu tôi đã được
nghe hát hai bài đó không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi hoàn toàn có thể cảm nhận
được thế nào là một bài quan họ hay Tôi lại cám ơn ông nhiệt liệt. Ông hến gạt
ngay đi và càng hào hứng hơn.
- Trong mấy chục năm nay, tôi chưa thấy giọng hát nào địch được
với giọng Năm Diệu của tôi. Kể cũng có đôi ba tay khá đấy. Nhưng họ hát vẫn còn
chưa "ngon". À, mà nói đến cái “ngon” của đời người thì phải kể đến
những ý kiến mà các vị đàn anh của chúng tôi cho là: "Cau phơi tái, gái đoạn
tang, chim ra ràng, gà nhảy ổ" và "Cơm chín tới, cái gồng non, gái một
con, gà mái ghẹ"… Đấy!… Hát quan họ cũng phải hát sao "ngon" như
vậy.
Tôi còn có nhiều lần tiếp chuyện với ông Hai Châu về những
chuyến đi hát quan họ lưu động của ông với các hến anh hến chị, về cuộc đời có
phần phẳng lặng mà sôi nổi của ông, những câu chuyện về bốn mươi chín làng quan
họ, và nhất là những câu chuyện gần như huyền thoại về bà Năm Diệu của ông… Tất
cả đủ để viết thành một tập sách dày lưu truyền cho thế hệ sau, gợi nhớ về một
con người, một cuộc đời gắn liên với tiếng hát quan họ.
TRÚC QUỲNH
Trúc Quỳnh người nhỏ nhẹ, cân đối, mắt sâu, long mày lá liễu,
mũi dọc dừa. Chị là nhan sắc một thời. Cuối năm 1946, Trúc Quỳnh đóng vai Phồn
Y trong Lôi Vũ, có hai buổi thôi nhưng cũng đủ cho người xem trầm trồ khen ngợi
đến tận bây giờ. Lúc ấy, Trúc Quỳnh mới có 20 tuổi. Người ta cám ơn trời đất và
cuộc đời đã cho sân khấu Việt nam có được Trúc Quỳnh. Vai Phồn Y là một vai rất
khó đóng. Nó nằm gọn trong việc thành công hay thất bại của một vở kịch lớn
Nhưng Trúc Quỳnh đã thành công rực rỡ. Những người có may mắn được xem vai Phồn
Y do các diễn viên Bắc Kinh, Thượng Hải đóng cũng phải công nhận Phồn Y nơi
Trúc Quỳnh không thua kém chút nào, mà còn hợp lý, duyên dáng hơn là khác. Với
Trúc Quỳnh, vai Phồn Y đã trở nên quý phái, sắc sảo, dào dạt sóng bên trong,
kiêu sa, thèm khát, vừa cao cả vừa nhục dục, chân tình mãnh liệt, già dặn mà
non tơ. Người ta gọi ngay chị là ngôi sao, là diễn viên phi phàm. Sau buổi diễn,
cả sân khấu đầy hoa cho Trúc Quỳnh. Sao mà nhiều hoa thế.
Cho đến ngay hôm nay, tôi chưa thấy bất cứ một buổi biểu diễn
nào mà một diên viên được tặng nhiều hoa đến như vậy. Người ta mê Trúc Quỳnh và
số người đó đếm không xuể. Tài năng của Trúc Quỳnh không phải tự nhiên mà có.
Nó chẳng xuất hiện từ số 0 mà nở ra là sung mãn, vẹn toàn hấp dẫn, đầy ma lực.
Nó hút nhựa và được tưới tắm từ cuộc sống đầy thăng trầm, đột biến, nhiều mâu
thuẫn, vừa đời vừa đạo… mà rất nghệ sĩ của bà mẹ tà; sắc. Trúc Quỳnh ham mê nhiều
thể loại nghệ thuật và đóng kịch từ bé. Trong kháng chiến, chị đi biểu diễn ở
nhiều vùng. Tính ra, chị biểu diễn ở ngoài tiền tuyến nhiều hơn ở nhà hát. Đôi
khi diễn ngay bên mâm pháo. Chị sắm được nhiều loại vai. Tâm trạng càng phức tạp
càng diễn được “lên màu làm nên những hình tượng không thể quên được. Những vai
nông dân, người mẹ… của chị đứng lên rõ nét, có hình hài, tâm trạng, có tuyên
ngôn của người phụ nữ Việt nam kiên cường và nhân hậu. Đó là những vai chính của
chị trong "Mẹ Lệnh giữ lúa", "Cái võng", "Dưới chân
thánh giá", trả con tôi đây? Nỗi đau tinh thần của người mẹ mất con trong
vở “Trả con tôi đây” đã được vật chất hoá, như có thể sờ mó được. Nỗi đau trở
nên hiện diện, mãnh liệt và khủng khiếp. Khán giả vỗ tay lại kêu lên "Phồn
Y Phồn Y…: " Vì yêu cầu của các mâm pháo, đôi khi chị đảm đương công việc
biểu diễn của các diễn viên múa và diễn viên hát. Chị biểu diễn đằm thắm, đam
mê, vừa thực vừa ảo và cũng được liệt vào những diễn viên múa, hát hàng đầu.
Hoà bình trở lại, trong vở "Những người ở lại", chị đóng vai Ngọc Cầm
với tâm trạng rối bời, phức tạp. Chỉ có chị đóng vai chính này. Không có diễn
viên "Đúp” Sau đó, chị có một loạt vai thành công như "chị Hoà"
trong vở Chị Hoà. Panova trong "Liuba" (không tìm được vai đúp). Ở vở
kịch đồ sộ này, vai chính của chị thể hiện một tâm hồn Nga, rất Nga mà đạo diễn
Vasiliep phải thừa nhận: thuần khiết, sâu lắng, tinh tế mỗi cử chỉ, dáng điệu của
chị đều nồng nàn chất tạo hình. Đạo diễn Vasiliep lại nói: “Thành công của Trúc
Quỳnh trong "Liuba" không chỉ đánh dấu tài năng vả sự trưởng thành của
Trúc Quỳnh mà còn đánh dấu sự rạng rỡ của sân khấu Việt nam. Sau đó, chị lại
đóng tiếp Lâm Nhĩ Nhàn trong "Đứng gác dưới ánh đèn nê-ông", vợ giáo
sư Hoàng trong vở " Giáo sư Hoàng", Lia trong "Platon", bà
mẹ trong "Tay súng dân quân", bà giáo trong, "Mẹ và những người
con" Maria Jlitrina trong "Khúc thứ ba bi tráng", bà Pio trong
"Sang sông". Chị còn thành công khi vào vai mẹ Núi trong bộ phim,
"Đường về quê mẹ". Chị chẳng những chứng tỏ khả năng của mình mà còn
có lòng quả cảm, hy sinh cho nghệ thuật. Ở những pha diễn nguy hiểm, đạo diễn đề
nghị cho người khác đóng thay, nhưng chị không chịu và đề nghị chính mình được
đóng để thể hiện tốt hơn. Chị đã phải vật lộn với một con bạc giê to lớn, hung
dữ, chịu đựng những miếng ngoạm thực sự của nó. Chị đã vượt qua những pha như vậy
với lòng dũng cảm của một chiến sĩ để đạt được cái đẹp thăng hoa cho những thước
phim. Trúc Quỳnh rất dễ xúc động. Nhưng cũng rất biết truyền những xúc động đó
tới người xem. Mỗi lần chị nhận một vai diễn hoặc một kịch bản phim nào chị đều
cho đó là một lần "sơ tuyển" đối với một mối tình mối tình sân khấu.
Trong sáng tạo nghệ thuật, Trúc Quỳnh luôn muốn đạt đến mục đích của sự cao cả.
Chị có tinh thần trách nhiệm và một sự say mê không nguôi. Chị học tập ở sách, ở
bạn bè xung quanh để đạt đến sự hoàn thiện của giọng nói, dáng đi, cách đứng
làm sao cho tiếng cười tiếng khóc có được cả kỳ hoa dị thảo để dinh dưỡng tinh
thần cho con người. Làm được như vậy, Trúc Quỳnh đã là một nghệ sĩ thực sự cả về
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cho đến giờ, Trúc Quỳnh được kể như là một trong những
nữ nghệ sĩ kịch nói hạng nhất. Mà những nghệ sĩ hạng nhất chỉ có thể đếm trên đầu
ngón tay.
Sân khấu Việt nam là một phần quan trọng trong nền văn hoá -
nghệ thuật Việt nam độc đáo và đa dạng. Thật thiếu sót khi nói đến sân khấu Việt
nam mà không nhắc đến Trúc Quỳnh. Đó là hiện thân của một nghệ sĩ cao cả, đẹp đẽ,
xa xôi, mong manh, đơn côi và bí ẩn. Trong đời thường, Trúc Quỳnh khiêm tốn,
yêu quý mọi người, giản dị, không ồn ào, không đòi hỏi nhiều, không bon chen, cầu
cạnh, một tâm hồn nhiều ước vọng. Chị ra đi thanh thản như một chiếc lá diễn
viên lìa cành sân khấu. Cả cái cây sân khấu rung lên thương tiếc và nhận chút
phần đóng góp của chị để lại. Chị thích câu nói của Cơrian Chandra, nhà văn kiệt
xuất của Ấn Độ: “Tôi hướng về một bông hồng và một ngọn lửa mà không bao giờ
tôi với tới "…
CON GÁI HÀ NỘI
Cũng không hiểu sao Hàn lại yêu Oanh và được Oanh chấp nhận.
Sau khi họ cưới nhau, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Mẹ Hàn mất sớm, lúc Hàn 18
tuổi anh đi bộ đội 8 năm, rồi xuất ngũ về với gia đình, Oanh chăm sóc Hàn mọi rặt
đến mức Hàn không chê vào đâu được. Vợ anh có tài năng, các bạn bè khen Oanh nức
nở. Thế rồi, họ có nhiều ảo tưởng trong cuộc sống. Cả hai đều có trình độ đại học.
Nhưng với thực tế cuộc sống trong gia đình cùng với chồng, đôi lúc Oanh trở nên
mệt nhọc vô cùng. Nàng tiều tuỵ đi đôi phần. Đứa con trai ra đời lại hay ốm yếu
đã vạch ra một sự ngăn cách giữa hai vợ chồng. Nào nhiệm vụ với cơ quan nào những
công việc có tên và không tên vây lấy Oanh đến ngạt thở làm cho tổ ấm gia đình
trở nên giá lạnh. Oanh không hiểu được rằng chồng nàng rất yếu đuối trước những
khó khăn. Trái tim và tấm lòng của anh không chịu nổi sự thử thách phũ phàng của
cuộc sống. Đứa con trai lớn lên, Oanh mới rảnh tay, tập trung mọi cố gắng chăm
sóc, giúp đỡ chồng. Chị mang đến cho chồng sự nồng ấm, êm đềm, dịu dàng và với
tất cả những gì cần có ở một người vợ. Nhưng hình như đã hơi muộn. Anh ta đã
thay đổi. Anh ta không còn quyến luyến Oanh như trước. Anh đã nhìn Oanh và gia
đình với con mắt lạnh lùng. Do vậy, mọi cố gắng của Oanh đã bị loãng đi. Anh ta
cũng rất lý trí và cự tuyệt một vài trường hợp bị cám dô bởi những cô gái trẻ,
đẹp. Anh trở nên nóng nảy và hay cáu gắt. Vợ chồng anh luôn cãi nhau. Cả hai
bên đều không chịu ngồi xuống nói chuyện chân thành. Tình trạng này dẫn đến việc
anh "dính" vào vòng tay cô vợ đẹp của một anh công chức hạng thấp. Biết
được chuyện này, Oanh vừa tức giận vừa đau buồn. Sự đau đớn cực độ này làm cho
Oanh bừng tỉnh, nhận ra chân tướng của sự việc. Oanh không khóc nữa, không ra
khỏi nhà mấy ngày liền, nàng kinh ngạc và thấy bản thân mình cũng chịu trách
nhiệm về việc thay lòng đổi dạ của Hàn. Nhìn lại mấy năm trời chồng ở nhà thì
đau đầu, chồng đi xa thì đau lòng. Họ đã, "kiêu" với nhau, dùng thái
độ “lạnh” đối xử với cái lạnh. Họ không biết tình yêu là gì. Trước hết, Oanh lấy
tấm lòng người vợ, quan tâm đến chồng với mức tối đa. Oanh ngẩng cao đầu, quyết
tâm kéo chồng trở lại với gia đình. Oanh phát hiện ra chính mình. Nàng thể hiện
cái đẹp bên trong lẫn bên ngoài của mình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của chồng.
Đó là cả một giai đoạn cố gắng gian khổ. Oanh tin vào một vài sợi thuần khiết vốn
có của chồng sẽ không làm cho mình thất vọng. Quả nhiên, trong bối rối, mê loạn,
Hàn trở lại với Oanh. Nàng tôn trọng sự tự tin của chồng, không nói thẳng mà viết
cho chồng mấy lá thư dài. Trong thư, nàng phân tích nhẹ thái độ lạnh nhạt của
chồng và thừa nhận sự thiếu trách nhiệm của mình. Nàng cũng nhắc lại những kỷ
niệm tươi đẹp trong thời gian đã qua. Xem xong thư, chồng Oanh thốt lên
"Lành làm gáo, vỡ làm môi" Và có ý định ly hôn. Anh ta không ngờ Oanh
nói có tình có lý, lại rộng lượng khoan dung đến vậy. Anh ta bảo: “trong chiến
tranh lạnh, cả hai người cùng khổ". Hôm đó, họ nằm bên đứa con trai hai
bàn tay họ gặp nhau, nắm lấy nhau. Họ cùng khóc với nhau. Thế là gương vỡ lại
lành.
Mấy năm sau, chẳng biết cuộc đời xô đẩy thế nào, gương lành lại
vỡ. Tôi gặp Oanh ở một quán cà phê. Oanh đã 60 tuổi. Nàng nhanh nhẹn, sang trọng
và đẹp. Trông Oanh chỉ như người trên 40 tuổi thôi. Người chồng cũ của cô, anh
ta ân hận cô đơn đến bạc trắng cả đầu. Con trai cũng đến thăm Oanh sau những
chuyến đi công tác dài ngày để được ôm chầm lấy mẹ. Oanh khá nổi tiếng, dạy tiếng
Anh và tiếng Pháp. Nàng còn làm cả việc nghiên cứu văn hoá dân gian. Có nhiều
người đến xin được lấy Oanh, trong đó có cả những người trạc 40 tuổi cũng đến cầu
hôn. Oanh không nhận lời ai cả. Tôi mừng cho Oanh và khen: "Em thật đầy
nghị lực". Mắt Oanh ánh lên một niềm vui sắc sảo và bảo: "Em là con
gái Hà Nội mà"…
NHUNG
Hôm ấy trời mưa phùn. Sau khi phải vất vả hầu hạ mấy ngày trời
liền trong công việc bốc mộ người bà nuôi, Nhung được thư thả một chút. Các cô,
bác họ hàng về dự lễ chuẩn bị trở về Hà Nội. Nhung chợt nghĩ mình cần phải ra
Hà Nội. Cái làng quê bé nhỏ này không giúp gì cho cuộc sống sau này của mình. Nếu
ra Hà Nội có bị khổ sở gì chăng nữa thì cũng không sao cả, Nhung quen rồi. Cũng
chẳng có gì mà mất. Ở đây, Nhung chỉ là đứa con nuôi của ông Cả. Mẹ Nhung là
người nghèo khổ, hầu hạ gia đình họ Nguyễn. Mẹ Nhung đi lại kín đáo với ông Cả
mà sinh ra Nhung. Tất cả âm mưu là do ông Cả xếp đặt, sao cho có được một đứa
con trai. Ngờ đâu lại là gái. Ông không công nhận Nhung là con ông mà chỉ nhận
làm con nuôi. Ít lâu sau, ông Cả và mẹ Nhung đều chết Nhung làm con nuôi của em
trai ông Cả. Trong đám người về Hà Nội, có một ông chú họ xa, ăn mặc bảnh bao,
chải chuốt. Hắn goá vợ và có vẻ lẳng lơ ra mặt. Nhung đề nghị được ra Hà Nội với
hắn. Hắn mừng quýnh lên như bắt được của, hứa sẽ cho Nhung ở gian dưới cùng với
con gái hắn. Nhung sẽ được hắn cho đi học thêm vì Nhung rất thông minh. Tiền
nong thì hắn nhiều. Hắn nói với em ông Cả một vài câu trịch thượng và lôi được
Nhung ra Hà Nội. Đến năm Nhung lên mười bảy tuổi. Nhung yêu một chàng trai ở phố
H. gần nhà, tên là Văn. Gia đình này kênh kiệu, có chuông điện và nuôi chó Tây.
Ông chú nuôi của Nhung rất ghét Văn, không muốn cho Văn đi lại với cô cháu. Ông
coi Nhung như một giò lan Bạch Ngọc của riêng mình. Chỉ mấy tuần sau, Văn lấy một
cô gái xấu xí nhưng là con cưng của một ông cán bộ cao cấp. Văn cần đi nhiều nước
và thăng quan tiến chức nhanh. Nhung rất cay đắng nhưng có đối sách ngay.
Nhung liền xưng hô chú cháu với một ông bạn mới của ông chú
nuôi. Ông này đầy đủ sức mạnh và tích cực xin cho Nhung đi học tập tại Đức, bất
chấp sự ấm ức của ông bạn thân. Thì ra, lòng tốt của họ đều vụ lợi cả nhưng lại
nguỵ trang bằng nhiều cách. Nhung đã thấy được giá trị của mình. Người mẹ khốn
khổ của Nhung đã kiến tạo ra được một đứa con xinh đẹp bằng những mảnh vụn nát
của đời mình. Sang nước ngoài, ngoài những chương trình bắt buộc ra, Nhung say
sưa học thêm về hoá trang, trang điểm, lái ôtô và học vô thuật. Học được gần
hai năm, Nhung xin về nước. Thế là Nhung về Hà Nội, tứ cố vô thân. Các vị cha
chú, anh em hờ đều tỏ ra thân tình, săn sóc Nhung.
Họ đều có một yêu cầu giống nhau. Họ đều muốn “xơi tái”,
"xào khô", "xào ướt" Nhung. Chẳng ai là không có cái âm mưu
đen tối ấy. Kể ra, nếu trong số họ có được một người tài ba, thông minh, lịch
thiệp và thông kim bác cổ thì Nhung cũng "cho xong ngay". Nhưng may
quá họ chỉ là những phường giá áo túi cơm không hơn không kém. Nhung từ giã tất
cả rồi mua một căn nhà nhỏ hẻo lánh ở ngoại thành. Cô lao vào việc giao du rộng
rãi với đủ tầng lớp, cả với những người nước ngoài ham của gỉa. Sự thiếu thốn
đã đến với cô. Nhiều lúc cô cần tiền. Cô hạ quyết tâm trong một tuần lễ phải có
được một số tiền nhất định, đủ để có một bộ quần áo sang trọng nhất, một đôi
dép làm lóe mắt mọi người, một túi xách tay rất mốt và một số tiền cho nó
"lên hương"… Cô đã thực hiện được cái quyết tâm đó đúng lúc cần cho
việc đi dự vũ hội, gặp gỡ các bạn trai. Cô "chài" một số bạn trai và
người nước ngoài. Cô làm cho họ cảm thấy được làm bạn và biếu tặng một vài thứ
cho cô là một điều hạnh phúc lớn. Cô không cho ai hôn môi cô. Nhiều nhất cũng
chỉ thơm tóc thôi, tóc không biết nói.
Cô có những động tác tế nhị mà có hiệu quả làm cho các bạn
trai không thể nào tiếp xúc được môi cô. Môi là trận địa cuối cùng để đi đến
chiến thắng của một người đàn bà. Người đàn ông nào cũng hiếu thắng. Cô cho họ
khao khát mà ngầm hiểu rằng không thể chiến thắng cô một cách dễ dàng. Họ lại
càng cay cú và quyết tâm thực hiện ý đồ của họ. Cô "bóc" của bọn
thanh niên con cha cháu ông. Cha ông, chú bác nhà chúng đi nước ngoài như đi chợ,
có nhiều bổng lộc, nhiều may mắn. Mà trong số họ, một số chẳng có khả năng, đạo
đức gì. Họ được hưởng những của mà họ chẳng đáng được hưởng. Cô "bắt rễ"
vào Thắng. Anh chàng này là con của một gia đình vừa có thế lực vừa có tiền.
Cô cố mọi cách làm cho chàng công tử này chết mê chết mệt vì
cô cho cô là người kiếp trước của chàng. Những cô gái khác môn đăng hộ đối với
gia đình chàng, so với cô trở nên không có một chút nhan sắc. Trong thâm tâm,
Nhung không yêu Thắng. Nhưng cô đi lại thân mật với tất cả các thành viên trong
gia đình Thắng, nhất là với u Thắng, là người giúp việc tin cậy, trông nom nhà
cửa cho gia đình. Bà cũng là người họ hàng. Bà không chồng không con vì trước
đây bà ở vào cái thế cao không đến thấp không thông, nên lỡ thời. Thắng chuẩn bị
mua sắm nhiều thứ và để hẳn vào một gian buồng gác hai. Tất cả những xe máy, xe
đạp ti vi cát xét, máy ảnh hảo hạng, vàng bạc, tiền nong của bố mẹ đều được đưa
sang gian buồng dành riêng cho Thắng chuẩn bị cưới Nhung. Một buổi trưa Nhung
ra gần bến xe Kim Mã, thấy một chiếc xe tải nhỏ đỗ ngang phè phè, chạm lòng đường.
Anh lái xe ngủ say ngay bên cạnh sau một chuyến đi xa mệt mỏi. Nhung đến gần,
đi đi lại lại, làm cho anh lái xe thức dậy. Anh ta liền tỉnh như sáo sậu và làm
quen ngay với Nhung, mời Nhung đi ăn uống.
Anh lái xe còn trẻ có nét bạch diện thư sinh, say mê cô bé
ngay lập tức.Họ nói chuyện với nhau rất tâm đầu ý hợp Anh ta đã, "đổ”.
Đúng như Nhung thường nói, rằng cô không "cưa" thì thôi, cô đã
"cưa" thì ai cũng phải đổ. Đến nhà Thắng, cả nhà về quê, chỉ còn lại
bà giúp việc. Vì hôm trước Nhung và Thắng đã ngồi với nhau ở dưới nhà mãi. U Thắng
đã biết và cho rằng đôi này đang chuẩn bị cưới nên không mảy may ngạc nhiên về
việc Nhung đến đường đột lúc Thắng không có nhà. Nhung vui vẻ: "U ơi! con
gái của u đến biếu u cái này đây”. Nhung trao cho u Thắng một gói bánh cốm có lạt
đỏ và một bọc sườn, rồi bảo: "Anh Thắng cũng sắp về, u làm cho món sườn
chua ngọt đi rồi mấy u con ta ăn cơm với nhau. Nói đoạn, Nhung đi thẳng vào
trong nhà, lên gác hai thăm thú thật nhanh rồi lại xuống với u Thắng.
- Con đợi Thắng về nhé. Thẳng cũng sẽ có quà biếu u đấy -
Nhung nũng nịu.
- À, thế này nhé. Cô đợi Thắng ngoài này, để tôi ra đằng bếp
làm món sườn. À mà lại còn một lô quần áo cần phải giặt nữa chứ - U Thắng nói rồi
đi về phía nhà bếp ở mặt sau.
Nhung gọi anh lái xe đánh xe vào. Đuôi xe vừa đúng vào tầng
hai. Mở chiếc khoá cửa phòng to tướng, Nhung chỉ cần một cái đinh và một que
tăm là xong. Anh lái xe trở thành một phu khuân vác chuyên nghiệp, đưa tất cả
bao nhiêu của cải đặt trong phòng xuống xe, Nhung nhét tất cả mọi thứ quý giá
nhất vào va li. Sức mạnh của tình yêu là vô địch, họ làm được tất cả mọi việc.
Chỉ trong một thời gian ngắn, việc chuyển cả cái kho lên xe ô tô đã xong. Xe rồ
máy phóng đi thật nhanh, vòng vèo, điên dại. Anh lái xe sẵn máu giang hồ lãng tử,
mơ màng tính đến viễn cảnh mai sau. Xe đi được một đoạn, đến quãng đê gần phía
đi lên cầu Chương Dương. Nhung đề nghị dừng xe lại một chút để nghỉ ngơi va lấy
lại tinh thần. Mỗi người một chai nước ngọt, họ vừa uống vừa nhìn nhau không chớp
mắt. Những tín hiệu họ phát ra cộng hưởng với nhau. Rồi, Nhung với cái mũ lưới
trai kiểu Mỹ trên đầu anh lái xe và chụp lên đầu mình, gạt anh lái xe sang bên
phải và ngồi lên lái xe. Đến chỗ đê quai gần bãi Phúc Xá, Nhung vẫn cho xe nổ
máy. Cô kéo anh lái xe xuống cùng làm vài động tác thư giãn. Họ nắm tay nhau.
Anh lái xe ngửi hơi tóc ấm của người đẹp. Trong nháy mắt, Nhung dùng võ thuật
ném anh lái xe ngã dúi ra một quãng xa. Cô nhảy phục lên xe, phóng thẳng. Đến một
ngõ phố, Nhung đã tiêu thụ được tất cả những đồ đạc có trên xe nhanh như làm ảo
thuật. Nhung dồn tiền và vàng bạc vào một chiếc va li nhỏ hơn cho gọn. Vứt bỏ
không thương tiếc chiếc va li cồng kềnh. Đến mười một giờ đêm, trên xe không
còn hàng nữa. Nhung lái xe lên đoạn đường gần đền Voi Phục, để nằm lại đó, hạ
chiếc xe Pơgiô mới toanh xuống. Chiếc xe là quà chuyến đi Paris của bố Thắng
cho. Nhảy lên xe Nhung phóng vun vút như một bóng ma qua Ô Cầu Giấy Đoài Môn rồi
về Bưởi. Thời gian trôi đi chừng sáu, bảy tháng. Chẳng ai có thể tìm thấy tung
tích của Nhung tuy cô vẫn tung tẩy nay đây mai đó. Có điều, Nhung áp dụng nhiều
kiểu hoá trang và luôn luôn thay đổi phục trang. Dĩ nhiên, cô có rất nhiều tiền.
Lúc là Lan lúc lại là Huệ. Nhung sống rất rộng rãi thoải mái, tiêu tiền bằng
thích và có quan hệ bạn bè với một số nhà văn, nhà thơ trẻ. Đám này cũng hay
hay. Song họ chỉ hiểu biết một số kiến thức về văn hoá nghệ thuật mà rất ngờ
nghệch về mặt xã hội. Họ kính trọng và tôn sùng Nhung, cám ơn tấm lòng nữ Mạnh
Thường Quân của Nhung. Đến tháng thứ tám, trong một quán giải khát, Nhung ngồi
một mình, dáng hơi mệt mỏi. Cô nghĩ trở lại cội nguồn, thích cái lúc mình là cô
bé tắm truồng trong ao làng. Phía góc quán có anh công an đeo kính râm đang nhấp
cà phê. Anh tình cờ nhớ mang máng ra những đặc điểm của Nhung. Anh cũng không
tin vào trí nhớ của mình nữa. Nhưng cũng muốn làm quen với Nhung. Cứ bắt chuyện
cái đã, chết ai mà ngại. Không ngờ cái câu hỏi không chủ đích của anh lại xảy
ra một sự việc không lường tới. Anh công an đến bên bàn, mình hơi cúi xuống:
- Thưa chị. chị có phải là chị Nhung không ạ?
- Vâng có lẽ la số phận. Tôi trả giá cho sai lầm của tôi. Tôi
là Nhung…
Nhung sống ở trong trại cải tạo chừng hơn một năm. Ở đây cô sống
khác hẳn với những người cùng bị giam giữ. Bằng nhan sắc, nghị lực và bằng mấy
miếng võ bi truyền của người xạ phang, bọn đầu gấu hạng nhất cũng phải kiêng nể
cô. Bọn chúng dành tất cả mọi sự ưu ái cho cô. Hơn nữa, cô luôn luôn nhận cho
riêng mình một chút còn chia hết chứ mọi người. Lại có một chuyện xảy ra Nhung
thường kín đáo đến gần phía dãy các tu nhân nam. Nơi đó, có một chàng trai tên
là Nam, có một trình độ uyên bác có lẽ chỉ có chàng mới hiểu được Nhung, chàng
mới hợp với tình diệu muôn vẻ của Nhung, chàng không đẹp rộn ràng nhưng có đôi
mắt vương vất một nỗi buồn muôn thuở. Hai người đã có với nhau nhiều cuộc gặp gỡ
bên mấy gốc cây to. Xung quanh là cây cối rậm rạp, sáng, chiều đều lờ mờ một thứ
ánh sáng u uất. Họ ca tụng nhau và cùng khóc với nhau Nhung nỗi đau trần thế.
Nhung động viên Nam cố gắng cải tạo và hẹn lấy nhau khi chàng ra trại. Họ nhắc
nhau sống để gặp nhau và vì nhau. Chỉ cần họ bên nhau là có đủ sức để đi đến
cùng trời cuối đất. Mọi người luôn yêu cầu Nhung kể cho nghe chuyện, nào là
chuyện Tây, chuyện Tàu, chuyện phiêu lưu, tình ái… Họ mê mẩn về tài kể chuyện của
Nhung, nhất là những chuyện bịa hoặc chuyện về người mẹ của cô đã phải đi tu đến
năm ba mươi chín tuổi. Đến năm bốn mươi tuổi bà mới bỏ chùa và lén lút có con với
một người đàn ông bảy mươi tuổi…Những chuyện này được kể rất xúc động với những
chi tiết “ có cánh”… Nhung còn giúp đỡ một số việc cho trại và cho cả tập thể
trại nữ. Cho nên các giám thị, quản giáo thường bỏ qua cho Nhung những điều có
thể bắt bẻ hoác xử phạt.
