Thứ Hai, 20 tháng 1, 2025

Hà Nội - Văn hóa và phong tục 2

Hà Nội - Văn hóa và phong tục 2

Chương II (B)

VĂN HÓA TẮM

Tắm cũng thiết yếu như ăn, uống, ngủ, yêu, vui chơi v.v… Từ thượng cổ đến giờ, tắm được coi như sự săn sóc, vệ sinh thân thể con người, làm cho các giác quan được tỉnh táo, hài hòa. Tắm còn có nghĩa làm cho thân thể và tâm hồn trong sạch, như được sống và tươi tốt trở lại. Do đó, tắm lại có nghĩa thiêng liêng. Tắm thỏa mãn sự thư giãn, sự trở về cội nguồn hoan lạc, yên ổn, âu yếm, vuốt ve… Tắm thầm nhắc đến sự lặn, ngụp và xua đẩy những cặn bã của sự mệt nhọc. Trong Truyện Kiều, Thúc Sinh trở về quê sau một chặng đường gió bụi. Hoạn Thư đã chuẩn bị cho chồng "Tẩy trần vui chén thong dong" và một bữa tắm "tẩy Trần". Nàng nghĩ thầm trong bụng: "Thứ nhất e kẻ ngà ngà, thứ nhì e kẻ đường xa mới về”. Trước ngày cưới, cô dâu và chú rể cũng tắm cầu kỳ với nước có mùi thơm của hoa mùi hoặc hương nhu thơm mát và thánh thiện.

Giáp Tết, mọi người tắm "tất niên" để đón năm mới đầy thanh xuân và phồn thịnh. Cũng trong truyện Kiều, còn có những dòng: "Buồng the phải buổi thong dong Thang lan rủ bước, trướng hồng tẩm hoa Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên…" Cụ Nguyễn Du đã tả cô Kiều tắm với tấm lòng nâng niu và ca ngợi cái cơ thể không có mảnh vải nào của cô Kiều với cái đẹp tuyệt đích. Lịch sử và văn hóa Việt Nam còn ghi lại những giờ phút tắm mát của Tiên Dung công chúa dẫn đến cuộc gặp gỡ huyền thoại mà dữ dội với Chữ Đồng Tử. Ở các đình, chùa, trước ngày lễ và tổ chức đám rước, người ta lấy nước giữa dòng sông về tắm cho tượng của Phật và các thần thánh. Nếu là nữ thần thì sẽ do chị em phụ nữ đảm nhiệm việc tắm. Lẽ dĩ nhiên nước tắm phải có mùi thơm thực vật và xạ hương. Trước khi lên đàn Nam Giao tế lễ trời đất, vua và các quan cũng phải tắm rửa sạch sẽ. Ca dao Việt Nam nhấn mạnh: "Muốn tắm mát lên ngọn sông đào". Người ta lại nói: "Ăn no, tắm mát, rủ nhau đi nằm”. Đó là cái mơ ước bình dị mà sâu xa chúng ta ai chẳng qua cái đận 9-10 tuổi cởi truồng tắm trong mưa. Người ta có thể tắm ở khắp nơi: sông, suối, ao, hồ, giếng… ở các nơi miền trung du, cách xa sông, người ta thường tắm ở giếng. Những năm 1949 -1950, bộ đội đóng quân ở các vùng Phú Hộ, Vũ Yến, Lạn Dương rất ngạc nhiên về phong cách tắm ở đây. Anh bộ đội tắm ở giếng. Anh ta được thành giếng cao chừng 60 cm che chắn. Ngay lúc đó, ở thành giếng bên kia có cô gái cũng tắm, cúi lom khom, giơ tay sang phía anh bộ đội: “Cho em xin ít xà phòng". Anh bộ đội bối rối, liền nói: "Vâng. Tôi để xà phòng ở đây, chị cứ dùng": Anh liền vội vàng cầm quần áo khô, trở về đơn vị với cái quần đùi ướt sũng. Cô gái vui, hồn nhiên, gọi các cô khác ra cùng tắm. Họ cười ầm lên, múc nước té nhau.

Ở các nơi miền núi, phong cảnh thật đẹp: mây, núi, cây răng các cô gái Thái tắm ở suối rất tự nhiên. Cô mặc chiếc váy dài đen bóng, đi ra suối. Nước đến đâu, váy được vén đến đấy. Ra đến giữa suối, váy được vén từ từ lên tận đầu. Cô thỏa chí vẫy vùng với làn nước. Rồi trong quá trình lên bờ, chiếc váy lại được kéo xuống. Lên đến bờ suối thì chiếc váy đã được buông xuống tận bàn chân. Cả quá trình tắm là một màn múa. Cô đã biểu diễn màn múa một bông hoa lúc tỏa ra, lúc khép lại. Cùng với cái thân thể là kiệt tác của cô, màn múa như đã tạo ra một vẻ đẹp nín thở. Ở những chỗ ít người qua lại, các cô gái Thái không tắm như thế. Họ cởi phăng tất cả ra, vắt váy, áo lên cành cây bên suối, rồi trần truồng, nhảy ào xuống tắm, nô đùa với nhau. Cảnh này gọi là cảnh "tắm tiên".

Trên đời có vô vàn kiểu tắm. Người ở cao nguyên Tây Tạng coi việc tắm là điều linh thiêng. Họ chọn ngày, giờ tất lành, rủ nhau đi tắm. Đặc biệt là từ ngày 6 đến 12 tháng bảy lịch Tây Tạng, mọi người làm lễ tắm. Nam, phụ, lão, ấu cùng tắm chung với nhau ở những khúc sông, khúc suối. Với họ, tắm là tái sinh để đón nhận những điều tốt lành mới. Họ đều không mặc quần áo gì cả. Người ta cũng chẳng rụt rè gì mà ngắm nhìn những công trình kỳ diệu của tạo hoá phơi bày la liệt. Như thể nhìn ngắm lá, cây, hoa cỏ vậy. Họ tin rằng sau khi tắm, những cô gái không xinh cũng trở nên nhan sắc. Người ấn Độ cảm thấy rất hạnh phúc khi được tắm nước sông Hằng lúc mặt trời mới lên, đó đúng là giờ phút linh thiêng. Tắm xong họ lên bờ, múa hát như điên dại rồi lại xuống tắm. Cứ như vậy nhiều lần.

Ở Nhật Bản có nhiều nhà tắm công cộng. Trước đây, cả nam lẫn nữ cùng tắm chung. Nhà tắm công cộng ở Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng thế giới từ mấy thể kỷ nay. Nhưng buồng tắm sang trọng có các cô gái phục vụ rất ân cần. Nhưng rất đắt tiền vì những buồng tắm kiểu này cũng là những nơi ăn chơi rất mực mà cũng phong tình rất mực. Trung Quốc còn giữ lại được di chỉ các khuôn viên những bể tắm phù hoa của Dương Quí Phi, Đường Minh Hoàng và bãi tắm của Tây Thi. Người Trung Quốc gọi các cô gái đang tắm là những bông hoa đăm nước: "tẩm hoa". Xưa nay, các nhà thơ, hoạ sĩ nổi tiếng trên đời đều trân trọng đề tài về những cảnh tắm và đã có nhiều bài thơ cũng như những bức tranh bất diệt về tắm.

Có những kiểu tắm như tắm rượu, tắm sữa, tắm dầu, tắm nước dừa, tắm sữa dê có xạ hương, tắm bia, tắm nước trà, tắm trong bồn tắm băng vàng, tắm hơi v.v… Các cô dâu Italia thường đi tắm ở những đoạn suối mà ngày xưa các vị thần đã tắm. Khi ra về, cô đinh ninh là mình không phải là người trần thế nữa, rồi mới về nhà tiếp chú rể. Khánh du lịch nước ngoài đến Việt nam thường ao ước được đến tắm tại những khúc suối huyền thoại ở Mộc Châu, Sơn ra…

VĂN HOÁ THUYỀN

Chiếc thuyền là linh hồn muôn thuở của sông nước, cho nên, con thuyền gắn bó khăng khít với văn hoá của cộng đồng. Người được gọi là "sông nước, đò giang đã từng" là con người từng trải, xuôi ngược. Ở nước ta, nơi nào cũng có bóng dáng những con thuyền: thuyền Nghệ An, thuyền đuôi én Tây Bắc, thuyền miền chiêm trũng, thuyền tam bản, thuyền sông Hương thuyền chùa Hương, ghe trên sông nước Cửu Long, thuyền buồm Hạ Long, thuyền mành, thuyền thúng, thuyền độc mộc sông Đà, thuyền Vác, thuyền Đinh, thuyền phiến…

Thời đánh Mỹ, có con đò của mẹ Suốt. Đò với thuyền là một, có điều chúng khác nhau về kích thước, cách bố trí, cấu tạo và hoàn cảnh mà thôi. Hình ảnh con thuyền rất đẹp và nên thơ, bay bổng. Ta thử tưởng tượng xem, nếu trên mặt Hồ Tây mênh mông mà không có mấy con thuyền thấp thoáng thì cảnh đẹp cũng bị kém đi. Có những ngày mưa, nhà thuyền Hồ Tây nghỉ Những chiến thuyền bị buộc vào cột, sóng đánh bồng bềnh, xích kêu loảng xoảng, gợi nhớ đến cái cảnh: “Thuyền buộc sông mưa, ngựa dừng trang khuyết" trong thơ cổ. Tuổi ấu thơ, các em bé thả thuyền giấy xanh đỏ để rồi những con thuyền thần kỳ ấy sống trong tâm tưởng cái em cho đến khi già.

Thuyền chùa Hương đưa khách vào Thiên Trù, hoa gạo trên cây rơi xuống làm cho con thuyền và cảnh sông nước chùa Hương cũng đẹp hơn lên. Thuyền trong thơ Nguyễn Công Trứ được tả: Lênh đênh một chiếc thuyền nan. Một cô đào hát, một quan đại thần. Con thuyền chăm chỉ: “Thuyền đi xuân sớm, thu chiều. Nắng trang nghiêm hạ, mưa tiều tuỵ đông”… Người Nghệ Tĩnh hát rằng: "Hoa đến kỳ thì hoa phải nở, Thuyền đầy người thì thuyền phải sang sông, Bắt được duyên thì em phải lấy chồng"… Con thuyền là thân phận: "Thân em như chiếc bách giữa dòng". Rồi: "Đời em, sông cái, chiếc thuyền nan". Người con gái đi lấy chồng trong thơ Nguyễn Bính đã dặn cô em gái:

"Chị giờ sống cũng như không.

Coi như chị đã qua sông đắm đò!"

Trong Truyện Kiều có viết:

"Thuyền tình vừa ghé tới nơi

Thì đà trâm gãy, bình rơi bao giờ!"

Nghĩ cho cùng, mỗi con người là một chiếc thuyền tình. Con thuyền tâm sự: "Bén hơi chỉ một chuyến đò Anh xẩm hát", "Lời phân ly em chưa cạn, mà con thuyền nó đã quay đi”. Có người lại nói: "Em như chiếc lá ngược xuôi giữa dòng". Cô gái trách chàng tai: "Có lần anh muốn sang sông. Anh ưng anh để con đò đi mất". Và cứ chiều chiều, anh lại hát khúc suông hời. Nhưng chính người con gái lại tự cho mình là chiếc thuyền bị lật giữa trường giang dông bão.

Con thuyền gắn bó với sự phân ly, nhớ nhung. Trong sách Quốc văn giáo khoa thư lớp dự bị những năm 1938-1939 có tả: "Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy với minh hoạ một người trên bờ, kẻ ở dưới thuyền đứng nhìn nhau. Cũng có cảnh như người lính thú đời xưa từ biệt vợ: “Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”. Nhà thơ nặng tình: "Em tiễn chân anh đến tận thuyền”. Lại nữa: "Người ở bên sông, đứng đợi đò". Non khóc mưa xuân nước đợi thuyền. Thuyền hoa, son phấn đợi…" Nữ sĩ Hồ Xuân Hương viết về tâm sự của chiếc thuyền: Chiếc bách buồn về phận nổi nênh Giữa dòng nước cuộn hoá lênh đênh Lưng khoang tình nghĩa giường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. Con thuyền cũng vô cùng anh dũng. Năm 1952, một số chiến sĩ cách mạng Việt nam bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam ở nhà tù Côn Đảo đã bí mật đan thuyền bằng nứa và trám thuyền bằng nhựa cây để trốn khỏi Côn Đảo về với phong trào cứu nước. Chẳng may, sóng gió lớn thuyền lại không đạt yêu cầu kỹ thuật nên đã bị đắm. Họ đã hy sinh. Mồ của họ là biển cả.

Những năm chống Mỹ, nổi lên hình ảnh bà mẹ Suốt lái đò chở bộ đội và dân quân qua sông Nhật Lệ ngày đêm, coi bom đạn của giặc như những trận mưa mà thôi. Để phục vụ chiến dịch, những ghe, thuyền miền đồng bằng sông Cửu Long và ở các kênh, rạch Nam Bộ đã trở nên những đoàn quân vận tải khổng lồ, hùng hậu, góp sức vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Những con thuyền đã ghi một nét son vào lịch sử dân tộc.

Trong tín ngưỡng dân gian, còn lưu truyền bài văn chầu bà Mẫu Thoải kèm với những nét diễn xướng chèo đò: "Lênh đênh một chiếc thuyền rồng. Khi êm trôi, cô bẻ lái, lúc sóng to… cô cầm vững tay chèo… lên tiếng hò khoan"… Người ta còn có rất nhiều câu cửa miệng về con thuyền: "Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua", "Thuyền theo lái, gái theo chồng", "Cây đa, bến cũ con đò năm xưa”, "Nước }ên đến đâu, thuyền lên đến đấy”, Đò dọc quan câm, đò ngang không chéo, "Ngồi thuyền rồng, không chồng cũng hỏng". Lại nói một chút về con đò Trương Chi - chàng lái đò nghèo nhưng thổi tiêu thật hay. Nàng My Nương mê tiếng hát của chàng. Họ yêu nhau. Nhưng vì sư chênh lệch quá xa, cũng như có sự can thiệp quyền uy mà họ không lấy được nhau. Chàng Trương Chi trẫm mình xuống dòng sông. Hồn chàng nhập vào cây gỗ bạch đàn. Người thợ tiện lấy khúc gỗ bạch đàn duyên nợ này về tiện một chiếc chén uống trà, dâng lên quan tể tướng, là cha đẻ của nàng My Nương. Đêm khuya thanh vắng, nàng My Nương róc nước trà vào chén thì thấy chiếc đò bơi trong chén cùng anh Trương Chi ngâm khúc tâm tình. Nàng rỏ mấy giọt nước mắt xuống làm tan mất chiếc thuyền tình Trương Chi. Nàng muốn chết theo con thuyền. Đó là một trong những câu chuyện đẹp nhất của tình sử Việt nam. Tổ tiên của chiếc thuyền là mảng, bè, thuyền độc mộc. Chính những con thuyền còn làm giàu cho phôn-cơ-lơ bằng cách làm nảy sinh ra một số những làn điệu “đò đưa” sóng sánh. Đất nước chúng ta nhiều biển, sông dọc ngang. Những con thuyền bình thường làm ăn chăm chỉ và giữ nước. Thuyền An Tiêm chở dưa đỏ, con thuyền Trương Chi… là những hình ảnh và tâm tình đằm thắm của dân tộc chúng ta.

VĂN HOÁ ĐŨA

Cô gái vừa mới về nhà chồng, còn e ấp. Lần đầu tiên ngồi vào mâm cơm của gia đình nhà chồng, bà mẹ chồng bảo cô gái: "Con so đũa cho em đi”. Đôi đũa là cả sự thiêng liêng của cái buổi ban đầu.

Người ta đon đả mời một người khách vào ăn cùng: "Vào đây nào, thêm bát thêm đũa mà, ngại gì". Bạn bè then thiết khuyên nhau: "Năm nay, ông bà cũng cố lo cho cháu X. đi, cho nó như đũa có đôi mới ổn được”. Cần phải “trả đũa” nghĩa là phải có hành động đáp lại cái hành động mà người ta đã tác động đối với mình. Có người khoe: "Tôi đã ăn mòn bát mòn đũa ở cái làng Mông Phụ đó, làm sao tôi không yêu nó chứ!". Ca dao có câu:

Bây giờ chồng thấp vợ cao,

Như đôi đũa lệch so sao cho bằng

Lại như: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh"? Đũa còn biểu hiện sự gắn bó: "Bao năm bát đũa bỏ nhau sao đành". Đòi hỏi quá cao, được cho là: "Đũa mốc chòi mâm son"? Bà lão bảo: "Nó ăn phải đũa bọn láo toét nên mới hư hỏng như vậy". Vợ chồng không hoà thuận gọi là cái cảnh: "Đũa chẳng ra đũa, bát chẳng ra bát". Đũa cả là đôi đũa lớn, dài, bẹt, dùng để ghế cơm, xới cơm. Có nơi gọi là đũa cái, đũa mẹ. Đũa dùng để ăn rượu nếp nhỏ và ngắn hơn đũa thường. Đũa bông là đôi đũa được vót 7 hoặc 9 ngấn lởm chởm, rồi cắm lên quả trứng luộc trên bát cơm cúng người chết. Trong những bữa ăn tiệc lớn ở cung đình, có một chức quan riêng phụ trách việc phát đũa cho từng người dự tiệc, gọi nôm là quan đũa, là chuyên viên của mật vụ. Đôi đũa thật thân tình và năng động. Chúng có thể gắp khuấy, vớt, rẽ, gỡ… thức ăn, rồi đưa lên miệng tiện và gọn nhẹ, dù thức ăn ở dạng nào: rắn mềm, dai, cứng v.v… Chúng là sự kéo dài của 5 ngón tay. Người dùng đũa chỉ cần một bàn tay mà thực hiện được đủ mọi động tác trong khi người châu Âu phức tạp hơn, bữa ăn của họ cần đến cả dao và dĩa. Trong việc dùng đũa, người ta tránh những hiện tượng như: chống đũa xuống mâm; đũa chiếc dài, chiếc ngắn; gắp thức ăn quá nhanh hoặc liên tục; gõ đũa lên mâm bát lanh canh; dùng đũa gắp cặp díp, bới món ăn, múa đũa, khoắng canh v.v… Ở nước ta, có nhiều loại đũa: đũa mộc, đũa tre, đũa sơn, đũa ngà, đũa mun, đũa nhôm, đũa bạc v.v… có những đôi đũa cầu kỳ khắc chữ Thọ, hoặc tên họ như chữ Trần, Phạm… có khi lại sơn hình hoa lá. Một bó đũa thường là 10 đôi hoặc 12 đôi.

Đũa tre là thông dụng, phổ biến và rẻ nhất. Các thầy tướng xưa bảo: Người cầm đũa bằng ba ngón tay là người dễ tính, cầm bốn ngón là người có lòng nhân từ, cầm năm ngón là người giỏi giang, thận trọng. Xưa ở xóm Linh Quang (Cuộng), nay ở vào phố Trần Quý Cáp, sau ga Hà Nội, là cả một phường làm đũa, có phố Hàng Đũa. Nơi đây sản xuất đũa, đưa đi bán khắp nơi. Ngày nay, việc sản xuất đũa đã được công nghiệp hoá. Năm 1990, Việt nam xuất khẩu đũa sang Rumani. Công ty kinh doanh đũa là SADAU của Sài Gòn Đắc Lắc đã ký kết liên doanh với Đài Loan một hợp đồng sản xuất đũa trong 10 năm. Năm 1992, ta đã xuất khẩu sang Đài Loan 700 triệu đôi đũa tre. Năm 1993- 1994, ta đã xuất khẩu 3 triệu đôi đũa bồ đề (bằng gỗ bồ đề)… Đũa được dùng ở Trung Quốc đã 8.000 năm. Người Triều Tiên thích đũa kim loại. Đũa Nhật Bản ngắn hơn đũa Việt nam. Trung Quốc cũng có đủ loại đũa như ở nước ta. Có những đôi đũa được chạm, khắc rất tinh vi mang cả những tình tiết trong các pho truyện cổ cô dâu Trung Quốc đi lấy chồng mang đôi đũa quý của mình về nhà chồng. Năm 1995, ở Thượng Hải đã mở nhà bảo tàng đũa. Triển lãm lần đầu đã trưng bày 1.200 đôi đũa Trung Quốc với 800 loại khác nhau. Có cả những đôi đũa rất quý bằng ngọc bích, bạc, vàng có chạm khắc những bức tranh cổ và những chữ viết thảo của các danh nhân. Người ta giữ lại được cả những đôi đũa bạc từ thế kỷ 17. Ngày mồng 4 tháng tám, ở Nhật Bản, mọi người sống trong bầu không khí náo nhiệt của ngày hội đũa. Trong ngày hội, có nhiều cuộc tế lễ rước, tỏ lòng biết ơn thần đũa đã phục vụ con người hạnh phúc. Cũng có nhiều trò chơi giải trí. Những năm 710 đến 794, đũa mới chỉ được sử dụng trong cung đình. Sau đó đến các gia đình quý tộc, rồi mới đến bàn dân. Cứ đến vụ xuân (tháng tư), nhân dân có tục lệ thay đũa mới. Người Nhật thường dùng đũa làm bằng gỗ bạch dương. Trong cung đình chỉ dùng đũa có một lần. Sau này, trong dân cũng hình thànhtập quán này. Đũa của nhà vua ngắn, của các quan dài hơn một chút. Đũa của dân thì ngược lại. Đũa của cha mẹ dài hơn của các con. Đũa của chồng dài hơn đũa của vợ. Đôi đũa gắn bó thân thiết với đời sống của mọi người. Chúng ăn đời ở kiếp với mọi người. Chúng là họ hàng của văn hoá ẩm thực. Chúng đóng góp một nét đẹp trong nền văn hoá truyền thống dân tộc.

CÁI QUẠT

Từ phương Đông, cái quạt du nhập sang phương tây. Châu Âu máy móc và lý trí gọi cái quạt là chiếc bình phong nhỏ di động, dùng để quấy đảo không khí, làm cho mát. Châu Âu cũng có nhiều quạt. Đặc biệt, giới quý tộc dùng nhiều quạt rất cầu kỳ vì họ coi chúng là một loại đồ trang sức năng động và tế nhị: quạt có đăng ten, quạt lụa màu, quạt có gương, quạt có đá quý quạt đồi mồi v.v… Phụ nữ và nhất là các bà mệnh phụ hay dùng quạt để nhìn kỹ một hiện tượng, dáng nét nào đó mà vẫn không trắng trợn hoặc sỗ sàng. Trong các màn trai gái yêu nhau kiểu mèo vờn chuột, cái quạt lẳng lơ đã thể hiện được nhiều điều xuất sắc Chiếc quạt mở ra một phần hay toàn phần che ngang bộ ngực thiếu nguỵ trang, cầm ngược, cụp lại xòe ra từ từ, huơ lên, hạ xuống v.v… đều là những tín hiệu quan trọng mà chỉ người trong cuộc mới giải mã được. Cái quạt còn dùng để nguỵ trang, đánh lừa, nũng nịu đối phương. Tại bảo tàng Louvre (Pháp) có lưu trữ nhiều loại quạt của thế kỷ 17, 18. Bảo tàng Manhattan giữ nhiều bức danh hoạ có các thiếu nữ cầm quạt của nhiều thời đại. Bức nổi nhất là bức "Cô gái cầm quạt" của hoạ sĩ Barthe Marisat. Bức hoạ này vừa được lưu ý về cô gái đang ở trạng thái nóng nực, vừa được lưu ý về cái quạt được xoè ra, say sưa hết cỡ.

Nước ta là một trong những quê hương của cái quạt. Ở Hà Nội xưa, tại phố Hàng Quạt có đình Phiến Thị (chợ quạt), cũng gọi là đình Hàng Quạt, có thờ tổ sư nghề làm quạt họ Đào, người làng Đào Xá, Ân Thi, Hải Hưng. Chính dân Đào Xá đã ra Kẻ Chợ lập phường làm quạt và dựng lên ngôi đình này. Gần đây, quạt Hưng Yên, quạt Phù Ủng, quạt Hữu Bằng (Lúa)… là có tiếng nhất. Có rất nhiều loại quạt: quạt trầm hương, đồi mồi, lá nan, lông gà… Quạt hầu bóng, quạt thằng Bờm, quạt lễ quạt rước quạt tiến, quạt kéo, quạt thước v.v… Quạt kéo có cánh 1m80 x 0, 70m, lợp vải và có hệ thống dây cho một người kéo, làm mát được không gian rộng. Nó xuất hiện ở Hà Nội từ năm 1914. Quạt thước dài chừng 45cm dùng cho những người có tuổi ở nông thôn. Nó vừa che nắng vừa che mưa, đuổi chó. Cho nên, còn gọi là quạt đánh chó. Năm 1944, nhà văn Nguyễn Tuân mặc áo gấm, khăn đóng, tay cầm cái quạt thước to xòe ra, vào quán TAVERRNE ROYALE, được mọi người xúm xít lại nhìn ngắm, trầm trồ. Đặc biệt là những khách người Pháp đánh giá rất cao cách ăn mặc này kèm cái quạt thước độc đáo.

Nói về cái quạt, chỉ cần đọc bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương là đủ:

Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa

Duyên em dính dáng tự ngày xưa

Chành ra ba góc, da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

Mát mặt anh hùng khi tắt gió

Che đầu quân tử lúc sa mưa

Thì thào ướm hỏi người trong trướng

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

Chuyện chị em chỉ nói nhỏ được với nhau gọi là "chuyện sau cái quạt". Đơn vị bắn pháo cao xạ đầu tiên của Việt nam đã ra lệnh: "Bắn rẻ quạt" tức là bắn toả để đạn rải ra, chặn máy bay địch. Ở một vài cấu trúc chạm trổ trong những đình chùa có những chi tiết từ không gian hẹp mở ra không gian rộng gọi là chi tiết rẻ quạt. Người con lấy làm sung sướng được săn sóc mẹ trong những lúc nóng bức cũng như những lúc lạnh lùng được gọi là "quạt nồng ấp lạnh". Người con trai được quạt cho người con gái hoặc ngược lại, người cầm quạt cảm thấy mát mẻ hơn người được quạt: Dễ ai rấp thảm, quạt sầu cho nguôi. Cái quạt giấy Việt nam, dù to dù nhỏ bao giờ cũng chỉ có 17, 18 nan. Chưa bao giờ có quạt 16 hoặc 19 nan. Hồ Xuân Hương đã rất đúng khi viết:

Mười bảy hay là mười tám đây!

Cho ta yêu dấu chẳng rời tay

Tình yêu của đôi lứa đến mức: Để cho cái quạt long nhài là đến cái mức tan nát, vô phương cứu chữa. Vị trọng tài cao quý của võ sĩ Sumô Nhật Bản tay cầm quạt chỉ huy, ra lệnh, chỉ định người thắng, kẻ thua. Nó đại diện cho quyền uy và chân lý. Trong những cuộc múa Chăm của đồng bào Chăm, múa quạt là một đỉnh cao. Cái quạt trong tay các vũ nữ là con công, gà, phượng, rồng, bướm, là gió, mây, là tất cả… Vai giáo đầu của chèo bao giờ cũng cầm cái quạt trong tay để giãi bày, giở bài thơ ra ngâm, hơi che mặt nghiêng nghiêng làm duyên. Khi thi đỗ, Lưu Bình trở về thấy người yêu đã biến mất. Trong tay cầm cái quạt không biết mở ra hay cụp vào. Chàng bỗng vung quạt lên và ngâm một câu "sổng" bất hủ và ngơ ngác: Nàng bỏ đi đâu? Phòng loan lạn li ngắt… Trong vở "Tuần ty đào huế" anh Tuần Ty trong tay chỉ có một cái quạt. Bên anh ta là vợ chính thức và người vợ "nhặt" yêu quý đang đánh ghen với nhau. Anh phải can ngăn dàn xếp. Cái quạt đã giúp anh che bên nọ, chắn bên kia. Cái quạt đã giúp anh lột tả được những giây phút bối rối, năn nỉ, bực mình, vui vẻ, hối hả, dàn hoà v.v… Cái quạt thật trung thành với anh. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng thề bồi với cô Kiều cũng xòe quạt. Quạt này gọi là quạt thề, quạt ước. Nó giúp chủ nó thể hiện trạng thái tâm hồn vui sướng hay sầu muộn, điên loạn hoặc mơ hồ hoặc chói chang sắc lạnh. Có lúc lại chập chờn mê sảng. Cái quạt có giá trị biểu đạt rất lớn trong nghệ thuật chèo vì nó được sử dụng triệt để. Cái quạt Việt nam vừa được dùng để quạt mát vừa là vật trang trí rất quan trọng và thật đáng yêu. Thật vậy cái quạt giấy 1 7 hoặc 18 nan được nhuộm bằng nước vỏ cây với màu hồng nâu nhạt thân thiết của Hưng Yên hay Hữu Bằng (Lủa) vẫn có duyên nhất, phổ biến nhất, tiện dụng nhất: Hồng hồng má phấn duyên vì cây Chúa dấu, vua yêu một cái này…

CÁI VÕNG

Cái võng là từ cái thuyền linh hồn của sông nước mà ra. Võng liên quan đến trẻ thơ, thời thơ ấu, sự bú mớm; lời ru ạ ời; sự chăm sóc ân cần và vồ vập của người mẹ đối với đứa con. Câu “Ba gian nhà nhỏ đầy tiếng võng biểu thị không khí ấm cúng, thân thương tha thiết của gia đình Việt nam. Nhà nào có tiếng võng kẽo kẹt là eo niềm vui sinh sôi. Với tiếng võng bay bổng, bà ru cháu trong trưa hè vời vợi là cả hình ảnh và âm thanh không thể nào quên trong một đời người. Những giây phút hạnh phúc nhất của người mẹ khi con còn nhỏ là ru con ngủ. Đã có bà mẹ ở trạng thái điên loạn khi đứa con nhỏ bị chết, cứ đu đưa cái võng không. Cánh võng không trẻ, cũi không chỉ là cái cảnh đau buồn. Chiếc võng đầy lời ru đẹp, êm ái lấy trong ca dao. Từ những năm 1935 trở về trước, ở các gia đình Việt nam, nhất là ở nông thôn, nhà nào cũng có 1 đến 2 chiếc võng, có nhà thơ đã viết:

Những trẻ nhỏ nôi đưa hay nằm võng

Sớm hay chiều đều mượn cánh cò bay…

Cái võng giản dị, được đan bằng sợi đan se kỹ, dài chừng hơn 2 mét, rộng chừng 1 mét rưỡi, dễ dàng giăng rộng ra và nó tự động cụp lại. Thân võng kết thành những hình thoi gọi là mắt võng. Hai đầu không kết lại mà là những sợi dây hợp lại tạo thành một cái vòng hình bầu dục. Vòng hình bầu dục này là đầu cùng của võng được mắc vào một miếng gỗ có đường rãnh loam sâu xuống gọi là guốc võng. Một sợi dây thừng thật chắc có hai đầu. Một đầu buộc vào cột nhà, một đầu khác buộc vào guốc võng. Người ta giăng võng ra, nằm xuống và đưa đi đưa lại. Cái võng cũng là phương tiện gọn nhẹ để được thư giãn một cách lý tưởng. Đã nằm võng, hoặc ít hoặc nhiều, đều phải đưa cho thoáng mát. Đã có anh chàng nghiện rượu thách mọi người:

Đố ai đánh võng không đưa

Ru em không hát, anh chừa rượu tăm…

Và anh ta luôn nắm phần thắng. Có nhiều loại võng: võng tiến vua, vông đào (điều), võng đơn, võng kép, võng dân dã, võng nhà quan, võng mộc v.v… Thời hậu Lê, có loại võng giống kiểu cái cáng của đội quăn dưới thời vua Quang Trung đã giúp đỡ nhiều cho cuộc hành quân thần tốc lịch sử. Nhất là trong các cuộc trường kỳ chống pháp, bộ đội và dân quân ta đã dùng võng để tải thương binh, chuyển lương thực, phương tiện phục vụ chiến đấu. Những chiếc võng thừng đang dần dà được thay thế bằng những chiếc võng vải buộc dây dù. Những chiếc võng này thật kỳ diệu và thiêng liêng. Vải võng là chiến bào, còn dùng để liệm khi người chiến sĩ ngã xuống: "Ao bào thay chiếu, anh về đất”? Và đất mẹ gào lên, nhận đứa con yêu quý trở về với đất trong bom đạn. Cái võng trở thành một bản hùng ca không bao giờ quên của dân tộc, bản hùng ca thế kỷ.

Trong cuộc kháng chiến. chống Mỹ, giữa rừng mưa bom đạn ở Trường Sơn, tình yêu của những người lính trẻ gắn liền với những kỷ niệm của một thời không bao giờ quên: "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn, hai đạn ở hai đầu xa thẳm“. Chiến tranh đã kết thúc được hơn hai mươi năm, những người chiến sĩ của một thời bom đạn nay trở lại chiến trường xưa để tìm hài cốt đồng đội đã bật khóc khi thấy cảnh một người lính trẻ nằm ở chiếc võng. Anh đặ hy sinh mà không ai biết. Các đơn vị cũng đã rút lui sau một trận đánh ác liệt. Hai thân cây trong rừng nay đã cao hơn nhiều và chúng vẫn giữ hai đầu võng, cái võng rách mướp vẫn đu đưa theo gió.

Ngày xưa, các quan đi võng điều, có hai người lính đội nón dấu khiêng hai đầu. Ông Nghè về vinh quy bái tổ cưỡi ngựa hoặc nằm võng. Bà Trạng cũng nằm võng đi theo sau. Đó là: võng anh đi trước bước nàng theo sau và cũng là cái cảnh: "Tình tang võng ngứa công hầu"? có chuyện, hai vị trí sĩ nằm trên hai chiếc võng kề nhau do bốn người khiêng. Các vị đó hoạ thơ hoặc đánh cờ tướng với nhau trên đường đi.

Ở các đình, chùa, các nghệ nhân đã lấy một phần hình ảnh cái võng mà chạm trổ nên những hoạ tiết tranh trí hoành tráng rồi bơhép lại thành cái cửa võng sơn son thếp vàng. Cái võng gắn với ca dao, với bầu sữa mẹ, với quê hương đất nước. Nó in một dấu ấn đậm đà trong văn hoá Việt nam.

NGÕ

Các làng xã ở ta thường có những cái ngõ thân thương, ấm cúng. Ngõ là nơi mà những người trong cộng đồng nhỏ sinh sống, đi lại, giao tiếp với nhau. Nó cũng có tâm hồn, tình cảm, có cái duyên thầm. Nhan sắc của nó có màu dĩ vãng. Có khi nó vui hẳn lên. Cũng có khi nó ngơ ngác như qua một cuộc phân ly. Ở nông thôn, mỗi ngõ có vài xóm. Mọi người sống với nhau, tắt lửa tôi đèn có nhau. Cái ngõ được đánh dấu bằng một cái cổng xây đơn giản, cái cổng bằng tre, một rặng cây hoặc một cây cổ thụ ở ngay bên cạnh. Vì vậy, có ngõ "cổng xây", ngõ "gốc gạo"…

Ở làng Bưởi, khoảng giữa làng Nghĩa Đô và làng Dâu có một cái ngõ mà khắp vùng đều biết tiếng. Đó là ngõ Noi. Nó ăn sâu hun hút vào con đường dẫn tới làng Cổ Nhuế. Nó đã nổi tiếng từ lâu về vẻ đẹp của nó. Nó hình thành bởi hai rặng tre xanh tươi bám chặt lấy nhau, chồng chéo lên nhau ở bên trên, để lại một con đường nhỏ dài chừng 100 mét. Những cây đầu ngõ được vít xuống như một cái cổng tò vò, như cái cổng chào thiên nhiên hoành tráng. Những cây tre hai bên đường rủ xuống che kín cả quãng đường vào ngõ. Đây là nơi tránh ánh nắng mặt trời gay gắt của những ngày hè oi ả. Gió từ mọi phía thổi vào cứ mát rượi. Về phía trái, gần ngõ Noi là một mảnh vườn xanh mướt, có những luống hoa được trang điểm xung quanh bằng những hàng cỏ tóc tiên. Đó là vườn của nhà báo Phùng Bảo Thạch. Ngay bên phải ngõ Noi là một cái vườn hoa lớn nhất vùng được gọi là Vạn hoa trang, nghĩa là cái vườn này có rất nhiều loài hoa cho cả bốn mùa. Những hoa thơm cỏ lạ đều có trong vườn này. Đây cũng là nơi gặp gỡ của những tao nhân mặc khách. Đứng ở ngõ Noi, nhìn ra cây gạo chùa Dâu và cây đa An Phú của làng làm kẹo mạch nha. Những ngày hè, mọi người ở xung quanh và cả những người ở Kẻ Chợ (Hàng Ngang, Hàng Đào…) về đây nghỉ ngơi, ngắm cảnh, mua hoa. Những cặp tình nhân cũng rủ nhau đến đây để tâm sự với nhau những lời như “Thương ai về ngõ vắng" hoặc như: "Ngõ cũ chiều nay em lại về"… Cái ngõ Noi này đã gây cảm hứng cho nhà thơ Hoàng Cầm có được hai câu thơ rất hay trong kịch thơ Kiều Loan nổi tiếng của ông: Tôi đứng chờ thu xanh biếc ngõ Thấy ông ôm mặt khóc Tần phi… Nhà văn Phùng Bảo Thạch tâm sự: "Trong lòng tôi sẵn có chất liêu trai là nhờ có cái ngõ Noi cạnh nhà. Nên gọi nó là ngõ Tương tư mới phải…" Hình ảnh cái ngõ chiếm một vị trí đáng kể trong quan họ. Chẳng thế mà có hẳn một bài hát làm cho mọi người cứ thao thức. Đó là bài: "Ra ngõ mà trông…" Người ta trông ngóng nhau, đợi nhau, đi đi lại lại, ngắm cái ngõ mà tìm nhau, mà bồn chồn, kháp khởi, hy vọng và có lúc cũng thất vọng…Người ta dặn dò to nhỏ với nhau ở cái ngõ. Cái ngõ gắn liền với họ. Hình ảnh cái ngõ này thật thân thiết với họ. Ở Hà Nội cũng có rất nhiều ngõ. Vì thành phố cần phải làm nhiều con đường to, nhỏ. Cũng cần xây dựng nhiều khu phố.

Do vậy, có nhiều khu nhà ở được mở cửa ra ngoài đường. Cũng có nhiều cụm nhà ở phải lui vào bên trong, hình thành nhiều cái ngõ. Có những cái ngõ được xây lên tử tế, có cổng tò vò: thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau? Cũng có cái ngõ được đặt tên theo một bụi găng, duỗi. Ngõ Trại Găng là như vậy có khi gọi là ngõ chỉ vì nó có con đường đi sâu vào bên trong. Ngõ Trại Găng ở khu Bạch Mai xưa có mấy xóm gồm những người dân lao động nghèo, những phu kéo xe, những người làm trong lò lợn thành phố. Ở đây có lò võ có phường múa sư tử nổi tiếng, có khách sạn Đồng Lợi. Sau này bãi đua ngựa của Tây chiếm đất nên khách sạn Đồng Lợi phải dọn lên phía nhà ga. Ở ngay gần ngõ Trại Găng là ngõ Văn Chỉ. Một thời gian, nhà văn Nguyễn Đình Lạp ở trong ngõ này, viết phóng sự "Ngoại ô" và một số truyện.Sau đó một thời gian, ông lại chuyển sang ngõ Nghè Bô ở ngay bên cạnh. Nhà văn Nguyễn Đình Lạp có cô em gái thật xinh, tên là cô Tuyên. Nhà thơ Nguyễn Bính đem lòng yêu mến cô. Ông đã đi lại mòn hai cái ngõ này và làm rất nhiều bài thơ tại đây. Đi xuống một chút nữa là Ngõ Bò, là nơi cư trú của nhà thơ Đinh Hùng. Đối diện với Ngõ Bò là nhà của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Gần chợ Mơ có ngõ Giếng Mứt. Xưa, đây có cái giếng nước trong và ngọt nên gọi là giếng Mứt. Ngõ Quỳnh có hồ Quỳnh, chùa Quỳnh. Ngõ Cống Trắng phía sau Khâm Thiên ngập ngụa và lầm than. Nhưng nhà thơ đau khổ mà lạc quan Trần Huyền Trân đã tả nó thành cái Ngõ Trúc mơ mộng, xinh đẹp và đa tình: "Ngõ hoang đá nở dăm màu bướm Đây lúc đôi mùa đưa tiễn nhau…" Người ta gọi ngõ Cống Trắng là ngõ "Thương cảm". Ngõ Hàng Bún, ngõ Yên Ninh xưa kia chỉ có mấy gia đình ngâm giá bán, họ ở cùng làng với nhau rồi cùng rủ nhau ra Hà Nội. Họ sống với nhau như ở quê nhà. Họ sang nhà nhau cứ như vào nhà mình, săn sóc nhau, bàn nhau cách làm ăn rất thân mật. Buổi trưa ngõ yên tĩnh lạ lùng, đến nỗi nghe rõ tiếng chim cu gù nhau. Nơi đây thật sự là cái cảnh làng trong phố.

Ngõ Chùa Liên Phái là cái ngõ ngoằn ngoèo đi ngay bên cạnh ngôi mộ xây của cô Ba Tý, Hàng Bạc (mộ phần vẫn còn nhưng không được nguyên vẹn). Ngõ Đồng Nhân có mộ cô Tư Hồng (nay không còn nấm mộ mà nằm vào sân Trường Phổ thông cơ sở Bạch Mai). Hà Nội ta còn rất nhiều cái ngõ nổi tiếng đã đi vào ca dao như: Ngõ Sầm Công, ngõ Vạn Thái, ngõ Tạm Thương ngõ Trạm, ngõ Phất Lộc, ngõ Trúc Lạc, ngõ Sơn Nam, ngõ chợ Khâm Thiên, ngõ Cấm Chỉ, ngõ Mai Hương, ngõ Huy Văn, ngõ Văn Chương, ngõ Hội Vũ, ngõ Thổ Quan, ngõ Trung Phụng, ngõ Yên Thái, ngõ Trung Yên v.v…Nhiều khi cái ngõ là "quảng trường La Mã" của trẻ em, chúng đến đây họp mặt, đùa vui, chơi bi, chơi đáo… nhất là vào những đêm trăng cổ tích. Với người lớn, cái ngõ là nơi gặp gỡ, bàn tán một chuyện, nơi đón nhau, nơi ly biệt nhau. Cũng là nơi hò hẹn tình tự… Vì vậy mà nó trở nên thiêng liêng. Người ta hay nói: "Vui từ trong ngõ vui ra ", "Ngõ nhà ai thơm ngát hương đưa”, "Ai về ngõ lạnh bước mau mau". Nhà thơ Đinh Hùng viết:

Chuyên tâm tình dưới hoa thiên lý

Còn lối bâng khuâng ngõ trúc đào.

Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện tâm sự: "Tôi bắt đầu yêu quý và say mê cái ngõ ở xóm tôi từ thửa bé, rồi yêu đến cái đình, cái chùa… rồi sau này trở thành kiến trúc sư, tôi phải cảm ơn cái ngõ". Rồi đây, những cái ngõ thân thương, rêu phong ghi kỷ niệm của nhiều mảnh đời sẽ mất dần. Chúng sẽ chỉ còn trong sương khói ký ức. Chúng là chứng nhân lịch sử của một cộng đồng nhỏ. Chúng ta, chẳng ai là không nhớ đến và yêu quý cái ngõ…

CHỌN HOA HÂU KIỂU TRUYỀN THỐNG

Xưa kia, đã từ lâu rồi, các hội làng đều có chọn hoa khôi, hoa hậu, nhưng không ồn ào, nhộn nhịp như bây giờ và cũng không cần phải cân, đo, đong, đếm.

Ví dụ như hội làng Đồng Ky chọn 16 nữ chưa chồng khiêng kiệu; hội làng Cả ở Bưởi chọn các cô gái khiêng long đình; hội Chữ Đổng Tử tuyển các cô gái chấp kích; hội Tràng Yên chọn 4 cô gái chít khăn vành dây vàng, thắt lưng xanh v.v… Những cô gái được chọn kể như vào diện hoa hậu, á hậu hoặc non một chút. Việc chọn này được tiến hành lặng lẽ.

Người ta quan sát các đối tượng được chọn hàng năm trời và có so sánh giữa người này với người khác. Đứng đầu là một, hai vị chức sắc lịch lãm, hiểu đời và tài hoa cùng với những vị quân sư "quạt mo" của họ. Việc tuyển chọn được tiến hành theo các tiêu chuẩn: thanh, sắc, tài, duyên. Sắc tài duyên thì dễ hiểu. Còn thanh thì rộng nghĩa hơn, nó gồm: nụ cười, vẻ cười, dáng điệu, cử chỉ, đi đứng tiếp xúc v.v… và nhất là tiếng nói, cách nói năng: Người xinh tiếng nói cũng xinh, Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn. Về sắc nhấn mạnh vẻ đẹp hiền hậu, nhẹ nhàng như kiểu mặt Phật. Mắt phượng, mày ngài. Mắt phải dài, sắc kiểu "nhãn trung hữu thuỷ". Lông mày phải bóng, có dáng nét con ngài " trường mi hâu tố mao" nghĩa là lông mày dài và rõ nét thì có hệ thống lông tóc phồn thịnh. Da trắng như trứng gà bóc, dáng cao, mỏng mày hay hạt.

Còn trẻ tuổi mà đã mập sẽ bị coi là "gà mái đoảng”.

Chân dài sẽ nhanh nhẹn, xốc vác, thanh tao mà dữ dội về đường chăn gối. Đẹp mấy mà chân đi vòng kiềng, chữ bát hoặc "vơ rác" không được chọn. Mặt trái xoan dễ được chấp nhận hơn cả. Môi đỏ, mũi cao, má hồng, răng đen đều là quan trọng. Lông mày sắc cũng được đánh giá cao:

Có rửa thì rửa chân tay,

Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.

Eo thì phải thắt đáy lưng ong. Người như vậy vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con. Bụng lép, ngực cao, lưng chữ cụ, vú chữ tâm là lưng không thẳng đuỗn, vú cao và nhọn. Trong các hội làng cũng có tuyển hoa khôi nam. Đó là các "cô" mà người ta gọi là "Đĩ đánh bồng” do nam giới đóng giả. Đúng ra, ngày xưa, người ta chọn 2, 3 người con trai có dáng có sắc, nhanh nhẹn cầm cái que tròn, sơn son thếp vàng, đánh vào một cái ống kẹp bao vải đựng bột xạ hương. Người con trai ăn mặc giả con gái đệm vú thật to, đập vào cái bao thơm cho bột tung ra, bay lên như kiểu bây giờ vẩy nước hoa quanh kiệu thánh cái ống thơm ấy gọi là "hinh bổng" (gậy thơm). Động tác đập vào bao thơm gọi là đánh hinh bổng. Sau này thấy khó gọi và sai lệch chữ nghĩa mà gọi là "nữ đánh bổng” rồi “Đĩ đánh bổng”. Cũng về sau này, người con trai giả gái đeo trống cơm, vừa đi vừa lúng liếng. Lúc làm ra vẻ thẹn thùng, lúc làm ra vẻ lẳng lơ.

Có một năm ở làng Cả, vùng Bưởi việc chọn những người đẹp không được mọi người tán thưởng. Người ta nghi có ông trong ban giám khảo thiên vị một cô gái có bộ ngực mênh mông. Sau ngày hội, đám trai làng thường kể vè:

Quan viên chẳng biết khen chê

Cứ vú ấm giỏ là phê "nhất làng.

Ạ ỜI TÌNH RU

Thu ngồi xuống ghế công viên. Chị mệt rũ qua mấy ngày nằm trên xe lửa chen chúc, ồn ào, ngột ngạt. Xuống ga lại đúng vào lúc 1 giờ sáng. Nghe lời khuyên của mọi người, chị ngủ gà ngủ gật cùng với một số hành khách trong ga, đợi đến khoảng năm giờ sang mới vào thành phố. Chị phải đi một cuốc xích lô rồi ghé vào công viên. Chị soi gương, sửa lại mái tóc, nghỉ ngơi cho tỉnh lại một chút rồi mới tính đến chuyện đi tìm địa chỉ theo giấy giới thiệu của anh bạn nhà báo. Chị say sưa ngắm nghía những dãy nhà cao vút, dựng lên như những con tàu đậu bến. Những lâu đài lát đá hoa, những ngôi nhà màu sắc, sừng sững như trong chuyện cổ tích, vườn hoa xinh xắn và mát rượi…

Tất cả đều tươi đẹp và hấp dẫn khiến chị cứ ngắm mãi không chán mắt. Phong cảnh lạ đưa đến cho chị những ý nghĩ cảm động. Đặc biệt, đây đúng là cái vườn hoa làm nên hai câu hát thật đẹp:

Công viên bừng trong giấc nắng.

Chuyện chúng mình ngày xưa…

Đến nhà chủ, Thu được đôi vợ chồng trẻ tiếp đãi thật ân cần.

- Mời chị. Nhà báo M.Đ giới thiệu chị đến đây với chúng tôi tức là chị ở cấp "siêu" rồi - Anh chủ nhà nói.

Chị vợ nói tiếp:

- Mời chị vào nghỉ và coi đây như nhà mình.

Hai vợ chồng gia chủ còn trẻ. Họ tranh nhau lấy cốc chén, mở chai nước ngọt, đưa khăn mặt cho Thu, xếp đặt hành lý và giường chiếu… Căn phòng bỗng nhộn nhịp hẳn lên. Họ hỏi khách cần những gì để đáp ứng ngay. Họ cố gắng làm sao để Thu được thoải mái. Ngày mai, nhà văn hoá thành phố khai mạc liên hoan hát ru. Chị là ca sỹ được mời đến dự mà cũng là đến dự thi. Đó là một cuộc liên hoan độc đáo, giới nhạc sĩ khai thác, nghiên cứu, sưu tầm và phổ biến những bài hát ru ở nhiều nơi trong cả nước. Những người có tâm huyết lo lắng nhiều về tiếng hát ru, tiếng ạ ời vời vợi muôn thuở thưa thớt. dần. Các bà, các chị đã quên bẵng đi cái thiên sứ ru hời của mình. Tình trạng này làm cho "đồng ruộng” di sản văn hoá của dân tộc bị bạc màu. Liên hoan được hưởng ứng nhiệt hệt. Nhiều bà mẹ tuổi cao đến bảy mươi cũng hăng hái tham gia cùng với các ca sỹ trẻ măng.

Nhạc sĩ X.H nổi tiếng, có mặt trong ban giám khảo cũng lên thi mấy bài hát ru thật sâu lắng. Vé chỗ ngồi đã được bán hết từ mấy hôm trước. Người ta phải kê thêm ghế phụ. Thu đã chuẩn bị kỹ hành trang của mình. Chị đã có một cái vốn khá phong phú để thể hiện những bài hát ru của mình. Trong những lần đi biểu diễn, chị đã qua nhiều nơi, học tập các cụ già, các nghệ nhân và thuộc chừng năm mươi đến sáu mươi bài. Nhưng chị để tâm hồn nhiều vào những cánh cò bay lả bay la hay vô tận, một vài đoạn hay nhất trong Lỡ bước sang ngang, trong Truyện Kiều, Đồng tiền Vạn Lịch, những lời ru xa xưa mà chỉ vài nét cũng đã gây xao xuyến lòng người như: Trèo lên cây bưởi hái hoa; Ra đường người tưởng còn son, về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. Bao giờ trạch đẻ ngọn đa; Bao giờ anh lấy được nàng. Trên trời có đám mây xanh… Anh Trang cùng mấy chị hàng xóm chuyện trò với khách như thể với những người bạn quen biết từ lâu. Mọi người hỏi chuyện xung quanh những bài hát được khen ngợi hết lời của Thu và về cuộc liên hoan hát ru ngày mai. Từ trong bếp chị Trang nói vọng ra:

- Nem rán xong rồi đấy nhé!

Thu tưởng như lời nói của chị Trang có cả mùi thơm phức của các món ăn đặc biệt, ăn một miếng là nhớ mãi. Cuộc trao đổi vẫn tiếp tục sôi nổi ồn ào. Bỗng có tiếng cháu bé khóc thét lên. Chị Trang xin lỗi, vào bế con và cho con bú. Đứa bé mọc răng. Mẹ nó ru mãi vẫn không nín và không chịu bú. Anh Trang liền tranh lấy ẵm con, ra hiệu cho vợ tiếp khách thay mình. Anh bế đứa bé trên tay không được gọn gàng, đu đưa một cách vụng về. Nó vẫn không nín. Anh bảo:

- Cháu nó quen bà ru cơ! Hôm nay bà cháu về quê…

Hai vợ chồng chủ nhà sốt ruột. Một phần vì đứa con khóc càng to. Một phần ngại làm phiền lòng khách.

- Anh đưa cháu cho em nào. Em sẽ cố dỗ cho cháu nín.