Hết hạn cải tạo, Nhung lại về Bưởi. Nơi đây không có đất làm
ăn, đồng tiền khó kiếm lắm. Với hai bàn tay trắng, Nhung vay mượn chút ít,
chung vốn với một chị bạn, buôn bán quần áo may sẵn ở chợ Giời. Mấy tháng sau,
Nhung buôn bán một mình. Đợi mãi không thấy tin tức gì về Nam. Cô nhớ đến mối
tình vụng trộm với Nam trong rừng những năm trước. Cô cho là cuộc đời tình
duyên của mình đã hết. Cô lao vào buôn bán và phất lên nhanh chóng. Hay là số
phận đã đưa Nhung đến chợ Giời chăng? Nhung nghĩ thầm như vậy. Đất chợ Giời thật
dễ làm giàu. Cô đã qua một vài cuộc tình, lấy vài người chồng rồi lại bỏ. Cô đã
có trong tay ba sạp hàng và trở nên nổi tiếng với cái tên "Con Phượng
hoàng của chợ Giời". Cũng có nhiều tai tiếng về cô. Nhung không để ý mấy đến
dư luận xung quanh. Nhung cứ tồn tại một cách tích cực. Không bao giờ có tâm trạng
buồn nản. Nhung hiểu rằng mình cô gắng làm cho cuộc sống của mình đi lên thì
bao giờ cũng có những kẻ ghen ghét. Đó là lẽ thường. Nếu như Nhung vẫn còn là
Nhung ở cái đất Phú Xuyên xơ xác, nghèo nàn thì Nhung sẽ phải chuốc lấy sự
khinh rẻ, những sự lo lắng kéo dài và Nhung không còn được biết một chút gì
ngoài cái luỹ tre làng bùn lầy nước đọng. Bây giờ khác, Nhung đã có đủ khả năng
để hoà nhập và đối phó với cuộc sống, đã hiểu được bao nhiêu điều mới mẻ, hấp dẫn
của cuộc đời. Nhung còn được tiếp xúc gặp gỡ với bao nhiêu con người tuyệt vời
mà Nhung yêu mến. Nhung học hỏi được ở họ mọi (cách ăn, nói, gói mở và thực sự
làm chủ cuộc đời mình. Nhung cảm ơn cuộc sống, cảm ơn cái quê hương nghèo nàn
và người mẹ đau khổ của mình). Hơn thế nữa, việc kinh doanh của Nhung đã đưa
Nhung lên một vị trí đáng nể, Nhung được nhiều người quý trọng, lại có chân
trong hội từ thiện tấm lòng vàng giúp đỡ các trại mồ côi, hội người mù và giúp
đỡ tu sửa những di tích lịch sử văn hoá.
Chị phóng viên nhà báo thân thiết với Nhung rất quý Nhung và
đã động viên Nhung nhiều, chị đánh giá: “Nhung là một phụ nữ đầy trí tiến thủ,
thích hợp với cuộc sống mới có tốc độ vũ bão. Nhung giàu linh hồn, nhiều giấc mộng,
Nhung còn đi xa".
RẶM TRƯỜNG
Tên cô là Thanh, người Lạn Dương, sống tại một Xóm nhỏ vùng đồi
thuộc Vũ Yến - Phú Thọ. Thanh 18 tuổi. Cô đi trên xe lửa suốt cả đêm. Cô đã phải
đi bộ từ lúc nhá nhem tối, vội vàng, lật đật để tới được ga. Cô sợ anh cả và chị
dâu biết rồi lôi cô về thì cuộc chạy trốn khỏi làng của cô sẽ không thành. Cô bị
người anh cả ép gả cho một anh chàng làm chè ở Thái - Ninh, tên là Lạc và đã nhận
của Lạc một số tiền hai triệu đồng Hai năm trước đây, mẹ đẻ của Thanh qua đời
Cô phải ở với người anh cả. Ở đây, người ta vẫn hay nhắc đến câu: “Quyền huynh
thế phựt”, cô không nhận lời lấy Lạc. Cô xin với anh cả hãy trả lại số tiền của
Lạc. Nhưng người anh cả nói là đã tiêu gần hết cho bao nhiêu chuyện trong gia
đình. Anh ta dỗ dành và dùng đủ mọi áp lực ép Thanh lấy Lạc. Hai hôm nữa là
ngày chạm ngõ và bốn hôm sau Thanh sẽ về nhà chồng. Thế là mọi việc sẽ đâu vào
đấy.
- Em không lấy.
- Em phải nghe lời anh chị.
Thanh buồn lắm, cô ngồi xuống bậc cửa, cúi mặt. Những giọt nước
mắt chảy xuống.
- Khóc cái gì chức Con gái lớn, phải đi lấy chồng.
Mấy người bà con bên cạnh biết chuyện. Nhưng họ cho là người
anh cả lo việc dựng vợ gả chồng cho em là một chuyện hợp với thiên kinh địa
nghĩa. Nhất là khi cả hai cha mẹ đều không còn. Số phận cả thôi! thanh đi bộ một
quãng rồi lên ô tô đi đến ga, về thẳng Hà Nội. Xuống ga Hà Nội, Thanh đi về
phía Vọng. Cô vào nghỉ trong một quán nước. Bà chủ quán dáng người đôn hậu, biết
ngay Thanh là người ở xa tới Bà róc nước cho cô gái và nhìn kỹ cô gái từ đầu đến
chân. Bà hỏi:
- Cô ở đâu tới?
- Cháu ở Phú Thọ tới.
- Cô về đâu bây giờ?
- Cháu…cháu còn…
- Chết! Cô đi một mình à? Không có ai quen chứ?
- Vâng - Cô liều thật, tôi phải giúp đỡ cô kẻo khốn đấy…
- Thưa bà, cháu trốn gia đình. Anh cả cháu ép cháu lấy một
người mà cháu không thích…
- Tôi hiểu rồi, tôi ở đây có một mình. Trông cô nhẹ nhõm, tôi
mến cô đấy! Thế học đến lớp mấy rồi?
- Dạ, đến lớp 10 ạ…
- Ừ, chắc muốn tìm việc làm…
- Vâng ạ.
- Thế định làm việc gì?
- Việc gì cháu cũng làm được.
- Thế có tạm giữ trẻ được không?
- Được ạ!
Bà Dương gọi một cậu thanh niên ở bên nhà đối diện sang bảo:
Này cậu Tê ơi! Tôi có một cô cháu có thể giúp việc trông con cho chị Hằng nhà cậu
đấy. Cậu đưa cháu nó lên cho chị ta xem mặt. Chị ấy đang cần.
Cậu Tê về nhà lấy xe máy đèo Thanh đến nhà chị Hằng. Đó là một
ngôi nhà mới làm. Chồng chị Hằng ra mở cửa, đón hai người vào, bảo: "Vào
đi”. Đứng trước cửa phòng chính, Thanh rụt rè. Lúc này có tiếng đàn bà ở bên
trong vọng ra: "Vào đây”. Hai cánh cửa mở. Thanh bước vào. Chàng thanh
niên bảo với cô gái: "Tôi là em anh chị tôi ở đây. Cô chào chị Hằng và anh
Tôn đi!”. Thanh cúi chào. Tê nói một vài câu với anh chị rồi xin phép về ngay
vì bận việc. Anh Tôn mở cửa buồng bên cạnh ra bảo Thanh cùng vào. Bên trong có
một giường, một hành mấy chiếc ghế. Chị Hằng vào theo. Chị bật các đông tắc điện
cho cô gái biết rồi chỉ vào chiếc giường: "Tối cô ngủ ở đây”…
Từ hôm đó, cô gái giúp việc cho chị Hằng. Chủ yếu là trông
con cho chị. Ngoài ra còn phải giặt giũ cho cả nhà và làm tất cả mọi việc lặt vặt
Lương tháng là 200 ngàn đồng. Anh Tôn làm việc ở cơ quan bộ. Chị Hằng làm việc
tại một công ty liên doanh với nước ngoài. Nghe đâu, lương cao lắm. Tháng lĩnh
tiền công đầu tiên, Thanh mua một chiếc bút bi và một cuốn sổ con để ghi nhật
ký mỗi khi có được chút thì giờ tranh thủ. Thời gian đầu, chị Hằng không biết
là Thanh thường ghi nhật ký mà chỉ tưởng là Thanh đọc các sách, báo cũ đặt lung
tung trên bàn. Trong nhà luôn có người mang đến nào thịt, nào cá, trứng, hoa quả.
Thanh hỏi chị Hằng xem những thứ đó có phải trả tiền không? Chị Hằng bảo:
"Có cái gì mà ăn không được đâu” Nhưng Thanh cứ thấy các nhân viên mang đến
cho chị Hằng nhiều thứ mà chẳng thấy phải trả tiền bao giờ. Đêm khuya, Thanh vẫn
để đèn sáng, cô ghi nhật ký và giở các trang sách, báo gây nên những tiếng sột
soạt Chị Hằng đặng hắng mấy tiếng rồi lại mấy tiếng nữa. Thanh biết là chị Hằng
giục mình tắt đèn.
Trong mấy tờ nhật ký của Thanh có những dòng ghi rất thương
tâm, làm rơi nước mắt. Cô phải lau đi ngay, không dám khóc. Từ sau khi cha mẹ
cô qua đời, cô đã hiểu rõ là không nên khóc. Khóc sẽ làm cho người khác ghét.
Chị Hằng có rất nhiều quần áo đẹp. Chị cũng cho Thanh một vài thứ cũ mà chị
không dùng tới. Nhưng với Thanh, chúng đã là đẹp, tốt và mới lắm rồi. Thanh cảm
động quá, nói lời cám ơn cứ líu ríu. Chị Hằng bảo: "Không phải cám ơn. Sau
này cứ làm việc tốt là được rồi…".
Ôi! Chẳng hoá ra như vậy là mấy: tháng trước đây, Thanh làm
việc không tốt hay sao nhiều lúc, Thanh nhớ nhà quá. Nhớ những ngọn núi những
quả đồi trồng cây đó, cây cọ. Nhớ những con suối mát lạnh. Nhớ mùi chè ủ thơm
mùi mật ong. Chị Hằng bắt đầu để ý đến những dòng nhật ký Của thanh. Tuy rằng,
chúng không động chạm gì đến gia đình chị Hằng, nhưng chúng cứ như trong tiểu
thuyết chị chợt nhớ ra nhiều điều. Chị thấy chỉ trong có mấy tháng mà Thanh đã
đẹp ra nhiều. Thanh nhanh nhẹn, khỏe mạnh, lại có duyên thầm. Thỉnh thoảng, chồng
chị Hằng lại khen Thanh: "Ừ, mà má nó lại cứ đỏ lên như màu mận
chín". Thôi, chết rồi, hình như cậu em anh Tôn cũng lưu ý đến nó. Nghĩ
liên miên một lúc, Hằng vào trong phòng, vò nát mấy tờ giấy rồi làu
bàu:!"Kiều này, nó sẽ không chịu làm việc giữ trẻ ở đây! Nó sẽ đợi thời để
làm nên một việc gì to tát?… À mà bà thầy bói đã chẳng bảo rồi đấy ư? Bà bảo
đôi mắt của nó là đôi mắt “nhỡn trung hữu thuỷ” làm cho bọn đàn ông chết mệt…Con
bé sẽ trở nên nguy hiểm cho chính cái gia đình này. Mà chính cái mối tình giữa
Hằng và Tê cũng không phải không "Có vấn đề…".
Cô tự khuyên nhủ mình, cương quyết không để Thanh giúp việc
cho mình nữa. Việc này chưa nói ra với ai mà cậu em chồng chị Hằng đã đến hỏi
thăm, dò xét. Cậu Tê khuyên chị Hằng không nên buộc Thanh thôi việc vì chị Hằng
sắp hết thời gian nghỉ phép rồi, sắp phải đi làm, cần sự giúp đỡ của Thanh. Để
nhấn mạnh lý do cần cho Thanh thôi việc, Hằng kể ra một loạt những khuyết điểm
lặt vặt của Thanh như: có lần tắm, Thanh đã dùng các đồ hoá trang của Hằng,
Thanh dùng quá nhiều giấy vệ sinh v.v… Tất cả mọi ý kiến của Hằng đều bị cậu em
chồng gạt đi hết. Lại còn chuyện mà Hằng chưa xem lại kỹ, hình như hôm trước, Hằng
bị mất một tờ 50 ngàn đồng thì phải.
- Chị mất ở đâu?
- Trong nhà.
- Ôi! Chắc chị cho ai vay hoặc tiêu một khoản nào đó -
- Không. Nhất quyết tôi cho con bé ra…
- Bao giờ?
- Ngay sáng mai.
- Không nên.
- Chị sắp đi làm rồi Sao lại không nên.
- Đi làm thi tôi xin nghỉ cũng được. Để em tìm cho người thay
thế đã rồi hãy cho cô ta thôi việc…
- Không…
Sáng ngày hôm sau. Hằng bảo Thanh thôi việc. Như con chim xứ
lạ, rơi từ trên không xuống và bị gãy cánh, Thanh ngạc nhiên quá, nước mắt trào
ra. Cô hỏi: "Sao chị lại từ bỏ em?"
- Cô biết rồi đấy.
- Không. Em chẳng biết gì cả.
- Cô không biết gì, tôi vẫn cứ không mướn cô.
- Thế còn em bé?
Thanh định nhào vào với đứa nhỏ ở buồng trong. Hằng giữ lại bảo:
- Không cần.
- Em rất thích nó mà…
- Thích cũng không cần cô trông nom nữa. "Thanh thu xếp
đồ đạc, bỏ vào túi xách. Một hai bộ quần áo, tập nhật ký, cái bút bi v.v… Cô
nhìn lại trang phục trên mình. Toàn là các thứ của chị Hằng cho cả. Cô cởi chiếc
áo blu-dông màu ra, trả lại cho chị Hằng.
- Em trả lại chị…
- Tôi cho cô đấy. Nào còn việc gì nữa không?
- Không ạ.
- Thôi…Cô đi…
Thanh bước ra khỏi cửa, rơm rớm nước mắt, khóc không nên tiếng.
Sau lưng cô có tiếng đóng cửa. Thanh trở về quán bà Dương. Cô buồn bã mấy hôm
vì nhớ thằng bé con mà cô đã chăm bẵm nó, nó mới đáng yêu làm sao? Mà nó cũng
yêu Thanh làm sao? Bà Dương kể hết cả cuộc đời của bà cho Thanh nghe. Bây giờ,
bà sống có một mình trong cái quán nhỏ bán nước và quà vặt tối lại về nhà tại
khu tập thể nhà máy ở gần đó Bà nhận Thanh làm con nuôi. Mà Thanh cũng thèm có
một người mẹ. Thế là hai con người tội nghiệp đó gắn bó lấy nhau. Bà Dương có một
căn hộ trong khu tập thể nhà máy do chồng để lại. Chính nơi đây, Thanh đã mở lớp
dạy thêm cho các em bé học lớp 1, 2 và 3. Số học sinh đến rất đông.
Thế là Thanh trở thành cô giáo cấp I. Mỗi ngày cô dạy hai buổi.
Có khi đến ba buổi. Thật không ngờ, tiền thu được hàng tháng tới trên hai triệu
đồng. Hơn cả số tiền mà trước đây anh cả của Thanh nhận của Lạc. Cô được các học
sinh, các vị phụ huynh yên mến. Cô có nhiều sáng tạo trong việc dạy học. Mọi việc
trong nhà, bà Dương giao cả cho Thanh. Với bà, Thanh là con gái của bà. Đôi lúc
có giờ rỗi, cô ra giúp việc cho bác Vượng, làm đủ việc trong cửa hàng
Photocopy, đóng sách đẹp, dán ny lông v.v… Cô nghĩ phải học thêm nhiều nghề,
phòng khi không làm nghề này thì làm nghề khác. Cô giúp cho bác Vượng nhiều
sáng kiến hay. Ban đêm cô theo học lớp tiếng Anh. Tình yêu đã đến với Thanh. Cô
từ biệt ngay người bạn tình đầu tiên. Anh ta tỉnh táo quá, không hở ra một chút
gì khờ dại trong khi yêu nhau. Anh chàng thứ hai không tặng hoa cho Thanh trong
ngày sinh nhật của cô. Cô cũng đợi một tuần để xem anh ta có ý định nghiêm chỉnh,
tặng cô chút đồ vật nhỏ nào đấy để tỏ lòng hối lỗi không? Anh ta không đến.
Thanh lại yêu Thái. Họ say đắm nhau, thề thốt đủ điều. Nhưng
đã 3, 4 tháng trời mà Thái không hề đả động đến việc đưa Thanh về thàm quê và
cha mẹ của Thái. Thế là Thanh chủ động nhạt tình với Thái.
Cô lại lao vào công việc và tự học. Bây giờ, Thanh đã là cô
gái khác hẳn trước. Cô đã học được nhiều điều. Sau hơn hai năm ở Hà Nội, cô xin
phép bà Dương về thăm quê. Cô lại về với những con đường nhỏ lượn lờ như những
con rắn, leo lên những quả đồi đỏ rợp bóng cây. Mấy đám đồi xanh những cây cọ
xoè ô, những người bà con, dân làng rủ nhau đi hái chè… Tất cả đều rất quen thuộc
mà cũng rất bỡ ngỡ, bịn rịn. Bọn trẻ con trố mắt, nhìn cô. Chúng không biết rằng
cô là người cùng làng với chúng. Về đến nhà người anh cả, nỗi đau buồn xưa tràn
ngập. Cô khóc cha, khóc mẹ, khóc cho bản thân cuộc đời của mình. Bà con làng
xóm sang thăm cô, vui như ngày Tết. Cô mang nhiều bánh kẹo ra mời mọi người và
phân phát cho bọn trẻ con. Cô đi thăm hết nhà này đến nhà khác. Đến đâu cô cung
biếu một chút quà bánh, chiếc áo, cái khăn hoặc thước vải… Tối đến, cô đưa cho
anh cả số tiền mà trước đây anh đã nhận của Lạc. Cô cũng đưa thêm cho anh chị một
số tiền làm vốn.
Sau năm ngày về thăm quê, cô trở về Hà Nội để làm ăn sinh sống
và học tập. Và bây giờ cô có ý chọn trong số mấy người bạn trai của mình, một
người có thể làm bạn trăm năm với cô. Điều này, cô sẽ làm được.
Tương lai ở trong tay cô.
ĐÔI NÉT VỀ ĐÀN ÔNG HÀ NỘI NHỮNG NĂM XƯA
Những năm từ 1920 - 1930, ở nước ta, người đàn ông không búi
tó nữa, mà đã cắt tóc ngắn, để đường ngôi lệch sang một bên. Ở nông thôn có các
bác phó cạo xách đồ nghề đi khắp nơi làm việc cắt tóc và lấy dáy tai eho khách
hàng. Những người lấy dáy tai được ưa chuộng và họ mang lại khoái cảm cho
khách.
Đã xuất hiện các kiểu đầu húi "cua", kiểu "phi
lô dốp", Kiểu hai bên tóc vắt qua tai gọi là kiểu tóc "gọng
kính". Ở các thành phố, đã có những hiệu cắt tóc hoặc những điểm cắt tóc ở
góc phố hoặc gần chợ. Mọi người thường mặc quần “lá toạ", ống rộng, đũng
thấp, cạp quần có chừng 20cm. Khi mặc, họ vê hai đầu cạp quần lại rồi thắt vào
với nhau. Có người lại dùng thắt lưng vải thắt ra ngoài cạp quần. Khi cấn thiết
làm việc gì đó, họ rút cạp quần ra ngoài thắt lưng toả cạp ra ngoài. Như vậy,
tư thế lảm việc sẽ được gọn ghẽ hơn. Có khi lại cuốn đầu ống quần lên, gọi là
"xắn móng lợn". Cũng có khi họ mặc quần cút, chiếc quần rộng có
"chân què" này rất lợi hại. Nó không sợ mất nếp, rộng rãi, giữ cho
các bộ phận thân thể bên trong được thoáng, mát, không bị gò bó. Và đó là điều
kiện tốt lành nhất để cái “nhà máy chế tạo ra tinh trùng" tiến hành công
việc được thuận lợi nhất. Thông thường thì áo và quần đều nhuộm nâu hoặc nhuộm
nâu nhuốm thêm bùn để có màu sắc sầm hơn và mặc bền hơn.
Khi đi ra ngoài, ra đình hoặc đi chơi đâu đó, họ mặc quần
trúc bâu trắng và chiếc áo dài quá đầu gối hoạt chiếc áo the thâm. Trên đấu quấn
khăn chít hoặc đội khăn đóng do các cửa hiệu làm sẵn. Chỉ cần đội lên đầu là
xong, không cần phải chít từng nếp. Những người có học hành, giàu có hoặc chức
sắc thì mặc chiếc áo dài trắng bên trong. Ngoài là chiếc áo xa có hình nhúng
"chữ thọ". Trong những ngày Tết, ngày lễ hoặc ngày quan trọng nào đó,
một số ít ngươi mắc áo gấm màu, có thêu những chữ "phú, quý, thọ, khang,
minh". Để tránh cho chiếc áo gấm quá sặc sỡ, choáng ngợp, người ta mặc ra
ngoài một chiếc áo xa rất mỏng. Như, vậy lai gây được hiệu quả thầm mỹ cao…
Những năm 1935-1936, ở Hà Nội, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đỗ tú
tài toán lại dạy văn ở trường Bưởi. Ông mặc áo gấm phủ áo xa, chít khăn đóng,
đi hài cao, đã tạo nên một nôi niềm dân tộc, hoài cồ và tâm linh. Sự thực ra,
cha ông ta, những anh hùng hào kiệt, những ví có chức sắc cao lại còn mặc ra
ngoài một chiếc áo phụng dài, rộng màu lam. Kiểu mặc này rất đẹp màu sắc hoà hợp
với nhau một cách hài hoà, vừa nghiêm trang, uy vọng lại có tính nghệ thuật
cao.
Mùa rét, người bình dân mặc áo bông dài hoặc ngắn. Họ đội nhiều
kiểu nón, đi guốc, đi giầy Gia Định, thậm chí là đi chân không…Từ năm 1935 trở
đi, ở các thành thị, nhiều người đã mặc âu phục: Nhất là từ những năm 1975 đến
giờ, các chàng trai và các vị đứng tuổi của ta ở hầu hết các thành thị và ngay
cả ở nông thôn cũng đều ăn mặc kiểu âu. Họ tiếp thu cách ăn mặc của các nước
phương Tây rất cầu kỳ.
Qua thăm dò ý kiến của một số nhà văn hoá nước ngoài về chuyện
may mặc của giới đàn ông nước ta, chị Bar Bang Ghen, người Mỹ, nói: "Thanh
niên Hà Nội ăn mặc rất đẹp mà còn kỹ lưỡng hơn cả người Mỹ chúng tôi, họ mặc
"Pháp" hơn chúng tôi". Chị Van de Viele người Bỉ, nói: "Tôi
đã đi nhiều nước trên thế giới, thanh niên Hà Nội mặc Complet không thua bất cứ
một nước nào. Họ mặc đẹp lắm”.
Chị Catherine Diamond còn nói: "Họ mặc miễn chê".
Đàn ông nông thôn của ta sống rất phóng khoáng. Cường độ lao động chưa cao. Thời
kỳ nông nhàn còn nhiều, ngay cả khi họ làm thêm chút nghề phụ. Họ hay lân la
nhà nọ nhà kia để bàn chuyện làm ăn và trò chuyện. Thỉnh thoảng làm đôi chén
“rượu ngang” cho lên hương cuộc đời. Bữa ăn của họ giản đơn. Toàn là những thức
ăn tươi, có sẵn ngay trong nhà, trong vườn ao. Họ kiếm được con cá, tôm, cua, ếch,
lươn, trạch v.v… là mổ ăn liền. Ra vườn lấy nắm rau bồ ngót, mồng tơi, rau đay
là xong. Người ta thường nói:",
Cua đồng canh rau đay, muối vừng hương thơm ngay". Nhà
nào cũng có chum tương, ao rau muống, vại cà hoặc dưa… Người ta chú ý đến lươn
bổ dương và ếch bổ âm. Ca dao có câu: "Có ao rau muống, có cà dầm
tương"? Khi ăn phải trông nồi; ngồi trông hướng, phải mời nhau cho lễ phép
và lịch sự. Trong bữa thấy người thân quen phải mời chào thành thực: "Lời
chào cao hơn mâm cỗ"! Thỉnh thoảng họ đi ăn giỗ, ăn đám, thì tha hồ mà say
sưa. Họ chơi cờ, chơi đu, chơi cây cảnh, chọi gà, xem hát tuồng, hát chèo, cải
lương v.v… Người đứng tuổi còn đánh nhắn, đánh tổ tôm: "Làm trai biệt đánh
tổ tôm, uống trà mạn hảo, ngâm thơ nôm truyện Kiều"?… Xưa kia, người ta
nghỉ ngơi tạm trên chiếc chõng tre hoặc chiếc võng đu đưa. Họ ngủ trên phản gỗ,
phản gồm bốn hoặc năm tấm gỗ dày ghép lại với nhau, kê trên đôi mễ gỗ rất vững
chắc, những tấm gỗ này cao khoảng chừng 40 - 50cm. Những tấm ván ghép thành phản
này xuất hiện trong câu hát của Thị Mầu trong vở "Quan âm Thị Kính".
Khi Thị Mầu và anh Nô say đắm nhau rất mực, họ cùng nhau hát: "Ta về xẻ tấm
ván dày". Rồi về báo với mẹ, thầy biết tin " Những tấm ván này cũng
nhuốm màu phong tình".
Có nhiều nhà, vợ chồng trẻ không ngủ chung với nhau một giường,
nhất là các gia đình cỡn đủ cha mẹ, anh em. Vợ chồng họ hẹn hò với nhau đánh
“du kích” vào một lúc thích hợp nào đó. Do vậy, họ thấy tình duyên của họ mới mẻ
hơn, hơi có chút vụng trộm và cũng vì vậy mà cảm thấy "ngon lành
hơn". Họ cư xử với nhau thật thà, chất phác, quý trọng tình bạn, kính trọng
người nhiều tuổi hơn. Ra đường gặp nhau đều chào hỏi thân mật và vui vẻ. Thanh
niên và các vị đứng tuổi ở thành thị có đời sống vật chất khá hơn ở nông thôn.
Do việc tiếp xúc với những nền văn hoá nước ngoài nên phục trang ngả hẳn sang
âu phục. Mùa rét mặc áo khoác ngoài bơ lurông, varơi, áo len, quấn phula. Họ đội
mũ cát két, mũ cát, mũ phớt. Mũ phớt của người nghèo hoặc tàn tã, méo mó được gọi
là mũ "phở". Đi giày da đen hoặc giầy trắng và đen gọi là giày đờ mi
cu lơ…
Ngoài những bữa ăn chính thức ra, họ còn có nhiều loại quà để
ăn nhẹ như: phở, miến, sực tắc, sủi cảo, các loại bánh chè v v… ở các thành thị
thường có các tiệm ăn hoặc hiệu cao lâu, vũ trường, nhà hát, nhà cô đầu v. v…
Những người ở thành thị rất nặng lòng với quê cha đất tổ, không nguôi nhớ đến
tình làng nghĩa xóm. Những ngày Tết, giỗ, việc họ, bốc mộ, xây phần mộ v v họ
thường về làng thăm quê và họ hàng để biếu quà bánh, tiền nong cho những người
thân hoặc những người nghèo khó. Mấy chụt năm gần đây, mức sống của nhân dân
thành thị cũng như nông thôn được nâng cao với những bước tiến khá nhanh. ý thức
và trình độ văn hoá của họ cũng được nâng cao nên tiếp thu được nhiều điều mới
mẻ, văn minh và từ bỏ được nhiều tục lệ và nếp sống tiêu cực. Họ ra sức bảo vệ
và phát triển nền văn hoá tiến bộ, đậm đà màu sắc dân tộc. Nói chung, người đàn
ông Việt nam những năm xưa có tinh thần học hỏi, chăm chỉ, cởi mở, hiếu khách,
lạc quan. Những chàng trai dong dỏng, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, sản xuất giỏi, lịch
sự, mặt vuông chữ điền thường được các chị em săn đón. Chị em quan họ thấy các
chàng trai của mình đẹp quá, đã thốt lên: "Thấy anh như thấy mặt trời,
chói chang khó ngó, trao lời khó trao"…
PHẦN III - Chương I
phục trang
CHIẾC ÁO DÀI VIÊT NAM
Có người bảo em từ kiểu áo người Tày, người Mường mà ra. Có
người bảo ở em có vài chi tiết nơi áo của các chị em Huế, Chăm. Lại có người
cho rằng em thành hình từ bộ áo mớ ba mớ bẩy của đất Kinh Bắc huyền thoại… Những
ý kiến đó đều có những tỷ lệ chính xac nhất định nào đó.
Nhưng, đúng ra, em tiếp nhận hình ảnh và hơi hướng của nhiều
miền trong cả nước gom góp lại, bổ sung cho nhau mà thành. Em đã có mặt ở Pháp
và ở Anh từ những năm 1913. Hồi đó và sau đó ít năm, em vẫn còn đơn sơ và được
cắt, may toàn bằng tay cả. Của hàng hoa mà. Thoạt đầu là cái áo dài, cổ tròn,
màu nâu. tam giang, mỡ gà, hồ thuỷ. Vạt áo thẳng, tay bó, xẻ một đoạn ở cổ tay,
cài cúc bên sườn. Những năm 1936-1938, từ cơ sở sẵn có, chiếc áo dài đã được hoạ
sĩ Cát Tường thiết kế và bố trí lại đã ra đời. Phải nói một chút về ông Cát Tường.
Ông đã ấp ủ nhiều ý đồ cải cách y phục Việt nam, nhất là chiếc áo dài. Ông say
sưa với cả những bức thêu rồng, phượng, những bức tranh Hàng Trống. Nhưng ông
thờ phụng chiếc áo dài. Ông là sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học
hết 5 năm và đã tốt nghiệp. Ông cũng có một số tranh. Nhưng mọi người biết đến
ông chủ yếu qua chiếc áo dài với công trình cải tiến của ông. Ông là người đầu
tiên dùng máy khâu để may chiếc áo dài. Động tác này rút ngắn được rất nhiều thời
gian so với khâu tay. Lẽ dĩ nhiên còn một vài vị trí quan trọng, hoa mỹ để quyết
định chất lượng chiếc áo phải dùng đến bàn tay khéo léo của người thợ. Ông cải
tiến cái cổ áo, đưa nó lên thành cổ đứng cao 2 centimét. Ông còn "lăng
xê" kiểu cổ cứng, cổ bắt chéo và cổ cánh hoa. Ông quy định vị trí những
chiếc khuy bấm và đưa ra nhiều kiểu khuy, khuyết, bỏ đi tà áo phụ, ngắn đệm
trong. Tà áo dài buông xuống cách mặt đất 20cm. Ông chú ý làm cho độ dài của
hai mặt trước sau có độ “đổ” chuẩn xác để cho khi mặc vào được căng, lượn sát,
bó khít lấy những đường nét của cơ thể, tôn cao bộ ngực, làm cho eo thon thả,
thắt đáy lưng ong…
Chính vì vậy, áo dài Cát Tường Lơ muya (Le mur theo tiếng
Pháp là Cát Tường) được nhiều người ưa chuộng. Trong số này, đa số là những nữ
sinh, những chị em thính ăn mặc đẹp. Áo dài là thời trang tuyệt đối cho những
nhân vật tiểu thuyết như cô Liên trong "Gánh hàng hoa", cô Loan trong
"Đoạn tuyệt cô Mai trong “Nửa chừng xuân và ít lâu sau cô "thiếu nữ
bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân, cho cô gái trong bức "Hiện vẻ hoa"
của hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân.