Thu vừa nói vừa chìa tay đỡ lấy đứa bé. Đứa bé tưởng mình nằm trong vòng tay của mẹ nó. Nhưng rồi nó hiểu ra, thấy mình lầm. Nó lại càng khóc thét lên. Thu liền đu đưa đứa bé, mắt dịu dàng nhìn bé và cất lời ru vời vợi… Đồng tiền Vạn Lịch, anh thích bốn chữ vàng. Công anh dan díu với nàng bấy lâu Bây giờ nàng lấy chồng đâu… Khi xưa thề thốt một hai Giờ đây ghé nón ngang vai chàng chào… Ngủ đi con… ạ ơi… Bồng bông… Bồng bồng bế bế bồng bồng. Cò con theo mẹ ra sông đắm đò Đắm đò ướt hết thân cò Cò con cò mẹ lò dò sang sông… Giọng Thu mượt mà. Chị thật say sưa. Trong tâm hồn chị náo nức những áng dân ca bâng khuâng, tiếng võng trưa hè, làn gió sầu vĩnh cửu… Những cái đó chào mời sự sáng tạo, làm cho lời ru của chị trở nên bay bổng, đượm buồn mà ngọt ngào tha thiết. Chị hoà nháp vào tâm trạng của những nhân vật huyền ảo trong những câu hát ru truyền qua nhiều đời người. Chị làm sững lại cái nỗi đau xót của cặp vợ chồng Vạn Lịch. Bản thân chị cũng từng là con cò theo mẹ qua sông… Tiếng ru của chị xuất thần, du dương hơn bao giờ hết. Thế là, từ lúc nào không biết, cả gian phòng, gian bếp trở nên im phăng phắc, tràn ngập tiếng ngân nga trầm bổng xa xôi, mơ hồ, đắm đuối…

Mọi người bị những lời ru thôi miên đến thẫn thờ, lại thêm mấy bà láng giềng ùa sang ngồi chật kín cả gian phòng. Chị Trang ngồi trên ghế, hai tay bắt chéo trước ngực ngả người về phía Thu. Giọng hát xao xuyến cứ cuồn cuộn chảy như một dòng suối, tắm cho đứa bé, làm cho nó nín bặt rồi ngủ. Sự thực, Thu chưa có được niềm vui làm mẹ. Chị ẵm đứa bé trong tay, nhớ đến lời mẹ ru ma tưởng tượng ra tất cả. Chị cũng nghĩ đến đứa con sau này của mình. Chị mê mệt ngắm cái mũi Hy Lạp rất xinh, đôi môi đỏ tươi và mớ tóc đen nhánh của đứa bé. Chị sung sướng đến cực điểm được biết là việc biểu diễn của mình đã ru được đứa bé tiên đồng ngủ ngon giấc.

- Ôi sao cô hát hay thế.

- Mai vào thi, cô định hát bài gì nào? Chắc là cô phải đoạt giải nhất. Cô hát hệt như mẹ tôi ru tôi ngày xưa, có điều hay hơn nhiều - Bà Ba xuýt xoa khen rồi đến nắm lấy tay Thu.

Bà ngẩn ngơ lần cổ tay, vuốt tóc vỗ lên vai Thu. Chị ca sĩ cũng bâng khuâng như người say rượu chẳng nghe thấy tiếng mọi người khen ngợi mình: Chị nhấm nháp cái nỗi mềm hưng phấn âm thầm mà dữ dội do đứa bé mang lại.

- Cô ơi! Ngày mai cô cứ hát những bài ru này. Tiếng hát có thể ru ngủ được các cháu bé và ngay cả người lớn nữa. Người lớn cũng cần ru đấy - Một bà khác nói.

- Thu ơi! Hôm nay chị ru được cháu ngủ, nhưng ngày mai trở đi, khi chị trở về nhà thì ai ru được cháu nhỉ?

- Em sẽ dạy chị - Thu cười, tươi tắn mà mơ màng.

- Chị có thể dạy tôi nhớ lời ru. Nhưng cái giọng hát, làm sao tôi có được? Và cả cái dáng dấp ru cháu?… Sẽ có băng cát sét giúp chị thêm.

- Không được đâu…

Mấy hôm sau, đứa bé nằm trong lòng mẹ. Nó áp mặt vào bầu vú mẹ nó, nghe những lời hát ru qua băng cát sét ghi những tiết mục hát ru của buổi liên hoan. Trong đó, có mấy bài hát ru do Thu biểu diễn. Ôi? Chỉ mấy bài hát ru nhẹ nhàng ấy mà có đủ cả đêm trăng sáng, bụi tre xào xạc, lời trao duyên rồi trách móc, hờn dỗi, đằm thắm, tha thiết, trao tình… Bao nhiêu hình ảnh và âm thanh cứ xoắn lấy nhau mà bập bềnh trôi nổi… Tuy cũng vẫn cái giọng của Thu, nhưng không hay được bằng cái buổi Thu ru cháu nhỏ con chị Trang ạ ời tình ru sẽ còn mãi vơi thời gian

NHỚ MỘT LỜI RU

Đó là vào khoảng năm 1949, đường qua ghềnh Quệt Tuyên Quang thường có nhiều người đi qua. Họ là những bộ đội, cán bộ đoàn thể, những người ở dưới xuôi lên. Họ đi men theo bờ con sông Lô, đi mãi vào sâu trong phía rừng, qua một trại làm giấy mới dựng lên của những gia đình người làng Bưởi. Từ chỗ này, họ lại toả đi nhiều nơi: Chiêm Hoá, Cầu Hai, Quảng Nạp, quán ông già… Người ở phía trên đi xuống, người phía dưới đi lên, cứ nườm nượp. Họ đều phải nguỵ trang bằng lá cây, cành cây. Bên những quãng đường mới hình thành này mọc ra mấy cái quán nhỏ đơn sơ. Đó là những quán nhỏ để người qua lại dừng chân uống bát nước, ăn quà bánh hoặc hút điếu thuốc lào. Cũng có người uống một, hai chén rượu trắng gọi là có chút "phừng phừng" để hăng hái lên đường. Nghỉ ngơi xong, họ đi tiếp. Vui nhất là khi có một nhóm "tuyên truyền" sà vào quán. Nam có, nữ có, họ mang theo mấy cây đàn, cây sáo, cười cười nói nói… Họ hát những bài ca kháng chiến và láy đi láy lại những đoạn:

Ngàn bao hùng binh tiến lên

Bờ cõi… vang lửng câu quyết chiến…

Bước ta đi… theo tiếng xuất quân oai hùng…

Quê hương ta… đẹp lắm…

Mọi người đều xúm lại, vây lấy cái quan Họ hát theo vào, cùng vỗ tay. Trẻ có, già có. Nhạc sĩ Bùi Công Kỳ ôm đàn ghi ta, nhảy ra ngoài, trình bày bài hát: "Ta là gươm tráng sĩ… "? Anh được hoan nghênh nhiệt liệt. Sau một lúc, nhóm tuyên truyền phải lên đường ngay. Người đi, kẻ ở nhiệt tình vẫy tay, chào hỏi nhau, hẹn gặp lại như những người đã thân thiết từ lâu… có những buổi yên ả, bờ sông vắng, quán thưa khách. Chị chủ quán "nghiệp dư" lui vào phía liếp bên cạnh, nằm võng ru con. Chị đưa võng, kẽo kẹt, ru con bằng đủ các làn điệu. Chị cũng ru cả chính trị nữa với cái giọng trầm trầm rất “truyền cảm. Nào là những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều, Lỡ bước sang ngang… Nào là những bài ca dao chấp chới những cánh cò cánh vạc…có lúc chị nhắc đến một vài nơi thân yêu của chị:

Ai lên xứ Lạng cùng anh

Bõ công bác mẹ sinh thành ra em

Tay cầm bầu rượu, nạm nem

Mải vui quên hết lời em dặn dò…

Rồi đến:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trảy nước non Cao Bằng…

Hỏi ra mới biết, chị là người ở phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội lên đây. Chị có dáng một cô giáo tản cư, sắc sảo hiểu biết rộng, nhẹ nhàng lịch thiệp. Chị có cái vẻ đẹp của nhiều nơi cộng lại. Các chú lính trẻ rất kính mến chị, luôn giúp đỡ chị. Họ phát hiện ở chị có nhiều điều bí mật đáng quý. Chị là người Tày, nhưng chị sinh ra ở Lạng Sơn mà được ăn học tại Hà Nội từ bé. Vốn liếng tiếng Pháp của chị khá tốt. Chị hay đọc sách. Lại một điều bí mật nữa, chị là con một viên quan cấp cao của chế độ cũ. Nhưng ông cụ lại được cách mạng giác ngộ và đi theo kháng chiến. Tổ tiên của chị làm quan triều Lê, được triều đình cữ lên cai quản miền núi và trở thành những người con xứ Lạng… Chị giúp đỡ trông nom việc gia đình cho chồng miệt mài vào những công việc của kháng chiến. Chồng chị là một cán bộ cao cấp của Chính phủ Cụ Hồ. Ông rất có uy tín với nhân dân trong nước và cả nước ngoài. Ông lại là một học giả trẻ… Chiều hôm đó, quán đỏ lửa. Tôi đến chào chị để đêm đi. Công tác theo đơn vị. Lẽ dĩ nhiên là phải giữ bí mật. Tôi lặng lẽ bước vào quán, thấy chị đang thiu thiu, mơ màng, nửa thức nửa ngủ… Tôi ngồi yên, tôn trọng những giây phút này… Chị cất nhẹ lời ru:

Non sông kháng chiến trường kỳ

Mẹ theo tiếng gọi…õ.ơ… quên thì phấn son…

Lời ru cứ nhắc đi nhắc lại, lúc gần gũi lúc xa xăm và nhỏ dần… Tôi lặng người, thưởng thức âm điệu và nội dung sâu sắc của lời ru. Dư vị của nó ngân đi ngân lại trong tôi. Một niềm vui đượm chút buồn man mác lan toả trong tôi. Tôi thấy lúc này đây, chị là một thiên thần, là một huyền thoại. Chị là một người trong triệu người thời đại có một cuộc đời như thế, có một tinh thần, một khát khao như thế trong một thoáng lịch sử của dân tộc. Biết hy sinh, biết chờ đợi là một huyền thoại. Trong lời ru, lấp lánh những ký ức của thời xa xưa hào hùng, những đau thương oán hận của dân tộc, có tiếng gọi của cha ông thùa trước, những tiếng vẫy gió của lịch sử. Tôi đã sưu tầm nhiều bài hát ru, nhiều ca dao… Nhưng, giờ đây mới thật sự có được một ấn tượng mạnh. Chị nằm ôm con, chiếc võng đu đưa, đi lại. Xa xa, dòng sông chảy như lụa, mấy tàu chuối trong vườn phất phơ, lửa trong bếp bập bùng. Xa chút nữa… có tiếng súng… Tất cả, tất cả đều là hiện thực. Nhưng khi lời ru tuyệt vời vừa được cất lên, tất cả đã trở nên huyền thoại… Một lát sau, chị dậy. Tôi từ biệt chị. Chị bảo: "Luôn nhắn tin về nhé…". Thế rồi nhiều năm tháng trôi qua, tôi là chuyên viên văn hoá. Tôi gặp chị, lúc này chị đã lên bà. Bà mời tôi đến thăm phòng triển lãm tranh của bà. Bà đã trở thành hoạ sĩ và đã có triển lãm riêng với chừng 30 bứa tranh màu dầu… Trong đó, có một bức bà vẽ về cái quán tản cư khi xưa. Cái quán toàn tre, nứa bên sông có người mẹ ru con trên võng… bên cạnh bức trong này có dòng chữ: "Tuyệt đối không bán”… Tôi lại gọi bà bằng chị. Chị mời tôi uống cà phê, nhắc lại một chút xíu cái dào ngày xưa. Chị nói là thính. Tôi chẳng nói gì, chỉ đọc khẽ: Non sông kháng chiến trường kỳ… "Mẹ theo tiếng gọi quên thì phấn son…". Chị cúi xuống, xúc động Một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề, đến bên cạnh bàn, cúi nhẹ người chào tôi. Chị ngước mắt lên, bảo: "Con chào chú Hoàng đi… một giờ nữa mẹ về…". Người con chào tôi rồi đi. Chị nói với tôi: “Đấy thằng bé nằm võng năm xưa mà chú khen nó có đôi má như hoa hồng mà lại ngọt ấy Bây giờ nó là tiến sĩ mỹ học". Tôi bảo: vâng… tôi tin tưởng vào nh úng người như chị, như con cháu chúng ta… Tôi có niềm tin mà"…

Chương III

mấy khuôn mặt

NÀNG HUÊ

Ở gần hồ Hoàn Kiếm, về phía đường Bảo Khánh đi lên một chút, có ngôi đền Hàng Trống. Ngôi đền hai tầng giản dị, màu vàng. Những ngày rằm, mồng một, lễ, Tết, các con công đệ tử, khách thập phương tập nập đến lễ bái, khói hương nghi ngút, chẳng lúc nào dứt. Khi xưa, ở nơi đây đã có vài lần tổ chức hội thi đàn đáy. Đàn đáy là loại đàn đặc biệt có cần dài 1m20 với khuôn thùng đàn hình chữ nhật khổ 0, 03 x 0, 18 x 0, 09m. Không có mặt hậu. Đàn có ba dây gọi là đàn ca trù hoặc đàn ả đào tiếng đàn có thể đanh, cũng có thề mềm, nhấn nhá, bâng khuâng. Tiếng đàn đục trầm, sâu lắng. Cuộc thi thu hút sự có mặt của nhiều thầy đàn các nơi như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội…

Thôi thì đủ mặt anh tài. Tiếng đàn đáy chỉ được bộc lộ hết cái “hồn” của nó khi nó đàn cho giọng hát và tiếng phách của đào nương có điểm tiếng trống chầu hào hoa, phong trần. Vì vậy, thầy đàn phải có sự giúp đỡ của đào nương và người đánh trống chầu. Các đào nương nuột nà, phấn son, xiêm áo đi lại xênh xang làm ngây ngất cả một vùng. Đẹp như ả đào mà lại. Nhưng chưa hết, các nàng còn là những con sơn ca. Tiếng hát của họ có thể an ủi được cuộc đời làm cho mọi người xao xuyến, ngất ngây. Chính vì vậy mà các danh sĩ, những khách văn chương ưa đàn hát cũng không thể không tụ tập lại ở nơi đây để tìm ý thơ, nét nhạc, để say sưa đóng vai những người khách đa tình. Thảng hoặc có chàng trai ăn mặc bảnh bao, nói nhẹ nhàng: "Xin quý đào nương cho nghe khổ giai nhân nan tái đắc… chót yêu hoa nên dan díu với tình…", lời thỉnh cầu của chàng trai được đáp ứng tức khắc. Nơi đây cũng được gọi là xóm Hàng Hoa. Vào những năm 1900, nước hồ còn ăn vào phố Hàng Trống. Các gia đình trong phố bắc cầu ra ngoài hồ, tắm giặt, rửa rau, vo gạo… Xa xưa hơn nữa, nơi đây nguyên là thôn Cựu Lâu, kéo dài ra tận khu vực mà sau này là những phố Tràng Tiền, Hàng Khay. Đất tài hoa, xướng ca luôn luôn có tiếng đàn tiếng phách. Khôn khí thơm lừng hương hoa, son phấn. Mảnh đất này sinh ra Nguyễn Thị Huệ. Nàng là con gái một vị quan thái y. Nàng có tư chất thông minh từ nhỏ nên cha cho theo đòi đèn sách và trở thành một cô gái giỏi văn chương, thông kinh sử. Nàng mê ca hát. Những phách giòn tan của nàng reo lên làm cho các bậc đàn chị trong xóm phải ngẩn ngơ. Lại nữa, nàng quá xinh đẹp, sắc nước hương trời. Không thiếu gì những sĩ tử hào hoa phong nhã, nhưng khách văn chương ngấp nghé, mến mộ.

Nhưng, thật không may, năm nàng 16 tuổi, người cha qua đời, mẹ lâm bệnh nặng. Cảnh nhà sa sút, nàng phải theo chị em trong xóm luyện tập ca, múa và hành nghề để nuôi mẹ, nuôi em. Mới vào nghề mà tài năng nhiều mặt của nàng đã vượt qua các chị em đến mức không có đọi thủ. Giọng hát và tiếng phách của nàng đã giây nên những vương vấn, bâng khuâng thấp thoáng trong các ngõ xóm bên mặt hồ lau lách… Chất giọng ngọt ngào dáng múa lung linh, danh tiếng của nàng vang dội gần xa, khắp kinh thành. Dạo ấy, phủ chúa mở tiệc lớn. Giáo phường được cử vào hát múa cho nhà chúa. Thấy nàng có tài sắc siêu nhân đi đứng có lời thơ tiếng nhạc, lại giỏi thơ văn, chúa ra lệnh giữ nàng ở lại trong phủ. Nàng khóc với cả kép đào. Ông này nói lớn: "Nàng là người của tôi". Ông liền bị lính xách nách, vứt ra ngoài đường. Về sau, ông chán đời, không đánh đàn nữa, không đệm đàn cho tiếng hát bất cứ một ca nương nào. Chỉ khi nào đàn cho nàng Huệ hát thì tiếng đàn mới đích thực là tiếng đàn của tâm hồn ông. Ông bỏ nghề đàn, đi lang thang. Chúa Trịnh phong cho nàng Huệ là Ngọc Kiều phu nhân, trông coi ban nữ nhạc. Chúa lại sai làm cho mẹ nàng một ngôi nhà nhỏ để nàng đi về cho tiện. Đến khi đứng tuổi, nàng xin phép chúa cho về ở hẳn tại ngôi nhà này để phụng dưỡng mẹ già. Nàng vẫn tiếp tục nghiệp cầm ca. Nơi ở của nàng lại là nơi đi lai của những bậc danh cầm, danh ca một thủa. Khi nàng từ giã cõi đời, nơi đây trở thành một ngôi đền gọi là đền Đông Hương. Nàng được dân chúng thờ cúng với danh hiệu Đông Hương thần nữ.

Cùng với câu chuyện kể trên, trong dân gian còn có một chuyện nữa kể về nàng. Câu chuyện như sau: Đào nương Nguyễn Thị Huệ bị bọn hoạn quan bắt, nạp cho phủ chúa, ghép vào tội nữ nhạc. Nàng được chúa nể vì nâng niu. Chính phi của chúa rất đỗi lo sợ vì nàng có thể chiếm mất địa vị của bà. Bà rắp lòng hại nàng. Bà gọi nàng đến cung riêng của mình, chuyện trò thân mật, kết nghĩa thành chị em. Điều này làm cho chúa rất hài lòng. Một hôm, bà ép nàng uống rượu có pha gan công khiến nàng vừa bị say, vừa bị đầu độc. Bà chính phi liền lệnh cho bọn tay chân khiêng nàng đi, chôn sống. Chôn xong, mọi vết tích được xoá đi rất kỹ. Âm mưu này được xúc tiến rất bí mật. Khi chúa nhớ tới hỏi đến nàng thì các quan đều nói là nàng đã bỏ ra đi một lúc nào đó mà chẳng ai hay biết, và rồi, nhà chúa cũng quên nàng đi. Chỉ có những chị em ca nương, những người yêu mến nàng, yêu tiếng hát của nàng nhỏ những giọt nước mắt thương tiếc mà thôi. Không ngờ, được ba năm sau, bà chính phi bị bệnh điên dại, lúc mê, lúc tỉnh. Thỉnh thoảng, bà lại vừa nói vừa khóc: "Đáng thương quá… sao mà nó lại đẹp đến thế, lại hát hay đến thế… Đến ta cũng phải mê nó"… Nhiều thầy thuốc giỏi khắp nơi được vời đến cũng không chữa chạy nổi. Một hôm, vào một buổi chiều, quần áo tả tơi, bà chạy ra khỏi cung, tới bên bờ hồ, chỉ đúng vào cái nơi mà mấy năm trước bọn tay sai của bà đã chôn Thị Huệ rồi hét to lên: "Đây này, nó nằm đây. Ta đã giết nó… Trời ơi… Ta đã giết em…" Hét xong, bà ngã vật xuống, tắt thở.

Đêm đó, những người yêu mến nàng đã đào chỗ đất ấy lên. Họ thấy nàng Huệ. Hài cốt của nàng được xếp vào một cái tiểu sành và được đem chôn ở dưới nền nhà của nàng. Và ngôi đền được lập nên để hương khói cho nàng. Mọi người thắp những nén hương để tiếc thương nàng và để nói lên rằng tài hoa và nhan sắc của nàng là bất tử, và cái chết oan khiên bi thảm của nàng được ghi vào bia miệng muôn đời… Đền Hàng Trống bây giờ, chính là đền Đông Hương ấy.

TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi thì bố mất. Mẹ ông là vợ ba, phải bỏ nhà ra đi cùng cô con gái nhỏ. Bà là một ca sĩ tài hoa, nhan sắc. Bà ra đi với tấm lòng của một người mẹ cao cả, phi thường đến nỗi cuộc đời chật hẹp không hiểu nổi.

Từ đó, cậu ấm Hiếu sống với người anh cùng bố khác mẹ. Lúc 5 tuổi, cậu đã biết đến câu: “đường hoa son phân đợi”. Cậu được học nhiều có khiếu văn thơ và cuộc đời xê dịch theo đường hoan lộ nay đây mai đó của người đỡ đầu. Vì vậy ông được dạy dỗ theo khoa cử của nghiệp nhà khoa bảng đã sáu đời làm quan.

Nhưng đến lúc cậu mười lăm, mười sáu tuổi, cảnh nhà lâm vào thế túng quẫn, nghèo khổ. Năm mười bảy tuổi, đã có bài đăng báo. Cậu ấm cựu học được rất nhiều qua tiếp xúc với những cuốn sách của phương Tây được dịch qua Hán văn. Chính những cuốn sách đó đã thổi vào ông nhiều tư tưởng mới mẻ. Thế là trong ông đã được thổi lên những trận mưa Âu, gió Á. Hành trang của Tản Đà ngổn ngang nỗi lòng với làng Khê Thượng, Bất Bạt, Hà Tây, lòng say mê vẻ đẹp của đất nước, lòng yêu quý mọi người, về hình ảnh tài hoa và đầy bi kịch của người mẹ và em gái, mong muốn làm một việc gì giúp nước mà không được, cái nghèo đói dữ dội luôn bám chặt lấy mình… ông đi khắp nơi, từ Nam chi Bắc, vừa làm thơ văn, vừa làm kẻ giang hồ phiêu bạt. Ông gắn cuộc đời của mình vào số phận đất nước.

Trong khoảng 20 năm, từ 1915-1935, ông đã trải qua nhiều công việc mệt nhọc, đầy khó khăn: làm thợ, làm văn, làm chủ bút nhiều tạp chí, dịch thuật, mở nhà xuất bản để tự nuôi mình. Ông cam chịu nghèo nàn, vất vả sống tự do phóng khoáng chứ không chịu đi làm quan, mặc dù một số những người họ hàng thân thích và bạn bè sẵn sàng thu nhận hoặc tiến cử ông.Cuộc sống no đủ, giàu sang không cám dỗ được ông. Trong khoảng 20 năm này, ông đã viết hàng loạt tác phẩm đồ sộ với nhiều hình thức: thơ, văn, báo, dịch thuật biên kịch, làm các bài hát cho các kiểu diễn xướng dân gian và ca kịch cổ truyền… Ở mặt nào ông cũng thể hiện được sự sắc sảo, có góc cạnh, độc đáo, tài hoa, tràn đầy tình cảm với con người và cuộc sống. Ông có cách nhìn, cách hiểu, cách nói riêng của mình. Chất và lượng những cuốn sách và những trang báo của ông làm rực rỡ cả một thời kỳ.

Nhà thơ Xuân Diệu đã viết: Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhân đã có can đảm làm thi sỹ một cách đàng hoàng, bạo dạn. Ông dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi… ".Ta có thể thấy cái tôi của ông đắt giá vì nó cũng là cái tôi của đại đa số. Cái vui, cái buồn, cái giận dữ, cái hờn dỗi của ông cộng hưởng với cái vui, cái buồn, cái hờn dỗi của mọi người. Bài thơ "thề non nước" của ông đã làm rung động tâm hồn bao thế hệ. Ai nấy đều thuộc lòng là vì nhân dân lúc ẩn, lúc hiện đều có một lời thề son sắt, thương nước non tươi đẹp bị chà đạp và quyết chí trả nợ non sông, tô điểm non sông cho con cháu mai sau. Cái lời thề mà tất cả mọi người Việt nam đều có trong lòng đó thống nhất với đầu đề và nội dung bài thơ "Thề non nước". Ông cũng kêu gọi mọi người bồi lại Bức dư đồ đã rách nát qua 4 bài thơ tha thiết… trình bày rằng bản đồ của đất nước bị rách nát, chúng ta phải quyết tâm bồi lại và hy vọng, tin tưởng sẽ làm được công việc vá trời lấp biển đó. Bài "Thề non nước", "Bức dư đồ” cùng với một số bài thơ, văn khác đã không chỉ có mặt trên sách báo mà còn được dùng vào những bài hát, dùng cho ngâm vịnh, biểu diễn ca trù, xẩm… để chúng lan toả đến tận các bến tàu, quán chợ, các ngõ ngách hẻo lánh khắp đạt nước. Sau hai bài thơ đó, ông lại bổ sung thêm một loạt những bài theo điệu Đò đưa, Hành Vân, Cổ bản, Xâm chợ, Xâm nhà trò, Nam Ai, Tuồng… Những bài hát đó được khắp nơi yêu mến. So với thời gian lúc đó, chúng rất mới mẻ, làm cho tiếng phách, tiếng đàn và cách hát cổ truyền cũng trở nên thanh tân, tươi mát, gần gũi với cuộc sống. Ông có tâm huyết và đi nhiều nơi. Đến đâu cũng say sưa với cảnh với người. Cảnh những người đáng yêu hoặc đáng thương đều được ông đưa vào thơ. Ông tả phong cảnh thật tài tình mà bay bổng:

Một dãy lau cao làn gió chạy

Mấy cây thưa lá sắc vàng pha

Ngoài xa trơ một đống đất đỏ

Hang hốc đùn lên đám cỏ gà…

Ông tả tình thì sâu lắng, đầy hình ảnh và nhiều nhạc tính, kịch tính:

Một đôi kẻ Việt, người Tần

Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi móng

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Lòng nhi nữ Việc quân vương

Duyên nợ tình kia dở dang

Nệm gấm vó câu

Trăm năm giọt lệ

Ngàn thu khói hương…

Thơ kể chuyện của ông làm người đọc xúc động, say mê và bâng khuâng cùng dư vị của nó:

Lá đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh Một phút trần ai

Uớc cũ, duyên thừa có thế thôi

Đá mòn, rêu nhạt

Nước chảy huê trôi

Cánh hạc bay lên vút tận trời

Trời đất từ đây cách xa mãi

Cửa động

Đầu non

Đường lôi cũ

Ngàn năm thơ thẩn bóng giăng chơi…

Tản Đà say mê con mắt Phú Yên, tiệc xòe Văn Bán, giọng ca xứ Huế, các món ăn đặc sản từng vùng… ông đưa việc thưởng thức và cách chế biến các món ăn lên mức nghệ thuật, lên mức văn hoá ẩm thực. Riêng thịt chim, ông cũng tìm đến: chim sào, chim ngóng chả, chim hấp cách thuỷ… ông thưởng thức các món ăndân tộc rất sành đã đành, ông còn nhấn mạnh thức ăn phải ngon lúc ăn phải là lúc "ngon", người ngồi ăn với mình cũng phải "ngon". Ông cho biết cửa hiệu nào có các sản phẩm đáng lưu ý về chè tàu, thuốc lá, rượu cúc cháo gà, gỏi cá… Ông trân trọng từng ngọn rau bí, rau sắng, quả cà xứ Nghệ… Ông nổi tiếng hơn cả là về thơ tình có chất hiền hoà, êm dịu, nhẹ nhàng mây nước, bình dân. Nhưng phong lưu và trang nhã:

Trận gió thu phong rụng lá vàng

Lá bay hàng xóm, lá bay sang

Vàng bay mây lá năm hồ hết

Hờ hững, ai xui thiếp phụ chàng…

Thơ ông nhiều bài buồn, sầu lắng nhiều lúc lại hờn dồi, trách móc. Ông hay lấy cái ta ra làm nhân vật chính. Nhưng, đúng hơn là cái chúng ta. Vì ông hoà cái thân thế quá khốn khổ của ông vào thân thế của mọi người mà ông yêu: chồng người đốt than, người yêu của ông, mẹ ông, những người mạt hạng, cô gái trong kỷ niệm, cô gái hái hoa đào, cô hàng cau, Mỹ Thâu, cô Tây về già, cô gái nhà chài, cô hái dâu… Bốn người tình qua cuộc đời của Tản Đà với 4 cuộc tình: Tình yêu thất Vọng, tình yêu lãng mạn vô vọng, tình yêu kỷ niệm thời thơ ấu và tình yêu nghệ sĩ. Tất cả đều có kết cục bi thảm. Tản Đà cũng được ca ngợi về mặt văn xuôi bóng bẩy, sâu sắc, tha thiết, nhiều lượng thông tin, thành thực, ngây thơ mà lại cũng rất thơ.

Ngoài ra, Tản Đà còn dịch vào khoảng 100 bài thơ Đường Nhiều bài thơ dịch của ông được coi là phổ biến nhất, được nhắc đến nhiều nhất, được đăng đi, đăng lại nhiều nhất. Trong khoảng hai mươi năm (từ 1915 đến 1935) và ngay cả đến bây giờ, hầu như chưa ai có được những bản dịch vượt được ông. Đặc biệt là những bài dịch như: Hoàng Hạc Lâu, Biệt hữu nhân Giang hành, Dạ Vũ, Thu giang tông khách, Khuê oán, Thiên Thai… Ông uyên thâm Hán học. Ông thích xê dịch, đa tình. Ở ông, yêu, vui, buồn đều cực đoan, gần như đến mức điên dại, ngông cuồng, thấm chất nghệ sĩ. Xét về con người và tác phẩm, ông là một trong những nhà văn hoá có bản lĩnh và bản sắc độc đáo của Việt nam. Ông đứng sừng sững trong nền văn học Việt nam như là một hiện tượng. Ông đáng được xếp vào ngồi hầu rượu 28 vị thánh hiển linh của Việt nam trong Việt điện u linh. Có người cho rằng tác phẩm của ông như một người đàn bà đẹp. Tuy vậy, người đàn bà đẹp nhất trên đời cũng chỉ có thể cho ta những cái gì mà họ có như Thôi Oanh Oanh đã nói trong truyện Tây Sương Ký có mùi son phấn mà nổi tiếng. Xưa kia, Napoléon trong lần đầu tiên gặp Goethe, ông ta nói với thi hào: "Ông là một Con Người…"

Thi sĩ Tản Đà cũng là một Con Người…

NHƯ HOA

Đêm ngày mồng hai tháng mười một, năm Giáp Tý, sau khi đóng xong vai Thị Mầu lên chùa phục vụ Đại hội Thông tin quân đội tại Bắc Giang, Như Hoa xếp lại vài chục bó hoa được tặng trong và sau lúc diễn, chị vội vàng tẩy trang, ăn suất bồi dưỡng rồi lên xe về Hà Nội cùng với 9 diễn viên. Ô tô phóng nhanh, về đến cầu Chui gần Gia Lâm thì tai nạn ập đến. Chiếc xe bị lật đổ. Một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Các nạn nhân được đưa về trạm xá địa phương rồi về bệnh viện Việt Đức.

Sáng ngày hôm sau, từ bệnh viện, tin báo đi cho biết nghệ sĩ chèo Như Hoa đã mất. Thư từ, điện chia buồn khắp nơi gửi về tới tấp và liên tiếp. Cả nước biết được tin này rất nhanh chóng. Người nọ bảo người kia tất cả những người yêu hát chèo trong cả nước và cả ở nước ngoài, ai mà không được nghe tiếng hát hoặc đã học tiếng hát của Như Hoa. Người nghệ sĩ cần mẫn này đã từng hát rất nhiều bài trong các chương trình, lại đảm nhiệm luôn cả nhiệm vụ dạy hát chèo trên làn sóng điện của Đài Phát thanh tiếng nói Việt nam mỗi tuần một buổi trong suốt từ những năm 1958 cho đến cũng không ai quên nổi những buổi dạy hát đậm đà đó với những bài "Lới lơ" man mác, có đoạn “lưu không”: tinh… tinh… tinh… chát… rồi ngả sang: "Ai xui là xui cây lúa… chín… í a… chín ngập… đồng”. Đến buổi khác lại hát “Sắp qua cầu”, "Sắp đường trường”, "Chức cẩm hồi văn “truyện năm cung”?… rồi đến “Sổng”, "Hát văn”…

Cũng không phải là ít người có thể dạy hát chèo trên làn sóng. Nhưng, Như Hoa được chọn. Giọng của Như Hoa là giọng chèo trong sáng, mượt mà, tròn vành rõ chữ, chân chất "đổ hạt” xênh xang, dân dã mà kiêu sa. Hơi chèo và giọng chèo này đu đưa, ngân nga một dư vị ngọt ngào. Chúng lấp lánh hình ảnh những cánh đồng như lụa, dòng sông Cầu, những đình chùa, miêu mạo xứ Kinh Bắc. Nơi mà một làn gió cũng mang điệu dân ca. Tiếng hát của Như Hoa có sự say đắm, có chút, buồn pha màu sương khói. Như Hoa thường không nguôi nhắc lại. "Mẹ em mất đi khi bà còn rết trẻ". Chị luôn nhớ lời bà láng giềng nói với chị: "Khi xưa, mẹ cô đẹp và hát hay lắm. Tiếng hát của bà làm cho cả vùng Bắc Ninh này say mê"… Chính tất cả những điều đó đã hoà tan vào tiếng hát của Như Hoa làm cho nó có những vần ví riêng biệt.

Nghệ sĩ Như Hoa đã ngừng thở, nằm trên chiếc bàn bệnh viện. Các chị em trong tổ chèo đứng quây xung quanh bàn như hàng rào danh dự để tránh mọi sự ồn ào xô đẩy, chen lấn của một số người muốn đến nhìn mặt chị, làm khó khăn cho công việc khâm liệm. Chị Phương Nhung vợ nhạc sĩ Vũ Thanh trang điểm, son phấn cho chị, sửa lại đôi lông mày cong và dài. Mấy chị em khác mang trang phục của vai Thị Mầu lên chùa mặc cho chị. Thế là Như Hoa được mặc yếm vàng màu mỡ gà, áo dài đỏ màu hồng, thắt lưng xanh màu hoa lý, khăn chít cài hoa… Mớ tóc được để đuôi gà vắt Vẻo. Chị Phương Nhung chỉnh lại phục trang, đặt một cái quạt vào tay Như Hoa. Rồi mọi người đặt cô Thị Mầu Như Hoa vào áo quan như thể Như Hoa còn sống vậy chị ở tư thế chuẩn bị diễn vai kịch của mình. Chỉ đến mấy tiếng trống là Như Hoa sẽ ra chiếm lĩnh sân khấu Nhưng, Như Hoa nằm bát động, xung quanh chỉ là nước mắt, tiếng khóc và hoa. Thương quá và yêu quá ở một số nước phương Tây, người ta chôn một vài diễn viên hoặc mệnh phụ nổi tiếng với một vài cuốn sổ tay hoặc mấy lá thư tình. Ở ta, Như Hoa được chôn với đầy đủ phục trang của vai diễn Thị Mầu thì thật là độc đáo.

Đám ma Như Hoa đầy hoa, kéo dài suốt dãy phố Phủ Doãn rồi lan toả ra những dãy phố khác cho đến tận nghĩa trang Văn Điển. Hai bên đường, ở nơi nào cũng đầy người. Mọi người đứng kín cả những gác hai, gác ba, gác bốn để nhìn kỹ xe tang và đưa mắt chào vĩnh biệt. Chúng tôi mang vòng hoa viếng, đi từ phố Bảo Khánh để đến nơi Như Hoa nằm chỉ có một quãng đường ngắn mà phải đi mất 15 phút vì đám đông chen lấn nhau dữ dội quá. Chúng tôi cứ bị dạt đi hết chỗ này đến chỗ khác như bị lạc trong biển người. Thật là một hiện tượng. Sau đó, chừng vài tháng, những điện văn, thư từ, những bài thơ tiếc thương Như Hoa từ mọi miền lại tới tấp gỉ ri về Đài Phát thanh tiếng nói Việt nam, là nơi mà Như Hoa làm việc và gia đình Như Hoa.

Anh Cầm Phong là chồng chị có cho tôi xem hàng chồng những bức thư gửi đến anh, tỏ lòng thương xót và quý mến Như Hoa. Có bức thư viết: "Như Hoa đã không chỉ là đứa con của xã Liên Sơn, huyện Tiên Sơn Bắc Ninh nữa mà đã là ca sĩ, kịch sĩ của cả đất nước rồi.

Nhà thơ Vân Trình đã viết: Tiếng hát Như Hoa Như những cánh hoa Theo làn sóng điện bay khắp gần xa Mang niềm vui đến mọi nhà Cho những trái tim thêm tươi thắm Cho cuộc sống thêm hài hoà Cả những tâm hồn còn tràn trề nước mắt Tiếng hát này cũng có thể lau khô… Đúng vậy, tiếng hát của Như Hoa đã nuôi sống được tinh thần con người, một nghệ sĩ đích thực mới làm được điều đó. Về mặt biểu diễn, Như Hoa chỉ diễn một số vai mà mình thích. Chúng hợp với tạng của chị như những vai nữ chính trong các vở đường về trận địa", "Con đường hạnh phúc”, sao đổi ngôi vai Mẹ Đốp trong Quan âm Thị Kính, vai Thị Mầu trong Kim Nham, vai Chị Dậu trong Tắt đèn… Vai nào chị cũng diễn được rất xúc động. Đó là tài năng của chị đã nói lên được sự xúc động của mình. Những vai diễn của chị đều ngẫu hứng, tài tử, toả sáng như lời lão nghệ sĩ Năm Ngũ nhận xét. Như Hoa là học trò yêu của những cây cao bóng cả làng chèo: Bà Cả Tam, bà Dịu Hương, bà Phẩm, Hoa Tâm, ông Năm Ngũ…

Ông Đinh Khắc Ban là một trong những cây đàn đáy hàng đầu của Việt nam nhận được tin Như Hoa mất, ông đờ đẫn một lúc lâu rồi mới bảo: "Ôi! Nó là con chim, trước khi chết nó đã hót hay lắm…" Những năm 1963-1964, Như Hoa đã sang biểu diễn ở Campuchia và Trung Quốc vài lần. Và lần nào Như Hoa cũng nhận được sự hoan nghênh đặc biệt hiếm thấy ông cục trưởng Cục nghệ thuật út Chon, bảo: Tiếng hát của Như Hoa đầy thuyết phục và mỏng manh. Người nghe như được gặp một Bự gì trọng đại lắm…" Như Hoa còn hát được Quan họ, Xa Mạc, Bồng Mạc. Có điều Xa Mạc chị đưa thật não nùng. Hơn ba năm sau, chiếc tiểu đựng nắm xương cô quạnh của Như Hoa được mang về làng quê Tiên Sơn. Cả làng xóm chôn rộn hẳn lên. Mọi người đến thăm hỏi. Cả những người làng bên cạnh cũng sang. Trong làn khói hương nghi ngút, mọi người thương cho Như Hoa nhưng cũng tự hào vì họ có được Như Hoa. Chúng ta đã mất Như Hoa. Nhưng, những lớp trẻ đã tiếp nhận tiếng hát của Như Hoa và tiếp bước Như Hoa. Ngày nay, mỗi khi có tiếng trống chèo, có điệu Lới Lơ hoặc thấy Thị Mầu xuất hiện, chúng ta không khỏi chạnh nhớ đến Như Hoa. Có được một nghệ sĩ vừa hát, vừa đóng kịch, nhan sắc và tài hoa của đất Kinh Bắc như Như Hoa thật đáng tự hào. Như Hoa đã hết lòng vì nghệ thuật mà nghệ thuật cũng đã làm cho Như Hoa được sống lâu hơn trong lòng người ngưỡng mộ.

THANH THANH HIỀN

Năm 1994, các chiến sĩ trên đảo Trường Sa nói với nhau: "Thanh Thanh Hiền làm náo động cả đảo. Hiền đổ bộ lên đảo và các buổi biểu diễn liên tục của Hiền luôn gây nên những đợt sóng vỗ tay không dứt”. Chưa bao giờ đảo Trường Sa lại sống động với sự có mặt của các đoàn văn công hoặc đoàn ca nhạc nào đến đảo như lần ấy. Là một diễn viên đa năng, tài sắc, nhỏ nhẹ tha thiết thanh xuân có dáng dấp một nữ thuỷ thần, Hiền vượt biển, đến đảo biểu diễn. Và cuộc biểu diễn này được coi như là một sự kiện. Sao vậy? Vì Hiền đáp ứng được sự khao khát nhiều mặt: cải lương, dân ca, nhạc nhẹ, nhạc rock, kịch… Riêng về cải lương, Hiền biểu diễn được cả đào chính, đào lệch, đào thương và đào lẳng. Mà tất cả đều ở đỉnh cao của thành công. Phần nhiều các chiến sĩ đều đã được xem Hiền diễn cải lương và ca nhạc trên vô tuyến truyền hình. Tuy vậy, họ vẫn ngỡ ngàng. Họ chưa thấy một người diễn viên nào lại cóđược một chân trời biểu diễn rộng lớn như vậy. Đảo đã tặng Hiền huy chương chiến sĩ Trường Sa và Hiền xúc động sáng tác một số bài thơ về đảo để tỏlòng biết ơn.

Thanh Thanh Hiền ca cải lương từ khi mới bập bẹ. Lên sáu tuổi học đàn hát. Mười ba tuổi đã trở thành diễn viên Nhà hát Cải lương Trung ương. Sau đó, Hiền là sinh viên duy nhất đặc biệt của trường Đại học Sân khấu đã đạt điểm tối ưu ở cả ba môn: ca, diễn, múa. Lúc 15 tuổi, Hiền đã diễn thành công vai xuất sắc một nhân vật có số phận éo le, phức tạp đầy bi kịch. Nhân vật đó đã có được một tuyên ngôn âm thầm: "Người ơi! Ta lặng nghiệp phong trần". Thế rồi, tiết mục này đẩy nhà hát phải tăng thêm nhiều buổi biểu diễn. Hiền đã luôn luôn làm mọi người phải ngạc nhiên về sự đằm thắm và thanh xuân trong biểu diễn của mình. Năm 1991, Thanh Thanh Hiền đoạt giải Tài năng trẻ, rồi lần lượt đoạt thêm một giải khác. Rồi Hiền diễn vai chính trong chừng 20 vở cải lương để trở thành ngôi sao cải lương không có đối thủ ở miền Bắc và miền Trung. Một số nhạc sĩ mời Hiền hát những ca khúc cách mạng. Hiền có một đình duyên, hàm răng xinh đều mắt phượng, lông mày quét ngang, đã hoá thân vào cô du kích, cô gái Tày thực sự mà hư ảo hát lên những bài Bắc Sơn, Nhớ chiến khu… Hiền hát với giọng trầm lắng, có ngọn lửa bên trong, và thêm vào đôi cánh của sự ngợi ca nhớ nhung, bi tráng. Lại có thêm một chút mơ mộng, tâm linh làm cho giọng hát và phong thái biểu diễn khác hẳn với mọi ca sĩ khác, bừng lên cái khí thế thúc giục lòng người. Hiền đóng vai Thị Mầu trong vở kịch có tên là "Khát vọng bi thương", đã gặt hái được hiệu quả cặp díp cả về sân khấu lẫn điện ảnh. Đạo diễn Trần Phương quả là có con mắt tinh đời, đã chọn Hiền đóng vai Thị Mầu. Người ta bảo Trần Phương cao tay về việc chọn diễn viên Hiền vào vai Thị Mầu làm nghiêng ngả cả chiếu chèo. Thị Mầu của Hiền không chỉ lẳng lơ mà còn lột tả được tình yêu mãnh liệt với những đường nét vờn, chào, khao khát, quyến rũ đầy chất đời, mà cũng thiêng liêng nữa, vì các thần thánh cũng yêu đương dữ dội như người trần thế. Thuỷ Tinh còn yêu Mỹ Nương đến tận bây giờ và mai sau kia mà. Nhưng đến lúc Thị Mầu lã chã nước mắt thương con thì thật cảm động. Trường đoạn này có cái sắc thái của Truyền kỳ mạn lục, có pha chút thánh thiện. Cảnh Hiền ca cải lương, sắm vai Dương Quý Phi trước lúc uống thuốc độc tự tử là một cảnh độc đáo nhất, mà cũng là cảnh biểu thị được toàn phần tài toa của Hiền. Người ta thấy Hiền đôi mắt xa vời chìm vào hương khói. Động tác lắc vai làm cho khán giả lạnh toát cả người. Động tác cúi xuống đầy nét hoa mỹ sao mà nặng nề thế. Hiền lột tả đến tận cùng trạng thái tình cảm của người đẹp nát đá tan vàng lâm vào bi kịch không lối thoát: rối bời, yêu thương, nhớ nhung, buồn tủi, giận hờn, nuối tiếc… với một gam màu giọng kim pha cổ, mượt mà, nồng ấm, bi thương… Cảnh diễn độc đáo này, từ 65 năm trở lại đây chỉ có hai người diễn được và ca được đến đỉnh hoàn thiện là quái kiệt Phùng Há và Thanh Thanh Hiền. Nó đựng nên một bầu trời ảm đạm có thác nước dữ dằn, có máu lửa, có tiếng gió thê lương, tiễn một giai nhân sang thế giới bên kia.

Những năm gần đây, ngoài việc biểu diễn cải lương và ca nhạc trong nước, Thanh Thanh Hiền được mời đi biểu diễn ở Thái Lan, Lào, Phần Lan, Na Uy; Thuỵ Điển. Ở đâu Hiền cũng gây được ấn tượng sâu đậm làm say đắm lòng người. Hiền đã đưa những nét đẹp trong ca kịch Việt nam vào vườn hoa nhạc kịch của thế giới. Hiền còn trẻ, còn đi xa. Hiền phối hợp nhịp nhàng dáng dấp, con tim và trí tuệ với nhau để tạo ra được cái vẻ đẹp tổng hợp đến mức huyền ảo. Hiền diễn và hát bằng tâm hồn, đó là một nghệ sĩ giàu có về tình cảm và ý chí, có sự nhạy cảm tinh tế. Hiền có cái mũi bán Hy Lạp, nét phúc hậu phương Đông. Hiền có nét suy tư Do Thái, học nhiều, đọc nhiều và còn sáng tác thơ. Hiền là một ngôi sao sáng trên bầu trời sao nghệ thuật của sân khấu Việt nam.

ANH LUÂN TRỨNG

Những năm sau Cách mạng tháng Tám 1945, anh Luân sống phóng khoáng đó đây. Anh ít học nhưng hiểu biết về cuộc sống vì anh va chạm với đủ lớp người. Anh có thể và đã là thợ cắt tóc, thợ giặt là, buôn bè buôn chuyến buôn vải, buôn trứng… Người ta gọi anh là con dao phay pha. Có lúc anh rất nhiều tiền, có lúc "ba đào" không một xu dính túi. Anh có tài xoay xoả, cái "xoay xoả" mà cuộc đời cho phép nên anh bình tĩnh, đàng hoàng ngay cả những lúc gặp khó khăn. Có điều anh thường mê đọc sách, báo, truyện… và xem cải lương, tuồng chèo. Bần cùng, anh mới phịu xem kịch nói. Anh thuộc nhiều chương, hồi trong Tam Quốc, Thuỷ Hử, Đông Chu Liệt Quốc v.v… có lúc anh nói: "Tớ thương Đơn Hùng Tín, tớ thích Kinh Kha"…

Anh không có tài kể chuyện nên kết bạn với anh Bội, là công nhân nhà máy thuốc lá, hay kể chuyện ngày xưa rất duyên và đủ mọi tình tiết lấp lánh. Những điều anh Bội kể ra cứ nhảy múa trong đầu óc anh, mặc dù đó là những chuyện mà anh dễ đọc. Anh thuộc rất nhiều bài thơ. Cả thơ mới, thơ cũ, thơ chữ Hán, mặc dù anh không biết chữ Hán. Anh giao du rất rộng, bạn của anh có cả những ông nọ ông kia, trí thức, nhà văn nhà thơ, bác xích lô, những người ngổ ngáo, bác Yên bán bánh quế, bác Chín bán mía tiện mía cả hai tay cứ như múa kiếm… Trong số bạn của anh có một điểm giống nhau là họ đều là những người phóng khoáng và có một vài điểm đặc biệt nào đó, hoặc trong đời họ có một vài sự tích. Như kiểu nhà văn X. chuyên viết những chuyện tình dào dạt nhưng đứng trước phái yếu là đỏ mặt và tìm đường lảng tránh, bác Phổ Đất lừng danh cả khu an toàn Quảng Nạp, yên Thông những năm xưa. Lại như bác Chín Khế thổi kèn đám ma hay đến nỗi chinh phục chín cô vợ ở chín làng khác nhau tại vùng Bưởi. Trong số bạn đông đảo của mình, anh thân thiết nhiều nhất với giới văn nghệ sĩ, đặc biệt là các nhà văn, nhà thơ mà tác phẩm của họ đã làm cho anh xiêu lòng. Anh cho rằng những người đó “nhả” ra những bài văn, hay thơ có ích cho cuộc đời. Do đó, là những người chơi được. Nhưng họ sống nghèo nàn. Họ lại cần phải có những cái "dư" thi mới tìm được những điều hay, điều mới. Họ sống quá vất vả… Không no cơm ấm áo thật sự thì còn đâu mà có thể "dư" được. Các cụ nói rất đúng: “Lập thân tối thị hạ văn chương”. Anh hạ quyết tâm giúp đỡ họ về nhiều mặt. Anh luôn mời các bạn văn, thơ đến nhà chơi để anh được học hỏi và tạo điều kiện cho họ gặp nhau trao đổi “ý kiến, bàn luận văn chương và đủ mọi chuyện trên đời. Những buổi họp mặt “tao dân” như vậy đều do anh đứng ra bố trí, tổ chức, đài thọ mọi chi phí một cách hào hiệp kể cả cơm rượu lại còn giúp thêm tí chút để bạn bè có tiền tàu xe đi lại. Nhà anh bao giờ cũng có một vài bạn văn ở lại làm thực khách. Có người ở lại một thời gian tương đối dài. Ai cũng quý mến anh, cảm ơn anh và bầu anh làm Mạnh Thường Quân. Để có tiền giúp đỡ mọi người, đỡ đần một số tác phẩm ra đời anh phải ra tay buôn bán trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Có lần, người ta gặp anh đi buôn vỏ dó tại phố Ẻn (Phú Thọ) bán cho người làng Bưởi làm giấy đó lụa in những tập thơ văn đặc biệt có chữ ký của tác giả có lần, gặp anh buôn trứng ở bến Phà Đen. Anh đã "phất" một dạo đủ nuôi chừng 10 người thực khách. Mọi người được nghe anh kể lại các mẩu chuyện về đời anh, vui có, buồn có.

Tên Luân Trứng được đặt trong lúc này. Trong công việc buôn trứng, anh tỏ ra rất sành. Anh là người chưa bao giờ bị bọn lái buôn ranh ma đếm thiếu và không hề nhận lầm những quả trứng kém phẩm chất. Anh chỉ cần trông và nâng quả trứng lên là có thể biết được là trứng chưa ấp hay đang ấp dở… có dạo anh em ngạc nhiên thấy anh thường hay sang giúp đỡ nhà bà láng giềng ru ngủ chú bé Đan bằng một giọng ru vời vợi qua những câu như: đồng tiền Vạn Lịch anh thích bốn chữ vàng" hoặc những câu trong "Lỡ bước sang ngang"? Vì bé quen rồi, có được nghe mấy câu ru của anh bé mới chịu ngủ.

Dạo đó (1959-1969), nhà thơ Nguyễn Bính mới viết xong vở chèo cô Son với sự động viên và giúp đỡ của anh Việt Dung là phó giám đốc Sở Văn hoá, phụ trách nghệ thuật. Anh được lĩnh tạm ứng 300 đồng. Nhưng anh nợ trên 400 đồng nên phải chi tiêu dè sẻn. Anh qua phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm và sà vào hàng thịt chó. Đó là một cửa hiệu nhỏ nhìn ra cái vườn hoa nhỏ rất vắng người lui tới. Những người tới đây thường là những khách bần cùng, vì đó là vườn hoa sau nhà Hoả Lò. Chếch một chút là chùa Bích Lưu, am thanh cảnh vắng có nhà sư bán một loại tương nổi tiếng gọi là tương của sư cụ chùa Bích Lưu. Trước cửa hàng có kê một tủ kính bày ớ a nhựa mận, một đĩa lớn bầy khúc thịt chó luộc cắt ngang với mấy khúc dồi, ít chanh giềng…Vào nhà hàng, anh Nguyễn Bính chỉ dám gọi. một cút rượu và băn khoăn tính đến gọi thêm một chút gì qua loa cho đỡ cơn thèm. Bỗng từ bên trong có người nói: "Cháu ơi! Dọn tất cả ra cho ông khách mặc áo đại cán nhé!”. Lát sau chú bé dọn đến cho nhà thơ hầu như tất cả các món mà nhà hàng có, làm cho khách hàng lúng túng, không hiểu ra sao. Hay là có sự lầm lẫn chăng. Mọi băn khoăn được giải quyết ngay lập tức khi anh Luân chạy ra ôm lấy anh Nguyễn Bính và reo lên: "Cố nhân, cố nhân". Anh tiếp:

Bẵng đi một thời gian, vật đổi sao dời.

Ta mừng gặp mặt, ta mừng cố nhân chén rượu.

Kẻ này "đói” chữ nghĩa chứ không nghèo tấm lòng. Kết giao với các nhân tài là một việc đẹp đẽ. Xin vài ngày để anh sửa soạn cho vở cô Son thật hay.

- Anh đã xem vở cô Son rồi à?

- Có anh bạn đưa cho tôi xem. Xem xong tôi “đổ” đấy

- Thế à? Cám ơn anh. Tôi không biết anh ở đâu mà đưa anh xem trước.