Hồi đó, ông Cát Tường còn trẻ, ông gầy gầy tầm thước. Mùa hạ
hay mặc bộ tuột so soa, đeo cà vạt. Khuôn mặt thanh tao, tự lự, hơi xanh xao.
Ông nhanh nhẹn, luôn lui tới những cửa hàng thêu ở phố Hàng Trống, Hàng Gai. Ở
đây, ông kết thân với ông Thức là một nghệ nhân thêu, có cửa hàng. Ông Thức rất
yêu quý chàng hoạ sĩ Tây học cao đẳng mà lại nặng tình với nghề nghiệp tổ tiên,
để ý đến những cái của ngày xưa. Ông kéo hoạ sĩ Cát Tường về quê phố Ninh Xá, Bắc
Ninh, gả ngay cô cháu gái tên là Nội cho hoạ sĩ. Cô Nội là một tay thêu giỏi,
là con gái ông chủ một cửa hàng thêu nổi tiếng. Sau đó, hoạ sĩ đưa vợ về phố Lò
Đúc. Vài tháng sau, họ mở một cứa hang may áo dài ở gần ngã năm Bà Triệu. Cửa
hàng có biển đề: Coupe Cát Tường. Nó nổi tiếng khắp nơi. Khách đến nườm nượp.
Em gái cô Nội chuyên mặc những chiếc áo do ông anh rể thiết kế và may. Vô tình,
cô đã làm cái việc "lăng xê" mốt cho cửa hàng Cát Tường. Cô được mọi
người gọi là Nga Cát Tường, cũng lừng lẫy một thời.
Từ sau 1945 và nhất là từ sau 1975, chiếc áo dài được lên
ngôi. Nó chiếm vị trí độc tôn trong các dịp lễ hội, giao dịch quốc tế. Nó xuất
hiện trên các diên đàn, các sân vận động trong và ngoài nước. Trong các buổi biểu
diễn nghệ thuật, thời trang, thi hoa hậu. Chiếc áo dài đã như câu ca quan họ,
bay đi khắp thế giới, ở đâu nó cũng có một vị trí xứng đáng. Nó được cải tiến
thêm và mang sắc thái riêng từng miền trong những chi tiết nhỏ để đáp ứng được
sở thích và yêu cầu thẩm mỹ của thời đại. Nhắc lại, những năm 1930, 1936, 1937,
trong các cuộc thì hoa hậu ở Hà Nội, Hà Đông và trong các chợ phiên (kermesse),
eáe cô gái đẹp như Ái Liên, cô Điệp, cô Hoàn, cô Siu đều đăng quang với chiếc
áo dài. Cô Slu là con gái nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Lý ngọc Hưng. Các nghệ sĩ
nước ngoài như Kirienko, Francine Vande, Catherine v.v… đều mặc áo dài.
Dự hội nghị Paris, chị Nguyễn Thị Bình hùng biện với chiếc áo
dài. Nhà sử học Mỹ là J.S.Ten son, viết: "Xin phép cho tôi được mặc chiếc
áo dài Việt nam, chiếc áo dài của người mẹ Việt nam. Những người mẹ đã sinh ra
những anh hùng của nhiều thời đại đã mặc chiếc áo dài. Mẹ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng mặc chiếc áo dài". Chiếc áo dài Việt nam là một dòng sông, một
cơn gió, một nếp mây bay. Nó tượng trưng cho sự màu mỡ, hồi sinh, tẩy trấn và
phồn thực. Có khi trên thân áo được in hoặc thêu lên hình ảnh những rồng, phượng,
hoa, lá… để thêm phần hấp dẫn. Nhưng, nó không có những mảng màu sặc sỡ. Những
hình vẽ trên áo dài phải xinh, gọn để ăn ý với vẻ đẹp mà chúng gửi mình vào đó.
Có người lại in lên chiếc áo quá nhiều hình ảnh, những vạch ngang dọc chi chít
hoặc quá nhiều màu sắc, chiếm cả bề mặt chiếc áo dài. Như vậy không ăn nhịp,
làm cho người mặc áo phải mang cả một bức tranh trên mình. Nói chung, việc pha
hoặc chọn màu áo, in hoặc thêu hình trên áo là một công việc rất phức tạp. Phải
có con mắt mỹ thuật, văn học nghệ thuật, lại phải có con mắt tâm linh…
Trong một cuộc trao đổi giữa các nghệ sĩ kịch nói Trung Quốc
với Việt nam, một nữ diễn viên kịch nói Trung Quốc nói với chị Diệp Bích:
"áo dài" của chị đẹp hơn áo “Sường sám” Thượng Hải của em”. Chiếc áo
dài là một nét đẹp văn hoá rất riêng của Việt nam.
ĐÔI ĐIỀU VỀ CHIẾC VÁY
Nguồn gốc xa xưa và thân thiết nhất của chiếc váy là cái nơm
úp cá. Ở các nước Ả Rập, nó được gọi là Djoubba, có nghĩa là linh thiêng. Người
Trung Quốc dùng chiết tự gọi là xuẩn chừ, gồm hai bộ phận ghép lại với nhau: chữ
y "rách" ghép với chữ "quân". Cũng là chữ tự, ghép với chữ
quân. Có nghĩa là sự trang trí và sự sở hữu của "quân". Từ quân chỉ
các bậc nam nhi với ý nghĩa tôn vinh. Thuở Đông Sơn, người Lạc Việt dùng váy lá
cây hoặc lông vũ, xoè ra. Sau đó là váy mở ngắn, là một mảnh vải quấn vào thân.
Rồi đến váy kín gồm hai mép díu lại với nhau thành hình nơm. Váy đại diện cho nữ
giới.
Ngày 23-1-1911, trước cửa Viện Hàn lâm khoa học Pháp có cuộc
tranh cãi lớn về việc kết nạp hay không kết nạp nữ giới vào Viện Hàn lâm và
Mari Curie bị thua tạm thời. Người ta gọi cuộc tranh cãi lớn này là cuộc tranh
cãi giữa cái váy và bộ râu. Năm 1960, ở Anh bắt đầu có phong trào mặc váy ngắn.
Phản đối mạnh mẽ nhất loại váy này là các vị giáo sư Họ nói rằng các nữ sinh
viên mặc váy ngắn làm cho họ không giảng bài được. Xa xưa, người Trung Quốc đều
mặc váy. Sau đó, những người Hồ (Mông Cổ) là dân du mục đã tràn sang Trung Quốc.
Người Hồ mặc quần cho gọn ghẽ để cưỡi ngựa được tiện lợi. Cái quần, do đó, có mặt
ở khắp Trung Quốc, một bộ phận ở Việt nam và ở một số nước láng giềng.
Trước đây, và nhất là vào khoảng năm 1990, nhiều nhà mỹ học
và tạo mốt phát biểu rằng họ đã học nhiều điều ở cái váy Việt nam. Có nghĩa là
một vài dáng dấp và đường nét của cái váy Việt nam đã được truyền sang các nước
âu Mỹ. Một thời gian rất dài, người ta dùng tấm váy lưới trai bảy bức bằng lĩnh
hay sồi dài chấm gót, cạp váy thường rộng bản, khoảng từ 5 đến 10 cai với các
màu sắc xanh, vàng, hồng. Để tô điểm thêm cho cái váy là dải thắt lưng màu mỡ
gà, hoa lý, hồng đào… thắt so le, buộc múi, rủ xuống vừa dịu dàng, vừa có màu sắc.
Váy thường mặc những lúc không làm việc lam lũ, vì váy kéo dài xuống tận mắt cá
chân. Khi phải lao động thật sự, người ta mặc chiếc váy ngắn đến trên đầu gối,
thết liệu vải thô kệch mà bền, gọi là cái "sống". Mẹ Đốp trong trò Mẹ
Đốp - lý trưởng (vở Quan âm Thị Kính) mặc cái “sống”, đi rao mõ. Trong bức
tranh "Hứng dừa" (Đông Hồ), cô gái hứng dừa mặc cái "sống"
ra vẻ vừa đi lao động về. Thị Mầu lẳng lơ mặc chiếc váy xộc xệch. Các thị nữ
trong cung đình mặc váy rộng, có nhiều nếp với chất lượng vải lụa hạng sang và
quý, nên không gọi là váy mà gọi là "xiêm" cho có phần cao sang, cung
điện… Người đàn bà giỏi giang, chèo chống, biết lo toan cho gia đình, được mọi
người khen là: "vén váy phất cờ". Khi cuộc sống khó khăn, người đàn
bà có quyết tâm và ý chí mạnh mẽ nói: "Ta phải vén váy phất cờ mới được”.
Người đàn ông vụng dại, chỉ ru rú trong nhà bị coi là "Đồ chỉ biết có cơm
nhà, váy vợ". Mà váy vợ cũng là nợ đời.
Lại có câu: "Cô kia cắt cỏ ven sông, cái váy thì ngắn,
cái lông thì dài". Cô cắt cỏ mặc mi-ni juýp từ ngày xa xưa ấy rồi. Một việc
làm điên dại, thiếu suy nghĩ được gọi là "vén váy giữa chợ". Trước
đây trong hội xuân, cảnh đánh đu tưng bừng lên bởi những tấm váy bay lên bồng bềnh,
chông chênh của các cô gái uốn lưng ong. Thử nghĩ, nếu không có cái đó thì còn
gì là hương vị mùa xuân nữa. Người ta, nhất là tuổi thơ, ai cũng có cái hạnh
phúc tuyệt đỉnh là được bám váy mẹ. Nhưng người đàn ông sợ vợ và vụng về cũng bị
coi thường là anh chàng bám váy vợ. Chiếc váy Việt nam đóng khung, làm nổi bật
cái vòng thứ ba kỳ diệu của thân thể người phụ nữ. Đó là vòng mông. Mà chính nó
cũng làm cho vòng ngực và vòng eo được nổi đình nổi đám hơn. “Váy Đình Bảng
buông trùng cửa võng"? câu thơ thật là thân tình. Ngày xưa, những cái váy
đẹp nhất, thướt tha nhất là những chiếc váy của chị em ở vùng đồng bằng sông Hồng,
đặc biệt là vùng Đình Bảng, Hà Bắc.
Vậy, cái váy cũng là một hình ảnh thiêng liêng trong tâm linh
và trong con mắt của mọi người. Sau này, Tú Xương mới "hạ" được câu:
“váy lĩnh cô kia quét sạch hè ". Khuyên nhau đừng làm việc gì quá sức, người
ta nói chua ngoa: "Đừng căng váy hứng dừa mà không váy"… Người phụ nữ
mặc váy, thắt dải rút rồi phủ ngoài bằng chiếc thắt lưng màu. Dải rút được tết,
bện kiên cô. Mặc váy phải luôn có ý tứ. Nhiều khi phải khép nép, giữ gìn trong
lúc đi đường gió to, lúc đi chợ, lúc ngồi tựa mạn thuyền v.v…
Ở nước ta, những năm 1954-1959 có cái kiểu váy dài quá đầu gối,
may phồng và hơi khum phần dưới (váy chuông). Đến năm 1960, váy được may thẳng,
xẻ chút ít ở giữa thân sau, xếp thành ly hoặc may bó. Năm 1968, váy mi ni ra đời,
ngắn đến đầu gối. Năm 1980 xuất hiện váy dài đến chân, có cài khuya bấm. Thôi
thì đủ kiểu: váy xếp, váy lồng, váy nơm, váy kiểu Paris, váy kiểu Thượng Hải,
váy kiểu Đông âu, váy ngắn, váy dài, váy kếp… v.v. và v.v…
Những năm 1990 đến 1993, váy lên ngôi. Váy phát triển theo xu
hướng của nền kinh tế thời mở cửa. Ở đâu ta cũng thấy phụ nữ đua nhau mặc váy.
Họ đua nhau nhún những bước chân trên đường phố, tiến vào công sở, cơ quan, vào
từng gia đình và đổ bộ về những mảnh đất sau luỹ tre xanh. Ở đâu ta cũng thấy
phụ nữ mặc váy. Các chị em ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Họ
rất giỏi và rất sành trong việc lựa chọn mẫu, màu, kiểu dáng. Họ sửa chữa, gia
công, cải tiến những bộ váy từ Tây, Tầu mang đến theo cách nhìn và gu thẩm mỹ của
họ. Các hàng may mặc cũng dựa theo các ca-ta-lô của nhiều nước trên thế giới mà
sản xuất ra những chiếc váy sao cho vừa lòng các chị em. Những chiếc váy thành
phẩm phải ưa nhìn, rất âu mà vẫn có cái gam màu truyền thống, dân tộc. Nhà văn
Pháp A. Fournier nói: “Các cô gái Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Không chê vào đâu được.
Nhìn mãi cũng không chán mắt"… Chiếc váy vẫn tồn tại trong cuộc sống một
cách oanh liệt. Nó luôn luôn được cải tiến và nâng cao.
CÁI YẾM
Chuyện cũ kể:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…
Một trong ba cô làm cho sư say mê và chính cái yếm thắm đã
góp phần tích cực làm cho sư ngây ngất. Có cô gái mong mỏi:
Ước gì sông hẹp tày gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Cô gái đi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp xúng xính:
Nho nhỏ đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào.
Trong Truyện Kiều, khi Hoạn Thư biết tỏng Thúc Sinh mê Kiều
mà còn chối quanh, đã nói toạc ra "Dễ loà yếm thắm trôn kim" nghĩa là
việc đã rõ ràng, sờ sờ ra đó như chiếc yếm thắm chứ không phải như cái trôn kim
đâu mà lòe em được…
Ở làng quan họ, cô gái có mười điều đáng yêu thì điều thứ năm
là: "Năm thương dải yếm đeo bùa".
Ở những bức chạm khắc thế kỷ 17, 18 nổi tiếng của đình Liên
Hiệp và Kim Hoàng đều có những vũ nữ mang yếm lá sồi hoặc lá sen bồng bềnh trên
những bộ ngực ngồn ngộn, nhấp nhô những đôi nhũ hoa bánh giầy, chũm cau, bình
vôi, quả mướp…
Ngày xưa, chuyện trai gái yêu nhau đến mức chàng trai cầm lấy
cổ tay cô gái là đã xong một nửa của cao trào. Nhưng đến cái mức cầm đến dải yếm
là đã "xong hẳn". Thị Mầu còn mở mang trí tuệ cho anh Nô: "Gió
xuân tốc dải yếm đào anh trông thấy oản, sao không vào thắp hương "? Hồ
Xuân Hương gợi ý về trình tự của tình yêu: Quân tử có yêu thì bóc yếm… Lại có
câu: Trời mưa lấy yếm mà che có anh đứng gác còn e nỗi gì? Anh chàng nọ lại sàm
sỡ với cô gái:
Yếm trắng anh ngỡ là cò
Anh quỳ gối xuống, anh thò hoả mai
Ngày sau em đẻ con trai
Nó lớn nó giống ông cai bắn cò
Người ta đã nói rất nhiều về cái yếm. Nó là một bài thơ nồng
cháy. Nó là chiếc bình phong sống và hờ hững ghe bộ ngực. Mà bộ ngực là tiến
hành khúc của người đàn bà. Nó vừa là vật cần dùng, vừa là vật trang điểm không
kém gì hoa tai, son phấn, nhẫn, xuyến…Không có nó thì cuộc đời kém phần hương sắc.
Ở nước ta, cái yếm xuất hiện từ xa xưa. Và cố nhiên nó cũng
luôn luôn được cải tiến. Cái yếm được định hình từ đời Lý. Đến năm 1696, đàn bà
lao động thường mặc yếm cổ xây. Với nữ giới quý tộc thì trước yếm có thêm một
vài đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám.
Từ năm 1802 trở đi, yếm là một miếng vải vuông đặt chéo lên
ngực người mặc. Ở góc (trên) có khoét hình tròn là cổ yếm. Đó là yếm cổ xây. Nếu
khoét hình chữ V thì gọi là yếm cổ xẻ. Nếu xẻ xuống sâu nữa gọi là yếm cánh nhạn.
Đến năm 1920, người ta phân chia ra nhiều loại yếm: yếm của người lao động màu
nâu non, nâu già, yếm cho các cô gái có nhiều màu khác nhau. Các cô gái ăn chơi
khoét cổ yếm xuống thật sâu đến gần nơi bộ ngực chia ra đôi ngả, màu sặc sỡ. Trẻ
thì dùng màu mát như màu hoa lý, hồ thuỷ, đào phai. Đứng tuổi thì dùng màu sẫm
hơn. Ở góc nhọn cổ yếm có thêm ba đường chỉ hoặc vải nhỏ tách ra hai bên làm
cho cổ yếm được bền hơn, nhưng cũng là để trang trí. Sau này lại có người thêu
hoa vào chỗ này. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy, phất phơ.
Hai dải nhỏ này được trang trí màu nổi bật ăn khớp với màu yếm. Có người cầu kỳ
còn khâu một túi nhỏ và dài đựng hương thơm, xả vào ngay trong dải yếm để lúc
nào cũng có mùi thơm ngây ngất. Dải yếm bỏ bùa là ở chỗ này đây. Có người lại
quấn vào dải yếm một miếng trầu dành cho người tình. Gọi là khẩu trầu dải yếm.
Hai dải góc hai bên cạnh sườn gọi là "dải cái" hoặc đai yếm vì nó được
thắt lại để bọc lấy cả bộ phận ngực, rồi buộc ra sau lưng và thắt dải ngực lại.
Việc thắt "dải cái" này cũng là một động tác hệ trọng. Để lao động
thì thắt chặt vào là xong, gọi là gói ghém. Những lúc đi chơi hoặc không phải
làm việc nặng thì thắt lỏng hoặc tháo khoán. Có khi lại để quá lỏng đến mức hững
hờ. Các chị em Khâm Thiên hoặc ăn chơi thì vừa thắt hững hờ vừa thắt lệnh dải cổ
yếm lẫn dải đai. Như vậy là cái yếm chỉ làm cái việc che bộ ngực một cách không
nghiêm khắc lắm. Nhìn vào cái yếm thoáng thấy bộ ngực phập phồng những bến bờ.
Đôi nhũ hoa khẽ tung tăng và chuyển động. Trong một phút chốc nào đó, tinh ý có
thể qua cái yếm mà chớp được những thông tin vô cùng quan trọng về chỉ số hấp dẫn
của người mang yếm. Đôi lúc cái yếm cũng tạo một vài trường đoạn hở hang mà
không ai nỡ trách. Cái yếm có mặt yếu là không đỡ được ngực, luôn có xu hướng xệ
xuống và không nâng được chúng lên. Nhưng điều đó không cần vì người ta cứ để
không tự nhiên như nó vẫn tồn tại kiểu như hoa quả trên cành vậy.
Những cô gái kỹ tính mua yếm ở chợ về, rồi gia công, sửa sang
lại cho hợp với ý mình. Việc này đòi hỏi sự khéo tay và tỉ mỉ. Sau khi mặc yếm,
các cô gái mặc ra ngoài chiếc áo cánh trắng không cài cúc cổ làm tôn màu yếm
hoa hiên hoặc đỏ thắm. Khi đi ra ngoài, mặc thêm chiếc áo dài. Bên dưới mặc váy
lưỡi trai bằng lĩnh hay sồi đen dài chấm gót. Lưng có dải thắt màu mỡ gà, hồng
đào hoặc hoa lý dịu dàng. Phía cạnh sườn đeo xà tích bạc có chùm ống vôi và con
dao con bổ cau. Chân đi dép. Đầu vấn khăn nhiễu hoặc nhung với đường ngôi ở giữa
hoặc bên cạnh. Trùm ngoài là chiếc khăn mỏ quạ có người để tóc bỏ đuôi gà hoặc
vấn đầu trần, có cài chiếc lược. Nếu đi xa hoặc đi xem hội, cô gái đội chiếc
nón quai thao. Cái nón nặng về làm duyên… Tất cả những cái đó phối hợp với cái
yếm làm nên dáng nét của người con gái mềm mại, duyên dáng, gần với thiên nhiên
mà kín đáo, hiện hữu trong cuộc đời và thoáng hiện trong những giấc mơ cùng với
những con cò con vạc Việt nam.
Cái yếm ăn ở với người phụ nữ Việt nam suốt cả chiều dài lịch
sử. Nó đã tồn tại một cách đẹp đẽ và hùng biện. Nay nó bị cái áo nịt chiếm mất
ưu thế ở nhiều nơi. Tuy vậy, nó vẫn còn tồn tại. Nó còn được nghiên cứu để hoá
thân, biến dạng và hoàn thiện. Điều đó còn đang chờ sức sáng tạo của các nhà tạo
mốt, các nhà y phục học, xã hội học, mỹ học v.v… Nhiều khách và các nhà nghiên
cứu nước ngoài rất ngưỡng mộ và học tập được nhiều điều ở cái yếm. Nó đã sang
châu Âu và hình thức thắt dải hai bên sườn của nó đã được thay vào hai hàng
khuy bấm kiểu Tây. Cái yếm đã vượt biên giới Việt nam đến với thế giới.
TÓC BỎ ĐUÔI GÀ
Mái tóc tượng trưng cho sự sở hữu, là gia tài của cha mẹ để lại
cho. Có những dân tộc thờ mái tóc. Nhiều người giữ lại một mái tóc, chiếc răng
sữa làm kỷ vật. Họ muốn làm sống lại tâm hồn của người mang nó. Tóc đại diện
cho một vài đặc tính, khả năng, năng lực sinh thực như ở chuyện cổ tích Sam
son.
Ở Việt nam, tóc cắt đi hoặc chải ra khỏi lược được giữ lại vì
nó có sự gắn bó huyền bí với chủ của nó. Sự cắt tóc được coi như là một sự hy
sinh, quy thuận hoặc hoà nhập. Mái tóc được coi như là bản doanh của linh hồn,
số phận ước mong và tình yêu. Tóc còn gắn với cỏ là tóc của đất bao la. Tóc là
vũ khí của người phụ nữ. Chải tóc cho một người là một cử chỉ thân mật lắm, là
mê say nhau lắm. Người Séc và Slovakia liệt tóc vào cùng họ hàng với lông và
râu. Họ bảo: "Đâu có râu, đấy ngon". Theo tạp chí Châu Á, cô Sinh
Chong Min đã chứng minh mái tóc thiếu nữ dày và đẹp đẽ mang lại vương miện sắc
đẹp cho cô tại cuộc thi hoa hậu Nam Triều Tiên hồi tháng 5 năm 1990. Kỷ lục về
tóc dài trên thế giới hiện nay là 2 mét 95.
Những ngôn từ của Việt nam về mái tóc rất phong phú, đã nói
lên nhiều điều: Tóc mây, tóc suối, cái răng cái tóc là góc con người, làn suối
tóc, tóc em dài đến thần thoại, mắt quầng tóc rối tơ vương, tóc thề, tóc xoã
ngang vai, tóc chị Hoài (của Nguyễn Tuân), lời tóc tơ, tóc em vừa kín trán, tóc
rễ tre, mây núi buồn nghiêng núi tóc xanh, cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày,
tóc đuôi sam, tóc đuôi gà, ngạt ngào hương tóc phấn, cỏ tóc tiên, tóc rối đổi kẹo,
tóc để trái đào, cắt tóc đánh ghen, cắt tóc đi tu, gọt gáy bôi vôi… Từ trước đến
nay, đã xuất hiện nhiều kiểu tóc khác nhau như: Tóc búi tó, rẽ đường ngôi giữa,
rẽ đường ngôi cạnh, tóc bỏ đuôi gà (tha thướt duyên dáng, đó là một trong 10
tiêu chuẩn đáng yêu của cô gái Việt nam), vấn khăn, tóc vấn trần có đính cái lược
(đẹp tự nhiên có vẻ phong tình, thịnh hành khoảng những năm 1930-1940). Những
nhân vật nữ của Tự Lực Văn Đoàn như Lan, Loan, Liên, Nhung… đều rất quyến rũ về
kiểu vấn đầu trần. Cô hàng xén răng đen của Hoàng Cầm cũng vấn đầu trần. Mái
tóc uốn quăn hoặc lượn theo kiểu phương Tây (kiểu Đétđêmôna, kiểu Marillin
Monroe), mái tóc Hỉ Nhi (một hàng tóc buông đều xuống trán theo nhân vật nữ
trong phim Bạch mao nữ). Lại còn có những mái tóc giả bồng bềnh, đợi chờ, ngập
ngừng, nồng nàn v.v…
Mỗi một thời kỳ thịnh hành một hoặc vài kiểu tóc riêng rất đặc
trưng. Có kiểu tồn tại lâu dài, có kiểu xuất hiện trong thời gian ngắn ngủi rồi
bị lãng quên. Ai cũng muốn có mái tóc đẹp, một kiểu tóc nào đó phù hợp cho
mình, tôn được vẻ đẹp của mình lên. Sự trang điểm đặc biệt sẽ làm cho khuôn mặt
thêm duyên, trang nhã, sang trọng. Nó còn che giấu được những nhược điểm trên
khuôn mặt của người phụ nữ. Ngược lại, nếu không có kiểu tóc phù hợp sẽ làm giảm
vẻ đẹp của khuôn mặt. “Cái răng cái tóc là góc con người Đúng vậy. Chuyện về
cái tóc cũng như chuyện về tình yêu, nó vừa là hiện thực cũng vừa là huyền thoại.
NÓN
Ngày xưa, chàng trách nàng rằng:
Xưa kia gắn bó một hai
Giờ đây ghé nón ngang hai chẳng chào!
Bộ trang phục tương đối đầy đủ của cô gái Kinh Bắc được tả
như sau: Đội nón ba tâm Quai thao một nhúm, áo trầm một đôi Cái thắt lưng em, bảy
tám vuông sồi… Cái nón để che mưa che nắng, để phục trang, đỡ ngượng, che giấu
tình cảm, thêm duyên, làm đẹp… Lại có câu:
Chòng chành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng
Hoặc như câu đối lại:
Nón không quai nón nghiêng nón ngả,
Làm cả chàng phải ngả phải nghiêng.
Ngày nóng nực quá, cô gái khát nước xin ruột gầu nước giếng
mát đổ ngay vào chiếc nón, uống cho đỡ khát rồi rửa mặt, rửa tay. Hai anh chị
đi bên nhau, đến một quãng nào đó muốn nghỉ ngơi, họ không cần chiếu, không cần
gì cả mà trải nón ra, ngồi ngay lên nón: "Đã yêu nhau ta trải nón ra ngồi".
Thỉnh thoảng cô gái soi chiếc gương trong nón, cười một mình, tin vào mình,
nghĩ bụng: nhan sắc nhường này, ta chẳng sợ có lúc cái nón dùng để phe phẩy cho
mát. Lúc đó, cái nón thay cho cái quạt. Cái nón trong tay người sử dụng sinh ra
nhiều động tác và ý nghĩ:
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu…
Khổ, "Giã bạn" trong cảnh quan họ, các liền anh, liền
chị hát rất buồn: "Khăn, nón i… ôi… để lại đây”?… Là lúc các cô gái tặng
cho các bạn trai cái nón quai thao thân thiết của mình. Cái nón là tấm lòng của
cô gái, là vật nặng tình: "Yêu nhau, cởi nón cho nhau". Chàng trai Bắc
Ninh không muốn cho cô bạn gái của mình phải ra chợ mua nón. Anh ta tự chẻ tre
đan lấy nón. Cho nàng đội để đi xem hội đêm rằm. Anh ta muốn cái nón đó phải
mang hơi thở và nỗi lòng của mình.
Trong tiểu thuyết Tắt đèn, chị Dậu vào nhà Nghị Quế, che
nghiêng cái nón rách. Đó là một kiểu chào. Ngày xưa, Lý trưởng hoặc Chánh tổng
đội cái nón dứa có chỏm. Nó tượng trưng cho uy quyền và cao sang. Cô gái muốn từ
giã ra về, chàng trai liền giữ lại:
Mình về ta chẳng cho về
Ta giữ cái nón, ta đề câu thơ.
Cô gái đội nón quai thao được coi là "quai thao dịu
dàng". Bác xẩm chìa cái nón nhầu nhĩnh ra để nhận tiền thưởng của người
nghe sau khi đã hát bài "Anh khoá" bâng khuâng. Cái nón dùng để thề bồi:
Tình em trao nón nặng thề,
Anh về bẩm mẹ liệu bề sang xin.
Cô gái có lời đề nghị với bạn trai:
Chàng ơi bỏ nón em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa…
Việt nam là quê hương của ba loại nón: nón ba tầm, nón quai
thao, nón bài thơ. Và cũng có nhiều loại nón khác nữa như: nón lá gồi, nón lá cọ,
nón sơn, nón Nghệ, nón lòng chảo, nón thúng, nón giang, nón mệnh phụ, nón xẩm,
nón quả bứa, nón tiến vua, nón dứa, nón dấu, nón thờ, nón lông, nón đi biển,
nón tu cờ (nhà sư) nón chóp v.v…
Phổ biến hơn cả là nón lá cọ, nón bài thơ, nón Huế, nón làng
Chuông, nón Hữu Bằng, nón Vân Đình…
Cái nón Huế trắng đến lóe mắt. Nón bài thơ còn được gọi là
nón "người tình". Cô gái đã dậy thi gọi là cô gái sắp đến tuổi cắp
nón theo chồng… Chiếc nón quai thao thật đặc biệt. Nón có đường kính chừng
70cm. Thành nón cao trên 7cm. Mặt dưới có gắn một ống hình tròn bằng nan tre để
đội vào đầu cho cân gọi là chũm nón. Quanh chũm nón là những vòng tre chuốt nhỏ,
khâu bằng chỉ màu, đan chéo sợi rất công phu. Nón còn được trang trí bằng những
bông hoa, cánh bướm. Quai nón làm bằng dây thao đen gồm từ một đến ba dây chập
lại, buông võng dài xuống…
Nguyên liệu của nón lá gồm: lá gồi, nan tre và chỉ khâu bằng
sợi móc. Người ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt
phèn. Từ đáy nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre và chỉ khâu bằng sợi móc. Người
ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt phèn. Từ đáy
nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre, tức là có 15 đường khâu vòng tròn. Các bạn
nước ngoài đến Việt nam thường phải mua bằng được một vài chiếc nón để làm kỷ
niệm. Các diễn viên, nghệ sĩ ngôi sao nước ngoài đến Việt nam luôn tranh thủ cơ
hội đội cái nón Việt nam rồi chụp ảnh, đánh dấu sự có mặt của mình ở quê hương
của nón. Suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc, qua mấy cuộc trường kỳ, cái nón là
hình ảnh, biểu trưng của người phụ nữ Việt nam.
Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh những chiếc nón mê,
nón tả tơi trong cuộc sống lam lũ một thời, cũng như những chiếc nón của nông
dân cướp kho thóc Nhật, đi dân công phục vụ các chiến dịch lịch sử. Những chiếc
nón giản dị mà kiên cường! Lại còn những chiếc nón nhấp nhô trong các phiên chợ
làng. Một mái tóc, một vành nón… là cả một ấn tượng sâu sắc, đậm đà, là nhớ, là
mong. Cái nón là hình ảnh và âm hưởng của quê hương. Thiết tưởng trong các bảo
tàng văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, chúng ta nên có hẳn một phòng trang trọng giữ
lại hình ảnh của những chiếc nón Việt nam tần tảo, nhẫn nại, bi hùng và trữ
tình… Chúng góp một nét đậm đà khó quên trong nền văn hoá truyền thống…
Chương II
vui chơi
HỘI CỜ NGƯỜI Ở CHÙA VUA HÀ NỘI
- Hội mở trong 4 ngày
- "Phi chùa Vua bất thành danh thủ"
- Trận tài tử giữa hai đấu thủ kiệt xuất
- Tuyển chọn quân cờ người là một cuộc thi hoa hậu.
Hàng năm, cứ vào những ngày 6, 7, 8, 9 tháng giêng âm lịch,
chùa Vua ở làng Thịnh Yên (chợ Giời) mở hội. Chùa Vua là một quần thể di tích
có tiếng, vừa là nơi của Phật, của Đạo giáo và của Nho giáo. Chùa Vua được xây
dựng từ đời Lê, là một bộ phận của cung Thừa Lương. Đó là nơi để Vua và các đại
thần nghỉ ngơi vài ngày trong năm, chuẩn bị ra tế trời đất ở đàn Nam Giao (nay
là địa điểm nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo) Chùa dành riêng một gian thờ thần cờ
Đế Thích. Người ta khen nhau “Cờ cao như Đế Thích” Hội chùa Vua, ngoài phần lễ
ngắn gọn, chủ yếu là những trận đấu cờ người truyền thống suốt mấy ngày đêm.
Từ xưa đến nay, hầu như tất cả những cuộc thi đấu cờ tướng lớn
đều diễn ra ở chùa Vua. Các đấu thủ qua được “Nhị thắng” là quán quân, được ghi
tên vào bia đá.
Từ những năm 1930-1940, bia đá chùa Đế Thích ghi tên những
danh thủ: Du, Yến, Lịch, Lục (vô địch Bắc Kỳ), Chu Văn Bột, Đỗ Tâm (vô địch Nam
Định), Lại (vô địch Hải Phòng), hổ tướng Nguyễn Thành Hội, Nguyễn Văn Hải v.v…
Các đấu thủ siêu hạng ở các tỉnh mà chưa được tỉ thí ở chùa Vua là một điều ân
hận: “Phi chùa Vua bất thành danh thu ".
Trẻ, già, trai, gái làng Thịnh Yên đều giỏi cờ. Nếu họ không
là đấu thủ thì cũng là những người bình luận, cổ vũ, bình luận, cổ vũ động viên
nhiệt tình. Chùa Vua cũng là nơi đi lại tấp nập của các "sởi" cờ
trong toàn quốc.
Hội Chùa Vua năm 1995 có 64 đấu thủ chuyên nghiệp, nghiệp dư
và tài tử của các câu lạc bộ cờ: Chùa Vua, Quân đội, Đống Đa, Hà Bắc, Hà Tây,
Quảng Ninh, Nông nghiệp… tham gia. Thành tích nổi bật đã thuộc về lớp trẻ. Họ dồi
dào sức khỏe (điều này quan trọng lắm), kiên trì, hăng hái, nặng về tấn công,
có tư duy khoa học, giàu trí tưởng tượng, trình độ văn hoá cao… Vòng đấu loại
diên ra từ ngày 6 đến ngày 8 để còn lại 4 đấu thủ tranh ngôi ba, tư và nhất,
nhì…
Trong vòng đấu loại, nhiều người " máu" cờ, tiếc
cho mấy danh thủ không hề kém ai, nhưng chỉ vì một chút sơ hở mà không vào được
vòng trong. Thi đấu là như vậy? có những ván kéo dài mấy tiếng đồng hồ, đấu thủ
đi vệ sinh cũng phải có người đi theo, phòng đấu thủ vô danh chơi cờ bên ngoài.
Trọng tài còn phải cảnh giác với những ám hiệu mách nước cho các đấu thủ như:
Giơ tay trái là thoái, giơ tay phải là tiến, để tay ngang bụng là cầm cự. Những
động tác của các ngón tay, việc mời đấu thủ điếu thuốc lá châm lửa sẵn hoặc
chưa châm, động tác vuốt mũi, những lời bình luận v.v… đều có thể là những ám
hiệu.
Ngày mồng 8 có một trận đấu cờ giữa hai đấu thủ loại kiệt xuất
nhưng không dự giải. Hai đấu thủ phải xông pha trên sân cờ gần suốt buổi để đi
những nước cờ hào hoa. Trận này gọi là trận tài tử, có nhiều nước đi tài hoa,
bay bướm làm cho người xem luôn xuýt xoa, khen ngợi.
Sáng ngày mồng 9, đoàn quân cờ của xã Đồng Cổ, làng Dương Xá
(Nhổn) đến chiếm lĩnh sân cờ. Đoàn gồm 16 quân nữ mặc quần áo xanh, mười sáu
quân nam mặc quần áo đỏ, hai tổng cờ nam và nữ. Họ ăn mặc giống như các hình ảnh
trong cỗ bài tam cúc. Hai tổng cờ ra lệnh cho hai đấu thủ đại diện ra lễ vua cờ
trước khi cho trận đấu bắt đầu. Hai đấu thủ làm lễ kiểu con nhà võ với mấy động
tác nhanh, gọn, kèm theo mấy động tác vo thuật hoa mỹ truyền lại từ ngày xưa.
Sau đó, tướng sĩ hai bên xanh và đỏ đi kiểm tra lực lượng, quan sát biên giới bằng
những bước đi cách điệu có chất vũ đạo rồi về vị trí. Hai tổng cờ phất cờ, ra lệnh
bắt đầu trận đấu. Chỉ huy bên xanh là danh thủ Nguyễn Tấn Cường, 27 tuổi, thuộc
sởi cờ Quân đội Anh đã xông pha "trận mạc" từ những năm còn ở tuổi
thiếu niên, lại là con nhà nòi. Chỉ huy bên đỏ là Bùi Dương Trân, 31 tuổi, thuộc
sởi cờ Nông nghiệp. Anh nổi tiếng về những "trận đánh” chuyển bại thành thắng.
Trận đấu này là trận tranh ngôi nhất nhì với giải thưởng khá
lớn. Bên ngoài, trống liên hồi, mỗi vị chỉ huy đều bị một tiểu đồng đi sát cạnh,
đánh lên những tiếng trống con giục giã. Họ đấu rất thận trọng. Lúc thăm dò,
lúc cầm cự, lúc tiến nhử mồi… Họ phải ở tư thế đứng và đi lại để điều binh khiển
tướng suốt 5 giờ liền. Cuối cùng, trận đấu hoà, phải đấu ván thứ hai, kéo dài
thêm hơn 3 tiếng đồng hồ nữa Nguyễn Tấn Cường mới hạ được Bùi Dương Trân. Nước
cờ đầy những yếu tố bất ngờ. Mọi người vỗ tay rào rào, hò reo ầm ỳ rồi ngừng lại
xem lễ thu quân. Lúc này, đoàn quân cờ làng Dương Xá trình diễn điệu múa thu
quân, chạy cờ, quấn cờ, bái tổ… Họ đứng thành hai hàng. Đúng là một bộ tam cúc
sống. Một bên đen, một bên đỏ, trang nghiêm mà thân thuộc. Nhớ lại ngày xưa,
các cụ còn chu đáo hơn. Đội quân cờ gồm toàn những trai chưa vợ, gái chưa chồng
mặt hoa da phấn. Họ đều là những người có thanh sắc được lựa chọn.
Thế là tự nhiên hình thành một cuộc thi hoa hậu nhỏ trong hội
cờ xuân. Hội cờ chùa Vua khép lại qua ván cờ quyết liệt. Người ta lại chờ đón
những ngày này năm sau.
XUÂN XƯA QUẢNG LẠC
Dạo ấy, cuối những năm 30, Hà Nội chỉ còn hai rạp tuồng và cải
lương nổi tiếng. Đó là rạp Hiệp Thành toạ lạc ở cuối phố Tạ Hiền và rạp Quảng Lạc,
nay ở vào nhà số 50 Đào Duy Từ. Rạp Quảng Lạc phần nào có tiếng hơn. Muốn châm
biếm một ai đó làm ra vẻ "ta đây”, hoặc nói năng hách dịch, khoe khoang,
người ta nói với anh rằng: "Gớm, cứ làm như ông tướng Quảng Lạc ấy".
Rạp này thường diễn một đêm tuồng và hai đêm cải lương. Có
hôm lại gọi là tuồng cải lương. Lúc này cải lương hơi lên giá một chút. Đàng
sau sân khấu (rạp hát) là cả một cái buồng dài và rộng, hơi tối. Nơi đây được
coi như nhà tập thể của những nam, nữ diễn viên không có nơi cư trú ở ngoài phố.
Mỗi người hoặc mỗi cặp vợ chồng chiếm lấy một khoảng nhỏ. Của cải chẳng có gì mấy,
sang lắm là chiếc bàn, vài chiếc va li gỗ hoặc bằng da cũ. Cũng có vài cái tủ gỗ
con. Cứ trải cái chiếu ra là "Vua" và "ái khanh" có thể nằm
xuống nghỉ được rồi. Về mặt xã hội, nếu "Vua" và "ái khanh"
không có thực tài làm cho khách mến mộ thì cũng dễ ra khỏi nhà hát mà đi bán phở
hoặc bán nước ở đầu phố. Xen kẽ có vài khoảng cho các diễn viên độc thân. Phía
trên nhùng nhằng những sợi dây để mắc màn và treo quần áo. Chăn, gối cứ việc xếp
lên phía đầu chiếu. Người đâu giang sơn đó. Giản đơn thôi, "sống gửi thác
về"…
Ban ngày thì thế mà tối đến họ đều là quan to, như là thư
sinh, công chúa… cả đấy. Chỉ cần có tiếng hát với cuộc đời là được. Có vài người
nghỉ ngay tại rạp bằng cách ghép mấy chiếc ghế lại, coi như giường ăn uống thì
gặp đâu ăn đấy. Chẳng ra bữa gì cả cũng có khi nấu nướng tí chút hoặc góp gạo
thổi cơm chung. Việc gì cũng hình như hứng lên thì làm. Tuy vậy, ngày Tết lại
khác hẳn. Nhà nào nhà nấy xào xào nấu nấu, chuẩn bị một vài món ăn kéo dài được
vài ngày như thịt bò om gừng hoặc thịt đông. Họ góp nhau lại gói bánh chưng.
Vài gia đình đặt bát hương ở đầu chiếu cúng cha mẹ, ông bà. Nhà nào có con nhỏ
thì dán tờ tranh tết có con lợn, "âm dương" hoặc "Hứng dừa".
Có anh hay chữ, viết đôi câu đối chữ Hán lên đầu giường: Nhân tình tự chỉ,
chương chương bạc Thế sụ như kỳ, cục cục tân… Các đào kép độc thân và ở dạng Đồng
Ấu được các gia đình anh chị mời ăn Tết cùng trong vài ngày. Các đàn em cũng sắm
Tết mừng anh chị, vài thức góp vào. Ngày 28 Tết là ngày ăn uống tưng bừng, vì từ
ngày này trở đi cho đến ngày 7 tháng giêng là những ngày vào Xuân. Những ngày
29, 30, mồng một, mồng hai Tết đều diễn tuồng sớm để mọi người còn chơi Xuân,
chơi phố, thăm bạn bè. Họ chơi chắn, tổ tôm. Nữ chơi tam cúc, chơi bài, lật
bài, đi đêm, tốt đỏ đè tốt đen v.v… Những buổi chơi này đều có mứt và rượu. Cả
nữ cũng uống rượu…
Trong những ngày này xuất diễn rút ngắn chỉ còn chừng 1 giờ đồng
hồ để đón những khách đến bói tuồng, loại khách này nhiều và thật "sộp".
Họ mua vé, vào một lát rồi ra ngay. Đến người khác cũng thê. Như vậy là bán được
rất nhiều vé. Mỗi chỗ có thể bán được mấy lần vé. Để thưởng các đào kép yêu mến,
nhiều người tung tiền lên sân khấu rào rào. Nhiều diễn viên được khán giả
“phong bao”. Tuỳ theo tình hình, có thể diễn thêm buổi. Trước cửa rạp, dán một
đôi câu đối giấy đỏ chữ đen thật nổi: Đào Đào Kép Kép, ra ra, đào đào, vừa diễn,
vừa hát, say sưa vở. Nam nam, nữ nữ, nhìn nhìn, nghe nghe, chẳng cười chẳng
nói, nghĩ suy đời…
Chiều 30 Tết, ai muốn làm gì thì làm. Nhưng diễn từ 7 giờ đến
8 giờ tối. Đó là buổi diễn tiễn năm cũ đón năm mới. Đến 10 giờ đêm thì tất cả
đào kép, nhân viên trong rạp tập trung lại. Bàn thờ tổ đã được trang trí và bày
biện chu đáo. Có đôi câu đối mừng tổ:
Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn
Thế sự tang thương phá lại bày…
Có đĩa ngũ quả, bánh chưng, mứt, hương, hoa, nến. Ông chủ
Nguyễn Văn Long đến thắp hương, chúc tết tất cả mọi người. Mọi người chúc lại,
ông chủ mở hàng đồng loạt, mỗi người hai hào. Ai cũng như ai. Sau đó, ông đi
ôtô về Bưởi. Mọi việc giao cho ông Nhã trông nom.
Ông Nhã bưng rượu và mứt ra để mọi người cùng thưởng thức. Mỗi
diễn viên hát lên một bài hoặc đoạn ngắn mà mình tâm đắc nhất để nhớ đến tổ và
mừng xuân. Những lúc này là lúc họ hát được hay hoặc cố tình lệch lạc đi một
chút theo ngẫu hứng. Họ rất nể nhau về tay nghề. Ví dụ như kép Ba Thân “ba mươi
hai đồng” mà hát đoạn Tô Vũ mục dương thì mọi người phải nín thở. Cô Mão
"hai mươi tám đồng” hát cái chỗ: Yến Phi Long tiễn chồng ra trận thì đến
đào kép nhà nghề cũng phải "chết lịm" chứ chẳng nói gì đến khán giả.
Gọi quen là kép Ba Thân "ba mươi hai đồng”, là vì anh là kép nhất, được
lĩnh 32 đồng một tháng. Lúc này giá một tạ gạo có một đồng bạc. Anh Sỹ Tiến,
ông Mẫn được 28 đồng. Anh Đào Mộng Long là cây nhị phụ, được 6 đồng. Vang bóng
một thời những kép như Ba Thân, Tư Liên, Tư An, Tam Huỳnh Kỳ, Bản Vân, … những
đào như Kim Chi, Thúy Mão, Khánh Hợi… là những tài năng được công chúng mến mộ.
Có mặt họ, bao giờ cũng đông khách hơn. Họ được bốn chữ: diện, bộ, thanh, phần,
tức là được về bộ mặt, dáng điệu, tiếng hát và thần thái.
Đi xem Quảng Lạc mà có một trong "ngũ nam quái" (5
kép giỏi) hoặc "tam nữ kiệt" (ba đào kiệt xuất) thì mọi người mới yên
tâm. Nhất là vào dịp Tết hoặc đầu xuân. Ban nhạc ngồi xung quanh đệm cho các
khúc hát đón xuân sôi nổi, phóng túng. Thảng hoặc có một, hai đào kép nào đó nhớ
quê, khóc lên rưng rức. Mọi người đâu về đấy, đợi tiếng pháo giao thừa. Trong mấy
ngày Tết, ông Nhã trông nom săn sóc tất cả mọi người. Trách nhiệm của ông chỉ
tóm gọn trong một câu: Làm sao cho buổi diễn có khách. Tuy vậy ông phải làm thế
nào cho thấy tuồng và các đào kép làm việc ăn khớp với nhau. Phải biết khai
thác mặt mạnh của từng người. Phải gần mọi người. Trong những ngày Tết, ông giảng
hoà những mâu thuẫn, hiềm khích. Bản thân ông cũng xin mọi người bỏ qua nếu ông
có những điều gì không phải với anh em trong năm cũ. Ông phải lo khoản trợ cấp
hoặc cho vay tiền một số anh em quá nghèo vì trót đánh bạc, hút xách hoặc ăn
chơi lãng phí.
Để làm quản lý như ông Nhã, trước hết phải tốt bụng, quí mến
mọi người. Phải giữ ý cẩn thận. Chẳng hạn như từ mua bán các thứ như rượu, mức
hoa quả, thuốc lá v.v… ông đều nhờ các đào đi mua rồi về tính toán chứ không
bao giờ để vợ con ông đi mua. Ngày thường, trong rạp có thể xảy ra xích mích,
cãi cọ gì đó là việc thường. Nhưng trong mấy ngày Tết, ít nhất là đến ngày mồng
bảy, những điều đó không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng được can ngăn và
dàn xếp vui vẻ ngay. Đúng giờ tý, ông quản lý đã treo sẵn một tràng pháo đặt
trước cổng rạp. Người châm lửa đốt là một kép được mọi người yêu mến và kính nể
về tài năng. Tiếng pháo giao thừa của rạp Quảng Lạc vừa dứt, các diễn viên, từng
đôi từng đôi đi xuất hành, hái lộc.
THÚ CHƠI CÂY CẢNH
Trồng cây cảnh là một nghề đặc biệt của Việt nam nói chung và
Hà Nội, Nam Hà, Thái bình v.v… nói riêng. Đây là một nghề tài tử, có từ đời Lý,
Trần được cha truyền con nối với những “miếng” kỹ thuật bí truyền. Những làng
trồng cây cảnh lâu đời và nổi tiếng là Quảng Bá, Nghi Tàm, Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Vị
Khê, Tân Mai, Tương Mai, Hoàng Mai, Vĩnh Tuy… Các gia đình trồng cây cảnh thường
phối hợp với nghề trồng hoa và nuôi chim, cá cảnh… ở những nơi đó tràn ngập mùi
hương của hoa và nuôi chim, hoa ngâu, hoa hồng… Xung quanh vườn cây cảnh là những
hàng rào dưới, ô rô, dâm bụt… được xén tỉa công phu, gọi là những "bờ
hoa".
Để có cây cảnh, người làm vườn, ngoài việc vun tưới, xới,
chăm bón, còn phải nắn nót, cắt, tỉa cây rất tỉ mỉ, cầu kỳ. Muốn có một cây
tùng nhỏ, một con rồng bay, phải mất 5, 6 năm. Những hòn non bộ có rê si bám
vào cũng cần có một lớp rêu phong cổ kính phía dưới. Để tạo được một lớp rêu đẹp
“ngày tháng" như ý muốn cũng Phải mất 3, 4 năm. Người ta chia cây cảnh
thành ba nhóm: Nhóm trồng ươm chuẩn bí cho công việc ghép, nén, uốn. Nhóm cây cảnh
phối hợp với non bộ. Cuối cùng là nhóm cây thế có dáng đứng, điệu vươn, hình
hài… toát lên một chủ đề một ý niệm tư tưởng, một nỗi niềm. Một chậu cây thế có
thể ghép với một hoặc hai loại cây khác nhau để có những cành, lá khác nhau hoà
vào một tổng thể, nhằm thể hiện một tâm trạng. Những loại cây như sanh, si, đại,
vọng cách, tùng, bách, phi lao, thông, duỗi, cơm nguội v.v… đều có thể chiết và
lấy xuống trồng ở vườn hoặc chậu. Chúng đều có thể “vào thế". Cây thế phải
thật già mới có giá. Càng "cổ thụ" càng quý. Người ta chọn những cây
non có dáng đứng thẳng, gọn, khoẻ hoặc có dáng xiêu vẹo, dáng ngang, dáng trườn
qua mép chậu, rủ xuống rồi lại vươn lên v.v… để tạo nên nhiều thế cây khác nhau
như thế "ngũ phúc", thế "phượng bay", thế "huynh đệ”,
"rồng sa", "rồng vươn", "sóng đôi”, thế "đợi gió”
thế “người ơi” thế “nhà hiền triết", thế "tiên ông", thế
"chờ đợi”, "mẹ con", "bồ tát tụng kinh". v.v… Để nhóm
cây có thế "mẫu tử" phải trồng ghép hai cây lại với nhau cùng một gốc.
Hai cây sát nhau. Có cao, có thấp, có lớn có bé bám vào nhau. Cây to có dáng mạnh
hơn nhưng mềm mại. Cây nhỏ nũng nịu, quấn quít ngả vào cây lớn. Cành cây đan
vào nhau có hình tượng khăng khít, nâng niu, âu yếm. Để tạo được hình tượng
trên cho nghệ thuật, phải sử dụng cây, thân cây, cành, lá, rễ, ngọn, rêu v.v…
làm vật liệu giống như nhà điêu khắc sử dụng đất sét, gạch, thạch cao… để nặn
tượng vậy.
Người làm vườn có được những cây cảnh tạo thế, những hòn non
bộ kỳ vĩ để gửi gắm tâm hồn, tình cảm, ý niệm thẩm mỹ, đã là một nghệ nhân. Họ
phải chọn lựa, sưu tầm những loài cây, loài hoa quý hiếm rồi trồng xuống đất hoặc
trong chậu cảnh và quanh năm suốt tháng chăm chút, xén, tỉa, uốn hình, tạo thế
để cây có hình con hổ, con voi, phượng, hạc… Họ còn sử dụng các khối đá bọt, đá
xanh có dáng dấp tự nhiên, đem về đẽo đục, gia công thành các hình khối đa dạng
làm thành hòn non bộ để ghép cây vào. Vườn cây thế như núi, rừng thu nhỏ lại,
có cây, có lá, có hang động, chùa chiền, cầu cống, rồi có cả bàn cờ tiên, tiều
phu gánh củi v.v…
Hơn thế nữa, các nghệ nhân còn tạo các thế cây theo tứ của một
vài bài thơ hay, gợi lên mơ hồ một cô gái tài sắc, một quán vắng bên đường… làm
nên vương vấn, bâng khuâng… Nào cảnh người đẹp hoặc thi nhân, khi thấp thoáng
bên bóng trúc, rặng tre, trên bến đò có dòng sông tưởng tượng xanh rờn mà lau
lách. Cây cảnh Việt nam là một mảng tâm hồn nghệ thuật Việt nam. Chúng sánh
ngang với nghệ thuật của vẽ tranh Đông Hồ, với dân ca quan họ Bắc Ninh, với gốm
Bát Tràng. Những làng có cây cảnh là những công viên độc đáo, luôn có nhiều
khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng, hành hương. Cứ vào dịp cuối năm ngần
Tết âm lịch, khách nước ngoài nườm nượp kéo đến các làng cây cảnh. Họ hết lời
ca ngợi, ký họp đồng…
Cây cảnh Việt nam đã từng đoạt nhiều giải, huy chương cao quý
trong nước và trong các hội chợ Quốc tế.
TRÒ CHƠI LỐI XÓM
Đêm nay trăng sáng. Mấy nhóm trẻ trong các xóm họp lại với
nhau. Chúng đến từ xóm Luỹ dập dềnh những búi hoa dâm bụt, từ xóm Ao có rặng
cúc tần hoặc từ xóm Chẽ. Chúng hát ầm lên: "ánh trăng trắng ngà"…
Chúng chia nhau ra từng nhóm nhỏ, chơi đủ trò, nào ô ăn quan, oẳn tù tì, bịt mắt
bắt dê, đáo đầm ú tim, nhảy ngựa, trồng hoa trồng nụ, đánh chuyền, rắn xin thuốn
v.v… Có những trò chơi dành riêng cho các em trai hoặc riêng cho các em gái.
Cũng có những trò mà cả trai lẫn gái cùng chơi chung chúng chơi một lát ở trò
này rồi tham gia ngay trò khác để chơi được nhiều trò.
Chúng vui cái vui của trẻ lên 10, mắt sáng, môi tươi. Chúng
chỉ có một niềm vui bất tận. Hãy chú ý xem chúng chơi trò ú tim. Kẻ đi trốn và
kẻ đi bắt đều ngớ ngẩn như nhau. Tuy vậy, hai nhân vật này gặp toàn những điều
bất ngờ, ngộ nghĩnh làm cho mọi người cười mờ cả mắt. Trò "trồng hoa trồng
nu " khá đặc sắc. Một đôi em trai hoặc em gái ngồi duỗi hai chân. Bàn chân
em này chồng lên bàn chân em kia để cho hai, ba em khắc nhảy qua. Sau đó, lại
chồng lên mấy bàn tay nở xòe hoa lên. Cứ mỗi lần chiều cao được nâng lên là hai
em phải nhảy qua thanh thoát cái ngọn núi do những bàn tay chồng lên nhau, làm
thành ngọn núi hoa, quả. Nếu nhảy không cao, chạm vào chân, tay, hoa quả chất
cao là thua, phải ngồi xuống, trồng hoa, trồng nụ cho người khác nhảy qua. Trò
chơi này luyện sự nhanh nhẹn nhưng lại là chuyện của cuộc đời. Trò chơi
"đánh chuyền” chủ yếu dành cho các bé gái. Nhưng có khi các bé trai cũng
tham gia. Bốn, năm em bé cùng biểu diễn một cỗ chuyền gồm 10 que nhỏ dài chừng
20 centimét. Người chơi phải tung hứng hòn cái (hòn sỏi hoặc quả bóng), phải xếp
sắp và chọn từng que chuyền và đỡ hòn cái từ trên cao rơi xuống. Trong lúc phối
hợp mọi động tác chơi, miệng còn phải hát lên. Suốt cả quá trình không bị một
sai phạm nào là thắng. Bài hát trong lúc đánh chuyền gồm những câu hát thật hay
ngẫu hứng, nhiều hình ảnh và nhịp điệu. Nhưng chúng mang nhiều điều huyền bí và
triết học: "Giã giò, cò bay… Sang sông, giồng cây cải Vãi hạt vừng… Xin cô
nàng… Mười cái lẻ…" Người chơi chuyền cứ láy đi láy lại những câu hát có từ
xa xưa đó với cái vẻ say sưa và buồn buồn tựa như những lời hát ru. Người xưa
nhắc lại rằng nội dung bài hát nói về cuộc sống của một người đàn bà từ lúc còn
bé cho đến lúc về chiều.
Cả tuổi thơ của cô bé chỉ còn nhớ có một lần vui lắm, là lúc
gia đình chuẩn bị ăn Tết nguyên đán, mọi người quây quần xem giã giò. Ngay sau
đó là lúc thân cò phải bay sang sông đi lấy chồng xa, phải tay trắng cấy lúa,
trồng vườn, nghênh chiến với muôn vàn những khó khăn chẵn và khó khăn lẻ sẽ xảy
ra… Đó là những lời gửi gắm muốn gửi lại cho thế hệ sau mà không tiện nói thẳng
ra… Sự thực, bài hát nói về cuộc sống hoà với thiên nhiên, lao động ý nghĩa về
văn hoá của nó rất lớn, làm rung động lòng người mãi mãi…
Trò "rắn đi xin thuốc” gồm một bé làm ông lang già và
vài em Dằm chặt lấy đuôi áo nhau để hình thành thân hình một con rắn dài. Một
em làm đầu rắn. Một em là đuôi rắn. Các em khác làm thân rắn… Thầy lang xin
khúc đầu và khúc giữa, rắn không cho. Đến khi xin khúc đuôi thì rắn thách ông
thầy đuổi: “Thầy cứ đuổi xem, đuổi được thì cho"… Đuổi sao nổi, vì rắn là
vật trường sinh, lúc nào cũng có sức trẻ và nhanh nhẹn. Còn thầy lang thì già rồi…
Cứ như thế… những trò chơi lối xóm tiếp diễn đời này sang đời khác. Lớp trẻ này
qua đi, lớp trẻ mới lại kế tiếp… Chúng chơi, chúng hát, say mê với những nụ cười
muôn thủa, với trăng, với gió, với những âm thanh thân yêu của xóm làng…
CÁ VÀNG HÀ NỘI
Chơi cá vàng là thú chơi truyền thống có từ lâu đời ở ta.
Ngày xưa, ở các nơi như phòng khách, nhà, vườn của các gia đình quyền quý, những
tao nhân mặc khách, các nghệ nhân và ngay cả những lóp người bình dân đều có
đôi chỗ cho bể nuôi cá vàng. Có những cái bể còn có cả hòn non bộ rải rác và gập
ghềnh những chiếc cầu nhỏ, tán cây, ngôi đình, chùa cổ kính, những ông lã vọng,
người đốn củi, con hổ, con nai… bằng đất nung vẽ màu. Những con cá vàng với
hình dáng khác nhau đến kỳ lạ bơi lội tung tăng. Mỗi con đẹp một vẻ, chúng bơi
xuyên qua các đám rong xanh như bơi vào trong mây, rồi lại bơi đi bơi lại qua
chiếc cầu độc mộc. Chúng tung ra những tà áo đỏ thắm, đỏ nhạt, đỏ vàng rực,
vàng thau… để làm nên một bình minh rực sáng hoặc một buổi chiều tà đỏ ối óng
ánh những tia ánh sáng bạc. Chúng bơi sát vào nhau như vợ chồng, đùa rỡn, nâng
tà áo cho nhau, âu yếm nhau, vuốt ve nhau thật tình tứ. Có con ra vẻ kiêu hãnh,
có con làm dáng e lệ, cũng có con lại rạo rực tuổi thanh xuân… Cũng có lúc như
phong ba nổi dậy, những chú cá đực chọi nhau trước mặt các cô nàng. Nhưng rồi,
cũng chính các cô nàng ấy kéo các chú ra khỏi cuộc đấu. Chúng lại đi dạo với
nhau vui vẻ và cuồng nhiệt.
Thì ra, không phải là chiến tranh mà chỉ là đùa rỡn, tập võ với
nhau vui vẻ và cuồng nhiệt mà thôi. Chúng tung tăng bên nhau trong bản nhạc êm
đềm. Cũng có nơi nuôi cá vàng trong chiếc ang cổ, có mấy chữ "Dương liễu
xanh", hoặc ang thuỷ tinh. Nói chung, những đàn cá vàng đã tạo nên một thế
giới thần thoại dưới thuỷ cung, tạo nên những bức hoạ di động, những bài thơ
cho mọi người, ít nhất cũng là trong những giờ phút thư giãn, nghỉ ngơi, những
giây phút suy tư, trầm ngâm. Ở bể cá vàng, ta thấy sóng nước, xa khơi, thấy những
kỷ niệm, nhớ nhung. Ở nước ta, đâu đâu cũng có nuôi cá vàng. Riêng ở Hà Nội, tập
trung nhất vào mấy làng Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Quảng Bá, Nghi Tàm, Hoàng Mai, Yên
Phụ… Nhất là Yên Phụ, cả làng đều chơi, mua và bán cá vàng. Có thể gọi là quê
hương của cá vàng, vì nghề này có từ lâu đời
Trước đây, những ngày giáp Tết trung thu và Tết nguyên đán, mọi
nhà ngoài phố đều bày những bể và ang cá vàng ra ngoài cửa để bán. Những năm
chiến tranh, thú chơi cá vàng không được chú ý đến. Ngày nay, nó lại được khôi
phục và phát triển rộng rãi. Các chợ lớn trong thành phố đều có bán cá vàng Cá
vàng đã trở thành một mặt hàng xuất và nhập để thu được những món tiền lớn.
Tháng 8-1994, một con cá Thanh Long lớn có tất cả các gam màu
của nhiều loại cá vàng tập trung lại bằng giá gần một cây vàng 9999. Một con cá
Hồng Long sớm chiều thay màu sắc như đoá phù dung nước cũng đến xấp xỉ 3 chỉ
vàng. Cá vàng bao giờ cũng được nâng niu. Có điều, các giống cá, loại cá được đổi
mới qua nhiều biến dạng, di truyền, lai giống, kỹ thuật nuôi vv… Giá trị nhan sắc
và sự ưa chuộng cá vàng cũng thay đổi từng thời kỳ với thời trang, quan niệm thầm
mỹ.
Những năm 1954-1955, dân chúng ưa chuộng các loại: Ngũ Hoa
Chân Châu, Vọng Thiên, Đan Phượng, Kiếm, Chọi, Mã, Giáp, Thần Tiên, Mưa Chiều,
Hắc Hồng, Ngọc ân…
Những năm 70, du nhập từ Hồng Ông, Đài Loan, các loại Khổng
Tước, Giáng Mây, Ngân Long, Hải Thanh, Trà Hoa Nữ… Những năm 1989, Malaixia,
Braxin nhập vào ta các loại Thanh Long, Hồng Long. Những cao thủ chơi hoặc nuôi
cá vàng, những người có những bể cá siêu hạng cũng được mọi người tôn trọng và
được đánh giá cao chẳng kém gì những văn nghệ sĩ nổi tiếng. Đã từlâu, người dân
Hà Nội và cả nước vẫn còn nhớ bể cá vàng, hòn non bộ nhà cô Ba Tý phố Hàng Bạc,
nhà cụ Tổng Trinh phố Hàng Chiếu, nhà ông Tiềm (Quảng Bá), ông Hai (Yên Phụ) hoặc
bể cá vàng trong thửa vườn xanh biếc và yên tĩnh nhà ông Cả Bản, ở Bưởi, đã dựng
lại cả một bầu không khí trong liêu trai chí dị. Chúng cũng đã gợi ý cho những
vần thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Thú chơi cá vàng thanh nhã để cố được sự
nghỉ ngơi tích cực, có được những giờ phút lơ lửng thoáng qua, chứa đựng nhiều
điều kỳ diệu bất chợt đến, gọi là những giây phút "lơ lửng con cá
vàng". Ở nơi có núi non bộ và bể cá vàng, cảnh vật đầy thơ, ca, nhạc, hoạ.
Vả lại bây giờ việc nuôi cá vàng đã là một hạng mục kinh doanh của thương nghiệp.
Các trẻ em rất thích chơi cá vàng. Bể cá đưa lại cho các em những bài học vỡ
lòng về thẩm mỹ.
Nó đưa các em vào thế giới thần thoại và hiểu rằng trên đời
còn có nhiều điều thú vị, mỗi con cá như một bông hoa nở dưới nước. Các con cá
bơi mới giỏi và nhẹ nhàng làm sao. Có con như mặc áo giáp đội mũ trụ, xông xáo
như một chàng dũng sĩ. Nó chiến đấu với kẻ địch. Có con khóc sưng cả hai mắt.
Nó khóc thương người bạn bị tử trận. Có con lại như chít lên đầu một vành khăn
ngũ sắc như thể là một vị anh hùng vừa mới chiến thắng trở về… Cùng với thú
chơi cây cảnh, nuôi chim cảnh… thú chơi cá vàng cũng là một nét đẹp văn hoá vừa
mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại. Thú chơi cá vàng cũng là một nghệ
thuật…
Chương III
nghệ thuật
NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC
Múa rối thành Thăng Long
Ông Viện trưởng Viện Những nền văn hoá thế giới Sêríp
Khagiơnađa, viết: Sao lại có thể tưởng tượng được rằng một hình thức ngôn ngữ
sân khấu tầm cỡ đã tồn tại hơn 1.000 năm bị lãng quên? Mà sự thật đã vượt qua
tưởng tượng.
Múa rối nước của Việt nam không bao giờ xa rời làng quê cội
nguồn của họ. Cũng có nhiều người Việt nam chưa được xem và không biết đến sự tồn
tại của nó. Dẫu vậy nghệ thuật nghìn năm nay đã vượt ranh giới " lợi ích,
chất lượng mà sáng tạo ra những diễn tả và khám phá để có thể đứng vào hàng những
hình thức quan trọng nhất về sân khấu múa rối. Những nghệ si Việt nam là những
khán giả của một hình thức diễn tả có một không hai trên thế giới. Múa rối nước
đã làm giàu cho di sản văn hoá nhân loại ngăn chặn nguy cơ bị đẩy vào trạng
thái "ở ẩn" và "lãng quên", một số diễn đạt ưu tú của tài
hoa nhân loại.
Bia đá Sùng Thiện Diên Linh ở làng Đại, huyện Duy Tiên, Nam
Hà ghi chép với 4.036 từ tả buổi biểu diễn múa rối nước để mừng thọ vua Lý Nhân
Tông (1121) với sự có mặt của các quan trong chiều ngày 3, tuần trăng thứ 8, có
ghi lại như sau: "Dòng sông gợn sóng. Một con rùa vàng mang trên mình ba
hàng đá. Nó bơi thư thả trên mặt nước rồi phun nước như mưa. Trong trắng nhạc
êm đềm, những cánh cửa các hang động ở ra. Thế là các nàng tiên xuất hiện, múa
điệu múa “Hồi phong”. Họ giơ những cánh tay mềm mại, nhíu cặp mày duyên dáng,
nhịp với lời ca. Những con chim lạ bay đến, đậu từng đàn, rồi thi tài nhảy
nhót. Những chú lươn non tung tăng… Rùa vàng nhìn về phía nhà vua, cúi đầu kính
bái. Nhưng bác tiều phu giương cung bắn thú v.v… " Ngày nay, trong các tiết
mục múa rối nước cổ truyền, người ta lại thấy con rùa vàng phun nước, những
nàng tiên với cánh tay mềm mại múa "thần khúc cảnh săn bắn mãnh hổ v.v…
Tháng 3 năng 1984, đoàn múa rối nước Việt nam gồm 15 nghệ sĩ thực hiện chuyến
đi biểu diễn tại CHDC Đức, Pháp, ý và Hà Lan. Đến đâu, đoàn cung được hoan
nghênh nhiệt liệt và được ca ngợi hết lời với nhiều lời bình luận trên 20 tờ
báo. Nhiều báo nhận định: "Múa rối nước Việt nam đã trả lại cho nhân loại
một di sản văn hoá vinh quang mà trước đây nó bị nằm trong lãng quên"
Đêm ngày 4-3-1985, tại hội trường Ba Đình, đoàn múa rối nước
Việt nam biểu diễn trước 400 khán giả. Nhiều nhà báo nước ngoài đã đến dự và chụp
ảnh. Bên bờ bể nước có đốt pháo bông. Những chùm hoa cà hoa cải đủ màu sắc bay
lên cao vút rồi toả ra. Bên cạnh cột đốt pháo bông là một chiếc cột cao treo một
chiếc cờ lười hổ đủ màu sắc có chữ "Hội" ở giữa. Tiếng trống, tiếng
thanh la, tù và, mõ và đàn sáo nổi lên tưng bừng hoà hợp với nhau làm cho cái
không khí " hội hè Việt nam muôn thuở tràn ngập lòng người. Sau đó, qua
các tiết mục, chúng ta gặp những lời thoại xen vào những làn điệu chèo, dân ca,
thôn ca tuỳ theo cảnh theo tình xảy ra trên sân khấu mặt nước. Lách bức mành
tre giữa nhà thuỷ đình tám mái vút cong với màu sắc rực rỡ có những bức rèm
thêu hoa lá, rồng phượng cầu kỳ và trang nghiêm rủ xuống, chú Tễu bắt đầu ra
trò… Chú vừa cười vừa hỏi:
- Bà con ơi!
- Ơi… - Tiếng đế đáp lại và các khán giả trẻ thích được góp
thêm tiếng "ơi" để trả lời chú Tễu.
- Tôi có phải xưng danh không nhỉ?
- Có chứ. Không thì ai biết là ai?
- Tôi vốn là người trên trời. Tôi xuống đây từ cái thuở nước
và lửa hoà hợp với nhau. Tên tôi là Tễu. Chú Tễu còn khoe đôi điều nữa. Có cả
cô gái khăn lụa yếm đào để ý chú ta. Chú là nhân vật chính của múa rối nước.
Chú rất trẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Chú là người giáo trò - vừa là hề, là người
kể chuyện có duyên và cũng là người bình luận sắc sảo. Chú sống đã hơn 1.000
năm mà vẫn trẻ. Chú kể chuyện xóm làng, Phê cái dở, khen điều hay. Chú kéo cờ,
đốt pháo giới thiệu tiết mục, hát, ngâm thơ, múa. Chú kêu gọi sự lạc quan, sự
đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và khuyên mọi người nên ca hát và sáng tạo cái đẹp,
cái hay cho cuộc sống: "Nền văn tử sao nỡ để hoang vu…"
Người ta ném xuống mặt nước một quả pháo vịt. Pháo vịt chạy
ngoằn ngoèo dưới nước toả ra khói, hoa xanh đỏ gây ra tiếng chíp chíp rồi nổ
toang. Trong lúc rộn ràng và rực rỡ này, chú Tễu rút lui vào trong mành không
quên giới thiệu các trò bằng mấy câu thơ. Lại một lần nữa pháo nổ, trống tù và,
mõ nổi lên. Long, ly, quy, phượng lung linh lao ra, nhảy múa, đùa giỡn. Chúng
phun khói, phun lửa. Chúng là những con vật thiêng liêng được sơn son thếp vàng
và được trang điểm bằng sơn mài độc đáo của Việt nam. Người xưa cho rằng, những
long, ly, quy, phượng kể trên thèm khát một cuộc sống trần gian ở ngay cái ao
làng bao nhiêu chuyện lý thú nhỏ nhoi mà lấp lánh. Rồi đến cánh đồng chiêm tấp
nập, nơi có những con cò bay lả bay la đến mỏi cánh, có những người lao động cần
cù đáng yêu: Chồng cày, vợ cấy, con câu Chàng rể tát nước, con dâu đi mò. Cảnh
chọi trâu có anh hề đánh trống thúc giục trâu chọi cho hăng và một người trọng
tài vui tính đã diễn tả cái cảnh hội hè, cái thú vui chơi hào hứng mà khoẻ khoắn
trên đồng trũng. Tiết mục “Múa tiên" thật lung linh, huyền ảo. Tám cô tiên
xếp hàng múa với nhiều động tác mềm dẻo. Các cô tiên được tạo hình rực rỡ, óng
ánh xiêm y, nhịp với những khúc dân ca mượt mà, đằm thắm.
Múa rối nước của ta hiện giờ có chừng 30 tiết mục cổ truyền,
20 tiết mục mới có giá trị. Thưởng thức múa rối nước, chúng ta được sống lại với
những lời ca điệu múa đã có trong máu của cha ông chúng ta và ngay cả của chúng
ta. Ta được thưởng thức tài nghệ của các nghệ sĩ dân gian trong xóm làng gần
gũi, được đằm mình trong cái không khí cội nguồn rộn ràng những âm thanh va màu
sắc thân thuộc. Múa rối nước là một trong những hình thức nghệ thuật sân khấu độc
đáo, là loại rối điều khiển ngầm dưới mặt nước từ xa, có ở Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh
Phú, Hà Bắc, Hải Hưng, Hải Phòng, Nam Hà, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh… Hiệu
quả nhiều mặt, liên tục gây bất ngờ và sự tràn đầy ngẫu hứng của nó đã dành cho
múa rối nước một chỗ đứng trong kho tàng di sản văn hoá Việt nam cũng như trong
nền văn hoá của nhân loại.
MÚA CHÈO
Để tìm hiểu múa truyền thống Việt nam, không thể bỏ qua múa
chèo.
Múa chèo ôm vào mình một cách tham lam tất cả các khổ múa ở
những địa bàn quê hương của nó cũng như ở bất cứ đâu mà nó cò thể thu thập được
rồi nhào nặn, thêm bớt, làm cho mình trở nên giàu có. Do đó, ta thấy múa chèo
còn có những dấu ấn rất đậm đà của những trò chơi lối xóm, múa thiêng, chạy
đàn, làm chay, đánh bồng, bài bông, múa đèn, múa nến, múa gậy, múa khăn, múa
sênh tiền, múa tắm tiên, múa chạy cờ v.v… Nhiều động tác múa kể trên từ những
thuở xa xía đã lưu lại trên các vách đá, hang động ở Việt nam.
Ở chèo, có nhiều động tác tưởng chừng như không phải là múa
như đi, đứng, đổi vị trí, giao tiếp v.v… mà lại là múa. Có câu tâm niệm:
"Nhất cử nhất động giai điểm vũ” (mỗi cử động đều có múa). Nhiều động tác
nhỏ thôi, tí chút thôi mà thực khó thể hiện. Vai Đào Huế trong vở "Chu Mãi
Thần" đã múa ngay cả lúc gần như đứng yên mà trong lòng đầy gió bão. Múa
chèo chủ yếu dựa vào đôi bàn tay, cánh và cổ tay. Nhờ đó chèo biểu hiện những
trạng thái khác nhau của tình cảm. Lòng bàn tay trong tượng nghìn mắt nghìn tay
của Việt nam có vẽ con mắt ở giữa. Ở sách cổ Ai Cập cũng vẽ trái tim và cặp môi
trong lòng bàn tay. Người ta coi bàn tay như cái nhuỵ của tâm hồn. Với múa
chéo, bàn tay còn là mắt, là môi, là trái tim.
Múa chèo có những đặc điểm: 1) Cách điệu cao. Một vài cử chỉ
phối hợp của những ngón tay, mắt nhìn là tạo được cảnh trăng lên hoặc trăng
tàn. Chỉ vài bước đi rồi chuyển sang động tác khác là đủ nói lên nhân vật từ bỏ
nơi này mà đi đến một nơi nào xa xa lắm. 2) Mềm dẻo, uyển chuyển. Múa chèo gần
gũi với tranh lụa ở chất trữ tình, thơ mộng. 3) Những động tác được thể hiện
nhiều nhất ở phần thân trên, cánh tay, bàn tay, ngón tay. 4) Phóng khoáng, hồn
nhiên. Những động tác chèo không tỉa tót, không quá trau chuốt mà gần gũi với
thiên nhiên. 5) Múa kết hợp với hát. Diễn viên vừa múa, vừa hát. Hai điều này
ăn ý với nhau, bổ sung cho nhau.
Múa chèo có 5 nhóm động tác chính: a) Nhóm chạy đàn. Gồm những
bước đi lúc chậm lúc nhanh, có nét buồn sâu lắng, thương nhớ, buồi mênh mông.
b) Nhóm dâng hoa. Tả nhưng cảnh bồng bềnh mây nước; tả tâm hồn rạng rỡ, gắn bó,
mật ước, duyên tình… c) Nhóm dâng rượu: động tác chậm, thiêng liêng trang trọng,
kính cẩn, tin tưởng. d) Nhóm cướp bông. Vui nghịch, tự do ngẫu hứng sơ luyến.
e) Nhóm tấu nhạc. Gồm những tiết tấu nhắc đi nhắc lại, nhấn mạnh, nguyện cầu,
trầm ngâm… Năm nhóm động tác cơ bản này làm cơ sở, được cộng với những động tác
phối hợp hoa mỹ mà biến hoá ra nhiều hình nhiều vẻ, lột tả những trạng thái và
khía cạnh của tình cảm khắc hoạ nên những nhân vật đầy cá tính.
Tuy có bài bản, luất lệ nghiêm khắc nhưng múa chèo cũng như
loại nghệ thuật biểu diễn khác, lệ thuộc nhiều vào tình cảm, tài năng tính năng
động, kính ngâu hứng say sưa của diễn Viên biểu hiện. Diễn viên tạo ra cái
"thần" có những dư âm thẩm mỹ trong từng động tác múa. Múa chèo có vẻ
đẹp đa dạng, phong phú, nhìn không chán mắt, xứng đáng chiếm một ví trí quan trọng
trong kho tàng múa truyền thống Việt nam.
HÁT GIAO DUYÊN
Ở nước ta, mỗi độ xuân về hoặc xuân thu nhị kỳ. Mọi nơi thường
tổ chức lễ Tết, ăn mừng, vui chơi, chào đón ngày mùa bội thu, lễ rước Thành
Hoàng v.v…
Trong những cuộc vui như vậy luôn có mặt những buổi giao
duyên, đua đò, trống quân, hát xoan, hát ghẹo, sli hò, quan họ, hát đúm v.v… Đề
tài của những cuộc hát rất rộng rãi và ngẫu hứng như: ca ngợi quê hương, xóm
làng, những cảnh đẹp thiên nhiên, tình yêu trai gái v.v… Chất trữ tình, tự sự,
huê tình luôn luôn được nhấn mạnh. Đông đảo dân làng và eác nơi lân cận kéo đến
dự rất nhiệt tình. Những người tham gia hoạt động văn hoá này thường chia ra một
bên nam, một bên nữ. Đầu tiên, họ hát chào nhau, chào tất cả mọi người đến thưởng
thức với những lời ca hay, tươi đẹp. Họ đoái với nhau, thi giọng hát và sự đối
đáp thông minh. Nhưng càng về sau càng "găng” và nặng về chất phong tình
trai gái. Bên nữ có thể mạnh dạn hơn nhiều, chanh chua ngoa ngoắt và bên nam
thì lộ ra cái chất tán tỉnh và thèm thuồng, đùa giỡn với bên nữ. Đối phương
cũng chẳng chịu kém, cũng ỡm ờ, bờm xờm, chòng ghẹo. Riêng kiểu hát đúm là dữ dội
hơn cả. Họ nói lúc tan là lúc đôi nào vào đôi ấy, dắt nhau vào một chỗ kín nào
đó.
Hát đúm có những đoạn đối đáp như sau:
Đôi ta gặp gỡ nhau đây
Như đôi bò gầy gặp bãi cỏ non
Anh còn son, em cũng còn son
Ước gì ta được làm con một nhà
Ra vào đụng chạm để mà nhớ thương.
Ở đây, sự đụng chạm là sự nhớ thương tích cực, thể hiện mãnh
liệt qua hành động. Hoặc như:
Công em vén váy phất cờ
Đẻ ra một lũ lờ đờ ngáo ngơ
Có cây rối mới có hoa
Có công anh đi lại mới tòi ra cô nàng
Làm hoa cho người ta hái
Làm gái cho người ta trêu
Đôi ta như đá lưới dao
Năng liếc thì sắc, năng ra vào thì có tí nhau
Cô kia tươi tốt rươm rà
Tuy rằng tốt đẹp nhưng mà cong chân.
Cô gái liền đáp lại:
Em từ trong đó em ra
Cớ sao em biết rằng hoa chị tàn
Hoa tàn nhưng nhuỵ chửa tàn
Muốn xem, chị gỡ tấm màn cho xem
Hoặc như:
Thân em ví xẻ làm đôi được
Thì mỗi anh hùng một miếng ngon
Thư hương gia giáo nếp nhà
Sao anh sàm sỡ ra tuồng tà ma
Không bằng đôi má em hồng
Em trơn lông đỏ da quá mức
Anh là ma, anh bắt em má hồng.
Anh con trai cố tìm những phép màu để bắt cô gái. Mà do sự cần
thiết, đã đẻ ra phép màu thật vì anh thấy cô gái sạch bong, tươi mát, đầy nhục
cảm.
Ba bốn nơi tới hỏi, em chẳng màng
Chờ anh chết vợ, em sẵn sàng nhảy sang.
Và… cứ như thế, hai bên nam thanh nữ tú… họ hát với nhau đến
thâu đêm, suốt sáng. Hát từ đời này sang đời nọ, không dứt. Loại hát giao duyên
này có nhiều câu hát thuộc ca dao, tục ngữ mà đậm đà nét phong tình.
Nữ:
Trầu ấy em tôi vôi tàu
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dẫu chẳng lên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng vợi lòng nhớ thương
Nam:
Cầm lược thì nhớ đến gừng
Cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ nhau
Cầm trầu lại nhớ đến cau
Cầm bấc nhớ đèn, cầm chỉ nhớ kim
Nữ:
Cợt vậy mà thôi Giỡn vậy mà thôi
Chồng em như nén vàng đôi… đợi em ở nhà…
Nam:
Ta về ta bẻ cành lá cắm đây
Đến mai ta cứ chốn này ta chơi
Bên kia gò, bên này cũng gò
Có phải nhân ngãi thì dò sang đây
Bên kia nương, bên này nương
Có phải nhân ngãi thì thương nhau cùng…
Hát giao duyên hãy còn sống mãi trong cuộc sống của chúng ta,
trong ca dao, trong các câu chuyện kể tâm tình của dân gian, trong những cuộc hội
hè đình đám, nó góp âm thanh và hình ảnh, làm duyên cho những sự gặp gở. Nó
truyền từ đời nọ đến đời kia để những câu hát được mỗi ngày một mới mẻ. Quả thực,
nhiều những câu hát mới ngày nay là một phần nào hoá thân của những câu hát mà
những thế hệ trước chúng ta đã hát. Hình thức và thanh âm của chúng đã khác đi,
nhưng tinh thần, hồn phách của nó chỉ là một. Nó ca ngợi cuộc sống, ca ngợi xóm
làng, ca ngợi tình yêu trai gái mặn nồng khôn nguôi của những người con trai
con gái sắp sửa và đang bước vào tình trường. Hát giao duyên sẽ còn mãi…
DIỄN XƯỚNG TRÒ MỤC LIÊN - THANH TRÌ
Bên nhà ông cả Biển đang có chuyện buồn. Mẹ ông mới mất ở tuổi
94. Cụ chẳng ốm đau gì mà nằm xuống như một giấc ngủ. Họ hàng, làng xóm đến
phúng viếng đông nghịt. Phường kèn, thỉnh thoảng lại cử lên những khúc bi ai,
não nuột, trầm bổng. Nổi bật lên là những khúc "Điếu quân”, "Lâm khốc",
"Con nhạn lạc đàn". Các con, cháu, chắt của người chết đều đứng, ngồi
quanh cỗ quan tài sơn đỏ có chữ “Thọ”, "Sống dầu đèn, chết kèn trống".
Người ta cho rằng những nét nhạc sầu nổi lên để an ủi gia đình người chết.
Nhưng cũng là để tiễn người ra đi. Chúng đảm nhiệm việc giao cảm giữa cái chết
và sự sống. Do đó, chúng kể lại nhiều chuyện lắm. Trong tiếng nhạc tổng hợp mà
chủ đạo là tiếng kèn pha có cả đêm mưa phùn, ngày gió bấc, những đận bi thương
v.v…
Nàng dâu trưởng đã trên 70 tuổi khóc lên tiếng khóc đầu tiên
với giọng kể lể, "Mẹ ơi, a… cũng một kiếp… người". Liền bên cạnh là
nhà ông Hai Y. Ông là con thứ hai của người chết. Tại đây, mọi người thân thuộc
tổ chức diễn trò Mục Liên - Thanh Đề để phối hợp với tang lễ và để cầu nguyện
cho mẹ già…
Đó là tục lệ đã có từ lâu đời ở cái làng Yên Sơn nằm sát chùa
Thầy, cách Hà Nội chừng hơn 30 kém. Người ta đốt mấy ngọn nến bập bùng. Điều
này gây nên một không khí bí ẩn, tâm linh trong làn khói hương nghi ngút. Các
diễn viên nam, nữ nghiệp dư và tự nguyện là những người nông dân trong làng
xóm. Những trống, phách, đàn, nhị đơn sơ và cũ kỹ được nổi lên. Trang phục thì
chỉ cần sửa sang chút ít các trang phục lao động thường ngày. Có thêm hoặc mượn
của nhau mấy tấm khăn màu, chiếc khăn tai chó, mấy chiếc thắt lưng xanh, đỏ…
ông lái đò được vẽ thêm bộ râu, có thêm chiếc bơi chèo. Nhân vật chính là Á Phật,
đại mục Kiền Liên tức Mục Liên có được chiếc mũ "thất Phật" gồm 7
cánh hoa sen. Một mảng của chiếc áo cà sa.
Mục Liên cầm gậy "tầm xích!". Mấy vai đóng chúng
sinh thì tha hồ, ai có gì mặc nấy, có đánh chút má hồng. Sân khấu là hai manh
chiếu. Một số các bà các chị đứng xung quanh cũng tham gia vào cuộc biểu diễn.
Đủ cả, cao, thấp, béo, gầy, già trẻ, răng đen, tóc vấn, đi chân đất… Họ có tác
dụng là giàn "đế” và kể, "kệ" và hưởng ứng những điệp khúc: “Nam
mô A di đà Phật". Bác Mạc có giọng tốt, ngâm lên: Con ơi! Đất rộng trời
cao Công ơn cha mẹ so sao cho bằng. Sau đó, tất cả mọi người đều kê "thập
ân" nói về 10 ân đức chinh của cha mẹ đối với các con. Đây là một bài tụng
ca buồn rầu, thương cảm mà hùng hồn. Bác Hai lại đóng vai Mục Liên là một vai
mà không ai tranh được với Bác.
Á Phật Mục Liên đầy hạnh đức và trí tuệ, rất có lòng hiếu với
mẹ. Ngài xin với đức Phật được xuống âm ty thăm mẹ bị hình phạt. Nguyên nhân phải
chịu hình phạt của bà Thanh Đề (mẹ Mục viên) là vì lúc còn sống, bà đã làm nhiều
điều ác với cộng đồng. Mục Liên giảng giải cho mẹ và một số phạm nhân trong lao
tù để họ nhận ra sai lầm và chịu sám hối. Khi họ đã hiểu rõ điều tốt, xấu, họ
được ra khỏi lao tù. đi thuyền sang “bờ bên kia" để chuẩn bị đầu thai vào
kiếp sau và trở nên những con người tốt. Những động tác thắp hai tay trước ngực,
mắt nhìn xa xôi và những dáng đi đầy suy tư… được diễn viên trình diễn rất đẹp.
Nhưng có lúc, Mục Liên lại có dáng đi nhanh như gió, lúc gập ghềnh, lúc đi
quanh mấy vòng trong tiếng nhạc và tiếng cầu kinh làm cho mọi người như nín thở.
Đó là những bước đi vạn dặm của đời một con người trần gian. Ông đi mà là múa.
Múa thật sự là khác.
Đến lúc Mục Liên vừa hát kinh vừa múa gậy tầm xích thì bật ra
những điệu múa cổ xưa đã ngủ quên lâu rồi, đột nhiên được đánh thức dậy. Cảnh
múa thật dưng bừng bốc lên cùng với tiếng thanh la dồn dập, tiếng trống thúc
lúc nhẹ như gió, lúc như mưa… như khắc khoải… như thân phận con người.
Người dẫn chuyện hát lên những khúc hát mộc mạc Không hay lắm!
Giọng bác là thứ giọng nguyên chất chưa từng bị pha chế. Một giọng hát nhà nghề
uốn éo nào đó vào đây sẽ bị đánh bật ra ngay. Nhưng giọng hát mộc mạc của báu
có cái hơi nguyên thuỷ, có cái duyên kiếp. Buổi biểu diễn có đầy đủ chất sân khấu,
gồm cả kể chuyện, giáo đầu, ngâm ngợi, đọc kinh, hát kinh, múa, độc thoại, hài
hước v.v… Tất cả được tổng hợp lại làm cho đêm diễn vừa ảo mà vừa thực. Chúng
liên kết cuộc đời của những con người lại với nhau qua những nét huyền thoại,
ký ức, hình ảnh… từ những đời cha ông xa xưa truyền lại, làm cho họ gắn bó lại
với nhau trong cái cảm giaco chòng chành.