- Này. Đọc xong tôi xúc động quá. Anh nêu lại câu chuyện cô Son tài sắc yêu anh khoá Hồng. Khi anh này đi thi thì cũng đúng lúc cô ta bị ép vào kinh làm cung phi của Minh Mạng. Mười lăm năm sau vua mới nhớ ra và vời nàng đến gặp mặt. Nhưng trong cuộc gặp gỡ lứa đôi, cô Son phải bịt kín hai con mắt. Cái lệ luật quái ác này được đặt ra vì nghe đâu Minh Mạng không muốn để phái đẹp phải thất vọng khi thấy mình quá xấu xí (ông bị bệnh đậu mùa). Ông muốn cho cung phi tưởng tượng ra một thiên tử đẹp như hoa. Cô Son đã vi phạm luật lệ đó, giật tung băng the khi gặp Vua. Cô thuyết phục Vua bằng những lời thông minh. Vua đành phải tha cô và cho về quê cũ ở ven Hồ Tây. Về đến quê, cô còn phải trải qua nhiều cay đắng rồi mới gặp lại người yêu cũ. Khoá Hồng vẫn say mê cô, bỏ án từ quan về làm dân đen sống nghèo nàn lam lũ với cô Khi cô mất, mọi người thương cảm dựng lên miếu "Cô Son"… Tôi xin có hai câu đúc kết vớ vẩn cho cả câu chuyện:

"Mười lăm năm mới biết mặt chồng

Tên son đỏ mà cuộc đời đen tối…"

Hay! Hay tuyệt! Anh không được nói đó là hai câu kết vớ vẩn. Họ chuyển các món ăn ở ngoài bàn vào buồng trong để vừa mừng gặp lại nhau giữa một thực khách với một Mạnh Thường Quân. Chừng nửa giờ sau, anh Luân có một yêu cầu với anh Bính. Anh nói:

- Tôi biết anh bạn từ trước đến nay chỉ làm thơ tình, thơ lãng mạn, ví vu…Nay tôi muốn có quả rải mùa ở anh. Anh hãy làm cho tôi mấy câu thơ quảng cáo cho cửa hàng của tôi được đông người đến ăn, rất khó, tôi lại chỉ tin anh mới làm nổi.

- Tôi sẽ làm.

Anh Luân sai em bé mang ra tờ giấy hàng mã màu vàng, lọ mực và một chiếc que tre, anh Bính nghĩ một lát rồi viết:

"Không qua Bông Nhuộm thì thôi

Hễ qua chốc lát, xin mời tới đây”

Cổ truyền có món thịt cầy

Xào lăn, yến, chả, bóng, cay khôn bì…"

Anh Luân vui quá, vỗ đùi đen đét, mời thêm bạn mấy chén rượu và tự thưởng cho mình một chén vì đã phát hiện ra đúng người làm được bài thơ mình mong đợi. Anh cho dán bài thơ lên tủ hàng. Lại qua nhiều năm, tháng…Anh Luân đi nơi khác sinh sống bằng nhiều nghề. Nhưng đến giờ, anh vẫn giữ kỹ cái tờ giấy hàng mã màu vàng đã biến màu có bốn dòng thơ quảng cáo chính cống mà lại rất thơ ấy. Đó là bút tích của người bạn thân, là tác giả của các bài "Chân quê, tương tư", "Cô lái đò", "Ghen", "Cô hái mơ" v.v… đó là kỷ niệm của tình bạn. Anh còn gọi là tình văn chương. Thỉnh thoảng có dịp, anh lại giở bài thơ ra xem, rồi trân trọng xếp lại và cất đi, coi là của "gia bảo".

BÀ LÝ TẾ

Bà Lý Tế đã 92 tuổi, (năm 1995). Mắt bà đã kém Lắm nhưng vẫn đi lại được đàng hoàng. Bà về ở một gian nhà thờ họ ở Quốc Oai mà bố bà là trưởng họ. Từ những năm 1931, bà đã mở rạp Tam Kỳ hí viện, nay ở khu Kim Mã, gần chùa Kim Sơn và sau đó vài năm lại mở 10 gian hát ả đào, cách rạp hát chừng vài trăm mét. Tam Kỳ hí viện diễn cả tuồng, chèo, cải lương.

Rạp có hai đoàn diễn một đoàn lấy tên một diễn viên chính là Anh Đệ và một đoàn là Tạo Lý. Các diễn viên bổ sung cho nhau. Họ thường diễn được cả ba loại và luân lưu diễn ở khắp các tỉnh và các miền quê, miền núi. Mỗi đoàn gồm chừng 40 người. Trước tiên, bà chủ Lý Tế là một giai nhân, vì yêu nghề mà bỏ tiền ra, chiêu hiền đãi si.

Bà được nhiều Mạnh Thường Quân giúp đỡ. Các vị chức sắc từ cao đến thấp đều sẵn sàng giúp đỡ bà mở rạp và ra mặt khách thập phương, không có người đàn ông nào mà bà có cảm tình lại không yêu bà. Cả Hà Nội, nhất là khu vực gần Kim Mã đều biết bà. Với sự chỉ huy của bà, các buổi biểu diễn nhất thiết phải có mặt từ hai đến ba đào kép hạng nhất gọi là kép "hoa" hoặc đào "hoa" là những người tài hoa, nhan sắc làm cho khán giả mê mệt, như bây giờ người ta gọi là diễn viên ngôi sao.

Khi họ ra diễn, tiền tung lên sân khấu như mưa. Bà tính đến hiệu quả của buổi diễn. Có buổi được cô Hoa Tâm hoặc bà Ái Liên sang diễn cho rạp. Chủ rạp khuyến khích các diễn viên nổi tiếng tiếp xúc với mọi người và cử những đào hát xinh đẹp và tài năng đi “ngoại giao” và nhận các suất diễn. Họ nhận những suất diễn ở các phủ, huyện, xã hoặc ngay cả trong các dinh thự, phủ đường, các hội hè đình đám.

Cũng có nơi chỉ có vài người diễn, hai người hoặc một người. Đó là những suất diễn "thiêng". Những việc ngoại giao lớn quan trọng hoặc chuyên xoay xoả sao cho luôn có tiền nuôi nhau do chủ rạp đảm nhiệm. Hoa Tâm và Ái Liên đều là chủ của hai gánh hát. Họ cũng là hai diễn viên "vàng". Nhưng họ sẵn sàng diễn giúp Tam Kỳ hí viện. Cũng có thể vì yêu cầu đặc biệt mà vài diễn viên nổi tiếng được “tiếng bo” qua lại giữa các gánh hát. Họ có thể nhường diễn viên này cho gánh hát nào đó trong một thời gian ngắn. Đó cũng là một kiểu mà bây giờ gọi là Makerting hoặc là "chuyển nhượng cầu thủ".

Có lần, rạp mời ông Đinh Khắc Ban, đào Đàm Mộng Hoàn và cụ Trúc Hiền để mở một màn dạo chầu văn không chê vào đâu được trước khi diễn vở chính. Mà thế thật. Tiếng đàn đáy của ông Đinh Khắc Ban là tiếng đàn giang hồ số một. Tiếng trống chầu của cụ Trúc Hiền phải đổi bằng giá của cả một cơ ngơi nhà cửa, ruộng vườn và sự hi sinh của vợ con cụ trong suốt nhiều năm mới có được. Còn Đàm Mộng Hoàn thì khỏi phải nói. Đó là con chim oanh mỏng manh nhưng hót hay mà hai hãng đĩa hát Fathé và ASIA phải tranh nhau mời mọc và gọi nàng là viên ngọc của làng ca sĩ. Bà Lý Tế bảo rằng lớp biểu diễn đặc biệt này là để “chiều” những vị khách sành và làm say lòng khách, nói chung để có được lòng tin. Chủ rạp rất biết giá trị của từng người, thậm chí cả từng câu hát, dáng múa. Bà biết rõ tâm lý tác phong và cuộc sống riêng tư của từng người. Bà luôn nhắc nhở các diễn viên là diễn đẹp thế mới có thể nuôi nhau được. Những Lê Chiêm, Sĩ Tiến, hề Năm Ngũ, kép Thi, kép Nhã… thường có những suất diễn cho bà. Nghĩa là bà huy động được tất cả những đào, kép hạng nhất và siêu hạng của Hà Nội và cũng đón được những anh tài ở miền Trung và Sài Gòn ra. Do đó, Tam Kỳ hí viện mới có thể cạnh tranh được với Quảng Lạc, Hiệp Thanh và một vài rạp chớp bóng.

Thế rồi, vi vật đổi sao dời… Tam Kỳ hí viện chỉ còn một nhóm. Tuy vậy, họ vẫn đến diễn cho các đơn vị bộ đội cách mạng. Ông Lý là chồng bà đã mất. Bà đi bước nữa với một vị chỉ huy cao cấp trong quân đội. Ông có lòng với sân khấu và say đắm bà… Ngày nay, ở địa điểm gần chùa Kim Sơn (Kim Mã) chỉ còn vết tích một mảng tường có bốn chữ Tam Kỳ hí viện và gần đó còn có vết cũ của mười gian phòng hát ả đào, để đánh dấu một vùng đã từng là nơi nhộn nhịp ngựa xe, tài tử giai nhân, tối nào cũng vút lên những giọng hát cùng đàn sáo xôn xao. Những tích hát như: Duyên chị tình em, Dự Nhượng đả long bào, Giang tả cầu hôn, Kiều, Nhị độ Mai, Toà án lương tâm, Lã Bố hí Điêu Th quyền, Tông Trân Cúc Hoa, Phan Trần, Hoàng Trờn, Mộ cô Phương… không bao giờ vắng khách…

Sau Tết Ất Hợi (1995), bà chủ rạp Tam Kỳ hí viện xưa đến thăm lại bức tường có bốn chữ Tam Kỳ hí viện. Bà đã 92 tuổi, không còn nhìn rõ nữa. Nhưng trí nhớ của bà còn tốt lắm. Bà đã lui về quê từ lâu với hai bàn tay trắng, chỉ còn giữ lại làm kỷ niệm một hòm đạo cụ bằng gỗ và cây đàn cổ. Tuy vậy, chiếc hòm gỗ đó còn chứa cả nỗi niềm hân hoan siêu tuyệt. Suốt đời bà chỉ bỏ tiền ra, xoay xở mọi cách để nuôi anh em diễn trò chứ không hề xà xẻo của anh em một đồng xu. Tôi cảm động lắm về điều này, đến nỗi chẳng nói được nên lời. Bà nói thêm:

- Mình vì anh em, làm cái nghề múa hát này để mua cái vui, cái buồn bất tử… Bà nói sâu sắc mà tinh nghịch.

Hai đứa con của chồng bà được bà nuôi nấng từ bé nay đã trưởng thành. Chúng coi bà như mẹ đẻ. Những đào kép khi xưa làm việc với bà chẳng còn mấy. Bản thân bà không có con. Bà biết những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Lê Văn Trương, Nguyễn Bính… thường là thực khách của bà. Rạp hát cũng là nơi mà cái bạn văn chương đó đến viết văn và hoàn thành những bản thảo. Bà lại bảo, nếu không có mặt của các đào nương, son phấn và những sự trông nom chăm sóc, vuốt ve chiều chuộng tuyệt vời của cái mùi trần thế nồng nàn thì làm sao mà có nhà văn giỏi… Bà Lý Tế sống trong cô đơn và kỷ niệm. Tuy vậy, bà vẫn mang theo mình một mối khát vọng siêu phàm về sân khấu. Khát vọng này không bao giờ rời bà vì bà cũng không muốn rời nó.

CÁI TẾT CỦA NHÀ THƠ QUANG DŨNG

Năm đó, vào khoảng 1945-1960, gia đình anh Quang Dũng Tây Tiến (xung quanh hàng xóm gọi anh như vậy) ở một căn nhà nhỏ, hẹp ở phố Lý Thường Kiệt. Ngoài giờ làm việc ở cơ quan, anh chẳng mấy lúc có nhà. Anh đi khắp nơi, hết đến nhà bạn này lại đến nhà bạn khác. Anh rất nhiều bạn. Nhiều bạn và những người quen thường mời anh đến nhà và mời anh ăn những bữa cơm dưa muối. Anh dễ ăn. Có bữa chỉ vài củ khoai luộc cũng xong. Anh nói đùa là đã ăn mấy củ nhân sâm. Anh còn đi thư viện đọc sách và la cà ở các hàng quán hoặc bị hút vào đám xẩm, một trận cãi nhau…

Đi đâu với anh cũng là làm việc cả. Anh nghe nhiều, nhìn nhiều, giữ lấy những hình ảnh, những âm thanh rồi tổng hợp lại thành những chất liệu để dùng dần trong sáng tác thơ, văn. Anh gọi là đi nhiều để “nạp điện” rồi mới “nhả điện” được. Tôi ngạc nhiên vì anh đã dùng nhiều từ kỹ thuật chính xác và đắt khi nói chuyện với tôi. Thì ra, anh biết tôi đang theo đuổi công việc về kỹ thuật, khoa học. Và tôi cũng hiểu rằng anh Quang Dũng mày mò đến nhiều mặt: khoa học, kỹ thuật, y học, công nghiệp, mỹ nghệ thủ công… Cái gì cũng tò mò, muốn biết và học hỏi.

Hôm đó là trưa 30 Tết. Anh về nhà sớm và hạ quyết tâm ở với gia đình suốt 3 ngày Tết cho trọn vẹn (anh nói vậy). Anh về nhà, cửa nhà còn ngổn ngang. Chị Thạch, vợ anh đang bận túi bụi. Chị đang thổi xôi và cũng còn đang bực bội với cái tội lớn của nhà thơ là đã để kẻ cắp móc mất một số tem, phiếu mấy tuần trước đó. Chị bảo: "Ông đã chẳng giúp đỡ gì cho vợ con, lại còn…". Anh cười, xua tay:

Người ơi! Ta nặng nghiệp phong trần

Tôi nguyện dâng đời hết tuổi xuân

Tình bạn nơi tim, tôi kính giữ

Mặc dầu trôi nổi áng phù vân…

Chị dịu đi và trình bày một loạt vấn đề. Nào là chồng được 13 cân gạo, vợ 10 cân gạo, lương chẳng bao giờ đủ cả. Năm nay, chị lại thổi xôi. Anh Quang Dũng nói: "Thế là có bánh chưng rồi. Bà dỡ xôi ra lá, cho một ít nhân vào giữa, gói lại như chiếc bánh chưng vuông thành sắc cạnh, đem nấu lên một lát. Thế là ta cũng có bánh chưng như ai, lại không phải đun lâu tốn củi”. Chị Thạch cười: "Ông thật khéo bày trò", rồi làm đúng như vậy. Năm ấy, nhà chị có 12 các bánh chưng cải tiến. Tối 30 Tết, anh mở hàng cho vợ và các con, mỗi người một phong bao giấy đỏ. Chị Thạch cảm động bảo các con: “Phong bao của bố đấy”. Cũng có nghĩa là thơm thảo thôi chứ không có nhiều. Sau đó, mọi việc trong nhà lại do chị Thạch đảm nhiệm. Anh treo bức tranh Tết lên tường. Gọi bức tranh này là "Tĩnh vật" hoặc "Cúc vàng" đều được cả. Trong bức tranh này, anh vẽ mấy quả cam mọng vàng nằm trong đĩa. Cạnh đó là mấy bông cúc vàng xòe ra. Xa một chút là ông phỗng bằng giấy ở các chợ quê xưa. Bức tranh này anh vẽ từ mấy hôm trước, không ai biết. Nó gây một xúc động mạnh. Hoạ sĩ Phạm Viết Song thích bức tranh lắm, gọi nó là bức "Hương xưa". Hoạ sĩ Văn Đa ngắm bức tranh hàng nửa tiếng đồng hồ và gọi là bức "Hồn dân tộc". Thế là xong. Anh ra hẳn một góc riêng. Anh thổi sáo. Anh thổi mỗi bài chỉ một đoạn. Mà là đoạn anh thích nhất. Thôi thì đủ cả những: “Hòn vọng phu", Hà nhật quân tái lai, Si na nôi u ru, Biệt ly nhớ nhung, Trở lại Sôriăngtô…

Anh ra ngoài phố một lát, đúng 12 giờ, khi pháo giao thừa nổ ran mới về nhà "xông đất”, nói một vài lời chúc mừng vợ con, hy vọng năm mới gia đình sẽ được khoẻ mạnh, và nhất định sẽ nhấm khá hơn năm cũ.

Sáng mồng một Tết, anh "xuất hành" đi thăm chùa. Lúc về nhà gặp nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến chúc Tết và biếu hai chiếc bánh chưng. Nhà viết kịch Huỳnh Chinh cũng biếu anh hai chiếc bánh. Tối mùng một Tết, anh cầm bút viết đoạn đầu của bài thơ "Đường chiều thứ bảy”. Bài thơ này, sau được đăng trong tập, "Mây đầu ô” của anh. Đó là một bài thơ dài mang âm hưởng một trường ca, gồm 195 câu in trong 10 trang khổ 13 x 19cm. Bài thơ ấy đồng thời cũng là một bản nhạc, là bức tranh mà cũng là một khúc tâm tình. Nó kể lại quãng đời của một cô gái trong triệu người thời đại: Người thiếu nữ hay hát bài hát ưa thích mỗi khi lên hoặc xuống thang gác. Cô yêu một anh cán bộ quân đội đang chiến đấu ngoài mặt trận. Anh đã ngã xuống trong chiến đấu, không trở về. Ngày hoà bình lập lại, cô bé xưa đi bên người chồng mới. Cô thấy cuộc đời to, rộng và đã có bao nhiêu người thân yêu đã hi sinh cho mình, cho Hà Nội rực rỡ. Bài thơ đã có tiếng vang nó ngậm ngùi mà lóe lên những tia nắng lạc quan. Nó là một bản Sonate bi hùng mà chỉ có một nhà thơ lớn và đầy tài hoa mới viết nổi. Ngày mồng bốn Tết, anh Quang Dũng lại hăm hở đi nơi này nơi nọ, chẳng mấy lúc có nhà. Anh đến với mọi người, với người quen, người chưa quen. Anh có duyên làm quen với bất cứ ai và rất dễ xúc động. Tâm hồn cử mỏng manh và rung rinh. Anh tâm sự với tôi: "Phải biết làm quen và học tập những người giỏi hơn mình".

Chương III ( B)

LỆ THANH

Lệ Thanh sinh ra ở làng Văn, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Năm 10 tuổi, cô bé theo gia đình lên ở gần cửa Đông và học trường Hàng cót. Cô thường xin tiền mẹ cùng cô bạn thân tên Bích đi xem xi-nê ở rạp Văn Lang, Hàng Bạc. Năm 11 tuổi, bất chấp gia đình ngăn cấm, cô vào học hát ở gánh hát Quốc Hoa đồng ấu. Đến năm 15 tuổi, cô đã là một diễn viên chính thức, theo đoàn đi diễn khắp nơi: Gia Lâm, Tạm Thương, Khâm Thiên, Bạch Mai, Đào Duy Từ, Lạc Thành Tài, Tân Thành Ban v.v… rồi đi các tỉnh. Ông chủ rạp Quốc Hoa, Phó Đức Hanh là một con người tài hoa, đã sớm phát hiện ra Lệ Thanh có đủ 4 yếu tố quan trọng: thanh, sắc, tài, duyên.

Năm 16 tuổi, Lệ Thanh đã đóng được vai chính trong các vở Chiêu Hoàng - Trần Cảnh, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, Lá gan nhi nữ, Chiêu Quân… Qua mấy vở diễn này, Lệ Thanh được đánh giá cao về nghệ thuật nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy…Đó là những điều cần thiết nhất đối với những diễn viên cải lương. Nhưng 3 năm sau, Lệ Thanh mới "chín" trong những vai diễn sở trường của mình vì đã biểu hiện rõ nét được sắc độ tình cảm và cung bậc tâm hồn của vai diễn. Do đó vai Lý Chiêu Hoàng của Lệ Thanh đã làm cho khán giả bâng khuâng. Sao lại đẹp đến thế nhỉ? Đẹp về mọi mặt. Ở sân khấu cải lương bao giờ cũng phải “cài" vào một đào chính thật đẹp. Vẻ đẹp trên nét mặt, thân hình, dáng điệu của đào cải lương không giống như ở tuồng, chèo, kịch nói mà nó phải là vẻ đẹp sương khói, thanh tao như ở diễn viên ba lê Lệ Thanh có được cái nét đó, nó nặng hẳn về tâm hồn, tâm linh, dào dạt một nỗi niềm…

Lệ Thanh không chỉ đẹp về hình thể mà còn về cách diễn, lời ca. Cô học được ở liền chị Bích Hợp, có gục gác từ Kinh Bắc, sự trong sáng, ấm áp, vui trẻ và ở liền chị L.K cái giọng kim pha cổ mượt mà, dài rộng. Cô cặm cụi, chăm chỉ, say sưa học lấy những "miếng" của người khác một cách tham lam, thèm thuồng để biến chứng thành của mình. Sau khi thành công vai Lý Chiêu Hoàng, Lệ Thanh cùng với đoàn trôi nổi khắp nơi trên các nẻo đường lưu diễn. Cuộc sống lấy ngày làm đêm với thân phận đào kép. Cũng có ngày chỉ ăn một bữa. Nhưng Lệ Thanh không vì thế mà không hiến cả cuộc đời mình cho nghiệp cầm ca. Lệ Thanh vẫn cứ diễn được nhiều vai, càng học được nhiều điều từ các diễn viên lớp trước.

Lệ Thanh chói sáng qua những vai chính trong các vở: Điêu Thuyền, Mộng hoa Vương" Dương Quý Phi, Đát Kỷ, Chiêu Quân, Thôi Oanh Oanh, Lục Vân Tiên. v.v… Để diễn được những vai này, Lệ Thanh đã phải học cả những bài côn, quyền, đao, kiếm. Riêng với vai Điêu Thuyền, cô đã thành công rực rỡ vì Điêu Thuyền của Lệ Thanh là tổng hoà phức tạp của nụ cười nước mắt, tình cảm, bạo lực, tình yêu, e ấp, dịu dàng… Lệ Thanh hiểu rằng con người Điêu Thuyền yểu điệu mà dũng mãnh. Nàng lấy son phấn làm chiến trường, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy đôi mắt nũng nịu để giăng cạm bẫy…mang lại chiến thắng về cho mình. Nàng đã biến thành thần nữ. Vai Điêu Thuyền chỉ được rớm chút nước mắt thôi. Để nước mắt đầm đìa là thất bại.

Lệ Thanh đã đóng được một vai Điêu Thuyền hoàn hảo đến nỗi những lớp người sau chưa ai vượt nổi chị. Cũng như hơn 70 năm trở lại đây, đóng Thị Mầu không ai vượt được Hoa Tâm, đóng Chu Du, Quan Công chưa ai vượt được Sĩ Tiến. Đến đóng vai Thôi Oanh Oanh trong truyện Tây Sương lại càng phải đẹp, rất đẹp. Lại phải nhạy cảm, trí tuệ Trong lúc quấn quít bên nhau, người yêu của Thôi bảo: "Tịch dương đẹp vô cùng". Thôi đáp ngay: “Nhưng cũng sắp hoàng hôn"… Như tác giả Tây Sương tả: "Thôi Oanh Oanh có cặp mắt mơ màng của con phượng ư? Nếu nói là mắt phượng thì còn là thường, đôi mắt của Thôi là đôi mắt của con phượng vừa mới tỉnh giấc (Sơ tỉnh phượng) thì mới là tuyệt trần". Lệ Thanh đọc kỹ truyện Tây sương” Và học hỏi nơi các nhà văn. Lệ Thanh với đôi mắt của con phượng vừa tỉnh, lung linh, môi mềm, mắt ướt. Nhưng khi đóng vai Mỵ Châu trong vở My Châu - Trọng Thuỷ, Lệ Thanh lại có gam màu một tâm hồn chất phác, ngây thơ, trong trẻo như nước suối. Những năm kháng chiến chống Mỹ, Lệ Thanh theo đoàn đi diễn khắp các thành thị, nông thôn. Nhiều khi diễn trên mâm pháo, trong bom đạn, ở ngay trên mặt trận pháp. Tuy Lệ Thanh đã trở thành một diễn viên nổi trội trên các sàn diễn cải lương ở Hà Nội, lòng ham học hỏi về nghệ thuật cải lương vẫn làm cho các đồng nghiệp phải kính nể.

Lệ Thanh nhớ lại một kỷ niệm sâu sắc Đó là những năm 1951-1952, có một số diễn viên Nam bộ nổi tiếng như Tư Chơi, Phùng Hà, Kim Cúc, Năm Châu, Kim Thoa…đến Hà Nội. Họ không những nổi tiếng ở khắp nước mà còn nổi tiếng ở cả nước ngoài như Hồng Kông, Pháp… Họ chỉ ở lại tháng một tuần lễ mà họ đã làm cho hành trang cải lương của Lệ Thanh phong phú lên rất nhiều về mọi mặt. Lệ Thanh học những người thầy từ quê hương của cải lương đến một cách triệt để, không biết mệt mỏi. Các nghệ sĩ lớn miền Nam thật tuyệt. Âm thanh những bài hát của họ đẹp và mạnh đến nỗi có thể gây ra gió bão trên sân khấu. Từ trên sân khấu, nó ào xuống thính giả, làm tung bay tóc họ, bắt trái tim họ phải rung động. Rung động vì niềm tự hào về thiên tài của con người.

Cộng với những gì có trong mình, Lệ Thanh cũng mấp mé được trình độ của họ. Như vậy, cũng đủ để chị có được vài dòng trong những trang sử vẻ vang của nghệ thuật cải lương Việt nam. Để diễn được vai một bà mẹ bên sông Hồng, Lệ Thanh kết thân với nhiều bà mẹ, nhiều bà bủ mang hoá thân của Ỷ Lan, cô Tấm…Chuẩn bị cho vai Trưng Trắc, Lệ Thanh đã đọc sử sách, đã sang tận Cổ Loa, tần ngần đứng bên đền My Châu, giếng Ngọc… Lệ Thanh lại vào bảo tàng lịch sử, chạm tay vào mặt trống đồng…Tất cả là để xây dựng một nhân vật hào hùng, chói sáng, thiêng liêng, bay bổng, rực lửa…

Năm 1972, chính cái ngày bom đạn địch phá sáp cả ngôi nhà của chị là lúc chị đang đóng vai Trưng Trắc ở Hà Bắc. Sau đó, chị lại đóng một loạt vai chính trong các vở Dòng suối trắng, Y Ban và nàng tiên, Dạ khúc mình yêu v.v… đặc biệt, vai bà mẹ Cam-pu-chia trong vở Hai phương trời thương nhớ đã đem đến cho chị chiếc huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985. Đến năm 1988, Lệ Thanh vẫn còn diễn và hát được rất hay. Nhưng chị quyết định ngừng diễn. Chị trao lại những vai tâm huyết của chị như Kiều Nguyệt Nga, Thôi Oanh Oanh, Hồng Nương, Phương Hoa, Trưng Trắc… cho các học trò của mình. Một thời gian, chị làm chủ nhiệm khoa cải lương của trường Cao đẳng nghệ thuật sân khấu. Các học trò của chị đã không phụ lòng chị, họ đã gây được ấn tượng mạnh trên các sàn diễn khắp nước và cả ở nước ngoài bằng những vai diễn do chị truyền lại.

Lệ Thanh đã giới thiệu cải lương Việt nam trong hai cuộc Festival tại Liên Xô cũ và Trung Quốc. Báo chí Trung Quốc gọi chị là ngôi sao sáng hấp dẫn. Ở Liên Xô cũ người ta gọi chị là Bà hoàng. Lệ Thanh được đánh giá là đã có được nhiều vai diễn xuất thần. Nhất là những khi chị "đổ” 6 câu vọng cổ chị đã làm cho cả rạp xôn xao hẳn lên rồi bỗng lặng đi vì tài năng kỳ diệu của chị. Nay, chị đã nhiều tuổi. Chị dịu dàng, ít nói, sống thiên về nội tâm. Cử chỉ, giọng nói, ánh mắt, nụ cười vẫn đằm thắm, sinh động, tình cảm. Nghĩa là còn tràn đầy cái đẹp. Những người có duyên nợ với sân khấu vẫn thường coi chị là một kho kinh nghiệm để khai thác, để nghe chị kể về những dặm đường sân khấu, có thể hát lên được mà cũng có thể khóc lên được.

ANH TRẦN HOẠT

Sau một vài chuyến đi tham quan phong cảnh ở Boóc-đô (Pháp) về, tôi thấy trên bàn có một lá thư mà phong bì thuộc vào loại dùng cho thiếp báo hỉ hoặc mời dự cưới bán ở phố Huế, Bờ Hồ gì đó ở Hà Nội. Chữ viết trên phong bì được nắn nót đến cầu kỳ: “Vạn hạnh kính thưa ông nhà báo X…". Tôi bóc thư xem, được biết người viết lá thư này là một phụ nữ Việt nam. Chị đã đến tìm tôi mấy ngày hôm nay mà chưa gặp. Chị lại phải về Paris ngay nên khẩn khoản xin tôi cố gắng thu xếp đến Paris để chị được gặp. Nếu tôi không đi thì tuần sau chị lại quyết định bỏ cả một tuần lễ đến gặp tôi. Chị sợ tôi túng thiếu nên gửi lại cả tiền tàu xe cho tôi. Tôi lại giở thư đọc tiếp:

"Âu cũng là duyên phận của cái kiếp phù du". Tôi muốn được gặp ông. Tôi luôn luôn nghĩ về Hà Bắc, Hà Nội, Sài Gòn, về những xóm quê nghèo nàn của tôi ở cả hai miền Nam Bắc… Tôi được xem bài báo của ông viết trong đặc san “Quân đội nhân dân” về anh Trần Hoạt… Tôi cảm động quá, tôi khóc mấy ngày nay…

Ông có viết rằng anh Trần Hoạt sinh năm 1917, người Hà Bắc là đất Kinh Bắc xưa. Nơi đó đẹp lộng lẫy trong ý nghĩa về địa dư lịch sử và cả trong hoài niệm. Đó là vùng đất hào hoa, anh Hoạt yêu mến tuồng chèo, quan họ từ rất sớm đến nỗi… 8 tuổi đã bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi gắt gao của nghệ thuật truyền thống…

Năm 1984, ông được phong danh vị nghệ sĩ nhân dân…" Tôi cũng chỉ còn nhớ mang máng bài viết nói trên vì tôi viết nó đã từ lâu. Nhưng qua những dòng thư, tôi thấy người viết có một nỗi niềm đặc biệt đây. Tôi liền tới địa chỉ đã ghi trong thư. Sau hồi chuông, một cô gái đến hỏi tôi:

Ông tìm ai ạ?

Tôi là X. muốn đến gặp bà L.

Vâng, mời ông. Cô tôi có nhà.

Được dẫn qua hai phòng sang trọng rồi đến một phòng nhỏ bình dân. Đó là phòng của chị L. Sau vài lời giới thiệu, chủ nhà tiếp tôi niềm nở quá mức, như kiểu người ta gặp được ân nhân vậy. Bà chủ mặc bộ quần áo bà ba kếp mịn đã được âu hoá và gia công khéo đủ để ngang hàng với những mốt quần áo ở quê hương thời trang này. Chị L. đã hơn 50 tuổi nhưng trẻ hơn nhiều so với tuổi. Nhìn chị, người ta có thể biết được chị đã từng là trang nhan sắc một thời. Chị mời tôi uống nước nụ vối và ăn chè bà cốt. Chị nói: "Xin anh cho tôi được coi anh như người ruột thịt. Anh có viết rằng trước khi trở nên một đạo diễn kịch, anh Trần Hoạt đã giang hồ khắp chốn và đã qua hàng chục nghề, cho nên trong anh tràn ngập những mảnh đời và: mẫu người xanh tươi. Với cái vốn "đời” phong phú, anh đã góp nhiều dáng vẻ rực rỡ cho nền sân khấu ở nước ta… Nay tôi xin được bổ sung vài nét nữa về nghề nghiệp khi xưa của anh…"

Anh Trần Hoạt làm đủ mọi nghề. Thoạt đầu, anh đi bán tơ Vũ Tạo, đánh giày, chào hàng, thầy ký… có dạo, anh cùng tôi đi bán tranh Tết cho một nhà buôn để lấy tiền hoa hồng. Anh có thuật mời khách mua tranh. Anh giới thiệu tranh bằng kể chuyện, bằng những nét tuồng, chèo, ca trù… Với bộ tranh Ngưu Lang Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu Chức Nữ, anh giải thích đôi điều rồi ngâm lên: Cầu Ô Thước Ngưu Lang sầu Chức Nữ Hai bên cầu ôm mặt khóc thành mưa… Nhiều khi anh làm cho khách mua tranh cảm động hoặc phấn khởi hẳn lên. Tôi không kịp thu tiền. Có dạo, qua tôi anh Hoạt quen một số chị em ca kỹ phường Dạ Lạc. Anh an ủi chị em và làm thầy dạy tiếng Pháp cho chị em để họ kiếm sống được hơn cho đỡ khổ. Một số chị em bị bắt bỏ bóp, anh thương hại chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho chị em ra bằng cách đứng ra bảo đảm nhận là chồng. Anh nói rất khéo làm mủi lòng cả những kẻ độc ác. Đôi khi xen vào chất pha trò, đùa vui hoặc kể chuyện bịa. Anh gọi đùa cái công việc nói trên là nghề làm chồng thuê. Mà nào có ai phải thuê công anh đâu. Anh với tay cả vào những cảnh đời rất "bụi" mà lại trong sáng, cao thượng. Có khi chị em muốn tặng anh chút quà nhỏ, anh không hề nhận, mặc dù cuộc sống của anh rất túng bấn. Chính anh đã dạy cho L. đánh đàn dây và hát ả đào. Anh dạy cho L. biết cái đẹp của nghệ thuật siêu việt này và thấy cuộc đời còn có ý nghĩa. Anh dạy để L. và các bạn của L. biết rằng quê hương ta đẹp lắm nhưng cũng nghèo lắm. Dạo ấy, thú thực, tôi yêu anh ấy lắm. Nhưng anh còn mải bước giang hồ. Anh sống có tâm hồn, nhiều giấc mộng và cũng sống cái lối "không biết đến ngày mai" nên anh không đáp lại. Cũng không phải là anh khinh tôi. Anh thương tôi thì đúng hơn. Chính anh cũng đáng thương. Thời gian trôi qua, một anh cai khố đỏ người ở mỏ Hòn Gai đã lấy tôi, rồi cùng tôi phiêu bạt sang Pháp. Cuộc đời xô đẩy mà… ông nhà tôi vừa mới mất năm ngoái. Dù luôn được động viên nhập quốc tịch Pháp, nhưng chúng tôi cương quyết giữ quốc tịch Việt nam. Việc làm này cũng gây cho chúng tôi nhiều khó khăn. Nhưng chúng tôi được yên ổn về tâm hồn. Khi được đọc bài báo của anh, tôi đã khóc nhiều. Khóc một con người cao thượng mà tài hoa nhiều mặt, giàu lòng ưu ái đối với con người. Ngày nào tôi cũng thắp hương và thỉnh thoảng mời hai ông bạn Kỳ, Ngọc cùng một số bạn bè cùng nhau tổ chức một đêm hát ca trù. Đào nương là tôi. Bao giờ tôi cũng trả bài thầy tôi bằng bài "Hồng hồng tuyệt tuyệt, mới ngày nào không biết cái chi chi…" Nay tôi đã già, thỉnh thoảng gom góp chút ít biếu vào quỹ kiều bào yêu nước xây dựng tổ quốc và thường giúp vui những buổi họp mặt hoặc biểu diễn văn nghệ. Coi đó là tấm lòng để xứng đáng với quê hương xứ sở, với mái chùa, giếng nước… Quả thật tôi không bao giờ nguôi nhớ cái làng Đình Bảng tươi đẹp, nam thanh nữ tú của tôi. Đấy anh xem gia bảo nhà tôi treo ở trên tường chỉ là một chiếc đàn đáy và một chiếc đàn nguyệt…

Chị L. nói một mạch, chẳng cần để ý đến ai, tưởng chừng như chị phải nói cho bằng hết mà nếu ngừng lại sẽ bị mất dòng cảm hứng mà quên mất phần nào những ý định cần bộc lộ ra cho thoả lòng. Chị nói nhiều lúc như bị ốp đồng rồi chị khóc. Trong tiếng khóc của chị vừa có vị cay đắng, vừa có cả những điều mừng mừng tủi tủi, lại xen cả nỗi niềm sung sướng thật khó tả và chị sực nhớ ra là chị đang tiếp tôi, chị xin lỗi tôi lâ đã nói hết cả phần của tôi. Chị lại tiếp: "Anh có tấm lòng thật quý hoá với ông anh của tôi, ông thầy của tôi, người mà tôi yêu. Anh ấy cũng được mọi người yêu quí chẳng có thế lại được là nghệ sĩ nhân dân…"

- Thế chị có còn nhiều bà con bên nhà không ạ? - Tôi hỏi.

- Chẳng còn ruột thịt gì nữa. Nhưng trong họ ngoài làng, tôi nhớ tên từng người. Tôi nhớ từng búi tre gai nhà ông Ba Bò, bờ đê thả trâu, đám rước ngày hội, cổng tam quan, gác chuông…

- Cảm ơn chị đã cho tôi thêm một số chi tiết rất quý để viết một bài báo. Nếu chị cho phép tôi lấy tên bài báo là "Người tình của anh Trần Hoạt"…

- Như vậy là quá vinh dự cho tôi. Đó là điều tôi mơ tưởng. Nhưng tình yêu là phải cả hai bên. Anh ấy cao cả và trong sáng quá. Mà tôi cũng không muốn buộc anh vào cuộc đời tôi, vì tôi sợ anh sẽ khổ. Tôi yêu anh và mong cho anh đạt được mọi giấc mộng của anh. Đúng ra, anh cũng yêu tôi. Không yêu tôi làm sao được: “Anh Hai không yêu, tôi lấy đạo bùa qua lời anh ư phải yêu": Đó là bài hát mà cũng là thực đấy anh ạ.

- Tôi nghĩ đó cũng là tình yêu chị ạ. Tình yêu cao hơn một chút và mở rộng…

Chị L. cám ơn lời nhận xét của tôi. Với động tác bai tay chắp lại, chị vái. Tôi hiểu ngay, chị vái anh Trần Hoạt, vái quê hương, làng Đình Bảng của chị… Trên đường trở về nơi làm việc, lòng tôi nao nao một cảm giác dễ chịu, yên tâm và có chút tự hào.

HAI CON NGƯỜI TÀI HOA

Trần Hoạt là một số ít trong những người mở đầu cho việc hình thành nghề đạo diễn kịch nói ở Việt nam. Ông đã được phong tặng nghệ sĩ nhân dân ngay từ đợt đầu. Đó là một con người của Kinh Bắc. Lúc mới 6 tuổi, ông đã bỏ nhà ra đi theo một gánh tuồng rồi phiêu bạt khắp Trung, Nam, Bắc. Là con người làm nghề tài hoa, tận tuỵ, ông có công phát hiện ra nhiều tài năng sân khấu, giúp đỡ và hướng dẫn nhiều diễn viên thành tài. Trong công việc đạo diễn sân khấu, ông rất hiểu nghiệp đời. Khi ông học tập ở nước ngoài, một số tiểu phẩm của ông được các đoàn kịch Trung Quốc sử dụng. Các đoàn kịch như: Kịch nói, tuồng, chèo, cải lương đều đến trèo kéo ông. Ngay cả mấy đoàn ở các tỉnh xa và nghiệp dư cũng luôn "mai phục" để đón ông về đoàn mình. Có điều là phải luôn luôn có rượu cho ông. Khi đạo diễn, cạnh ông bao giờ cũng có thêm một chiếc ghế để chai rượu và chiếc chén. Ông bảo: "Không có rượu thì không làm được gì hết". Năm đó, ông là đạo diễn của vở “Hương Mới” cho nhà máy thuốc lá Thăng Long. Lại đúng vào lúc luôn có báo động máy bay địch nên không mua được rượu về cho ông. Một kỹ sư của nhà máy phải lấy cồn ra pha rượu cho ông. Một lần, tôi mời ông và ông Văn Cao đến nhà uống rượu. Ông Văn Cao nhận trang trí phông, cảnh cho vở kịch. Đây là hai ông bạn rượu hợp ý nhau vì cả hai đều là đệ tử trung thành của thần rượu. Hai ông cứ uống lai rai suốt từ 2 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Họ vừa uống, vừa nói đủ chuyện trên đời. Họ bập bềnh, say lại tỉnh, tỉnh lại say. Lúc nói to, lúc nói nhỏ. Có lúc ha hả, lúc lại đăm chiêu như muốn khóc, tranh cãi bàn luận. Từ chén thứ hai trở đi, ông Văn Cao thường không dùng đồ nhắm hoặc dùng ít.

- Tớ cho hai cái vở kịch ấy chỉ đáng cho vào sọt rác.

- Cũng có một chút mê ni (đáng khen) đấy…

- Không. Tác giả chưa vivre la vie mà mới chỉ là fréquenter la vie - (chưa sống cuộc đời mà mới chỉ đi thăm cuộc đời).

- Thế mà tớ nhận làm đê-co (trang trí) cho họ đấy.

- Tuỳ cậu. Với tớ, không sướng lắm. Vở kịch viết thật thà quá như cái kiểu bài thơ rau muống: Trong vườn có đám rau xanh Đó là rau muống để nấu canh đấy chứ… Thế mà là thơ à? Tớ thấy tác giả không có chất "ngọc", mà chỉ toàn là gạch. Mà đã là gạch thì có nung mãi cũng chỉ là gạch… Nghệ thuật, nó khó tính lắm chứ?… Phải có cái thương cảm nhân thế. Phải có tấm lòng…

Tôi bảo: "Hai anh là cả một thư viện sống". Ông Văn Cao không đồng ý và nói: "Tớ chỉ là một vò rượu quốc lủi"

Thế rồi, tôi cứ ngồi hầu rượu, chạy đi chạy lại, tiếp tế rượu và đồ nhắm. Nhưng chủ yếu là lắng tai nghe các ông. Nhưng các ông cũng đòi tôi phải kể lại những chuyện về rượu và chuyện tiếu lâm bên trời Tây cho các ông nghe.

- Phải bình đẳng chứ. Chúng tớ nói cho cậu nghe về chuyện của chúng tớ thì cậu cũng phải "cung" ra cho chúng tớ nghe với…

- Thu năng lượng của nhau như cái kiểu người Trung Quốc phát và thu "công lực" ấy. Các ông bỗng đùng đùng đề nghị phải có thịt chó cho nó thêm hương vị. Thịt chó được mua về ngay. Tôi không thích nên không ăn.

Ơ? Sao cậu không ăn mộc tồn?

- Tại sao?

- Tôi không khoái lắm. Nó hôi hám.

- Chắc lại là con cầu tự. Ăn thịt chó vào, "cậu" giận cậu về chùa chứ gì?

- Cậu nói lại đi nào. Cậu bảo thịt chó hôi hám à? Một người đàn bà đẹp ở tuổi 40 cũng có mùi hôi hám đấy chứ. Nhưng, người ta mê cái hôi hám tuyệt vời đó hơn cả các cô gái 16, 17 tuổi… Cậu chẳng hiểu cái gì cả à, mà có điều thịt chó mà không có chất "cồn"! vào là "vứt"

- Đúng đấy.

Trong bữa rượu, tôi đã biết được nhiều điều ở hai ông. Nếu các ông không say khướt, thì tôi không thể nào "thó" được những câu chuyện thật hay, thật lạ ma chẳng bao giờ các ông chịu nói ra cho bất cứ ai. Đó là những câu chuyện dọc ngang chất "sống", tươi nhây nhẩy. Các ông là những người luôn thích thú và ngỡ ngàng với những điều mới mẻ, sinh động. Nhìn nhiều, nghe nhiều, đi nhiều, suy ngẫm nhiều… là những điều giúp các ông trở thành Trần Hoạt và Văn Cao… Trước kia, trong thời Pháp thuộc, ông Trần Hoạt đã từng làm qua nhiều nghề: chạy cờ, bán Vũ Tạo, đánh giầy, bán tranh, thầy ký, thầy dạy đàn đáy và hát ca trù, đóng kịch… Tôi tính có chừng 30 nghề. Có dạo, ông quen một số ca kỹ phường Dạ Lạc. Một số chị em bị bắt bỏ bóp (bốt cảnh sát ngày xưa) ông thương hại họ, chạy hết bóp nọ đến bóp kia xin cho họ được ra bằng cách bảo lãnh, nhận làm chồng. Ông gọi đó là nghề "làm chồng thuê" - Kỳ thực, có ai thuê ông cũng không nhận một xu nào.

Trong chừng 10 tiếng đồng hồ, hai ông đã đánh đổ chừng 3 lít rượu. Đến 12 giờ khuya, chị Băng đi xích lô đến đón Văn Cao về. Chị trách tôi đã để ông uống say. Nhưng, có trời mà ngăn được. Ông bảo trong khi say, trong ông nảy ra những tứ hay cho thơ, nhạc, hoạ, ông có đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, tửu. Tôi cũng phải thuê xích lô, đưa ông Trần Hoạt về nhà ở phố Lò Sũ. Ông đã quá say. Nhưng sáng hôm sau, chừng 8 giờ, ông đã ngồi dựng vở Bức Tranh mùa gặt của Trần Vượng. Và bên cạnh ông, vẫn là chai rượu.

NỮ THẦN ÁI TÌNH VÀ NỮ THẦN SẮC ĐẸP CỦA VIÊT NAM

Trung Quốc suy tôn Nữ Oa là nữ thần ái tình của họ. Cùng ở một khu vực và có nhiều truyền thuyết giống nhau, thần ái tình của Việt nam cũng là Nữ Oa. Nữ Oa Trung Quốc và Nữ Oa Việt nam có nhiều điều giống nhau về cơ bản: rất nặng về chất huyền thoại, Nữ Oa có nhiều phép thần thông đã nặn ra con người bằng đất sét vũ trụ rồi phả vào đó một linh hồn, Nữ Oa đội đá vá trời v.v… Nữ Oa là tượng trưng cho sự sinh thực và phồn thịnh. Do ở cái thời hỗn mang chi sơ, số người chết nhiều hơn người sống gấp bội nên việc phát triển nòi giống là vô cùng quan trọng, vì thế người ta thờ cái "của quý" của Nữ Oa. Ở Việt nam, chất phong tình và sinh thực được đẩy lên mức quá cao.

Chuyện kể rằng: Cái "bộ phận" của ông Tứ Tượng bắc qua một cái ao lớn ba sào đất làm cầu cho mọi thành viên của đám cưới nguyên thuỷ đi từ bờ ao bên này sang bờ ao bên kia. Vì ông cầm hương vô ý, tàn nhang rơi xuống làm cho chiếc cầu vững chắc ấy bỗng nhiên "rụt" lại, hất hết mọi người xuống ao. Nữ Oa biết được, đã nhanh nhẹn đưa cái "của quý" của mình ra hứng lấy cả đám người, thế là mọi người ngoi ngóp trong cái túi càn khôn của Nữ Oa và được cứu sống.

Truyền thuyết này còn sót lại đến ngày nay qua sự biến dạng trong sự tích "Ông Đùng bà Đà" và trong trò chơi "Cái nỏ lường…" Còn nữ thần sắc đẹp của ta thì eo lẽ không ai xứng đáng hơn là công chúa My Nương, con gái vua Hùng thứ 18. Tóc xanh viền má hây hây đỏ Miệng nàng hé thắm như san hô Tay ngà trăng nõn hai chân nhỏ Mê nàng bao nhiêu người làm thơ. Xứng với sắc đẹp nát đá tan vàng của nàng chỉ có những ai sánh ngang được với các bậc thánh thần. Số người đến cầu hôn được chọn lọc kỹ đến nỗi chỉ còn hai chàng ưu tú nhất là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, là tượng trưng cho hai con người tinh hoa, đẹp đẽ và tài hoa tuyệt vời của hai vũ trụ bao la và thơ mộng: núi rừng và biển cả. Trong cuộc đua tài, Sơn Tinh đã giành chiến thắng. Vì người đẹp My Nương mà Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đánh nhau suốt bao nhiêu đời và cho đến tận bây giờ. Sắc đẹp My Nương đã gây ra sự tranh giành thần thánh, không tiền khoáng hậu và sự tích này được đời đời nhắc nhở, biến thành thơ, ca và lời vần ví không nguôi: Vua Thuỷ Tề dâng nước đánh Sơn Tinh Núi và sông - tranh nhau một chuyện tình…

CHỊ TÂM HÁT "SUÔNG HỜI"

Chị Tâm là một liền chị quan họ đã nổi tiếng từ lâu chị thường được mời trong các cuộc thi, được mời hát những bài hát hay mà khó hát, hát "sửa" khi người khác hát hỏng. Giọng hát của chị là một thứ giọng hiếm. Ngoài sở trường về hát quan họ, chị còn hát được cả tuồng, chèo và các làn điệu dân ca. Những chất liệu này hợp nhau lại thành những vi lượng làm cho những bài hát quan họ do chị hát thêm phần hoa mỹ, đậm đà, lại xen chút huyền bí liêu trai. Dáng chị mảnh khảnh cái kiểu mỏng mày hay hạt, thoáng mùi thơm quê mùa. Chị có thể hát hết đêm này đến đêm khác làm cho người nghe không thể quên được. Vì tiếng hát của chị có thể là kể về một cuộc tình, một tâm trạng đầy kịch tính, một con sông xanh, một tâm hồn ngẩn ngơ say đắm, một niềm vui nhẹ vương vấn âu sầu v v… Chúng gieo vào lòng người một nguồn thơ ca, một nỗi niềm thấm vào tận xương.

Tôi có cái sung sướng được gọi chị bằng chị trong khi mọi người đều gọi chị bằng bà vì chị đã đến cái tuổi 70 rồi. Tôi vẫn nghĩ là chị chưa già. Tôi đến Văn Tương qua mấy xóm ngõ khúc khuỷu. Đây rồi, cái bể cạn có hòn non bộ. Bước mấy bậc là lên đến nhà. Đó là một ngôi nhà ba gian hai chái từ đời xưa để lại với hai mảng tường rêu phong. Dưới cái cuốn thờ có dán một tờ giấy đỏ viết chữ “Tâm”, kiểu chữ Hán do chính tay chị viết bằng mực nho. Cô cháu bé nhỏ mời tôi ngồi đợi và đi tìm chị. Tôi hơi nóng ruột vì phải ngồi đợi khá lâu Tôi được biết, gần đây chị luôn đi thăm các bạn bè làng trên xóm dưới. Chị thường không có ở nhà ban ngày. Chị được mời đi chỗ này, chỗ khác hoặc mời đi dạy hát quan họ. Cuộc sống của chị hiện nay chỉ còn chữ "Du" và "Ca", nghĩa là đi chơi và hát, chẳng phải lo nghĩ gì về cơm áo. Đã có những người trước đây mê tiếng hát của chị ở khắp nơi gửi tiền về nuôi chị. Kể cả những người hiện sống ở nước ngoài. Cũng có thể gọi họ là những "nhân tình" của chị. Cho phép tôi dùng từ này và nói thêm: tình nhân của chị quá nhiều. Còn như yêu bóng yêu gió hoặc phải lòng tiếng hát của chị thì không kể hết. Thật buồn cười, có nhiều người chẳng ăn thua gì mà vẫn cứ yêu chị. Do vậy, chị thường đối đãi hào phóng với các bạn hoặc họ hàng, thường biếu tiền, quà bánh hoặc lễ vật cho các đình, chùa…

Gặp tôi, chị bảo ngay:

"Nhà báo lại có điều gì dạy bảo?"

- Em đâu dám- Tôi nói.

- Chắc lại gạ chị hát chứ gì? Chị đã qua mùa lá rụng rồi.

Sợ tôi không hiểu, chị liền giải thích một mạch: "Người quan họ có 4 mùa. Lúc từ 13 đến 15 tuổi là lúc hát được rồi mà còn run, còn xấu hổ, là lúc ở vào mùa xuân. Từ 18-19 tuổi, tiếng hát đã "mẩy", sóng sánh là đang vào hạ. Từ 20 đến 30 tuổi, tiếng hát đã có "thuật" đánh đổ được người nghe. Đó là mùa thu. Từ trên 30 tuổi, đã thấy ngại ngùng để vào đông, cũng là mùa "lá rụng". Còn chị đã 70 tuổi là đã qua mùa lá rụng rồi".

- Không phải. Nghệ thuật hát quan họ của chị vẫn là 20 tuổi. Mắt chị còn lúng liếng, dáng đi vẫn nhanh nhẹn và sang lắm.

- Thôi nào. Nói khéo lắm. Hôm nay chị không hát quan họ mà hát bài "Suông hời"

Chị bày ra mấy thanh bánh đậu xanh rồng vàng. Tự tay chị pha trà mời tôi cùng uống. Chị pha trà điệu nghệ: Cho nước cốt, nước hai và ba vào chén tống rồi mới róc chén quân. Sau ít phút, chị nhấn giọng rồi đứng dậy hát: “Đò ai đi… Ơ đậu bến không về… Đợi nhau thương nhớ ơ…ơ… suông hời mà phấn son. Suông hời, tình suông a… mà vẫn gọi… con đò tình lênh đênh… Ba mươi phút nên bổng suống trầm… suông hời…i…ơ". Dáng chị mảnh mai, siêu siêu thanh nhã và bay bổng… ấy, chính cái hình hát đó cộng với tình yêu nghệ thuật đàn hát quyện vào với nhau tạo nên chị Tâm. Tôi nhấp chén trà. Trong tôi, cứ tơi tả một nỗi buồn da diết. Tôi khen chị hết lời. Chị bảo: "Phải có duyên phận với bài hát mới hát hay được…" Lúc chia tay, chị vỗ vai tôi:

- Thôi coi như sắp hết năm cũ rồi. Sang năm mới, chị chúc em chỉ nghe bài hát của người xưa cho nó có cái hương vị thôi. Còn với cuộc sống, em hãy tránh khúc "Suông hời"…

- Chị Tâm ạ, không tránh được đâu. Có khúc suông hời thì mới thành con người dấn thân cho văn học nghệ thuật được.