Tất cả lôi cuốn họ vào một mối tình thiêng liêng mà cao cả là
tình mẹ con. Người ta thấy cần phải hy sinh cho mối tình đó. Cả vở toát lên
tình mẹ con, tình yêu thương cộng đồng. Vở kịch cũng răn đe điều ác và luôn nhắc
nhở mọi người rằng cái thiện và cái mỹ sẽ tất thắng. Vở diễn mang tính nhân văn
cao. Chính vì vậy, nó tồn tại trong lòng nhân dân từrất lâu và trở nên phổ biến
ở khắp các làng quê của chúng ta. Nó thường có mặt trong những ngày đình đám, lễ
tết, ngày 15 tháng bảy xá tội vong nhân, lập xuân hoặc ở những đám tang mà người
chết có tuổi thọ gần 100 tuổi. Những năm gần đây “múa rối nước”, "ba giá đồng”,
"hạn hán và cơn mưa của Việt nam đã làm nghiêng ngả các sân khấu trong và
ngoài nước. Vở "Mục Liên - Thanh Đề” cũng sẽ như vậy. Nó cũng là một vật
báu của kho tàng văn hoá Việt nam. Có điều, nó chưa được những con mắt của các
nhà nghiên cứu chú ý đầy đủ để được Khám phá và nâng cao. Tuy vậy, nó được giữ
gìn và kính trọng trong tâm khảm người dân. Nó là củ ấu gai, hãy còn thô mộc,
sù sì. Nhưng bên trong thì ngọt bùi, đằm thắm, quyến rũ, nuôi sống được con người.
Ở Trung Quốc cũng có chuyện Mục Liên cứu mẹ. Nội dung cũng gần gũi với trò Mục
Liên - Thanh Đề của ta. Mục Liên cứu mẹ của họ xuất hiện tại một số tỉnh miền
Nam. Sân khấu Trung Quốc đã sưu tầm được hơn 10 bản Mục Liên cứu mẹ để quy nạp,
khái quát và nâng cao. Các học giả Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Anh… đã
có những công trình nghiên cứu về "Mục Liên cứu mẹ". Họ còn đang tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn nữa. Diễn xướng trò Mục Liên - Thanh Đề của ta vẫn đang
là một mảnh đất chưa được khai phá.
NÉT TUỒNG
Sân khấu tuồng là sân khấu tổng hợp của nhân vật được hoá
trang, có phục trang ước lệ, tượng trưng với múa hát, nhạc đệm, phương pháp thể
hiện, do đó cũng phải dựa vào các nguyên tắc cách điệu, ước lệ, tượng trưng. Ở
tuồng, các nhân vật được đúc lại thành những khái niệm cụ thể từng mô-típ
riêng. Nào là kép văn, kép võ, kép rừng, kép đỏ, kép xanh, kép phong tình, kép
đen, kép rằn… Về vai lão có: Lão văn, lão võ, mụ lành, mụ ác. Đào có đào chiến,
đào thương, đào điên, đào yêu, đào lẳng… Mỗi nhân vật có kiểu vẽ mặt và qui
cách trang phục riêng. Những điều này được coi như chứng chỉ của nhân vật theo
phương châm: “Nhan y giai ngữ”, nghĩa là sắc mặt và áo xiêm đều lên tiếng. Như
vua bao giờ cũng đội mũ cửu long, mặc hoàng bào. Hoàng hậu đội mũ cửu phụng, mặc
áo vàng, đi hài phượng xa hoa và sặc sỡ. Kép rừng mặt xanh có tròng xéo, mang
xiêm áo chẽn, quần xà cạp. Thái sư thì đội mũ bình thiên, mặt mốc đeo mãng, đi
hia… Về kỹ thuật hoá trang mặt, nghệ thuật tuồng chú trọng vào đôi mắt tả thần.
Diễn viên mở rộng độ mở của hai con mặt, lông mày rậm, to và xếch tuỳ theo nhân
vật, có khi rất dài. Mặt được xoa lớp nền trắng rất dầy. Có ba nguyên màu chính
là đen, đỏ, trắng và dẫn xuất của chúng.
Với bộ mặt của lãn tướng, hổ tướng, tưởng đống (lớn) thì giữ
biểu tượng con hổ để tăng vẻ dữ dội. Lông mày to, xếch, nhọn. Trên mặt có những
nét gợn gần gũi với những văn hỗ, gọi là những nét vờn màn đen và những nét vờn
nhạt hơn màu đen một tông điểm xuyết lượn quanh hoặc chấm phá dựa theo độ rung
của cơ mặt và má. Cũng gọi là những đường “nan” phản ánh đấy đủ trong vai võ tướng
Tạ ôn Đình, còn bộ mặt Thương Linh Tá lại mang biểu tượng con chim ưng, biểu thị
sự thông minh nhanh nhẹn. Mũi được bôi quầng hai bên cạnh để nâng sống mũi lên,
cánh mũi rộng ra. Những người trung thì thường mặt đỏ, râu dài. Người nịnh thì
mặt rằn. râu ngắn.
Tuy nhiên, ngoại lệ có những trung thần, nhưng vẽ mặt rằn,
đeo râu ngắn vì hình dáng bên ngoài đời của hai nhân vật này xấu xi, tính tình
nóng nảy, gan góc. Khương Linh Tá, Thuỷ Định Minh cũng là những anh hùng chính
nghĩa, nhưng mặt không đỏ lại được vẽ thêm những khuyên đen trắng để thể hiện
tính nóng nảy cương trực, dũng mãnh. Với kép Phong tình thì màu hồng là chủ đạo,
long mày dài. Đào thương có bộ mặt hồng nhạt. Đào lẳng có con mắt lá răm, đuôi
mắt dài. Đào võ có bộ mặt đỏ rực rỡ, lông mày cong xếch. Đào võ tiêu biểu là
Đào Tam Xuân thì có bộ mặt bên xanh, bên đỏ, nói lên vị nữ tướng xuất hiện từ
nơi rừng xanh, núi đỏ xa vời. Hơn nữa, đó là một con người ky dị từ xa xưa trở
lại. Đào ram Xuân quá lộng lẫy và hấp dẫn đã trở thành người của cuộc đời mà
không phải vợ riêng của ông trùm từ một thuở xưa nào đó nữa. Ông trùm nổi máu
ghen bịa ra cái chuyện hoá trang bên xanh, bên đỏ để hạn chế sự hấp dẫn của
nàng, làm cho nàng xấu đi để dễ phần bảo vệ. Sự kiện này được ghi trong ngoại sử
làng tuồng. Tướng văn và kép văn có bộ mặt hồng nhạt. Lão tướng võ đen râu sàm
(liên tu). Lão tướng văn đeo râu đen ba chòm dài. Tướng nịnh với bộ mặt chỉ có
hai mầu đen, trắng. Lông mày hình con cá rô có khía.
Bộ áo giáp chia ra bốn vế và đều được thêu những hoa văn rực
rỡ mà hoang dã. Có vế đằng trước, đằng sau và hai bên. Quan trọng nhất là vế đằng
trước vì nó được trình bày đủ nhất. Nào rồng chầu mặt trời, nào hình hổ báo
cách điệu kèm theo hoa văn bằng chỉ vàng, chỉ bạc. Phía bên ngực có bộ tâm kính
tượng trưng cho mặt trời, giữa có giải thắt lưng bó gọn, có màu sắc hài hoà với
toàn cục. Phía dưới là những vệt màu, hoa văn nhiều màu sắc mô tả sóng gầm mây
cuộn. Có những loại áo giáp với những nền xanh, đỏ, đen? tím. Giáp trắng dành
cho những nhân vật võ mà siêu phàm. Vua mặc hoàng bào thêu rồng khắp nơi. Với
các quan to cũng được thêu một hai nét rồng. Với các loại quan cũng to nhưng
không ghê gớm lắm thì được thêu mặt hổ, báo… Kép văn mặc long chầu. Mũ mãng có
màu vàng (dành cho vua), đỏ, xanh, tím, đen. Mũ màu đen không bao giờ dùng cho
tướng trung và điềm đạm. Tướng lớn đội mũ bình thiên. Phía bên ngoài mũ cũng được
tạo hình những rồng phượng vàng hoặc bạe, mặt trời và các đường triện sặc sỡ.
Mũ cũng có kiểu dài, rộng, cao.
Có loại gắn thêm những tua hoặc quả bóng màu rung rinh theo động
tác và cứ chỉ của diễn viên. Tất cả các nhân vật đều đi hia màu có thêu kim tuyến.
Hia có thể nâng chiều cao của diễn viên lên từ 7 - 15 cm. Các tướng phải có
dáng cao và đẹp. Rất kỵ người lùn giữ những vai quan trọng gọi là vai "cờ".
Thư sinh thì đi hài với những bước đi lững thững. Một vài nhân vật đẹp như Triệu
Tử Long (nam) hoặc Đào Tam Xuân (nữ) có đeo thêm 8 lá cờ sau lưng và bộ lông
trĩ sặc sỡ, dài mà cong. Ở tuồng, bộ râu, tay áo lông trĩ vừa để trang trí, vừa
là đạo cụ độc đáo. Một số quan văn hoặc văn pha võ đội mũ có dải. Điều khác biệt
về hoá trang mặt của các diễn viên tuồng Việt nam với Kinh kịch Trung Quốc là:
Trên mắt diễn viên Kinh kịch Trung Quốc sử dụng nhiều màu sắc hơn và màu nào
cũng được đánh bóng. Họ chia ra những mảng màu cầu kỳ, chải chuốt Còn ở tuồng
Việt nam thì tính cách điệu cao đến táo bạo, màu sắc ít hơn, giản dị mà thi tập
trung chú ý vào xung quanh đôi mắt. Ở tuồng Việt nam, những đường nét rõ ràng,
thô kệch một chút nhưng là ngẫu hứng. Với tuồng, bộ mặt được hoá trang, trang
phục là những tác phẩm mỹ thuật hoàn chỉnh. Đứng riêng, chúng là những công
trình về tạo dáng và sắc màu còn đọng lại được cho đến ngày nay qua sự thử
thách của nhiều đời. Vì vậy, chúng làm nao núng cả giới trang trí sân khấu thế
giới qua hai lần mở triển lãm về mỹ thuật sân khấu truyền thống Việt nam tại nước
ngoài (1985 và 1987) và đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu nước
ngoài đến Việt nam nghiên cứu về mỹ thuật và về sân khấu…
Chương Kết
TRANH SƠN MÀI
Về nghệ thuật tạo hình, sơn mài đóngvai trò hàng đầu về chất
liệu truyền thống và tranh sơn mài giữ một vị trí quan trọng trong nền hội hoạ
Việt nam. Đối với thế giới, tranh sơn mài Việt nam cũng được đặc biệt chú ý vì
nó có sắc thái riêng biệt và biểu hiện rõ tính dân tộc đậm nét. Sơn mài còn gọi
là sơn ta, đã có truyền thống lâu đời ở những thế kỷ trước, những tượng gỗ tại
các đình, chùa, miếu, được sơn son thếp vàng. Những bàn thờ, câu đối, hoành
phi, đồ thờ v.v… cũng được xử lý bằng sơn mài với những màu sắc lộng lẫy và bền
chắc. Các đồ mỹ nghệ thủ công cũng đã là những mặt hang xuất khẩu có tiếng
vang. Thế kỷ thứ 16, phố Nam Ngư (Hà Nội) là phố của những người làm sơn mài.
Thế kỷ 17, một nhà kinh doanh người Anh đã cử một kỹ thuật viên sang Thăng Long
(Hà Nội) bọc kỹ nghệ sơn mài của Việt nam. Từ gần một thế kỷ nay, sơn mài đã được
giới hoạ sĩ Việt nam tìm tòi nghiên cứu và nâng sơn mài lên một vị trí cao. Họ
làm tranh sơn mài, do đó, sơn mài được thêm vào những chất liệu phong phú với
nhiều loại bột màu, bột vàng, bột bạc, vàng lá, bạc lá, bột màu thực vật, vỏ
trai, vỏ trứng v.v… Chất sơn lấy từ cây sơn. Nhựa cây hứng về, đổ vào các
"sải", bằng tre đan, đậy lên một lớp giấy bản. Nhựa này gọi là sơn sống,
giữ càng lâu càng tốt. Qua nhiều ngày, nhựa bị mất nước, lên men và lắng đọng,
tạo ra nhiều lớp sơn khác nhau, màu sắc khác nhau, gọi là những "tuổi
sơn". Lớp trên cùng màu sẫm là loại tốt nhất. Sơn chất lượng cao đổ vào
thùng gỗ và dùng chày khuấy trong ba ngày liền. Sơn sẽ trở nên trong hơn có màu
giống cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Nó sẽ trở nên bóng hơn khi được
trộn thêm ít nhựa thông. Lại đổ nhựa vào chậu sành và khuấy bằng chày sắt, sơn
sẽ ngả màu đen huyền. Các loại bột màu - bình thường khi trộn với sơn, bị sơn
làm "đen hoá” hoặc làm xám xỉn lại nên phải dùng những bột màu được xử lý
đặc biệt. Người ta dùng vàng và bạc thật ở dạng lá dát thật mỏng hoặc ở dạng bột
mịn trộn vào sơn. Một số màu: xanh lá cây, xanh lam, vàng, tím, trắng ở dạng bột
không hoà tan. Một vài màu phẩm cũng dùng được. Người ta còn dùng hạt dành dành
để tạo màu vàng, dùng vỏ trứng vịt, trứng gà khảm vào tranh sơn mài để tạo nên
màu trắng. Còn vỏ trai, ốc thì tạo nên những màu xanh, tím, hồng óng ánh huyền ảo.
Làm một bức tranh sơn mài, hoạ sĩ chọn tấm gỗ khô, nhẵn gọi
là "vóc". Vóc được quét một lớp sơn sống lên cả hai mặt rồi dùng vải
hoặc lụa quấn quanh tấm gỗ. Khi khô, được sơn lên nhiều lớp sơn khác nhau. Đợi
khi các lớp sơn vàng khô, người ta quét lên một lớp sơn nữa và "bó" một
lớp mát tít gồm sơn sống, mùn cưa rây nhỏ và đất sét. Khi lớp “bó” khô, sẽ được
phủ lên hai lớp sơn sống nữa. Bề mặt tấm vóc được mài nhẵn bằng đá bột với nước.
Sau đó, sơn "thi" lên tấm gỗ từ ba đến bốn lớp then chín màu đen. Tiếp
sau là nhiều lớp sơn nữa. Hoạ sĩ dùng phấn hoặc bút chì vẽ phác rồi vẽ sơn có
trộn màu lên. Lớp một khô sẽ vẽ lớp thứ hai, sau khi vẽ xong, toàn bộ bề mặt
còn phải phủ lên một hoặc hai lớp sơn son với lớp màu thích hợp, tức là dựng
các màu chồng lên nhau. Nếu tác giả muốn dùng vỏ trứng hoặc vỏ trai, ốc thì
dùng dao trổ, cài vào lớp sơn ướt ở mảng thích hợp. Sau đó, lại phải phủ lên một
hoác hai lớp và đợi cho khô. Bức tranh khô cũng được mài bằng đá màu với nước
làm cho những nước sơn "hiệu quả" cũng như những vỏ trứng, vỏ trai, bạc,
vàng hiện dần ra với những mảng màu mong đợi. Muốn sử dụng vàng lá, bạc lá thì
đặt lá vàng hoặc lá bạc lên tranh, phủ lên trên một hoặc hai lớp sơn mỏng. Bột
vàng, bột bạc, bột màu thì trộn vào sơn mà vẽ.
Cuối cùng, vẫn là động tác mài cho đến lúc những đường nét và
mảng màu nổi lên là được. Chúng nổi lên vừa đúng ý đồ của hoạ sĩ, vừa bát. ngờ…
Lưu ý đến bảng màu sơn mài, ta sẽ thấy khả năng và tính ưu việt của những loại
sơn. Sơn then đen bóng, sâu thẳm đến vô cùng. Sơn cánh gián trong veo, óng ả phủ
lên các màu và vàng bạc sẽ làm cho màu sắc biến đổi tạo thành những màu sắc dẫn
xuất và tạo nên những âm vang màu sắc đầy kịch tính. Qua sự kết hợp giữa sơn ở
tuổi khác nhau, các bột màu cũng trở nên mờ ảo, rực rỡ và có những độ nổi chìm
trong bức tranh. Thực ra, mỗi một màu sơn đứng độc lập cũng đã tạo nên những vẻ
đẹp của riêng nó. Ngoài những bức tranh sơn mài ra, lại có những tác phẩm khắc
chìm và đắp nổi. Những năm 30 của thế kỷ này, tranh sơn mài và các tác phẩm thủ
công mỹ nghệ đã trải qua một cuộc phục hưng. Nó khẳng định rằng khả năng biểu
hiện của sơn mài trong hội hoạ là không hạn chế. Nó có thể diễn tả được đủ loại
nội dung đề tài. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), cuộc phục hưng thứ
hai của sơn màu mới thực sự rộng khắp và sôi nổi. Nhiều bức tranh sơn mài và
các đồ mỹ nghệ thủ công sơn mài Việt nam được đưa ra nước ngoài hàng loạt.
Chúng được đánh giá cao ở nước ngoài cũng như ở thị trường trong nước. Những hoạ
sĩ gắn bó với sơn mài và có những bức tranh sơn mài có tiếng vang phải kể đến
các hoạ sĩ như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Đỗ Cung,
Phan Kế An, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Ty, Trần Văn Cẩn v.v…
Tranh sơn mài thường được vẽ ít nhiều theo ước lệ, ngẫu hứng. Nó cũng như tình
yêu vậy, xuất phát từ tấm lòng chứ không nhất thiết theo những quy luật lạnh
lùng của hội hoạ nói chung và cũng không theo những bảng màu được công bố một
cách máy móc nặng về kỹ thuật. Rung động trong lòng thế nào, hoạ sĩ thể hiện ra
tranh như thế. Có khi nó phớt lờ cả tỷ lệ hoặc luật viễn cận. Nó không lý sự
dài dòng. Nhưng chính vì thế mà những bức tranh sơn mài Việt nam trở nên thầm
kín, sâu lắng, ấm áp, mơ màng và xôn xao. Về phần mỹ nghệ thủ công, những chiếc
lọ sơn mài, những chiếc hộp, đĩa trang trí, ghế, guốc, tượng, đồ thờ và các đồ
trang sức v.v… làm bằng sơn mài hoặc trang điểm bằng sơn mài được liệt vào những
mặt hàng hiếm mà khách nước ngoài săn tìm. Tương lai của sơn mài rất sáng lạn.
Nó đã và sẽ góp vào vườn hoa nghệ thuật Việt nam và thế giới một bông hoa khiêm
tốn và độc đáo.
TRUYỆN VỀ BỨC TRANH "HỨNG DỪA"
Tôi về thăm làng Hồ, tới nhà cụ Quýnh thì cụ cũng vừa ra khỏi
gian nhà cổ. Cụ bảo: "Ôi, nhà báo lại có điều gì dạy bảo đây…"
- Dạ, là hàng con cháu, xin đến thăm cụ.
- Cám ơn ông.
Cụ Quýnh đưa tôi vào nhà, mời uống nước chè xanh và hút thuốc
lào Tiên Lãng. Cụ vừa mới ở Hà Nội về. Cụ không chịu được cái không khí Hà Nội.
Ở Hà Nội không biết trăng sáng tỏ hoặc trăng suông là gì. Thế thì biết làm sao
được cái câu: “Sáng trăng sáng cả vườn đào"? Biết được làm sao cái điệu
“Suông hời” thảng thốt…? Nể lòng người cháu họ mời ra Hà Nội, cụ chỉ nán lại ba
ngày rồi nằng nặc đòi về làng Hồ. Về nhà, cụ còn góp ý cho bọn trẻ khắc lại những
ván tranh Đông Hồ cổ, còn đi hết nhà này đến nhà nọ, còn nghe bọn trẻ hát những
bài quan họ mà cụ cho là quan họ rởm v.v… Cụ đã 95 tuổi mà vẫn tinh nhanh, quắc
thước, râu tóc như bông, nói đến chuyện các bức tranh Đông Hồ, cụ nói một mạch
như thể chỉ sợ tôi xen vào sẽ cắt đứt mạch suy nghĩ của mình. Bàn đến bức tranh
“ Hứng dừa “ cụ bèn kể lại theo lời của cha, ông cụ đã nói với cụ. Tôi chỉ còn
biết nghe và nhớ lại từng chi tiết
Và đó cũng là ước mơ của tôi. Ngày xưa, cứ gần hết ngày Tết
là có những đám thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi xuân… họ thách nhau lên trèo
dừa. Không kể dừa nhà ai, cứ cây nào dễ trèo là trèo trẩy vài ba quả lấy may.
Chủ nhân vườn dừa rất đỗi rộng rãi, cởi mở, không lấy tiền. Chàng thanh niên
nhanh nhẩu, hoạt bát trèo thoắt lên cây dừa, giữa tiếng hoan hô ầm ĩ và tiếng
tán thưởng của mọi người. Chàng thanh niên mặc quần đùi ống rộng, không mặc quần
si líp như bây giờ. Người ta gọi các cô gái ra hứng dừa. Lẽ dĩ nhiên, có một cô
nhảy ra làm việc đó cô gái ra khỏi đám đông, đến gốc dừa. Lúc này tiếng ồn ào,
cười đùa hò hét vang lên như sấm. Chàng thanh niên sờ tay vào những quả dừa rồi
hét lên:
- Ai ơi, xong chưa?
- Xong rồi…
Cô gái và tất cả mọi người reo lên… Một quả dừa nhỏ được tung
xuống. Cô gái vui quá, nâng váy lên đỡ. Mọi người ào tới, vỗ tay khen cô gái và
khen cả những động tác hớ hênh của cô. Cô gái để mình trần, mặc chiếc yếm điều
hờ hững. Giải thắt lung xanh giữ cạp váy trang điểm rất nhiều cho thân thể ngọc
ngà của cô. Đây mới là màn một.
Đến màn diễn thứ hai có phần đặc sắc hơn. Một cô gái thứ hai
ra hứng tiếp. Lần này, chàng trai mưu mẹo hơn (con trai là thế đó)” Anh ta thả
xuống một lúc hai quả dừa to và nặng thật nhanh. Và thế là hai quả dừa quá tải
này đủ để làm tụt váy cô gái ra trước thanh thiên bạch nhật. Cô gái bàng hoàng
xấu hổ, vứt cả dừa, vội vàng vơ váy lên, mặc lại váy rồi chạy một mạch về phía
đình làng.
Bọn trẻ xúm lại, tranh nhau hai quả dừa mà cô gái không nhận
này. mang về nhà. Đó là điềm may lớn.
- Chúng tôi được trận cười vui vẻ.
Ông cụ Quýnh nói cười rung cả chòm râu bạc.
- Thưa cụ. Có thể vì vậy mà các cụ sống lâu đấy ạ.
- Tôi không biết. Nhưng không hiểu sao, năm nào cũng như năm
nào mà bọn con gái không biết rút kinh nghiệm, cứ để bị tụt váy nhỉ? Phụ nữ họ
nhẹ dạ, cả tin chăng? Cứ vui lên là quên không coi trời đất là gì. Lạ thật chú
nhỉ? Dạ. Có thể là như vậy.
- Mà thế mới sướng chứ?
- Vâng…
MẤY BÔNG HOA NGHỆ THUẬT
Những năm 1976-1977, tôi đi cùng với mấy nhà nghiên cứu âm nhạc
người Bun-ga-rỉ đến dự một buổi ca trù và biểu diễn nhạc cổ tại một căn gác nhỏ
trên phố Trần Hưng Đạo.
Đào nương là bà Quách Thị Hồ, ông Trúc Hiền đánh trống chầu.
Ông Chu Văn Du đánh đàn đáy. Ông Đinh Khắc Ban thỉnh thoảng hoà vào mấy tiếng
đàn nguyệt đầy kịch tích. Tiếng phách dạo lên giòn giã tung tăng như có gió, có
mưa, có tiếng lòng tha thiết. Bà Hồ hát lên:
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngày biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ, âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm Ô quan bà
Cỏ vàng, cây đổ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Những giọt đàn đáy rung lên: từng… tưng… tưng… tưng… Nghe như
tiếng đàn từ ngàn xưa vọng về. Chát… chát… chát… tom, mấy tiếng trống chầu của
ông Trúc Hiền vang lên. Ông lim dim đôi mắt say sưa, ngây ngất về bài thơ của Tản
Đà và giọng hát đổ hột mà rất "hàng hoa" của đào nương. Nghe yêu quá.
Chính trong cái trạng thái tâm hồn chạng vạng ấy mà ông Trúc Hiền mới góp được
vào những tiếng trống hào hoa, xuất thần. Mấy người bạn nước ngoài cũng như mấy
chuyên gia âm nhạc Việt nam ngồi nghe chết lặng. Các bạn cảm ơn, vái ông Trúc
Hiền. Tôi cũng khen ông: "Tiếng trống của ông hay quá". Ông Trúc Hiền
nói ngay: "Năm nay tôi 70 tuổi. Trong tiếng trống của tôi có cả những tiếng
khóc và những điều ân hận của tôi. Tôi đã mất mấy chục năm phiêu bạt, ăn chơi.
Đời tôi đã mất cả vườn ruộng. Đã làm khổ vợ con vì những tiếng trống này đó.
Tôi đã mất đi tất cả. Chỉ còn lại có vài tiếng trống…"…
Qua đi chừng vài năm, tôi đã học được nhiều điều mới thấy lời
khen ông Trúc Hiền của tôi năm xưa là dốt nát. Đối với những tiếng trống nghệ
sĩ đem lại cái đẹp cho cuộc đời, làm cho người ta trở nên trong sáng như buổi mới
sinh ra của một lão nghệ nhân vào cỡ tài hoa bậc nhất Hà thành mà khen một câu
như vậy là vụng về. Với ông Chu Văn Du, tôi chắp tay vái ông. Ông cho biết Ông
học đàn đáy từ năm 13 tuổi. Đàn đáy là cây đàn thiêng, cần dài lm2, có dây gọi
là ba dây tình tang đục. Ông thường theo cha vác đàn đi xin hát cửa đình, hát tế
thần, hát giỗ tổ… Đến năm 16 tuổi, ông đã dám đến với các giáo phường Thú Khối,
Bát Tràng dự thi đánh đàn đáy với những bậc cao thủ. Giới cầm ca Thăng Long hết
sức ngạc nhiên, ông đã chiếm ngay ngôi vương cầm, đáng được ghi vào bảng
"Phong thần" nếu ông là một kép già.
Một nhà hát ả đào nổi tiếng ở Khâm Thiên cứ người đi săn các
danh cầm, đã 10 lần đến tận nhà ông để mời ông về đàn cho nhà hát. Thực tình,
ông không muốn dừng gót phiêu lưu. Nhưng buổi ấy, ông đã gặp một con người phi
phàm. Con người này, ở nhà hát đi ra tiếp ông. Đó là ả đào Đàm Mộng Hoàn. Một
đào nương ca trù số một của Hà Nội mà lại hát được của những làn điệu tuồng,
chèo, cải lương. Còn về ngâm thơ thì ông Du, nhà báo Phùng Bảo Thạch, nhà văn
Vũ Trọng Can… bảo rằng chưa từng thấy ai ngâm thơ hay bằng Đàm Mộng Hoàn. Thế
là, không chút do dự, ông ở lại nhà hát, đàn cho Đàm Mộng Hoàn hát và ngâm thơ.
Ông đã mấy lần được mời cùng với các ông Ngô Thế Tuấn, Đinh Khắc Ban, Chu Thị Bốn,
Chu Thị Năm, Đàm Mộng Hoàn sang Hồng Ông đàn, hát ca trù và ngâm thơ để thu vào
đĩa cho mấy hàng Pa thé, Asia, Colum-bia. Sau đó, riêng Đàm Mộng Hoàn và ông
còn được liên tục trình bày nhiều bài hát, bài thơ để ghi vào những đĩa nhựa,
bán trong cả nước và cho nước ngoài (Hồng Kông, Pháp, Thượng Hải). Trong làng cầm
ca tính từ hơn 60 năm trở lại đây, chưa có giọng ca trù nào vượt được Đàm Mộng
Hoàn. Chị đã làm "lên hương" được những điều chính trong ca trù như:
Bắc phản, mướt, hát nói, gửi thư, ngâm vọng, nhịp ba, cung bắc, tỳ bà hành, đọc
thơ, đọc phú, hát ru, hãm, kể chuyện, xầm nhà trò, 36 thứ giọng… cũng chưa hề
có giọng ngâm thơ nào vượt được Hoàn. Hơn nữa, Đàm là nhan sắc của làng hoa
khôi Khâm Thiên (người ta quen gọi như thế): Một sắc đẹp hơi lẳng lơ, gợi cảm…
ông Du bảo: "Tiếng đàn của tôi chỉ thực sự là tiếng đàn khi tôi đánh cho
riêng tôi nghe hoặc khi đệm cho Đàm Mộng Hoàn. Ngoài ra, là tiếng đàn để vụ
sinh nhai…"
Ông Bùi Trọng Đang ngâm lên mấy câu sổng tả nỗi thất vọng của
Lưu Bình khi vừa mới thi đỗ, về đến nhà thì không thấy bóng người đẹp: Nàng bỏ
đi đâu? Lạnh ngắt phòng loan Trông lên bức gấm… nhớ tới tay ngà Cây kia ai xới…
cho thắm giò hoa… Giọng ông ấm áp, âm vực rộng, lúc bổng lúc trầm, như phun
châu nhả ngọc. Ông Ban phơi đàn đáy, đàn nguyệt, đánh trống chầu, hát chèo… Cả
mấy môn đó, ông đều được xếp vào loại siêu việt. Nhà báo Phùng Bảo Thạch rất mê
ông, biết ông từ cái dạo ông lên 13 tuổi, đeo cây đàn theo ông chú đi đến các đền
làm cung văn. Một hôm, ông chú đang chầu văn thì lăn ra ốm. Không tìm được người
thay thế, mọi người đành phải để chú bé 16 tuổivừa đàn, vừa hát. Kết quả, ông
hát và đàn còn hay hơn cả ông chú. Hát rất nổi "màu". Mọi người rất đỗi
mừng rỡ, gọi ông là cung văn “Kim Đồng, Ngọc Nữ" của Mẫu. Cho đến tận bây
giờ, ông đã dạy trực tiếp và gián tiếp cho hàng ngàn học trò về đàn, trống, hát
trong mấy chục năm. Trong số những học trò của ông, nhiều người đã trở thành những
nghệ sĩ, những diễn viên tài ba. Họ có mặt trên khắp miền đất nước. Họ lấp lánh
như những vì sao trên bầu trời ca nhạc truyền thống Việt nam. Ông sống trong
nghèo nàn, thanh bạch cả cuộc đời. Những năm còn lại, ông sống thanh bần với tiếng
đàn tiếng trống và với những người ái mộ ông. Ông sống có phần ẩn dật, ít nói,
tình cảm, chẳng mấy khi cười.
Các bạn đề nghị bà Quánh Thị Hồ trình bày cho nghe thêm một
đoạn “Dòng phách". Tiết tấu tiếng phách thật kì diệu Lối dòng phách của bà
không giản đơn là cầm hai cái thanh tre, gõ lên một mảnh tre. Phải gõ làm sao
cho một bên dẹt, một bên tròn. Một bên phát ra tiếng nặng, một bên tiếng nhẹ, một
bên trong, một bên đục, một bên cao, một bên thấp, lúc khoan, lúc dồn. Hơn nữa,
bà là ngươi vừa dòng phách vừa hát. Tiếng hát thanh tao là bà ngân lên, quyện với
tiếng phách nao nao với tiếng đàn trầm ấm, ngọt ngào. Trong khi đó, những tiếng
trống chầu hùng biện đệm vào. Chúng tán thưởng, khen ngợi và ra tuyên ngôn:
"Kẻ này đã gặp tri kỷ. Kẻ này yêu tiếng hát và tiếng phách của đào nương lắm
lắm"!
Đúng như trong quan họ bảo: "Ta yêu người lắm lắm người
ơi!"… Chỉ có 3-4 người ngồi trên một chiếc chiếu hoa, cùng với mấy nhạc cụ:
phách, trống, đàn… đã làm cho những người Phải nghe say mê: say thơ, say nhạc,
say tiếng hát, say tình bạn, say đời… Nghệ thuật ca trù của ta có sức sống trường
tồn. Không chỉ riêng Việt nam ta yêu thích mà nó còn làm cho nhiều nhà nghiên cứu
"âm nhạc trên thế giới say mê đến nỗi đứng ngồi không yên.
VẼ MẶT TÀO THÁO
Nghệ thuật hoá trang là một phần không thể thiếu, được của điện
ảnh và sân khấu. Cứ thử hình dung mà xem, 25 tập phim Tây Du Ký làm say mê hàng
triệu khán giả màn ảnh nhỏ mà không có hoá trang thì Điện ảnh Việt nam cũng đã
nhiều lần giới thiệu với các bạn những thành công của nghệ thuật hoá trang
trong phim truyện. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu với các bạn cách vẽ mặt
Tào Tháo, nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết trường thiên Tam Quốc Diễn
Nghĩa của Trung Quốc. Nhân vật này cũng đã từng nhiều lần từ văn học bước lên
sàn diễn sân khấu và điện ảnh… Kép hát tuồng nổi tiếng suốt vùng Bưởi và Hà Nội
những năm 1935-1946 là Kép Thuyên. Ông là nghệ sĩ tuồng toàn diện, được các cụ
trong nghề khen là "toàn thân giai nghệ ", nghĩa là nghệ thuật đầy
mình. Các đoàn tuồng phải mời ông đến diễn mới mong bán được nhiều vé, nhất là
vai Tào Tháo lại càng cần đến ông. Tôi vốn là người yêu thích tuồng từ thủa bé
và thường được ở trong buồng trò những khi Kép Thuyên sắm vai. Tôi say mê các động
tác diễn xuất, hát và nhạc. Nhưng tôi say mê hơn cả là nghệ thuật vẽ mặt các
nhân vật tuồng. Cho đến bây giờ, sau nhiều nam được trang bị một số kiến thức về
hội hoạ, tôi lại càng say mê nghệ thuật này, nhất là nghệ thuật vẽ mặt Tào Tháo
của Kép Thuyên. Tôi cho rằng nửa thế kỷ nay, chỉ có hai người đóng thành công
vai Tào Tháo là Kép Thuyên và nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Quang Tốn. Những người vẽ
mặt Tào Tháo một cách nghệ thuật cũng chỉ có Kép Thuyên rồi đến ông Tốn. Cái
khéo của việc vẽ mặt không chỉ là vẽ đẹp nét mặt về phương diện tạo hình mà phải
vẽ sao cho lột tả được tính cách của nhân vật Tào Tháo. Người ta gọi là mặt trắng
Tào Tháo. Thật là khó khi bộ mặt nhân vật tuồng không có nét đỏ, nét đen, không
có dằn di, lốm đốm. Mặt Quan Công đỏ, mặt Bao Công đen, mặt Trương Phi rằn ri
v.v… đều dễ vẽ. Mặt Tào Tháo rất khó vẽ, lại là cái màu trắng độc đáo. Nó không
phải là cái trắng nhễ nhại của các cô gái trong phòng the, không phải là cái trắng
kiểu bạch diện thư sinh; không phải là cái trắng tang tóc mà phải là màu trắng
của bụng con cá. Thường thường, màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, cao đẹp,
nhưng ngoài cái màu trắng ở bụng con cá lạ lùng này, không một màu sắc nào lột
tả được cái thần của Tào Tháo. Trong văn học, Tào Tháo được miêu tả: hùng tài đại
lược túc trí, đa mưu, văn võ kiêm toàn, vũ phi phàm, anh hùng đủ mặt, đa nghi,
ghen ty, khẩu phật tâm tà, gian trá, hung ác, ích kỷ hại người, gian ngoan cùng
cực v. v… Một nhân vật như vậy thì phải dùng màu gì để vẽ mặt cho thật khớp với
cái chất của con người ông ta thật là khó. Bất kỳ màu sắc nào vẽ lên mặt ông ta
đều mờ nhạt và vô duyên không tài nào lột tả được cái, "thần" của
ông. Cái khoan dung hơn người cũng trùm lên cái lòng ghen ty vô kể, cái khí
khái khác thường che đậy cái lòng riêng quá quắt. Cái mưu lược thiên tài đi liền
với cái gian tà khôn xiết tả. Cái chí khí đại bàng lại chứa đựng chút nhỏ nhen,
khôn ngoan giảo hoạt, thịnh tình và giả dối, khẳng khái và hèn mạt, hào hoa và
cay độc… Tất cả những thứ trái ngược với nhau đều khó có ranh giới rõ rệt trong
con người, Tào Tháo. Tất cả quyện lại rất hài hoà trong một thể thống nhất. Màu
sắc của tính cách Tào Tháo phức tạp nhiều màu vẻ khôn lường. Do vậy, chỉ có bộ
mặt trắng mới có thể bao quát được. Màu trắng là không màu mà cũng là tất cả mọi
màu cộng lại. Ve mặt Tào Tháo vì thế phải dùng đến màu trắng của bụng con cá.
Cụ thể đó là nét độc đáo trong nghệ thuật hoá trang mà nhiều
người chưa biết.
CA TRÙ DÒNG NHẠC DÂN CA HÀ NỘI
Nguyên lý của ca, nhạc cổ kim là nhằm khai thác những nhân tố
tương phản về âm sắc, âm chất để đi tới sự hài hoà qua những phức điệu đan kết
lại với nhau. Ca nhạc ca trù phù hợp với nguyên lý đó. Tiếng đàn đáy vừa cứng vừa
mềm, đục, khàn (giọng khàn là giọng được giải phóng). Cây đàn đáy dài lm2, có
ba dây chùng. âm thanh của nó phát ra là sự chắt lọc của đàn nguyệt, đàn tứ,
đàn thập lục, đàn tỳ bà hợp lại. Một mình chiếc đàn đáy thay thế được cho nhiều
nhạc cụ. Thùng đàn không có mặt hậu. Tiếng phách khô giòn, tung tăng, ấm, nặng
tình. Tiếng hát của đào nương dẻo, mềm, mượt… Tiếng trống chầu thảng thốt, bâng
khuâng, xa vời… Tất cả quyện lại với nhau tạo nên cái thao thức ngàn năm mà người
Trung Quốc gọi là "Thiên cổ chi mê"? Giản đơn hơn gọi là sự hấp dẫn lớn.
- Ba loại nhạc cụ: Phách, đàn đáy và trống chầu là những nhạc
cụ 100% Việt nam. Năm 1980, chuyên gia văn hoá của tổ chức A.C.C.T là ông Zakpa
đã phát biểu sau khi dự một buổi ca trù Văn Miếu: “Buổi biểu diễn ca trù đã cho
tôi hưởng một loạt những: nước mắt, tình cảm, dữ dội, tình yêu, sự vuốt ve âu yếm
và tâm linh… Ca trù có đủ các thể loại: trữ tình, lãng mạn, sử thi anh hùng ca,
giáo huấn… Các bài hát ca trù giàu chất thơ, ca. Chúng thoáng có nét thơ Đường,
tranh thuỷ lạc, lại thấm chất dân gian, nhiều nhạc tính và kịch tính. Ca trù có
chút buồn. Nhưng chất buồn này không phải là cái buồn bình thường mà là cái buồn
to lớn: trầm ngâm, sâu lắng, suy nghĩ, cảm xúc nó làm cho những công việc bề bộn
của trái tim được hài hoà. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã bỏ ra nhiều năm tháng để
nghiên cứu và học ca trù. Năm 1940, ông viết trên báo Ngày Nay. "Đứng về
phương diện hoà âm mà xét, lối hát ả đào là không thể chỉ trích vào đâu được.
Ta chỉ nên lắng tai mà nghe sự hợp nhất, đối chiếu, thăng bằng hoàn toàn của mấy
loại nhạc khí góp vào với lời ca. Năm 1944, ông lại viết trên báo Thanh Nghị:
Chúng ta có thể tự hào rằng, không một tiếng hát nào trên thế giới có thể đẹp
như tiếng hát của đào nương ca trù! ông lại thêm: "Đào nương là con chim
hoạ mi của thơ ca Việt nam"
Suốt cả chặng đường gần 1000 năm trở lại đây, người Hà Nội
không bao giờ sao lãng nghệ thuật ca trù kể từ khi dòng nhạc này còn là hát ở cửa
đình, hát ở thành thị rồi vào kinh đô. Và rồi nó lại từ kinh đô mà trở về với
thành thị, với các xóm làng. Nó không ngừng được cải tiến, hoàn thiện cả về
hình thức lẫn nội dung để trở nên lối hát ca trù ngày nay. Nó được lan toả đi mọi
nơi và cũng đi nhiều nước trên thế giới. Ở đây, thanh và sắc của nó cũng được
nâng niu, kính nể. Từ những năm 1980 - 1940, ở Hà Nội luôn tổ chức những cuộc
thi hát ca trù và đánh đàn đáy với sự tham gia của nhiều đào kép quái kiệt, hạng
nhất ở Hà Nội và từ các tỉnh Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Sơn Tây, Thanh Hoá,
Hà Tĩnh v.v… Các cuộc thi được tổ chức long trọng tại đền giáo, phường Lỗ Khê,
Đền Hàng Quạt, đền Phố Huế, đền Ngọc Hà, Hàng Giấy, Thủ Khối, Gia Lâm, Bát
Tràng… Người đoạt giải nhất được phong làm thủ khoa. Người đoạt giải nhì được gọi
là á khôi. Phải là người được giải trong các cuộc thi này ở Hà Nội mới là tuyệt
mỹ, là đáng mặt. Họ bảo nhau: “Phi Hà thành bất xứng cầm ca".
Có một lần, cụ thân sinh ra bà Quách Thị Hồ là người Kinh Bắc,
có tài ca nhất Kinh Bắc, lại có nhan sắc lộng lẫy, đã chắc mẩm được thủ khoa.
Nhưng không may, bà chỉ được á khôi, bà ăn năn mãi và quyết tâm rèn luyện cho
con gái cố đoạt danh hiệu thủ khoa thay bà. Đó là cả một sự ân hận truyền kiếp.
Từ những năm 1930, thành phần nhóm trình diễn ca trù luôn được các nhà nho, nhà
thơ, học giả cùng với các tài năng dân gian hoàn thiện để nhóm được rút thật gọn
nhẹ đến nỗi không phải thêm một thành viên nào mà cũng không thể rút đi được một
thành viên nào. Những năm 1930 - 1935, các danh ca Đàm Mộng Hoàn, Quách Thị Hồ,
Nguyễn Thị Phúc, Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm và các danh cầm Đinh Khắc Ban, Ngô Thế
Tuất, Phí Văn Thọ… thường đến Hồng Ông để ghi những đĩa hát về ca trù. Danh cầm
Phí Văn Thọ là thầy dạy của Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Tính đến năm 1942, ở Hà
Nội có nhiều xóm ca trù nổi tiếng, như các xóm Hàng Giấy, Hai mươi bốn quan, Vạn
Thái, Khâm Thiên, Thái Hà ấp, Ngã Tư Sở, Phùng, v.v… Xa một chút có các xóm Gia
Lâm, Thủ Khối, Bát Tràng, Bắc Ninh, Quốc Oai, Từ Liêm…
Năm 1977, ở Hà Nội có nhóm câu lạc bộ ca trù ở đền Bích Câu
Chủ tịch câu lại bộ là người Lỗ Khê. Nhiều khách nước ngoài cũng đến tham gia
câu lạc bộ. Năm 1979, tại Liên hoan nghệ thuật các dân tộc Á Phi tổ chức tại
Ran, bà Quách Thị Hồ đã được bằng danh dự với bài ca trù: "Xuân rồng chắp
cánh rồng bay" Lời bài hát của Chu Hà.
Năm 1983, tại Mông Cổ, trong cuộc thi nghệ thuật của 29 nước,
bà Quách Thị Hồ lại đoạt bằng danh dự và đặc biệt về “bài ca trù "Tỳ Bà
Hành, " Một thành viên trong ban giám khảo quốc tế đã bình: "Tiếng
phách của bà Hồ là một tiến hành khúc của tâm hồn". Nhạc sĩ Trần Văn Khê rất
say mê ca trù, ông đi khắp thế giới. Đến đâu, ông cũng giới thiệu ca trù. Hồi
tôi gặp ông ở Paris, ông nhờ tôi nhắn lại với các bạn trẻ: "Giờ đây, chúng
ta không được nghi ngờ về giá trị cao siêu của ca trù"…
Ở làng Lỗ Khê, còn có đền giáo, phường ca trù. Nơi đây thờ tổ
sư ca công và tổ giáo phường. Trong đền còn giữ lại được các bản ghi chép về sự
tích các vị thần do Nguyễn Bính là tiến sĩ đời Lê Hồng Phúc soạn. Trong đền còn
bức hoành phi, bức cửa võng chạm trổ tinh vi, có khám thờ hai pho tượng gỗ sơn
son thếp vàng ngồi uy nghi. Đó là tượng ông Đinh Dự và bà Đường Hoa là tổ sư
nghề đàn, phách, ca, múa và lập giáo phường. Nay ở Lỗ Khê còn hơn một chục
"họ" ca trù. Các ca nương và các danh cầm của Lỗ Khê vẫn đi khắp nơi
trình diễn. Cũng như xưa, họ đều có mặt trong các cung đình vua chúa. Nơi đây
còn nhiều gia đình giữ được nhiều bộ phách và nhiều cây đàn đáy gia truyền. Họ
thường tổ chức hát ca trù trong ngày lễ tổ sư, trong các dịp lễ, Tết của hai
mùa xuân thu. Khách ở các nơi đến thăm họ trong những ngày này rất đông như thể
người ta rủ nhau về thăm làng quan họ vậy. Ở Từ Liêm cũng còn đền thờ tổ ca
trù. Ở phố Hàng Trống có đền thờ một đào nương từ đời Lê. Nàng tên là Huệ. Ở
ngay gần chợ Hôm cũng còn đền thờ tổ sư giáo phường ca trù. Chúng ta đều biết,
dòng nhạc ca trù của Hà Nội đã có rất nhiều đệ tử. Trong đó có những vị lừng lẫy
như: Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tản Đà, Hoàng Tích Chu, Xuân Thuỷ, Huỳnh Thúc
Kháng, Nguyễn Xuân Khoát, Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Khắc Viện, Ngô Linh Ngọc, Hồ
Tùng Mậu, Trần Huy Liệu, Trần Huyền Trân, Hồ Duyếch, Lê Hồng Phong, Tôn Quang
Phiệt, Trần Văn Khê, Văn Cao, Nguyễn Tuân v.v… và v.v… Họ là những nhà nho, nhà
trí thức, nhà văn hoá. Họ yêu mến ca trù và sáng tác ra những bài hát cho đào
nương.
Mấy thập kỷ nay, đã có một số nhạc sĩ vớt được một chút hương
hoa ca trù và kết nạp họ vào làng ca trù. Họ là: Nguyễn Cường, phó Đức Phương,
Văn Thành Nho, Huy Thục, Đoàn Bổng, Nguyễn Ngọc Ninh. v.v… Người xưa đã cho họ
ăn “lộc”. Ca trù là dòng nhạc truyền thống, dân gian được nâng lên mức bác học
của Hà Nội. Nó cũng như dân ca quan họ của Kinh Bắc, ví dặm của Nghệ Tĩnh, ca
Huế của Huế, ca tài tử của Nam Bộ v.v…
Ca trù là của Hà Nội.
GIỌNG HÁT XẨM BÂNG KHUÂNG
Xẩm là loại hình hát nói dân gian ở Việt nam do những người
mù tài năng, có nhiều tâm tư, mang tiếng đàn, giọng hát góp vào với cuộc đời.
Đó cũng là cách kiếm ăn duy nhất của họ. Người hát xẩm thường vừa hát vừa đàn
(đàn bầu ống bơ). Cũng có khi anh ta kéo nhị, kéo hồ hoặc sử dụng nhiều loại nhạc
cụ. Bạn hoặc vợ xẩm đánh trống một mặt và đánh cặp kè. Các bài hát xẩm thường
mang tính chất tự sự, kể về những nội dung phản ánh hiện thực xã hội. Có bài
lên án những hiện tượng không hay. Có bài lên án, phê phán, than vãn, khuyên
răn… Theo lời văn, giai điệu được biến hoá trên những âm hình, tiết tấu chủ đạo
từng đoạn hoặc kéo dài, sâu lắng, lúc sôi nổi, rộn ràng, lúc buồn thảm. Thỉnh
thoảng lại có những đoạn “Lưu không”: Xẩm không hát mà chăm chú, say sưa biểu
diễn nhạc cụ. Anh dồn cả tâm lực, trổ hết tài hoa rồi tạo đà để hát đoạn sau. Đến
những đoạn trữ tình, huê tình, bi hùng… anh xẩm rượn mình, ngẩng cao đầu. Đôi mắt
không nhìn thấy gì cứ hướng vào xa lắng mênh mông. Tay gấy đàn hoặc kéo nhị nhấn
nhá, vuốt ve và ca lên nồng nàn, sôi nổi, đầy kịch tính. Những lúc này là những
giờ phút xuất thần của xẩm, gây được một sự vương vấn lâu dài trong lòng người
nghe.
Do vậy, những người thưởng thức thi nhau vứt tiền vào chiếc
chậu thau bẹp để thưởng cho xẩm. Các làn điệu của xẩm thường toát lên tính cách
tiêu biểu của tâm hồn Việt nam: Quý trọng nghĩa tình, chung thuỷ, yêu lẽ phải
và đạo đức, lạc quan, tintưởng vào tương lai. Mặc dù, xẩm luôn luôn ở vào một
cuộc sống đầy vất vả, gieo neo. Những bài hát của xẩm dễ hiểu, dễ thuộc, thuộc
rồi càng muốn nghe. Cái hay của xẩm là "đàn ngọt, hát chín", lột được
tình cảm, có kèm cử chỉ, dáng điệu sống động, giàu chất biểu diễn. Có những đêm
khuya thanh vắng, xẩm ca, kể chuyện chồng con đã làm cho nhiều người chảy nước
mắt. Để nhớ đến chiến công của các chiến sĩ trong Trung đoàn Thủ đô ngày nào đã
vượt sông, anh dũng chiến đấu để rồi trở về giải phóng Thủ đô, anh xẩm thay mặt
một người dân, hét lên khúc tráng ca:
Khăn gói trên vai, kẻ giang hồ chậm bước
Nghe hát bài: "Anh khoá bâng khuâng"
Hồn nước mang theo gót vạn trùng
Người đi, không mấy người trở lại…
Non nước ta, ngày nay tưng bừng vĩ đại.
Ơn người một buổi… đã qua sông…
Bài xẩm "Thập ân" là một làn điệu trong những làn
điệu chính của xẩm. Nó ngang thưng với những làn điệu đặc trưng của xẩm như: xẩm
chợ, xẩm xoan, chênh bong, riềm huê, phần huê, hát ai… Nó mang một sắc thái
riêng. Nó dân dã, được quần chúng nhân dân bao giờ cũng tán thưởng một cách say
sưa, xúc động. Bao giờ nó cũng cộng hưởng với tâm tư, tình cảm của con người ở
nhiều cung bậc. Nó nói về tình mẹ con muôn đời. Người ta đón nghe “Thập ân” rồi
mở rộng chân trời suy ngẫm. Nó buồn rầu, thực cảm, hùng hồn, khêu gợi, hao hao
cái chất "oán thập điều” trong chèo. Nó lại có họ hàng với nhạc và Phật, kể
lại công lao của cha mẹ. Nhưng nhất là mẹ đối với đứa con từ lúc đứa con ra đời
cho đến khi được nuôi dạy lớn khôn. Đứa con là trái tim, là linh hồn, mà cũng
là giấc mơ của mẹ. Bài hát cũng nhắc nhở một cách khéo léo đến nhiệm vụ làm con
đối với công lao trời biển của mẹ. Lại còn có ý nghĩa nữa gài vào là đối với
người con xứng đáng thì mẹ đẻ cũng là quê hương, là đất nước. Có thể lầm lạc đối
với cha mẹ sẽ dẫn đến lâm lạc với quê hương.
Con người hãy coi chừng! Mẹ đẻ và mẹ Tổ quốc bao giờ cũng
thương yêu và rộng lượng với những đứa con. Chính vì những ý này gắn bó với nhiều
ẩn ý sâu xa làm cho bài hát xẩm "Thập ân" đã có từ rất lâu đời mà vẫn
còn tươi mãi đẹp đẽ và ấm áp đến tận bây giờ và mai sau. Khi chuyển từ đoạn này
sang đoạn khác, xẩm tài năng dùng thủ thuật hát và nhạc lúc tươi màu, oán màu,
lúc lại thắm màu… Số lời hát của xẩm thường theo lời sáu, tám, có sân si đôi
chút. Xẩm hay đưa bốn chữ của câu sau lên đầu để nhấn mạnh và phát triển:
Mẹ mới có thai
Kể từ mẹ mới có thai
âm dương, trai gái, trúc mai đều… (là) tình.
Những nhóm xẩm phiêu lưu, xê dịch hết nơi này đến nơi khác. Họ
sống rất kham khổ mà yêu đời, mang tiếng đàn, câu hát đi lang thang nhân thế,
nhận tiền thưởng và sự cưu mang của người đời. Xẩm thường hoạt động ở những nơi
có đông người tụ họp, bên cạnh một cái quán hàng, mái chợ, bến tàu, bến xe, bến
đò, ven sông hoặc những nơi có hội hè, đình đám… có khi, vài nhóm xẩm họp lại với
nhau. Trường hợp này xẩm có thêm nghệ sĩ, thêm nhạc cụ: tiêu, sáo, thanh la, hồ
v.v… có khi thêm cả đàn thập lục. Họ diễn tả hẳn cả một tích chuyện lớn và tập
trung vào nhiều đoạn lâm ly, làm xúc động lòng người. Có khi họ hát thâu đêm suốt
sáng. Hát xẩm là một loại hình nghệ thuật dân gian, phản ánh được hơi thở của cộng
đồng lao động, những biến cố lịch sử bi hùng, tâm tư nguyện vọng của quần
chúng. Nó góp phần đưa thêm vào nền văn hoá dân gian Việt nam một chút hương sắc
của hoa ngâu, hoa mộc.
CHUYỆN VỀ NHẠC HIẾU XƯA
Xưa kia (và cả bây giờ), những đám tang thường mời phường hiếu
đến giúp đỡ. Phường hiếu còn gọi là phường kèn hát, phường bát âm. Mọi người rất
coi trọng điều này, bảo: "Sống dầu đèn, chết kèn trống". Nhà nghèo
thì mời phường nhỏ, chỉ có kèn, nhị và trống cơm. Phường bát âm gồm đủ tám nhạc
cụ: hồ, nhị, hồ gáo, sáo, đàn tứ, trống cơm, tiu cảnh, kèn; kèn lại có kèn đại,
kèn pha. Mỗi nhạc công điều khiển một nhạc cụ. Có người điều khiển 2, 3 nhạc cụ.
Người chỉ huy tối cao là ông trùm phường, ông trùm phường đảm nhiệm kèn. Vì kèn
giữ vị trí "soái âm". Nhạc hiếu truyền thống của ta có 10 làn điệu
chính là: Lâm khốc, Nam Ai, Nam Xuân, Nam Thương, Ngũ Đối, Lưu Thuỷ, Con nhạn lạc
đàn, Điếu Quân, Xuân Nữ, Mã đáo vô nhân. Nhưng mỗi làn điệu lại có nhiều biến tấu
và những đoạn đệm, đoạn chuyển màu của nó. Do vậy mà trở nên có rất nhiều làn
điệu vô cùng phong phú, mang sắc thái truyền thống sâu sắc và có giá trị cao.
Chính những nét nhạc Xuân Nữ đã gợi ý để chúng ta có được những “Lỡ bước sang
ngang” của nhà thơ Nguyễn Bính, những " Cô gái Việt nam" của Hồ Dzếch.
Những năm 1975 - 1980, người viết những dòng này đã đưa những
nhà nghiên cứu âm nhạc của Hunggari, Bulgarie, Nga, Pháp đến thăm một vài phường
ở Bưởi, Sài Sơn Hà Bắc. Họ đều đánh giá rất cao nhạc hiếu Việt nam. Họ rất cảm
động khi được tiếp xúc với những ông trùm phường như ông Kha, ông Sinh, ông
Côn. Họ đã vái các ông. Làn điệu Lâm Khốc còn gọi là Lâm Khốc, Lấm là từ cổ, có
nghĩa là cũng khóc. Điệu Nam Ai buồn, bi thống. Nam Xuân đỡ buồn hơn. Ngũ Đối
và Lưu Thuỷ nhẹ nhàng, lăn tăn, vồ vập. Con nhạn lạc đàn miêu tả sự cô đơn, tan
tác. Điệu Quân tả cái chết bi hùng của một tướng quân chết trận. Xuân Nữ buồn
cho tuổi xuân của một thiếu nữ. Nó nhắc đến những giấc mộng ban đầu rất xa. làn
điệu này rất hay và rất đẹp. Mã đáo vô nhân mô tả sự bi thương, hùng tráng khi
con ngựa chiến trở về mà trên mình nó không có người… Xưa kia, ở nhiều nơi có
những phường hiếu do một số người tập hợp lại.
Họ mời thầy về, luyện tập với nhau trong những lúc nhàn rỗi.
Mỗi phường thường có một, hai chàng trẻ học nghề. Họ phải hầu hạ rượu, thuốc,
nước cho những người được gọi là quan viên của phường. Nhạc cụ do phường tự mua
sắm. Nhà có đám đến mời phường. Một nhóm người đi theo nhà đám, gọi là đi nhận
đám. Người chết nằm xuống được liệm đặt vào áo quan. Cả gia đình, các con,
cháu, họ hàng túc trực sẵn quanh áo quan. Lúc này, phường kèn cử lên đoạn Lâm
Khốc với sự hoà tấu náo nhiệt của tất cả các nhạc cụ. Nhưng tiếng kèn vẫn là chủ
đạo. Chính vào lúc này, nhà đám tiến hành phát tang… Tiếp theo, phường kèn tấu
những điệu Nam Ai, Nam Xuân, Lưu Thuỷ, Ngũ Đối v.v…
Phường kèn ngồi tập trung vào một hai chiếc chiếu bên cạnh
bàn thờ. Phía trong bàn thờ là áo quan người chết. Khi có đoàn nào hoặc người
nào đến phúng viếng, ban nhạc gõ mấy tiếng trống báo tin khách đến rồi cả ban
nhạc cứ những làn điệu: Con nhạn lạc đàn, Điếu quân, Mã đáo vô nhân hoặc Xuân Nữ
sao cho phù hợp phần nào với thân phận và sự nghiệp lớn hay nhỏ của người chết.
Trên đường đưa linh cữu người chết ra mộ, đám ma phải qua cái cổng làng. Lúc
này linh cữu phải khiêng hạ xuống thấp, và ban nhạc cử bài "con nhạn lạc
đàn" để người chết có lời cáo biệt. Ra đến mặt trước cổng làng, linh cữu
phải quay lại 180 độ để mặt người chết được nhìn cái cổng làng lần cuối. Lúc
này, ban nhạc rúc lên bài Điếu Quân hoặc Mã đáo vô nhân. Tiếng kèn nổi lên rất
hùng tráng, bi thương mà cũng tiêudao, sương khói.
Sau đó, trên đường ra đồng, ban nhạc cử những nét nhạc bồng bềnh,
thanh thản không buồn lắm mà tung tăng, hao hao cái vị "Đường trường tiễn
đưa” của chèo… Lúc hạ huyệt, phường kèn biểu diễn hầu hết cả mấy làn điệu chính
có biến tấu và xen kẽ vào nhau. Lúc thật buồn, lúc lại nhẹ nhàng như gió thoảng,
mây bay với những Kim Tiền, Lưu Thuỷ… Đến chiều tối, nhà đám cúng vong, khách đến
phúng viếng đã vãn, phương kèn dạo đi, dạo lại một số làn điệu để chuẩn bị cáo
từ nhà đám. Nhưng, lúc này lại là lúc sôi nổi. Một số người thân thích của người
chết mượn một người trong phường có giọng hay, khóc hộ mình. Những tiếng khóc
đó được cả phương đệm nhạc, nghe thật thấm thía, não ruột. Nhưng lại là tiếng
lòng. Cô em gái người chết làm ăn ở nơi xa, lận đận về chịu tang người anh. Cô
ta nhờ bác trong phường khóc hộ mình, bác Giáp của phường kể lể trong tiếng nhạc:
"Em có ngờ đâu, em định bụng về thăm làng… lại được tin nhắn… anh lạc đường
mệnh chung… tưởng đâu nhớ họ hàng… Lại thành ra chuyện… em về chịu tang…".
Tiếng nhị ngẩn ngơ vuốt theo: "Cò cò… cư… cư ư"
Người nhờ khóc hộ biếu phường một số tiền nhỏ, đặt vào chiếc
đĩa giữa chiếu. Việc làm này gọi là "thưởng". Rồi cứ thế, tiếp tục với
những đoạn khóc hộ như: Cha ơi! các anh các chị vuông tròn Đời con rách nát, mỏi
mòn cha không hay Hoặc: Bây giờ hồn thác không còn Thì thím trông cậy vào ai
bây giờ…? Lại như: Cây rầu rầu, cỏ rầu rầu Chú đi đê nhớ, để sầu cho ai? Hoặc:
Ai làm cho phấn xa hương Cho duyên lìa phấn, cho tôi mất chồng v.v… Trời đã về
khuya, phường kèn rúc lên hồi kèn "Tế vong" rồi xin ra về. Nhà đám
đưa chân phường ra ngoài ngõ, biếu phường một số tiền lót tay, nói lời cảm ơn,
biếu phường 1 chân giò, một đĩa xôi và một nải chuối. Tất cả những thứ này được
cậu bé đi theo học nghề cho vào tay nải.