Chị nở nụ cười rạng rỡ. Cái nụ cười của con người tài hoa rất mực thật nồng ấm và ân cần…

ÔNG TRÙM THỊNH

Kép Thịnh quê ở Kim Động - Hưng Yên, là một trong những đất chèo cổ nổi tiếng. Mười sáu tuổi, ông đã là kép hát. Ông theo phường đi khắp nơi lang bạt kỳ hồ. Nhưng, cứ đi, cứ hát mà cuộc sống vẫn vất vả nhọc nhằn. Nhiều khi tưởng chừng như không còn cách nào sống được nữa. Tuy vậy, vẫn có nhiều người yêu mến tiếng hát của ông đã làm cho ông khắc phục được những khó khăn chồng chất để hành nghề với quyết tâm "sinh ư nghệ, tử ư nghệ". Nghèo đói chẳng nghĩa lý gì. Cái quan trọng là được góp phần vào cái cảnh náo nhiệt, tưng bừng của những buổi diễn, những giây phút gặp mặt nhau, đào đào, kép kép đưa được tiếng đàn, tiếng hát đến với bà con. Các diễn viên cũng rất phấn khởi, được đồng bào mến mộ, trả công cho họ qua những nụ cười, những bộ mặt rạng rỡ, phơi phới. Thế là đủ để vui rồi.

Phường phải đi xin hát ở nhiều xóm làng, ở các đám hội. Riêng kép Thịnh và một, hai đào kép chính còn phải đi hát cho các nhà giàu mở tiệc chúc thọ hoặc ăn khao. Cũng có những lần đến diễn hầu trong phủ đường, huyện đường Kép Thịnh là một kép đa tài, hát hay được nhiều làn điệu. Ông diễn được đủ loại kép. Kép chính như Từ Thức, Tất Chánh, Lưu Bình, Thúc Sinh… Kép lệch như Tuần Ty, Sở Khanh. Đóng lão như Huyện Tể, ông Mãng, đồ Điếc. Đóng hề như thầy đồ, hương Câm… Các vai diên của ông đều hay, đạt hiệu quả cao, mẫu mực, có góc cạnh. Nhân vật cứ nổi lên như một bức tượng sống. Điều đó nhờ ở chỗ kép Thịnh gạn lọc những chi tiết, giữ lấy những chi tiết chân thực, có bổ sung thêm những nét hoa mỹ đầy ngẫu hứng, sáng tạo ông còn giữ trong bộ nhớ của mình nhiều làn điệu “độc” ít người biết đến hoặc gần như bị thất truyền. Ví dụ như làn hát vãn gọi là Vãn Non Mai say đắm thì đến giờ ở ta chỉ còn một, hai người biết đến. Phong cách diễn của ông rất thanh tân. Khi thì phóng khoáng kiểu hàng hoa, lúc lại giữ chặt khuôn khổ. Người ta không thể hỏi ông để biết ông có sở trường về những làn điệu nào. Vì hầu như tất cả những làn điệu chính ông đều hay hát cả. Lúc hát, tâm hồn ông dấy lên những ngọn sóng lúc phai, lúc thắm, lúc lại vơi đầy… Bài nào ông hát cũng ra "màu", long lanh sắc nét. Đạt đến trình độ này là rất khó. Người sáng dạ cũng phải cần cù, luyện tập 4, 5 năm. Nhưng với ông, ông nhảy phốc một cái là đạt được tới điểm cao đến khó hiểu. Ông còn miệng hát, tay đàn chầu văn với giọng cao bi tráng. Khi đó, ông say như bị ốp đồng. Đó cũng là tài năng của ông. Chẳng thế mà trong một cuộc thi hát với những bậc anh tài ở trại Ngọc Hà, ông đã đạt điểm cao nhất. Nhiều người đã phát ghen lên mà bảo: "Thật xấu hổ, chúng ta đã phải thua một tên hát rong quê mùa, mặt búng ra sữa".

Với người có nghệ, chính cái chất chân quê chân chất và giang hồ tứ hải đó cộng lại là rất hiếm, là vô địch. Nó mang chất dân ca nguyên thuỷ. Ông là tay đánh trống chèo mẫu mực, thường khuyên các học trò: "Có thể vụng chèo một chút. Nhưng phải khéo trống".

Nhưng tài nghệ cao nhất về sử dụng nhạc cụ của ông lại là kéo nhị. Anh em gọi tiếng nhị của ông là tiếng nhị siêu phàm. Dạo ấy, ông Lê văn Ly muốn đến xin vào kéo nhị cho phường hát. Nhưng khi tới, nghe thấy tiếng nhị của ông, đã bỏ ra về ngay và lẩm bẩm: "nghe tiếng nhị của trùm Thịnh mới biết tiếng nhị của mình chỉ là tiếng kéo cưa lừa xẻ".

Vào những năm 1958-1959, ông Ly là một trong vài cây nhị hay nhất nước. Tiếng nhị của ông Thịnh là sự phối hợp hài hoà giữa nhiều yếu tố. Trong đó có mây nước bập bềnh, có hương hoa gió bụi, tử, biệt, sinh, ly, yêu đương mòn mỏi… Cũng chính tiếng nhị của ông đã khiến một nữ diễn viên chèo mê ông và trở thành vợ ông. Đã thành một cái lệ tình tứ, âm thầm và mãnh liệt, cứ mỗi lần chuẩn bị ra sân khấu, vợ ông lại ngóng nhìn nơi hai bên cánh gà, nhìn vào mắt ông, say sưa. Ý nói: "Mình ơi, em thế này đã được chưa? Ông cũng nhìn vợ, vừa trìu mến vừa có vẻ kiểm tra lại vai diên, gật đầu nhè nhẹ. Có nghĩa là: "Được đấy em ạ… Xinh lắm". Nhưng rồi một buổi, vợ ông bị ốm trong cảnh nghèo xơ xác Bà ốm dai dẳng, không có tiền thuốc thang, chữa chạy. Người nữ diễn viên này rất mực yêu chồng. Bà bảo: "Có tiếng nhị của anh là sống được rồi… cho em nghe suông vậy…". Thế là ông lại mang nhị ra kéo để cho bà vui. Ông bảo là để quên đời, quên bệnh tật. Có điều trong những giây phút này, tiếng nhị của ông càng hay, càng thiết tha một màu sắc tâm linh. Rồi một hôm, bà thấy khó chịu lạ thường. Bà lại muốn nghe tiếng nhị của ông. Ông liền kéo "…Ôi…thì đôi ta… chút nghĩa… mà…a… đèo bòng…". Ông kéo bài "Duyên nợ phải chiều"… Đến nửa chừng thì bà lả đi như một tàu lá úa rồi tắt thở… Ông buông nhị, ôm lấy bà và khóc: "Mộng hết ta người phải biệt nhau…"! Thế là từ đó ông không kéo nhị nữa. Ông giận duyên, tủi phận và né tránh cái tiếng nhị oan nghiệt vận vào mệnh của ông. Chừng 30 năm sau, mãi đến năm 1959, một ông bạn tri kỷ khuyên ông hãy giải lời nguyền xưa, nằn nì ông kéo cho nghe một đoạn. Ông nể quá, kéo một đoạn thật say. Ông bạn vái: "Thưa, xin thế là đủ chỉ cần trần ai một khúc…". Ông Thịnh rớm nước mắt.

Ông Thịnh sớm đã phải bỏ quê, ra diễn cho rạp Sán Nhiên Đài (sau là rạp Kim Lan) ở ngõ Sầm Công. Cái ngõ này nổi tiếng là có nhiều chuyện ở Hà Nội. Như vậy cũng không phải chỉ diễn ở Hà Nội mà vẫn phải đi lưu diễn ở nhiều nơi. Đã nhiều bài hát của ông được thu vào đĩa hát của hãng Pa thé và ASIA. Người ta đi lùng mua kỳ được những đĩa chèo của kép Thịnh và đào Tiêm. Ông đã soạn nhiều vở chèo và làm thầy chèo (như bây giờ gọi là đạo diễn). Ông được cả gánh hát và nhiều người trong nghề kính nể gọi ông là sư phụ, là ông trùm Thịnh. Tuy vậy, cuộc sống vẫn cứ thanh bần cho đến khi ông qua đời. Cả cuộc đời vì nghề, ông đã dạy dỗ được nhiều lớp diễn viên chèo cho cả nước. Ông đã giúp đỡ nhiều cho Ban nghiên cứu nghệ thuật sân khấu của Bộ Văn hoá trong việc nghiên cứu, giữ gìn và phát triển nghệ thuật chèo truyền thống. Tên tuổi ông đã được ghi trong Bách khoa từ điển sân khấu Liên Xô (cũ) xuất bản năm 1959 trong mục sân khấu Việt nam. Riêng về nghệ thuật chèo mà nói, ông trùm Thịnh là một "Con Người" viết hoa. Sân khấu Việt nam và nghệ thuật chèo của ta tự hào có một nghệ nhân như ông trùm Thịnh.

CHỊ HOA TÂM

Dạo ấy chừng những năm 1942-1943, cả mấy làng Bưởi, người ta thường hay kể chuyện về một nhân vật đặc biệt là "Mít sờ" Hoa Tâm. Số là ở ngay giữa chợ Bưởi, dựng lên một rạp hát có tên "Quảng Tâm San" Chủ của rạp hát lúc nào cùng huyên náo đó là bà Hoa Tâm. Gọi nó là rạp cải lương cũng được mà gọi là tuồng cải lương cũng được. Vì họ diễn cả những tích xưa với mũ áo, cân đai sặc sỡ, mà cũng diễn cả những tích mới với nhân vật ăn mặc Tây, đeo ca vát. Rạp hát tối nào cũng kín chỗ. Chủ nhật có thêm một xuất diễn ban ngày, chủ rạp thường đi bên cạnh người chồng của mình là một anh Tây lai tên là Louis Aubourg. Anh chàng vừa giàu vừa đẹp trai này rất kiêu hãnh là đã lấy được cô đào hát có tài năng và sắc đẹp xuất chúng. Anh ta đã hạ được hàng loạt những đối thủ là những kẻ giàu sang, các quan huyện, quan phủ trẻ tuổi để giành được Hoa Tâm. Việc quản lý rạp hát, Hoa Tâm giao cho ông thầy tuồng Năm Ngũ và kép Sinh. Hàng đêm, Hoa Tâm có vai diễn. Điều này không có không được. Ban ngày, thỉnh thoảng Hoa Tâm vào làng Yên Thái, đến chơi kết bạn với kép Thuyên là kép nổi tiếng về hát tuồng. Chủ rạp Quảng Lạc phải đưa ô tô về, đưa kép Thuyên đi diễn rồi lại trả kép Thuyên về tận nhà. Hoa Tâm cũng làm quen với kép Tước hát tuồng ở xóm Ao Ngang và ông Ninh là hoạ sĩ vẽ truyền thần…

Hoa Tâm nhận mấy bà già trong xóm là mẹ nuôi và thường có quà, bánh, vải, nhãn biếu các bà. Hoa Tâm thèm tình mẹ, yêu làng Bưởi, hay xúc động và có lòng thương người. Nhưng khi gặp mặt, dân trong mấy xóm rất niềm nở chào Hoa Tâm và chị cũng nhanh mồm nhanh miệng chào hỏi lễ phép, lịch sự với mọi người. Dân làng Bưởi rất thích xem những tích diễn của rạp như: Trương Viên, Quan âm Thị Kính, Giang Tả cầu hôn, Tra án Bàng Quý Phi, Phương Hoa, Huyện Trường và cô Cúc, Mộ cô Phượng, ông già mật nết, Hoa rơi cửa Phật, Kiều… Những tích này hầu như ai cũng thuộc, họ xem đi xem lại nhiều lần, không biết chán.

Mọi người rất có cảm tình với rạp Quảng Tâm ban và cũng rất có cảm tình với chủ rạp. Hoa Tâm ăn mặc cực kỳ sang trọng rất “a la mốt” (à la mo de). Nhưng mọi người cho rằng gọi Hoa Tâm bằng bà thì hơi già. Bà ta cứ tưng tưng, rất trẻ, như là cô học trò mắt sáng, môi tươi vậy. Gọi bằng bà không hợp. Anh Vũ Trọng Hành là em ruột nhà văn Vũ Trọng Can bảo nên gọi Hoa Tâm là "mít sờ" Hoa Tâm. Tiếng Anh "mít sờ" là cô gái mà. Và từ đó ai cũng gọi Hoa Tâm là "mít sờ" Hoa Tâm. Như vậy, nó có vẻ hay hơn, lạ hơn, Tây hơn, tình hơn…

Quảng Tâm ban đã đưa sân khấu đến chợ Bưởi, làm náo nhiệt cả mấy làng Bưởi. Nó đi đầu cho sự thành hình một vài nhóm cải lương và kịch nói nghiệp dư của cả một khu vực sầm uất, đông dân. Hồi ấy, Lại Phú Cương còn trẻ lắm. Ông không bỏ một đêm diễn nào của rạp Quảng Tâm ban. Sau này, ông là một nghệ sĩ kịch nói và diễn viên điện ảnh khá nổi tiếng. Trong nhà chị Hoa Tâm, trên các mặt tường treo la liệt những bức tranh thuỷ mạc, tranh Tàu, chị yêu những bức tranh này lắm và luôn ngắm nghía chúng. Hoa Tâm là con gái một gia đình cố nông ở Kim Động, Hưng Yên. Từ nhỏ, cô bé đã hát hay và hát được nhiều làn điệu chèo, tuồng, cải lương, quan họ, hát ru… Năm 13 tuổi, có gánh hát xin cho cô được thoát ly gia đình, đi theo gánh. Cô được nuôi cơm, có nhiệm vụ trông trẻ, giặt giũ rồi được học hát, học múa. Qua vài năm trời gió bụi, giọng hát của cô được coi là một chất giọng quý hiếm. Sắc đẹp lại trở nên lộng lẫy. Ai cũng muốn làm thân với cô. Cô không bao giờ phải trả tiền cho những bữa quà như kiểu bánh cuốn, bún ốc, bún chả… Vì bao giờ và ở đâu cũng có người tranh trả tiền cho cô. Cô quyết tâm học nghề hát chèo. Học bất cứ những gì cần cho một vai diễn từ bất cứ ai. Học những diễn viên cao tuổi. Học các bạn trẻ. Lúc nào cô cũng nhiều bạn. Cả bạn trai lẫn bạn gái. Nhưng bạn trai nhiều hơn. Trong đó có nhiều nhà văn, nhà báo, hoạ sĩ, thi sĩ…

Sức hấp dẫn của cô rất cao. Nhưng chính cái tài và cái sắc của cô cũng mang lại cho đời cô nhiều lao đao, cay đắng. Đời cô bao giờ cũng là một mảnh trăng khuyết. Cô nói vậy. Năm 21 tuổi, cô đã trở thành một ngôi sao không có đối thủ, ít nhất là với Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Hà Đông, Bắc Ninh… Chị nổi lên, rực rỡ, cuốn hút trong Tuần Ty - Đào Huế xuý Vân giả dại, Thị Mầu lên chùa… Ba vai chính: Đào Huế, Xuý Vân, Thị Mầu trong kho báu chèo là để cho Hoa Tâm diễn. Còn có những vai diễn này ra sân khấu thì người ta còn nhắc đến cái tên Hoa Tâm. Chị nói sử:

Kim Nham chàng ơi!

Đường công danh đã đành mê mải

Nhưng tuổi xuân có trở lại bao giở

Hay tình riêng chàng đã phôi pha Để cho thiếp tháng năm mòn mỏi…

Người ta không bao giờ quên được khi Hoa Tâm nói lệch rồi vắt sang bình thản:

Cau non tiện chũm lòng đào

Trầu têm cánh phượng, thiếp trao cho chàng.

Tiếng hát của chị kèm theo dáng đi tơi tả, lệch chênh, những bước đi lá rụng hoa rơi. Những bước đi của Hoa Tâm trên sân khấu đều là múa cả. Nhưng ở vài vai diễn khác, những bước đi của chị lại thanh thoát mà có cái dáng dấp đĩnh đạc của một cành cây nặng trĩu quả ngọt. Đến lúc chị hát đúm:

"Ta về xẻ tấm ván dày

Bắc cầu sông Cái…cho mẹ thầy sang chơi."…

Thì sóng gió nổi lên ào ào, lòng chị xáo động và tràn đầy khát vọng. Rồi lại ngẩn ngơ, bâng khuâng: Người đâu đến ở chùa này… Cổ kiêu ba ngấn, lông mày nét ngang… Hoa Tâm ngẩn ngơ, nồng nàn, sầu muộn, cô đơn, nhưng phấn khích, lâng lâng. Những mảng diễn của chị đều đã thành mẫu mực cho các vai diễn kế tiếp sau chị. Các trường học, các lớp huấn luyện đều phải trích ra những dáng nét, động tác phong cách hát, nói, cười, của chị mà dạy cho các học sinh. Với chị, khi nhạc nổi lên, tiếng hát của chị cất lên theo đã làm cho người ta sung sướng, vui, buồn, háo hức. Trong lòng người nghe thấy tràn đầy nước mắt, tình yêu và sự dằn vặt.

Chính vì chị hát được cả tuồng, cải lương, quan họ, ả đào… nên tiếng hát của chị mới có nhiều màu sắc, nhiều cung bậc, đa dạng và thanh tân. Các vai diễn của chị thường bồng bềnh một hào quang lãng mạn làm say lòng người. Rồi về sau này, đã có nhiều lớp diễn viên kế tiếp chị cũng đều bắt chước chị, học chị mà trình diễn. Nhưng cho đến bây giờ (1998), vẫn chưa có ai đạt được đến 8/10 của chị. Cung đàn tình duyên của chị luôn náo nhiệt, tưng bừng đầy ngẫu hứng suốt từ thời trẻ cho đến khi về già chị rất yêu đại thi sĩ Hồ Xuân Hương. Còn một chi tiết. Đó là khi Thủ đô được giải phóng, trong những ngày đầu, đoàn chèo Lạc Việt gặp khó khăn về tài chính, chị đã không ngần ngại bán đi tất cả những tư trang của mình còn lại để giúp đỡ đoàn tồn tại. Chị đã góp vào việc đào tạo, bồi dưỡng và truyền nghề cho một loạt diễn viên sáng giá như Thanh Trầm, Bích Nhuần, Tuyết Nga, Nguyệt Nga… Hoa Tâm dạy họ từ việc vấn khăn đến động tác xòe quạt đưa mắt. Chị vui lòng truyền lại cho lớp trẻ những ngón nghề bí mật mà đáng lẽ ra phải sống để bụng, chết mang theo. Lúc chị già yếu trên giường bệnh, chị bảo: tôi nặng khúc ân tình với cuộc đời. Mặc dù cuộc đời đã làm tôi đau khổ chị nói vậy được vài tuần rồi ra đi vĩnh viễn.

ÔNG HAI CHÂU

Không khí tưng bừng của ngày Tết Nguyên đán còn Ngần như nguyên vẹn. Làng Triều Khúc vào hội sớm hơn hẳn những năm trước. Năm nay, dân làng làm ăn có chiều hướng khá hơn. Đêm ngày mồng 5 tháng giêng, hầu như chẳng nhà nào ngủ. Họ tất bật làm cỗ bàn, bánh trái để đem ra cúng ở ngoài đình. Những đồ cúng đó lại được đem tất cả về nhà sau một hồi hương thắp và chia cho các cháu gọi là lộc. Gia chủ chỉ làm duyên với ông Từ một đĩa xôi nhỏ hoặc phẩm oản quả chuối. Việc cúng bái này không tốn kém gì mấy, cũng là bày vẽ ra mà ăn.

Khoảng 9 giờ sáng ngày mồng 6 tháng giêng là ngày tế Thành Hoàng. Ở Triều Khúc, Thành Hoàng cũng là Vua (Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương). Nhân dân rất tự hào với những dấu vết về bãi luyện binh của Phùng Hưng khi xưa còn lưu lại với những mô, những gò đống nhấp nhô thực mà mờ ảo ở phía sau ngôi đình cổ kính. Sau một tràng pháo nổ giòn, mọi người trang nghiêm làm lễ tế Thành Hoàng. Họ mặc những bộ quần áo lễ ngày xưa nhiều màu sắc rực rỡ, đội mũ, đi hia, những nhân vật chính biểu diễn những động tác được khoe trương với những nét múa chậm chạp và kéo dài. Ban hành bát âm xúng xính áo "thụng màu lam, cứ những làn điệu lúc hùng hồn, bi ai tha thiết lúc lại là dòng đời chảy xuôi duyên ngắn nợ dài. Khói hương nghi ngút, trong làn ánh sáng mờ mờ, mọi hình ảnh và màu sắc của các hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, mâm ngũ quả, đồ tế, những ngọn lửa nến v v… pha trộn lại với nhau hợp thành một vẻ đẹp kín đáo huyền bí, sương khói… thật khó tả. Ngoài sân đình, dưới chân chiếc cột cao treo lá cờ ngũ sắc với những miếng lưỡi hổ màu trắng bạch phất phơ.

Đó là một công báo về ngày lễ hội. Cũng chính dưới cái cột cờ sơn đỏ ấy có một đôi nam nữ nắm lấy tay nhau thật chặt, tưởng chừng như không thể nào rời nhau ra được. Họ lại hơi ngả thân vào nhau. Họ nhìn nhau như muốn quên cả đất trời. Cái trường đoạn này diễn ra quá lâu đã làm cho những người ở phía ngoài bỏ cả xem gà chọi và đấu vật mà để mắt nhìn về phía họ. Đôi nam nữ đã trở thành hai nhân vật nổi bật, hiếm có. Bốn thanh niên nam nữ cười rộn lên, xôn xao bàn tán với nhau, chỉ trỏ. Đám đông trở nên nhộn nhịp. Họ vẫn cứ nắm chặt lấy cổ tay nhau như sợ một trong hai người sẽbay đi đâu mất, mặc những tiếng xì xào những ánh mắt châm chọe từ bốn phía đưa tới. Họ chẳng biết trời đất là gì nữa. Mà lại có vẻ mỗi lúc càng say sưa hơn.

Người đàn ông chừng 70 tuổi, mặc áo the, khăn nhiễu. Ông sống bằng nghề khảm trai và nghề làm thao, may và làm cả kiểu áo bào rồng phượng, mũ mãng, hia dùng cho diễn viên chèo, tuồng. Thỉnh thoảng, có một đợt gió nhớ nhung quá khứ nào đó đem lại ông lại gấy mấy cung đàn nguyệt hoặc hát mấy bài quan họ. Giọng hát của ông trong trẻo, tươi mát và mạnh mẽ như cái hồi còn trẻ. Tên ông là Hai Châu ở xóm Cầu. Người đàn bà khoảng trên sáu mươi tuổi, mặc áo dài, quần đen, chít khăn nhung. Bà tên là Năm Diệu ở xóm Hạ Long Giang vùng Lim.

Người đàn bà này thuộc loại mà mọi người cho rằng họ có đến cái tuổi 60 chăng nữa vẫn còn xuân sắc. Họ quen nhau từ cái thủa mười tám đôi mươi khi cả hai cùng sống ở vùng Lim và rủ nhau đi hát quan họ hết làng này đến làng khác trong suốt tháng giêng. Họ là những vị liền anh liền chị được kính nể. Họ yêu nhau trong suốt thời gian dài nhưng không lấy được nhau. Thế rồi, cuộc đời xô đẩy, kẻ Bắc người Nam, nàng ở lại Lạng Giang với chồng con, chàng phiêu bạt sang Triều Khúc. Và từ mấy năm nay, họ đã đặt ra cái lệ được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và trang trọng.

Cứ hàng năm, ngày 6, 7 tháng giêng, bà Năm Diệu sang Triều Khúc dự hội đình, là thượng khách của ông Hai Châu. Ngày 13, 14 tháng giêng, ông Hai Châu lại tới hội Lim thăm bà Diệu và một số liền anh liền chị, bạn hồi trai trẻ. Năm nay, cũng như mọi năm, ông Hai Châu đã chuẩn bị đón bạn từ mấy hôm trước. Ông đã dành riêng một chiếc nhẫn vàng một đồng cân để đeo vào ngón tay run rẩy của bà Năm Diệu làm quà. Đây là thành quả của sự cố gắng làm lụng và sự tiết kiệm của ông. Ông cho rằng nhất định ông phải tặng bà món quà đó. Nếu không, ông sẽ vô cùng xấu hổ về cái sự, "Tu mi nam tử" của ông - ông nói thế. Họ vẫn đứng với nhau một lát nữa như hai pho tượng rồi dắt nhau rời khỏi đám đông, đi qua một lối nhỏ loanh quanh eo điểm những rặng cúc tần. Họ vẫn nắm tay nhau bước cao bước thấp về xóm Cầu. Họ chỉ biết có nhau và không để ý đến bất cứ cái gì hoặc người nào ở quanh họ. Bước vào nhà, họ rời tay nhau. Vẫn những cặp mắt nhìn nhau không rời. Ông Hai Châu chỉ cho bà Năm Diệu xem hòn non bộ, mấy chậu lan, những cây cảnh được tỉa, uốn theo những thế rất cầu kỳ và nên thơ, chiếc lồng chim lên nước có hai con bạch yến nhảy nhót… Tất cả đều là những tác phẩm tài hoa của ông Châu, ông luôn hỏi:

- Bà có thích không?

- Thích.

Ông lại dắt bà Năm đến gần hai cây si, một cao một thấp đứng cạnh nhau mà ngả nghiêng như đang trong cơn gió mạnh. Ông bảo:

- Bà này, đây là cây có cái dáng "Người ơi người ở đừng vê". Tôi đã đưa những tiếng hát của chúng mình vào hai cái cây này đấy. Bà có thích không?

- Cứ phải hỏi mãi! Ông Hai Châu hiện giờ đang ở đây. Gian nhà bé nhỏ nhưng gọn gàng, có vườn, có cảnh, ông sống một mình. Vợ ông đã mất từ lâu. Hai đứa con trai đã ơ riêng và đi đây đi đó luôn. Nghe đâu họ làm ăn cũng khấm khá.

Ông pha trà có cho thêm mấy nhánh ngâu mưa thu vào rồi mời bà Diệu:

- Bà uống đi. Một năm mới lại gặp nhau. Quý quá. Thật vô giá. Thế nào, có vất vả không? Trời ơi Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn… Nhưng thôi, gặp nhau là bao nhiêu ưu phiền tan biến hết - ông nói nhát gừng và như thể đang khóc.

Ông Hai Châu và bà Năm Diệu nắm tay nhau. Thật là tình yêu không có tuổi, say đắm, cuồng si và mờ ảo. Đó là tình yêu đích thực. Cả hai người, họ không nói nhiều về tình yêu, cũng không kể lể dài dòng, phù phiếm. Họ chỉ biết có nhau. Thật là may mắn cho tôi là một nhà báo luôn săn đuổi những chuyện vui buồn âm thầm mà mãnh liệt xảy ra ở khắp nơi để dự trữ cho cái niềm vui quá nghèo nàn của tôi. Tôi đã tìm mọi cách làm quen với ông Hai Châu. Sau nhiều lần qua lại với nhau, ông coi tôi như là người bạn thân để thổ lộ nỗi niềm. Ông kể chuyện bồ cũng chẳng rầy la tôi điều gì mỗi khi tôi tò mò vặn vẹo mọi chi tiết. Có hôm tôi vào đề: “Hát quan họ là hát về tình yêu. Các tác giả phương Tây cho rằng hát quan họ là một loại ca hát dân gian, đầy chất phong tình, đầy cái đẹp. Nó ăn nhập với tiếng hát của nhân loại. Họ không mấy đả động đến cuộc sống của các liền anh liền chị. Nhưng một số nhà nghiên cứu của ta, họ cứ bắt chước nhau mà viết quanh đi quẩn lại một vài chi tiết. Nào là các liền anh liền chị quan họ không lấy nhau. Hát để vui xuân, tình bạn của họ thật trong sáng, đứng đắn, không bao giờ xảy ra cái gọi là trai gái. Họ kính trọng nhau, quý mến nhau, chỉ giữ ở mức tình bạn v.v… Tôi thật suy nghĩ về cái khoản này lắm". Ông liền nói ngay: "Chúng tôi quý nhau, tình yêu của chúng tôi trong sáng. Vâng"

Ông bỗng nhỏm dậy, nói to lên như trong một cuộc tranh cãi và có cái vẻ cửa quyền:

- Còn thì vứt, vứt hết những lời nói đó đi cho tôi. Chúng tôi làm ăn vất vả để đủ cơm ăn áo mặc. Chúng tôi hát là chúng tôi yêu đấy. Có yêu mới hát. Hát cho mình, cho người mình yêu, cho người mình đang khát khao. Hát để tỏ tình đấy.

Vâng, ông nói có lý.

- Nó phong tình đấy! Này nhé:

"Cổ tay em vừa trắng lại vừa tròn

Đã cho ai gối nên mòn một bên…"

Chúng tôi hát và hàng ngày chúng tôi làm nông nghiệp và nghề thủ công, trao đổi buôn bán. Chúng tôi hát được mọi người yêu quý và cung phụng ăn uống, phí tổn. Nghĩa là tiếng hát của chúng tôi phải hay để có người nghe, có khách hàng, có lộc… Chúng tôi hát bài "Lúng liếng", rồi đến bài "Vào chùa chải chiếu ra", có câu "Muốn kết a phú lợi tình là nhân… duyên…" thế không phải là rõ ràng thanh thiên bạch nhật tất cả rồi à. Giời sinh ra thế mà…

- Vâng! Vâng!

- Chúng tôi tình tang đấy. Anh tình tang, ả tình tang. Có điều là xã hội còn phong kiến, xã hội muốn kín đáo, chúng tôi nên kín đáo. Chúng tôi tình tang rất mực. Lại còn cái câu "Yêu nhau cởi áo cho nhau" ư? Chúng tôi hát như sau: "Yêu nhau…" nghỉ một lát, đến hai từ "cởi áo" lại nghỉ một lát, rồi mới đến: "cho nhau"? Như thế là có nghĩa lắm đấy. Anh cởi áo cho ả, ả lại cởi áo cho anh. Về đến nhà, cả hai bên đều nói dối cả đấy”. Đó là lời nói dối cho phép…

Ông yên lặng một phút, tợp một hớp rượu. Trong lòng ông chan chứa những điều muốn nói ra. Chúng cứ tranh nhau để được thổ lộ đến nỗi làm cho ông lúng túng. Ông như bị ốp đồng. Ông liền hát lên bài: "Ngồi tựa mạn thuyền" và "Còn duyên" với lời ca của cái thuở xa xưa… Tôi cũng cảm động đến ngạc nhiên và không ngớt lời khen ông. Quả thực, ông hát quá hay. Tôi chưa bao giờ được nghe ai hát quan họ hay đến như vậy, mặc dầu tôi đã được nghe hát hai bài đó không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi hoàn toàn có thể cảm nhận được thế nào là một bài quan họ hay Tôi lại cám ơn ông nhiệt liệt. Ông hến gạt ngay đi và càng hào hứng hơn.

- Trong mấy chục năm nay, tôi chưa thấy giọng hát nào địch được với giọng Năm Diệu của tôi. Kể cũng có đôi ba tay khá đấy. Nhưng họ hát vẫn còn chưa "ngon". À, mà nói đến cái “ngon” của đời người thì phải kể đến những ý kiến mà các vị đàn anh của chúng tôi cho là: "Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà nhảy ổ" và "Cơm chín tới, cái gồng non, gái một con, gà mái ghẹ"… Đấy!… Hát quan họ cũng phải hát sao "ngon" như vậy.

Tôi còn có nhiều lần tiếp chuyện với ông Hai Châu về những chuyến đi hát quan họ lưu động của ông với các hến anh hến chị, về cuộc đời có phần phẳng lặng mà sôi nổi của ông, những câu chuyện về bốn mươi chín làng quan họ, và nhất là những câu chuyện gần như huyền thoại về bà Năm Diệu của ông… Tất cả đủ để viết thành một tập sách dày lưu truyền cho thế hệ sau, gợi nhớ về một con người, một cuộc đời gắn liên với tiếng hát quan họ.

TRÚC QUỲNH

Trúc Quỳnh người nhỏ nhẹ, cân đối, mắt sâu, long mày lá liễu, mũi dọc dừa. Chị là nhan sắc một thời. Cuối năm 1946, Trúc Quỳnh đóng vai Phồn Y trong Lôi Vũ, có hai buổi thôi nhưng cũng đủ cho người xem trầm trồ khen ngợi đến tận bây giờ. Lúc ấy, Trúc Quỳnh mới có 20 tuổi. Người ta cám ơn trời đất và cuộc đời đã cho sân khấu Việt nam có được Trúc Quỳnh. Vai Phồn Y là một vai rất khó đóng. Nó nằm gọn trong việc thành công hay thất bại của một vở kịch lớn Nhưng Trúc Quỳnh đã thành công rực rỡ. Những người có may mắn được xem vai Phồn Y do các diễn viên Bắc Kinh, Thượng Hải đóng cũng phải công nhận Phồn Y nơi Trúc Quỳnh không thua kém chút nào, mà còn hợp lý, duyên dáng hơn là khác. Với Trúc Quỳnh, vai Phồn Y đã trở nên quý phái, sắc sảo, dào dạt sóng bên trong, kiêu sa, thèm khát, vừa cao cả vừa nhục dục, chân tình mãnh liệt, già dặn mà non tơ. Người ta gọi ngay chị là ngôi sao, là diễn viên phi phàm. Sau buổi diễn, cả sân khấu đầy hoa cho Trúc Quỳnh. Sao mà nhiều hoa thế.

Cho đến ngay hôm nay, tôi chưa thấy bất cứ một buổi biểu diễn nào mà một diên viên được tặng nhiều hoa đến như vậy. Người ta mê Trúc Quỳnh và số người đó đếm không xuể. Tài năng của Trúc Quỳnh không phải tự nhiên mà có. Nó chẳng xuất hiện từ số 0 mà nở ra là sung mãn, vẹn toàn hấp dẫn, đầy ma lực. Nó hút nhựa và được tưới tắm từ cuộc sống đầy thăng trầm, đột biến, nhiều mâu thuẫn, vừa đời vừa đạo… mà rất nghệ sĩ của bà mẹ tà; sắc. Trúc Quỳnh ham mê nhiều thể loại nghệ thuật và đóng kịch từ bé. Trong kháng chiến, chị đi biểu diễn ở nhiều vùng. Tính ra, chị biểu diễn ở ngoài tiền tuyến nhiều hơn ở nhà hát. Đôi khi diễn ngay bên mâm pháo. Chị sắm được nhiều loại vai. Tâm trạng càng phức tạp càng diễn được “lên màu làm nên những hình tượng không thể quên được. Những vai nông dân, người mẹ… của chị đứng lên rõ nét, có hình hài, tâm trạng, có tuyên ngôn của người phụ nữ Việt nam kiên cường và nhân hậu. Đó là những vai chính của chị trong "Mẹ Lệnh giữ lúa", "Cái võng", "Dưới chân thánh giá", trả con tôi đây? Nỗi đau tinh thần của người mẹ mất con trong vở “Trả con tôi đây” đã được vật chất hoá, như có thể sờ mó được. Nỗi đau trở nên hiện diện, mãnh liệt và khủng khiếp. Khán giả vỗ tay lại kêu lên "Phồn Y Phồn Y…: " Vì yêu cầu của các mâm pháo, đôi khi chị đảm đương công việc biểu diễn của các diễn viên múa và diễn viên hát. Chị biểu diễn đằm thắm, đam mê, vừa thực vừa ảo và cũng được liệt vào những diễn viên múa, hát hàng đầu. Hoà bình trở lại, trong vở "Những người ở lại", chị đóng vai Ngọc Cầm với tâm trạng rối bời, phức tạp. Chỉ có chị đóng vai chính này. Không có diễn viên "Đúp” Sau đó, chị có một loạt vai thành công như "chị Hoà" trong vở Chị Hoà. Panova trong "Liuba" (không tìm được vai đúp). Ở vở kịch đồ sộ này, vai chính của chị thể hiện một tâm hồn Nga, rất Nga mà đạo diễn Vasiliep phải thừa nhận: thuần khiết, sâu lắng, tinh tế mỗi cử chỉ, dáng điệu của chị đều nồng nàn chất tạo hình. Đạo diễn Vasiliep lại nói: “Thành công của Trúc Quỳnh trong "Liuba" không chỉ đánh dấu tài năng vả sự trưởng thành của Trúc Quỳnh mà còn đánh dấu sự rạng rỡ của sân khấu Việt nam. Sau đó, chị lại đóng tiếp Lâm Nhĩ Nhàn trong "Đứng gác dưới ánh đèn nê-ông", vợ giáo sư Hoàng trong vở " Giáo sư Hoàng", Lia trong "Platon", bà mẹ trong "Tay súng dân quân", bà giáo trong, "Mẹ và những người con" Maria Jlitrina trong "Khúc thứ ba bi tráng", bà Pio trong "Sang sông". Chị còn thành công khi vào vai mẹ Núi trong bộ phim, "Đường về quê mẹ". Chị chẳng những chứng tỏ khả năng của mình mà còn có lòng quả cảm, hy sinh cho nghệ thuật. Ở những pha diễn nguy hiểm, đạo diễn đề nghị cho người khác đóng thay, nhưng chị không chịu và đề nghị chính mình được đóng để thể hiện tốt hơn. Chị đã phải vật lộn với một con bạc giê to lớn, hung dữ, chịu đựng những miếng ngoạm thực sự của nó. Chị đã vượt qua những pha như vậy với lòng dũng cảm của một chiến sĩ để đạt được cái đẹp thăng hoa cho những thước phim. Trúc Quỳnh rất dễ xúc động. Nhưng cũng rất biết truyền những xúc động đó tới người xem. Mỗi lần chị nhận một vai diễn hoặc một kịch bản phim nào chị đều cho đó là một lần "sơ tuyển" đối với một mối tình mối tình sân khấu. Trong sáng tạo nghệ thuật, Trúc Quỳnh luôn muốn đạt đến mục đích của sự cao cả. Chị có tinh thần trách nhiệm và một sự say mê không nguôi. Chị học tập ở sách, ở bạn bè xung quanh để đạt đến sự hoàn thiện của giọng nói, dáng đi, cách đứng làm sao cho tiếng cười tiếng khóc có được cả kỳ hoa dị thảo để dinh dưỡng tinh thần cho con người. Làm được như vậy, Trúc Quỳnh đã là một nghệ sĩ thực sự cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cho đến giờ, Trúc Quỳnh được kể như là một trong những nữ nghệ sĩ kịch nói hạng nhất. Mà những nghệ sĩ hạng nhất chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

Sân khấu Việt nam là một phần quan trọng trong nền văn hoá - nghệ thuật Việt nam độc đáo và đa dạng. Thật thiếu sót khi nói đến sân khấu Việt nam mà không nhắc đến Trúc Quỳnh. Đó là hiện thân của một nghệ sĩ cao cả, đẹp đẽ, xa xôi, mong manh, đơn côi và bí ẩn. Trong đời thường, Trúc Quỳnh khiêm tốn, yêu quý mọi người, giản dị, không ồn ào, không đòi hỏi nhiều, không bon chen, cầu cạnh, một tâm hồn nhiều ước vọng. Chị ra đi thanh thản như một chiếc lá diễn viên lìa cành sân khấu. Cả cái cây sân khấu rung lên thương tiếc và nhận chút phần đóng góp của chị để lại. Chị thích câu nói của Cơrian Chandra, nhà văn kiệt xuất của Ấn Độ: “Tôi hướng về một bông hồng và một ngọn lửa mà không bao giờ tôi với tới "…

CON GÁI HÀ NỘI

Cũng không hiểu sao Hàn lại yêu Oanh và được Oanh chấp nhận. Sau khi họ cưới nhau, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Mẹ Hàn mất sớm, lúc Hàn 18 tuổi anh đi bộ đội 8 năm, rồi xuất ngũ về với gia đình, Oanh chăm sóc Hàn mọi rặt đến mức Hàn không chê vào đâu được. Vợ anh có tài năng, các bạn bè khen Oanh nức nở. Thế rồi, họ có nhiều ảo tưởng trong cuộc sống. Cả hai đều có trình độ đại học. Nhưng với thực tế cuộc sống trong gia đình cùng với chồng, đôi lúc Oanh trở nên mệt nhọc vô cùng. Nàng tiều tuỵ đi đôi phần. Đứa con trai ra đời lại hay ốm yếu đã vạch ra một sự ngăn cách giữa hai vợ chồng. Nào nhiệm vụ với cơ quan nào những công việc có tên và không tên vây lấy Oanh đến ngạt thở làm cho tổ ấm gia đình trở nên giá lạnh. Oanh không hiểu được rằng chồng nàng rất yếu đuối trước những khó khăn. Trái tim và tấm lòng của anh không chịu nổi sự thử thách phũ phàng của cuộc sống. Đứa con trai lớn lên, Oanh mới rảnh tay, tập trung mọi cố gắng chăm sóc, giúp đỡ chồng. Chị mang đến cho chồng sự nồng ấm, êm đềm, dịu dàng và với tất cả những gì cần có ở một người vợ. Nhưng hình như đã hơi muộn. Anh ta đã thay đổi. Anh ta không còn quyến luyến Oanh như trước. Anh đã nhìn Oanh và gia đình với con mắt lạnh lùng. Do vậy, mọi cố gắng của Oanh đã bị loãng đi. Anh ta cũng rất lý trí và cự tuyệt một vài trường hợp bị cám dô bởi những cô gái trẻ, đẹp. Anh trở nên nóng nảy và hay cáu gắt. Vợ chồng anh luôn cãi nhau. Cả hai bên đều không chịu ngồi xuống nói chuyện chân thành. Tình trạng này dẫn đến việc anh "dính" vào vòng tay cô vợ đẹp của một anh công chức hạng thấp. Biết được chuyện này, Oanh vừa tức giận vừa đau buồn. Sự đau đớn cực độ này làm cho Oanh bừng tỉnh, nhận ra chân tướng của sự việc. Oanh không khóc nữa, không ra khỏi nhà mấy ngày liền, nàng kinh ngạc và thấy bản thân mình cũng chịu trách nhiệm về việc thay lòng đổi dạ của Hàn. Nhìn lại mấy năm trời chồng ở nhà thì đau đầu, chồng đi xa thì đau lòng. Họ đã, "kiêu" với nhau, dùng thái độ “lạnh” đối xử với cái lạnh. Họ không biết tình yêu là gì. Trước hết, Oanh lấy tấm lòng người vợ, quan tâm đến chồng với mức tối đa. Oanh ngẩng cao đầu, quyết tâm kéo chồng trở lại với gia đình. Oanh phát hiện ra chính mình. Nàng thể hiện cái đẹp bên trong lẫn bên ngoài của mình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của chồng. Đó là cả một giai đoạn cố gắng gian khổ. Oanh tin vào một vài sợi thuần khiết vốn có của chồng sẽ không làm cho mình thất vọng. Quả nhiên, trong bối rối, mê loạn, Hàn trở lại với Oanh. Nàng tôn trọng sự tự tin của chồng, không nói thẳng mà viết cho chồng mấy lá thư dài. Trong thư, nàng phân tích nhẹ thái độ lạnh nhạt của chồng và thừa nhận sự thiếu trách nhiệm của mình. Nàng cũng nhắc lại những kỷ niệm tươi đẹp trong thời gian đã qua. Xem xong thư, chồng Oanh thốt lên "Lành làm gáo, vỡ làm môi" Và có ý định ly hôn. Anh ta không ngờ Oanh nói có tình có lý, lại rộng lượng khoan dung đến vậy. Anh ta bảo: “trong chiến tranh lạnh, cả hai người cùng khổ". Hôm đó, họ nằm bên đứa con trai hai bàn tay họ gặp nhau, nắm lấy nhau. Họ cùng khóc với nhau. Thế là gương vỡ lại lành.

Mấy năm sau, chẳng biết cuộc đời xô đẩy thế nào, gương lành lại vỡ. Tôi gặp Oanh ở một quán cà phê. Oanh đã 60 tuổi. Nàng nhanh nhẹn, sang trọng và đẹp. Trông Oanh chỉ như người trên 40 tuổi thôi. Người chồng cũ của cô, anh ta ân hận cô đơn đến bạc trắng cả đầu. Con trai cũng đến thăm Oanh sau những chuyến đi công tác dài ngày để được ôm chầm lấy mẹ. Oanh khá nổi tiếng, dạy tiếng Anh và tiếng Pháp. Nàng còn làm cả việc nghiên cứu văn hoá dân gian. Có nhiều người đến xin được lấy Oanh, trong đó có cả những người trạc 40 tuổi cũng đến cầu hôn. Oanh không nhận lời ai cả. Tôi mừng cho Oanh và khen: "Em thật đầy nghị lực". Mắt Oanh ánh lên một niềm vui sắc sảo và bảo: "Em là con gái Hà Nội mà"…

NHUNG

Hôm ấy trời mưa phùn. Sau khi phải vất vả hầu hạ mấy ngày trời liền trong công việc bốc mộ người bà nuôi, Nhung được thư thả một chút. Các cô, bác họ hàng về dự lễ chuẩn bị trở về Hà Nội. Nhung chợt nghĩ mình cần phải ra Hà Nội. Cái làng quê bé nhỏ này không giúp gì cho cuộc sống sau này của mình. Nếu ra Hà Nội có bị khổ sở gì chăng nữa thì cũng không sao cả, Nhung quen rồi. Cũng chẳng có gì mà mất. Ở đây, Nhung chỉ là đứa con nuôi của ông Cả. Mẹ Nhung là người nghèo khổ, hầu hạ gia đình họ Nguyễn. Mẹ Nhung đi lại kín đáo với ông Cả mà sinh ra Nhung. Tất cả âm mưu là do ông Cả xếp đặt, sao cho có được một đứa con trai. Ngờ đâu lại là gái. Ông không công nhận Nhung là con ông mà chỉ nhận làm con nuôi. Ít lâu sau, ông Cả và mẹ Nhung đều chết Nhung làm con nuôi của em trai ông Cả. Trong đám người về Hà Nội, có một ông chú họ xa, ăn mặc bảnh bao, chải chuốt. Hắn goá vợ và có vẻ lẳng lơ ra mặt. Nhung đề nghị được ra Hà Nội với hắn. Hắn mừng quýnh lên như bắt được của, hứa sẽ cho Nhung ở gian dưới cùng với con gái hắn. Nhung sẽ được hắn cho đi học thêm vì Nhung rất thông minh. Tiền nong thì hắn nhiều. Hắn nói với em ông Cả một vài câu trịch thượng và lôi được Nhung ra Hà Nội. Đến năm Nhung lên mười bảy tuổi. Nhung yêu một chàng trai ở phố H. gần nhà, tên là Văn. Gia đình này kênh kiệu, có chuông điện và nuôi chó Tây. Ông chú nuôi của Nhung rất ghét Văn, không muốn cho Văn đi lại với cô cháu. Ông coi Nhung như một giò lan Bạch Ngọc của riêng mình. Chỉ mấy tuần sau, Văn lấy một cô gái xấu xí nhưng là con cưng của một ông cán bộ cao cấp. Văn cần đi nhiều nước và thăng quan tiến chức nhanh. Nhung rất cay đắng nhưng có đối sách ngay.

Nhung liền xưng hô chú cháu với một ông bạn mới của ông chú nuôi. Ông này đầy đủ sức mạnh và tích cực xin cho Nhung đi học tập tại Đức, bất chấp sự ấm ức của ông bạn thân. Thì ra, lòng tốt của họ đều vụ lợi cả nhưng lại nguỵ trang bằng nhiều cách. Nhung đã thấy được giá trị của mình. Người mẹ khốn khổ của Nhung đã kiến tạo ra được một đứa con xinh đẹp bằng những mảnh vụn nát của đời mình. Sang nước ngoài, ngoài những chương trình bắt buộc ra, Nhung say sưa học thêm về hoá trang, trang điểm, lái ôtô và học vô thuật. Học được gần hai năm, Nhung xin về nước. Thế là Nhung về Hà Nội, tứ cố vô thân. Các vị cha chú, anh em hờ đều tỏ ra thân tình, săn sóc Nhung.

Họ đều có một yêu cầu giống nhau. Họ đều muốn “xơi tái”, "xào khô", "xào ướt" Nhung. Chẳng ai là không có cái âm mưu đen tối ấy. Kể ra, nếu trong số họ có được một người tài ba, thông minh, lịch thiệp và thông kim bác cổ thì Nhung cũng "cho xong ngay". Nhưng may quá họ chỉ là những phường giá áo túi cơm không hơn không kém. Nhung từ giã tất cả rồi mua một căn nhà nhỏ hẻo lánh ở ngoại thành. Cô lao vào việc giao du rộng rãi với đủ tầng lớp, cả với những người nước ngoài ham của gỉa. Sự thiếu thốn đã đến với cô. Nhiều lúc cô cần tiền. Cô hạ quyết tâm trong một tuần lễ phải có được một số tiền nhất định, đủ để có một bộ quần áo sang trọng nhất, một đôi dép làm lóe mắt mọi người, một túi xách tay rất mốt và một số tiền cho nó "lên hương"… Cô đã thực hiện được cái quyết tâm đó đúng lúc cần cho việc đi dự vũ hội, gặp gỡ các bạn trai. Cô "chài" một số bạn trai và người nước ngoài. Cô làm cho họ cảm thấy được làm bạn và biếu tặng một vài thứ cho cô là một điều hạnh phúc lớn. Cô không cho ai hôn môi cô. Nhiều nhất cũng chỉ thơm tóc thôi, tóc không biết nói.

Cô có những động tác tế nhị mà có hiệu quả làm cho các bạn trai không thể nào tiếp xúc được môi cô. Môi là trận địa cuối cùng để đi đến chiến thắng của một người đàn bà. Người đàn ông nào cũng hiếu thắng. Cô cho họ khao khát mà ngầm hiểu rằng không thể chiến thắng cô một cách dễ dàng. Họ lại càng cay cú và quyết tâm thực hiện ý đồ của họ. Cô "bóc" của bọn thanh niên con cha cháu ông. Cha ông, chú bác nhà chúng đi nước ngoài như đi chợ, có nhiều bổng lộc, nhiều may mắn. Mà trong số họ, một số chẳng có khả năng, đạo đức gì. Họ được hưởng những của mà họ chẳng đáng được hưởng. Cô "bắt rễ" vào Thắng. Anh chàng này là con của một gia đình vừa có thế lực vừa có tiền.

Cô cố mọi cách làm cho chàng công tử này chết mê chết mệt vì cô cho cô là người kiếp trước của chàng. Những cô gái khác môn đăng hộ đối với gia đình chàng, so với cô trở nên không có một chút nhan sắc. Trong thâm tâm, Nhung không yêu Thắng. Nhưng cô đi lại thân mật với tất cả các thành viên trong gia đình Thắng, nhất là với u Thắng, là người giúp việc tin cậy, trông nom nhà cửa cho gia đình. Bà cũng là người họ hàng. Bà không chồng không con vì trước đây bà ở vào cái thế cao không đến thấp không thông, nên lỡ thời. Thắng chuẩn bị mua sắm nhiều thứ và để hẳn vào một gian buồng gác hai. Tất cả những xe máy, xe đạp ti vi cát xét, máy ảnh hảo hạng, vàng bạc, tiền nong của bố mẹ đều được đưa sang gian buồng dành riêng cho Thắng chuẩn bị cưới Nhung. Một buổi trưa Nhung ra gần bến xe Kim Mã, thấy một chiếc xe tải nhỏ đỗ ngang phè phè, chạm lòng đường. Anh lái xe ngủ say ngay bên cạnh sau một chuyến đi xa mệt mỏi. Nhung đến gần, đi đi lại lại, làm cho anh lái xe thức dậy. Anh ta liền tỉnh như sáo sậu và làm quen ngay với Nhung, mời Nhung đi ăn uống.

Anh lái xe còn trẻ có nét bạch diện thư sinh, say mê cô bé ngay lập tức.Họ nói chuyện với nhau rất tâm đầu ý hợp Anh ta đã, "đổ”. Đúng như Nhung thường nói, rằng cô không "cưa" thì thôi, cô đã "cưa" thì ai cũng phải đổ. Đến nhà Thắng, cả nhà về quê, chỉ còn lại bà giúp việc. Vì hôm trước Nhung và Thắng đã ngồi với nhau ở dưới nhà mãi. U Thắng đã biết và cho rằng đôi này đang chuẩn bị cưới nên không mảy may ngạc nhiên về việc Nhung đến đường đột lúc Thắng không có nhà. Nhung vui vẻ: "U ơi! con gái của u đến biếu u cái này đây”. Nhung trao cho u Thắng một gói bánh cốm có lạt đỏ và một bọc sườn, rồi bảo: "Anh Thắng cũng sắp về, u làm cho món sườn chua ngọt đi rồi mấy u con ta ăn cơm với nhau. Nói đoạn, Nhung đi thẳng vào trong nhà, lên gác hai thăm thú thật nhanh rồi lại xuống với u Thắng.

- Con đợi Thắng về nhé. Thẳng cũng sẽ có quà biếu u đấy - Nhung nũng nịu.

- À, thế này nhé. Cô đợi Thắng ngoài này, để tôi ra đằng bếp làm món sườn. À mà lại còn một lô quần áo cần phải giặt nữa chứ - U Thắng nói rồi đi về phía nhà bếp ở mặt sau.

Nhung gọi anh lái xe đánh xe vào. Đuôi xe vừa đúng vào tầng hai. Mở chiếc khoá cửa phòng to tướng, Nhung chỉ cần một cái đinh và một que tăm là xong. Anh lái xe trở thành một phu khuân vác chuyên nghiệp, đưa tất cả bao nhiêu của cải đặt trong phòng xuống xe, Nhung nhét tất cả mọi thứ quý giá nhất vào va li. Sức mạnh của tình yêu là vô địch, họ làm được tất cả mọi việc. Chỉ trong một thời gian ngắn, việc chuyển cả cái kho lên xe ô tô đã xong. Xe rồ máy phóng đi thật nhanh, vòng vèo, điên dại. Anh lái xe sẵn máu giang hồ lãng tử, mơ màng tính đến viễn cảnh mai sau. Xe đi được một đoạn, đến quãng đê gần phía đi lên cầu Chương Dương. Nhung đề nghị dừng xe lại một chút để nghỉ ngơi va lấy lại tinh thần. Mỗi người một chai nước ngọt, họ vừa uống vừa nhìn nhau không chớp mắt. Những tín hiệu họ phát ra cộng hưởng với nhau. Rồi, Nhung với cái mũ lưới trai kiểu Mỹ trên đầu anh lái xe và chụp lên đầu mình, gạt anh lái xe sang bên phải và ngồi lên lái xe. Đến chỗ đê quai gần bãi Phúc Xá, Nhung vẫn cho xe nổ máy. Cô kéo anh lái xe xuống cùng làm vài động tác thư giãn. Họ nắm tay nhau. Anh lái xe ngửi hơi tóc ấm của người đẹp. Trong nháy mắt, Nhung dùng võ thuật ném anh lái xe ngã dúi ra một quãng xa. Cô nhảy phục lên xe, phóng thẳng. Đến một ngõ phố, Nhung đã tiêu thụ được tất cả những đồ đạc có trên xe nhanh như làm ảo thuật. Nhung dồn tiền và vàng bạc vào một chiếc va li nhỏ hơn cho gọn. Vứt bỏ không thương tiếc chiếc va li cồng kềnh. Đến mười một giờ đêm, trên xe không còn hàng nữa. Nhung lái xe lên đoạn đường gần đền Voi Phục, để nằm lại đó, hạ chiếc xe Pơgiô mới toanh xuống. Chiếc xe là quà chuyến đi Paris của bố Thắng cho. Nhảy lên xe Nhung phóng vun vút như một bóng ma qua Ô Cầu Giấy Đoài Môn rồi về Bưởi. Thời gian trôi đi chừng sáu, bảy tháng. Chẳng ai có thể tìm thấy tung tích của Nhung tuy cô vẫn tung tẩy nay đây mai đó. Có điều, Nhung áp dụng nhiều kiểu hoá trang và luôn luôn thay đổi phục trang. Dĩ nhiên, cô có rất nhiều tiền. Lúc là Lan lúc lại là Huệ. Nhung sống rất rộng rãi thoải mái, tiêu tiền bằng thích và có quan hệ bạn bè với một số nhà văn, nhà thơ trẻ. Đám này cũng hay hay. Song họ chỉ hiểu biết một số kiến thức về văn hoá nghệ thuật mà rất ngờ nghệch về mặt xã hội. Họ kính trọng và tôn sùng Nhung, cám ơn tấm lòng nữ Mạnh Thường Quân của Nhung. Đến tháng thứ tám, trong một quán giải khát, Nhung ngồi một mình, dáng hơi mệt mỏi. Cô nghĩ trở lại cội nguồn, thích cái lúc mình là cô bé tắm truồng trong ao làng. Phía góc quán có anh công an đeo kính râm đang nhấp cà phê. Anh tình cờ nhớ mang máng ra những đặc điểm của Nhung. Anh cũng không tin vào trí nhớ của mình nữa. Nhưng cũng muốn làm quen với Nhung. Cứ bắt chuyện cái đã, chết ai mà ngại. Không ngờ cái câu hỏi không chủ đích của anh lại xảy ra một sự việc không lường tới. Anh công an đến bên bàn, mình hơi cúi xuống:

- Thưa chị. chị có phải là chị Nhung không ạ?

- Vâng có lẽ la số phận. Tôi trả giá cho sai lầm của tôi. Tôi là Nhung…

Nhung sống ở trong trại cải tạo chừng hơn một năm. Ở đây cô sống khác hẳn với những người cùng bị giam giữ. Bằng nhan sắc, nghị lực và bằng mấy miếng võ bi truyền của người xạ phang, bọn đầu gấu hạng nhất cũng phải kiêng nể cô. Bọn chúng dành tất cả mọi sự ưu ái cho cô. Hơn nữa, cô luôn luôn nhận cho riêng mình một chút còn chia hết chứ mọi người. Lại có một chuyện xảy ra Nhung thường kín đáo đến gần phía dãy các tu nhân nam. Nơi đó, có một chàng trai tên là Nam, có một trình độ uyên bác có lẽ chỉ có chàng mới hiểu được Nhung, chàng mới hợp với tình diệu muôn vẻ của Nhung, chàng không đẹp rộn ràng nhưng có đôi mắt vương vất một nỗi buồn muôn thuở. Hai người đã có với nhau nhiều cuộc gặp gỡ bên mấy gốc cây to. Xung quanh là cây cối rậm rạp, sáng, chiều đều lờ mờ một thứ ánh sáng u uất. Họ ca tụng nhau và cùng khóc với nhau Nhung nỗi đau trần thế. Nhung động viên Nam cố gắng cải tạo và hẹn lấy nhau khi chàng ra trại. Họ nhắc nhau sống để gặp nhau và vì nhau. Chỉ cần họ bên nhau là có đủ sức để đi đến cùng trời cuối đất. Mọi người luôn yêu cầu Nhung kể cho nghe chuyện, nào là chuyện Tây, chuyện Tàu, chuyện phiêu lưu, tình ái… Họ mê mẩn về tài kể chuyện của Nhung, nhất là những chuyện bịa hoặc chuyện về người mẹ của cô đã phải đi tu đến năm ba mươi chín tuổi. Đến năm bốn mươi tuổi bà mới bỏ chùa và lén lút có con với một người đàn ông bảy mươi tuổi…Những chuyện này được kể rất xúc động với những chi tiết “ có cánh”… Nhung còn giúp đỡ một số việc cho trại và cho cả tập thể trại nữ. Cho nên các giám thị, quản giáo thường bỏ qua cho Nhung những điều có thể bắt bẻ hoác xử phạt.

Hết hạn cải tạo, Nhung lại về Bưởi. Nơi đây không có đất làm ăn, đồng tiền khó kiếm lắm. Với hai bàn tay trắng, Nhung vay mượn chút ít, chung vốn với một chị bạn, buôn bán quần áo may sẵn ở chợ Giời. Mấy tháng sau, Nhung buôn bán một mình. Đợi mãi không thấy tin tức gì về Nam. Cô nhớ đến mối tình vụng trộm với Nam trong rừng những năm trước. Cô cho là cuộc đời tình duyên của mình đã hết. Cô lao vào buôn bán và phất lên nhanh chóng. Hay là số phận đã đưa Nhung đến chợ Giời chăng? Nhung nghĩ thầm như vậy. Đất chợ Giời thật dễ làm giàu. Cô đã qua một vài cuộc tình, lấy vài người chồng rồi lại bỏ. Cô đã có trong tay ba sạp hàng và trở nên nổi tiếng với cái tên "Con Phượng hoàng của chợ Giời". Cũng có nhiều tai tiếng về cô. Nhung không để ý mấy đến dư luận xung quanh. Nhung cứ tồn tại một cách tích cực. Không bao giờ có tâm trạng buồn nản. Nhung hiểu rằng mình cô gắng làm cho cuộc sống của mình đi lên thì bao giờ cũng có những kẻ ghen ghét. Đó là lẽ thường. Nếu như Nhung vẫn còn là Nhung ở cái đất Phú Xuyên xơ xác, nghèo nàn thì Nhung sẽ phải chuốc lấy sự khinh rẻ, những sự lo lắng kéo dài và Nhung không còn được biết một chút gì ngoài cái luỹ tre làng bùn lầy nước đọng. Bây giờ khác, Nhung đã có đủ khả năng để hoà nhập và đối phó với cuộc sống, đã hiểu được bao nhiêu điều mới mẻ, hấp dẫn của cuộc đời. Nhung còn được tiếp xúc gặp gỡ với bao nhiêu con người tuyệt vời mà Nhung yêu mến. Nhung học hỏi được ở họ mọi (cách ăn, nói, gói mở và thực sự làm chủ cuộc đời mình. Nhung cảm ơn cuộc sống, cảm ơn cái quê hương nghèo nàn và người mẹ đau khổ của mình). Hơn thế nữa, việc kinh doanh của Nhung đã đưa Nhung lên một vị trí đáng nể, Nhung được nhiều người quý trọng, lại có chân trong hội từ thiện tấm lòng vàng giúp đỡ các trại mồ côi, hội người mù và giúp đỡ tu sửa những di tích lịch sử văn hoá.

Chị phóng viên nhà báo thân thiết với Nhung rất quý Nhung và đã động viên Nhung nhiều, chị đánh giá: “Nhung là một phụ nữ đầy trí tiến thủ, thích hợp với cuộc sống mới có tốc độ vũ bão. Nhung giàu linh hồn, nhiều giấc mộng, Nhung còn đi xa".

RẶM TRƯỜNG

Tên cô là Thanh, người Lạn Dương, sống tại một Xóm nhỏ vùng đồi thuộc Vũ Yến - Phú Thọ. Thanh 18 tuổi. Cô đi trên xe lửa suốt cả đêm. Cô đã phải đi bộ từ lúc nhá nhem tối, vội vàng, lật đật để tới được ga. Cô sợ anh cả và chị dâu biết rồi lôi cô về thì cuộc chạy trốn khỏi làng của cô sẽ không thành. Cô bị người anh cả ép gả cho một anh chàng làm chè ở Thái - Ninh, tên là Lạc và đã nhận của Lạc một số tiền hai triệu đồng Hai năm trước đây, mẹ đẻ của Thanh qua đời Cô phải ở với người anh cả. Ở đây, người ta vẫn hay nhắc đến câu: “Quyền huynh thế phựt”, cô không nhận lời lấy Lạc. Cô xin với anh cả hãy trả lại số tiền của Lạc. Nhưng người anh cả nói là đã tiêu gần hết cho bao nhiêu chuyện trong gia đình. Anh ta dỗ dành và dùng đủ mọi áp lực ép Thanh lấy Lạc. Hai hôm nữa là ngày chạm ngõ và bốn hôm sau Thanh sẽ về nhà chồng. Thế là mọi việc sẽ đâu vào đấy.

- Em không lấy.

- Em phải nghe lời anh chị.

Thanh buồn lắm, cô ngồi xuống bậc cửa, cúi mặt. Những giọt nước mắt chảy xuống.

- Khóc cái gì chức Con gái lớn, phải đi lấy chồng.

Mấy người bà con bên cạnh biết chuyện. Nhưng họ cho là người anh cả lo việc dựng vợ gả chồng cho em là một chuyện hợp với thiên kinh địa nghĩa. Nhất là khi cả hai cha mẹ đều không còn. Số phận cả thôi! thanh đi bộ một quãng rồi lên ô tô đi đến ga, về thẳng Hà Nội. Xuống ga Hà Nội, Thanh đi về phía Vọng. Cô vào nghỉ trong một quán nước. Bà chủ quán dáng người đôn hậu, biết ngay Thanh là người ở xa tới Bà róc nước cho cô gái và nhìn kỹ cô gái từ đầu đến chân. Bà hỏi:

- Cô ở đâu tới?

- Cháu ở Phú Thọ tới.

- Cô về đâu bây giờ?

- Cháu…cháu còn…

- Chết! Cô đi một mình à? Không có ai quen chứ?

- Vâng - Cô liều thật, tôi phải giúp đỡ cô kẻo khốn đấy…

- Thưa bà, cháu trốn gia đình. Anh cả cháu ép cháu lấy một người mà cháu không thích…

- Tôi hiểu rồi, tôi ở đây có một mình. Trông cô nhẹ nhõm, tôi mến cô đấy! Thế học đến lớp mấy rồi?

- Dạ, đến lớp 10 ạ…

- Ừ, chắc muốn tìm việc làm…

- Vâng ạ.

- Thế định làm việc gì?

- Việc gì cháu cũng làm được.

- Thế có tạm giữ trẻ được không?

- Được ạ!

Bà Dương gọi một cậu thanh niên ở bên nhà đối diện sang bảo: Này cậu Tê ơi! Tôi có một cô cháu có thể giúp việc trông con cho chị Hằng nhà cậu đấy. Cậu đưa cháu nó lên cho chị ta xem mặt. Chị ấy đang cần.

Cậu Tê về nhà lấy xe máy đèo Thanh đến nhà chị Hằng. Đó là một ngôi nhà mới làm. Chồng chị Hằng ra mở cửa, đón hai người vào, bảo: "Vào đi”. Đứng trước cửa phòng chính, Thanh rụt rè. Lúc này có tiếng đàn bà ở bên trong vọng ra: "Vào đây”. Hai cánh cửa mở. Thanh bước vào. Chàng thanh niên bảo với cô gái: "Tôi là em anh chị tôi ở đây. Cô chào chị Hằng và anh Tôn đi!”. Thanh cúi chào. Tê nói một vài câu với anh chị rồi xin phép về ngay vì bận việc. Anh Tôn mở cửa buồng bên cạnh ra bảo Thanh cùng vào. Bên trong có một giường, một hành mấy chiếc ghế. Chị Hằng vào theo. Chị bật các đông tắc điện cho cô gái biết rồi chỉ vào chiếc giường: "Tối cô ngủ ở đây”…

Từ hôm đó, cô gái giúp việc cho chị Hằng. Chủ yếu là trông con cho chị. Ngoài ra còn phải giặt giũ cho cả nhà và làm tất cả mọi việc lặt vặt Lương tháng là 200 ngàn đồng. Anh Tôn làm việc ở cơ quan bộ. Chị Hằng làm việc tại một công ty liên doanh với nước ngoài. Nghe đâu, lương cao lắm. Tháng lĩnh tiền công đầu tiên, Thanh mua một chiếc bút bi và một cuốn sổ con để ghi nhật ký mỗi khi có được chút thì giờ tranh thủ. Thời gian đầu, chị Hằng không biết là Thanh thường ghi nhật ký mà chỉ tưởng là Thanh đọc các sách, báo cũ đặt lung tung trên bàn. Trong nhà luôn có người mang đến nào thịt, nào cá, trứng, hoa quả. Thanh hỏi chị Hằng xem những thứ đó có phải trả tiền không? Chị Hằng bảo: "Có cái gì mà ăn không được đâu” Nhưng Thanh cứ thấy các nhân viên mang đến cho chị Hằng nhiều thứ mà chẳng thấy phải trả tiền bao giờ. Đêm khuya, Thanh vẫn để đèn sáng, cô ghi nhật ký và giở các trang sách, báo gây nên những tiếng sột soạt Chị Hằng đặng hắng mấy tiếng rồi lại mấy tiếng nữa. Thanh biết là chị Hằng giục mình tắt đèn.

Trong mấy tờ nhật ký của Thanh có những dòng ghi rất thương tâm, làm rơi nước mắt. Cô phải lau đi ngay, không dám khóc. Từ sau khi cha mẹ cô qua đời, cô đã hiểu rõ là không nên khóc. Khóc sẽ làm cho người khác ghét. Chị Hằng có rất nhiều quần áo đẹp. Chị cũng cho Thanh một vài thứ cũ mà chị không dùng tới. Nhưng với Thanh, chúng đã là đẹp, tốt và mới lắm rồi. Thanh cảm động quá, nói lời cám ơn cứ líu ríu. Chị Hằng bảo: "Không phải cám ơn. Sau này cứ làm việc tốt là được rồi…".

Ôi! Chẳng hoá ra như vậy là mấy: tháng trước đây, Thanh làm việc không tốt hay sao nhiều lúc, Thanh nhớ nhà quá. Nhớ những ngọn núi những quả đồi trồng cây đó, cây cọ. Nhớ những con suối mát lạnh. Nhớ mùi chè ủ thơm mùi mật ong. Chị Hằng bắt đầu để ý đến những dòng nhật ký Của thanh. Tuy rằng, chúng không động chạm gì đến gia đình chị Hằng, nhưng chúng cứ như trong tiểu thuyết chị chợt nhớ ra nhiều điều. Chị thấy chỉ trong có mấy tháng mà Thanh đã đẹp ra nhiều. Thanh nhanh nhẹn, khỏe mạnh, lại có duyên thầm. Thỉnh thoảng, chồng chị Hằng lại khen Thanh: "Ừ, mà má nó lại cứ đỏ lên như màu mận chín". Thôi, chết rồi, hình như cậu em anh Tôn cũng lưu ý đến nó. Nghĩ liên miên một lúc, Hằng vào trong phòng, vò nát mấy tờ giấy rồi làu bàu:!"Kiều này, nó sẽ không chịu làm việc giữ trẻ ở đây! Nó sẽ đợi thời để làm nên một việc gì to tát?… À mà bà thầy bói đã chẳng bảo rồi đấy ư? Bà bảo đôi mắt của nó là đôi mắt “nhỡn trung hữu thuỷ” làm cho bọn đàn ông chết mệt…Con bé sẽ trở nên nguy hiểm cho chính cái gia đình này. Mà chính cái mối tình giữa Hằng và Tê cũng không phải không "Có vấn đề…".

Cô tự khuyên nhủ mình, cương quyết không để Thanh giúp việc cho mình nữa. Việc này chưa nói ra với ai mà cậu em chồng chị Hằng đã đến hỏi thăm, dò xét. Cậu Tê khuyên chị Hằng không nên buộc Thanh thôi việc vì chị Hằng sắp hết thời gian nghỉ phép rồi, sắp phải đi làm, cần sự giúp đỡ của Thanh. Để nhấn mạnh lý do cần cho Thanh thôi việc, Hằng kể ra một loạt những khuyết điểm lặt vặt của Thanh như: có lần tắm, Thanh đã dùng các đồ hoá trang của Hằng, Thanh dùng quá nhiều giấy vệ sinh v.v… Tất cả mọi ý kiến của Hằng đều bị cậu em chồng gạt đi hết. Lại còn chuyện mà Hằng chưa xem lại kỹ, hình như hôm trước, Hằng bị mất một tờ 50 ngàn đồng thì phải.

- Chị mất ở đâu?

- Trong nhà.

- Ôi! Chắc chị cho ai vay hoặc tiêu một khoản nào đó -

- Không. Nhất quyết tôi cho con bé ra…

- Bao giờ?

- Ngay sáng mai.

- Không nên.

- Chị sắp đi làm rồi Sao lại không nên.

- Đi làm thi tôi xin nghỉ cũng được. Để em tìm cho người thay thế đã rồi hãy cho cô ta thôi việc…

- Không…

Sáng ngày hôm sau. Hằng bảo Thanh thôi việc. Như con chim xứ lạ, rơi từ trên không xuống và bị gãy cánh, Thanh ngạc nhiên quá, nước mắt trào ra. Cô hỏi: "Sao chị lại từ bỏ em?"

- Cô biết rồi đấy.

- Không. Em chẳng biết gì cả.

- Cô không biết gì, tôi vẫn cứ không mướn cô.

- Thế còn em bé?

Thanh định nhào vào với đứa nhỏ ở buồng trong. Hằng giữ lại bảo:

- Không cần.

- Em rất thích nó mà…

- Thích cũng không cần cô trông nom nữa. "Thanh thu xếp đồ đạc, bỏ vào túi xách. Một hai bộ quần áo, tập nhật ký, cái bút bi v.v… Cô nhìn lại trang phục trên mình. Toàn là các thứ của chị Hằng cho cả. Cô cởi chiếc áo blu-dông màu ra, trả lại cho chị Hằng.

- Em trả lại chị…

- Tôi cho cô đấy. Nào còn việc gì nữa không?

- Không ạ.

- Thôi…Cô đi…

Thanh bước ra khỏi cửa, rơm rớm nước mắt, khóc không nên tiếng. Sau lưng cô có tiếng đóng cửa. Thanh trở về quán bà Dương. Cô buồn bã mấy hôm vì nhớ thằng bé con mà cô đã chăm bẵm nó, nó mới đáng yêu làm sao? Mà nó cũng yêu Thanh làm sao? Bà Dương kể hết cả cuộc đời của bà cho Thanh nghe. Bây giờ, bà sống có một mình trong cái quán nhỏ bán nước và quà vặt tối lại về nhà tại khu tập thể nhà máy ở gần đó Bà nhận Thanh làm con nuôi. Mà Thanh cũng thèm có một người mẹ. Thế là hai con người tội nghiệp đó gắn bó lấy nhau. Bà Dương có một căn hộ trong khu tập thể nhà máy do chồng để lại. Chính nơi đây, Thanh đã mở lớp dạy thêm cho các em bé học lớp 1, 2 và 3. Số học sinh đến rất đông.

Thế là Thanh trở thành cô giáo cấp I. Mỗi ngày cô dạy hai buổi. Có khi đến ba buổi. Thật không ngờ, tiền thu được hàng tháng tới trên hai triệu đồng. Hơn cả số tiền mà trước đây anh cả của Thanh nhận của Lạc. Cô được các học sinh, các vị phụ huynh yên mến. Cô có nhiều sáng tạo trong việc dạy học. Mọi việc trong nhà, bà Dương giao cả cho Thanh. Với bà, Thanh là con gái của bà. Đôi lúc có giờ rỗi, cô ra giúp việc cho bác Vượng, làm đủ việc trong cửa hàng Photocopy, đóng sách đẹp, dán ny lông v.v… Cô nghĩ phải học thêm nhiều nghề, phòng khi không làm nghề này thì làm nghề khác. Cô giúp cho bác Vượng nhiều sáng kiến hay. Ban đêm cô theo học lớp tiếng Anh. Tình yêu đã đến với Thanh. Cô từ biệt ngay người bạn tình đầu tiên. Anh ta tỉnh táo quá, không hở ra một chút gì khờ dại trong khi yêu nhau. Anh chàng thứ hai không tặng hoa cho Thanh trong ngày sinh nhật của cô. Cô cũng đợi một tuần để xem anh ta có ý định nghiêm chỉnh, tặng cô chút đồ vật nhỏ nào đấy để tỏ lòng hối lỗi không? Anh ta không đến.

Thanh lại yêu Thái. Họ say đắm nhau, thề thốt đủ điều. Nhưng đã 3, 4 tháng trời mà Thái không hề đả động đến việc đưa Thanh về thàm quê và cha mẹ của Thái. Thế là Thanh chủ động nhạt tình với Thái.

Cô lại lao vào công việc và tự học. Bây giờ, Thanh đã là cô gái khác hẳn trước. Cô đã học được nhiều điều. Sau hơn hai năm ở Hà Nội, cô xin phép bà Dương về thăm quê. Cô lại về với những con đường nhỏ lượn lờ như những con rắn, leo lên những quả đồi đỏ rợp bóng cây. Mấy đám đồi xanh những cây cọ xoè ô, những người bà con, dân làng rủ nhau đi hái chè… Tất cả đều rất quen thuộc mà cũng rất bỡ ngỡ, bịn rịn. Bọn trẻ con trố mắt, nhìn cô. Chúng không biết rằng cô là người cùng làng với chúng. Về đến nhà người anh cả, nỗi đau buồn xưa tràn ngập. Cô khóc cha, khóc mẹ, khóc cho bản thân cuộc đời của mình. Bà con làng xóm sang thăm cô, vui như ngày Tết. Cô mang nhiều bánh kẹo ra mời mọi người và phân phát cho bọn trẻ con. Cô đi thăm hết nhà này đến nhà khác. Đến đâu cô cung biếu một chút quà bánh, chiếc áo, cái khăn hoặc thước vải… Tối đến, cô đưa cho anh cả số tiền mà trước đây anh đã nhận của Lạc. Cô cũng đưa thêm cho anh chị một số tiền làm vốn.

Sau năm ngày về thăm quê, cô trở về Hà Nội để làm ăn sinh sống và học tập. Và bây giờ cô có ý chọn trong số mấy người bạn trai của mình, một người có thể làm bạn trăm năm với cô. Điều này, cô sẽ làm được.

Tương lai ở trong tay cô.

ĐÔI NÉT VỀ ĐÀN ÔNG HÀ NỘI NHỮNG NĂM XƯA

Những năm từ 1920 - 1930, ở nước ta, người đàn ông không búi tó nữa, mà đã cắt tóc ngắn, để đường ngôi lệch sang một bên. Ở nông thôn có các bác phó cạo xách đồ nghề đi khắp nơi làm việc cắt tóc và lấy dáy tai eho khách hàng. Những người lấy dáy tai được ưa chuộng và họ mang lại khoái cảm cho khách.

Đã xuất hiện các kiểu đầu húi "cua", kiểu "phi lô dốp", Kiểu hai bên tóc vắt qua tai gọi là kiểu tóc "gọng kính". Ở các thành phố, đã có những hiệu cắt tóc hoặc những điểm cắt tóc ở góc phố hoặc gần chợ. Mọi người thường mặc quần “lá toạ", ống rộng, đũng thấp, cạp quần có chừng 20cm. Khi mặc, họ vê hai đầu cạp quần lại rồi thắt vào với nhau. Có người lại dùng thắt lưng vải thắt ra ngoài cạp quần. Khi cấn thiết làm việc gì đó, họ rút cạp quần ra ngoài thắt lưng toả cạp ra ngoài. Như vậy, tư thế lảm việc sẽ được gọn ghẽ hơn. Có khi lại cuốn đầu ống quần lên, gọi là "xắn móng lợn". Cũng có khi họ mặc quần cút, chiếc quần rộng có "chân què" này rất lợi hại. Nó không sợ mất nếp, rộng rãi, giữ cho các bộ phận thân thể bên trong được thoáng, mát, không bị gò bó. Và đó là điều kiện tốt lành nhất để cái “nhà máy chế tạo ra tinh trùng" tiến hành công việc được thuận lợi nhất. Thông thường thì áo và quần đều nhuộm nâu hoặc nhuộm nâu nhuốm thêm bùn để có màu sắc sầm hơn và mặc bền hơn.

Khi đi ra ngoài, ra đình hoặc đi chơi đâu đó, họ mặc quần trúc bâu trắng và chiếc áo dài quá đầu gối hoạt chiếc áo the thâm. Trên đấu quấn khăn chít hoặc đội khăn đóng do các cửa hiệu làm sẵn. Chỉ cần đội lên đầu là xong, không cần phải chít từng nếp. Những người có học hành, giàu có hoặc chức sắc thì mặc chiếc áo dài trắng bên trong. Ngoài là chiếc áo xa có hình nhúng "chữ thọ". Trong những ngày Tết, ngày lễ hoặc ngày quan trọng nào đó, một số ít ngươi mắc áo gấm màu, có thêu những chữ "phú, quý, thọ, khang, minh". Để tránh cho chiếc áo gấm quá sặc sỡ, choáng ngợp, người ta mặc ra ngoài một chiếc áo xa rất mỏng. Như, vậy lai gây được hiệu quả thầm mỹ cao…

Những năm 1935-1936, ở Hà Nội, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài toán lại dạy văn ở trường Bưởi. Ông mặc áo gấm phủ áo xa, chít khăn đóng, đi hài cao, đã tạo nên một nôi niềm dân tộc, hoài cồ và tâm linh. Sự thực ra, cha ông ta, những anh hùng hào kiệt, những ví có chức sắc cao lại còn mặc ra ngoài một chiếc áo phụng dài, rộng màu lam. Kiểu mặc này rất đẹp màu sắc hoà hợp với nhau một cách hài hoà, vừa nghiêm trang, uy vọng lại có tính nghệ thuật cao.

Mùa rét, người bình dân mặc áo bông dài hoặc ngắn. Họ đội nhiều kiểu nón, đi guốc, đi giầy Gia Định, thậm chí là đi chân không…Từ năm 1935 trở đi, ở các thành thị, nhiều người đã mặc âu phục: Nhất là từ những năm 1975 đến giờ, các chàng trai và các vị đứng tuổi của ta ở hầu hết các thành thị và ngay cả ở nông thôn cũng đều ăn mặc kiểu âu. Họ tiếp thu cách ăn mặc của các nước phương Tây rất cầu kỳ.

Qua thăm dò ý kiến của một số nhà văn hoá nước ngoài về chuyện may mặc của giới đàn ông nước ta, chị Bar Bang Ghen, người Mỹ, nói: "Thanh niên Hà Nội ăn mặc rất đẹp mà còn kỹ lưỡng hơn cả người Mỹ chúng tôi, họ mặc "Pháp" hơn chúng tôi". Chị Van de Viele người Bỉ, nói: "Tôi đã đi nhiều nước trên thế giới, thanh niên Hà Nội mặc Complet không thua bất cứ một nước nào. Họ mặc đẹp lắm”.

Chị Catherine Diamond còn nói: "Họ mặc miễn chê". Đàn ông nông thôn của ta sống rất phóng khoáng. Cường độ lao động chưa cao. Thời kỳ nông nhàn còn nhiều, ngay cả khi họ làm thêm chút nghề phụ. Họ hay lân la nhà nọ nhà kia để bàn chuyện làm ăn và trò chuyện. Thỉnh thoảng làm đôi chén “rượu ngang” cho lên hương cuộc đời. Bữa ăn của họ giản đơn. Toàn là những thức ăn tươi, có sẵn ngay trong nhà, trong vườn ao. Họ kiếm được con cá, tôm, cua, ếch, lươn, trạch v.v… là mổ ăn liền. Ra vườn lấy nắm rau bồ ngót, mồng tơi, rau đay là xong. Người ta thường nói:",

Cua đồng canh rau đay, muối vừng hương thơm ngay". Nhà nào cũng có chum tương, ao rau muống, vại cà hoặc dưa… Người ta chú ý đến lươn bổ dương và ếch bổ âm. Ca dao có câu: "Có ao rau muống, có cà dầm tương"? Khi ăn phải trông nồi; ngồi trông hướng, phải mời nhau cho lễ phép và lịch sự. Trong bữa thấy người thân quen phải mời chào thành thực: "Lời chào cao hơn mâm cỗ"! Thỉnh thoảng họ đi ăn giỗ, ăn đám, thì tha hồ mà say sưa. Họ chơi cờ, chơi đu, chơi cây cảnh, chọi gà, xem hát tuồng, hát chèo, cải lương v.v… Người đứng tuổi còn đánh nhắn, đánh tổ tôm: "Làm trai biệt đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo, ngâm thơ nôm truyện Kiều"?… Xưa kia, người ta nghỉ ngơi tạm trên chiếc chõng tre hoặc chiếc võng đu đưa. Họ ngủ trên phản gỗ, phản gồm bốn hoặc năm tấm gỗ dày ghép lại với nhau, kê trên đôi mễ gỗ rất vững chắc, những tấm gỗ này cao khoảng chừng 40 - 50cm. Những tấm ván ghép thành phản này xuất hiện trong câu hát của Thị Mầu trong vở "Quan âm Thị Kính". Khi Thị Mầu và anh Nô say đắm nhau rất mực, họ cùng nhau hát: "Ta về xẻ tấm ván dày". Rồi về báo với mẹ, thầy biết tin " Những tấm ván này cũng nhuốm màu phong tình".

Có nhiều nhà, vợ chồng trẻ không ngủ chung với nhau một giường, nhất là các gia đình cỡn đủ cha mẹ, anh em. Vợ chồng họ hẹn hò với nhau đánh “du kích” vào một lúc thích hợp nào đó. Do vậy, họ thấy tình duyên của họ mới mẻ hơn, hơi có chút vụng trộm và cũng vì vậy mà cảm thấy "ngon lành hơn". Họ cư xử với nhau thật thà, chất phác, quý trọng tình bạn, kính trọng người nhiều tuổi hơn. Ra đường gặp nhau đều chào hỏi thân mật và vui vẻ. Thanh niên và các vị đứng tuổi ở thành thị có đời sống vật chất khá hơn ở nông thôn. Do việc tiếp xúc với những nền văn hoá nước ngoài nên phục trang ngả hẳn sang âu phục. Mùa rét mặc áo khoác ngoài bơ lurông, varơi, áo len, quấn phula. Họ đội mũ cát két, mũ cát, mũ phớt. Mũ phớt của người nghèo hoặc tàn tã, méo mó được gọi là mũ "phở". Đi giày da đen hoặc giầy trắng và đen gọi là giày đờ mi cu lơ…

Ngoài những bữa ăn chính thức ra, họ còn có nhiều loại quà để ăn nhẹ như: phở, miến, sực tắc, sủi cảo, các loại bánh chè v v… ở các thành thị thường có các tiệm ăn hoặc hiệu cao lâu, vũ trường, nhà hát, nhà cô đầu v. v… Những người ở thành thị rất nặng lòng với quê cha đất tổ, không nguôi nhớ đến tình làng nghĩa xóm. Những ngày Tết, giỗ, việc họ, bốc mộ, xây phần mộ v v họ thường về làng thăm quê và họ hàng để biếu quà bánh, tiền nong cho những người thân hoặc những người nghèo khó. Mấy chụt năm gần đây, mức sống của nhân dân thành thị cũng như nông thôn được nâng cao với những bước tiến khá nhanh. ý thức và trình độ văn hoá của họ cũng được nâng cao nên tiếp thu được nhiều điều mới mẻ, văn minh và từ bỏ được nhiều tục lệ và nếp sống tiêu cực. Họ ra sức bảo vệ và phát triển nền văn hoá tiến bộ, đậm đà màu sắc dân tộc. Nói chung, người đàn ông Việt nam những năm xưa có tinh thần học hỏi, chăm chỉ, cởi mở, hiếu khách, lạc quan. Những chàng trai dong dỏng, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, sản xuất giỏi, lịch sự, mặt vuông chữ điền thường được các chị em săn đón. Chị em quan họ thấy các chàng trai của mình đẹp quá, đã thốt lên: "Thấy anh như thấy mặt trời, chói chang khó ngó, trao lời khó trao"…

PHẦN III - Chương I

phục trang

CHIẾC ÁO DÀI VIÊT NAM

Có người bảo em từ kiểu áo người Tày, người Mường mà ra. Có người bảo ở em có vài chi tiết nơi áo của các chị em Huế, Chăm. Lại có người cho rằng em thành hình từ bộ áo mớ ba mớ bẩy của đất Kinh Bắc huyền thoại… Những ý kiến đó đều có những tỷ lệ chính xac nhất định nào đó.

Nhưng, đúng ra, em tiếp nhận hình ảnh và hơi hướng của nhiều miền trong cả nước gom góp lại, bổ sung cho nhau mà thành. Em đã có mặt ở Pháp và ở Anh từ những năm 1913. Hồi đó và sau đó ít năm, em vẫn còn đơn sơ và được cắt, may toàn bằng tay cả. Của hàng hoa mà. Thoạt đầu là cái áo dài, cổ tròn, màu nâu. tam giang, mỡ gà, hồ thuỷ. Vạt áo thẳng, tay bó, xẻ một đoạn ở cổ tay, cài cúc bên sườn. Những năm 1936-1938, từ cơ sở sẵn có, chiếc áo dài đã được hoạ sĩ Cát Tường thiết kế và bố trí lại đã ra đời. Phải nói một chút về ông Cát Tường. Ông đã ấp ủ nhiều ý đồ cải cách y phục Việt nam, nhất là chiếc áo dài. Ông say sưa với cả những bức thêu rồng, phượng, những bức tranh Hàng Trống. Nhưng ông thờ phụng chiếc áo dài. Ông là sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học hết 5 năm và đã tốt nghiệp. Ông cũng có một số tranh. Nhưng mọi người biết đến ông chủ yếu qua chiếc áo dài với công trình cải tiến của ông. Ông là người đầu tiên dùng máy khâu để may chiếc áo dài. Động tác này rút ngắn được rất nhiều thời gian so với khâu tay. Lẽ dĩ nhiên còn một vài vị trí quan trọng, hoa mỹ để quyết định chất lượng chiếc áo phải dùng đến bàn tay khéo léo của người thợ. Ông cải tiến cái cổ áo, đưa nó lên thành cổ đứng cao 2 centimét. Ông còn "lăng xê" kiểu cổ cứng, cổ bắt chéo và cổ cánh hoa. Ông quy định vị trí những chiếc khuy bấm và đưa ra nhiều kiểu khuy, khuyết, bỏ đi tà áo phụ, ngắn đệm trong. Tà áo dài buông xuống cách mặt đất 20cm. Ông chú ý làm cho độ dài của hai mặt trước sau có độ “đổ” chuẩn xác để cho khi mặc vào được căng, lượn sát, bó khít lấy những đường nét của cơ thể, tôn cao bộ ngực, làm cho eo thon thả, thắt đáy lưng ong…

Chính vì vậy, áo dài Cát Tường Lơ muya (Le mur theo tiếng Pháp là Cát Tường) được nhiều người ưa chuộng. Trong số này, đa số là những nữ sinh, những chị em thính ăn mặc đẹp. Áo dài là thời trang tuyệt đối cho những nhân vật tiểu thuyết như cô Liên trong "Gánh hàng hoa", cô Loan trong "Đoạn tuyệt cô Mai trong “Nửa chừng xuân và ít lâu sau cô "thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân, cho cô gái trong bức "Hiện vẻ hoa" của hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân.

Hồi đó, ông Cát Tường còn trẻ, ông gầy gầy tầm thước. Mùa hạ hay mặc bộ tuột so soa, đeo cà vạt. Khuôn mặt thanh tao, tự lự, hơi xanh xao. Ông nhanh nhẹn, luôn lui tới những cửa hàng thêu ở phố Hàng Trống, Hàng Gai. Ở đây, ông kết thân với ông Thức là một nghệ nhân thêu, có cửa hàng. Ông Thức rất yêu quý chàng hoạ sĩ Tây học cao đẳng mà lại nặng tình với nghề nghiệp tổ tiên, để ý đến những cái của ngày xưa. Ông kéo hoạ sĩ Cát Tường về quê phố Ninh Xá, Bắc Ninh, gả ngay cô cháu gái tên là Nội cho hoạ sĩ. Cô Nội là một tay thêu giỏi, là con gái ông chủ một cửa hàng thêu nổi tiếng. Sau đó, hoạ sĩ đưa vợ về phố Lò Đúc. Vài tháng sau, họ mở một cứa hang may áo dài ở gần ngã năm Bà Triệu. Cửa hàng có biển đề: Coupe Cát Tường. Nó nổi tiếng khắp nơi. Khách đến nườm nượp. Em gái cô Nội chuyên mặc những chiếc áo do ông anh rể thiết kế và may. Vô tình, cô đã làm cái việc "lăng xê" mốt cho cửa hàng Cát Tường. Cô được mọi người gọi là Nga Cát Tường, cũng lừng lẫy một thời.

Từ sau 1945 và nhất là từ sau 1975, chiếc áo dài được lên ngôi. Nó chiếm vị trí độc tôn trong các dịp lễ hội, giao dịch quốc tế. Nó xuất hiện trên các diên đàn, các sân vận động trong và ngoài nước. Trong các buổi biểu diễn nghệ thuật, thời trang, thi hoa hậu. Chiếc áo dài đã như câu ca quan họ, bay đi khắp thế giới, ở đâu nó cũng có một vị trí xứng đáng. Nó được cải tiến thêm và mang sắc thái riêng từng miền trong những chi tiết nhỏ để đáp ứng được sở thích và yêu cầu thẩm mỹ của thời đại. Nhắc lại, những năm 1930, 1936, 1937, trong các cuộc thì hoa hậu ở Hà Nội, Hà Đông và trong các chợ phiên (kermesse), eáe cô gái đẹp như Ái Liên, cô Điệp, cô Hoàn, cô Siu đều đăng quang với chiếc áo dài. Cô Slu là con gái nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Lý ngọc Hưng. Các nghệ sĩ nước ngoài như Kirienko, Francine Vande, Catherine v.v… đều mặc áo dài.

Dự hội nghị Paris, chị Nguyễn Thị Bình hùng biện với chiếc áo dài. Nhà sử học Mỹ là J.S.Ten son, viết: "Xin phép cho tôi được mặc chiếc áo dài Việt nam, chiếc áo dài của người mẹ Việt nam. Những người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại đã mặc chiếc áo dài. Mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mặc chiếc áo dài". Chiếc áo dài Việt nam là một dòng sông, một cơn gió, một nếp mây bay. Nó tượng trưng cho sự màu mỡ, hồi sinh, tẩy trấn và phồn thực. Có khi trên thân áo được in hoặc thêu lên hình ảnh những rồng, phượng, hoa, lá… để thêm phần hấp dẫn. Nhưng, nó không có những mảng màu sặc sỡ. Những hình vẽ trên áo dài phải xinh, gọn để ăn ý với vẻ đẹp mà chúng gửi mình vào đó. Có người lại in lên chiếc áo quá nhiều hình ảnh, những vạch ngang dọc chi chít hoặc quá nhiều màu sắc, chiếm cả bề mặt chiếc áo dài. Như vậy không ăn nhịp, làm cho người mặc áo phải mang cả một bức tranh trên mình. Nói chung, việc pha hoặc chọn màu áo, in hoặc thêu hình trên áo là một công việc rất phức tạp. Phải có con mắt mỹ thuật, văn học nghệ thuật, lại phải có con mắt tâm linh…

Trong một cuộc trao đổi giữa các nghệ sĩ kịch nói Trung Quốc với Việt nam, một nữ diễn viên kịch nói Trung Quốc nói với chị Diệp Bích: "áo dài" của chị đẹp hơn áo “Sường sám” Thượng Hải của em”. Chiếc áo dài là một nét đẹp văn hoá rất riêng của Việt nam.

ĐÔI ĐIỀU VỀ CHIẾC VÁY

Nguồn gốc xa xưa và thân thiết nhất của chiếc váy là cái nơm úp cá. Ở các nước Ả Rập, nó được gọi là Djoubba, có nghĩa là linh thiêng. Người Trung Quốc dùng chiết tự gọi là xuẩn chừ, gồm hai bộ phận ghép lại với nhau: chữ y "rách" ghép với chữ "quân". Cũng là chữ tự, ghép với chữ quân. Có nghĩa là sự trang trí và sự sở hữu của "quân". Từ quân chỉ các bậc nam nhi với ý nghĩa tôn vinh. Thuở Đông Sơn, người Lạc Việt dùng váy lá cây hoặc lông vũ, xoè ra. Sau đó là váy mở ngắn, là một mảnh vải quấn vào thân. Rồi đến váy kín gồm hai mép díu lại với nhau thành hình nơm. Váy đại diện cho nữ giới.

Ngày 23-1-1911, trước cửa Viện Hàn lâm khoa học Pháp có cuộc tranh cãi lớn về việc kết nạp hay không kết nạp nữ giới vào Viện Hàn lâm và Mari Curie bị thua tạm thời. Người ta gọi cuộc tranh cãi lớn này là cuộc tranh cãi giữa cái váy và bộ râu. Năm 1960, ở Anh bắt đầu có phong trào mặc váy ngắn. Phản đối mạnh mẽ nhất loại váy này là các vị giáo sư Họ nói rằng các nữ sinh viên mặc váy ngắn làm cho họ không giảng bài được. Xa xưa, người Trung Quốc đều mặc váy. Sau đó, những người Hồ (Mông Cổ) là dân du mục đã tràn sang Trung Quốc. Người Hồ mặc quần cho gọn ghẽ để cưỡi ngựa được tiện lợi. Cái quần, do đó, có mặt ở khắp Trung Quốc, một bộ phận ở Việt nam và ở một số nước láng giềng.

Trước đây, và nhất là vào khoảng năm 1990, nhiều nhà mỹ học và tạo mốt phát biểu rằng họ đã học nhiều điều ở cái váy Việt nam. Có nghĩa là một vài dáng dấp và đường nét của cái váy Việt nam đã được truyền sang các nước âu Mỹ. Một thời gian rất dài, người ta dùng tấm váy lưới trai bảy bức bằng lĩnh hay sồi dài chấm gót, cạp váy thường rộng bản, khoảng từ 5 đến 10 cai với các màu sắc xanh, vàng, hồng. Để tô điểm thêm cho cái váy là dải thắt lưng màu mỡ gà, hoa lý, hồng đào… thắt so le, buộc múi, rủ xuống vừa dịu dàng, vừa có màu sắc. Váy thường mặc những lúc không làm việc lam lũ, vì váy kéo dài xuống tận mắt cá chân. Khi phải lao động thật sự, người ta mặc chiếc váy ngắn đến trên đầu gối, thết liệu vải thô kệch mà bền, gọi là cái "sống". Mẹ Đốp trong trò Mẹ Đốp - lý trưởng (vở Quan âm Thị Kính) mặc cái “sống”, đi rao mõ. Trong bức tranh "Hứng dừa" (Đông Hồ), cô gái hứng dừa mặc cái "sống" ra vẻ vừa đi lao động về. Thị Mầu lẳng lơ mặc chiếc váy xộc xệch. Các thị nữ trong cung đình mặc váy rộng, có nhiều nếp với chất lượng vải lụa hạng sang và quý, nên không gọi là váy mà gọi là "xiêm" cho có phần cao sang, cung điện… Người đàn bà giỏi giang, chèo chống, biết lo toan cho gia đình, được mọi người khen là: "vén váy phất cờ". Khi cuộc sống khó khăn, người đàn bà có quyết tâm và ý chí mạnh mẽ nói: "Ta phải vén váy phất cờ mới được”. Người đàn ông vụng dại, chỉ ru rú trong nhà bị coi là "Đồ chỉ biết có cơm nhà, váy vợ". Mà váy vợ cũng là nợ đời.

Lại có câu: "Cô kia cắt cỏ ven sông, cái váy thì ngắn, cái lông thì dài". Cô cắt cỏ mặc mi-ni juýp từ ngày xa xưa ấy rồi. Một việc làm điên dại, thiếu suy nghĩ được gọi là "vén váy giữa chợ". Trước đây trong hội xuân, cảnh đánh đu tưng bừng lên bởi những tấm váy bay lên bồng bềnh, chông chênh của các cô gái uốn lưng ong. Thử nghĩ, nếu không có cái đó thì còn gì là hương vị mùa xuân nữa. Người ta, nhất là tuổi thơ, ai cũng có cái hạnh phúc tuyệt đỉnh là được bám váy mẹ. Nhưng người đàn ông sợ vợ và vụng về cũng bị coi thường là anh chàng bám váy vợ. Chiếc váy Việt nam đóng khung, làm nổi bật cái vòng thứ ba kỳ diệu của thân thể người phụ nữ. Đó là vòng mông. Mà chính nó cũng làm cho vòng ngực và vòng eo được nổi đình nổi đám hơn. “Váy Đình Bảng buông trùng cửa võng"? câu thơ thật là thân tình. Ngày xưa, những cái váy đẹp nhất, thướt tha nhất là những chiếc váy của chị em ở vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là vùng Đình Bảng, Hà Bắc.

Vậy, cái váy cũng là một hình ảnh thiêng liêng trong tâm linh và trong con mắt của mọi người. Sau này, Tú Xương mới "hạ" được câu: “váy lĩnh cô kia quét sạch hè ". Khuyên nhau đừng làm việc gì quá sức, người ta nói chua ngoa: "Đừng căng váy hứng dừa mà không váy"… Người phụ nữ mặc váy, thắt dải rút rồi phủ ngoài bằng chiếc thắt lưng màu. Dải rút được tết, bện kiên cô. Mặc váy phải luôn có ý tứ. Nhiều khi phải khép nép, giữ gìn trong lúc đi đường gió to, lúc đi chợ, lúc ngồi tựa mạn thuyền v.v…

Ở nước ta, những năm 1954-1959 có cái kiểu váy dài quá đầu gối, may phồng và hơi khum phần dưới (váy chuông). Đến năm 1960, váy được may thẳng, xẻ chút ít ở giữa thân sau, xếp thành ly hoặc may bó. Năm 1968, váy mi ni ra đời, ngắn đến đầu gối. Năm 1980 xuất hiện váy dài đến chân, có cài khuya bấm. Thôi thì đủ kiểu: váy xếp, váy lồng, váy nơm, váy kiểu Paris, váy kiểu Thượng Hải, váy kiểu Đông âu, váy ngắn, váy dài, váy kếp… v.v. và v.v…

Những năm 1990 đến 1993, váy lên ngôi. Váy phát triển theo xu hướng của nền kinh tế thời mở cửa. Ở đâu ta cũng thấy phụ nữ đua nhau mặc váy. Họ đua nhau nhún những bước chân trên đường phố, tiến vào công sở, cơ quan, vào từng gia đình và đổ bộ về những mảnh đất sau luỹ tre xanh. Ở đâu ta cũng thấy phụ nữ mặc váy. Các chị em ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Họ rất giỏi và rất sành trong việc lựa chọn mẫu, màu, kiểu dáng. Họ sửa chữa, gia công, cải tiến những bộ váy từ Tây, Tầu mang đến theo cách nhìn và gu thẩm mỹ của họ. Các hàng may mặc cũng dựa theo các ca-ta-lô của nhiều nước trên thế giới mà sản xuất ra những chiếc váy sao cho vừa lòng các chị em. Những chiếc váy thành phẩm phải ưa nhìn, rất âu mà vẫn có cái gam màu truyền thống, dân tộc. Nhà văn Pháp A. Fournier nói: “Các cô gái Hà Nội mặc váy đẹp lắm. Không chê vào đâu được. Nhìn mãi cũng không chán mắt"… Chiếc váy vẫn tồn tại trong cuộc sống một cách oanh liệt. Nó luôn luôn được cải tiến và nâng cao.

CÁI YẾM

Chuyện cũ kể:

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…

Một trong ba cô làm cho sư say mê và chính cái yếm thắm đã góp phần tích cực làm cho sư ngây ngất. Có cô gái mong mỏi:

Ước gì sông hẹp tày gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi

Cô gái đi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp xúng xính:

Nho nhỏ đuôi gà cao

Em đeo dải yếm đào.

Trong Truyện Kiều, khi Hoạn Thư biết tỏng Thúc Sinh mê Kiều mà còn chối quanh, đã nói toạc ra "Dễ loà yếm thắm trôn kim" nghĩa là việc đã rõ ràng, sờ sờ ra đó như chiếc yếm thắm chứ không phải như cái trôn kim đâu mà lòe em được…

Ở làng quan họ, cô gái có mười điều đáng yêu thì điều thứ năm là: "Năm thương dải yếm đeo bùa".

Ở những bức chạm khắc thế kỷ 17, 18 nổi tiếng của đình Liên Hiệp và Kim Hoàng đều có những vũ nữ mang yếm lá sồi hoặc lá sen bồng bềnh trên những bộ ngực ngồn ngộn, nhấp nhô những đôi nhũ hoa bánh giầy, chũm cau, bình vôi, quả mướp…

Ngày xưa, chuyện trai gái yêu nhau đến mức chàng trai cầm lấy cổ tay cô gái là đã xong một nửa của cao trào. Nhưng đến cái mức cầm đến dải yếm là đã "xong hẳn". Thị Mầu còn mở mang trí tuệ cho anh Nô: "Gió xuân tốc dải yếm đào anh trông thấy oản, sao không vào thắp hương "? Hồ Xuân Hương gợi ý về trình tự của tình yêu: Quân tử có yêu thì bóc yếm… Lại có câu: Trời mưa lấy yếm mà che có anh đứng gác còn e nỗi gì? Anh chàng nọ lại sàm sỡ với cô gái:

Yếm trắng anh ngỡ là cò

Anh quỳ gối xuống, anh thò hoả mai

Ngày sau em đẻ con trai

Nó lớn nó giống ông cai bắn cò

Người ta đã nói rất nhiều về cái yếm. Nó là một bài thơ nồng cháy. Nó là chiếc bình phong sống và hờ hững ghe bộ ngực. Mà bộ ngực là tiến hành khúc của người đàn bà. Nó vừa là vật cần dùng, vừa là vật trang điểm không kém gì hoa tai, son phấn, nhẫn, xuyến…Không có nó thì cuộc đời kém phần hương sắc.

Ở nước ta, cái yếm xuất hiện từ xa xưa. Và cố nhiên nó cũng luôn luôn được cải tiến. Cái yếm được định hình từ đời Lý. Đến năm 1696, đàn bà lao động thường mặc yếm cổ xây. Với nữ giới quý tộc thì trước yếm có thêm một vài đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám.

Từ năm 1802 trở đi, yếm là một miếng vải vuông đặt chéo lên ngực người mặc. Ở góc (trên) có khoét hình tròn là cổ yếm. Đó là yếm cổ xây. Nếu khoét hình chữ V thì gọi là yếm cổ xẻ. Nếu xẻ xuống sâu nữa gọi là yếm cánh nhạn. Đến năm 1920, người ta phân chia ra nhiều loại yếm: yếm của người lao động màu nâu non, nâu già, yếm cho các cô gái có nhiều màu khác nhau. Các cô gái ăn chơi khoét cổ yếm xuống thật sâu đến gần nơi bộ ngực chia ra đôi ngả, màu sặc sỡ. Trẻ thì dùng màu mát như màu hoa lý, hồ thuỷ, đào phai. Đứng tuổi thì dùng màu sẫm hơn. Ở góc nhọn cổ yếm có thêm ba đường chỉ hoặc vải nhỏ tách ra hai bên làm cho cổ yếm được bền hơn, nhưng cũng là để trang trí. Sau này lại có người thêu hoa vào chỗ này. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy, phất phơ. Hai dải nhỏ này được trang trí màu nổi bật ăn khớp với màu yếm. Có người cầu kỳ còn khâu một túi nhỏ và dài đựng hương thơm, xả vào ngay trong dải yếm để lúc nào cũng có mùi thơm ngây ngất. Dải yếm bỏ bùa là ở chỗ này đây. Có người lại quấn vào dải yếm một miếng trầu dành cho người tình. Gọi là khẩu trầu dải yếm. Hai dải góc hai bên cạnh sườn gọi là "dải cái" hoặc đai yếm vì nó được thắt lại để bọc lấy cả bộ phận ngực, rồi buộc ra sau lưng và thắt dải ngực lại. Việc thắt "dải cái" này cũng là một động tác hệ trọng. Để lao động thì thắt chặt vào là xong, gọi là gói ghém. Những lúc đi chơi hoặc không phải làm việc nặng thì thắt lỏng hoặc tháo khoán. Có khi lại để quá lỏng đến mức hững hờ. Các chị em Khâm Thiên hoặc ăn chơi thì vừa thắt hững hờ vừa thắt lệnh dải cổ yếm lẫn dải đai. Như vậy là cái yếm chỉ làm cái việc che bộ ngực một cách không nghiêm khắc lắm. Nhìn vào cái yếm thoáng thấy bộ ngực phập phồng những bến bờ. Đôi nhũ hoa khẽ tung tăng và chuyển động. Trong một phút chốc nào đó, tinh ý có thể qua cái yếm mà chớp được những thông tin vô cùng quan trọng về chỉ số hấp dẫn của người mang yếm. Đôi lúc cái yếm cũng tạo một vài trường đoạn hở hang mà không ai nỡ trách. Cái yếm có mặt yếu là không đỡ được ngực, luôn có xu hướng xệ xuống và không nâng được chúng lên. Nhưng điều đó không cần vì người ta cứ để không tự nhiên như nó vẫn tồn tại kiểu như hoa quả trên cành vậy.

Những cô gái kỹ tính mua yếm ở chợ về, rồi gia công, sửa sang lại cho hợp với ý mình. Việc này đòi hỏi sự khéo tay và tỉ mỉ. Sau khi mặc yếm, các cô gái mặc ra ngoài chiếc áo cánh trắng không cài cúc cổ làm tôn màu yếm hoa hiên hoặc đỏ thắm. Khi đi ra ngoài, mặc thêm chiếc áo dài. Bên dưới mặc váy lưỡi trai bằng lĩnh hay sồi đen dài chấm gót. Lưng có dải thắt màu mỡ gà, hồng đào hoặc hoa lý dịu dàng. Phía cạnh sườn đeo xà tích bạc có chùm ống vôi và con dao con bổ cau. Chân đi dép. Đầu vấn khăn nhiễu hoặc nhung với đường ngôi ở giữa hoặc bên cạnh. Trùm ngoài là chiếc khăn mỏ quạ có người để tóc bỏ đuôi gà hoặc vấn đầu trần, có cài chiếc lược. Nếu đi xa hoặc đi xem hội, cô gái đội chiếc nón quai thao. Cái nón nặng về làm duyên… Tất cả những cái đó phối hợp với cái yếm làm nên dáng nét của người con gái mềm mại, duyên dáng, gần với thiên nhiên mà kín đáo, hiện hữu trong cuộc đời và thoáng hiện trong những giấc mơ cùng với những con cò con vạc Việt nam.

Cái yếm ăn ở với người phụ nữ Việt nam suốt cả chiều dài lịch sử. Nó đã tồn tại một cách đẹp đẽ và hùng biện. Nay nó bị cái áo nịt chiếm mất ưu thế ở nhiều nơi. Tuy vậy, nó vẫn còn tồn tại. Nó còn được nghiên cứu để hoá thân, biến dạng và hoàn thiện. Điều đó còn đang chờ sức sáng tạo của các nhà tạo mốt, các nhà y phục học, xã hội học, mỹ học v.v… Nhiều khách và các nhà nghiên cứu nước ngoài rất ngưỡng mộ và học tập được nhiều điều ở cái yếm. Nó đã sang châu Âu và hình thức thắt dải hai bên sườn của nó đã được thay vào hai hàng khuy bấm kiểu Tây. Cái yếm đã vượt biên giới Việt nam đến với thế giới.

TÓC BỎ ĐUÔI GÀ

Mái tóc tượng trưng cho sự sở hữu, là gia tài của cha mẹ để lại cho. Có những dân tộc thờ mái tóc. Nhiều người giữ lại một mái tóc, chiếc răng sữa làm kỷ vật. Họ muốn làm sống lại tâm hồn của người mang nó. Tóc đại diện cho một vài đặc tính, khả năng, năng lực sinh thực như ở chuyện cổ tích Sam son.

Ở Việt nam, tóc cắt đi hoặc chải ra khỏi lược được giữ lại vì nó có sự gắn bó huyền bí với chủ của nó. Sự cắt tóc được coi như là một sự hy sinh, quy thuận hoặc hoà nhập. Mái tóc được coi như là bản doanh của linh hồn, số phận ước mong và tình yêu. Tóc còn gắn với cỏ là tóc của đất bao la. Tóc là vũ khí của người phụ nữ. Chải tóc cho một người là một cử chỉ thân mật lắm, là mê say nhau lắm. Người Séc và Slovakia liệt tóc vào cùng họ hàng với lông và râu. Họ bảo: "Đâu có râu, đấy ngon". Theo tạp chí Châu Á, cô Sinh Chong Min đã chứng minh mái tóc thiếu nữ dày và đẹp đẽ mang lại vương miện sắc đẹp cho cô tại cuộc thi hoa hậu Nam Triều Tiên hồi tháng 5 năm 1990. Kỷ lục về tóc dài trên thế giới hiện nay là 2 mét 95.

Những ngôn từ của Việt nam về mái tóc rất phong phú, đã nói lên nhiều điều: Tóc mây, tóc suối, cái răng cái tóc là góc con người, làn suối tóc, tóc em dài đến thần thoại, mắt quầng tóc rối tơ vương, tóc thề, tóc xoã ngang vai, tóc chị Hoài (của Nguyễn Tuân), lời tóc tơ, tóc em vừa kín trán, tóc rễ tre, mây núi buồn nghiêng núi tóc xanh, cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày, tóc đuôi sam, tóc đuôi gà, ngạt ngào hương tóc phấn, cỏ tóc tiên, tóc rối đổi kẹo, tóc để trái đào, cắt tóc đánh ghen, cắt tóc đi tu, gọt gáy bôi vôi… Từ trước đến nay, đã xuất hiện nhiều kiểu tóc khác nhau như: Tóc búi tó, rẽ đường ngôi giữa, rẽ đường ngôi cạnh, tóc bỏ đuôi gà (tha thướt duyên dáng, đó là một trong 10 tiêu chuẩn đáng yêu của cô gái Việt nam), vấn khăn, tóc vấn trần có đính cái lược (đẹp tự nhiên có vẻ phong tình, thịnh hành khoảng những năm 1930-1940). Những nhân vật nữ của Tự Lực Văn Đoàn như Lan, Loan, Liên, Nhung… đều rất quyến rũ về kiểu vấn đầu trần. Cô hàng xén răng đen của Hoàng Cầm cũng vấn đầu trần. Mái tóc uốn quăn hoặc lượn theo kiểu phương Tây (kiểu Đétđêmôna, kiểu Marillin Monroe), mái tóc Hỉ Nhi (một hàng tóc buông đều xuống trán theo nhân vật nữ trong phim Bạch mao nữ). Lại còn có những mái tóc giả bồng bềnh, đợi chờ, ngập ngừng, nồng nàn v.v…

Mỗi một thời kỳ thịnh hành một hoặc vài kiểu tóc riêng rất đặc trưng. Có kiểu tồn tại lâu dài, có kiểu xuất hiện trong thời gian ngắn ngủi rồi bị lãng quên. Ai cũng muốn có mái tóc đẹp, một kiểu tóc nào đó phù hợp cho mình, tôn được vẻ đẹp của mình lên. Sự trang điểm đặc biệt sẽ làm cho khuôn mặt thêm duyên, trang nhã, sang trọng. Nó còn che giấu được những nhược điểm trên khuôn mặt của người phụ nữ. Ngược lại, nếu không có kiểu tóc phù hợp sẽ làm giảm vẻ đẹp của khuôn mặt. “Cái răng cái tóc là góc con người Đúng vậy. Chuyện về cái tóc cũng như chuyện về tình yêu, nó vừa là hiện thực cũng vừa là huyền thoại.

NÓN

Ngày xưa, chàng trách nàng rằng:

Xưa kia gắn bó một hai

Giờ đây ghé nón ngang hai chẳng chào!

Bộ trang phục tương đối đầy đủ của cô gái Kinh Bắc được tả như sau: Đội nón ba tâm Quai thao một nhúm, áo trầm một đôi Cái thắt lưng em, bảy tám vuông sồi… Cái nón để che mưa che nắng, để phục trang, đỡ ngượng, che giấu tình cảm, thêm duyên, làm đẹp… Lại có câu:

Chòng chành như nón không quai,

Như thuyền không lái, như ai không chồng

Hoặc như câu đối lại:

Nón không quai nón nghiêng nón ngả,

Làm cả chàng phải ngả phải nghiêng.

Ngày nóng nực quá, cô gái khát nước xin ruột gầu nước giếng mát đổ ngay vào chiếc nón, uống cho đỡ khát rồi rửa mặt, rửa tay. Hai anh chị đi bên nhau, đến một quãng nào đó muốn nghỉ ngơi, họ không cần chiếu, không cần gì cả mà trải nón ra, ngồi ngay lên nón: "Đã yêu nhau ta trải nón ra ngồi". Thỉnh thoảng cô gái soi chiếc gương trong nón, cười một mình, tin vào mình, nghĩ bụng: nhan sắc nhường này, ta chẳng sợ có lúc cái nón dùng để phe phẩy cho mát. Lúc đó, cái nón thay cho cái quạt. Cái nón trong tay người sử dụng sinh ra nhiều động tác và ý nghĩ:

Qua đình ngả nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu…

Khổ, "Giã bạn" trong cảnh quan họ, các liền anh, liền chị hát rất buồn: "Khăn, nón i… ôi… để lại đây”?… Là lúc các cô gái tặng cho các bạn trai cái nón quai thao thân thiết của mình. Cái nón là tấm lòng của cô gái, là vật nặng tình: "Yêu nhau, cởi nón cho nhau". Chàng trai Bắc Ninh không muốn cho cô bạn gái của mình phải ra chợ mua nón. Anh ta tự chẻ tre đan lấy nón. Cho nàng đội để đi xem hội đêm rằm. Anh ta muốn cái nón đó phải mang hơi thở và nỗi lòng của mình.

Trong tiểu thuyết Tắt đèn, chị Dậu vào nhà Nghị Quế, che nghiêng cái nón rách. Đó là một kiểu chào. Ngày xưa, Lý trưởng hoặc Chánh tổng đội cái nón dứa có chỏm. Nó tượng trưng cho uy quyền và cao sang. Cô gái muốn từ giã ra về, chàng trai liền giữ lại:

Mình về ta chẳng cho về

Ta giữ cái nón, ta đề câu thơ.

Cô gái đội nón quai thao được coi là "quai thao dịu dàng". Bác xẩm chìa cái nón nhầu nhĩnh ra để nhận tiền thưởng của người nghe sau khi đã hát bài "Anh khoá" bâng khuâng. Cái nón dùng để thề bồi:

Tình em trao nón nặng thề,

Anh về bẩm mẹ liệu bề sang xin.

Cô gái có lời đề nghị với bạn trai:

Chàng ơi bỏ nón em ra

Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa…

Việt nam là quê hương của ba loại nón: nón ba tầm, nón quai thao, nón bài thơ. Và cũng có nhiều loại nón khác nữa như: nón lá gồi, nón lá cọ, nón sơn, nón Nghệ, nón lòng chảo, nón thúng, nón giang, nón mệnh phụ, nón xẩm, nón quả bứa, nón tiến vua, nón dứa, nón dấu, nón thờ, nón lông, nón đi biển, nón tu cờ (nhà sư) nón chóp v.v…

Phổ biến hơn cả là nón lá cọ, nón bài thơ, nón Huế, nón làng Chuông, nón Hữu Bằng, nón Vân Đình…

Cái nón Huế trắng đến lóe mắt. Nón bài thơ còn được gọi là nón "người tình". Cô gái đã dậy thi gọi là cô gái sắp đến tuổi cắp nón theo chồng… Chiếc nón quai thao thật đặc biệt. Nón có đường kính chừng 70cm. Thành nón cao trên 7cm. Mặt dưới có gắn một ống hình tròn bằng nan tre để đội vào đầu cho cân gọi là chũm nón. Quanh chũm nón là những vòng tre chuốt nhỏ, khâu bằng chỉ màu, đan chéo sợi rất công phu. Nón còn được trang trí bằng những bông hoa, cánh bướm. Quai nón làm bằng dây thao đen gồm từ một đến ba dây chập lại, buông võng dài xuống…

Nguyên liệu của nón lá gồm: lá gồi, nan tre và chỉ khâu bằng sợi móc. Người ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt phèn. Từ đáy nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre và chỉ khâu bằng sợi móc. Người ta làm khuôn tròn bằng nan tre rồi lợp lên hai lớp gồi mỏng chuốt phèn. Từ đáy nón lên đến chỏm có 15 vòng nan tre, tức là có 15 đường khâu vòng tròn. Các bạn nước ngoài đến Việt nam thường phải mua bằng được một vài chiếc nón để làm kỷ niệm. Các diễn viên, nghệ sĩ ngôi sao nước ngoài đến Việt nam luôn tranh thủ cơ hội đội cái nón Việt nam rồi chụp ảnh, đánh dấu sự có mặt của mình ở quê hương của nón. Suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc, qua mấy cuộc trường kỳ, cái nón là hình ảnh, biểu trưng của người phụ nữ Việt nam.

Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh những chiếc nón mê, nón tả tơi trong cuộc sống lam lũ một thời, cũng như những chiếc nón của nông dân cướp kho thóc Nhật, đi dân công phục vụ các chiến dịch lịch sử. Những chiếc nón giản dị mà kiên cường! Lại còn những chiếc nón nhấp nhô trong các phiên chợ làng. Một mái tóc, một vành nón… là cả một ấn tượng sâu sắc, đậm đà, là nhớ, là mong. Cái nón là hình ảnh và âm hưởng của quê hương. Thiết tưởng trong các bảo tàng văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, chúng ta nên có hẳn một phòng trang trọng giữ lại hình ảnh của những chiếc nón Việt nam tần tảo, nhẫn nại, bi hùng và trữ tình… Chúng góp một nét đậm đà khó quên trong nền văn hoá truyền thống…

Chương II

vui chơi

HỘI CỜ NGƯỜI Ở CHÙA VUA HÀ NỘI

- Hội mở trong 4 ngày

- "Phi chùa Vua bất thành danh thủ"

- Trận tài tử giữa hai đấu thủ kiệt xuất

- Tuyển chọn quân cờ người là một cuộc thi hoa hậu.

Hàng năm, cứ vào những ngày 6, 7, 8, 9 tháng giêng âm lịch, chùa Vua ở làng Thịnh Yên (chợ Giời) mở hội. Chùa Vua là một quần thể di tích có tiếng, vừa là nơi của Phật, của Đạo giáo và của Nho giáo. Chùa Vua được xây dựng từ đời Lê, là một bộ phận của cung Thừa Lương. Đó là nơi để Vua và các đại thần nghỉ ngơi vài ngày trong năm, chuẩn bị ra tế trời đất ở đàn Nam Giao (nay là địa điểm nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo) Chùa dành riêng một gian thờ thần cờ Đế Thích. Người ta khen nhau “Cờ cao như Đế Thích” Hội chùa Vua, ngoài phần lễ ngắn gọn, chủ yếu là những trận đấu cờ người truyền thống suốt mấy ngày đêm.

Từ xưa đến nay, hầu như tất cả những cuộc thi đấu cờ tướng lớn đều diễn ra ở chùa Vua. Các đấu thủ qua được “Nhị thắng” là quán quân, được ghi tên vào bia đá.

Từ những năm 1930-1940, bia đá chùa Đế Thích ghi tên những danh thủ: Du, Yến, Lịch, Lục (vô địch Bắc Kỳ), Chu Văn Bột, Đỗ Tâm (vô địch Nam Định), Lại (vô địch Hải Phòng), hổ tướng Nguyễn Thành Hội, Nguyễn Văn Hải v.v… Các đấu thủ siêu hạng ở các tỉnh mà chưa được tỉ thí ở chùa Vua là một điều ân hận: “Phi chùa Vua bất thành danh thu ".

Trẻ, già, trai, gái làng Thịnh Yên đều giỏi cờ. Nếu họ không là đấu thủ thì cũng là những người bình luận, cổ vũ, bình luận, cổ vũ động viên nhiệt tình. Chùa Vua cũng là nơi đi lại tấp nập của các "sởi" cờ trong toàn quốc.

Hội Chùa Vua năm 1995 có 64 đấu thủ chuyên nghiệp, nghiệp dư và tài tử của các câu lạc bộ cờ: Chùa Vua, Quân đội, Đống Đa, Hà Bắc, Hà Tây, Quảng Ninh, Nông nghiệp… tham gia. Thành tích nổi bật đã thuộc về lớp trẻ. Họ dồi dào sức khỏe (điều này quan trọng lắm), kiên trì, hăng hái, nặng về tấn công, có tư duy khoa học, giàu trí tưởng tượng, trình độ văn hoá cao… Vòng đấu loại diên ra từ ngày 6 đến ngày 8 để còn lại 4 đấu thủ tranh ngôi ba, tư và nhất, nhì…

Trong vòng đấu loại, nhiều người " máu" cờ, tiếc cho mấy danh thủ không hề kém ai, nhưng chỉ vì một chút sơ hở mà không vào được vòng trong. Thi đấu là như vậy? có những ván kéo dài mấy tiếng đồng hồ, đấu thủ đi vệ sinh cũng phải có người đi theo, phòng đấu thủ vô danh chơi cờ bên ngoài. Trọng tài còn phải cảnh giác với những ám hiệu mách nước cho các đấu thủ như: Giơ tay trái là thoái, giơ tay phải là tiến, để tay ngang bụng là cầm cự. Những động tác của các ngón tay, việc mời đấu thủ điếu thuốc lá châm lửa sẵn hoặc chưa châm, động tác vuốt mũi, những lời bình luận v.v… đều có thể là những ám hiệu.

Ngày mồng 8 có một trận đấu cờ giữa hai đấu thủ loại kiệt xuất nhưng không dự giải. Hai đấu thủ phải xông pha trên sân cờ gần suốt buổi để đi những nước cờ hào hoa. Trận này gọi là trận tài tử, có nhiều nước đi tài hoa, bay bướm làm cho người xem luôn xuýt xoa, khen ngợi.

Sáng ngày mồng 9, đoàn quân cờ của xã Đồng Cổ, làng Dương Xá (Nhổn) đến chiếm lĩnh sân cờ. Đoàn gồm 16 quân nữ mặc quần áo xanh, mười sáu quân nam mặc quần áo đỏ, hai tổng cờ nam và nữ. Họ ăn mặc giống như các hình ảnh trong cỗ bài tam cúc. Hai tổng cờ ra lệnh cho hai đấu thủ đại diện ra lễ vua cờ trước khi cho trận đấu bắt đầu. Hai đấu thủ làm lễ kiểu con nhà võ với mấy động tác nhanh, gọn, kèm theo mấy động tác vo thuật hoa mỹ truyền lại từ ngày xưa. Sau đó, tướng sĩ hai bên xanh và đỏ đi kiểm tra lực lượng, quan sát biên giới bằng những bước đi cách điệu có chất vũ đạo rồi về vị trí. Hai tổng cờ phất cờ, ra lệnh bắt đầu trận đấu. Chỉ huy bên xanh là danh thủ Nguyễn Tấn Cường, 27 tuổi, thuộc sởi cờ Quân đội Anh đã xông pha "trận mạc" từ những năm còn ở tuổi thiếu niên, lại là con nhà nòi. Chỉ huy bên đỏ là Bùi Dương Trân, 31 tuổi, thuộc sởi cờ Nông nghiệp. Anh nổi tiếng về những "trận đánh” chuyển bại thành thắng.

Trận đấu này là trận tranh ngôi nhất nhì với giải thưởng khá lớn. Bên ngoài, trống liên hồi, mỗi vị chỉ huy đều bị một tiểu đồng đi sát cạnh, đánh lên những tiếng trống con giục giã. Họ đấu rất thận trọng. Lúc thăm dò, lúc cầm cự, lúc tiến nhử mồi… Họ phải ở tư thế đứng và đi lại để điều binh khiển tướng suốt 5 giờ liền. Cuối cùng, trận đấu hoà, phải đấu ván thứ hai, kéo dài thêm hơn 3 tiếng đồng hồ nữa Nguyễn Tấn Cường mới hạ được Bùi Dương Trân. Nước cờ đầy những yếu tố bất ngờ. Mọi người vỗ tay rào rào, hò reo ầm ỳ rồi ngừng lại xem lễ thu quân. Lúc này, đoàn quân cờ làng Dương Xá trình diễn điệu múa thu quân, chạy cờ, quấn cờ, bái tổ… Họ đứng thành hai hàng. Đúng là một bộ tam cúc sống. Một bên đen, một bên đỏ, trang nghiêm mà thân thuộc. Nhớ lại ngày xưa, các cụ còn chu đáo hơn. Đội quân cờ gồm toàn những trai chưa vợ, gái chưa chồng mặt hoa da phấn. Họ đều là những người có thanh sắc được lựa chọn.

Thế là tự nhiên hình thành một cuộc thi hoa hậu nhỏ trong hội cờ xuân. Hội cờ chùa Vua khép lại qua ván cờ quyết liệt. Người ta lại chờ đón những ngày này năm sau.

XUÂN XƯA QUẢNG LẠC

Dạo ấy, cuối những năm 30, Hà Nội chỉ còn hai rạp tuồng và cải lương nổi tiếng. Đó là rạp Hiệp Thành toạ lạc ở cuối phố Tạ Hiền và rạp Quảng Lạc, nay ở vào nhà số 50 Đào Duy Từ. Rạp Quảng Lạc phần nào có tiếng hơn. Muốn châm biếm một ai đó làm ra vẻ "ta đây”, hoặc nói năng hách dịch, khoe khoang, người ta nói với anh rằng: "Gớm, cứ làm như ông tướng Quảng Lạc ấy".

Rạp này thường diễn một đêm tuồng và hai đêm cải lương. Có hôm lại gọi là tuồng cải lương. Lúc này cải lương hơi lên giá một chút. Đàng sau sân khấu (rạp hát) là cả một cái buồng dài và rộng, hơi tối. Nơi đây được coi như nhà tập thể của những nam, nữ diễn viên không có nơi cư trú ở ngoài phố. Mỗi người hoặc mỗi cặp vợ chồng chiếm lấy một khoảng nhỏ. Của cải chẳng có gì mấy, sang lắm là chiếc bàn, vài chiếc va li gỗ hoặc bằng da cũ. Cũng có vài cái tủ gỗ con. Cứ trải cái chiếu ra là "Vua" và "ái khanh" có thể nằm xuống nghỉ được rồi. Về mặt xã hội, nếu "Vua" và "ái khanh" không có thực tài làm cho khách mến mộ thì cũng dễ ra khỏi nhà hát mà đi bán phở hoặc bán nước ở đầu phố. Xen kẽ có vài khoảng cho các diễn viên độc thân. Phía trên nhùng nhằng những sợi dây để mắc màn và treo quần áo. Chăn, gối cứ việc xếp lên phía đầu chiếu. Người đâu giang sơn đó. Giản đơn thôi, "sống gửi thác về"…

Ban ngày thì thế mà tối đến họ đều là quan to, như là thư sinh, công chúa… cả đấy. Chỉ cần có tiếng hát với cuộc đời là được. Có vài người nghỉ ngay tại rạp bằng cách ghép mấy chiếc ghế lại, coi như giường ăn uống thì gặp đâu ăn đấy. Chẳng ra bữa gì cả cũng có khi nấu nướng tí chút hoặc góp gạo thổi cơm chung. Việc gì cũng hình như hứng lên thì làm. Tuy vậy, ngày Tết lại khác hẳn. Nhà nào nhà nấy xào xào nấu nấu, chuẩn bị một vài món ăn kéo dài được vài ngày như thịt bò om gừng hoặc thịt đông. Họ góp nhau lại gói bánh chưng. Vài gia đình đặt bát hương ở đầu chiếu cúng cha mẹ, ông bà. Nhà nào có con nhỏ thì dán tờ tranh tết có con lợn, "âm dương" hoặc "Hứng dừa". Có anh hay chữ, viết đôi câu đối chữ Hán lên đầu giường: Nhân tình tự chỉ, chương chương bạc Thế sụ như kỳ, cục cục tân… Các đào kép độc thân và ở dạng Đồng Ấu được các gia đình anh chị mời ăn Tết cùng trong vài ngày. Các đàn em cũng sắm Tết mừng anh chị, vài thức góp vào. Ngày 28 Tết là ngày ăn uống tưng bừng, vì từ ngày này trở đi cho đến ngày 7 tháng giêng là những ngày vào Xuân. Những ngày 29, 30, mồng một, mồng hai Tết đều diễn tuồng sớm để mọi người còn chơi Xuân, chơi phố, thăm bạn bè. Họ chơi chắn, tổ tôm. Nữ chơi tam cúc, chơi bài, lật bài, đi đêm, tốt đỏ đè tốt đen v.v… Những buổi chơi này đều có mứt và rượu. Cả nữ cũng uống rượu…

Trong những ngày này xuất diễn rút ngắn chỉ còn chừng 1 giờ đồng hồ để đón những khách đến bói tuồng, loại khách này nhiều và thật "sộp". Họ mua vé, vào một lát rồi ra ngay. Đến người khác cũng thê. Như vậy là bán được rất nhiều vé. Mỗi chỗ có thể bán được mấy lần vé. Để thưởng các đào kép yêu mến, nhiều người tung tiền lên sân khấu rào rào. Nhiều diễn viên được khán giả “phong bao”. Tuỳ theo tình hình, có thể diễn thêm buổi. Trước cửa rạp, dán một đôi câu đối giấy đỏ chữ đen thật nổi: Đào Đào Kép Kép, ra ra, đào đào, vừa diễn, vừa hát, say sưa vở. Nam nam, nữ nữ, nhìn nhìn, nghe nghe, chẳng cười chẳng nói, nghĩ suy đời…

Chiều 30 Tết, ai muốn làm gì thì làm. Nhưng diễn từ 7 giờ đến 8 giờ tối. Đó là buổi diễn tiễn năm cũ đón năm mới. Đến 10 giờ đêm thì tất cả đào kép, nhân viên trong rạp tập trung lại. Bàn thờ tổ đã được trang trí và bày biện chu đáo. Có đôi câu đối mừng tổ:

Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn

Thế sự tang thương phá lại bày…

Có đĩa ngũ quả, bánh chưng, mứt, hương, hoa, nến. Ông chủ Nguyễn Văn Long đến thắp hương, chúc tết tất cả mọi người. Mọi người chúc lại, ông chủ mở hàng đồng loạt, mỗi người hai hào. Ai cũng như ai. Sau đó, ông đi ôtô về Bưởi. Mọi việc giao cho ông Nhã trông nom.

Ông Nhã bưng rượu và mứt ra để mọi người cùng thưởng thức. Mỗi diễn viên hát lên một bài hoặc đoạn ngắn mà mình tâm đắc nhất để nhớ đến tổ và mừng xuân. Những lúc này là lúc họ hát được hay hoặc cố tình lệch lạc đi một chút theo ngẫu hứng. Họ rất nể nhau về tay nghề. Ví dụ như kép Ba Thân “ba mươi hai đồng” mà hát đoạn Tô Vũ mục dương thì mọi người phải nín thở. Cô Mão "hai mươi tám đồng” hát cái chỗ: Yến Phi Long tiễn chồng ra trận thì đến đào kép nhà nghề cũng phải "chết lịm" chứ chẳng nói gì đến khán giả. Gọi quen là kép Ba Thân "ba mươi hai đồng”, là vì anh là kép nhất, được lĩnh 32 đồng một tháng. Lúc này giá một tạ gạo có một đồng bạc. Anh Sỹ Tiến, ông Mẫn được 28 đồng. Anh Đào Mộng Long là cây nhị phụ, được 6 đồng. Vang bóng một thời những kép như Ba Thân, Tư Liên, Tư An, Tam Huỳnh Kỳ, Bản Vân, … những đào như Kim Chi, Thúy Mão, Khánh Hợi… là những tài năng được công chúng mến mộ. Có mặt họ, bao giờ cũng đông khách hơn. Họ được bốn chữ: diện, bộ, thanh, phần, tức là được về bộ mặt, dáng điệu, tiếng hát và thần thái.

Đi xem Quảng Lạc mà có một trong "ngũ nam quái" (5 kép giỏi) hoặc "tam nữ kiệt" (ba đào kiệt xuất) thì mọi người mới yên tâm. Nhất là vào dịp Tết hoặc đầu xuân. Ban nhạc ngồi xung quanh đệm cho các khúc hát đón xuân sôi nổi, phóng túng. Thảng hoặc có một, hai đào kép nào đó nhớ quê, khóc lên rưng rức. Mọi người đâu về đấy, đợi tiếng pháo giao thừa. Trong mấy ngày Tết, ông Nhã trông nom săn sóc tất cả mọi người. Trách nhiệm của ông chỉ tóm gọn trong một câu: Làm sao cho buổi diễn có khách. Tuy vậy ông phải làm thế nào cho thấy tuồng và các đào kép làm việc ăn khớp với nhau. Phải biết khai thác mặt mạnh của từng người. Phải gần mọi người. Trong những ngày Tết, ông giảng hoà những mâu thuẫn, hiềm khích. Bản thân ông cũng xin mọi người bỏ qua nếu ông có những điều gì không phải với anh em trong năm cũ. Ông phải lo khoản trợ cấp hoặc cho vay tiền một số anh em quá nghèo vì trót đánh bạc, hút xách hoặc ăn chơi lãng phí.

Để làm quản lý như ông Nhã, trước hết phải tốt bụng, quí mến mọi người. Phải giữ ý cẩn thận. Chẳng hạn như từ mua bán các thứ như rượu, mức hoa quả, thuốc lá v.v… ông đều nhờ các đào đi mua rồi về tính toán chứ không bao giờ để vợ con ông đi mua. Ngày thường, trong rạp có thể xảy ra xích mích, cãi cọ gì đó là việc thường. Nhưng trong mấy ngày Tết, ít nhất là đến ngày mồng bảy, những điều đó không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng được can ngăn và dàn xếp vui vẻ ngay. Đúng giờ tý, ông quản lý đã treo sẵn một tràng pháo đặt trước cổng rạp. Người châm lửa đốt là một kép được mọi người yêu mến và kính nể về tài năng. Tiếng pháo giao thừa của rạp Quảng Lạc vừa dứt, các diễn viên, từng đôi từng đôi đi xuất hành, hái lộc.

THÚ CHƠI CÂY CẢNH

Trồng cây cảnh là một nghề đặc biệt của Việt nam nói chung và Hà Nội, Nam Hà, Thái bình v.v… nói riêng. Đây là một nghề tài tử, có từ đời Lý, Trần được cha truyền con nối với những “miếng” kỹ thuật bí truyền. Những làng trồng cây cảnh lâu đời và nổi tiếng là Quảng Bá, Nghi Tàm, Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Vị Khê, Tân Mai, Tương Mai, Hoàng Mai, Vĩnh Tuy… Các gia đình trồng cây cảnh thường phối hợp với nghề trồng hoa và nuôi chim, cá cảnh… ở những nơi đó tràn ngập mùi hương của hoa và nuôi chim, hoa ngâu, hoa hồng… Xung quanh vườn cây cảnh là những hàng rào dưới, ô rô, dâm bụt… được xén tỉa công phu, gọi là những "bờ hoa".

Để có cây cảnh, người làm vườn, ngoài việc vun tưới, xới, chăm bón, còn phải nắn nót, cắt, tỉa cây rất tỉ mỉ, cầu kỳ. Muốn có một cây tùng nhỏ, một con rồng bay, phải mất 5, 6 năm. Những hòn non bộ có rê si bám vào cũng cần có một lớp rêu phong cổ kính phía dưới. Để tạo được một lớp rêu đẹp “ngày tháng" như ý muốn cũng Phải mất 3, 4 năm. Người ta chia cây cảnh thành ba nhóm: Nhóm trồng ươm chuẩn bí cho công việc ghép, nén, uốn. Nhóm cây cảnh phối hợp với non bộ. Cuối cùng là nhóm cây thế có dáng đứng, điệu vươn, hình hài… toát lên một chủ đề một ý niệm tư tưởng, một nỗi niềm. Một chậu cây thế có thể ghép với một hoặc hai loại cây khác nhau để có những cành, lá khác nhau hoà vào một tổng thể, nhằm thể hiện một tâm trạng. Những loại cây như sanh, si, đại, vọng cách, tùng, bách, phi lao, thông, duỗi, cơm nguội v.v… đều có thể chiết và lấy xuống trồng ở vườn hoặc chậu. Chúng đều có thể “vào thế". Cây thế phải thật già mới có giá. Càng "cổ thụ" càng quý. Người ta chọn những cây non có dáng đứng thẳng, gọn, khoẻ hoặc có dáng xiêu vẹo, dáng ngang, dáng trườn qua mép chậu, rủ xuống rồi lại vươn lên v.v… để tạo nên nhiều thế cây khác nhau như thế "ngũ phúc", thế "phượng bay", thế "huynh đệ”, "rồng sa", "rồng vươn", "sóng đôi”, thế "đợi gió” thế “người ơi” thế “nhà hiền triết", thế "tiên ông", thế "chờ đợi”, "mẹ con", "bồ tát tụng kinh". v.v… Để nhóm cây có thế "mẫu tử" phải trồng ghép hai cây lại với nhau cùng một gốc. Hai cây sát nhau. Có cao, có thấp, có lớn có bé bám vào nhau. Cây to có dáng mạnh hơn nhưng mềm mại. Cây nhỏ nũng nịu, quấn quít ngả vào cây lớn. Cành cây đan vào nhau có hình tượng khăng khít, nâng niu, âu yếm. Để tạo được hình tượng trên cho nghệ thuật, phải sử dụng cây, thân cây, cành, lá, rễ, ngọn, rêu v.v… làm vật liệu giống như nhà điêu khắc sử dụng đất sét, gạch, thạch cao… để nặn tượng vậy.

Người làm vườn có được những cây cảnh tạo thế, những hòn non bộ kỳ vĩ để gửi gắm tâm hồn, tình cảm, ý niệm thẩm mỹ, đã là một nghệ nhân. Họ phải chọn lựa, sưu tầm những loài cây, loài hoa quý hiếm rồi trồng xuống đất hoặc trong chậu cảnh và quanh năm suốt tháng chăm chút, xén, tỉa, uốn hình, tạo thế để cây có hình con hổ, con voi, phượng, hạc… Họ còn sử dụng các khối đá bọt, đá xanh có dáng dấp tự nhiên, đem về đẽo đục, gia công thành các hình khối đa dạng làm thành hòn non bộ để ghép cây vào. Vườn cây thế như núi, rừng thu nhỏ lại, có cây, có lá, có hang động, chùa chiền, cầu cống, rồi có cả bàn cờ tiên, tiều phu gánh củi v.v…

Hơn thế nữa, các nghệ nhân còn tạo các thế cây theo tứ của một vài bài thơ hay, gợi lên mơ hồ một cô gái tài sắc, một quán vắng bên đường… làm nên vương vấn, bâng khuâng… Nào cảnh người đẹp hoặc thi nhân, khi thấp thoáng bên bóng trúc, rặng tre, trên bến đò có dòng sông tưởng tượng xanh rờn mà lau lách. Cây cảnh Việt nam là một mảng tâm hồn nghệ thuật Việt nam. Chúng sánh ngang với nghệ thuật của vẽ tranh Đông Hồ, với dân ca quan họ Bắc Ninh, với gốm Bát Tràng. Những làng có cây cảnh là những công viên độc đáo, luôn có nhiều khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng, hành hương. Cứ vào dịp cuối năm ngần Tết âm lịch, khách nước ngoài nườm nượp kéo đến các làng cây cảnh. Họ hết lời ca ngợi, ký họp đồng…

Cây cảnh Việt nam đã từng đoạt nhiều giải, huy chương cao quý trong nước và trong các hội chợ Quốc tế.

TRÒ CHƠI LỐI XÓM

Đêm nay trăng sáng. Mấy nhóm trẻ trong các xóm họp lại với nhau. Chúng đến từ xóm Luỹ dập dềnh những búi hoa dâm bụt, từ xóm Ao có rặng cúc tần hoặc từ xóm Chẽ. Chúng hát ầm lên: "ánh trăng trắng ngà"… Chúng chia nhau ra từng nhóm nhỏ, chơi đủ trò, nào ô ăn quan, oẳn tù tì, bịt mắt bắt dê, đáo đầm ú tim, nhảy ngựa, trồng hoa trồng nụ, đánh chuyền, rắn xin thuốn v.v… Có những trò chơi dành riêng cho các em trai hoặc riêng cho các em gái. Cũng có những trò mà cả trai lẫn gái cùng chơi chung chúng chơi một lát ở trò này rồi tham gia ngay trò khác để chơi được nhiều trò.

Chúng vui cái vui của trẻ lên 10, mắt sáng, môi tươi. Chúng chỉ có một niềm vui bất tận. Hãy chú ý xem chúng chơi trò ú tim. Kẻ đi trốn và kẻ đi bắt đều ngớ ngẩn như nhau. Tuy vậy, hai nhân vật này gặp toàn những điều bất ngờ, ngộ nghĩnh làm cho mọi người cười mờ cả mắt. Trò "trồng hoa trồng nu " khá đặc sắc. Một đôi em trai hoặc em gái ngồi duỗi hai chân. Bàn chân em này chồng lên bàn chân em kia để cho hai, ba em khắc nhảy qua. Sau đó, lại chồng lên mấy bàn tay nở xòe hoa lên. Cứ mỗi lần chiều cao được nâng lên là hai em phải nhảy qua thanh thoát cái ngọn núi do những bàn tay chồng lên nhau, làm thành ngọn núi hoa, quả. Nếu nhảy không cao, chạm vào chân, tay, hoa quả chất cao là thua, phải ngồi xuống, trồng hoa, trồng nụ cho người khác nhảy qua. Trò chơi này luyện sự nhanh nhẹn nhưng lại là chuyện của cuộc đời. Trò chơi "đánh chuyền” chủ yếu dành cho các bé gái. Nhưng có khi các bé trai cũng tham gia. Bốn, năm em bé cùng biểu diễn một cỗ chuyền gồm 10 que nhỏ dài chừng 20 centimét. Người chơi phải tung hứng hòn cái (hòn sỏi hoặc quả bóng), phải xếp sắp và chọn từng que chuyền và đỡ hòn cái từ trên cao rơi xuống. Trong lúc phối hợp mọi động tác chơi, miệng còn phải hát lên. Suốt cả quá trình không bị một sai phạm nào là thắng. Bài hát trong lúc đánh chuyền gồm những câu hát thật hay ngẫu hứng, nhiều hình ảnh và nhịp điệu. Nhưng chúng mang nhiều điều huyền bí và triết học: "Giã giò, cò bay… Sang sông, giồng cây cải Vãi hạt vừng… Xin cô nàng… Mười cái lẻ…" Người chơi chuyền cứ láy đi láy lại những câu hát có từ xa xưa đó với cái vẻ say sưa và buồn buồn tựa như những lời hát ru. Người xưa nhắc lại rằng nội dung bài hát nói về cuộc sống của một người đàn bà từ lúc còn bé cho đến lúc về chiều.

Cả tuổi thơ của cô bé chỉ còn nhớ có một lần vui lắm, là lúc gia đình chuẩn bị ăn Tết nguyên đán, mọi người quây quần xem giã giò. Ngay sau đó là lúc thân cò phải bay sang sông đi lấy chồng xa, phải tay trắng cấy lúa, trồng vườn, nghênh chiến với muôn vàn những khó khăn chẵn và khó khăn lẻ sẽ xảy ra… Đó là những lời gửi gắm muốn gửi lại cho thế hệ sau mà không tiện nói thẳng ra… Sự thực, bài hát nói về cuộc sống hoà với thiên nhiên, lao động ý nghĩa về văn hoá của nó rất lớn, làm rung động lòng người mãi mãi…

Trò "rắn đi xin thuốc” gồm một bé làm ông lang già và vài em Dằm chặt lấy đuôi áo nhau để hình thành thân hình một con rắn dài. Một em làm đầu rắn. Một em là đuôi rắn. Các em khác làm thân rắn… Thầy lang xin khúc đầu và khúc giữa, rắn không cho. Đến khi xin khúc đuôi thì rắn thách ông thầy đuổi: “Thầy cứ đuổi xem, đuổi được thì cho"… Đuổi sao nổi, vì rắn là vật trường sinh, lúc nào cũng có sức trẻ và nhanh nhẹn. Còn thầy lang thì già rồi… Cứ như thế… những trò chơi lối xóm tiếp diễn đời này sang đời khác. Lớp trẻ này qua đi, lớp trẻ mới lại kế tiếp… Chúng chơi, chúng hát, say mê với những nụ cười muôn thủa, với trăng, với gió, với những âm thanh thân yêu của xóm làng…

CÁ VÀNG HÀ NỘI

Chơi cá vàng là thú chơi truyền thống có từ lâu đời ở ta. Ngày xưa, ở các nơi như phòng khách, nhà, vườn của các gia đình quyền quý, những tao nhân mặc khách, các nghệ nhân và ngay cả những lóp người bình dân đều có đôi chỗ cho bể nuôi cá vàng. Có những cái bể còn có cả hòn non bộ rải rác và gập ghềnh những chiếc cầu nhỏ, tán cây, ngôi đình, chùa cổ kính, những ông lã vọng, người đốn củi, con hổ, con nai… bằng đất nung vẽ màu. Những con cá vàng với hình dáng khác nhau đến kỳ lạ bơi lội tung tăng. Mỗi con đẹp một vẻ, chúng bơi xuyên qua các đám rong xanh như bơi vào trong mây, rồi lại bơi đi bơi lại qua chiếc cầu độc mộc. Chúng tung ra những tà áo đỏ thắm, đỏ nhạt, đỏ vàng rực, vàng thau… để làm nên một bình minh rực sáng hoặc một buổi chiều tà đỏ ối óng ánh những tia ánh sáng bạc. Chúng bơi sát vào nhau như vợ chồng, đùa rỡn, nâng tà áo cho nhau, âu yếm nhau, vuốt ve nhau thật tình tứ. Có con ra vẻ kiêu hãnh, có con làm dáng e lệ, cũng có con lại rạo rực tuổi thanh xuân… Cũng có lúc như phong ba nổi dậy, những chú cá đực chọi nhau trước mặt các cô nàng. Nhưng rồi, cũng chính các cô nàng ấy kéo các chú ra khỏi cuộc đấu. Chúng lại đi dạo với nhau vui vẻ và cuồng nhiệt.

Thì ra, không phải là chiến tranh mà chỉ là đùa rỡn, tập võ với nhau vui vẻ và cuồng nhiệt mà thôi. Chúng tung tăng bên nhau trong bản nhạc êm đềm. Cũng có nơi nuôi cá vàng trong chiếc ang cổ, có mấy chữ "Dương liễu xanh", hoặc ang thuỷ tinh. Nói chung, những đàn cá vàng đã tạo nên một thế giới thần thoại dưới thuỷ cung, tạo nên những bức hoạ di động, những bài thơ cho mọi người, ít nhất cũng là trong những giờ phút thư giãn, nghỉ ngơi, những giây phút suy tư, trầm ngâm. Ở bể cá vàng, ta thấy sóng nước, xa khơi, thấy những kỷ niệm, nhớ nhung. Ở nước ta, đâu đâu cũng có nuôi cá vàng. Riêng ở Hà Nội, tập trung nhất vào mấy làng Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Quảng Bá, Nghi Tàm, Hoàng Mai, Yên Phụ… Nhất là Yên Phụ, cả làng đều chơi, mua và bán cá vàng. Có thể gọi là quê hương của cá vàng, vì nghề này có từ lâu đời

Trước đây, những ngày giáp Tết trung thu và Tết nguyên đán, mọi nhà ngoài phố đều bày những bể và ang cá vàng ra ngoài cửa để bán. Những năm chiến tranh, thú chơi cá vàng không được chú ý đến. Ngày nay, nó lại được khôi phục và phát triển rộng rãi. Các chợ lớn trong thành phố đều có bán cá vàng Cá vàng đã trở thành một mặt hàng xuất và nhập để thu được những món tiền lớn.

Tháng 8-1994, một con cá Thanh Long lớn có tất cả các gam màu của nhiều loại cá vàng tập trung lại bằng giá gần một cây vàng 9999. Một con cá Hồng Long sớm chiều thay màu sắc như đoá phù dung nước cũng đến xấp xỉ 3 chỉ vàng. Cá vàng bao giờ cũng được nâng niu. Có điều, các giống cá, loại cá được đổi mới qua nhiều biến dạng, di truyền, lai giống, kỹ thuật nuôi vv… Giá trị nhan sắc và sự ưa chuộng cá vàng cũng thay đổi từng thời kỳ với thời trang, quan niệm thầm mỹ.

Những năm 1954-1955, dân chúng ưa chuộng các loại: Ngũ Hoa Chân Châu, Vọng Thiên, Đan Phượng, Kiếm, Chọi, Mã, Giáp, Thần Tiên, Mưa Chiều, Hắc Hồng, Ngọc ân…

Những năm 70, du nhập từ Hồng Ông, Đài Loan, các loại Khổng Tước, Giáng Mây, Ngân Long, Hải Thanh, Trà Hoa Nữ… Những năm 1989, Malaixia, Braxin nhập vào ta các loại Thanh Long, Hồng Long. Những cao thủ chơi hoặc nuôi cá vàng, những người có những bể cá siêu hạng cũng được mọi người tôn trọng và được đánh giá cao chẳng kém gì những văn nghệ sĩ nổi tiếng. Đã từlâu, người dân Hà Nội và cả nước vẫn còn nhớ bể cá vàng, hòn non bộ nhà cô Ba Tý phố Hàng Bạc, nhà cụ Tổng Trinh phố Hàng Chiếu, nhà ông Tiềm (Quảng Bá), ông Hai (Yên Phụ) hoặc bể cá vàng trong thửa vườn xanh biếc và yên tĩnh nhà ông Cả Bản, ở Bưởi, đã dựng lại cả một bầu không khí trong liêu trai chí dị. Chúng cũng đã gợi ý cho những vần thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Thú chơi cá vàng thanh nhã để cố được sự nghỉ ngơi tích cực, có được những giờ phút lơ lửng thoáng qua, chứa đựng nhiều điều kỳ diệu bất chợt đến, gọi là những giây phút "lơ lửng con cá vàng". Ở nơi có núi non bộ và bể cá vàng, cảnh vật đầy thơ, ca, nhạc, hoạ. Vả lại bây giờ việc nuôi cá vàng đã là một hạng mục kinh doanh của thương nghiệp. Các trẻ em rất thích chơi cá vàng. Bể cá đưa lại cho các em những bài học vỡ lòng về thẩm mỹ.

Nó đưa các em vào thế giới thần thoại và hiểu rằng trên đời còn có nhiều điều thú vị, mỗi con cá như một bông hoa nở dưới nước. Các con cá bơi mới giỏi và nhẹ nhàng làm sao. Có con như mặc áo giáp đội mũ trụ, xông xáo như một chàng dũng sĩ. Nó chiến đấu với kẻ địch. Có con khóc sưng cả hai mắt. Nó khóc thương người bạn bị tử trận. Có con lại như chít lên đầu một vành khăn ngũ sắc như thể là một vị anh hùng vừa mới chiến thắng trở về… Cùng với thú chơi cây cảnh, nuôi chim cảnh… thú chơi cá vàng cũng là một nét đẹp văn hoá vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại. Thú chơi cá vàng cũng là một nghệ thuật…

Chương III

nghệ thuật

NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC

Múa rối thành Thăng Long

Ông Viện trưởng Viện Những nền văn hoá thế giới Sêríp Khagiơnađa, viết: Sao lại có thể tưởng tượng được rằng một hình thức ngôn ngữ sân khấu tầm cỡ đã tồn tại hơn 1.000 năm bị lãng quên? Mà sự thật đã vượt qua tưởng tượng.

Múa rối nước của Việt nam không bao giờ xa rời làng quê cội nguồn của họ. Cũng có nhiều người Việt nam chưa được xem và không biết đến sự tồn tại của nó. Dẫu vậy nghệ thuật nghìn năm nay đã vượt ranh giới " lợi ích, chất lượng mà sáng tạo ra những diễn tả và khám phá để có thể đứng vào hàng những hình thức quan trọng nhất về sân khấu múa rối. Những nghệ si Việt nam là những khán giả của một hình thức diễn tả có một không hai trên thế giới. Múa rối nước đã làm giàu cho di sản văn hoá nhân loại ngăn chặn nguy cơ bị đẩy vào trạng thái "ở ẩn" và "lãng quên", một số diễn đạt ưu tú của tài hoa nhân loại.

Bia đá Sùng Thiện Diên Linh ở làng Đại, huyện Duy Tiên, Nam Hà ghi chép với 4.036 từ tả buổi biểu diễn múa rối nước để mừng thọ vua Lý Nhân Tông (1121) với sự có mặt của các quan trong chiều ngày 3, tuần trăng thứ 8, có ghi lại như sau: "Dòng sông gợn sóng. Một con rùa vàng mang trên mình ba hàng đá. Nó bơi thư thả trên mặt nước rồi phun nước như mưa. Trong trắng nhạc êm đềm, những cánh cửa các hang động ở ra. Thế là các nàng tiên xuất hiện, múa điệu múa “Hồi phong”. Họ giơ những cánh tay mềm mại, nhíu cặp mày duyên dáng, nhịp với lời ca. Những con chim lạ bay đến, đậu từng đàn, rồi thi tài nhảy nhót. Những chú lươn non tung tăng… Rùa vàng nhìn về phía nhà vua, cúi đầu kính bái. Nhưng bác tiều phu giương cung bắn thú v.v… " Ngày nay, trong các tiết mục múa rối nước cổ truyền, người ta lại thấy con rùa vàng phun nước, những nàng tiên với cánh tay mềm mại múa "thần khúc cảnh săn bắn mãnh hổ v.v… Tháng 3 năng 1984, đoàn múa rối nước Việt nam gồm 15 nghệ sĩ thực hiện chuyến đi biểu diễn tại CHDC Đức, Pháp, ý và Hà Lan. Đến đâu, đoàn cung được hoan nghênh nhiệt liệt và được ca ngợi hết lời với nhiều lời bình luận trên 20 tờ báo. Nhiều báo nhận định: "Múa rối nước Việt nam đã trả lại cho nhân loại một di sản văn hoá vinh quang mà trước đây nó bị nằm trong lãng quên"

Đêm ngày 4-3-1985, tại hội trường Ba Đình, đoàn múa rối nước Việt nam biểu diễn trước 400 khán giả. Nhiều nhà báo nước ngoài đã đến dự và chụp ảnh. Bên bờ bể nước có đốt pháo bông. Những chùm hoa cà hoa cải đủ màu sắc bay lên cao vút rồi toả ra. Bên cạnh cột đốt pháo bông là một chiếc cột cao treo một chiếc cờ lười hổ đủ màu sắc có chữ "Hội" ở giữa. Tiếng trống, tiếng thanh la, tù và, mõ và đàn sáo nổi lên tưng bừng hoà hợp với nhau làm cho cái không khí " hội hè Việt nam muôn thuở tràn ngập lòng người. Sau đó, qua các tiết mục, chúng ta gặp những lời thoại xen vào những làn điệu chèo, dân ca, thôn ca tuỳ theo cảnh theo tình xảy ra trên sân khấu mặt nước. Lách bức mành tre giữa nhà thuỷ đình tám mái vút cong với màu sắc rực rỡ có những bức rèm thêu hoa lá, rồng phượng cầu kỳ và trang nghiêm rủ xuống, chú Tễu bắt đầu ra trò… Chú vừa cười vừa hỏi:

- Bà con ơi!

- Ơi… - Tiếng đế đáp lại và các khán giả trẻ thích được góp thêm tiếng "ơi" để trả lời chú Tễu.

- Tôi có phải xưng danh không nhỉ?

- Có chứ. Không thì ai biết là ai?

- Tôi vốn là người trên trời. Tôi xuống đây từ cái thuở nước và lửa hoà hợp với nhau. Tên tôi là Tễu. Chú Tễu còn khoe đôi điều nữa. Có cả cô gái khăn lụa yếm đào để ý chú ta. Chú là nhân vật chính của múa rối nước. Chú rất trẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Chú là người giáo trò - vừa là hề, là người kể chuyện có duyên và cũng là người bình luận sắc sảo. Chú sống đã hơn 1.000 năm mà vẫn trẻ. Chú kể chuyện xóm làng, Phê cái dở, khen điều hay. Chú kéo cờ, đốt pháo giới thiệu tiết mục, hát, ngâm thơ, múa. Chú kêu gọi sự lạc quan, sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và khuyên mọi người nên ca hát và sáng tạo cái đẹp, cái hay cho cuộc sống: "Nền văn tử sao nỡ để hoang vu…"

Người ta ném xuống mặt nước một quả pháo vịt. Pháo vịt chạy ngoằn ngoèo dưới nước toả ra khói, hoa xanh đỏ gây ra tiếng chíp chíp rồi nổ toang. Trong lúc rộn ràng và rực rỡ này, chú Tễu rút lui vào trong mành không quên giới thiệu các trò bằng mấy câu thơ. Lại một lần nữa pháo nổ, trống tù và, mõ nổi lên. Long, ly, quy, phượng lung linh lao ra, nhảy múa, đùa giỡn. Chúng phun khói, phun lửa. Chúng là những con vật thiêng liêng được sơn son thếp vàng và được trang điểm bằng sơn mài độc đáo của Việt nam. Người xưa cho rằng, những long, ly, quy, phượng kể trên thèm khát một cuộc sống trần gian ở ngay cái ao làng bao nhiêu chuyện lý thú nhỏ nhoi mà lấp lánh. Rồi đến cánh đồng chiêm tấp nập, nơi có những con cò bay lả bay la đến mỏi cánh, có những người lao động cần cù đáng yêu: Chồng cày, vợ cấy, con câu Chàng rể tát nước, con dâu đi mò. Cảnh chọi trâu có anh hề đánh trống thúc giục trâu chọi cho hăng và một người trọng tài vui tính đã diễn tả cái cảnh hội hè, cái thú vui chơi hào hứng mà khoẻ khoắn trên đồng trũng. Tiết mục “Múa tiên" thật lung linh, huyền ảo. Tám cô tiên xếp hàng múa với nhiều động tác mềm dẻo. Các cô tiên được tạo hình rực rỡ, óng ánh xiêm y, nhịp với những khúc dân ca mượt mà, đằm thắm.

Múa rối nước của ta hiện giờ có chừng 30 tiết mục cổ truyền, 20 tiết mục mới có giá trị. Thưởng thức múa rối nước, chúng ta được sống lại với những lời ca điệu múa đã có trong máu của cha ông chúng ta và ngay cả của chúng ta. Ta được thưởng thức tài nghệ của các nghệ sĩ dân gian trong xóm làng gần gũi, được đằm mình trong cái không khí cội nguồn rộn ràng những âm thanh va màu sắc thân thuộc. Múa rối nước là một trong những hình thức nghệ thuật sân khấu độc đáo, là loại rối điều khiển ngầm dưới mặt nước từ xa, có ở Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hải Hưng, Hải Phòng, Nam Hà, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh… Hiệu quả nhiều mặt, liên tục gây bất ngờ và sự tràn đầy ngẫu hứng của nó đã dành cho múa rối nước một chỗ đứng trong kho tàng di sản văn hoá Việt nam cũng như trong nền văn hoá của nhân loại.

MÚA CHÈO

Để tìm hiểu múa truyền thống Việt nam, không thể bỏ qua múa chèo.

Múa chèo ôm vào mình một cách tham lam tất cả các khổ múa ở những địa bàn quê hương của nó cũng như ở bất cứ đâu mà nó cò thể thu thập được rồi nhào nặn, thêm bớt, làm cho mình trở nên giàu có. Do đó, ta thấy múa chèo còn có những dấu ấn rất đậm đà của những trò chơi lối xóm, múa thiêng, chạy đàn, làm chay, đánh bồng, bài bông, múa đèn, múa nến, múa gậy, múa khăn, múa sênh tiền, múa tắm tiên, múa chạy cờ v.v… Nhiều động tác múa kể trên từ những thuở xa xía đã lưu lại trên các vách đá, hang động ở Việt nam.

Ở chèo, có nhiều động tác tưởng chừng như không phải là múa như đi, đứng, đổi vị trí, giao tiếp v.v… mà lại là múa. Có câu tâm niệm: "Nhất cử nhất động giai điểm vũ” (mỗi cử động đều có múa). Nhiều động tác nhỏ thôi, tí chút thôi mà thực khó thể hiện. Vai Đào Huế trong vở "Chu Mãi Thần" đã múa ngay cả lúc gần như đứng yên mà trong lòng đầy gió bão. Múa chèo chủ yếu dựa vào đôi bàn tay, cánh và cổ tay. Nhờ đó chèo biểu hiện những trạng thái khác nhau của tình cảm. Lòng bàn tay trong tượng nghìn mắt nghìn tay của Việt nam có vẽ con mắt ở giữa. Ở sách cổ Ai Cập cũng vẽ trái tim và cặp môi trong lòng bàn tay. Người ta coi bàn tay như cái nhuỵ của tâm hồn. Với múa chéo, bàn tay còn là mắt, là môi, là trái tim.

Múa chèo có những đặc điểm: 1) Cách điệu cao. Một vài cử chỉ phối hợp của những ngón tay, mắt nhìn là tạo được cảnh trăng lên hoặc trăng tàn. Chỉ vài bước đi rồi chuyển sang động tác khác là đủ nói lên nhân vật từ bỏ nơi này mà đi đến một nơi nào xa xa lắm. 2) Mềm dẻo, uyển chuyển. Múa chèo gần gũi với tranh lụa ở chất trữ tình, thơ mộng. 3) Những động tác được thể hiện nhiều nhất ở phần thân trên, cánh tay, bàn tay, ngón tay. 4) Phóng khoáng, hồn nhiên. Những động tác chèo không tỉa tót, không quá trau chuốt mà gần gũi với thiên nhiên. 5) Múa kết hợp với hát. Diễn viên vừa múa, vừa hát. Hai điều này ăn ý với nhau, bổ sung cho nhau.

Múa chèo có 5 nhóm động tác chính: a) Nhóm chạy đàn. Gồm những bước đi lúc chậm lúc nhanh, có nét buồn sâu lắng, thương nhớ, buồi mênh mông. b) Nhóm dâng hoa. Tả nhưng cảnh bồng bềnh mây nước; tả tâm hồn rạng rỡ, gắn bó, mật ước, duyên tình… c) Nhóm dâng rượu: động tác chậm, thiêng liêng trang trọng, kính cẩn, tin tưởng. d) Nhóm cướp bông. Vui nghịch, tự do ngẫu hứng sơ luyến. e) Nhóm tấu nhạc. Gồm những tiết tấu nhắc đi nhắc lại, nhấn mạnh, nguyện cầu, trầm ngâm… Năm nhóm động tác cơ bản này làm cơ sở, được cộng với những động tác phối hợp hoa mỹ mà biến hoá ra nhiều hình nhiều vẻ, lột tả những trạng thái và khía cạnh của tình cảm khắc hoạ nên những nhân vật đầy cá tính.

Tuy có bài bản, luất lệ nghiêm khắc nhưng múa chèo cũng như loại nghệ thuật biểu diễn khác, lệ thuộc nhiều vào tình cảm, tài năng tính năng động, kính ngâu hứng say sưa của diễn Viên biểu hiện. Diễn viên tạo ra cái "thần" có những dư âm thẩm mỹ trong từng động tác múa. Múa chèo có vẻ đẹp đa dạng, phong phú, nhìn không chán mắt, xứng đáng chiếm một ví trí quan trọng trong kho tàng múa truyền thống Việt nam.

HÁT GIAO DUYÊN

Ở nước ta, mỗi độ xuân về hoặc xuân thu nhị kỳ. Mọi nơi thường tổ chức lễ Tết, ăn mừng, vui chơi, chào đón ngày mùa bội thu, lễ rước Thành Hoàng v.v…

Trong những cuộc vui như vậy luôn có mặt những buổi giao duyên, đua đò, trống quân, hát xoan, hát ghẹo, sli hò, quan họ, hát đúm v.v… Đề tài của những cuộc hát rất rộng rãi và ngẫu hứng như: ca ngợi quê hương, xóm làng, những cảnh đẹp thiên nhiên, tình yêu trai gái v.v… Chất trữ tình, tự sự, huê tình luôn luôn được nhấn mạnh. Đông đảo dân làng và eác nơi lân cận kéo đến dự rất nhiệt tình. Những người tham gia hoạt động văn hoá này thường chia ra một bên nam, một bên nữ. Đầu tiên, họ hát chào nhau, chào tất cả mọi người đến thưởng thức với những lời ca hay, tươi đẹp. Họ đoái với nhau, thi giọng hát và sự đối đáp thông minh. Nhưng càng về sau càng "găng” và nặng về chất phong tình trai gái. Bên nữ có thể mạnh dạn hơn nhiều, chanh chua ngoa ngoắt và bên nam thì lộ ra cái chất tán tỉnh và thèm thuồng, đùa giỡn với bên nữ. Đối phương cũng chẳng chịu kém, cũng ỡm ờ, bờm xờm, chòng ghẹo. Riêng kiểu hát đúm là dữ dội hơn cả. Họ nói lúc tan là lúc đôi nào vào đôi ấy, dắt nhau vào một chỗ kín nào đó.

Hát đúm có những đoạn đối đáp như sau:

Đôi ta gặp gỡ nhau đây

Như đôi bò gầy gặp bãi cỏ non

Anh còn son, em cũng còn son

Ước gì ta được làm con một nhà

Ra vào đụng chạm để mà nhớ thương.

Ở đây, sự đụng chạm là sự nhớ thương tích cực, thể hiện mãnh liệt qua hành động. Hoặc như:

Công em vén váy phất cờ

Đẻ ra một lũ lờ đờ ngáo ngơ

Có cây rối mới có hoa

Có công anh đi lại mới tòi ra cô nàng

Làm hoa cho người ta hái

Làm gái cho người ta trêu

Đôi ta như đá lưới dao

Năng liếc thì sắc, năng ra vào thì có tí nhau

Cô kia tươi tốt rươm rà

Tuy rằng tốt đẹp nhưng mà cong chân.

Cô gái liền đáp lại:

Em từ trong đó em ra

Cớ sao em biết rằng hoa chị tàn

Hoa tàn nhưng nhuỵ chửa tàn

Muốn xem, chị gỡ tấm màn cho xem

Hoặc như:

Thân em ví xẻ làm đôi được

Thì mỗi anh hùng một miếng ngon

Thư hương gia giáo nếp nhà

Sao anh sàm sỡ ra tuồng tà ma

Không bằng đôi má em hồng

Em trơn lông đỏ da quá mức

Anh là ma, anh bắt em má hồng.

Anh con trai cố tìm những phép màu để bắt cô gái. Mà do sự cần thiết, đã đẻ ra phép màu thật vì anh thấy cô gái sạch bong, tươi mát, đầy nhục cảm.

Ba bốn nơi tới hỏi, em chẳng màng

Chờ anh chết vợ, em sẵn sàng nhảy sang.

Và… cứ như thế, hai bên nam thanh nữ tú… họ hát với nhau đến thâu đêm, suốt sáng. Hát từ đời này sang đời nọ, không dứt. Loại hát giao duyên này có nhiều câu hát thuộc ca dao, tục ngữ mà đậm đà nét phong tình.

Nữ:

Trầu ấy em tôi vôi tàu

Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng

Dẫu chẳng lên vợ nên chồng

Xơi dăm ba miếng vợi lòng nhớ thương

Nam:

Cầm lược thì nhớ đến gừng

Cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ nhau

Cầm trầu lại nhớ đến cau

Cầm bấc nhớ đèn, cầm chỉ nhớ kim

Nữ:

Cợt vậy mà thôi Giỡn vậy mà thôi

Chồng em như nén vàng đôi… đợi em ở nhà…

Nam:

Ta về ta bẻ cành lá cắm đây

Đến mai ta cứ chốn này ta chơi

Bên kia gò, bên này cũng gò

Có phải nhân ngãi thì dò sang đây

Bên kia nương, bên này nương

Có phải nhân ngãi thì thương nhau cùng…

Hát giao duyên hãy còn sống mãi trong cuộc sống của chúng ta, trong ca dao, trong các câu chuyện kể tâm tình của dân gian, trong những cuộc hội hè đình đám, nó góp âm thanh và hình ảnh, làm duyên cho những sự gặp gở. Nó truyền từ đời nọ đến đời kia để những câu hát được mỗi ngày một mới mẻ. Quả thực, nhiều những câu hát mới ngày nay là một phần nào hoá thân của những câu hát mà những thế hệ trước chúng ta đã hát. Hình thức và thanh âm của chúng đã khác đi, nhưng tinh thần, hồn phách của nó chỉ là một. Nó ca ngợi cuộc sống, ca ngợi xóm làng, ca ngợi tình yêu trai gái mặn nồng khôn nguôi của những người con trai con gái sắp sửa và đang bước vào tình trường. Hát giao duyên sẽ còn mãi…

DIỄN XƯỚNG TRÒ MỤC LIÊN - THANH TRÌ

Bên nhà ông cả Biển đang có chuyện buồn. Mẹ ông mới mất ở tuổi 94. Cụ chẳng ốm đau gì mà nằm xuống như một giấc ngủ. Họ hàng, làng xóm đến phúng viếng đông nghịt. Phường kèn, thỉnh thoảng lại cử lên những khúc bi ai, não nuột, trầm bổng. Nổi bật lên là những khúc "Điếu quân”, "Lâm khốc", "Con nhạn lạc đàn". Các con, cháu, chắt của người chết đều đứng, ngồi quanh cỗ quan tài sơn đỏ có chữ “Thọ”, "Sống dầu đèn, chết kèn trống". Người ta cho rằng những nét nhạc sầu nổi lên để an ủi gia đình người chết. Nhưng cũng là để tiễn người ra đi. Chúng đảm nhiệm việc giao cảm giữa cái chết và sự sống. Do đó, chúng kể lại nhiều chuyện lắm. Trong tiếng nhạc tổng hợp mà chủ đạo là tiếng kèn pha có cả đêm mưa phùn, ngày gió bấc, những đận bi thương v.v…

Nàng dâu trưởng đã trên 70 tuổi khóc lên tiếng khóc đầu tiên với giọng kể lể, "Mẹ ơi, a… cũng một kiếp… người". Liền bên cạnh là nhà ông Hai Y. Ông là con thứ hai của người chết. Tại đây, mọi người thân thuộc tổ chức diễn trò Mục Liên - Thanh Đề để phối hợp với tang lễ và để cầu nguyện cho mẹ già…

Đó là tục lệ đã có từ lâu đời ở cái làng Yên Sơn nằm sát chùa Thầy, cách Hà Nội chừng hơn 30 kém. Người ta đốt mấy ngọn nến bập bùng. Điều này gây nên một không khí bí ẩn, tâm linh trong làn khói hương nghi ngút. Các diễn viên nam, nữ nghiệp dư và tự nguyện là những người nông dân trong làng xóm. Những trống, phách, đàn, nhị đơn sơ và cũ kỹ được nổi lên. Trang phục thì chỉ cần sửa sang chút ít các trang phục lao động thường ngày. Có thêm hoặc mượn của nhau mấy tấm khăn màu, chiếc khăn tai chó, mấy chiếc thắt lưng xanh, đỏ… ông lái đò được vẽ thêm bộ râu, có thêm chiếc bơi chèo. Nhân vật chính là Á Phật, đại mục Kiền Liên tức Mục Liên có được chiếc mũ "thất Phật" gồm 7 cánh hoa sen. Một mảng của chiếc áo cà sa.

Mục Liên cầm gậy "tầm xích!". Mấy vai đóng chúng sinh thì tha hồ, ai có gì mặc nấy, có đánh chút má hồng. Sân khấu là hai manh chiếu. Một số các bà các chị đứng xung quanh cũng tham gia vào cuộc biểu diễn. Đủ cả, cao, thấp, béo, gầy, già trẻ, răng đen, tóc vấn, đi chân đất… Họ có tác dụng là giàn "đế” và kể, "kệ" và hưởng ứng những điệp khúc: “Nam mô A di đà Phật". Bác Mạc có giọng tốt, ngâm lên: Con ơi! Đất rộng trời cao Công ơn cha mẹ so sao cho bằng. Sau đó, tất cả mọi người đều kê "thập ân" nói về 10 ân đức chinh của cha mẹ đối với các con. Đây là một bài tụng ca buồn rầu, thương cảm mà hùng hồn. Bác Hai lại đóng vai Mục Liên là một vai mà không ai tranh được với Bác.

Á Phật Mục Liên đầy hạnh đức và trí tuệ, rất có lòng hiếu với mẹ. Ngài xin với đức Phật được xuống âm ty thăm mẹ bị hình phạt. Nguyên nhân phải chịu hình phạt của bà Thanh Đề (mẹ Mục viên) là vì lúc còn sống, bà đã làm nhiều điều ác với cộng đồng. Mục Liên giảng giải cho mẹ và một số phạm nhân trong lao tù để họ nhận ra sai lầm và chịu sám hối. Khi họ đã hiểu rõ điều tốt, xấu, họ được ra khỏi lao tù. đi thuyền sang “bờ bên kia" để chuẩn bị đầu thai vào kiếp sau và trở nên những con người tốt. Những động tác thắp hai tay trước ngực, mắt nhìn xa xôi và những dáng đi đầy suy tư… được diễn viên trình diễn rất đẹp. Nhưng có lúc, Mục Liên lại có dáng đi nhanh như gió, lúc gập ghềnh, lúc đi quanh mấy vòng trong tiếng nhạc và tiếng cầu kinh làm cho mọi người như nín thở. Đó là những bước đi vạn dặm của đời một con người trần gian. Ông đi mà là múa. Múa thật sự là khác.

Đến lúc Mục Liên vừa hát kinh vừa múa gậy tầm xích thì bật ra những điệu múa cổ xưa đã ngủ quên lâu rồi, đột nhiên được đánh thức dậy. Cảnh múa thật dưng bừng bốc lên cùng với tiếng thanh la dồn dập, tiếng trống thúc lúc nhẹ như gió, lúc như mưa… như khắc khoải… như thân phận con người.

Người dẫn chuyện hát lên những khúc hát mộc mạc Không hay lắm! Giọng bác là thứ giọng nguyên chất chưa từng bị pha chế. Một giọng hát nhà nghề uốn éo nào đó vào đây sẽ bị đánh bật ra ngay. Nhưng giọng hát mộc mạc của báu có cái hơi nguyên thuỷ, có cái duyên kiếp. Buổi biểu diễn có đầy đủ chất sân khấu, gồm cả kể chuyện, giáo đầu, ngâm ngợi, đọc kinh, hát kinh, múa, độc thoại, hài hước v.v… Tất cả được tổng hợp lại làm cho đêm diễn vừa ảo mà vừa thực. Chúng liên kết cuộc đời của những con người lại với nhau qua những nét huyền thoại, ký ức, hình ảnh… từ những đời cha ông xa xưa truyền lại, làm cho họ gắn bó lại với nhau trong cái cảm giaco chòng chành.

Tất cả lôi cuốn họ vào một mối tình thiêng liêng mà cao cả là tình mẹ con. Người ta thấy cần phải hy sinh cho mối tình đó. Cả vở toát lên tình mẹ con, tình yêu thương cộng đồng. Vở kịch cũng răn đe điều ác và luôn nhắc nhở mọi người rằng cái thiện và cái mỹ sẽ tất thắng. Vở diễn mang tính nhân văn cao. Chính vì vậy, nó tồn tại trong lòng nhân dân từrất lâu và trở nên phổ biến ở khắp các làng quê của chúng ta. Nó thường có mặt trong những ngày đình đám, lễ tết, ngày 15 tháng bảy xá tội vong nhân, lập xuân hoặc ở những đám tang mà người chết có tuổi thọ gần 100 tuổi. Những năm gần đây “múa rối nước”, "ba giá đồng”, "hạn hán và cơn mưa của Việt nam đã làm nghiêng ngả các sân khấu trong và ngoài nước. Vở "Mục Liên - Thanh Đề” cũng sẽ như vậy. Nó cũng là một vật báu của kho tàng văn hoá Việt nam. Có điều, nó chưa được những con mắt của các nhà nghiên cứu chú ý đầy đủ để được Khám phá và nâng cao. Tuy vậy, nó được giữ gìn và kính trọng trong tâm khảm người dân. Nó là củ ấu gai, hãy còn thô mộc, sù sì. Nhưng bên trong thì ngọt bùi, đằm thắm, quyến rũ, nuôi sống được con người. Ở Trung Quốc cũng có chuyện Mục Liên cứu mẹ. Nội dung cũng gần gũi với trò Mục Liên - Thanh Đề của ta. Mục Liên cứu mẹ của họ xuất hiện tại một số tỉnh miền Nam. Sân khấu Trung Quốc đã sưu tầm được hơn 10 bản Mục Liên cứu mẹ để quy nạp, khái quát và nâng cao. Các học giả Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Anh… đã có những công trình nghiên cứu về "Mục Liên cứu mẹ". Họ còn đang tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa. Diễn xướng trò Mục Liên - Thanh Đề của ta vẫn đang là một mảnh đất chưa được khai phá.

NÉT TUỒNG

Sân khấu tuồng là sân khấu tổng hợp của nhân vật được hoá trang, có phục trang ước lệ, tượng trưng với múa hát, nhạc đệm, phương pháp thể hiện, do đó cũng phải dựa vào các nguyên tắc cách điệu, ước lệ, tượng trưng. Ở tuồng, các nhân vật được đúc lại thành những khái niệm cụ thể từng mô-típ riêng. Nào là kép văn, kép võ, kép rừng, kép đỏ, kép xanh, kép phong tình, kép đen, kép rằn… Về vai lão có: Lão văn, lão võ, mụ lành, mụ ác. Đào có đào chiến, đào thương, đào điên, đào yêu, đào lẳng… Mỗi nhân vật có kiểu vẽ mặt và qui cách trang phục riêng. Những điều này được coi như chứng chỉ của nhân vật theo phương châm: “Nhan y giai ngữ”, nghĩa là sắc mặt và áo xiêm đều lên tiếng. Như vua bao giờ cũng đội mũ cửu long, mặc hoàng bào. Hoàng hậu đội mũ cửu phụng, mặc áo vàng, đi hài phượng xa hoa và sặc sỡ. Kép rừng mặt xanh có tròng xéo, mang xiêm áo chẽn, quần xà cạp. Thái sư thì đội mũ bình thiên, mặt mốc đeo mãng, đi hia… Về kỹ thuật hoá trang mặt, nghệ thuật tuồng chú trọng vào đôi mắt tả thần. Diễn viên mở rộng độ mở của hai con mặt, lông mày rậm, to và xếch tuỳ theo nhân vật, có khi rất dài. Mặt được xoa lớp nền trắng rất dầy. Có ba nguyên màu chính là đen, đỏ, trắng và dẫn xuất của chúng.

Với bộ mặt của lãn tướng, hổ tướng, tưởng đống (lớn) thì giữ biểu tượng con hổ để tăng vẻ dữ dội. Lông mày to, xếch, nhọn. Trên mặt có những nét gợn gần gũi với những văn hỗ, gọi là những nét vờn màn đen và những nét vờn nhạt hơn màu đen một tông điểm xuyết lượn quanh hoặc chấm phá dựa theo độ rung của cơ mặt và má. Cũng gọi là những đường “nan” phản ánh đấy đủ trong vai võ tướng Tạ ôn Đình, còn bộ mặt Thương Linh Tá lại mang biểu tượng con chim ưng, biểu thị sự thông minh nhanh nhẹn. Mũi được bôi quầng hai bên cạnh để nâng sống mũi lên, cánh mũi rộng ra. Những người trung thì thường mặt đỏ, râu dài. Người nịnh thì mặt rằn. râu ngắn.

Tuy nhiên, ngoại lệ có những trung thần, nhưng vẽ mặt rằn, đeo râu ngắn vì hình dáng bên ngoài đời của hai nhân vật này xấu xi, tính tình nóng nảy, gan góc. Khương Linh Tá, Thuỷ Định Minh cũng là những anh hùng chính nghĩa, nhưng mặt không đỏ lại được vẽ thêm những khuyên đen trắng để thể hiện tính nóng nảy cương trực, dũng mãnh. Với kép Phong tình thì màu hồng là chủ đạo, long mày dài. Đào thương có bộ mặt hồng nhạt. Đào lẳng có con mắt lá răm, đuôi mắt dài. Đào võ có bộ mặt đỏ rực rỡ, lông mày cong xếch. Đào võ tiêu biểu là Đào Tam Xuân thì có bộ mặt bên xanh, bên đỏ, nói lên vị nữ tướng xuất hiện từ nơi rừng xanh, núi đỏ xa vời. Hơn nữa, đó là một con người ky dị từ xa xưa trở lại. Đào ram Xuân quá lộng lẫy và hấp dẫn đã trở thành người của cuộc đời mà không phải vợ riêng của ông trùm từ một thuở xưa nào đó nữa. Ông trùm nổi máu ghen bịa ra cái chuyện hoá trang bên xanh, bên đỏ để hạn chế sự hấp dẫn của nàng, làm cho nàng xấu đi để dễ phần bảo vệ. Sự kiện này được ghi trong ngoại sử làng tuồng. Tướng văn và kép văn có bộ mặt hồng nhạt. Lão tướng võ đen râu sàm (liên tu). Lão tướng văn đeo râu đen ba chòm dài. Tướng nịnh với bộ mặt chỉ có hai mầu đen, trắng. Lông mày hình con cá rô có khía.

Bộ áo giáp chia ra bốn vế và đều được thêu những hoa văn rực rỡ mà hoang dã. Có vế đằng trước, đằng sau và hai bên. Quan trọng nhất là vế đằng trước vì nó được trình bày đủ nhất. Nào rồng chầu mặt trời, nào hình hổ báo cách điệu kèm theo hoa văn bằng chỉ vàng, chỉ bạc. Phía bên ngực có bộ tâm kính tượng trưng cho mặt trời, giữa có giải thắt lưng bó gọn, có màu sắc hài hoà với toàn cục. Phía dưới là những vệt màu, hoa văn nhiều màu sắc mô tả sóng gầm mây cuộn. Có những loại áo giáp với những nền xanh, đỏ, đen? tím. Giáp trắng dành cho những nhân vật võ mà siêu phàm. Vua mặc hoàng bào thêu rồng khắp nơi. Với các quan to cũng được thêu một hai nét rồng. Với các loại quan cũng to nhưng không ghê gớm lắm thì được thêu mặt hổ, báo… Kép văn mặc long chầu. Mũ mãng có màu vàng (dành cho vua), đỏ, xanh, tím, đen. Mũ màu đen không bao giờ dùng cho tướng trung và điềm đạm. Tướng lớn đội mũ bình thiên. Phía bên ngoài mũ cũng được tạo hình những rồng phượng vàng hoặc bạe, mặt trời và các đường triện sặc sỡ. Mũ cũng có kiểu dài, rộng, cao.

Có loại gắn thêm những tua hoặc quả bóng màu rung rinh theo động tác và cứ chỉ của diễn viên. Tất cả các nhân vật đều đi hia màu có thêu kim tuyến. Hia có thể nâng chiều cao của diễn viên lên từ 7 - 15 cm. Các tướng phải có dáng cao và đẹp. Rất kỵ người lùn giữ những vai quan trọng gọi là vai "cờ". Thư sinh thì đi hài với những bước đi lững thững. Một vài nhân vật đẹp như Triệu Tử Long (nam) hoặc Đào Tam Xuân (nữ) có đeo thêm 8 lá cờ sau lưng và bộ lông trĩ sặc sỡ, dài mà cong. Ở tuồng, bộ râu, tay áo lông trĩ vừa để trang trí, vừa là đạo cụ độc đáo. Một số quan văn hoặc văn pha võ đội mũ có dải. Điều khác biệt về hoá trang mặt của các diễn viên tuồng Việt nam với Kinh kịch Trung Quốc là: Trên mắt diễn viên Kinh kịch Trung Quốc sử dụng nhiều màu sắc hơn và màu nào cũng được đánh bóng. Họ chia ra những mảng màu cầu kỳ, chải chuốt Còn ở tuồng Việt nam thì tính cách điệu cao đến táo bạo, màu sắc ít hơn, giản dị mà thi tập trung chú ý vào xung quanh đôi mắt. Ở tuồng Việt nam, những đường nét rõ ràng, thô kệch một chút nhưng là ngẫu hứng. Với tuồng, bộ mặt được hoá trang, trang phục là những tác phẩm mỹ thuật hoàn chỉnh. Đứng riêng, chúng là những công trình về tạo dáng và sắc màu còn đọng lại được cho đến ngày nay qua sự thử thách của nhiều đời. Vì vậy, chúng làm nao núng cả giới trang trí sân khấu thế giới qua hai lần mở triển lãm về mỹ thuật sân khấu truyền thống Việt nam tại nước ngoài (1985 và 1987) và đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài đến Việt nam nghiên cứu về mỹ thuật và về sân khấu…

Chương Kết

TRANH SƠN MÀI

Về nghệ thuật tạo hình, sơn mài đóngvai trò hàng đầu về chất liệu truyền thống và tranh sơn mài giữ một vị trí quan trọng trong nền hội hoạ Việt nam. Đối với thế giới, tranh sơn mài Việt nam cũng được đặc biệt chú ý vì nó có sắc thái riêng biệt và biểu hiện rõ tính dân tộc đậm nét. Sơn mài còn gọi là sơn ta, đã có truyền thống lâu đời ở những thế kỷ trước, những tượng gỗ tại các đình, chùa, miếu, được sơn son thếp vàng. Những bàn thờ, câu đối, hoành phi, đồ thờ v.v… cũng được xử lý bằng sơn mài với những màu sắc lộng lẫy và bền chắc. Các đồ mỹ nghệ thủ công cũng đã là những mặt hang xuất khẩu có tiếng vang. Thế kỷ thứ 16, phố Nam Ngư (Hà Nội) là phố của những người làm sơn mài. Thế kỷ 17, một nhà kinh doanh người Anh đã cử một kỹ thuật viên sang Thăng Long (Hà Nội) bọc kỹ nghệ sơn mài của Việt nam. Từ gần một thế kỷ nay, sơn mài đã được giới hoạ sĩ Việt nam tìm tòi nghiên cứu và nâng sơn mài lên một vị trí cao. Họ làm tranh sơn mài, do đó, sơn mài được thêm vào những chất liệu phong phú với nhiều loại bột màu, bột vàng, bột bạc, vàng lá, bạc lá, bột màu thực vật, vỏ trai, vỏ trứng v.v… Chất sơn lấy từ cây sơn. Nhựa cây hứng về, đổ vào các "sải", bằng tre đan, đậy lên một lớp giấy bản. Nhựa này gọi là sơn sống, giữ càng lâu càng tốt. Qua nhiều ngày, nhựa bị mất nước, lên men và lắng đọng, tạo ra nhiều lớp sơn khác nhau, màu sắc khác nhau, gọi là những "tuổi sơn". Lớp trên cùng màu sẫm là loại tốt nhất. Sơn chất lượng cao đổ vào thùng gỗ và dùng chày khuấy trong ba ngày liền. Sơn sẽ trở nên trong hơn có màu giống cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Nó sẽ trở nên bóng hơn khi được trộn thêm ít nhựa thông. Lại đổ nhựa vào chậu sành và khuấy bằng chày sắt, sơn sẽ ngả màu đen huyền. Các loại bột màu - bình thường khi trộn với sơn, bị sơn làm "đen hoá” hoặc làm xám xỉn lại nên phải dùng những bột màu được xử lý đặc biệt. Người ta dùng vàng và bạc thật ở dạng lá dát thật mỏng hoặc ở dạng bột mịn trộn vào sơn. Một số màu: xanh lá cây, xanh lam, vàng, tím, trắng ở dạng bột không hoà tan. Một vài màu phẩm cũng dùng được. Người ta còn dùng hạt dành dành để tạo màu vàng, dùng vỏ trứng vịt, trứng gà khảm vào tranh sơn mài để tạo nên màu trắng. Còn vỏ trai, ốc thì tạo nên những màu xanh, tím, hồng óng ánh huyền ảo.

Làm một bức tranh sơn mài, hoạ sĩ chọn tấm gỗ khô, nhẵn gọi là "vóc". Vóc được quét một lớp sơn sống lên cả hai mặt rồi dùng vải hoặc lụa quấn quanh tấm gỗ. Khi khô, được sơn lên nhiều lớp sơn khác nhau. Đợi khi các lớp sơn vàng khô, người ta quét lên một lớp sơn nữa và "bó" một lớp mát tít gồm sơn sống, mùn cưa rây nhỏ và đất sét. Khi lớp “bó” khô, sẽ được phủ lên hai lớp sơn sống nữa. Bề mặt tấm vóc được mài nhẵn bằng đá bột với nước. Sau đó, sơn "thi" lên tấm gỗ từ ba đến bốn lớp then chín màu đen. Tiếp sau là nhiều lớp sơn nữa. Hoạ sĩ dùng phấn hoặc bút chì vẽ phác rồi vẽ sơn có trộn màu lên. Lớp một khô sẽ vẽ lớp thứ hai, sau khi vẽ xong, toàn bộ bề mặt còn phải phủ lên một hoặc hai lớp sơn son với lớp màu thích hợp, tức là dựng các màu chồng lên nhau. Nếu tác giả muốn dùng vỏ trứng hoặc vỏ trai, ốc thì dùng dao trổ, cài vào lớp sơn ướt ở mảng thích hợp. Sau đó, lại phải phủ lên một hoác hai lớp và đợi cho khô. Bức tranh khô cũng được mài bằng đá màu với nước làm cho những nước sơn "hiệu quả" cũng như những vỏ trứng, vỏ trai, bạc, vàng hiện dần ra với những mảng màu mong đợi. Muốn sử dụng vàng lá, bạc lá thì đặt lá vàng hoặc lá bạc lên tranh, phủ lên trên một hoặc hai lớp sơn mỏng. Bột vàng, bột bạc, bột màu thì trộn vào sơn mà vẽ.

Cuối cùng, vẫn là động tác mài cho đến lúc những đường nét và mảng màu nổi lên là được. Chúng nổi lên vừa đúng ý đồ của hoạ sĩ, vừa bát. ngờ… Lưu ý đến bảng màu sơn mài, ta sẽ thấy khả năng và tính ưu việt của những loại sơn. Sơn then đen bóng, sâu thẳm đến vô cùng. Sơn cánh gián trong veo, óng ả phủ lên các màu và vàng bạc sẽ làm cho màu sắc biến đổi tạo thành những màu sắc dẫn xuất và tạo nên những âm vang màu sắc đầy kịch tính. Qua sự kết hợp giữa sơn ở tuổi khác nhau, các bột màu cũng trở nên mờ ảo, rực rỡ và có những độ nổi chìm trong bức tranh. Thực ra, mỗi một màu sơn đứng độc lập cũng đã tạo nên những vẻ đẹp của riêng nó. Ngoài những bức tranh sơn mài ra, lại có những tác phẩm khắc chìm và đắp nổi. Những năm 30 của thế kỷ này, tranh sơn mài và các tác phẩm thủ công mỹ nghệ đã trải qua một cuộc phục hưng. Nó khẳng định rằng khả năng biểu hiện của sơn mài trong hội hoạ là không hạn chế. Nó có thể diễn tả được đủ loại nội dung đề tài. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), cuộc phục hưng thứ hai của sơn màu mới thực sự rộng khắp và sôi nổi. Nhiều bức tranh sơn mài và các đồ mỹ nghệ thủ công sơn mài Việt nam được đưa ra nước ngoài hàng loạt. Chúng được đánh giá cao ở nước ngoài cũng như ở thị trường trong nước. Những hoạ sĩ gắn bó với sơn mài và có những bức tranh sơn mài có tiếng vang phải kể đến các hoạ sĩ như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Ty, Trần Văn Cẩn v.v… Tranh sơn mài thường được vẽ ít nhiều theo ước lệ, ngẫu hứng. Nó cũng như tình yêu vậy, xuất phát từ tấm lòng chứ không nhất thiết theo những quy luật lạnh lùng của hội hoạ nói chung và cũng không theo những bảng màu được công bố một cách máy móc nặng về kỹ thuật. Rung động trong lòng thế nào, hoạ sĩ thể hiện ra tranh như thế. Có khi nó phớt lờ cả tỷ lệ hoặc luật viễn cận. Nó không lý sự dài dòng. Nhưng chính vì thế mà những bức tranh sơn mài Việt nam trở nên thầm kín, sâu lắng, ấm áp, mơ màng và xôn xao. Về phần mỹ nghệ thủ công, những chiếc lọ sơn mài, những chiếc hộp, đĩa trang trí, ghế, guốc, tượng, đồ thờ và các đồ trang sức v.v… làm bằng sơn mài hoặc trang điểm bằng sơn mài được liệt vào những mặt hàng hiếm mà khách nước ngoài săn tìm. Tương lai của sơn mài rất sáng lạn. Nó đã và sẽ góp vào vườn hoa nghệ thuật Việt nam và thế giới một bông hoa khiêm tốn và độc đáo.

TRUYỆN VỀ BỨC TRANH "HỨNG DỪA"

Tôi về thăm làng Hồ, tới nhà cụ Quýnh thì cụ cũng vừa ra khỏi gian nhà cổ. Cụ bảo: "Ôi, nhà báo lại có điều gì dạy bảo đây…"

- Dạ, là hàng con cháu, xin đến thăm cụ.

- Cám ơn ông.

Cụ Quýnh đưa tôi vào nhà, mời uống nước chè xanh và hút thuốc lào Tiên Lãng. Cụ vừa mới ở Hà Nội về. Cụ không chịu được cái không khí Hà Nội. Ở Hà Nội không biết trăng sáng tỏ hoặc trăng suông là gì. Thế thì biết làm sao được cái câu: “Sáng trăng sáng cả vườn đào"? Biết được làm sao cái điệu “Suông hời” thảng thốt…? Nể lòng người cháu họ mời ra Hà Nội, cụ chỉ nán lại ba ngày rồi nằng nặc đòi về làng Hồ. Về nhà, cụ còn góp ý cho bọn trẻ khắc lại những ván tranh Đông Hồ cổ, còn đi hết nhà này đến nhà nọ, còn nghe bọn trẻ hát những bài quan họ mà cụ cho là quan họ rởm v.v… Cụ đã 95 tuổi mà vẫn tinh nhanh, quắc thước, râu tóc như bông, nói đến chuyện các bức tranh Đông Hồ, cụ nói một mạch như thể chỉ sợ tôi xen vào sẽ cắt đứt mạch suy nghĩ của mình. Bàn đến bức tranh “ Hứng dừa “ cụ bèn kể lại theo lời của cha, ông cụ đã nói với cụ. Tôi chỉ còn biết nghe và nhớ lại từng chi tiết

Và đó cũng là ước mơ của tôi. Ngày xưa, cứ gần hết ngày Tết là có những đám thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi xuân… họ thách nhau lên trèo dừa. Không kể dừa nhà ai, cứ cây nào dễ trèo là trèo trẩy vài ba quả lấy may. Chủ nhân vườn dừa rất đỗi rộng rãi, cởi mở, không lấy tiền. Chàng thanh niên nhanh nhẩu, hoạt bát trèo thoắt lên cây dừa, giữa tiếng hoan hô ầm ĩ và tiếng tán thưởng của mọi người. Chàng thanh niên mặc quần đùi ống rộng, không mặc quần si líp như bây giờ. Người ta gọi các cô gái ra hứng dừa. Lẽ dĩ nhiên, có một cô nhảy ra làm việc đó cô gái ra khỏi đám đông, đến gốc dừa. Lúc này tiếng ồn ào, cười đùa hò hét vang lên như sấm. Chàng thanh niên sờ tay vào những quả dừa rồi hét lên:

- Ai ơi, xong chưa?

- Xong rồi…

Cô gái và tất cả mọi người reo lên… Một quả dừa nhỏ được tung xuống. Cô gái vui quá, nâng váy lên đỡ. Mọi người ào tới, vỗ tay khen cô gái và khen cả những động tác hớ hênh của cô. Cô gái để mình trần, mặc chiếc yếm điều hờ hững. Giải thắt lung xanh giữ cạp váy trang điểm rất nhiều cho thân thể ngọc ngà của cô. Đây mới là màn một.

Đến màn diễn thứ hai có phần đặc sắc hơn. Một cô gái thứ hai ra hứng tiếp. Lần này, chàng trai mưu mẹo hơn (con trai là thế đó)” Anh ta thả xuống một lúc hai quả dừa to và nặng thật nhanh. Và thế là hai quả dừa quá tải này đủ để làm tụt váy cô gái ra trước thanh thiên bạch nhật. Cô gái bàng hoàng xấu hổ, vứt cả dừa, vội vàng vơ váy lên, mặc lại váy rồi chạy một mạch về phía đình làng.

Bọn trẻ xúm lại, tranh nhau hai quả dừa mà cô gái không nhận này. mang về nhà. Đó là điềm may lớn.

- Chúng tôi được trận cười vui vẻ.

Ông cụ Quýnh nói cười rung cả chòm râu bạc.

- Thưa cụ. Có thể vì vậy mà các cụ sống lâu đấy ạ.

- Tôi không biết. Nhưng không hiểu sao, năm nào cũng như năm nào mà bọn con gái không biết rút kinh nghiệm, cứ để bị tụt váy nhỉ? Phụ nữ họ nhẹ dạ, cả tin chăng? Cứ vui lên là quên không coi trời đất là gì. Lạ thật chú nhỉ? Dạ. Có thể là như vậy.

- Mà thế mới sướng chứ?

- Vâng…

MẤY BÔNG HOA NGHỆ THUẬT

Những năm 1976-1977, tôi đi cùng với mấy nhà nghiên cứu âm nhạc người Bun-ga-rỉ đến dự một buổi ca trù và biểu diễn nhạc cổ tại một căn gác nhỏ trên phố Trần Hưng Đạo.

Đào nương là bà Quách Thị Hồ, ông Trúc Hiền đánh trống chầu. Ông Chu Văn Du đánh đàn đáy. Ông Đinh Khắc Ban thỉnh thoảng hoà vào mấy tiếng đàn nguyệt đầy kịch tích. Tiếng phách dạo lên giòn giã tung tăng như có gió, có mưa, có tiếng lòng tha thiết. Bà Hồ hát lên:

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh

Sông thu đưa lá bao ngày biệt ly

Nhạn về én lại bay đi

Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm

Lá sen tàn tạ trong đầm

Nặng mang giọt lệ, âm thầm khóc hoa

Sắc đâu nhuộm Ô quan bà

Cỏ vàng, cây đổ, bóng tà tà dương

Nào người cố lý tha hương

Những giọt đàn đáy rung lên: từng… tưng… tưng… tưng… Nghe như tiếng đàn từ ngàn xưa vọng về. Chát… chát… chát… tom, mấy tiếng trống chầu của ông Trúc Hiền vang lên. Ông lim dim đôi mắt say sưa, ngây ngất về bài thơ của Tản Đà và giọng hát đổ hột mà rất "hàng hoa" của đào nương. Nghe yêu quá. Chính trong cái trạng thái tâm hồn chạng vạng ấy mà ông Trúc Hiền mới góp được vào những tiếng trống hào hoa, xuất thần. Mấy người bạn nước ngoài cũng như mấy chuyên gia âm nhạc Việt nam ngồi nghe chết lặng. Các bạn cảm ơn, vái ông Trúc Hiền. Tôi cũng khen ông: "Tiếng trống của ông hay quá". Ông Trúc Hiền nói ngay: "Năm nay tôi 70 tuổi. Trong tiếng trống của tôi có cả những tiếng khóc và những điều ân hận của tôi. Tôi đã mất mấy chục năm phiêu bạt, ăn chơi. Đời tôi đã mất cả vườn ruộng. Đã làm khổ vợ con vì những tiếng trống này đó. Tôi đã mất đi tất cả. Chỉ còn lại có vài tiếng trống…"…

Qua đi chừng vài năm, tôi đã học được nhiều điều mới thấy lời khen ông Trúc Hiền của tôi năm xưa là dốt nát. Đối với những tiếng trống nghệ sĩ đem lại cái đẹp cho cuộc đời, làm cho người ta trở nên trong sáng như buổi mới sinh ra của một lão nghệ nhân vào cỡ tài hoa bậc nhất Hà thành mà khen một câu như vậy là vụng về. Với ông Chu Văn Du, tôi chắp tay vái ông. Ông cho biết Ông học đàn đáy từ năm 13 tuổi. Đàn đáy là cây đàn thiêng, cần dài lm2, có dây gọi là ba dây tình tang đục. Ông thường theo cha vác đàn đi xin hát cửa đình, hát tế thần, hát giỗ tổ… Đến năm 16 tuổi, ông đã dám đến với các giáo phường Thú Khối, Bát Tràng dự thi đánh đàn đáy với những bậc cao thủ. Giới cầm ca Thăng Long hết sức ngạc nhiên, ông đã chiếm ngay ngôi vương cầm, đáng được ghi vào bảng "Phong thần" nếu ông là một kép già.

Một nhà hát ả đào nổi tiếng ở Khâm Thiên cứ người đi săn các danh cầm, đã 10 lần đến tận nhà ông để mời ông về đàn cho nhà hát. Thực tình, ông không muốn dừng gót phiêu lưu. Nhưng buổi ấy, ông đã gặp một con người phi phàm. Con người này, ở nhà hát đi ra tiếp ông. Đó là ả đào Đàm Mộng Hoàn. Một đào nương ca trù số một của Hà Nội mà lại hát được của những làn điệu tuồng, chèo, cải lương. Còn về ngâm thơ thì ông Du, nhà báo Phùng Bảo Thạch, nhà văn Vũ Trọng Can… bảo rằng chưa từng thấy ai ngâm thơ hay bằng Đàm Mộng Hoàn. Thế là, không chút do dự, ông ở lại nhà hát, đàn cho Đàm Mộng Hoàn hát và ngâm thơ. Ông đã mấy lần được mời cùng với các ông Ngô Thế Tuấn, Đinh Khắc Ban, Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm, Đàm Mộng Hoàn sang Hồng Ông đàn, hát ca trù và ngâm thơ để thu vào đĩa cho mấy hàng Pa thé, Asia, Colum-bia. Sau đó, riêng Đàm Mộng Hoàn và ông còn được liên tục trình bày nhiều bài hát, bài thơ để ghi vào những đĩa nhựa, bán trong cả nước và cho nước ngoài (Hồng Kông, Pháp, Thượng Hải). Trong làng cầm ca tính từ hơn 60 năm trở lại đây, chưa có giọng ca trù nào vượt được Đàm Mộng Hoàn. Chị đã làm "lên hương" được những điều chính trong ca trù như: Bắc phản, mướt, hát nói, gửi thư, ngâm vọng, nhịp ba, cung bắc, tỳ bà hành, đọc thơ, đọc phú, hát ru, hãm, kể chuyện, xầm nhà trò, 36 thứ giọng… cũng chưa hề có giọng ngâm thơ nào vượt được Hoàn. Hơn nữa, Đàm là nhan sắc của làng hoa khôi Khâm Thiên (người ta quen gọi như thế): Một sắc đẹp hơi lẳng lơ, gợi cảm… ông Du bảo: "Tiếng đàn của tôi chỉ thực sự là tiếng đàn khi tôi đánh cho riêng tôi nghe hoặc khi đệm cho Đàm Mộng Hoàn. Ngoài ra, là tiếng đàn để vụ sinh nhai…"

Ông Bùi Trọng Đang ngâm lên mấy câu sổng tả nỗi thất vọng của Lưu Bình khi vừa mới thi đỗ, về đến nhà thì không thấy bóng người đẹp: Nàng bỏ đi đâu? Lạnh ngắt phòng loan Trông lên bức gấm… nhớ tới tay ngà Cây kia ai xới… cho thắm giò hoa… Giọng ông ấm áp, âm vực rộng, lúc bổng lúc trầm, như phun châu nhả ngọc. Ông Ban phơi đàn đáy, đàn nguyệt, đánh trống chầu, hát chèo… Cả mấy môn đó, ông đều được xếp vào loại siêu việt. Nhà báo Phùng Bảo Thạch rất mê ông, biết ông từ cái dạo ông lên 13 tuổi, đeo cây đàn theo ông chú đi đến các đền làm cung văn. Một hôm, ông chú đang chầu văn thì lăn ra ốm. Không tìm được người thay thế, mọi người đành phải để chú bé 16 tuổivừa đàn, vừa hát. Kết quả, ông hát và đàn còn hay hơn cả ông chú. Hát rất nổi "màu". Mọi người rất đỗi mừng rỡ, gọi ông là cung văn “Kim Đồng, Ngọc Nữ" của Mẫu. Cho đến tận bây giờ, ông đã dạy trực tiếp và gián tiếp cho hàng ngàn học trò về đàn, trống, hát trong mấy chục năm. Trong số những học trò của ông, nhiều người đã trở thành những nghệ sĩ, những diễn viên tài ba. Họ có mặt trên khắp miền đất nước. Họ lấp lánh như những vì sao trên bầu trời ca nhạc truyền thống Việt nam. Ông sống trong nghèo nàn, thanh bạch cả cuộc đời. Những năm còn lại, ông sống thanh bần với tiếng đàn tiếng trống và với những người ái mộ ông. Ông sống có phần ẩn dật, ít nói, tình cảm, chẳng mấy khi cười.

Các bạn đề nghị bà Quánh Thị Hồ trình bày cho nghe thêm một đoạn “Dòng phách". Tiết tấu tiếng phách thật kì diệu Lối dòng phách của bà không giản đơn là cầm hai cái thanh tre, gõ lên một mảnh tre. Phải gõ làm sao cho một bên dẹt, một bên tròn. Một bên phát ra tiếng nặng, một bên tiếng nhẹ, một bên trong, một bên đục, một bên cao, một bên thấp, lúc khoan, lúc dồn. Hơn nữa, bà là ngươi vừa dòng phách vừa hát. Tiếng hát thanh tao là bà ngân lên, quyện với tiếng phách nao nao với tiếng đàn trầm ấm, ngọt ngào. Trong khi đó, những tiếng trống chầu hùng biện đệm vào. Chúng tán thưởng, khen ngợi và ra tuyên ngôn: "Kẻ này đã gặp tri kỷ. Kẻ này yêu tiếng hát và tiếng phách của đào nương lắm lắm"!

Đúng như trong quan họ bảo: "Ta yêu người lắm lắm người ơi!"… Chỉ có 3-4 người ngồi trên một chiếc chiếu hoa, cùng với mấy nhạc cụ: phách, trống, đàn… đã làm cho những người Phải nghe say mê: say thơ, say nhạc, say tiếng hát, say tình bạn, say đời… Nghệ thuật ca trù của ta có sức sống trường tồn. Không chỉ riêng Việt nam ta yêu thích mà nó còn làm cho nhiều nhà nghiên cứu "âm nhạc trên thế giới say mê đến nỗi đứng ngồi không yên.

VẼ MẶT TÀO THÁO

Nghệ thuật hoá trang là một phần không thể thiếu, được của điện ảnh và sân khấu. Cứ thử hình dung mà xem, 25 tập phim Tây Du Ký làm say mê hàng triệu khán giả màn ảnh nhỏ mà không có hoá trang thì Điện ảnh Việt nam cũng đã nhiều lần giới thiệu với các bạn những thành công của nghệ thuật hoá trang trong phim truyện. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu với các bạn cách vẽ mặt Tào Tháo, nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết trường thiên Tam Quốc Diễn Nghĩa của Trung Quốc. Nhân vật này cũng đã từng nhiều lần từ văn học bước lên sàn diễn sân khấu và điện ảnh… Kép hát tuồng nổi tiếng suốt vùng Bưởi và Hà Nội những năm 1935-1946 là Kép Thuyên. Ông là nghệ sĩ tuồng toàn diện, được các cụ trong nghề khen là "toàn thân giai nghệ ", nghĩa là nghệ thuật đầy mình. Các đoàn tuồng phải mời ông đến diễn mới mong bán được nhiều vé, nhất là vai Tào Tháo lại càng cần đến ông. Tôi vốn là người yêu thích tuồng từ thủa bé và thường được ở trong buồng trò những khi Kép Thuyên sắm vai. Tôi say mê các động tác diễn xuất, hát và nhạc. Nhưng tôi say mê hơn cả là nghệ thuật vẽ mặt các nhân vật tuồng. Cho đến bây giờ, sau nhiều nam được trang bị một số kiến thức về hội hoạ, tôi lại càng say mê nghệ thuật này, nhất là nghệ thuật vẽ mặt Tào Tháo của Kép Thuyên. Tôi cho rằng nửa thế kỷ nay, chỉ có hai người đóng thành công vai Tào Tháo là Kép Thuyên và nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Quang Tốn. Những người vẽ mặt Tào Tháo một cách nghệ thuật cũng chỉ có Kép Thuyên rồi đến ông Tốn. Cái khéo của việc vẽ mặt không chỉ là vẽ đẹp nét mặt về phương diện tạo hình mà phải vẽ sao cho lột tả được tính cách của nhân vật Tào Tháo. Người ta gọi là mặt trắng Tào Tháo. Thật là khó khi bộ mặt nhân vật tuồng không có nét đỏ, nét đen, không có dằn di, lốm đốm. Mặt Quan Công đỏ, mặt Bao Công đen, mặt Trương Phi rằn ri v.v… đều dễ vẽ. Mặt Tào Tháo rất khó vẽ, lại là cái màu trắng độc đáo. Nó không phải là cái trắng nhễ nhại của các cô gái trong phòng the, không phải là cái trắng kiểu bạch diện thư sinh; không phải là cái trắng tang tóc mà phải là màu trắng của bụng con cá. Thường thường, màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, cao đẹp, nhưng ngoài cái màu trắng ở bụng con cá lạ lùng này, không một màu sắc nào lột tả được cái thần của Tào Tháo. Trong văn học, Tào Tháo được miêu tả: hùng tài đại lược túc trí, đa mưu, văn võ kiêm toàn, vũ phi phàm, anh hùng đủ mặt, đa nghi, ghen ty, khẩu phật tâm tà, gian trá, hung ác, ích kỷ hại người, gian ngoan cùng cực v. v… Một nhân vật như vậy thì phải dùng màu gì để vẽ mặt cho thật khớp với cái chất của con người ông ta thật là khó. Bất kỳ màu sắc nào vẽ lên mặt ông ta đều mờ nhạt và vô duyên không tài nào lột tả được cái, "thần" của ông. Cái khoan dung hơn người cũng trùm lên cái lòng ghen ty vô kể, cái khí khái khác thường che đậy cái lòng riêng quá quắt. Cái mưu lược thiên tài đi liền với cái gian tà khôn xiết tả. Cái chí khí đại bàng lại chứa đựng chút nhỏ nhen, khôn ngoan giảo hoạt, thịnh tình và giả dối, khẳng khái và hèn mạt, hào hoa và cay độc… Tất cả những thứ trái ngược với nhau đều khó có ranh giới rõ rệt trong con người, Tào Tháo. Tất cả quyện lại rất hài hoà trong một thể thống nhất. Màu sắc của tính cách Tào Tháo phức tạp nhiều màu vẻ khôn lường. Do vậy, chỉ có bộ mặt trắng mới có thể bao quát được. Màu trắng là không màu mà cũng là tất cả mọi màu cộng lại. Ve mặt Tào Tháo vì thế phải dùng đến màu trắng của bụng con cá.

Cụ thể đó là nét độc đáo trong nghệ thuật hoá trang mà nhiều người chưa biết.

CA TRÙ DÒNG NHẠC DÂN CA HÀ NỘI

Nguyên lý của ca, nhạc cổ kim là nhằm khai thác những nhân tố tương phản về âm sắc, âm chất để đi tới sự hài hoà qua những phức điệu đan kết lại với nhau. Ca nhạc ca trù phù hợp với nguyên lý đó. Tiếng đàn đáy vừa cứng vừa mềm, đục, khàn (giọng khàn là giọng được giải phóng). Cây đàn đáy dài lm2, có ba dây chùng. âm thanh của nó phát ra là sự chắt lọc của đàn nguyệt, đàn tứ, đàn thập lục, đàn tỳ bà hợp lại. Một mình chiếc đàn đáy thay thế được cho nhiều nhạc cụ. Thùng đàn không có mặt hậu. Tiếng phách khô giòn, tung tăng, ấm, nặng tình. Tiếng hát của đào nương dẻo, mềm, mượt… Tiếng trống chầu thảng thốt, bâng khuâng, xa vời… Tất cả quyện lại với nhau tạo nên cái thao thức ngàn năm mà người Trung Quốc gọi là "Thiên cổ chi mê"? Giản đơn hơn gọi là sự hấp dẫn lớn.

- Ba loại nhạc cụ: Phách, đàn đáy và trống chầu là những nhạc cụ 100% Việt nam. Năm 1980, chuyên gia văn hoá của tổ chức A.C.C.T là ông Zakpa đã phát biểu sau khi dự một buổi ca trù Văn Miếu: “Buổi biểu diễn ca trù đã cho tôi hưởng một loạt những: nước mắt, tình cảm, dữ dội, tình yêu, sự vuốt ve âu yếm và tâm linh… Ca trù có đủ các thể loại: trữ tình, lãng mạn, sử thi anh hùng ca, giáo huấn… Các bài hát ca trù giàu chất thơ, ca. Chúng thoáng có nét thơ Đường, tranh thuỷ lạc, lại thấm chất dân gian, nhiều nhạc tính và kịch tính. Ca trù có chút buồn. Nhưng chất buồn này không phải là cái buồn bình thường mà là cái buồn to lớn: trầm ngâm, sâu lắng, suy nghĩ, cảm xúc nó làm cho những công việc bề bộn của trái tim được hài hoà. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã bỏ ra nhiều năm tháng để nghiên cứu và học ca trù. Năm 1940, ông viết trên báo Ngày Nay. "Đứng về phương diện hoà âm mà xét, lối hát ả đào là không thể chỉ trích vào đâu được. Ta chỉ nên lắng tai mà nghe sự hợp nhất, đối chiếu, thăng bằng hoàn toàn của mấy loại nhạc khí góp vào với lời ca. Năm 1944, ông lại viết trên báo Thanh Nghị: Chúng ta có thể tự hào rằng, không một tiếng hát nào trên thế giới có thể đẹp như tiếng hát của đào nương ca trù! ông lại thêm: "Đào nương là con chim hoạ mi của thơ ca Việt nam"

Suốt cả chặng đường gần 1000 năm trở lại đây, người Hà Nội không bao giờ sao lãng nghệ thuật ca trù kể từ khi dòng nhạc này còn là hát ở cửa đình, hát ở thành thị rồi vào kinh đô. Và rồi nó lại từ kinh đô mà trở về với thành thị, với các xóm làng. Nó không ngừng được cải tiến, hoàn thiện cả về hình thức lẫn nội dung để trở nên lối hát ca trù ngày nay. Nó được lan toả đi mọi nơi và cũng đi nhiều nước trên thế giới. Ở đây, thanh và sắc của nó cũng được nâng niu, kính nể. Từ những năm 1980 - 1940, ở Hà Nội luôn tổ chức những cuộc thi hát ca trù và đánh đàn đáy với sự tham gia của nhiều đào kép quái kiệt, hạng nhất ở Hà Nội và từ các tỉnh Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Sơn Tây, Thanh Hoá, Hà Tĩnh v.v… Các cuộc thi được tổ chức long trọng tại đền giáo, phường Lỗ Khê, Đền Hàng Quạt, đền Phố Huế, đền Ngọc Hà, Hàng Giấy, Thủ Khối, Gia Lâm, Bát Tràng… Người đoạt giải nhất được phong làm thủ khoa. Người đoạt giải nhì được gọi là á khôi. Phải là người được giải trong các cuộc thi này ở Hà Nội mới là tuyệt mỹ, là đáng mặt. Họ bảo nhau: “Phi Hà thành bất xứng cầm ca".

Có một lần, cụ thân sinh ra bà Quách Thị Hồ là người Kinh Bắc, có tài ca nhất Kinh Bắc, lại có nhan sắc lộng lẫy, đã chắc mẩm được thủ khoa. Nhưng không may, bà chỉ được á khôi, bà ăn năn mãi và quyết tâm rèn luyện cho con gái cố đoạt danh hiệu thủ khoa thay bà. Đó là cả một sự ân hận truyền kiếp. Từ những năm 1930, thành phần nhóm trình diễn ca trù luôn được các nhà nho, nhà thơ, học giả cùng với các tài năng dân gian hoàn thiện để nhóm được rút thật gọn nhẹ đến nỗi không phải thêm một thành viên nào mà cũng không thể rút đi được một thành viên nào. Những năm 1930 - 1935, các danh ca Đàm Mộng Hoàn, Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm và các danh cầm Đinh Khắc Ban, Ngô Thế Tuất, Phí Văn Thọ… thường đến Hồng Ông để ghi những đĩa hát về ca trù. Danh cầm Phí Văn Thọ là thầy dạy của Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Tính đến năm 1942, ở Hà Nội có nhiều xóm ca trù nổi tiếng, như các xóm Hàng Giấy, Hai mươi bốn quan, Vạn Thái, Khâm Thiên, Thái Hà ấp, Ngã Tư Sở, Phùng, v.v… Xa một chút có các xóm Gia Lâm, Thủ Khối, Bát Tràng, Bắc Ninh, Quốc Oai, Từ Liêm…

Năm 1977, ở Hà Nội có nhóm câu lạc bộ ca trù ở đền Bích Câu Chủ tịch câu lại bộ là người Lỗ Khê. Nhiều khách nước ngoài cũng đến tham gia câu lạc bộ. Năm 1979, tại Liên hoan nghệ thuật các dân tộc Á Phi tổ chức tại Ran, bà Quách Thị Hồ đã được bằng danh dự với bài ca trù: "Xuân rồng chắp cánh rồng bay" Lời bài hát của Chu Hà.

Năm 1983, tại Mông Cổ, trong cuộc thi nghệ thuật của 29 nước, bà Quách Thị Hồ lại đoạt bằng danh dự và đặc biệt về “bài ca trù "Tỳ Bà Hành, " Một thành viên trong ban giám khảo quốc tế đã bình: "Tiếng phách của bà Hồ là một tiến hành khúc của tâm hồn". Nhạc sĩ Trần Văn Khê rất say mê ca trù, ông đi khắp thế giới. Đến đâu, ông cũng giới thiệu ca trù. Hồi tôi gặp ông ở Paris, ông nhờ tôi nhắn lại với các bạn trẻ: "Giờ đây, chúng ta không được nghi ngờ về giá trị cao siêu của ca trù"…

Ở làng Lỗ Khê, còn có đền giáo, phường ca trù. Nơi đây thờ tổ sư ca công và tổ giáo phường. Trong đền còn giữ lại được các bản ghi chép về sự tích các vị thần do Nguyễn Bính là tiến sĩ đời Lê Hồng Phúc soạn. Trong đền còn bức hoành phi, bức cửa võng chạm trổ tinh vi, có khám thờ hai pho tượng gỗ sơn son thếp vàng ngồi uy nghi. Đó là tượng ông Đinh Dự và bà Đường Hoa là tổ sư nghề đàn, phách, ca, múa và lập giáo phường. Nay ở Lỗ Khê còn hơn một chục "họ" ca trù. Các ca nương và các danh cầm của Lỗ Khê vẫn đi khắp nơi trình diễn. Cũng như xưa, họ đều có mặt trong các cung đình vua chúa. Nơi đây còn nhiều gia đình giữ được nhiều bộ phách và nhiều cây đàn đáy gia truyền. Họ thường tổ chức hát ca trù trong ngày lễ tổ sư, trong các dịp lễ, Tết của hai mùa xuân thu. Khách ở các nơi đến thăm họ trong những ngày này rất đông như thể người ta rủ nhau về thăm làng quan họ vậy. Ở Từ Liêm cũng còn đền thờ tổ ca trù. Ở phố Hàng Trống có đền thờ một đào nương từ đời Lê. Nàng tên là Huệ. Ở ngay gần chợ Hôm cũng còn đền thờ tổ sư giáo phường ca trù. Chúng ta đều biết, dòng nhạc ca trù của Hà Nội đã có rất nhiều đệ tử. Trong đó có những vị lừng lẫy như: Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Tản Đà, Hoàng Tích Chu, Xuân Thuỷ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xuân Khoát, Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Khắc Viện, Ngô Linh Ngọc, Hồ Tùng Mậu, Trần Huy Liệu, Trần Huyền Trân, Hồ Duyếch, Lê Hồng Phong, Tôn Quang Phiệt, Trần Văn Khê, Văn Cao, Nguyễn Tuân v.v… và v.v… Họ là những nhà nho, nhà trí thức, nhà văn hoá. Họ yêu mến ca trù và sáng tác ra những bài hát cho đào nương.

Mấy thập kỷ nay, đã có một số nhạc sĩ vớt được một chút hương hoa ca trù và kết nạp họ vào làng ca trù. Họ là: Nguyễn Cường, phó Đức Phương, Văn Thành Nho, Huy Thục, Đoàn Bổng, Nguyễn Ngọc Ninh. v.v… Người xưa đã cho họ ăn “lộc”. Ca trù là dòng nhạc truyền thống, dân gian được nâng lên mức bác học của Hà Nội. Nó cũng như dân ca quan họ của Kinh Bắc, ví dặm của Nghệ Tĩnh, ca Huế của Huế, ca tài tử của Nam Bộ v.v…

Ca trù là của Hà Nội.

GIỌNG HÁT XẨM BÂNG KHUÂNG

Xẩm là loại hình hát nói dân gian ở Việt nam do những người mù tài năng, có nhiều tâm tư, mang tiếng đàn, giọng hát góp vào với cuộc đời. Đó cũng là cách kiếm ăn duy nhất của họ. Người hát xẩm thường vừa hát vừa đàn (đàn bầu ống bơ). Cũng có khi anh ta kéo nhị, kéo hồ hoặc sử dụng nhiều loại nhạc cụ. Bạn hoặc vợ xẩm đánh trống một mặt và đánh cặp kè. Các bài hát xẩm thường mang tính chất tự sự, kể về những nội dung phản ánh hiện thực xã hội. Có bài lên án những hiện tượng không hay. Có bài lên án, phê phán, than vãn, khuyên răn… Theo lời văn, giai điệu được biến hoá trên những âm hình, tiết tấu chủ đạo từng đoạn hoặc kéo dài, sâu lắng, lúc sôi nổi, rộn ràng, lúc buồn thảm. Thỉnh thoảng lại có những đoạn “Lưu không”: Xẩm không hát mà chăm chú, say sưa biểu diễn nhạc cụ. Anh dồn cả tâm lực, trổ hết tài hoa rồi tạo đà để hát đoạn sau. Đến những đoạn trữ tình, huê tình, bi hùng… anh xẩm rượn mình, ngẩng cao đầu. Đôi mắt không nhìn thấy gì cứ hướng vào xa lắng mênh mông. Tay gấy đàn hoặc kéo nhị nhấn nhá, vuốt ve và ca lên nồng nàn, sôi nổi, đầy kịch tính. Những lúc này là những giờ phút xuất thần của xẩm, gây được một sự vương vấn lâu dài trong lòng người nghe.

Do vậy, những người thưởng thức thi nhau vứt tiền vào chiếc chậu thau bẹp để thưởng cho xẩm. Các làn điệu của xẩm thường toát lên tính cách tiêu biểu của tâm hồn Việt nam: Quý trọng nghĩa tình, chung thuỷ, yêu lẽ phải và đạo đức, lạc quan, tintưởng vào tương lai. Mặc dù, xẩm luôn luôn ở vào một cuộc sống đầy vất vả, gieo neo. Những bài hát của xẩm dễ hiểu, dễ thuộc, thuộc rồi càng muốn nghe. Cái hay của xẩm là "đàn ngọt, hát chín", lột được tình cảm, có kèm cử chỉ, dáng điệu sống động, giàu chất biểu diễn. Có những đêm khuya thanh vắng, xẩm ca, kể chuyện chồng con đã làm cho nhiều người chảy nước mắt. Để nhớ đến chiến công của các chiến sĩ trong Trung đoàn Thủ đô ngày nào đã vượt sông, anh dũng chiến đấu để rồi trở về giải phóng Thủ đô, anh xẩm thay mặt một người dân, hét lên khúc tráng ca:

Khăn gói trên vai, kẻ giang hồ chậm bước

Nghe hát bài: "Anh khoá bâng khuâng"

Hồn nước mang theo gót vạn trùng

Người đi, không mấy người trở lại…

Non nước ta, ngày nay tưng bừng vĩ đại.

Ơn người một buổi… đã qua sông…

Bài xẩm "Thập ân" là một làn điệu trong những làn điệu chính của xẩm. Nó ngang thưng với những làn điệu đặc trưng của xẩm như: xẩm chợ, xẩm xoan, chênh bong, riềm huê, phần huê, hát ai… Nó mang một sắc thái riêng. Nó dân dã, được quần chúng nhân dân bao giờ cũng tán thưởng một cách say sưa, xúc động. Bao giờ nó cũng cộng hưởng với tâm tư, tình cảm của con người ở nhiều cung bậc. Nó nói về tình mẹ con muôn đời. Người ta đón nghe “Thập ân” rồi mở rộng chân trời suy ngẫm. Nó buồn rầu, thực cảm, hùng hồn, khêu gợi, hao hao cái chất "oán thập điều” trong chèo. Nó lại có họ hàng với nhạc và Phật, kể lại công lao của cha mẹ. Nhưng nhất là mẹ đối với đứa con từ lúc đứa con ra đời cho đến khi được nuôi dạy lớn khôn. Đứa con là trái tim, là linh hồn, mà cũng là giấc mơ của mẹ. Bài hát cũng nhắc nhở một cách khéo léo đến nhiệm vụ làm con đối với công lao trời biển của mẹ. Lại còn có ý nghĩa nữa gài vào là đối với người con xứng đáng thì mẹ đẻ cũng là quê hương, là đất nước. Có thể lầm lạc đối với cha mẹ sẽ dẫn đến lâm lạc với quê hương.

Con người hãy coi chừng! Mẹ đẻ và mẹ Tổ quốc bao giờ cũng thương yêu và rộng lượng với những đứa con. Chính vì những ý này gắn bó với nhiều ẩn ý sâu xa làm cho bài hát xẩm "Thập ân" đã có từ rất lâu đời mà vẫn còn tươi mãi đẹp đẽ và ấm áp đến tận bây giờ và mai sau. Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, xẩm tài năng dùng thủ thuật hát và nhạc lúc tươi màu, oán màu, lúc lại thắm màu… Số lời hát của xẩm thường theo lời sáu, tám, có sân si đôi chút. Xẩm hay đưa bốn chữ của câu sau lên đầu để nhấn mạnh và phát triển:

Mẹ mới có thai

Kể từ mẹ mới có thai

âm dương, trai gái, trúc mai đều… (là) tình.

Những nhóm xẩm phiêu lưu, xê dịch hết nơi này đến nơi khác. Họ sống rất kham khổ mà yêu đời, mang tiếng đàn, câu hát đi lang thang nhân thế, nhận tiền thưởng và sự cưu mang của người đời. Xẩm thường hoạt động ở những nơi có đông người tụ họp, bên cạnh một cái quán hàng, mái chợ, bến tàu, bến xe, bến đò, ven sông hoặc những nơi có hội hè, đình đám… có khi, vài nhóm xẩm họp lại với nhau. Trường hợp này xẩm có thêm nghệ sĩ, thêm nhạc cụ: tiêu, sáo, thanh la, hồ v.v… có khi thêm cả đàn thập lục. Họ diễn tả hẳn cả một tích chuyện lớn và tập trung vào nhiều đoạn lâm ly, làm xúc động lòng người. Có khi họ hát thâu đêm suốt sáng. Hát xẩm là một loại hình nghệ thuật dân gian, phản ánh được hơi thở của cộng đồng lao động, những biến cố lịch sử bi hùng, tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Nó góp phần đưa thêm vào nền văn hoá dân gian Việt nam một chút hương sắc của hoa ngâu, hoa mộc.

CHUYỆN VỀ NHẠC HIẾU XƯA

Xưa kia (và cả bây giờ), những đám tang thường mời phường hiếu đến giúp đỡ. Phường hiếu còn gọi là phường kèn hát, phường bát âm. Mọi người rất coi trọng điều này, bảo: "Sống dầu đèn, chết kèn trống". Nhà nghèo thì mời phường nhỏ, chỉ có kèn, nhị và trống cơm. Phường bát âm gồm đủ tám nhạc cụ: hồ, nhị, hồ gáo, sáo, đàn tứ, trống cơm, tiu cảnh, kèn; kèn lại có kèn đại, kèn pha. Mỗi nhạc công điều khiển một nhạc cụ. Có người điều khiển 2, 3 nhạc cụ. Người chỉ huy tối cao là ông trùm phường, ông trùm phường đảm nhiệm kèn. Vì kèn giữ vị trí "soái âm". Nhạc hiếu truyền thống của ta có 10 làn điệu chính là: Lâm khốc, Nam Ai, Nam Xuân, Nam Thương, Ngũ Đối, Lưu Thuỷ, Con nhạn lạc đàn, Điếu Quân, Xuân Nữ, Mã đáo vô nhân. Nhưng mỗi làn điệu lại có nhiều biến tấu và những đoạn đệm, đoạn chuyển màu của nó. Do vậy mà trở nên có rất nhiều làn điệu vô cùng phong phú, mang sắc thái truyền thống sâu sắc và có giá trị cao. Chính những nét nhạc Xuân Nữ đã gợi ý để chúng ta có được những “Lỡ bước sang ngang” của nhà thơ Nguyễn Bính, những " Cô gái Việt nam" của Hồ Dzếch.

Những năm 1975 - 1980, người viết những dòng này đã đưa những nhà nghiên cứu âm nhạc của Hunggari, Bulgarie, Nga, Pháp đến thăm một vài phường ở Bưởi, Sài Sơn Hà Bắc. Họ đều đánh giá rất cao nhạc hiếu Việt nam. Họ rất cảm động khi được tiếp xúc với những ông trùm phường như ông Kha, ông Sinh, ông Côn. Họ đã vái các ông. Làn điệu Lâm Khốc còn gọi là Lâm Khốc, Lấm là từ cổ, có nghĩa là cũng khóc. Điệu Nam Ai buồn, bi thống. Nam Xuân đỡ buồn hơn. Ngũ Đối và Lưu Thuỷ nhẹ nhàng, lăn tăn, vồ vập. Con nhạn lạc đàn miêu tả sự cô đơn, tan tác. Điệu Quân tả cái chết bi hùng của một tướng quân chết trận. Xuân Nữ buồn cho tuổi xuân của một thiếu nữ. Nó nhắc đến những giấc mộng ban đầu rất xa. làn điệu này rất hay và rất đẹp. Mã đáo vô nhân mô tả sự bi thương, hùng tráng khi con ngựa chiến trở về mà trên mình nó không có người… Xưa kia, ở nhiều nơi có những phường hiếu do một số người tập hợp lại.

Họ mời thầy về, luyện tập với nhau trong những lúc nhàn rỗi. Mỗi phường thường có một, hai chàng trẻ học nghề. Họ phải hầu hạ rượu, thuốc, nước cho những người được gọi là quan viên của phường. Nhạc cụ do phường tự mua sắm. Nhà có đám đến mời phường. Một nhóm người đi theo nhà đám, gọi là đi nhận đám. Người chết nằm xuống được liệm đặt vào áo quan. Cả gia đình, các con, cháu, họ hàng túc trực sẵn quanh áo quan. Lúc này, phường kèn cử lên đoạn Lâm Khốc với sự hoà tấu náo nhiệt của tất cả các nhạc cụ. Nhưng tiếng kèn vẫn là chủ đạo. Chính vào lúc này, nhà đám tiến hành phát tang… Tiếp theo, phường kèn tấu những điệu Nam Ai, Nam Xuân, Lưu Thuỷ, Ngũ Đối v.v…

Phường kèn ngồi tập trung vào một hai chiếc chiếu bên cạnh bàn thờ. Phía trong bàn thờ là áo quan người chết. Khi có đoàn nào hoặc người nào đến phúng viếng, ban nhạc gõ mấy tiếng trống báo tin khách đến rồi cả ban nhạc cứ những làn điệu: Con nhạn lạc đàn, Điếu quân, Mã đáo vô nhân hoặc Xuân Nữ sao cho phù hợp phần nào với thân phận và sự nghiệp lớn hay nhỏ của người chết. Trên đường đưa linh cữu người chết ra mộ, đám ma phải qua cái cổng làng. Lúc này linh cữu phải khiêng hạ xuống thấp, và ban nhạc cử bài "con nhạn lạc đàn" để người chết có lời cáo biệt. Ra đến mặt trước cổng làng, linh cữu phải quay lại 180 độ để mặt người chết được nhìn cái cổng làng lần cuối. Lúc này, ban nhạc rúc lên bài Điếu Quân hoặc Mã đáo vô nhân. Tiếng kèn nổi lên rất hùng tráng, bi thương mà cũng tiêudao, sương khói.

Sau đó, trên đường ra đồng, ban nhạc cử những nét nhạc bồng bềnh, thanh thản không buồn lắm mà tung tăng, hao hao cái vị "Đường trường tiễn đưa” của chèo… Lúc hạ huyệt, phường kèn biểu diễn hầu hết cả mấy làn điệu chính có biến tấu và xen kẽ vào nhau. Lúc thật buồn, lúc lại nhẹ nhàng như gió thoảng, mây bay với những Kim Tiền, Lưu Thuỷ… Đến chiều tối, nhà đám cúng vong, khách đến phúng viếng đã vãn, phương kèn dạo đi, dạo lại một số làn điệu để chuẩn bị cáo từ nhà đám. Nhưng, lúc này lại là lúc sôi nổi. Một số người thân thích của người chết mượn một người trong phường có giọng hay, khóc hộ mình. Những tiếng khóc đó được cả phương đệm nhạc, nghe thật thấm thía, não ruột. Nhưng lại là tiếng lòng. Cô em gái người chết làm ăn ở nơi xa, lận đận về chịu tang người anh. Cô ta nhờ bác trong phường khóc hộ mình, bác Giáp của phường kể lể trong tiếng nhạc: "Em có ngờ đâu, em định bụng về thăm làng… lại được tin nhắn… anh lạc đường mệnh chung… tưởng đâu nhớ họ hàng… Lại thành ra chuyện… em về chịu tang…". Tiếng nhị ngẩn ngơ vuốt theo: "Cò cò… cư… cư ư"

Người nhờ khóc hộ biếu phường một số tiền nhỏ, đặt vào chiếc đĩa giữa chiếu. Việc làm này gọi là "thưởng". Rồi cứ thế, tiếp tục với những đoạn khóc hộ như: Cha ơi! các anh các chị vuông tròn Đời con rách nát, mỏi mòn cha không hay Hoặc: Bây giờ hồn thác không còn Thì thím trông cậy vào ai bây giờ…? Lại như: Cây rầu rầu, cỏ rầu rầu Chú đi đê nhớ, để sầu cho ai? Hoặc: Ai làm cho phấn xa hương Cho duyên lìa phấn, cho tôi mất chồng v.v… Trời đã về khuya, phường kèn rúc lên hồi kèn "Tế vong" rồi xin ra về. Nhà đám đưa chân phường ra ngoài ngõ, biếu phường một số tiền lót tay, nói lời cảm ơn, biếu phường 1 chân giò, một đĩa xôi và một nải chuối. Tất cả những thứ này được cậu bé đi theo học nghề cho vào tay nải.

Đến đây, tôi phải kể về một ông trùm phường kèn. Tên ông là Kha, là con người phiêu bạt, đi theo phường kèn của cha từ năm còn 8 tuổi. Đến năm 20 tuổi, ông đã là một cây kèn nổi tiếng. Ông có mặt trong hầu hết các đám tang của cả vùng Bưởi, vùng Từ Liêm. Ông là người rất hiểu đời, thông cảm với những cảnh đời khác nhau và rất lịch lãm. Sau đó ít lâu, người các tỉnh khác phải mời ông về, dạy cho một vài miếng độc về nhạc hiếu. Gọi là những "miếng" để đời. Tiếng kèn của ông đã trở nên vô địch. Đám nào mời được ông đến là một điều vinh hạnh. Lúc này, người ta gọi ông là ông chân Kha. Tại sao vậy? Tại ông có 9 vợ, ông đi đến đâu cũng có người xin tình nguyện làm vợ ông. Ông mỉm cười: "Thì… duyên phận phải chiều ông đến thổi kèn ở làng nào thì ở lại với bà vợ ở làng đó vài ngày. Sau đó, lại phiêu lưu đến làng khác. Cứ thế… đến lúc ông chừng 60 tuổi, ông thường sai các học trò của ông đi nhận đám. Còn ông, ông ở nhà để dạy những người đến xin học kèn ở mức độ cao. Những năm 1957 - 1960, tôi được biết một số nhạc công trong mấy đoàn nghệ thuật và ca nhạc Trung ương cũng như địa phương đến học ông. Đến năm 1994, ông đã 80 tuổi. Nhưng ông còn tỉnh táo và nhanh nhẹn. Hồi đó, bà dì tôi mất. Bà là người đàn bà khổ, tận tình giúp đỡ tất cả mọi người trong họ và coi đó là hạnh phúc của mình. Bà không có chồng.

Tôi có đặc ân mời được chính ông dẫn phường đến “thổi”cho đám ma của dì tôi. Suốt hai đêm liền, phường bát âm có tiếng kèn của ông chín Kha đã làm cho cả khu xóm Ao Ngang của chúng tôi không một ai ngủ cả. Họ thích nghe tiếng kèn của ông chín Kha… Giờ đây, ông đã là người thiên cổ. Ông để lại cho cuộc đời 11 người con và cháu là những nhạc công tài hoa và nổi tiếng. Còn học trò của ông thì đếm không xuể. Thiết nghĩ, nhạc hiếu của ta cũng là một mảng quan trọng trong kho tàng âm nhạc Việt nam. Chúng tôi đã từng nghe và để ý đến những nhạc đám, những musique, funébre, những funerailles của phương Tây và nhạc hiếu của Trung Quốc. Thiết nghĩ, giới âm nhạc của nước ta cần phải chú ý hơn nữa đến mảng nhạc hiếu. Nó cũng rất xứng đáng nếu không muốn nói nó có thể làm lung lay giới âm nhạc quốc tế…

CHẦU Ả ĐÀO CUỐI NĂM

Đó là chuyện của Hà Nội những năm trước kia. Sau ngày tiễn ông Táo lên chầu giời, nhiều nhà hát ở phố Khâm Thiên rộn ràng, nhộn nhịp hẳn lên. Các nhà hát được gọi theo tiếng lóng là: Nhà sang, nhà phố, nhà phường. Loại "Nhà sang" là mấy nhà hát sang trọng nhất, khách là những người có "phương diện", các quan chức sắc, quan tham, quan phán, nhà báo, kẻ sỹ, kẻ giang hồ cao cấp hoặc lữ thứ, khách có chữ nghĩa nhiều. Khách của "nhà phố" là khách hang trung lưu. Còn "nhà phường" là nhà hát bình dân gọi là khách tứ xứ, thập thành. Ở những nhà hát loại sang, các nàng ai nấy đều ăn diện sang hơn hẳn mọi ngày. Những kiểu quần áo mới được đưa ra. Trang điểm cũng rất kỹ. Có cả những cô em thuộc lớp "ca-valie" đăng xinh (gái nhảy đầm) về giúp thêm việc trang điểm. Các nàng đón các ông anh, các bạn ra vào rầm rập suốt ngày để hát một chầu tất niên. Bằng nhiều hình thức khác nhau. Các vị khách đã tặng cho các cô em mà mình "say" hoặc có cảm tình những tăng vật đắt tiền hoặc một số tiền đủ để các em “chu toàn" cho cả mùa xuân. Ở góc này, người ta hát: Ai cầu phong, mà gió tự đâu sang Hay mải khách văn chương tìm kết bạn… Tom tom tom - chát… Ở một góc khác, một khách một nàng ngồi bên nhau trên ghế ngựa.

Chàng là thi sĩ, nắm lấy tay nàng, nhìn nàng đắm đuối và ngâm lên: Ôi mắt xa xôi, mắt ly kỳ Ta trông thấy cả trời ta mơ ước Thấy bóng cả vầng đông thuở trước Cả con đường sao sáng lúc ta đi Cả đường mây bao phủ lối ta về… Người ta hát ở trên gác mấy câu trong bài "Tống biệt" sao mà buồn thế: Lá đào rắc lối Thiên Thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh Một phút trân ai Đá mòn rêu nhạt Cửa động Đầu non Đường lôi cũ… Ngàn năm ngơ ngân bóng trăng chơi! Cô gái ngồi với chàng thi sĩ là một người đẹp đã lên bìa của mấy số báo Tết ở Hà Nội. Có tiếng người khóc với nhau. Mọi người kháo nhau về việc ông tham Trác đưa cho nhà hát một số tiền lớn để chuộc đào Uyển về làm vợ. Nghe đâu ông ta đã tậu hẳn một ngôi nhà cho cô. Vài cô đào chuẩn bị về quê, khách yêu các cô theo kiểu yêu lắm, yêu vừa hoặc yêu lang thang của họ cũng nhắn điều chào gửi tới những người thân ở làng quê và gửi cho họ chút quà. Bữa hát tất niên gồm tất cả chừng 6, 7 vị khách thân quen hay lui tới nhà hát nhất gọi là khách Mạnh Thường Quân và tất cả các cô em cùng dự chung.Trước hết, bằng một bữa ăn thật sang mà các cô đều trổ hết tài ba ra để tổ chức bữa tiệc, cô Tuyên chuyên môn làm món yến, cô Lan món long tu, cô Đào món vây cá. Đó là những món chính. Còn vài món phụ do các cô em khác phụ trách. Nghệ thuật làm các món ăn của họ thật tuyệt vời, kiểu cách, cầu kỳ, đúng vị. Họ nấu ngon vào bậc nhất Hà Nội, chẳng kém đầu bếp của những nhà hàng nổi tiếng như Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh. Những món ăn thật ngon miệng và bày biện thật ngon mắt được bày đầy bàn.

Tuy vậy, mọi người đều chỉ nếm tí chút, nghĩa là ăn chơi bời. Họ chú ý nhiều đến việc tâm sự với nhau, nhìn nhau và hay nhau. Các món tráng miệng cũng đặc biệt. Họ bổ cam tách múi cũng nghệ thuật. Cách mời ăn cũng lịch sự, trân trọng, yêu quí và thân tình Một vài ông bạn tôi cho rằng các tiếp viên và các đầu bếp nữ ở các khách sạn ngày nay còn thua xa chị em Khâm Thiên ngày xưa. Sau bữa tiệc, ăn tráng miệng, rồi uống trà ướp hương nhài xong vào chầu hát tất niên… Chầu hát này rất đặc biệt, hai ba cô em vào loại có thể làm cho ai khó tính nhất cũng phải "nhào" và người đứng đắn nhất cũng phải lạc đường, cỡ như Đàm Mộng Hoàn trước đây và cụ Quách Thị Hồ bây giờ, thay nhau lên hát vài khổ tâm đắc nhất. Kép đàn phải đủ ngón, vừa bay bổng, vừa hào hoa. Người cầm chầu là người được phong là "Tư mã" mới được mời ra cầm roi chầu tất niên. Đến ngày mồng một Tết, nhà hát có cắm cành đào do chính một cô em có con mắt tinh đời lên tận Nhật Tân mua về. Chủ nhà và các cô em ăn mặc lộng lẫy, ra tận cửa đón vị khách quý đến “xông nhà" lấy may. Khi đến xông nhà, khách mang theo vài anh em, chủ nhà và các em mời khách ngồi uống trà thiết quan âm. Họ chúc nhau những lời tốt đẹp. Cô em đặt lên trên bàn một chiếc sáp sơn son thếp vàng có những ô nhỏ đựng các loại mứt ngũ vị. Khách đứng dậy đặt lên giữa chiếc tráp một phong bì hồng điều đựng số tiền hào phóng chừng cả tháng lương của một công chức loại trung bình. Khách còn phong bao cho các cô em mỗi người một số tiền có thể duy trì sinh hoạt trong tháng. Những người giúp việc, phu xe, bà bếp cũng được khách mở hàng.

Khi khách đến xông nhà ra về là lúc nhà hát mở cửa đón các quan khách vào xuân.

Khi đó tiếng pháo mới nổ.

NGHỆ THUẬT HÁT Ả ĐÀO

Chừng những năm 1940 - 1941, ở Khâm Thiên có nhiều nhà hát ả đào. Có hạng sang, thật sang, hạng giữa và bình dân… Lúc này, ở các nơi khác như Vặn Thái, Hai mươi bốn gian hoặc Ngã Tư Sở cũng có đủ mấy hạng như vậy, nhưng thưa thớt hơn nhiều mà cũng không có hạng thật sang dành cho các quan lớn từ tri phủ trở lên, các quan chức cao cấp vào làng Tây hoặc những tay giàu có thích chơi ngông. Loại sang thường dành cho những quan nhỏm các ông tham, ông phán, một số văn nghệ sĩ có gia đình buôn bán hoặc được nhờ cậy vào cha mẹ, anh em… Loại sang ở Khâm Thiên phải kể đến nhà hát của bà đốc Sao và của danh ca Đàm Mộng Hoàn. (Nữ ca sĩ này được các hãng thu đĩa hát Pathé, Asia, Columbia tranh nhau mời thu đĩa hát nên rất nổi tiếng về ngâm thơ, ca trù… Những đĩa hát của cô đã được phát hành khắp Việt nam, tại Hồng Kông và tại Pháp). Loại bình dân gồm đủ mọi thành phần khách thông tục hơn, nhưng cũng đậm nét cuộc đời hơn… Các nhà hát thường theo yêu cầu của khách mà tổ chức những chầu hát và chầu rượu. Có khi chầu hát kéo theo chầu rượu hoặc ngược lại.

Nhà hát thường có hai tầng. Tầng dưới dành cho hạng khách trung và bình dân. Tầng trên dành cho khách sang, được bố trí như ở những gia đình quan sang, quyền quý. Thường có một hai bức bình phong ngăn cách từng khoảnh. Ở chính giữa là một giá lộ bộ sáng quắc. Sập gụ, tủ chè đều khảm những chữ: phú, quý, thọ, khang ninh; những hình tượng con dơi và đồng tiền. Một bàn thờ có chiếc đỉnh đồng lớn, một lọ độc bình cổ và một bát hương lúc nào cũng có khói bay lên làm mây gió để giữ cái màu dĩ vãng, toả mùi thơm ngào ngạt và làm nên một bầu không khí mơ màng sương phủ. Trên tường cũng treo một vài bức tranh cổ và một bút thơ pháp với những nét chữ bay bổng để gây cảm hứng mạnh với những ai có chút lưu luyến đến chữ nghĩa và nghệ thuật.

Hôm ấy, nhà hát nhận được phong thư báo sẽ có 4 vị khách quý đến mở chầu rượu vui vào lúc 8 giờ tối… Khách đến trước giờ chừng 15 phút. Cậu Phán Ngôn ăn mặc sang trọng nhất. Cô Xuyến ra đỡ mũ, áo ngoài cho khách và vắt lên mắc áo. Các vị khách ngồi xuống mấy chiếc ghế gụ có mặt đá. Gian phòng vang lên: Tom tom tom, chát… Tưng tưng, tưng… Tiếng phách chảy tung tăng như nước suối. Cô Huệ hát lên: Ai cầu Phong, mà gió tự đâu sang! Hay mải khách văn chương… tìm kết bạn Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán Cánh chim bằng, chín vạn những chờ mong Nên chăng gió cũng chiều lòng… Chỉ là vài câu thôi, nhưng ca nhi, thầy đàn và người đánh trống chầu đều là những tay cự phách nên hay lắm. Nó ngân nga, trầm bổng, da diết. Nó mang theo chất thơ Đường, những đám mây lang thang xa xôi, ảo ảnh… Cậu Ngôn làm duyên với ông Bàn một bao thuốc Craven A. Ông đã khước từ canh hát ở nhà đầu phố để đến đánh đàn cho người tri kỷ. Đào Huệ được biếu chiếc khăn san Bombay. Mấy cô đào khác được mỗi người một tá khăn mặt mùi soa. Các cô còn có thể được nhận một chút tiền biếu. Nhưng nhận vào lúc không ai biết đến. Mọi người vào cuộc rượu đầy hân hoan, phấn khởi. Ông tham Trác ngâm mấy câu thơ say của Vũ Hoàng Chương rồi nâng chén chúc mừng sự gặp mặt, chúc mừng nhà hát. Các chị em đã thuộc tính từng người. Cậu Ngôn và ông Phán toà sứ được mời hai ly rượu Tây.

Còn hai vị khác dùng hai ly rượu Mai Quế Lộ… Các nàng hát ngồi bên cạnh các quan khách, rót rượu rất khéo rồi với hai bàn tay ngà, nhẹ nhàng đưa lên miệng khách: "Em dâng chàng… rượu trường sinh…". Uống xong, họ thưởng thức một vài miếng ngon trong bát bóng như miếng bóng thủ, thịt, tôm, rấm và chút nước dùng. Và cứ thế, vừa uống tràn vừa nếm nạp. Những món nhấm nháp này do các cô em lấy từ chiếc phạng sứ Giang Tây ra rồi để vào bát con, đưa đến cho khách. Các cô gái mời, giục khách ăn kẻo nguội. Họ phe phẩy cái quạt, quạt cho khách. Họ giới thiệu khéo cho khách để cho khách biết những món mình đang ăn được chế tạo bởi những bàn tay thân yêu. Những bàn tay ấy cũng nhắc nhở đến những bàn tay của người em gái, chị gái hoặc chính người mẹ thương yêu của khách.

- Nào… tất cả… ta cạn chén. Uống cho kỳ say…

Họ đứng lên, cụng ly rồi ngồi xuống cũng cụng ly. Họ bàn với nhau về những chuyện văn, thơ. Khen người này, chê người kia. Tâm đắc với những áng văn, thơ hay. Họ nói về Lý Thái Bạch, Tản Đà, Đỗ Phủ v.v… Họ nói đến những năm 1937 - 1938 là những năm được gọi là Hà Nội vàng son. Họ bàn lây cả sang hiệu may Tây Chu Mậu ở Hàng Trống, hiệu may áo dài Cát Tường ở ngã năm Bà Triệu và không quên nhắc đến cô em vợ của hoạ sĩ Cát Tường là cô Nga - Cát Tường. Rượu vào thêm, họ lại bàn sang sắc đẹp của cô Síu, cô Síu là em gái nhà tiểu thuyết kiếm hiệp Lý Ngọc Hưng. Cô Síu đã là hoa khôi Hà Thành và nổi danh trong những chợ phiên Ki mét (Kermesse)…

Ông Phán toà sứ đọc một đoạn thơ của Huyền Kiêu viết về mấy vần thơ say của nhà thơ người Pháp là Paul Verlaine. Mọi người tán thưởng ông bằng cách mỗi người uống một ly rượu. Trong 4 người khách tối nay, có một người tên là Quy Anh cao dong dỏng, lịch thiệp, đẹp trai, là con nhà giàu, mọi người thúc giục mãi mà anh chưa lấy vợ Anh đã đỗ tú tài phần một rồi bỏ học, làm công việc kinh doanh. Anh rất rộng rãi và thích làm bạn với một số các nhà văn, nghệ sĩ. Anh rất say mê hát ả đào. Hôm nay, anh rất ít nói. Người ngồi sát cạnh anh là đào Ngân. Cô cũng không nói gì mà chỉ trông nom, săn sóc cho anh. Hai người luôn nhìn vào mắt nhau. Thỉnh thoảng họ lại cười với anh đắm đuối: “Đắm say rồi, Người ơi" như người quan họ bảo vậy. Đào Ngân hồn hậu và nghiêm trang, tươi tắn mà mơ màng. Nàng hát được rất nhiều loại: hát ru, hát hãm, hát ngâm ngồi. Qua bài " 36 thứ giọng" cô hát cả Bồng Mạc, Xa Mạc v.v… Lối nào cô cũng hát được rất hay, bay bổng, hàng huê, đầy cảm hứng… Đêm hôm nay, nàng không phải hát.

Bà chủ ăn mặc sang trọng và cầu kỳ, ra với mọi người. Bà chắp tay, nói: "Chúng ta có chầu rượu sau này mừng cho gặp nhau, mừng cho em Ngân về với cậu Quỳ. Mọi việc đã được dàn xếp tinh tươm. Để em Ngân đi… tôi thực tình đứt cả ruột. Con người này được cả mọi mặt. Nhưng thôi. Phải gạt nước mắt mà chia tay. Có gặp mặt, có chia tay… Tôi nể cậu Quỳ. Cậu đối với tôi rất đẹp… Vả lại, cũng la duyên phận phù sinh…". Cậu Quỳ đeo vào cổ đào Ngân một thiếc kiềng vàng rồi ngắm nghía. Lúc này những giọng hát cất lên, tiếng đàn phách, tiếng trống chầu vang lên. Bầu không khí trở nên xôn xao. Giai nhân nản trí đắc Chót yêu hoa… i…i nên dan díu với tình…" Mọi người lại uống rượu, mời nhau… Qua tiếng hát, qua những chén rượu, những lời trao đổi nhỏ nhẹ với nhau, vừa có chút vui vẻ tiễn đào Ngân đi theo chồng, vừa có vị ngậm ngùi kẻ ở người lại đi, vừa có sự suy nghĩ về những số phận. Biết đâu đào Ngân lại sẽ bước vào quãng đời “mưa gió” nào đó… Xưa nay, số phận mỏng manh của các ca nhi có mấy khi được vuông tròn? Mấy vị quan khách say rượu, nằm cả ra sập và đi văng cùng các cô đào ngồi cạnh chăm sóc. Cậu Quỳ dắt tay đào Ngân, gật đầu cúi chào mọi người ra khỏi cửa, đưa nàng về một góc phòng riêng ở một làng vùng Bưởi. Lúc đầu, người ta vẫn nghi ngờ về mối tình của cậu Quỳ với đào Ngân. Ai lại, một trai tân đẹp nõn, tài hoa như thế lại đi lấy vợ ả đào bao giờ. Nhưng khác hẳn với mọi lời dị nghị, xì xào, họ ăn ở với nhau thật đằm thắm và có với nhau 4 mặt con. Đến lúc mấy người con của họ đã thành gia thất rồi mà lúc nào họ cũng quấn quít bên nhau. Đi đâu cũng đi hai người. Mấy người trong làng trông thấy, họ liền nháy nhau: "Họ Tây quá đấy…"

Năm 1997, vào một buổi sáng mùa thu, do một sự giới thiệu nào đó, cô ca sĩ L.A đến nhờ tôi giải thích cho một số điều về hát quan họ và hát ca trù…Cô L.A cũng trên 40 tuổi rồi nhưng vẫn còn sắc sảo lắm. Và cô giống hệt như đào Ngân ngày xưa mà tôi biết. Trong khi giải thích cho cô, tôi nhắc nhiều đến làng Yên Thái ở Bưởi, cô liền hỏi:

- Bác biết rõ làng Yên Thái thế?

- Vì đó là làng tôi mà.

- Thế thì cháu hân hạnh được là đồng hương với bác… Nhà cháu ở cuối làng. Nhưng đó là ngày xưa. Bây giờ, chừng một tháng cháu mới về làng một lần. Cháu có người anh chơi đàn dân tộc cho đoàn X, hai cháu gái là ca sĩ trong hai đoàn nghệ thuật. Cháu là em út, hát đủ loại nào ca trù, nào quan họ và cả nhạc mới.

- Cháu là… Cháu là con của bố Quỳ và mẹ Ngân cháu. Bố mẹ cháu đã mất cả rồi…

- À tôi biết… Tôi biết… ông Quỳ… bà Ngân.

Trước đây, tôi không thể nào tả hết được cái đẹp trong những tiếng hát xuất thần của đào Ngân. Tôi cứ tiếc mãi sợ chúng mất đi. Nhưng không, chúng được những người con lớp sau đón nhận. Chẳng hạn như L.A và rất nhiều người yêu mến chúng, làm tươi trẻ lại những tinh hoa tươi đẹp của chúng. Những tiếng hát hay truyền từ đời xưa, đã được gieo vào cuộc đời, vào những thế hệ thính giả, diễn viên nối tiếp để họ nhận lấy và tiếp nối mong mỏi giữ lại nét nghệ thuật độc đáo và đặc sắc của văn hoá Việt nam.

SỐNG CHẾT VỚI NGHỀ DIỄN

Ông Sỹ Tiến là một diễn viên kiêm thầy tuồng đã có nhiều vai diễn làm cho mọi người còn nhớ mãi. Với những vai như Quan Công, Chu Du, An Lộc Sơn thì cho đến bây giờ, chưa ai sánh được với ông. Là một nhà soạn vở, nghiên cứu sân khấu, ông đã soạn chừng hơn 40 vở cải lương cho diễn khắp trong nước và nước ngoài. Trong đó có chừng 10 vở rất nổi tiếng và có sức sống lâu dài. Ông dâng hiến cho sự nghiệp sân khấu từ năm lên 9 tuổi cho đến khi nhắm mắt. Ông đã đi diễn ở nhiều nơi, khắp Trung, Nam, Bắc. Trong làng cải lương, ông đã có một vị trí không gì thay thế được trong lòng khán giả và đồng nghiệp. Người ta gọi ông làcon chim đầu đàn hoặc hoàng tử của cải lương. Dạo đó, ông nằm trên giường bệnh đã gần một năm trời. Ông đã yếu rồi. Đi đâu cũng phải có người dìu, ăn phải có người bón. Trí nhớ giảm sút nhiều. Chị Kim Chung vừa mới đi diễn ở Pháp về, đến chào ông và chuyển lời cám ơn của anh em kiều bào bên Pháp tới ông. Họ đã diễn hai vở cải lương do ông viết là Mạc Tuyết Lan và Huyền Trân công chúa. Người xem chen nhau đến quá đông. Cả hai vở đều được hoan nghênh nhiệt hệt… ông đứng dậy, cố huy động tất cả mọi khả năng còn lại, cất tiếng hát. Ông hát liền mấy đoạn hay nhất trong vở Mạc Tuyết Lan làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên và bất ngờ. Vì sao ông có thể nhớ và hát hay đến như thế Trên gò má con người phiêu bạt ấy giàn giụa nước mắt. Trong ông run rẩy một tình yêu đằm thắm và nỗi khao khát không nguôi. Mọi người trong gia đình khuyên ông nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Ông còn đọc thêm một vài lời đối thoại giữa Phan Tất Chánh và "Trần Diệu Thường (vở Phan Trần) rồi mới chịu ngồi xuống. Ngày hôm sau, ông phải đi bệnh viện. Ông bị hôn mê liền trong mấy ngày rồi qua đời ngày 17 - 1 - 1982. Còn phải nói thêm: Đời ông đã no đủ mùi đói rách. Nghệ nhân Tư Liên là ông trùm một gánh chèo của chiếu chèo Hưng Yên. Ông đã tung hoành nhiều năm khắp mọi chiếu chèo quanh vùng châu thổ sông Hồng. Bất cứ một gánh chèo nào cũng năn ai ông đến tham gia, giúp đỡ. Những người trong làng chèo không ai là không biết ông. Đến lúc tuổi đã cao, ông vẫn diễn và còn truyền nghề cho các lớp trẻ không biết mệt mỏi. Đến khi không thể diễn được nữa, ông cũng không chịu vắng mặt trong các đêm diễn. Những lúc này, ông ngồi sau cánh gà để được đắm mình vào cái không khí tưng bừng của sân khấu, để nghe hát, xem diễn. Những cái đó là thức ăn của ông. Khi vở chèo kết thúc, ông mới lững thững, chống gậy về nhà. Một lần, sau một đêm diễn hay, mọi người ra về được một lúc khá lâu. Sân khấu chẳng còn một ai, gia đình không thấy ông trở về Mọi người nhớn nhác đi tìm thì thấy ông nằm trên sàn, sau cánh gà. Ông từ giã cõi đời nhẹ nhàng như ngủ trong âm vang và màu sắc của đêm chèo. Hoàng Anh là nghệ sĩ cải lương, chủ soái của đoàn cải lương Phương Đôngquang cho đoàn từ những năm 1956 - 1983. Nhân dân Hải Phòng và các vùng lân cận đều mến mộ ông, thích nghe chuyện về người diễn viên rất có duyên này. Có những người chỉ cần vào rạp nghe ông đổ một vài câu vọng cổ là mãn nguyện rồi. Hoàng Anh đã đóng góp nhiều vai có tâm trạng khác nhau mà đều thành công cả, đều để lại dấu ấn trong người xem với tình cảm hàm súc, sinh động, trữ tình. Ông đã rất thành công trong nhân vật cụ Hồng (Lò lửa diệt Tần), Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), ông già họ Trần (Hội sóng Bạch Đằng), ông Nhân (Tiền và Nghĩa)… Danh sách này còn kéo dài. Ông là một trong những nghệ sĩ hoàn hảo về ca cũng như về diễn xuất. Người ta gọi ông là Huỳnh Thái của Hải Phòng.

Ông mất vào tháng 3 năm 1983. Nằm trong linh cữu, ông được hoá trang, mang trang phục nguyên như trong vai ông Nhân trong vở " Tiền và Nghĩa" là nhân vật ông thường đóng và được hoan nghênh nhiều với hàng trăm xuất diễn liên tục. Tang lễ của ông được tổ chức ngay trong rạp. Người đến đông, kín chặt. Phía ngoài còn có chừng 800 - 900 người. Quần chúng, khán giả từ các nơi đổ về tiễn ông đều rưng rưng nước mắt, mang đến viếng ông là cả một rừng hoa. Các vị chức sắc của thành phố cũng đến tiễn ông. Một số lãnh đạo cao cấp ghé vai khiêng linh cữu của ông ra xe tang. Nhưng, một số quần chúng nhiệt tình ào đến, xô vào, yêu cầu để họ cũng được tham gia vào việc khiêng linh cữu của người diễn viên mà họ yêu mến. Linh cữu được đi thêm một đoạn đường gần 200 mét nữa rồi mới ra xe tang. Dòng người tiễn đưa ông dài hết phố Phan Bội Châu. Nghệ nhân Mầm là trùm gánh hát chèo Nguyên Xá (Thái Bình). Ông là diễn viên chèo nổi tiếng khắp các tỉnh, kể cả Hà Nội. Ông diễn chèo và chơi ác loại nhạc cụ tư khi còn rất nhỏ tuổi. Đến khi có tuổi, ông vân cố gắng có mặt trong cái đêm diễn. Ông sống trong không khí chèo cứ như cá trong nước. Một hôm, ông thấy trong người khác lắm. Ông trịnh trọng lấy hòm quần áo ra, đặt giữa nhà. Ông mặc quần trắng, áo đỏ, thắt lưng xanh, soi gương, vẽ râu rồi chít khăn lên đầu… ông nói lớn: "Này bà, đánh trống đề tôi ra vai ông Mãng"… Bà vợ ngạc nhiên đến hốt hoảng. Ông lại bảo: "Thì tôi bảo cứ gióng trống lên mà"… Thế là: tơ… rung… tung… tung… tung tung… tung a… ông Mầm chống gậy ra, ngâm: Nhà nhiều khách đến thường đem lại.:. Lộc trời luôn vật đến tay ta… Mấy cõi kiều già… Ông ngừng một lát rồi hát "! Lão say": Mấy cõi… i… kiều già Cuốn sơn làm mấy cõi i a… kiều già Điền xiên, sơn dã…t a là chủ nhân… Kỹ thuật hát của ông thật trọn vẹn: ngừng ngắt, lên, xuống, ngâm… đều tuyệt cả. Trạng thái say rượu trong cuộc sống không phải là đẹp đẽ gì. Nhưng nghệ nhân Mầm biểu diễn đã mỹ hoá. Nghệ thuật vừa sâu sắc vừa mở ra cho lòng người một trạng thái say sưa, vẫy gọi mỹ cảm trong khán giả. Vai lão say đã trình bày được cái tinh kèm theo một chút thô, cái đẹp kèm theo một chút không đẹp lắm của cuộc đời… Đã thấm mệt, ông lại nói đến: Và cha đây có mình con là gái Mà mẹ cha thì môi tuổi môi già Mong cho con có nụ, có hoa… Nhưng đến đây, ông bỗng thở gấp, khuỵ xuống, nằm ra chiếu. Ông ra đi mãi mãi. Cả gánh chèo hát lên mấy làn điệu chèo âm nhạc nổi lên sôi nổi và rầu rĩ rồi mới chuẩn bị việc tang ma theo di chúc của ông.

Lý Khắc Cung

Theo http://vietnamthuquan.eu/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuyện Xưa Cầu Cá “Tôi viết lên đây với tất cả chân thành của lòng tôi trao em. Ngày nào đã quen nhau, vì chung hướng đời, mình trót...