Đến đây, tôi phải kể về một ông trùm phường kèn. Tên ông là
Kha, là con người phiêu bạt, đi theo phường kèn của cha từ năm còn 8 tuổi. Đến
năm 20 tuổi, ông đã là một cây kèn nổi tiếng. Ông có mặt trong hầu hết các đám
tang của cả vùng Bưởi, vùng Từ Liêm. Ông là người rất hiểu đời, thông cảm với
những cảnh đời khác nhau và rất lịch lãm. Sau đó ít lâu, người các tỉnh khác phải
mời ông về, dạy cho một vài miếng độc về nhạc hiếu. Gọi là những "miếng"
để đời. Tiếng kèn của ông đã trở nên vô địch. Đám nào mời được ông đến là một
điều vinh hạnh. Lúc này, người ta gọi ông là ông chân Kha. Tại sao vậy? Tại ông
có 9 vợ, ông đi đến đâu cũng có người xin tình nguyện làm vợ ông. Ông mỉm cười:
"Thì… duyên phận phải chiều ông đến thổi kèn ở làng nào thì ở lại với bà vợ
ở làng đó vài ngày. Sau đó, lại phiêu lưu đến làng khác. Cứ thế… đến lúc ông chừng
60 tuổi, ông thường sai các học trò của ông đi nhận đám. Còn ông, ông ở nhà để
dạy những người đến xin học kèn ở mức độ cao. Những năm 1957 - 1960, tôi được
biết một số nhạc công trong mấy đoàn nghệ thuật và ca nhạc Trung ương cũng như
địa phương đến học ông. Đến năm 1994, ông đã 80 tuổi. Nhưng ông còn tỉnh táo và
nhanh nhẹn. Hồi đó, bà dì tôi mất. Bà là người đàn bà khổ, tận tình giúp đỡ tất
cả mọi người trong họ và coi đó là hạnh phúc của mình. Bà không có chồng.
Tôi có đặc ân mời được chính ông dẫn phường đến “thổi”cho đám
ma của dì tôi. Suốt hai đêm liền, phường bát âm có tiếng kèn của ông chín Kha
đã làm cho cả khu xóm Ao Ngang của chúng tôi không một ai ngủ cả. Họ thích nghe
tiếng kèn của ông chín Kha… Giờ đây, ông đã là người thiên cổ. Ông để lại cho
cuộc đời 11 người con và cháu là những nhạc công tài hoa và nổi tiếng. Còn học
trò của ông thì đếm không xuể. Thiết nghĩ, nhạc hiếu của ta cũng là một mảng
quan trọng trong kho tàng âm nhạc Việt nam. Chúng tôi đã từng nghe và để ý đến
những nhạc đám, những musique, funébre, những funerailles của phương Tây và nhạc
hiếu của Trung Quốc. Thiết nghĩ, giới âm nhạc của nước ta cần phải chú ý hơn nữa
đến mảng nhạc hiếu. Nó cũng rất xứng đáng nếu không muốn nói nó có thể làm lung
lay giới âm nhạc quốc tế…
CHẦU Ả ĐÀO CUỐI NĂM
Đó là chuyện của Hà Nội những năm trước kia. Sau ngày tiễn
ông Táo lên chầu giời, nhiều nhà hát ở phố Khâm Thiên rộn ràng, nhộn nhịp hẳn
lên. Các nhà hát được gọi theo tiếng lóng là: Nhà sang, nhà phố, nhà phường. Loại
"Nhà sang" là mấy nhà hát sang trọng nhất, khách là những người có
"phương diện", các quan chức sắc, quan tham, quan phán, nhà báo, kẻ sỹ,
kẻ giang hồ cao cấp hoặc lữ thứ, khách có chữ nghĩa nhiều. Khách của "nhà
phố" là khách hang trung lưu. Còn "nhà phường" là nhà hát bình
dân gọi là khách tứ xứ, thập thành. Ở những nhà hát loại sang, các nàng ai nấy
đều ăn diện sang hơn hẳn mọi ngày. Những kiểu quần áo mới được đưa ra. Trang điểm
cũng rất kỹ. Có cả những cô em thuộc lớp "ca-valie" đăng xinh (gái nhảy
đầm) về giúp thêm việc trang điểm. Các nàng đón các ông anh, các bạn ra vào rầm
rập suốt ngày để hát một chầu tất niên. Bằng nhiều hình thức khác nhau. Các vị
khách đã tặng cho các cô em mà mình "say" hoặc có cảm tình những tăng
vật đắt tiền hoặc một số tiền đủ để các em “chu toàn" cho cả mùa xuân. Ở
góc này, người ta hát: Ai cầu phong, mà gió tự đâu sang Hay mải khách văn
chương tìm kết bạn… Tom tom tom - chát… Ở một góc khác, một khách một nàng ngồi
bên nhau trên ghế ngựa.
Chàng là thi sĩ, nắm lấy tay nàng, nhìn nàng đắm đuối và ngâm
lên: Ôi mắt xa xôi, mắt ly kỳ Ta trông thấy cả trời ta mơ ước Thấy bóng cả vầng
đông thuở trước Cả con đường sao sáng lúc ta đi Cả đường mây bao phủ lối ta về…
Người ta hát ở trên gác mấy câu trong bài "Tống biệt" sao mà buồn thế:
Lá đào rắc lối Thiên Thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh
Một phút trân ai Đá mòn rêu nhạt Cửa động Đầu non Đường lôi cũ… Ngàn năm ngơ
ngân bóng trăng chơi! Cô gái ngồi với chàng thi sĩ là một người đẹp đã lên bìa
của mấy số báo Tết ở Hà Nội. Có tiếng người khóc với nhau. Mọi người kháo nhau
về việc ông tham Trác đưa cho nhà hát một số tiền lớn để chuộc đào Uyển về làm
vợ. Nghe đâu ông ta đã tậu hẳn một ngôi nhà cho cô. Vài cô đào chuẩn bị về quê,
khách yêu các cô theo kiểu yêu lắm, yêu vừa hoặc yêu lang thang của họ cũng nhắn
điều chào gửi tới những người thân ở làng quê và gửi cho họ chút quà. Bữa hát tất
niên gồm tất cả chừng 6, 7 vị khách thân quen hay lui tới nhà hát nhất gọi là
khách Mạnh Thường Quân và tất cả các cô em cùng dự chung.Trước hết, bằng một bữa
ăn thật sang mà các cô đều trổ hết tài ba ra để tổ chức bữa tiệc, cô Tuyên
chuyên môn làm món yến, cô Lan món long tu, cô Đào món vây cá. Đó là những món
chính. Còn vài món phụ do các cô em khác phụ trách. Nghệ thuật làm các món ăn của
họ thật tuyệt vời, kiểu cách, cầu kỳ, đúng vị. Họ nấu ngon vào bậc nhất Hà Nội,
chẳng kém đầu bếp của những nhà hàng nổi tiếng như Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh. Những
món ăn thật ngon miệng và bày biện thật ngon mắt được bày đầy bàn.
Tuy vậy, mọi người đều chỉ nếm tí chút, nghĩa là ăn chơi bời.
Họ chú ý nhiều đến việc tâm sự với nhau, nhìn nhau và hay nhau. Các món tráng
miệng cũng đặc biệt. Họ bổ cam tách múi cũng nghệ thuật. Cách mời ăn cũng lịch
sự, trân trọng, yêu quí và thân tình Một vài ông bạn tôi cho rằng các tiếp viên
và các đầu bếp nữ ở các khách sạn ngày nay còn thua xa chị em Khâm Thiên ngày
xưa. Sau bữa tiệc, ăn tráng miệng, rồi uống trà ướp hương nhài xong vào chầu
hát tất niên… Chầu hát này rất đặc biệt, hai ba cô em vào loại có thể làm cho
ai khó tính nhất cũng phải "nhào" và người đứng đắn nhất cũng phải lạc
đường, cỡ như Đàm Mộng Hoàn trước đây và cụ Quách Thị Hồ bây giờ, thay nhau lên
hát vài khổ tâm đắc nhất. Kép đàn phải đủ ngón, vừa bay bổng, vừa hào hoa. Người
cầm chầu là người được phong là "Tư mã" mới được mời ra cầm roi chầu
tất niên. Đến ngày mồng một Tết, nhà hát có cắm cành đào do chính một cô em có
con mắt tinh đời lên tận Nhật Tân mua về. Chủ nhà và các cô em ăn mặc lộng lẫy,
ra tận cửa đón vị khách quý đến “xông nhà" lấy may. Khi đến xông nhà,
khách mang theo vài anh em, chủ nhà và các em mời khách ngồi uống trà thiết
quan âm. Họ chúc nhau những lời tốt đẹp. Cô em đặt lên trên bàn một chiếc sáp
sơn son thếp vàng có những ô nhỏ đựng các loại mứt ngũ vị. Khách đứng dậy đặt
lên giữa chiếc tráp một phong bì hồng điều đựng số tiền hào phóng chừng cả
tháng lương của một công chức loại trung bình. Khách còn phong bao cho các cô
em mỗi người một số tiền có thể duy trì sinh hoạt trong tháng. Những người giúp
việc, phu xe, bà bếp cũng được khách mở hàng.
Khi khách đến xông nhà ra về là lúc nhà hát mở cửa đón các
quan khách vào xuân.
Khi đó tiếng pháo mới nổ.
NGHỆ THUẬT HÁT Ả ĐÀO
Chừng những năm 1940 - 1941, ở Khâm Thiên có nhiều nhà hát ả
đào. Có hạng sang, thật sang, hạng giữa và bình dân… Lúc này, ở các nơi khác
như Vặn Thái, Hai mươi bốn gian hoặc Ngã Tư Sở cũng có đủ mấy hạng như vậy,
nhưng thưa thớt hơn nhiều mà cũng không có hạng thật sang dành cho các quan lớn
từ tri phủ trở lên, các quan chức cao cấp vào làng Tây hoặc những tay giàu có
thích chơi ngông. Loại sang thường dành cho những quan nhỏm các ông tham, ông
phán, một số văn nghệ sĩ có gia đình buôn bán hoặc được nhờ cậy vào cha mẹ, anh
em… Loại sang ở Khâm Thiên phải kể đến nhà hát của bà đốc Sao và của danh ca
Đàm Mộng Hoàn. (Nữ ca sĩ này được các hãng thu đĩa hát Pathé, Asia, Columbia
tranh nhau mời thu đĩa hát nên rất nổi tiếng về ngâm thơ, ca trù… Những đĩa hát
của cô đã được phát hành khắp Việt nam, tại Hồng Kông và tại Pháp). Loại bình
dân gồm đủ mọi thành phần khách thông tục hơn, nhưng cũng đậm nét cuộc đời hơn…
Các nhà hát thường theo yêu cầu của khách mà tổ chức những chầu hát và chầu rượu.
Có khi chầu hát kéo theo chầu rượu hoặc ngược lại.
Nhà hát thường có hai tầng. Tầng dưới dành cho hạng khách
trung và bình dân. Tầng trên dành cho khách sang, được bố trí như ở những gia
đình quan sang, quyền quý. Thường có một hai bức bình phong ngăn cách từng khoảnh.
Ở chính giữa là một giá lộ bộ sáng quắc. Sập gụ, tủ chè đều khảm những chữ:
phú, quý, thọ, khang ninh; những hình tượng con dơi và đồng tiền. Một bàn thờ
có chiếc đỉnh đồng lớn, một lọ độc bình cổ và một bát hương lúc nào cũng có
khói bay lên làm mây gió để giữ cái màu dĩ vãng, toả mùi thơm ngào ngạt và làm
nên một bầu không khí mơ màng sương phủ. Trên tường cũng treo một vài bức tranh
cổ và một bút thơ pháp với những nét chữ bay bổng để gây cảm hứng mạnh với những
ai có chút lưu luyến đến chữ nghĩa và nghệ thuật.
Hôm ấy, nhà hát nhận được phong thư báo sẽ có 4 vị khách quý
đến mở chầu rượu vui vào lúc 8 giờ tối… Khách đến trước giờ chừng 15 phút. Cậu
Phán Ngôn ăn mặc sang trọng nhất. Cô Xuyến ra đỡ mũ, áo ngoài cho khách và vắt
lên mắc áo. Các vị khách ngồi xuống mấy chiếc ghế gụ có mặt đá. Gian phòng vang
lên: Tom tom tom, chát… Tưng tưng, tưng… Tiếng phách chảy tung tăng như nước suối.
Cô Huệ hát lên: Ai cầu Phong, mà gió tự đâu sang! Hay mải khách văn chương… tìm
kết bạn Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán Cánh chim bằng, chín vạn những chờ
mong Nên chăng gió cũng chiều lòng… Chỉ là vài câu thôi, nhưng ca nhi, thầy đàn
và người đánh trống chầu đều là những tay cự phách nên hay lắm. Nó ngân nga, trầm
bổng, da diết. Nó mang theo chất thơ Đường, những đám mây lang thang xa xôi, ảo
ảnh… Cậu Ngôn làm duyên với ông Bàn một bao thuốc Craven A. Ông đã khước từ
canh hát ở nhà đầu phố để đến đánh đàn cho người tri kỷ. Đào Huệ được biếu chiếc
khăn san Bombay. Mấy cô đào khác được mỗi người một tá khăn mặt mùi soa. Các cô
còn có thể được nhận một chút tiền biếu. Nhưng nhận vào lúc không ai biết đến.
Mọi người vào cuộc rượu đầy hân hoan, phấn khởi. Ông tham Trác ngâm mấy câu thơ
say của Vũ Hoàng Chương rồi nâng chén chúc mừng sự gặp mặt, chúc mừng nhà hát.
Các chị em đã thuộc tính từng người. Cậu Ngôn và ông Phán toà sứ được mời hai
ly rượu Tây.
Còn hai vị khác dùng hai ly rượu Mai Quế Lộ… Các nàng hát ngồi
bên cạnh các quan khách, rót rượu rất khéo rồi với hai bàn tay ngà, nhẹ nhàng
đưa lên miệng khách: "Em dâng chàng… rượu trường sinh…". Uống xong, họ
thưởng thức một vài miếng ngon trong bát bóng như miếng bóng thủ, thịt, tôm, rấm
và chút nước dùng. Và cứ thế, vừa uống tràn vừa nếm nạp. Những món nhấm nháp
này do các cô em lấy từ chiếc phạng sứ Giang Tây ra rồi để vào bát con, đưa đến
cho khách. Các cô gái mời, giục khách ăn kẻo nguội. Họ phe phẩy cái quạt, quạt
cho khách. Họ giới thiệu khéo cho khách để cho khách biết những món mình đang
ăn được chế tạo bởi những bàn tay thân yêu. Những bàn tay ấy cũng nhắc nhở đến
những bàn tay của người em gái, chị gái hoặc chính người mẹ thương yêu của
khách.
- Nào… tất cả… ta cạn chén. Uống cho kỳ say…
Họ đứng lên, cụng ly rồi ngồi xuống cũng cụng ly. Họ bàn với
nhau về những chuyện văn, thơ. Khen người này, chê người kia. Tâm đắc với những
áng văn, thơ hay. Họ nói về Lý Thái Bạch, Tản Đà, Đỗ Phủ v.v… Họ nói đến những
năm 1937 - 1938 là những năm được gọi là Hà Nội vàng son. Họ bàn lây cả sang hiệu
may Tây Chu Mậu ở Hàng Trống, hiệu may áo dài Cát Tường ở ngã năm Bà Triệu và
không quên nhắc đến cô em vợ của hoạ sĩ Cát Tường là cô Nga - Cát Tường. Rượu
vào thêm, họ lại bàn sang sắc đẹp của cô Síu, cô Síu là em gái nhà tiểu thuyết
kiếm hiệp Lý Ngọc Hưng. Cô Síu đã là hoa khôi Hà Thành và nổi danh trong những
chợ phiên Ki mét (Kermesse)…
Ông Phán toà sứ đọc một đoạn thơ của Huyền Kiêu viết về mấy vần
thơ say của nhà thơ người Pháp là Paul Verlaine. Mọi người tán thưởng ông bằng
cách mỗi người uống một ly rượu. Trong 4 người khách tối nay, có một người tên
là Quy Anh cao dong dỏng, lịch thiệp, đẹp trai, là con nhà giàu, mọi người thúc
giục mãi mà anh chưa lấy vợ Anh đã đỗ tú tài phần một rồi bỏ học, làm công việc
kinh doanh. Anh rất rộng rãi và thích làm bạn với một số các nhà văn, nghệ sĩ.
Anh rất say mê hát ả đào. Hôm nay, anh rất ít nói. Người ngồi sát cạnh anh là
đào Ngân. Cô cũng không nói gì mà chỉ trông nom, săn sóc cho anh. Hai người
luôn nhìn vào mắt nhau. Thỉnh thoảng họ lại cười với anh đắm đuối: “Đắm say rồi,
Người ơi" như người quan họ bảo vậy. Đào Ngân hồn hậu và nghiêm trang,
tươi tắn mà mơ màng. Nàng hát được rất nhiều loại: hát ru, hát hãm, hát ngâm ngồi.
Qua bài " 36 thứ giọng" cô hát cả Bồng Mạc, Xa Mạc v.v… Lối nào cô
cũng hát được rất hay, bay bổng, hàng huê, đầy cảm hứng… Đêm hôm nay, nàng
không phải hát.
Bà chủ ăn mặc sang trọng và cầu kỳ, ra với mọi người. Bà chắp
tay, nói: "Chúng ta có chầu rượu sau này mừng cho gặp nhau, mừng cho em
Ngân về với cậu Quỳ. Mọi việc đã được dàn xếp tinh tươm. Để em Ngân đi… tôi thực
tình đứt cả ruột. Con người này được cả mọi mặt. Nhưng thôi. Phải gạt nước mắt
mà chia tay. Có gặp mặt, có chia tay… Tôi nể cậu Quỳ. Cậu đối với tôi rất đẹp…
Vả lại, cũng la duyên phận phù sinh…". Cậu Quỳ đeo vào cổ đào Ngân một thiếc
kiềng vàng rồi ngắm nghía. Lúc này những giọng hát cất lên, tiếng đàn phách, tiếng
trống chầu vang lên. Bầu không khí trở nên xôn xao. Giai nhân nản trí đắc Chót
yêu hoa… i…i nên dan díu với tình…" Mọi người lại uống rượu, mời nhau… Qua
tiếng hát, qua những chén rượu, những lời trao đổi nhỏ nhẹ với nhau, vừa có
chút vui vẻ tiễn đào Ngân đi theo chồng, vừa có vị ngậm ngùi kẻ ở người lại đi,
vừa có sự suy nghĩ về những số phận. Biết đâu đào Ngân lại sẽ bước vào quãng đời
“mưa gió” nào đó… Xưa nay, số phận mỏng manh của các ca nhi có mấy khi được
vuông tròn? Mấy vị quan khách say rượu, nằm cả ra sập và đi văng cùng các cô
đào ngồi cạnh chăm sóc. Cậu Quỳ dắt tay đào Ngân, gật đầu cúi chào mọi người ra
khỏi cửa, đưa nàng về một góc phòng riêng ở một làng vùng Bưởi. Lúc đầu, người
ta vẫn nghi ngờ về mối tình của cậu Quỳ với đào Ngân. Ai lại, một trai tân đẹp
nõn, tài hoa như thế lại đi lấy vợ ả đào bao giờ. Nhưng khác hẳn với mọi lời dị
nghị, xì xào, họ ăn ở với nhau thật đằm thắm và có với nhau 4 mặt con. Đến lúc
mấy người con của họ đã thành gia thất rồi mà lúc nào họ cũng quấn quít bên
nhau. Đi đâu cũng đi hai người. Mấy người trong làng trông thấy, họ liền nháy
nhau: "Họ Tây quá đấy…"
Năm 1997, vào một buổi sáng mùa thu, do một sự giới thiệu nào
đó, cô ca sĩ L.A đến nhờ tôi giải thích cho một số điều về hát quan họ và hát
ca trù…Cô L.A cũng trên 40 tuổi rồi nhưng vẫn còn sắc sảo lắm. Và cô giống hệt
như đào Ngân ngày xưa mà tôi biết. Trong khi giải thích cho cô, tôi nhắc nhiều
đến làng Yên Thái ở Bưởi, cô liền hỏi:
- Bác biết rõ làng Yên Thái thế?
- Vì đó là làng tôi mà.
- Thế thì cháu hân hạnh được là đồng hương với bác… Nhà cháu ở
cuối làng. Nhưng đó là ngày xưa. Bây giờ, chừng một tháng cháu mới về làng một
lần. Cháu có người anh chơi đàn dân tộc cho đoàn X, hai cháu gái là ca sĩ trong
hai đoàn nghệ thuật. Cháu là em út, hát đủ loại nào ca trù, nào quan họ và cả
nhạc mới.
- Cháu là… Cháu là con của bố Quỳ và mẹ Ngân cháu. Bố mẹ cháu
đã mất cả rồi…
- À tôi biết… Tôi biết… ông Quỳ… bà Ngân.
Trước đây, tôi không thể nào tả hết được cái đẹp trong những
tiếng hát xuất thần của đào Ngân. Tôi cứ tiếc mãi sợ chúng mất đi. Nhưng không,
chúng được những người con lớp sau đón nhận. Chẳng hạn như L.A và rất nhiều người
yêu mến chúng, làm tươi trẻ lại những tinh hoa tươi đẹp của chúng. Những tiếng
hát hay truyền từ đời xưa, đã được gieo vào cuộc đời, vào những thế hệ thính giả,
diễn viên nối tiếp để họ nhận lấy và tiếp nối mong mỏi giữ lại nét nghệ thuật độc
đáo và đặc sắc của văn hoá Việt nam.
SỐNG CHẾT VỚI NGHỀ DIỄN
Ông Sỹ Tiến là một diễn viên kiêm thầy tuồng đã có nhiều vai
diễn làm cho mọi người còn nhớ mãi. Với những vai như Quan Công, Chu Du, An Lộc
Sơn thì cho đến bây giờ, chưa ai sánh được với ông. Là một nhà soạn vở, nghiên
cứu sân khấu, ông đã soạn chừng hơn 40 vở cải lương cho diễn khắp trong nước và
nước ngoài. Trong đó có chừng 10 vở rất nổi tiếng và có sức sống lâu dài. Ông
dâng hiến cho sự nghiệp sân khấu từ năm lên 9 tuổi cho đến khi nhắm mắt. Ông đã
đi diễn ở nhiều nơi, khắp Trung, Nam, Bắc. Trong làng cải lương, ông đã có một
vị trí không gì thay thế được trong lòng khán giả và đồng nghiệp. Người ta gọi
ông làcon chim đầu đàn hoặc hoàng tử của cải lương. Dạo đó, ông nằm trên giường
bệnh đã gần một năm trời. Ông đã yếu rồi. Đi đâu cũng phải có người dìu, ăn phải
có người bón. Trí nhớ giảm sút nhiều. Chị Kim Chung vừa mới đi diễn ở Pháp về,
đến chào ông và chuyển lời cám ơn của anh em kiều bào bên Pháp tới ông. Họ đã
diễn hai vở cải lương do ông viết là Mạc Tuyết Lan và Huyền Trân công chúa. Người
xem chen nhau đến quá đông. Cả hai vở đều được hoan nghênh nhiệt hệt… ông đứng
dậy, cố huy động tất cả mọi khả năng còn lại, cất tiếng hát. Ông hát liền mấy
đoạn hay nhất trong vở Mạc Tuyết Lan làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên và bất
ngờ. Vì sao ông có thể nhớ và hát hay đến như thế Trên gò má con người phiêu bạt
ấy giàn giụa nước mắt. Trong ông run rẩy một tình yêu đằm thắm và nỗi khao khát
không nguôi. Mọi người trong gia đình khuyên ông nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Ông còn
đọc thêm một vài lời đối thoại giữa Phan Tất Chánh và "Trần Diệu Thường (vở
Phan Trần) rồi mới chịu ngồi xuống. Ngày hôm sau, ông phải đi bệnh viện. Ông bị
hôn mê liền trong mấy ngày rồi qua đời ngày 17 - 1 - 1982. Còn phải nói thêm: Đời
ông đã no đủ mùi đói rách. Nghệ nhân Tư Liên là ông trùm một gánh chèo của chiếu
chèo Hưng Yên. Ông đã tung hoành nhiều năm khắp mọi chiếu chèo quanh vùng châu
thổ sông Hồng. Bất cứ một gánh chèo nào cũng năn ai ông đến tham gia, giúp đỡ.
Những người trong làng chèo không ai là không biết ông. Đến lúc tuổi đã cao, ông
vẫn diễn và còn truyền nghề cho các lớp trẻ không biết mệt mỏi. Đến khi không
thể diễn được nữa, ông cũng không chịu vắng mặt trong các đêm diễn. Những lúc
này, ông ngồi sau cánh gà để được đắm mình vào cái không khí tưng bừng của sân
khấu, để nghe hát, xem diễn. Những cái đó là thức ăn của ông. Khi vở chèo kết
thúc, ông mới lững thững, chống gậy về nhà. Một lần, sau một đêm diễn hay, mọi
người ra về được một lúc khá lâu. Sân khấu chẳng còn một ai, gia đình không thấy
ông trở về Mọi người nhớn nhác đi tìm thì thấy ông nằm trên sàn, sau cánh gà.
Ông từ giã cõi đời nhẹ nhàng như ngủ trong âm vang và màu sắc của đêm chèo.
Hoàng Anh là nghệ sĩ cải lương, chủ soái của đoàn cải lương Phương Đôngquang
cho đoàn từ những năm 1956 - 1983. Nhân dân Hải Phòng và các vùng lân cận đều mến
mộ ông, thích nghe chuyện về người diễn viên rất có duyên này. Có những người
chỉ cần vào rạp nghe ông đổ một vài câu vọng cổ là mãn nguyện rồi. Hoàng Anh đã
đóng góp nhiều vai có tâm trạng khác nhau mà đều thành công cả, đều để lại dấu ấn
trong người xem với tình cảm hàm súc, sinh động, trữ tình. Ông đã rất thành
công trong nhân vật cụ Hồng (Lò lửa diệt Tần), Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), ông
già họ Trần (Hội sóng Bạch Đằng), ông Nhân (Tiền và Nghĩa)… Danh sách này còn
kéo dài. Ông là một trong những nghệ sĩ hoàn hảo về ca cũng như về diễn xuất.
Người ta gọi ông là Huỳnh Thái của Hải Phòng.
Ông mất vào tháng 3 năm 1983. Nằm trong linh cữu, ông được
hoá trang, mang trang phục nguyên như trong vai ông Nhân trong vở " Tiền
và Nghĩa" là nhân vật ông thường đóng và được hoan nghênh nhiều với hàng
trăm xuất diễn liên tục. Tang lễ của ông được tổ chức ngay trong rạp. Người đến
đông, kín chặt. Phía ngoài còn có chừng 800 - 900 người. Quần chúng, khán giả từ
các nơi đổ về tiễn ông đều rưng rưng nước mắt, mang đến viếng ông là cả một rừng
hoa. Các vị chức sắc của thành phố cũng đến tiễn ông. Một số lãnh đạo cao cấp
ghé vai khiêng linh cữu của ông ra xe tang. Nhưng, một số quần chúng nhiệt tình
ào đến, xô vào, yêu cầu để họ cũng được tham gia vào việc khiêng linh cữu của
người diễn viên mà họ yêu mến. Linh cữu được đi thêm một đoạn đường gần 200 mét
nữa rồi mới ra xe tang. Dòng người tiễn đưa ông dài hết phố Phan Bội Châu. Nghệ
nhân Mầm là trùm gánh hát chèo Nguyên Xá (Thái Bình). Ông là diễn viên chèo nổi
tiếng khắp các tỉnh, kể cả Hà Nội. Ông diễn chèo và chơi ác loại nhạc cụ tư khi
còn rất nhỏ tuổi. Đến khi có tuổi, ông vân cố gắng có mặt trong cái đêm diễn.
Ông sống trong không khí chèo cứ như cá trong nước. Một hôm, ông thấy trong người
khác lắm. Ông trịnh trọng lấy hòm quần áo ra, đặt giữa nhà. Ông mặc quần trắng,
áo đỏ, thắt lưng xanh, soi gương, vẽ râu rồi chít khăn lên đầu… ông nói lớn:
"Này bà, đánh trống đề tôi ra vai ông Mãng"… Bà vợ ngạc nhiên đến hốt
hoảng. Ông lại bảo: "Thì tôi bảo cứ gióng trống lên mà"… Thế là: tơ…
rung… tung… tung… tung tung… tung a… ông Mầm chống gậy ra, ngâm: Nhà nhiều khách
đến thường đem lại.:. Lộc trời luôn vật đến tay ta… Mấy cõi kiều già… Ông ngừng
một lát rồi hát "! Lão say": Mấy cõi… i… kiều già Cuốn sơn làm mấy
cõi i a… kiều già Điền xiên, sơn dã…t a là chủ nhân… Kỹ thuật hát của ông thật
trọn vẹn: ngừng ngắt, lên, xuống, ngâm… đều tuyệt cả. Trạng thái say rượu trong
cuộc sống không phải là đẹp đẽ gì. Nhưng nghệ nhân Mầm biểu diễn đã mỹ hoá. Nghệ
thuật vừa sâu sắc vừa mở ra cho lòng người một trạng thái say sưa, vẫy gọi mỹ cảm
trong khán giả. Vai lão say đã trình bày được cái tinh kèm theo một chút thô,
cái đẹp kèm theo một chút không đẹp lắm của cuộc đời… Đã thấm mệt, ông lại nói
đến: Và cha đây có mình con là gái Mà mẹ cha thì môi tuổi môi già Mong cho con
có nụ, có hoa… Nhưng đến đây, ông bỗng thở gấp, khuỵ xuống, nằm ra chiếu. Ông
ra đi mãi mãi. Cả gánh chèo hát lên mấy làn điệu chèo âm nhạc nổi lên sôi nổi
và rầu rĩ rồi mới chuẩn bị việc tang ma theo di chúc của ông.
Lý Khắc Cung
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét