Hà Nội - Văn hóa và phong tục 1
PHẦN I - Chương I
Dấu tích Chùa Vua
Ở làng Chùa Vua, nay thuộc làng Thịnh Yên (quận Hai Bà
Trưng), hàng năm có ba ngày lễ hội truyền thống vào ngày mồng 6, mồng 7, mồng 8
tháng giêng và ngày mồng 9 là ngày các tay cao cờ tranh ngôi quán quân. Làng Thịnh
Yên có tục lệ các cô gái lấy chồng xa và các chàng trai lấy vợ xa đều phải thu
xếp về làng ăn Tết và dự Hội.
Hội có phần lễ, rước xách và các trò chơi như đấu vật chọi gà
và thi cờ tướng. Đất này thờ Đế Thích một ông vua cờ tướng nên môn cờ tướng được
coi trọng đặc biệt.
Chùa Vua là một quần thể kiến trúc trang nghiêm, đẹp đẽ và cầu
kỳ. Cái độc đáo của quần thể kiến trúc này là có chùa và đình đều thờ vua Đế
Thích. Ngay sau đấy là đền thờ Mẫu, một trong tứ bất tử và thân phụ Trần Hưng Đạo.
Nghĩa là thờ Phật Lão, Nho, Tam giáo đồng lưu.
Từ đời Lê, quần thể kiến trúc này gọi là Điện Thừa Lương, là
nơi Vua, các hoàng tử, các đại thần, hoàng thân nghỉ lại để chuẩn bị làm lễ tế ở
đàn Nam Giao. Đàn Nam Giao trước đây tướng của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Khi khởi nghĩa thất bại, ông Điều trốn về Hà Nội rồi trụ trì chùa. Cũng chính ở
đây, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, xứ Bắc Kỳ đã sử dụng các vòm sau bệ tượng vua Đế
Thích làm nơi đi về, hoạt động và ẩn náu. Ngày 10-4-1956, đồng chí Trần Danh
Tuyên đưa Bác Hồ đến thăm chùa. Bác xem lại mấy hố vòm sau tượng rồi đi về phía
trước. Bác đặt mũ lên ngực, cúi đầu. Sau một lúc yên lặng, Bác bảo bà Lê Thị Hiền
là người trông chùa rằng: "Bà trông giúp chùa cho cẩn thận, đừng để mất
mát gì".
Theo huyền thoại, vua Đế Thích là nhân vật thứ hai sáu Ngọc
Hoàng. Ở Ấn Độ và Trung Quốc cũng thờ Đế Thích với cương vị như vậy. Đế Thích
còn là vua cờ tướng.
Từ xa xưa, đất Chùa Vua đã có những lò cờ tướng hay nhất nước.
Các danh thủ mọi nơi đều phải kéo về chùa Vua để thi đấu và học tập.
Đến năm 1992, đã có 70 danh thủ đến tranh giải qua các kỳ hội
lễ. Mọi người trầm trồ về tài năng của các danh thủ như Vệ, Ngọc, Lợi, An… Cụ Hứa
Tiến là một trong ngũ tốt, lý kiệt, đã từng là kiện tướng châu Mỹ. Cường vô địch
cuộc thi cờ tướng 1991, Phác là nỗi lo lắng của danh thủ bất cứ tỉnh nào. Các đại
biểu miền Nam cũng đến thăm thú những nước cờ hay trong trận đấu. Ở đây có cả cờ
bơi và cờ bàn…
Hiện nay, Chùa Vua còn giữ được 14 pho tượng đẹp bằng gỗ
hoàng đàn. Nổi bật nhất là pho tượng vua Đế Thích cao khoảng 1,6m. Một bức cửu
long chạm trổ tinh vi, hai đỉnh đồng thời Nguyễn, một quả chuông nhỏ thời Cảnh
Thịnh, hai quả chuông to thời Lê, hai chóe lớn cao chừng 1,6m được đúc từ thời
Lê. Khu vực chùa Vua, từ mái đình cổ kính đến những cây nhãn, ổi cổ thụ, bức tượng,
đôi chóe, bia ký đến quả chuông…đều toả ra những lời vân vi khôn nguôi với hiện
tại và tương lai…
ĐÌNH ĐẠI
Đình Đại nằm trong cụm di tích phía Bắc khu vực Bạch Mai, thuộc
phường cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, bên cạnh chùa Liên Phái, chùa vương Tuyết,
đình Đông, đình Tô Hoàng, chùa Vua, đàn Nam Giao (nay là nhà máy cơ khí Trần
Hưng Đạo).
Ngôi đình đặc biệt này có kiến trúc giống như những đình cổ của
Việt nam nói chung. Nó được xây dựng với quy mô khá lớn. Tiền đình cao, rộng,
khoáng đạt gồm 5 gian. Hậu cung gồm 3 gian, Tam quan thoáng, mái đình cong, lợp
ngói ta. Sân đình rộng, lát gạch cổ, có vườn cây, vườn hoa và một giếng thơi
hình bầu dục. Khung cửa Đình Đại làm theo kiểu bức bàn. Kết cấu khung xương đều
in bằng gỗ được giữ vững bởi nhiều cột cái và cột quân to và cao bằng gỗ tứ thiết.
Không gian Đình Đại được mở rộng, mở ra bốn phương tám hướng
chứ không xây gạch kín xung quanh. Mọi người có thể đến thăm đình từ bất kỳ hướng
nào, qua những con đường tắt và đường lớn. Năm 1592, quân nhà Mạc đã giao tranh
với Trịnh Trọng tại đây.
Ngay sát cạnh cổng Tam quan là con đường Thiên Lý nổi tiếng.
Nối liền Thăng Long với các trấn và các tỉnh phía Nam là một con đường nhỏ, đài
hun hút qua những đồi cây cối rậm rạp và cả một rừng mai (nay thuộc khu vực Bạch
Mai và Trương Định).
Đình Đại được xây dựng cách đây khá lâu và đã trải qua nhiều
lần trùng tu, sửa chữa lớn vào những niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705), Cảnh Hưng
(1774), Minh Mạng (1840),. Thành Thái, Khải Định. Thoạt đầu, Đình Đại chỉ có
gian giữa thờ. đức Thành Hoàng cao 5m. Đại vương thần là một trong 50 người con
lên núi của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau này là thuộc tướng thân cận của Sơn
Tinh. Bên trái thờ thân mẫu của Đại Vương ghép với mẫu Liễu Hạnh. Bên phải thờ
các cô, cậu của Lão Giáo, nghĩa là cũng có màu sắc Tam giáo đồng lưu. Đình Đại
còn thờ cả hai ông phỗng là hai người hầu cận của Đại Vương với nét mặt tươi cười,
hóm hỉnh và cũng mang những nét chất phác của con người đồng quê Việt nam. Đó
chính là hình ảnh của các vai "hề chèo" xuất hiện sau này, người bình
dân yêu tiếng cười là vậy.
Các mảng trang trí được tập trung vào bức cồn nách giữa toà đại
đình. Đề tài trang trí là rồng leo và uốn khúc, vây cá, trăng sao… có dáng dấp
từ đời Lê. Bên cạnh có những bức chạm khắc rồng phượng, âm dươngtương xứng với
những hoạ tiết sông, nước, mây trời, những bức cửa võng, cuốn thư, hoành phi,
câu đối…
Tất cả đều được chạm khắc tỉ mỉ và Sơn Son thếp vàng choáng
ngợp, vừa là những bức hoạ, vừa có tiết tấu nhạc điệu với một nghệ thuật điêu
luyện độc đáo. Gian chính giữa phần cung cấm được đặt một sập thờ Phía trên là
ngai của đức Thành Hoàng. Bên cạnh đó là hai chiếc kiệu bát cống còn nguyên vẹn.
Những chiếc kiệu bát cống được chạm, khắc và sơn son thếp vàng với cơ man nào
là những hoa văn sinh động và duyên dáng, đây là một trong những nét tiêu biểu
của niên hiệu Gia Long. Đình còn giữ được hai hòm đựng 7 sắc phong của niên hiệu
Minh Mạng (1821) và Khải Định (1924); hai tấm bia có niên hiệu Vĩnh Thịnh
(1705) và niên hiệu đời Nguyễn, bảy bức hoành phi, cuốn thư, bảy đôi câu đối,
ba chiếc hương án…Đình cũng còn giữ được 4 bát hương, trong đó có một chiếc được
làm bằng đá, một bộ bát bửu, một Cồng, một chiêng.
Trước đây, Đình Đại cũng như các đình làng khác, vẫn có những
buổi cúng lễ, rước xách. Nhưng Đình Đại còn trở thành nơi tập trung tứ chiếng của
mọi người các ngả. Thời đó, cứ 5 giờ chiều là cửa ô Cầu Dền đóng kín lại, không
ai được ra vào thành, chỉ trừ những người cầm hoả bài "Khẩn cấp". Tất
cả những ai muốn vào thành đều phải nghỉ lại ở Đình Đại, đợi đến sáng hôm sau,
khi cửa ô mở, mới được vào. Cũng có một số người buôn bán muốn tranh thủ thời
gian đã vào thành từ lúc 4 giờ chiều, nhưng phải nghỉ lại ở một cái chợ, ăn uống,
nghỉ đêm và sửa soạn lại hàng để sáng sớm hôm sau có hàng bán ở các chợ và các
phố trong thành. Nơi tập trung này gọi là chợ Hôm (tên này được giữ cho đến tận
bây giờ). Vì vậy mà Đình Đại là nơi dừng chân của đủ mọi lớp người trong xã hội.
Ngoài ra, Đình Đại còn là một khu du lịch, vui chơi sầm uất của một thời mọi
người đến đây có thể tuỳ hứng đi thăm các chùa, đền,đình ở gần đó hoặc xuống
các vườn mơ bát ngát với các quán rượu ven đường, hoặc đến các quán ăn Vân Hồ.
Rượu làng Mơ và nước mắm Kẻ Đô trước hết được đem bán ở đây rồi mới toả đi khắp
nơi và đã trở nên nổi tiếng.
Đình Đại là một di tích trong quần thể di tích lịch sử văn
hoá và du lịch có giá trị của quận Hai Bà Trưng. Nhưng, cũng như số phận của một
số di tích khác, Đình Đại chưa được chú ý một cách xứng đáng. Một số gian đình
bị lở, sụt, đồ gỗ bị mọt, con người đã dần lấn chiếm, xâm phạm quanh đình. Cổng
Tam quan, sân, vườn cây, vườn hoa, giếng bầu dục… đã không còn nữa làm cho cảnh
quan của Đình Đại bị thu hẹp. Thiết nghĩ cần phải có sự quan tâm đặc biệt hơn nữa
đến việc khôi phục sửa chữa và trùng tu Đình Đại để hình ảnh về Đình Đại mãi đẹp
trong tâm trí bao người.
LỄ HỘI CHÙA TRĂM GIAN
Chùa Trăm Gian thuộc xã Tiền Phương; huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà
Tây. Đây là ngôi chùa cổ dựng trên quả đồi cao chừng 50 mét, có cây cao bóng cả
và đậm một màu cổ tích. Xung quanh là những ngọn núi Phượng Hoàng vỗ cánh, núi
Hoàng Xá có dáng con voi quỳ núi Đồng Lư, núi Sơn Lộ, núi Trầm. Chùa có đủ 100
gian. Cứ 4 cột là một gian, có trên 400 cột. Mỗi cột trụ trên một hòn đá chạm
hình cánh hoa sen. Dãy lan can quanh chùa, cũng như các bậc thềm bằng đá có chạm
trổ. Trên các ván long, lá gió, đấu, xà v.v… có hình: mây, hoa lá, rồng, tiên nữ…
Phía trước chùa có gác chuông cao hai tầng, chồng diêm, tám
mái, nằm trên đồi cao với hàng trăm bậc đá. Đây là công trình kiến trúc giá trị
làm bằng gỗ quý với các đầu đao cao vút, mềm mại. Trên gác chuông có treo một
quả chuông lớn, đúc vào năm 1794 thời Tây Sơn với bài minh của Trần Bá Hiên,
người xã Vân Canh.
Trong chùa có 153 pho tượng được xây dựng từ đời Lý. Hầu hết
đều bằng gỗ, một bộ bằng đất, sơn son thếp vàng. Đặc biệt bệ tượng được xây bằng
gạch có hoa văn của thế kí 16 - 17. Bên cạnh có tấm bia đá dựng vào năm Cảnh Thịnh
thứ 5 (1794) có ghi lại chiến công của Đô đốc Đặng Tiến Đông do Phan Huy Chú viết,
tất cả đều là những tác phẩm hiếm có thời Tây Sơn để lại.
Lễ hội chùa Trăm Gian được tổ chức vào hai ngày của thượng tuần
tháng hai âm lịch được xem là "tốt ngày". Khi đốt xong một bánh pháo
treo trên cành đa cao xuống sát mặt đất, các chân kiệu bắt đầu rước long kiệu từ
trong chùa bước ra, long kiệu ra tới cửa Trung quan, đám rước phải đứng lại, chờ
quan viên và các chân kiệu của xã giao hiếu (kết nghĩa) đến đấy và đứng vào
hàng ngũ chỉnh tề, đám rước mới bắt đầu di chuyển.
Trong đám rước, xã đàn anh đi đầu, xã này thường là xã thờ thần
sớm nhất, có đông dân nhất, đồng thời cũng là xã đa tài nhất. Các xã bạn cũng
phái kiệu của mình tới hoặc phái một chân kiệu để thay vai khiêng kiệu cùng với
xã chủ nhà.
Đi đầu là hai lá cờ "Tiết Mao". Kế đèn là 5 cờ đuôi
nhèo gọi là cờ ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ và những lá cờ vuông: đen, trắng,
vàng, đỏ, xanh… Sau đó là 4 lá cờ tứ linh: long, ly, quy, phượng. Người cầm cờ
đội nón có chóp nhọn hoặc chít khăn tai chó, thắt lưng bó que xanh đỏ, chân đi
xà cạp. Sau cờ là trống cái do hai người khiêng. Trống cái do thủ hiệu đánh bằng
chiếc dùi sơn son thếp vàng. Một người vác lọng che cho thủ hiệu và trống. Đi
sau trống là chiêng, cũng do hai người khiêng và có lọng che.
Khi đi rước, thủ hiệu đánh một tiếng trống, lại đánh một tiếng
chiêng. Tiếng trống thúc giục, tiếng chiêng trầm hùng, ngân nga như tiếng của
ngàn xưa vọng về. Sau đoàn trống và chiêng là sự diễu hành của đôi ngựa bạch,
đôi ngựa hồng và đôi voi. Dưới chân những con vật linh thiêng này có những bánh
xe lăn. Mỗi con vật đều được che lọng và có một chiến binh đi bên cạnh…
Hai chiếc tán thêu long, phượng đi trước mở đường cho các chấp
kích lang nai nịt, mang lộ bộ, kim qua, phủ việt, chuỳ đồng… Các chấp kích lang
đi hai bên. Họ là những chàng trai dũng cảm, xông pha trận mạc khi xưa, ở giữa
họ là một quan viên mặc áo thụng xanh, có lọng che, mang một chiếc biển có phủ
vải đỏ ghi mấy chữ: "Thượng đẳng tối linh thần“ (thánh tối linh hạng nhất):
Sau đoàn chấp kích là phường "Đồng Văn” gồm 2 người chỉ huy cầm trống khẩu,
một người cầm thanh la, 2 người cầm sênh tiền, 8 người đánh trống bản đeo 8 thắt
lưng. Họ đánh bằng hai dùi nhỏ có hai chàng thanh niên mặt hoa da phấn đóng giả
là hai cô gái đeo hai chiếc trống cơm làm "Con đĩ đánh bồng”. Họ vừa múa vừa
hát, vừa vỗ trống; mắt nhìn ngang, nhìn dọc, lẳng lơ như nắng mùa xuân. Sau đó,
một ông già có dáng tiên phong đạo cốt, mặc áo thụng độ màu máu, vái lá cờ
"vía".
Cờ bằng vóc đỏ viền vàng có thêu chữ "Lệnh". Lá cờ
này cũng được lọng che. Đó là lệnh của thần linh. Thỉnh thoảng cờ lệnh được phất
lên ào ào, nhắc lại thời chinh chiến oai hùng của thần. Ngay sau đó là màn gươm
tuốt trần do ba người điều khiển. Đến phường bát âm gồm 8 nhạc cụ, phát ra từ 8
hệ thống âm thanh của 8 vật liệu khác nhau: Bào (quả bấu), Mộc (gỗ thạch (đá),
Kim (kim khí), Ti (sợi tơ), Trúc (tre)… Chúng là những não bạt, đàn, sênh tiền,
kèn, trống nhỏ, nhị, sáo hoặc tiêu…
Phường bát âm thường có mấy điệu Lưu Thuỷ, Hành Vân, Ngũ Đối
trong suất cuộc rước. Khi trang nghiêm có lệnh thì cử nhã nhạc. Sau phường bát
âm là long đình. Đó là chiếc, nhỏ và cao có mái che. Trong có bày hương án, ngũ
quả đỉnh trầm và bát hương có cắm những nén hương đang cháy nghi ngút. Long
đình có 4 người khiêng và có 4 người đi bên cạnh để thay vai nhau. Họ đều là những
chàng trai trẻ đẹp, có tầm cao ngang nhau. Đi trước long đình có một người cầm
trống khẩu và một người cầm cảnh. Thỉnh thoảng họ lại đánh lên một hồi trống và
một hồi cảnh.
Tất cả những chàng trai này đều ăn mặc theo kiểu khố bao khăn
vắt và đeo trước ngực một chuỗi vòng tết bằng hoa bưởi toả ngát hương thơm. Hai
bên long đình có tàn, quạt, lọng. Rồi đến một loạt người cầm cờ, vung lên. Họ
ăn mặc quần áo có nẹp xanh đỏ, bó xà cạp đen, hộ vệ cho hai chàng trai cầm lọng
vàng. Hai chàng này là hai anh chàng đẹp trai nhất làng. Họ đi hài và trên ngực
tết một bông hoa lớn.
Tiếp đến là hai long kiệu bát cống. Mỗi long kiệu có 8 người
khiêng và 8 người đi kèm. Đó là long kiệu của Đức Thánh ông và Đức Thánh Bà. Những
người khiêng kiệu, đầu chít khăn xanh, mặc quần xanh, thắt lưng bao vàng, đi ủng.
Các bô lão, các quan viên đi hộ giá kiệu đều mặc áo thụng, khăn xếp… Không khí
tưng bừng náo nhiệt, hương khói mù mịt, tiếng chiêng trống, đàn sáo nổi lên làm
cho mọi người như say rượu. Thỉnh thoảng, những chàng trai khiêng kiệu lại đi
nhanh, tăng tốc độ và reo vang lên. Lúc này người ta gọi là kiệu bay… rước, sau
và xung quanh đám rước người đông nghìn nghịt…
Đám rước đi vòng quanh xóm chùa rồi trở về chùa. Lúc đó là
lúc bắt đầu có những cuộc tế lễ. Mọi người vào lễ, kẻ trước người sau hoặc vào
cùng một lúc. Sau khi đám rước ngừng lại trước cổng chùa, người ta tổ chức các
cuộc vui chơi, mở hội. Có phường hát Rô ở Quốc Oai đến, phường chèo tàu từ Đan
Phượng sang. Có cả đặc sản “Xẩm chợ” Hà Đông.
Chùa Trăm Gian là một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Bắc.
Mở hội ở chùa là hình thức tổ chức sớm hơn kiểu tổ chức ở đình. Do vậy, lễ hội
chùa Trăm Gian còn vọng lại nhiều âm thanh và màu sắc điển hình của một quá khứ
xa xưa với những nét hùng tráng mang tính nghệ thuật.
CHUYỆN NGÔI ĐÌNH
Ở các làng, xã Việt nam xưa, hầu như làng nào cũng có một
ngôi đình. Có ngôi đình chung cho cả mấy xã hoặc huyện. Đình nằm ở một không
gian trung tâm, rộng lớn và có phong cảnh đẹp của làng quê Việt nam. Mọi sinh
hoạt chính trị, kinh tế và xã hội của cộng đồng thời Lý thường diễn ra ở chùa.
Nhưng từ giữa đời Trần, các sinh hoạt đó được chuyển sang đình và truyền thống
đó được giữ cho đến tận đời Nguyễn.
Đình còn là nơi nghỉ ngơi, dừng chân của vua hoặc các quan lớn
đi vi hành, tuần du. Đình làng là nơi tụ họp, bàn bạc công việc và là nơi thờ
cúng Thành Hoàng. Chùa dùng nhân, nghĩa để trị dân, đình dùng pháp trị đối với
dân. Đình còn là nơi thực thi lệ làng: thu thuế, xét xử khao vọng, ngả vạ… Con
gái trong truyện xưa, không chồng mà chửa, bị mang ra đình ngả vạ. Những dịp lễ
tết, hội hè, diễn xướng v.v… đều diễn ra ở đình và sân đình. Với người bình
dăn, đình cũng là nơi giao tiếp gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Đình là một
tập hợp kiến trúc mở, chứ không khép kín như chùa. Đình không có tường bao
quanh. Từ bốn phương, tám hướng đều có thể đến với đình. Nội thất, ngoại thất của
đình được trang trí nguy nga, độc đáo. Có những bức tượng, phù điêu được chạm
trổ công phu đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới mỹ thuật trong và ngoài nước
như ở đình Liên Hiệp (Hà Tây), đình Phù Lão (Hà Bắc đình Tam Canh (Vĩnh Phú), đền
Giá (Hà Nội) v.v…
Vào đình phải qua cổng tam quan và sân đình. Đình thường được
dựng lên bằng nhiều cột gỗ to và dài. Người ta thường nói: "To như cái cột
đình". Còn câu: "bao giờ cây cải làm đình" là chỉ cái điều không
bao giờ có thể xảy ra. Cổng đình thường rất rộng, có bể nước mưa và hòn non bộ.
Nối tiếp sân là mấy bậc đá lát thềm dẫn vào đình gồm ba gian dài. Gian dài ở
chính giữa gọi là chính tẩm. Bên trong gian giữa là nơi đặt bệ thờ, trên có bát
hương, đỉnh trầm, cây nến, bài vị của Thành hoàng, lọ độc bình cắm hoa v.v… Sau
bệ thờ là hậu cung đặt tượng Thành hoàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng.
Mái đình lợp ngói âm dương, viên nọ ốp lên viên kia, rủ nhau
bò lên nóc cao, kéo lên 4 góc cong vút với những ngọn đao trang trí khoẻ mạnh
mà bay bổng. Loại ngói này được gọi là ngói âm dương là ngói "cuộc đời”.
Đôi vợ chồng nào đó thường giãi bày: "Ấy đấy, chúng ta ăn ở với nhau có đủ
cả giận, hờn, đau khổ, sướng vui và yêu thương… Tất cả cứ lợp vào nhau như mái
ngói âm dương…".
Hai bên đình còn có hai dãy nhà phụ để chứa kiệu bát cống,
long đình, cờ, biển, trống, chiêng, quạt, những đồ tế lễ rước xách… Đình còn
ngăn riêng một gian để cúng hậu gọi là nhà hậu. Có nơi, trước mặt đình còn có một
công trình kiến trúc nhỏ gọi là "phương đình" hoặc "bái
đình".
Mọi việc lớn, nhỏ trong làng được quyết định ở đình do một hội
đồng kỳ mục điều khiển. Lý trưởng là thành viên cao nhất trong việc chấp pháp.
Vai vế cao hơn lý trưởng có tiên chỉ. Ông ta là người đứng đầu một làng, xã Thường
là người có danh vọng, nhiều chữ nghĩa và được mọi người kính trọng. Tiên chỉ
ngồi riêng một mình một chiếu ở đình. Nếu vị nào có cỡ khoa bảng cao hơn tiên
chỉ thì được ngồi chiếu trên của tiên chỉ. Dân gian đã tả một cách châm biếm
chân dung của tiên chỉ như sau: "Người đứng chiếu ngang, người sang chiếu
dọc, người đọc văn tế, người bệ bát nhang, người mang cỗ đài, người nhai thủ lợn,
người trợn mắt lên…"
Tiên chỉ là người có quyền thế nhất làng. Phần riêng của ông
bao giờ cũng phải có miếng thịt thủ.
Ngày xưa, người ta rất chú ý đến việc chọn lựa hướng đình và
trồng những cây cảnh to, nhỏ để tô điểm cho cảnh quan của đình. Về tổng thể,
đình và những công trình phụ là những công trình xây dựng choáng ngợp và hoa mỹ.
Trong dân gian, đình là một hình ảnh quen thuộc và gắn bó
trong tâm hồn mỗi người dân Việt nam:
"Qua đình ngả nón, trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu".
Hoặc như:
"Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh"
Nam nữ tình tự với nhau ở đình:
"Bên đình tôi đã si mê.
Tôi yêu người lắm, xin thề đình ơi"…
Có anh chàng kể lể: "Hôm qua tát nước bên đình với
em…" Sân đình thường có những cây cổ thụ, cây đại, cây si cây táo v v… Thị
Mầu trong vở chèo Quan âm Thị Kính hát rằng:
"Tiểu như táo rụng sân đình
Em như gái dở đi rình của chua".
Đình là ngôi nhà đẹp đẽ, trang nghiêm, to lớn nhất làng. Nó
thường được ví với những gì to lớn. Cái nồi đình là nồi to. Cô gái có "một
đình duyên" là Cô gái duyên dáng có thừa. Trong gam màu folkhor Việt nam,
người xưa cho rằng bộ ngực và mông của cô gái càng to thì càng đẹp. Người ta
nói: “Hai phần to được tày đình, thì con người ấy càng xinh càng giòn".
Câu ca dao này phù hợp với quan niệm thẩm mỹ ngày nay, khi nhấn mạnh vòng đo số
1 và vòng đo số 3 của người phụ nữ càng lớn thì giá trị thẩm mỹ càng cao.
Tiếng trống đình là tiếng trống đánh rất to, báo một điều gì
quan trọng. Người quản lý, trông nom đình là ông Từ. ông thường là người có tuổi,
hiền lành, chất phác, được mọi người quý mến, có khi lại là người chay tịnh,
không có vợ ông trông nom đình, thắp hương đón khách đến lễ đình trông nom vườn
cây cảnh. ông cũng trồng thêm cây ăn quả để thêm vào thu nhập của cuộc sống đạm
bạc, thanh bạch.
Những năm trước cách mạng tháng Tám, đình là nơi đi lại, hoạt
động của một số chiến sĩ cách mạng. Từ năm 1945 trở đi, sân đình là nơi luyện tập
quân sự tuyển quân, tổ chức những cuộc họp mặt hoặc mít tinh kêu gọi dân làng
hưởng ứng những phong trào yêu nước, cứu nước, đồng thời cũng là nơi tập trung
của các thanh niên nhập ngũ, là nơi người thân đưa tiễn con em lên đường ra mặt
trận.
Trong làng có hai âm thanh đặc biệt khắc sâu trong tiềm thức
mỗi người, đó là tiếng chuông chùa và tiếng trống đình. Tiếng trống đình báo hiệu
lễ cơm mới sau mùa gặt, tiếng trống mừng quân hoặc tiễn người ra tiền phương
v.v… thật là xúc động. Đình là nơi thờ Thành hoàng, có thể là tổ sư các ngành
nghề, là người có Công với dân làng, là liệt sĩ, anh hùng. dân tộc như Hai Bà
Trưng, Phùng Hưng v.v… và có khi cũng là một con người bình thường.
Ở nước ta còn giữ lại được nhiều ngôi đình lớn hoành tráng,
tiêu biểu cho nền nghệ thuật kiến tạo đình chùa truyền thống của Việt nam như:
đình làng Đình Bảng, đình Chu Quyến, đình Tây Đằng, đình Triều Khúc, đình Kim
Liên, đình Chèm… đó là những di sản văn hoá vô giá của dân tộc. Tiến sĩ A.
Samadi, nhà nghiên cứu mỹ học người Philippine đã viết: "Đến Việt nam mà
không đến thăm mấy ngôi đình là chưa biết gì về Việt nam".
Ngôi đình, một vang vọng của tâm hồn Việt nam, từ ngàn xưa
cho tới hôm nay.
CHUYỆN CÁI AO LÀNG
Một trong những hình ảnh thân thương, ăn sâu vào trí nhớ con
người ở các làng quê từ thời thơ ấu cho đến lúc về già là hình ảnh những cái ao
làng. Câu "còn ao rau muống, còn đầy chum tương” nói lên một cuộc sống
thanh đạm mà ung dung trong cảnh thanh bần.
Những ngày giáp Tết Nguyên đán, ở bên bờ ao thường diễn ra
nhiều hoạt động náo nhiệt, ồn ào mà đằm thắm. Người ta tát cạn ao rồi chia phần
cá cho nhau, có những người vớt từ dưới ao lên những cây gỗ xoan ngâm trong bùn
từ tháng giêng để chuẩn bị làm nhà hoặc sửa nhà. Nhiều người chung nhau một con
lợn và mổ thịt ngay bên bờ ao, chia thịt, luộc lòng… Người ta rửa lá dong để
gói bánh chưng… thật tấp nập và nhộn nhịp. Phong cảnh cái ao thật đẹp.
Mùa xuân, các đám cưới đủ màu sắc ngả bóng xuống ao làng với
những tà áo, khăn, nón xênh xang. Dáng đi của những người dự đám cưới in xuống
nước như say như tỉnh. Mùa hạ, trên mặt ao có sen quỳ trắng, sen diệp hồng hoặc
hoa súng…toả ra một mùi thơm nhẹ. Bên cạnh những bông hoa súng thường có những
con chim cuốc đen lủi thủi. Lại có câu: “Ao cá trê, êm ả ngủ chờ sung" hoặc:
"bèo lạnh cầu ao, ai đợi chờ?…" Cái ao cũng dự báo mùa thu đến: Bờ ao
hiu hắt, nước trong xanh, hay: "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo".
Đó là lúc cuối thu đầu đông. Bờ ao thường được "trang điểm"
bằng các loài cây quen thuộc như cây vối, cây sung, rặng cúc tần cổ tích, vương
vít những đàn gà con có màu hoàng yến. Bờ ao trong sáng như ca dao. Một góc ao
được bắc giàn mướp để cho những quả bầu, quả mướp rủ xuống. Những khi hoa mướp
nở làm vàng rộm cả một góc ao với những cánh bướm bay đi, bay lại. Năm 1937 -
1938, ở bìa một số báo Tết có đăng ảnh một cô gái duyên dáng cùng với mấy lời
chú thích: "Thoảng tiếng vàng thanh tao Bên gốc mai, bờ ao Một nàng xinh
như liễu. Ngồi ngắm bông hoa đào…". Không phải chỉ có thế, cô gái đẹp
trong ảnh bên bờ ao này còn đang mơ màng ngắm nhìn những đám mây phiêu lưu trên
khung trời in bóng xuống mặt ao.
Khi có khách quý đến, chủ nhà lấy vó cất một vài con cá tươi,
xử lý thật nhanh, uống rượu ngay bên bờ ao đó là một "bữa tiệc" khó
quên. Nhưng cũng có khi ở vào hoàn cảnh: "Ao sâu, nước cả khôn chài
cá" thì chủ và khách chỉ uống rượu suông với nhau cũng vẫn rất thân tình.
Ao cũng là nơi hẹn hò, gặp gỡ của trai gái trong làng. Họ hẹn
hò và thề thốt với nhau bên bờ ao vào những buổi chiều tối, những đêm trăng hoặc
những buổi sáng sớm. Những cuộc tình này cũng rất nên thơ và lãng mạn. Các cô
gái trong lễ vu qui, qua chiếc ao làng, lòng lại bồi hồi nhớ những đêm hẹn hò.
Tuổi thơ của nhiều người còn gắn liền với những kỷ niệm khó quên: "Nhớ những
ngày trốn học đuổi bướm cầu ao, Mẹ bắt được… chưa đánh roi nào đã khóc! "
(Quê hương Giang Nam)
Họ hàng của ao có đầm, có hồ, kênh, lạch. Ao cũng có luật âm
thầm mà chặt chẽ của nó. Tầng nước trên thường là cá riết. Tầng giữa có cá trắm,
cá chép, cá quả cá sộp. Lớp dưới cùng là cá trê. Riêng có "cá chuối đắm đuối"
thì hoạt động ở tất cả các tầng nước ở trong cái ao, xã hội cá giống hệt như xã
hội loài người. Cá tranh ăn, xô xát, đánh nhau, nhường nhịn, sống có đàn…
Ao có nhiều tên tuỳ theo vị trí địa dư, dáng dấp hoặc đặc
trưng riêng như: ao cầy vối, ao cây sung, ao chùa, ao đình, ao xóm, ao cây gạo,
ao bèo, ao thả cá, ao thả rau cần, ao nuôi vịt, ao ngang…
Ao cũng là nơi dân làng gặp gỡ, tán gẫu để có những thông tin
như: Cô A xóm Hạ sắp cưới chồng, bà B đi ra tỉnh thăm coi trai hoặc ông C lên
lão bảy mươi… Một vài cô gánh lúa, nghỉ bên bờ ao, xuống ao khoả nước, nhúng
cái nón xuống nước cho mát nón hoặc sẵn tay ướt vuốt tóc và vuốt lông mày để
cho các chàng trai có câu ca dao: " Có rửa thì rửa chân tay, chớ rửa lông
mày chết cá ao anh". Đứng ở bờ ao một mình, nhất là trong những lúc thanh
vắng là có sự mong, nhớ, tơ tưởng… Như trong câu ca dao: "Đêm qua ra đứng
bờ ao, trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ”: Tâm trạng con người trong lúc này
là nói buồn trong cõi nhớ. Trần Phương trong tích chèo "Suý Vân giả dại"
là một tay nổi tiếng về khoe khoang và nói khoác, đã nói dựng lên: "Sông
Tô Lịch là ao anh thả cá". Nghĩa là ngay cả cái con sông Tô Lịch xưa rộng,
dài là thế mà cũng chỉ là cái ao thả cá của nhà anh ta mà thôi.
Người phương Tây thấy từ "ao" rất thân mật với họ
nên gọi biển Caspienne là cái ao của người Sa La. Người đi xa trở về, thấy chốn
quê hương là đẹp hơn cả, cũng bồi hồi: “Ta về ta tắm ao ta; dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn". Ao nhà ta tuy không phải là đẹp lắm, nhưng nó là cái của ta,
cái của mình nên nó đẹp và quý vô cùng.
Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp, đâu đâu cũng có những mẩu
chuyện bi hùng gắn với cái ao làng gọi là ao kháng chiến. Đó là những cái ao được
đào sâu vào bên trong thành những hàm ếch làm chỗ ẩn náu cho du kích. Từ những
hàm ếch đó lại còn được đào sâu vào bên trong, xuyên vào các đường ngầm trong
xóm. Cho nên, trong những trận càn hoặc những trận chiến đấu, du kích nhảy xuống
ao là địch không thể tìm thấy được. Và những du kích nấp ở bờ ao lại xông lên
đánh địch. Có những cái ao nhuộm máu sau những trận chiến đấu, được gọi là ao
thiêng hoặc mang tên những người nữ du kích anh hùng như: ao chị Chiên, ao chị
Mạc Thị Bưởi…
Người ta chê một người nào đó có cái cười nhạt như “nước ốc
ao bèo" là có cái lý của nó. Vì rễ bèo cái trong ao hấp thụ mạnh mẽ những
chất khoáng cần thiết để hình thành chất prôtêin trong cơ thể ốc. Do ốc thiếu
chất đạm trầm trọng nên thịt ốc nhạt nhẽo. "Ăn mày đánh đổ cầu ao” là nói
lên hiện tượng một người nào đó rất khó khăn mới ky cóp được một chút gì đó mà
lại bị mất đi sạch sành sanh.
Với nhịp độ đô thị hoá chóng mặt như ngày nay, trong một ngày
gần đây, mỗi người trong chúng ta sẽ “thèm" một cái ao, một phong cảnh, một
hương vị, một chuyện Cổ tích về cái ao".
BA NGÔI MỘ "HỒNG NHAN"
Có một người đàn bà khốn khổ nào đó đã đặt gói tã lót bọc một
bé gái đỏ hỏn ở ngay góc ngôi đền nhỏ. Một bà đi qua, ẵm lấy cái bọc, dừng trước
cửa đề nhận đứa bé là con nuôi và xin thần làm chứng cho mình đã có một đứa con
trời cho. Nhưng bà bỗng khóc lên nức nở vì bà quên rằng bà quá nghèo, nuôi miệng
mình cũng còn khó khăn. Bà liền gạt nước mắt, truyền cái bọc ấy cho một người
đàn bà khác nuôi làm phúc.
Cô bé không cha, không mẹ nhận đủ mùi đói rách ấy lớn lên có
tên là cô Tư Hồng. Người chồng của cô tên là Hồng đã trở về Trung Quốc, cô lấy
một viên quan tư người Pháp. Và trước đây, cô đã có những cuộc tình duyên ngoài
khuôn khổ với nhiều người. Cô không có "sắc" lắm nhưng có
"thanh", duyên dáng, ăn nói khéo và đầy sức thuyết phục. Người ta bảo
đôi mắt của cô là đôi mắt “nhãn trung hữu thuỷ" (trong mắt có nước) làm
cho đàn ông nhìn vào là tự nguyện khuất phục.
Cô đã thầu các vật liệu xây dựng, lại thầu cơm tù cho các trại
giam, nhà tù cô kinh doanh xây dựng nhà ở, dinh thự, cầu cống, mở các hãng buôn
lớn. Vì có tài kinh doanh, cô nhanh chóng trở nên nổi tiếng về giàu có và thế lực.
Cô có lòng thương đối với những người bị tù tội nên luôn can thiệp để làm cho
các bản án của họ được giảm nhẹ. Với những người mang án từ 10 năm đến 15 năm
tù, cô cũng xin được tha bổng như không. Bất cứ ở nơi nào trong toàn quốc bị mất
mùa, bão lụt cô đều cho chở gạo, ngô đến phát cứu tế cho các nạn nhân với số lượng
rất lớn. Thỉnh thoảng cô lại đi xe ngựa, rải những gói thịt bò chừng một lạng với
những gói lạc tới những người dân nghèo ở hai bên đường những lần phát chẩn như
vậy, cô đã giết hàng chục con bò lớn. Cô phát cho mọi người nhưng không bao giờ
cao ngạo mà thường cúi xuống với nét mặt trầm tư. Có người nói lớn lên:
"Cô ném sang bên này thêm đi!" "Vâng" cô đáp.
Cô được vua nhà Nguyễn tặng cho bốn chữ "Tiết hạnh khả
phong" với hàm ý rộng của chúng. Nhưng về sau cô can thiệp nhiều vào việc
giảm án cho cả những người tù bị nhà chức trách cho là nguy hiểm, có tinh thần
dân tộc nên cô cũng bị liệt vào "thành phần nguy hiểm". Từ đó, cô bị
nhà nước bảo hộ không cho cô liên lạc gì với các cơ quan, họ tẩy chay cô, không
cho lập các hãng buôn và cản trở những hoạt động của cô. Thế là cô đành phải
rút lui về nhà sống những ngày còn lại với một cuộc sống khá phong lưu. Cô vẫn
rộng rãi và làm những việc từ thiện không mệt mỏi khi chết. Bia có đề chữ “ Cô
Tư Hồng”.
Năm 13 tuổi, cô Tý (người Hải Dương) đánh vỡ chai dầu do cha
sai đi mua. Về nhà sợ cha đánh cô đã bỏ nhà đi. Ông bố đi tìm con mãi không thấy
nên đi xem bói. Thầy bói ở đầu cầu Hải Dương bảo: “Phải 13 năm sau ông mới thấy
được con gái”. Ông cũng không tin và quên hẳn chuyện này.
Hơn 10 năm sau, cô Vũ Thị Tý đã trở thành bà chúa Hàng Bạc,
có hẳn một cái động bà chúa nay ở khoảng gần rạp Chuông Vàng). Đó là một ngôi
nhà rộng lớn, lộng lẫy bày đặt nhiều đồ vật đẹp và lạ kỳ, mở cửa rộng cho mọi
khách thập phương xa gần đến xem. Nơi đây có đủ những đồ quý hiếm, những cổ vật
vô giá như đỉnh, bầu rượu, đôi ngà voi của vua Hàm Nghi, nhiều lọ độc bình, sập
gụ chạm trổ đủ 100 con phượng v.v… Lại có cả những con vật hiếm như gà ba chân,
rùa hai đuôi, cá vừa là chép vừa là trắm, chó huyền đề, sóc bay, khỉ bạc má,
phượng hoàng đất v.v…
Một ông lão nhà quê lần đầu tiên ra Hà Nội cũng ngơ ngác vào
thăm động “Cô Ba Tý”. Ông lóng ngóng cái ô thế nào mà móc ô kéo giật làm vỡ chiếc
lọ độc bình đời Khang Hi. Gia nhân lôi ông ra, đánh một trận. Cô Ba Tý mặc bộ
áo dài sang trọng, đầu chít khăn vành dây, chân đi hài thêu phượng, thấy nhốn
nháo liền ra can. Qua sự việc không may này, cô Ba Tý nhận ra ông lão nhà quê
kia chính là bố của mình đã 13 năm xa cách.
Cô đã qua mấy đời chồng và quan hệ với toàn những người có
vai vế cao trong xã hội. Cô thích giữ gìn những cái đẹp độc đáo trong di sản
văn hoá dân tộc. Nhiều khách phương Tây đã trả những món tiền rất cao cho những
đồ vật quý hiếm, nhưng cô cũng không bán. Cô đối đãi với mọi người thật nhân hậu,
rộng rãi, hay làm những việc phúc đức, từ thiện nên cũng được vua ban cho bốn
chữ “Tiết hạnh khả phong”. Cô không đẹp rực rỡ nhưng thân hình khoẻ mạnh, chắc
mà hơi thô. Nhưng dáng vẻ thô này chính là cái vẻ thô mà danh hoạ Picasso say
sưa lắm. Thân thể cô đúng là một cơ thể "lên tiếng gọi". Nhiều nhà chức
trách cao của Pháp ganh tị, sát phạt nhau chỉ để được cô chú ý đến.
Cô xây cho mình một cái sinh phần. Trên bia đá có dòng chữ
Madame Becty (vì người chồng Pháp của cô tên là Becty), hàng chữ dưới đề: “cô
Vũ Thị Tý”…
Một người đàn bà đáng lưu ý nữa là cô Vương Thị Phượng. Cô
người Hàng Đào, lấy chồng ở Hàng Ngang. Cô đẹp đến nỗi bất cứ ai đi qua cửa
hàng cũng phải ngoái đầu lại hoặc đi đi lại lại vài lần để ngắm cô. Người Hoa
kiều ở Hàng Ngang nói rằng đôi mắt của Thị Phượng là đôi mắt “Hoàng diệp lạc".
Đối tượng nhìn vào đôi mắt ấy tự thấy mình như một chiếc lá vàng rơi…
Cô dám tìm đến tự do trong tình yêu và thực hiện ý định đó.
Nhưng không được. Cô phản đối cuộc sống bắt người đàn bà làm nô lệ. Cô đã bỏ chồng
đi theo tiếng gọi của một anh chàng nhà báo trẻ đầy tài hoa. Sau đó, vào những
năm 1927 -1928, cô phải chống trả hàng loạt những sự đả kích tới tấp của gia
đình và xã hội. Cô đã chịu sự lừa dối của nhiều kẻ giăng bẫy. Cô đã chịu những
nỗi cơ cực suốt. cả những tháng năm vào Nam ra Bắc. Cô đã qua tay nhiều người
đàn ông vì sự tồn tại và vì cuộc đời xô đẩy. Nhưng đến khi chết cô không còn đồng
xu dính túi, phải nằm chết một cách ê chề, điêu đứng ở nhà thương làm phúc. Đám
tang chỉ có một người tình cũ rủ lòng thương, đưa xe cô đến mộ và sau đó khắc
cho cô một tấm bia đề: “LC Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng”. Cái chết của
người đẹp có hành trình số phận mà cả ba cuốn sách "Ana Karenina"
"Phục sinh" và Trà Hoa Nữ cộng lại mới nói lên được, đã làm nao núng
cả Hà Nội và khắp nơi trong nước.
Ngôi mộ cô Tư Hồng ở phía tay phải, cách cổng chùa Hai Bà chừng
150 bước chân. Nay ở khoảng mảnh đất của trường PTCS Bạch Mai.
Mộ của Vương Thị Phượng đối diện với cổng chính Bệnh viện Bạch
Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng bệnh viện chừng 150 mét.
Phần mộ cô Ba Tý ở cách Tháp Bút chùa Liên Phái Bạch Mai chừng
100 bước. Nay hãy còn vòm của sinh phần và một tấm bia. Ba ngôi mộ "hồng
nhan" nổi tiếng của Hà Nội, của Việt nam ở vào những thời kỳ khác nhau. Ba
số phận độc đáo có thể ca ngợi được, cũng có thể khóc được lại có những điểm rất
giống nhau: nằm ở cùng một khu vực gần nhau ở Bạch Mai quận Hai Bà Trưng. Ba
ngôi mộ lại là ba góc nhọn của một hình tam giác cân, rất cân. Phải chăng là một
sự diệu kỳ của số phận?
CHUYỆN CON TRÂU
Trước hết, ta hãy nói về con trâu hiến sinh trong lễ Trâm
trâu của các dân tộc Tây Nguyên, cũng như ở Indonesia, Malaysia. Con trâu trong
lễ hiến sinh biểu thị tình nghĩa mẹ con muôn đời. Con trâu chết cho mẹ, cho cộng
đồng. Trâu biểu hiện cuộc sống bản thể, tự nguyện phục hồi năng lực sinh sản của
mẹ Đất đã mòn mỏi do con người bòn rút máu thịt của mình để sinh sống. Trâu hiến
mình để cho yên lòng mẹ Đất góp vào sự sinh tồn và vĩnh cửu.
Trong lễ đâm trâu, người ta làm cho trâu chết dần chứ không
cho trâu chết hẳn ngay để làm cho trâu trở nên "anh hùng". Vì trâu hiến
sinh nên khi chết, trâu thành vật tổ (totem). Con trâu bị phân thành nhiều mảnh,
bón cho đất Mẹ. Hiến sinh là đức của con người muôn thuở. Đường đi của trâu là
luống cày, là đường đi của ngũ Cốc của văn minh. Con sông Kim Ngưu từ Hà Bắc lượn
về từ núi Trâu Sơn ở giếng Việt, ôm lấy Thủ đô Hà Nội,làm nên đế đô Phồn vinh. Ở
làng Phật Tích (Hà Bắc) còn có nhiều di tích trâu đá… Trâu là loài nhai lại, ăn
giả làm thật, ở Việt nam có rất nhiều giống trâu. Con trâu đại diện cho lòng tốt
sự bình yên,sức mạnh, sự bình tĩnh, là tượng trưng cho sức lực và sự hy sinh.
Trâu là một trong 12 con giáp, là một trong lục súc gồm: ngựa, dê, trâu, gà,
chó, lợn… gần gũi nhất với con người.
Trâu thuộc âm. Người ta gọi con trâu rất thân mật: "Trâu
ơi ta bảo trâu này…" Năm Sửu là năm con trâu. Giờ sửu là từ 1 giờ đến 3 giờ
sáng, là lúc trâu bắt đầu công việc hàng ngày, kéo cày hoặc bừa. Người đẻ năm Sửu
thường có tài năng và có cường độ lao động tất. Đó là những đức tính rất cần
thiết đối với bất kỳ ai. Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm Kỷ Sửu
(1889). Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, sinh năm Đinh Sửu (1937). Đời trâu làm thật,
ăn giả, cổ cày vai bừa. Nó làm việc cật lực cần cù, nhẫn nại, kéo cày trả nợ (nợ
đời): “Bao giờ cây lúa thành bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn “ Nó chỉ
ăn cỏ và rơm. Xưa kia, người chịu ơn nói với người tạo ơn cho mình rằng:
"Xin làm trâu ngựa đền nghìn công ơn…" Trong Truyện Kiều có câu: Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai"?… Đó là lời thề của người chịu ơn kiếp
này nguyện đến kiếp sau xin trả nợ. Với xã hội nông nghiệp, con trâu là đầu cơ
nghiệp. Nó góp phần quyết định việc đẩy mạnh sức sản xuất và năng suất lao động.
Trâu rất khoẻ: khoẻ như trâu mộng, yếu trâu còn hơn khoẻ bò. Con gái ở tuổi
thanh xuân cũng là lúc xuân tình thịnh vượng nhất và có sức mạnh dữ dội, hăng
hái nhất được gọi là: Gái 17 bẻ gãy sừng trâu". Câu nói này có hai ý
nghĩa, chỉ người con gái có dư sức làm việc và cũng có dư sức trong "chiến
trận yêu đương…". Con trâu có tai lá mít, đít lồng bàn là con trâu hay. Mắt
trâu hơi lồi, lờ đờ, nhìn chằm chằm, rộng lượng, cam chịu duyên phận, hiền từ…
Khi người ta yêu nhau, nhìn nhau bằng đôi mắt trâu đờ đẫn, thẫn thờ là như vậy
đó. Con trâu si tình, rất kín đáo nên chẳng mấy ai để ý. Vì họ không nhìn thấy
con trâu liếc.
Hàng năm ở Đồ Sơn vào hội chọi trâu truyền thống rất náo nhiệt.
Nhưng ta chỉ thấy có hai con trâu chọi nhau mà thôi. Cụ Thìn, 91 tuổi, ở chợ Đồ
Sơn cho biết: “Khi xưa, ở mỗi bên bãi chọi trâu đều cỏ buộc một con trâu cái
“ngon lành" bằng một dải lụa đỏ để động viên tình lang của mình quyết đấu”.
Như vậy là những cuộc chọi trâu xa xưa cũng phải có chuyện "mái suy"
mới trở nên quyết liệt. Trời sinh ra thế mà… Con trâu có ích cho công việc nhà
nông đã đành. Người ta cũng còn có thề sử dụng tất cả những gì ở con trâu: thịt,
xương, da, lòng… Ngay lông trâu, móng trâu, sừng… đều có thề được axit cho
hydrich (HCl) thuỷ phân rồi cùng với một số hoá chất khác để chế thành xì dầu,
magi, bột ngọt hoặc mì chính. Sừng trâu còn dùng làm cốc uống rượu theo kiểu
dân dã ở miền núi. Nó cũng là cái tù và truyền lời kêu gọi và bản thân nó cũng
là một nhạc cụ hoành tráng. Da trâu bịt mặt trống cho các loại trống như: trống
chèo, trống tuồng, trống chầu, trống trong hát ả đào, trống cơm, trống bồng
trong đám ma…đã làm náo nức tâm hồn bao người. Huyền thoại kể về chuyện tình của
Ngưu Lang và Chức Nữ. Sự thực thì hậu duệ của họ là chàng chăn trâu và cô gái
trồng dâu, dệt vải. Đó là hai mặt của âm và dương, là chàng và nàng. Gần đây nhất
là chàng công nhân lái máy cày và cô gái làm trong xưởng dệt. Trong vở Quan âm
Thị Kính, sau khi thị Mầu bị thất vọng không "ăn thịt” được Thị Kính, đã
yêu anh Nô theo kiểu: "Trâu ta ăn cỏ đồng ta” và dạy cho anh Nô cách thắp
hương khi thấy oản chùa… ở nước ta xưa, nhà nào có 9 đụn 10 trâu là nhà giầu.
Đường sống là đường nhỏ, gồ ghề, cao lên ở phía giữa. trâu chậm uống nước đục
là nói người đến sau bao giờ cũng chỉ thu hoạch được những gì còn lại.
Đầu trâu mặt ngựa là chỉ những kẻ đáo để, hung dữ mà ai cũng
muốn tránh mặt. Những người cùng hoàn cảnh, cùng khả năng, nhất là có tính tình
giống nhau, kết bạn với nhau gọi là trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa. Những câu nói
này dùng trong trường hợp không mấy tất đẹp. Trâu trắng đi đâu mất mùa đấy là
chỉ sự vô duyên vậy. Người ta bạc đãi và ghét con trâu trắng chỉ vì nó không giống
đồng loại của nó có màu đen.
Lại có câu: "Có ăn có chọi, mới gọi là trâu" khuyên
mọi người hãy mạnh dạn đấu tranh trong cuộc sống. Ngày 23 tháng chạp hàng năm, ở
chợ Bưởi có phiên chợ trâu náo nhiệt. Người ta thường bảo: "Thật thà cũng
thể lái trâu". Câu nói này còn có vấn đề phải bàn.
Thách cưới 3 bò 9 trâu là thách cưới nặng mà bên trai khó
lòng đáp ứng nổi…
Con trâu! Con trâu trên cánh đồng cò bay mỏi cánh của Việt
nam. Con trâu trong huyền thoại: "Trâu vàng Hồ Tây", trong giấc mơ của
cái tuổi: "Ai bảo chăn trâu là khổ con trâu còn có trong những câu hát ru:
"trâu ta, ta buộc bờ ao". Dặn dò to nhỏ… làm sao tao cũng bằng lòng
con trâu là hình ảnh thân thương và gầngũi trong cuộc sống của làng quê Việt
nam.
CÂY ĐA
Xung quanh Đền Bà ở làng Ỷ La, Tuyên Quang có mấy cây đa khổng
lồ nổi cộm lên như những ngôi nhà lầu nối tiếp nhau. Chúng đan kết lại với nhau
bằng những chùm rễ phụ bạt ngàn, bao la. Chúng đu đưa trước gió như những chiếc
võng treo thờ ở các đền Mẫu, phủ Mẫu. Đây là hình tượng gợi ý cho các bà mẹ thời
xa xưa làm ra lưới bắt cá, tết võng và làm nghề dệt vải Thạch vải. Thạch Sanh
ngày xưa có một túp lều tranh dưới gốc cây đa. Ông Bụt nhân từ cũng từ những
cây đa hiện ra.
Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống
đất rồi lại sinh ra rễ mẹ, rễ con, bền vững và đầy sức sống. Cây đa yêu đời, đẹp
đẽ và nó tượng trưng cho sự phồn sinh và tuổi thọ Biểu tượng của " Hội những
người cao tuổi thế giới" được thể hiện qua hình ảnh một cây đa cổ thụ.
Cây đa trần trụi với vẻ nguyên thuỷ, có những điều ẩn chứa,
có những điều rối rắm và huyền ảo. Nó tượng trưng cho sự trống trải, cho sức mạnh
vật lý và địa lý. Nó thu hút vào mình những tia sét, những dòng điện trường. Những
đêm mưa to gió lớn, cây đa đã chống chọi lại với gió bão, dũng cảm phi thường.
Cây đa xòe tán xanh và rộng ra để che nắng, che mưa cho mọi
người. Nó che chở cho mọi người. Nó là cây mẹ, làm cho con người yên tâm với nụ
cười, nước mắt, hướng về vĩnh cửu. Người ta gọi cây đa làng, cây đa huyện, cây
đa bãi, cây đa bến sông, cây đa xóm, cây đa chợ v.v…
Cây đa là điểm ghi nhớ, điểm đánh dấu nổi bật, đại diện cho một
nơi chốn đáng được lưu ý. Cây đa chứng kiến những thăng trầm của các lớp người,
trong tín ngưỡng dân gian, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa thường có một cái miếu
nhỏ đặt bát hương, những chiếc bình vôi để hương khói cho thần cây đa: “Thần
cây đa, ma cây gạo”… Chàng và nàng gặp gỡ hẹn hò, thề thốt với nhau bên gốc cây
đa. Họ bảo: “Có cây đa biết mối tinh đôi ta”.
Cây đa tha thiết và thiêng liêng: "Trăm năm, đành lỡ hẹn
hò…Cây đa bến cũ, con đò năm xưa”? Cây đa cũng là nhân vật, là thành viên của
xóm làng: "Giếng nước, cây đa tiễn chàng trai ra trận"! Cây đa là
hình ảnh cao đẹp, là cả một bức tranh hoành tráng gắn bó với mái đình, chùa, miếu,
giếng thơi v v… dựng nên cả một thế giới tinh thần bền vững cho mọi người từ
khi còn trẻ thơ cho đến lúc về già.
Cây đa tượng trưng cho vẻ đẹp quê hương. Nó góp thêm màusắc,
âm thanh cho làng quê êm đềm. Nó vẫy gọi những đàn chim nhiều màu đến hội tụ,
làm tổ rỉa quả đa chín. Và thỉnh thoảng vào những buổi đẹp trời từ những cành
đa nhằng nhịt, tung ra những trận mưa chim. Người ta nhìn lên mặt trăng huyền ảo,
thấy những nét đậm nhạt mà nghĩ ngay ở nơi đó có hình ảnh cây đa và chú cuội.
Thế rồi cái huyền thoại ấy ăn sâu vào lòng người: "ánh trăng trắng ngà, có
cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ".
Ngày xưa, ở trên thân cây đa thường có những tờ cáo thị, yết
thị. Thời kỳ cách mạng xuất hiện những tờ hiệu triệu đồng bào sản xuất, chiến đấu,
đoàn kết… Người quan họ có bài "Lý cây đa” nổi tiếng. Đó là một bài hát rất
hay nói về anh trai làng đi đến gần gốc đa, nhìn thấy cô gái thắt lưng xanh mà
đem lòng yêu mến… Sau một ngày làm việc vất vả buổi chiều mát mẻ, người ta thường
tụ tập nhau bên gốc đa. Họ uống chè vối hút thuốc lào rồi kể chuyện với nhau,
bàn bạc và bình luận về cuộc sống. Đôi khi, bên quán nước nhỏ cạnh gốc đa có
đôi vợ chồng xẩm kéo nhị, hát lên bài "Anh khoá" làm bâng khuâng cả
đám đông người nghe. Nhà nghiên cứu người pháp M. Colami đã viết hẳn một cuốn
sách về cây đa ôm tảng đá tại làng Thanh Khê huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Cây
đa Tân Trào là hình ảnh quê hương cách mạng mùa thu không bao giờ phai mờ trong
tâm trí người Việt nam qua câu thơ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào". Người Hà Nội thường hay nhắc đến cây đa Cổ thụ nổi tiếng: cây đa
nhà Bò. Xưa kia, ở ngay cạnh nó là nhà đúc tiền. Bây giờ có một nhà hộ sinh.
Qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, cây đa cũng gánh chịu trên mình đầy những vết
thương chiến tranh. Cây đa cửa quyền ở phố Hàng Bông có những chuyện kể quái dị
kiểu Liêu trai chí dị. Chuyện kể rằng cứ chập tối, thỉnh thoảng có những cô gái
rất đẹp ngồi trên những chiếc xe tay có người kéo, đi thăm các cây đa quanh
vùng Hà Nội rồi biến mất lúc nào không biết. Ngày hôm sau, người phu xe sẽ rất
đắt khách.
Cây đa chùa Hai Bà ở Đồng Nhân phải cần đến hơn mười sải tay
mới ôm xuể. Cây đa ở làng Vân Hồ có hàng trăm rễ rủ xuống đất như một chiếc
mành mành lớn, đeo trên mình hàng trăm chiếc bình vôi cổ kính và những bát
hương lập lòe ánh lửa và khói ở quanh nhà Bác cổ (nay là Viện Bảo tàng lịch sử)
có 6 cây đa lớn. Gần Hồ Tây, quãng đầu Thuỵ Khuê có cây đa gọi là cây đa cô Son
bên cạnh miếu cô Son. Đó là nơi xưa kia anh khoá Hồng và cô Son gặp nhau và
chia tay nhau. Cây đa chùa Bà Đanh nguy nga như một lâu đài. Tại phố Quán Thánh
có ba cây đa chụm lại gần nhau, rợp bóng cả một khu phố. Người ta dựng ngay cạnh
đó một quán cà phê gọi là quán cà phê Quán Thánh người ta cũng thường nhắc đến
cây đa làng Lủ, cây đa sông Tô Lịch, cây đa Hàng Gai v.v… Những vị cao tuổi
uyên thâm, đức độ, được mọi người tôn kính gọi là các vị cây đa cây đề. Lại có
cả những cụm từ cửa miệng như: cúng cháo lá đa, trạch đẻ ngọ đa, con nhà sãi
chùa đi quét lá đa, cậy thần phải nể cây đa. Cây đa là một vẻ đẹp, là biểu tượng,
là hình ảnh sinh động của làng quê Việt nam. Nó góp Phần làm cho văn hoá làng
xã thêm đậm đà, lấp lánh.
Chương I ( B)
CHUYỆN CÁI CHỢ
"Trai thương vợ, đang đông buổi chợ
Gái thương chồng, nắng quái chiều hôm".
Chợ là nơi ồn ào náo nhiệt nhưng tình nghĩa vợ chồng lại đằm
thắm mặn mà và kín đáo. Có một thời, người ta chỉ trích một lối sống thiếu sự đối
xử tốt với nhau, đã đưa ra câu: “Tình nghĩa anh em, cũng chợ giời"! Chợ giời
là cái chợ trời ơi đất hỡi, có đủ những mánh khoé, lừa lọc điển hình hơn ở những
chợ truyền thống.
Chợ âm phủ hoặc chợ giời ngày xưa là ở trong hoang tưởng. Thi
sĩ Tản Đà ngày xưa có ý định mang văn của mình lên bán ở chợ giời. Ở ta cũng có
một vài nơi heo hút mua bán lúc trời nhá nhem tối như giữa người với ma quỷ.
Người ta gọi những nơi này là chợ âm phủ.
Á Nam Trần Tuấn Khải đã tả cái chợ làng những năm 1930 - 1931
như sau:
Lâu vắng, như quên cảnh chợ nhà
Nay về, có dịp lại thăm qua
Nói năng trắng trợn, tay buôn thịt
Chào gọi xôn xao, bọn bán quà…
Hống hách thầy cai, lên mặt dữ
Tung tăng lũ bợm, kiếm ăn già
Tự do ngôn luận, không ngăn cấm
Chửi bới huyên thuyên lũ cắp gà…
Ở đâu có sự trao đổi, có một số người bán, một số người mua
là thành chợ. Nói đến chợ la nói đến sự phức tạp nhân sinh. Có chợ thôn, chợ
làng (chợ làng tôi có những cô gái, một ngày hai bữa cơm đèn), chợ huyện (chợ
huyện một tháng sáu phiên, gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần), chợ quán, chợ
chùa, chợ đình, chợ cầu, chợ vùng cao, chợ bên sông (quanh năm buôn bán ở mom
sông)… Nhưng đặc biệt và gần với mọi người hơn cả là cái chợ làng. Đợi mẹ đi chợ
về là một cái đợi chờ đặc biệt, hạnh phúc, ngộ nghĩnh vì cậu bé hoặc cô bé sẽ
được đón mẹ, được nhận từ bàn tay thân yêu, chai sạn, giá buốt mà nồng ấm của
người mẹ những cái bánh đa, gói kẹo, đẵn mía, cái bút v.v… Đó là những món quà
tuyệt vời nhất, ngon lành nhất, không gì sánh nổi.
Vào những dịp Tết lại còn tưng bừng hơn nữa. Chợ là nơi giao
tiếp, nhộn nhịp. Thông qua chợ, người ta có thể biết được nhiều thông tin không
chỉ về buôn bán, làm ăn mà còn về mọi mặt trong đời sống hàng ngày:
"Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao, chẳng lấy chồng…".
(Núi Đôi Vũ Cao)
Chợ quê thường nổi bật lên hình ảnh những cô hàng xén với những
đôi mắt nhìn bâng khuâng. Họ là những bông hoa của chợ nhà thơ Hoàng Cầm đã viết
về họ rất hay:
"Những cô hàng xén răng đen
Cái như mùa thu toả nắng…"
Người ta đi chợ để mua bán những thứ cần thiết. Nhưng cũng có
những người đi chợ chơi, dạo chợ và coi đó là một thú vui. Cũng có những người
đi chợ để tìm hiểu nhau, manh mối một tình yêu nào đó. Chợ xưa, ngoài các dãy
hàng thịt, hàng quà, tạp hoá, quán rượu, trầu cau, có các lều gà, vịt, chó, cá,
cua, tôm v.v…, còn có lò nhuộm, có cái chảo lớn đun nước màu nhuộm áo, yếm, cạp
váy. Góc nọ, góc kia còn có các ông thầy bói, thầy tướng số và có phiên lại có
vài ba người hát xẩm.
Qua thăm một cái chợ, người ta có thể biết sơ qua về tình
hình kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương nào đó. Vì tất cả mọi mặt đời
thường đều phơi bày ra ở chợ. Chợ cũng là một bản nhạc giao hưởng khổng lồ đủ
các loại hình âm thanh. Có những cái chợ thật độc đáo như ở biên giới Lạng Sơn,
Cao Bằng, ngoài việc mua bán ra, nam nữ thanh niên còn tìm hiểu nhau rồi hát
sli lượn với nhau. Khi gặp được người vừa ý, họ liền đưa nhau ra khỏi chợ.
Ở Hà Giang (Mèo Vạc) và Lào Cai (Sa Pa) còn có chợ tình. Ở
đây, trai gái yêu nhau, âu yếm nhau ngay tại chợ đã đành, những người có vợ có
chồng rồi vẫn có thể đến đây để gặp người tình cũ của mình một cách tự do mà
không chịu sự ràng buộc cấm đoán của chồng (hoặc vợ)…
Những năm gần đây, ở Giảng Võ, Kim Liên, Ngã Tư Sở của Hà Nội
có những nhóm người tụ họp nhau lại hình thành chợ lao động. Thành phần của chợ
lao động này gồm các thanh niên không có việc làm, những người nông dân trong
những ngày nông nhàn kéo nhau ra Hà Nội kiếm việc làm.
Chợ xuân của ta cũng thật đặc biệt. Một vài ngày sau Tết
Nguyên đán, khi không khí Tết vẫn còn tràn ngập khắp nơi, người ta họp chợ lấy
may ngày đầu năm. Chợ rất đa dạng và phong phú, có đủ các tên gọi khác nhau. Chợ
giời là cái chợ Trời ơi đất hỡi, nơi diễn ra sự mua bán đủ các loại mặt hàng từ
đơn giản nhất đến máy móc tinh vi. Chợ âm phủ là nơi diễn ra sự mua bán về đêm,
không nhìn rõ mặt người… Ngoài ra còn có chợ cóc, chợ đuổi, chợ tạm, chợ bến,
chợ cầu, chợ chiều…Tan tác như cảnh chợ chiều, đó là cái cảnh rút lui sào sạc đến
mức chẳng còn ai. Ai cũng muốn về cho sớm. Ca dao xưa còn nhắc đến: “Bà già đi
chợ Cầu Đông”. Đó là cái chợ ở phố Hàng Đường ngày xưa, nơi Tú Uyên mua được bức
tranh nàng Giáng Kiều. Chợ bán đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ
cám" Bức tranh bán ở chợ Cầu Đông còn đáng giá hơn nhiều lần. Nó trở thành
một câu chuyện dân gian người đời còn nhắc đến.
Người ta nói "Cứ như là vỡ chợ" là ví cảnh quá ồn
ào. Đòn "hội chợ" là có nhiều người tham gia vào cuộc đánh rồi lại bỏ
đi đến nỗi người bị đánh không còn rõ là những ai đã đánh mình. Lại còn có một
câu chuyện cảm động. Một cô gái gánh hàng đi chợ, bị chàng trai giữ lại để tỏ
tình. Cô gái cần phải tranh thủ tới chợ cho sớm, đã trả lời rất thật tình mà
tha thiết:
"Chàng trai bỏ áo em ra
Để em đi chợ, kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa hàng bán hết đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em!"
Khi nói: "Cơm hàng, cháo chợ, vợ nhặt, con thêm" là
những từ dùng để chỉ những gì tạm bợ, qua quít không được nghiêm chỉnh.
Chợ ngày xưa còn có một nhân vật đặc biệt. Đó là anh mõ chợ,
là người thông báo, đi rao mọi tin tức về việc buôn bán trong chợ. Anh ta còn
làm đủ mọi việc như giúp mọi người ổn định chỗ ngồi, sửa lều lán, thu lệ phí
v.v… Nhưng anh ta, chỗ nào cũng có mặt và làm cho mọi người vừa lòng… Anh ta
luôn chân luôn tay, nói nhiều, ăn mặc xộc xệch, chít cái khăn tai chó.
Chợ là cuộc đời trần tục. Có đủ các mùi vị và hình ảnh sinh động
của cuộc sống. Người ta viết quá nhiều về cái chợ. Chuyện về cái chợ không bao
giờ hết. Có điều những cái chợ xưa chỉ còn giữ lại một chút thơm thảo và da diết
trong ký ức của con người ngày nay.
CHUYỆN CÁI CỔNG LÀNG
Người đi xa, nhìn thấy cây đa, bến nước, cây gạo, nóc đình và
cổng làng là biết đã về đến quê.
Làng nào cũng có một cái cổng làng. Có làng lại có một cổng
chính, một cổng phụ. Cái cổng làng chiếm một địa vị quan trọng, thiêng liêng,
thường trực trọng lòng tất cả mọi người trong làng. Phải đi qua cổng làng rồi mới
về đến nhà.
Cái cổng làng chứng kiến sự đến và sự đi của mọi người. Đám
cưới tưng bừng đi vào làng với những mâm cau, trầu, lễ vật phủ tấm vải đỏ rồi
những đám ma nổi kèn trống tiễn người quá cố qua cổng làng. Khi đi qua cổng
làng, người chết phải được khiêng tay, hạ thấp xuống để chào vĩnh biệt cái cổng
làng thiêng liêng mà thân thiết.
Mỗi làng xây cổng theo kiểu dáng và phong cách của mình.
Nhưng đều có điểm giống nhau là làm sao cho cái cổng làng phải nghiêm trang,
hoành tráng, khoẻ mà đẹp. Có nhiều làng xây dựng cổng làng giản đơn mà ưa nhìn.
Có những làng xây dựng cầu kỳ hơn. Cổng làng Đông là một cổng tò vò cao 4 mét.
Phía trên là hai mái ngói nằm trên khung, vì kèo bằng gỗ tứ thiết. Phía bên
ngoài mái được xây lên một bức tường gạch dầy. Trên mái cong có đắp những mảng
trang trí núi, mây. Bên dưới có đề tên làng. Bức tường gạch vồ nối liền hai bên
cổng tò vò với hai cột trụ cao vút Trên đỉnh cột trụ có hình một quả đào tượng
trưng cho sự trường thọ. Mái nhà sát cổng che cho một khoảng đất chừng 10 mét
vuông để cho mọi người tạm thời tránh mưa nắng. Thân cột là câu đối với những
chữ rồng bay phượng múa:
"Cao quý phong thanh thiên vạn cổ
Nam thanh nữ tú nhất hương chung"
Làng Đông còn một cổng thứ hai nữa với đôi câu:
"Khởi tâm tiền nhân lập
Tích đức hậu thế truyện”.
Trên tường cổng làng có trang trí những nhành lá vạn niên
cách điệu thành những đường gấp khúc duyên dáng la đà, móc vào nhau. Đi vào cổng
làng phải qua ba bậc lát đá. Cổng làng Hồ có đôi câu đối:
"Mỹ tục thuần phong cảnh chiếu Tây Hồ minh kính.
Thiện ngôn, hảo sự trưởng lưu mạt lợi danh hung" (Mạt lợi
là hoa nhài)
Cổng làng Thọ gây ấn tượng bằng hai cột trụ xây cao. Có ba bậc
đi lên lát đá xanh. Trước đây có một cây si cao, sum sê, xanh lá, phủ lên một
bên cột. Người ta có câu vè:
"Chùa Thiên Niên có cây lá cọ
Bên làng Thọ có cái cổng xanh
Chùa Bà Đanh vắng tanh vắng ngắt”.
Cổng làng cả cũng là một nóc nhà hai mái. Một mái ra ngoài, một
mái vào trong. Tất cả được 4 chiếc cột gỗ lim lớn đội lên. Dưới chân cột có
chôn hai con sấu đá Có người gọi là con nghê đá. Vào làng phải qua năm bậc xây
gạch. Hai bệ cột trụ cổng làng vút lên thanh thoát như múa với trời xanh. Cổng
làng Sơn Đồng (Hoài Đức), cổng làng Yên Sơn (Quốc Oai)… được rất nhiều du khách
nước ngoài tìm đến, nghiên cứu, chụp ảnh sao chép. Họ trầm trồ khen ngợi hết lời
những cái cổng làng này. Mặc dù, chúng ta còn rất nhiều những cái cổng làng
khác đẹp hơn nhiều. Có những cổng làng được xây dựng thật hoành tráng với ba cổng
tò vò liền nhau. Hai cổng hai bên nhỏ hơn cổng giữa như kiểu toà tam quan ở
đình.
Ở những làng có nhiều người làm quan to, thậm chí có cả những
tướng quân hiển hách, bên cạnh cổng làng được dựng một bia “hạ mã". Ai đi
ngựa tới đây phải xuống ngựa. Ở hai cánh cửa có một hổ phù. Làng nào có nhiều
người đỗ đạt, nhiều quan văn thì cổng làng có nhiều câu đối hay, những bức
hoành để ngợi ca và khuyến học. Có những cổng làng đắp quả bầu trên nóc. Quả bầu
này là quả bầu chứa đựng tinh hoa của cả vũ trụ. Có hình hai con cá hoá long chầu
hai bên quả bầu. Bức hoành thường đề chữ Tiểu vi đại (cái nhỏ là cái lớn) hoặc
hàng chữ Trực đạo vi hành (đi đường thẳng).
Có cổng lại có cả điếm canh nhô lên cao. Đó là nơi để các tuần
phu đứng lên cao mà quan sát xung quanh. Đêm đông họ đốt lửa trên chòi. Trước
kia xây cổng làng phải có thầy địa lý xem phong thổ, xem địa thế. Cổng làng phải
dựa vào thế đất có long quỳ hổ phục hoặc bụng con cá mới mong có được uy vũ và
sự sinh sôi. Nếu dựa đúng vào thế bị gậy thì không hay. Riêng về mặt kiến trúc
và trang trí những mây, nước, hoa, lá, màu sắc, đường nét…
Những cái cổng làng xưa còn giữ lại cả một kho báu vô giá.
Chúng được xây dựng bằng những bàn tay thần tình của các bậc cha ông chúng ta.
Những đường nét, hoa văn mang lại cho chúng ta nhiều tín hiệu từ xa xưa cũng
như những mật mã về cái đẹp và tư duy truyền thống, đòi hỏi người đời sau giải
mã. Ngắm cổng làng, có lúc ta thấy nó dịu dàng như tình mẹ, lúc đỏ rực lên như
ráng chiều, lúc đăm chiêu dằn vặt. Có lúc nó lại mơ màng sương khói. Cổng làng
quan sát những điều thánh thiện và những điều ma quỷ trong cộng đồng. Nó là sự
đón nhận.
Cổng làng giữ lại những kỷ niệm của những phút giây lịch sử.
Cổng luôn im lặng, giữ trong mình những điều bí mật của ngàn đời. Cổng làng
rung động khôn xiết cùng với bức tường cũ rêu phong và với những chứng tích nhiều
năm tháng đã qua. Cổng làng không chỉ nhìn và thấy, nó còn suy tư. Cánh cửa cổng
làng mở là thuộc về dương, đóng là thuộc về âm. Chúng ta không quên cái cổng
làng Vũ Đại gắn bó với những nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Bá Kiến… của
Nam Cao.
Cũng không quên cái cổng làng trong tiểu thuyết Tắt Đèn của
Ngô Tất Tố. Chỉ vì mấy suất sưu chưa đóng đủ mà tuần phu nhất định không mở cổng
làng cho mọi người ra đồng làm việc hoặc đi lại khiến nhân dân bất bình đấu
tranh.
Quê hương là đêm trăng tỏ.
Quê hương là chùm khế ngọt v.v…
Nhưng quê hương cũng còn là cái cổng làng những người con khi
xa quê hương đều cúi đầu chào trước cổng làng, hẹn ngày trở lại. Ngày xưa, quan
Trạng về làng cũng phải vái chào cái cổng làng rồi mới đi qua. Tất cả mọi hoạt
động trong làng đều được đưa đến cái cổng làng. Những tin tức được niêm yết lên
và được mọi người kháo nhau, bàn bạc, truyền bá thành những câu chuyện không
bao giờ hết. Ngay sau cái cổng làng thường mọc lên một vài quán hàng. Một số
gia đình quây quần tụ tập lại với nhau hình thành một xóm gọi là xóm cổng. Xóm
cổng này thường là xóm đông vui nhất làng. Người ta đến đây để nghỉ ngơi, vui
chơi thư giãn với bát nước trà, điếu thuốc lào và tán chuyện gẫu với nhau. Cạnh
cái cổng làng cũng là nơi trai gái hẹn hò. Họ nhìn lên cổng làng mà thề thốt
yêu nhau "đến đầu bạc răng long”. Có khi lại có đám hát xẩm đến hát làm
náo nức đám đông với những điệu hát buồn dân dã. Tiếng đàn bầu hoà theo tiếng
nhị làm bâng khuâng cả lối xóm. Trong những ngày hội hè, lễ tết, xóm cổng thường
là xóm đông vui hơn cả.
Cổng làng thân thiết và gần gũi với mỗi người trong chúng ta.
Không thể nào quên được hình ảnh cái cổng làng rêu phong, sương khói trầm mặc
mà kiêu hùng.
NHỮNG PHO TƯỢNG QUÝ HIẾM
TƯỢNG BÀ TRƯƠNG THỊ NGỌC CHÚC VÀ CÔNG CHÚA LÊ THỊ NGỌC DUYÊN Ở
CHÙA BÚT THÁP.
Chùa Bút Tháp có nhiều tượng, nhưng khách tham quan thường
chú ý đến hai pho tượng, đó là tượng bà Trương và Công chúa Ngọc Duyên. Cả hai
pho tượng đều ở tư thế ngồi thiền, được đặt trong khám thờ sơn son thếp vàng rực
rỡ. Bà Hoàng đội vương miện có chỏm cao. Nhưng bà lại khoác áo kiểu tu hành.
Còn Công chúa mặc xiêm y của vương triều. Đó là hai khuôn mặt rạng rỡ, hoa phấn
phiêu bồng. Những đôi mắt nghiêm nghị, đoan trang, nhìn thẳng. Môi hơi mỉm cười
đôn hậu. Những nếp áo xô lên nhau như những đợt sóng luân hồi, sóng nhân tình
gió bụi.
Bà Hoàng mặc áo vàng nhiều hoa văn, cổ xẻ thật sâu, lộ rõ
cánh yếm màu phớt hồng trần thế. Đôi mắt sắc, lông mày sương khói mà người
Trung Quốc gọi là "yên mi". Theo bút tích còn lại, lúc còn sống, bà
Hoàng và Công chúa đều góp cả tâm lực, tài lực cho việc xây dựng chùa và giúp đỡ
người nghèo. Nên khi họ về với Phật, các nghệ nhân tài hoa đã tạc tượng họ với
tất cả tấm lòng.
TƯỢNG BÀ CHÚA TẠI CHÙA MÍA
Bà Ngô Thị Ngọc Duyên vốn là một thôn nữ. Bà được chúa Trịnh
Tráng mời vào phủ chúa. Bà chỉ ơ phủ chúa một thời gian rồi về sống với dân
thôn. Bà dùng tiền nhà chúa cho để khai khẩn bãi sông và tạo dựng chùa Mía. Bà
choàng bên ngoài một khăn choàng màu sữa "vũ trụ" lên khắp phần trên
và nửa đầu. Tóc buông thả, có đường ngôi giữa. Khuôn mặt trái xoan, cặp mày
thanh tú, như mây cong. Mắt nhìn xa xôi, cương nghị. Môi quả tim. Phần nào có
nét của nữ thần Funông.
TƯỢNG BÀ CHÚA ĐẦM MAI ĐỘNG
Bà có khuôn mặt đầy đặn, nhân hậu. Tóc chải ngược, kết trên đỉnh.
Có giải lục trang trí, chảy ra sau lưng. Tượng mặc áo choàng, Cổ kiêu ba ngấn.
Cánh tay nhẹ nhàng để lửng thư không.
PHO TƯỢNG THÁNH MẪU LIỄU HẠNH Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH
Thánh Mẫu là một trong "Tứ bất tử" của Việt nam Tượng
cao 2,5 mét, phủ sơn son thếp vàng. Dáng uy nghi, đường bệ, cao sang, quyền
quý, thánh thiện mà rất "đời”. Thánh Mẫu vừa là người nhà trời, vừa là người
trần thế. Người đã từng là vợ, là mẹ. Người bênh vực kẻ yếu. Tượng có đôi mắt hạnh
nhân. Khuôn trăng, mày liễu, Cổ kiêu. Hai bàn tay đặt nhẹ lên nhau, từ bi, thư
thái, thương đời. Áo trong của người có những đường gạch ánh sáng. Áo ngoài có
hình hài mây khói. Đó là hương trầm, là sự hy sinh, là cầu nối giữa trời và đất.
TƯỢNG CHIÊU NGHI PHẠM THỊ NGỌC XUYẾN
Tượng toạ lạc tại xã Xuân Tảo (Từ Liêm). Bà mồ côi từ nhỏ phải
đi làm con nuôi một gia đình nọ. Nhưng vì bà thông minh và có nhan sắc chim sa
cá lặn nên được chúa Trịnh Tạc lấy làm vợ, phong cho bà là Chiêu Nghi, rồi đệ
nhất cung Tần. Bà thường về thăm quê, bỏ tiền ra mua ruộng tặng làng và dựng
chùa. Tượng Chiêu Nghi là một bức tượng rất đẹp, tập trung được hầu như tất cả
các nét đẹp chuẩn mực truyền thống của cái đẹp Việt nam nói riêng và của phương
Đông nói chung. Đôi mắt tượng xa khơi, tinh anh, trí tuệ. Mắt to mà sáng, cổ
cao, lông mày dáng "tân nguyệt" (trăng non). Đó là cái vẻ đẹp thiên
thần theo quan niệm á Đông. Tóc buông dài. Đầu đội mũ miện. Dáng ngồi ung dung,
tự tại, đầy niềm tin. Mặt hoa da phấn.
TƯỢNG HOÀNG HẬU DƯƠNG VÂN NGA Ở ĐỀN VUA LÊ
Tượng được nhiều bạn nước ngoài đánh giá rất cao: “Một trong
những pho tượng đẹp của Đông Nam á” Tượng có vẻ mặt kiêu sa, duyên dáng, đằm thắm,
mềm mại, ngọt ngào. Bụng thon, ngực nở, tay chân tuyệt mỹ, dịu hiền, ấm áp, đôn
hậu, bao dung, cằm cân nảy mực. Xiêm y của người chỉ cần sửa đổi lại một chút
cho “hiện đại” là đủ sức làm nghiêng ngửa giới thời trang trong và ngoài nước…
TƯỢNG PHẬT Ở CHÙA HƯƠNG TÍCH
Khuôn mặt Phật không có chút xao động, trầm mặc, sâu lắng
trang nghiêm. Mắt hơi khép mũi thẳng. Miệng tươi, đậm đà, Phảng phất nét
"cứu độ”. Nếp áo phía lưng của người chạy chéo từ vai trái xuống, lượn
cong lên rồi cuộn lại như áng mây ở Phía cạnh bên phải… Một số khách du lịch nước
ngoài rất thích thú và say mê, thành khẩn trước những Pho tượng thờ ở nước ta.
Đó là những Pho tượng các bà chúa, Phật, Thánh Mẫu, Công chúa, giai nhân… ở các
đình chùa, miếu ở Hà Nội và các vùng lân cận. Họ là những nhà du lịch chú ý đến
văn hoá và nghệ thuật. Các bạn Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan nhận xét:
"Những ngôi sao như Lưu Hiểu Khánh, Củng Lợi, Lưu Tuyết Hoa, Trương Mạn Ngọc…
chỉ có được chút ít vẻ đẹp nơi các pho tượng thờ ở Việt nam".
Để hiểu biết chân dung các vị nữ thần, vương hậu, Công chúa,
các vị nữ anh hùng… được tôn thờ ở Việt nam, chúng ta mới chỉ được đọc qua trên
sách báo, xem vài vở kịch, nghe chút nhạc, xem múa mà tưởng tượng ra. Nhưng cái
vẻ đẹp tổng thể, đích thực, phong phú lộng lẫy của những khuôn mặt phi phàm đó
lại được định hình ở mặt điêu khắc tạc tượng. Qua nghê thuật này, chúng ta mới
có thể thấy những khuynh hướng cơ bản về ý tưởng lý tưởng hoá và tinh thần hoá
vẻ đẹp tâm hồn và cơ thể của nhân vật…
Một số nhà nghiên cứu về thời trang và về nghệ thuật trang điểm
nước ngoài đã sang thăm Việt nam. Họ không muốn nói rằng họ làm những công việc
này. Nhưng họ bỏ ra nhiều thì giờ đi nghiên cứu các tượng Thờ của Việt nam. Phải
chăng những pho tượng ở các đình, chùa, đền, miếu Việt nam đang lên ngôi? Chúng
ta không thể thờ ơ lại càng không thể thiếu hiểu biết về những pho tượng quý hiếm
mà cha ông đã để lại cho chúng ta.
CÂY GẠO
Cùng với đình, chùa, cây đa…, cây gạo cũng là một hình ảnh
quen thuộc và gần gũi của làng quê Việt nam. Cây gạo có thể được trồng ở những
mảnh đất trống, vắng, xa một chút với đình, chùa, miếu, ở bãi tha ma, ở đầu chợ,
ở cuối làng như câu: "Đầu đa, gạo cuối chuối sau, cau trước”…
Người theo Phật giáo thích cây đa. Người theo Đạo giáo thích
cây gạo. Mọi người cũng nói: “Thần cây đa, ma cây gạo“. Cây đa sum sê, xanh
tươi, kín lá, rễ buông xuống rất thơ mộng. Người ta có thể tạm trú mưa, nắng dưới
gốc đa. Còn cây gạo thì cao lêu nghêu, khẳng khiu, ít lá. Bên gốc cây đa hoặc
cây gạo thường có một bàn thờ nhỏ. Có cả bát hương để thờ phật hoặc thờ ma.
Cách đây mấy năm, tại cây gạo ở góc Văn Miếu lúc nào cũng có
khói hương nghi ngút. Cây gạo, phương Tây gọi tà Kapokier, Trung Quốc gọi là mộc
miên, nó tượng trưng cho cuộc đời, cho sự ngay thẳng. Nó đón ánh mặt trời và mặt
trăng. Nó đứng cao vút hẳn lên, chống lại với bão táp, gió mưa, chịu trận cho đồng
loại. Nó đứng bình thản, chân thực, mà kiên cường. Nó như một anh lính gác, định
hướng, chỉ cho mọi người dễ nhận ra làng xóm của mình từ rất xa. Nó tượng trưng
cho sự trường thọ, giữ liên lạc giữa trời và đất. Nó là cây vũ trụ. Các loài bò
sát bám vào gốc cây và rễ của nó. Nhiều loài chim đến với nó. Chim lớn ở những
cành trên cao. Chim nhỏ ở những cành thấp hơn, chúng ríu rít, giọng cao, giọng
trầm, chuyện trò với nhau, tưng bừng, nhộn nhịp, lại tranh cãi với nhau như họp
chợ. Khung cảnh thật tưng bừng, náo nhiệt. Nhưng cây gạo chỉ là "câu lạc bộ",
là nơi chúng ngừng nghỉ chốc lát trong những chuyến bay dài mà thôi. Chúng
không bao giờ làm tổ trên cây gạo. Vì cây gạo thưa lá, chẳng có lá để nguỵ
trang. Chúng rất dễ bị lộ. Tuy vậy, cây gạo hiếu khách, niềm nở. Lá cây gạo mềm
dẻo luôn đón những làn gió qua lại. Cành thì nhiệt liệt đón chim từ mọi nơi đến.
Gọi là chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong.
Cứ đến tháng 3, 4 hàng năm, cây gạo ra hoa, làm đỏ rực cả một
khoảng trời. Người ta bảo là cây gạo thắp đèn toả sáng. Nếu mấy cây gạo ở gần
nhau, cùng nở hoa thì gọi là các cây gạo thắp đuốc. Ánh sáng của hoa gạo sáng đỏ,
rực rỡ. Nếu trong Truyện Kiều có câu: “Đầu tường, lửa lựu lập lòe đâm bông” thì
hoa lựu thắp sáng một quãng vườn. Còn hoa gạo cao, nhiều cành và có nhiều hoa
xòe ngửa lên trời.
Ở chùa Hương, đến mùa hoa gạo nở, màu đỏ hai bên núi chạy dọc
theo suối Yến. Nhiều hàng cây gạo cứ xếp hàng bên nhau như những dãy đèn. Có những
nơi, các cây gạo tập trung lại với nhau, đã tạo ra những "đám cháy” làm ta
loá mắt. Du khách bảo hoa gạo thắp sáng chùa Hương. Có nhiều khi hoa gạo rơi cả
xuống thuyền của du khách dạo chơi trên suối. Cây gạo làm đẹp cho mọi người và
cái đẹp làm cho người ta trở nên thánh thiện hơn, yêu cuộc sống hơn. Cảnh tượng
này gây ấn tượng rất mạnh mẽ đối với khách du lịch người nước ngoài. Hẹn trở lại
chùa Hương một lần nữa và gọi hoa gạo là "hoa tình yêu".
Ở Tây Nguyên, cây gạo được gọi là cây Pơlang. Chúng làm đỏ rực
cả những khu rừng, đồi, sân nhà Rông. Cây gạo ở đây là cây để buộc con trâu hiến
sinh trong lễ đâm trâu. Do đó, cây gạo cũng được gọi là cây hiến sinh. Những cặp
tình nhân không bao giờ đưa nhau ra gốc cây gạo mà tình tự. Đó là điều tối kị.
Họ cho rằng như vậy sẽ gặp phải những sự không may mắn.
Cây gạo lạnh lẽo cô đơn, thường có mặt ở những nơi vắng vẻ,
khuất nẻo. Những linh hồn phiêu bạt không có người thân cúng giỗ thường lẩn quất
nơi cây gạo. Ngày rằm tháng bảy là ngày cúng cô hồn của thập loại chúng sinh
thường được tổ chức gần nơi cây gạo. Người ta vứt tất cả những đồ còn thừa lại
sau khi cúng lễ vào cây gạo và cũng có nghĩa là cúng cho các cô hồn vương vất
quanh cây gạo. Đã có câu: "Ríu rít thì đến cây đa, nhạt tình thì đến tha
ma cây gạo”? Vỏ cây gạo làm thuốc cho ra thai, thuốc chữa sa đì. Rễ cây gạo ăn
rộng và sâu nên cây gạo rất vững chắc. Phần cắm sâu xuống đất có những nốt phồng
lên gọi là củ làm thức ăn độ nhật cho người xưa khi thiếu lương thực.
Đến cuối tháng 4, 5, bông gạo bay tả tơi theo tất cả các chiều
gió, giăng đầy không gian như là tuyết rơi gợi lên mái tóc bạc của các mẹ già.
Người nghèo thường nhặt, gom lại để may áo bông chống rét. Người Tây Nguyên và
người Thái lấy bông gạo làm đệm trải giường và làm phao cứu sinh. Đệm bông gáo
của người Thái Mai Châu rất nổi tiếng. Loại đệm này có độ xốp lý tưởng. Nằm rất
êm mà không bí như đệm mút, đệm ga bông từ cây bông rất chóng dẹt và hút ẩm,
không bằng bông gạo. Nhất là những chiếc đệm đó lại có những đường thêu bay bổng
mà thâm trầm. Chúng cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Gỗ cây gạo
trắng, thớ mịn dùng để làm áo quan. Nhất vàng tâm, nhì gỗ gạo. Gỗ cây gạo còn
dùng để khắc những bản đồ để in. Nhựa cây gạo phối hợp với một vài loại nhựa
khác nữa, dùng làm nhựa để bẫy chim gáy, chim hoạ mi, chim ngói. Hoa gạo cánh
to mà dày. Nó rơi xuống đất, rất chóng héo tàn.
Ở phương Tây, gần đây có một số hãng mỹ phẩm thử nghiệm và
tìm tòi màu đỏ cho son môi. Màu đó là sự phối hợp giữa đỏ, vàng và trắng. Cuối
cùng, họ kết luận: "Màu đỏ lý tưởng đó là màu của hoa gạo". Cindy
Crawford dùng màu đỏ hoa gạo. Màu môi của Sharon Stone cộng với màu đỏ trên môi
Madona thành màu đỏ hoa gạo.
Cây gạo sống hàng ngàn năm. Nó là nhân chứng yên lặng của nhiều
đời người. Nó chứng kiến những sự thăng trầm đầy mồ hôi nước mắt, thậm chí cả
máu lửa của nhiều thế hệ. Nó biết tất cả, nó chứng kiến những gì xảy ra với những
kiếp người phù du. Những người đi chợ xa, đi buôn bán xa, đi công tác ít ngày…
đặc biệt là những người đi xa quê đã lâu năm… nhìn thấy từ xa ngọn cây gạo thấy
thân quen vô cùng. Họ đi tắt rồi xuyên qua đoạn ngõ xanh biếc nữa thôi là về đến
nhà. Nơi đây có người mẹ, người vợ hoặc người thân đang chờ đón họ…Cây gạo cũng
là một hình ảnh thân yêu độc đáo và nổi bật của làng quê Việt nam…
CON NGHÊ ĐÁ
Ở những nơi trang trọng, nổi bật tại các làng xóm thường có một
con vật quen thuộc, được kính nể, yêu mến. Đó là những con nghê đá được đặt hai
bên cổng làng,cổng tam quan, cổng xóm, cổng đình, sân đình. Có khi những con
nghê còn ngồi chót vót trên đỉnh cột cổng tam quan như đang bay trong mây. Con
nghê được tạc bằng đá, bằng đất nung hoặc bằng vôi cát có tô vẽ đủ màu sắc sặc
sỡ. Nghê được tạc bằng đá để nói lên rằng, chẳng có gì lay chuyển được chúng và
chúng tồn tại mãi mãi. Những con nghê có mặt từ những đời xa xưa. Chúng là những
con vật linh thiêng, dũng cảm, tinh khôn. Chúng bênh vực điều thiện, trừng phạt
điều ác.
Chúng được gọi là nghê vì chúng có họ với những rồng, sư tử,
kỳ lân. Vì vậy, chúng vừa là rồng, vừa là sư tử. Rồng vờn mây, phun mưa cho đồng
ruộng, mùa màng. Rồng còn mang lại những điều tốt lành và kỳ diệu đến cho mọi
nhà. Sư tử có sức mạnh ghê gớm, uy phong lẫm liệt canh gác cho sự bình yên của
xóm làng, bảo vệ người tốt, răn đe kẻ xấu. Nhất là trên đầu nó lại có một cái sừng
nhọn như mũi tên và sắc như gươm. Nó bảo vệ cái cổng làng là lối vào làng.
Chúng lại còn một tác dụng nữa là trang điểm cho cảnh quan xung quanh.
Cổng làng, sân đình có được những con nghê sẽ trở nên đẹp đẽ,
rực rỡ hơn. Con nghê có đôi mắt to và sáng, trán rộng, đầu to có sừng, miệng rộng,
nhe cả hai hàm răng, vai rộng, thân hình nhiều vẩy. Nhìn kỹ, con nghê trông rất
dữ dội với hai hàm răng. Nhưng nó lại rất hiền lành vì nó cười. Bước qua mấy bậc
cổng làng là trông thấy ngay hai con nghê. Người tốt thấy nghê cười với mình,
người không tốt, thấy sợ sệt. Những con nghê canh gác, bảo vệ làng xóm, kiên nhẫn
và nghiêm túc như những con vật sống. Chúng kiểm tra người ra, kẻ vào. Chúng
nhìn xa đến tận những cánh đồng bát ngát, chúng lắng nghe những tiếng hót của bầy
chim trên các cành cây, tiếng cười của các cô gái giã gạo, tiếng đập lúa tiếng
trẻ con nô đùa v.v…
Chúng biết tất cả mọi chuyện vui, buồn của người dân trong
làng. Chúng chứng kiến những đám cưới đi vào làng, đám ma đi khỏi làng, những
đám rước, đội kèn trống nhộn nhịp trong những ngày hội. Người đi khỏi làng,
nhìn con nghê một lần như để chào từ biệt nó. Người đi xa về cũng chào hỏi nó
như thể báo cho nó biết rằng mình đã về làng. Con nghê thân thiết với tất cả mọi
người. Chẳng bao giờ chúng ta quên được hình ảnh thân yêu của con nghê đầu
làng. Hình ảnh con nghê đá là một trong những hình ảnh thân yêu của xóm làng Việt
nam.
MIẾU ĐỒNG CỔ
Miếu Đồng cổ được xây dựng từ đời Lý, trong lịch sử đã được
trùng tu nhiều lần, lần trung tu cuối cùng là vào đời Nguyễn. Qua nhiều năm
tháng và chiến tranh liên miên, mảnh đất của miếu là nơi đã từng chịu đựng nhiều
bom đạn. Miếu đã bị phá hỏng gần như hoàn toàn, chỉ còn lại những mảnh tường, gạch,
đá, kèo, cột, khám gỗ, nội cung. Hoà bình lập lại, nhân dân vớt được những bộ
ngai sơn son thếp vàng và một số đồ cúng, tế, lọ độc bình, chiêng v.v… ở dưới
ao lên, tập trung vào trong khám nội cung, dựng một mái ngói tạm thời để che chắn,
bảo quản.
Đó là cái cảnh "miếu cổ vàng sơn nhạt" như bất cứ ở
nơi đâu đến năm 1960, trong phong trào bài trừ mê tín, sở Văn hoá Hà Nội đã
mang đi nhiều đồ thờ bằng đồng, đá… rồi để thất lạc. Đến năm 1990, nhân dân
làng Đông cùng với nhân dân các làng quanh khu vực Bưởi tích cực đi quyên tiền,
xây dựng lại miếu ở ngay mảnh đất cũ. May thay, trong phường thờ có hơn 10 người
là những người có truyền thống xây cất đình, chùa. Đó là phường thợ Thạch Thất
nổi tiếng. Ông trùm phường thợ đã có tuổi, từng được nghe cha ông mình nói chuyện
trước đây đã tham gia sửa chữa miếu Đồng Cổ. Ông quyết tâm xây dựng lại miếu Đồng
Cổ với dáng dấp xưa kia của nó. Miếu được xây lên như một cái lầu 8 mái, hai tầng.
Tất cả các bộ phận bằng gỗ đều là gỗ tứ thiết. Những đường nét, hoa văn đều giữ
được vẻ tài hoa truyền thống. Khách hành hương, từ Hà Nội tới theo đường Thuỵ
Khuê, qua làng Hồ Khẩu là đến làng Đông. Tới đây, qua cầu sông Tô Lịch rồi vào
sâu chừng 200 mét nữa là đến cổng miếu. Miếu có tam quan, vườn hoa, có hòn non
bộ. Hai bên phải, trái có tả vu và hữu vu. Chính giữa miếu gồm gian nhất bái,
nhị bái rồi đến hậu cung. Gian nhị bái có bàn thờ và ba chiếc ngai loại vừa để
bài vị. Hậu cung có ba cỗ ngai sơn son thếp vàng loại lớn, có cách đây khoảng
200 năm. Trên ngai có áo bạch long và mũ của thần Đồng Cổ. Mũ màu đỏ, có nhiều
chi tiết trang trí nổi bằng kim loại dát rất mỏng. Cảnh quan của miếu rất đẹp.
Tiếc rằng, một đơn vị quân đội đã đóng quân trên diện tích khoảng 300 m2 đằng
sau hậu cung, làm cho miếu bị méo mó. Không gian thiêng liêng của miếu bị phá vỡ…
Trước đây, hàng năm, cứ đến ngày mồng bốn tháng tư âm lịch,
nhà vua (hoặc các quan nhất triều được vua chỉ định) dẫn các quan cao trong triều
đến miếu Đồng cô lễ tạ thần. Lúc mặt trời mọc, họ làm lễ uống máu ăn thề để có
sự chứng giám của thần. Tất cả đều tuốt gươm trần (các quan võ), giơ cao lên thề:
"Làm tôi bất trung
Làm con bất hiếu
Thần minh chu diệt…"
Sau đó các quan, quân lại nườm nượp ngựa xe, kéo về thành Cửa
Đông. Đến chiều, các dòng họ, các đại biểu những làng xung quanh, rồi đến khách
hành hương khắp mọi nơi làm lễ cầu thần phù hộ cho nhân dân được an khang, thịnh
vượng. Lễ hội kéo dài hai ngày với các trò chơi như: đánh đu, bắt vịt, chọi gà,
cờ tướng v.v… Riêng sân khấu chèo và tuồng được kéo dài đến nửa tháng. Trai gái
trong vùng Bưởi thường mượn buổi chiều tối của miếu, mượn trăng của miếu, dắt
nhau, thấp thoáng bên tường miếu rêu phong mà thề thốt:
"Một duyên, hai nợ, ba tình
Chúng con gắn bó, xin thần chứng minh".
Năm 1995, một đoàn đại biểu thôn Châu Nê, xã An Định, huyện
An Thọ tỉnh Thanh Hoá ra dự lễ tế thần Đồng Cổ ở làng Đông Xã, quận Ba Đình. Họ
đã tham khảo kiến trúc miếu để về quê hương xây dựng lại miếu ở dưới chân núi Đồng
Cổ, Thanh Hoá đã bị san phẳng từ lâu. Sự tích thần Đồng cổ đã được ghi nhiều
trong sử sách, nhất là trong Việt Điện U Linh và cả trong lòng dân. Sau khi Lý
Thái Tổ rời đô về Thăng Long, hoàng tử Lý Phật Mã đi dẹp loạn phương Nam
(1020), đến chân núi Khả Thanh (còn gọi là núi Đồng Cổ), thái tử đóng quân ở
bên cạnh ngôi miếu có. Đêm đến, Lý Phật Mã nằm mơ thấy vị thần trong miếu xưng
là thần miếu núi Đồng Cổ đến chúc tụng thái tử và xin góp sức giúp thái tử dẹp
loạn. Trận đánh sau đó đã thắng to Lúc về, Lý Phật Mã rước thần về kinh đô để
nhờ thần trấn giữ kinh thành. Thái tử chưa biết nên lập miếu thờ cho thần ở đâu
thì được thần báo mộng xin cho đặt miếu thờ ở sau cung Thánh Thọ (làng Hồ Khẩu)
trước mặt là sông Tô Lịch, phía sau dựa vào thành Đại La. Khi Lý Thái Tổ mất,
thái tử lên ngôi (Lý Nhân Tông), thần lại báo mộng mách bảo cho nhà vua biết ba
vị vương muốn kéo quân về kinh thành làm phản. Kết quả, vua dẹp được loạn Tam
Vương. Vua tạ ơn thần và phong cho thần là minh chủ gia tướng đại vương Đồng Cổ.
CHỢ GIỜI HÀ NỘI
Chợ Giời của Hà Nội có từ rất sớm. Nó chẳng giống như các chợ
khác như chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Bưởi… Nó vội vàng thay đổi nơi chốn, tụ họp
vào một nơi rồi mở rộng một cách rất "thời sự". Thoạt đầu là sau ngày
Nhật đảo chính Pháp (1945). Rồi đến khi ta tiếp quản Thủ đô, hiệp định Geneve
được ký kết, đến phong trào Nam tiến của hàng triệu người… cứ mỗi đợt lại thêm
người bán và kẻ mua. Hàng hoá mọi mặt lại phong phú hơn.
Chợ được họp ở góc phố Thiền Quang, phố Quang Trung, mở rộng
ra quanh hồ, chạy sang phố Hồ Xuân Hương. Có chợ ở gần nhà máy Trần Hưng Đạo rồi
bị “đuổi” vào bãi than gần trường Đoàn Kết. Nó còn giữ được cái tên chợ Đuổi
cho đến giờ.
Nơi họp chợ tập trung tại bãi than rộng rãi, hoang vu không hợp
với đặc trưng của một cái chợ. Thế là mọi người tràn ra phía chùa Vua Đế Thích,
lấy dân làm trung tâm rồi toả ra mọi phía như là những chiếc nan hoa của một
chiếc bánh xe đạp khổng lồ. Nơi đây kề cạnh với những trục đường cái quan, đường
chính. Có thể tiến được mà cũng có thể thoái được theo nhiều ngả.
Chợ họp từ sáng sớm đến khi thành phố lên đèn, thậm chí đến cả
đêm. Suốt ngày nhộn nhịp, mua nhanh, bán nhanh theo tình hình trong nước có những
biến chuyển và cả tình trạng kẻ ở người đi… Lúc này chợ Giời còn gọi là chợ Trời
ơi đất hỡi. Có những cô gái ở phương trời nào không biết cũng xô đến, làm quen,
bắt mối hoặc buôn bán với khách mày râu, lãng tử làm cái trò nửa thương nghiệp
nửa ái tình. Lại có những người có duyên, kiếm được tiền mời nhau đi nhậu nhẹt,
mời các cô ả đi đập phá. Trời cho ấy mà. Chẳng ai từ chối.
Đến năm 1955, chợ Giời mới được thành lập một cách chính thức.
Chợ Giời có đủ các loại mặt hàng "thượng vàng hạ cám", khách có thể
mua phụ tùng để lắp chừng 10 cái xe đạp, nhưng nếu cần, khách có thể mua 1 chiếc
nan hoa, một ốc tanh, con vít… Cũng xin có ngay với giá "mềm". Ở đây,
bạn có thể mua từ chiếc kim hoạn lợn đến các máy móc tinh vi, đắt tiền. Người
ta có thể “chạy” cho bạn những mặt hàng "chua" nhất mà không đâu có.
Từ năm 1955 trở đi, chợ Giời đã là một cái chợ quy củ mà tầm cỡ của nó làm cho
cả nước biết đến. Nó có nhiều ưu điểm mà các chợ khác không thể có. Nhưng thực
ra đến năm 1980, nó mới thực sự trưởng thành. chợ được mở rộng ra nhiều. Ngoài
khu trung tâm, nó còn kéo theo ra đường lớn trong khu tập thể Nguyễn Công Trứ với
hai dãy dài gồm gần 500 hộ, kéo ra phố 235 và cạnh trường Đoàn Kết, hai dãy các
đồ phụ tùng ô tô xe máy, ti vi, điện tử, đầu máy ti vi, cát sét và lúc nào cũng
có chừng 500 chiếc xe đạp bán… Kể cả dãy Phố Thịnh Yên và toàn bộ chợ Giời nay
gồm ngót 2000 hộ. Các lều lán đều bằng cột thép lợp mái tôn ngay ngắn. Nó đã được
ổn định. Tử gần chục năm lại đây những hộ buôn bán ở chợ Giời đã có đời sống ổn
định thậm chí còn khá thầm là khác. Họ buôn bán rất hiện đại. Có nhiều người đã
rút khỏi chợ Giời hoặc vẫn giữ chỗ nhưng mua bán lại thực hiện ở nơi khác… Họ
thực hiện những hợp đồng lớn với hầu hết các tỉnh trong cả nước. Họ buôn bán
qua điện thoại. Nhiều người đã mở khách sạn, xây biệt thự. 50% số hộ chợ. Giời
buôn bán với mức tiêu thụ nhanh, có nhiều mối hàng, có mức sống khá cao nhưng cần
kiệm để có thể buôn được càng ngày càng lớn hơn. Số hộ buôn bán còn lại 30% là
những hộ cầm cự với cuộc sống hàng ngày. Lưng vốn của họ có chừng từ 5 đến 10
triệu, vừa buôn vừa vay nóng, vay nguội. Tuy vậy, mức sống của họ cũng không đến
nỗi. Tất cả các hộ dù giàu dù nghèo đều phải cộng tác gần gũi với những người bỏ
vốn và những người cầm cái họ. Đó là những con người rất thạo đời, biết làm cho
đồng tiền nảy nở. Họ có chăng đóng góp tích cực vào thị trường. Họ sống rất quần
chúng. Luôn nhắc đến câu:
"Ăn mày là ai, ăn mày là ta.
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày".
Hoặc câu:
"Tiền có khi làm cho người ta hư hỏng,
nhưng tiền cũng làm cho con người ta trở nên tốt hơn".
Các hàng sách, báo bán được nhiều ở chợ Giời. Nhất là khi có
những tin tức đặc biệt, như tin về cúp bóng đá thế giới, tin về vụ cháy ở chợ Đồng
Xuân chẳng hạn. Những người cho thuê truyện và bán vé sổ xổ cũng đến tận các quầy
hàng để “chào hàng". Đã từ mấy năm nay, do chính sách mở cửa, khuyến khích
buôn bán, ở Hà Nội đâu cũng là chợ. Tuy vậy, chợ Giời vẫn có thế mạnh của nó, sự
hấp dẫn của nó và nó luôn luôn tồn tại.
CÁI CẦU MÁI NGÓI
Ở các làng quê ta, ruộng đồng bao la. Từ làng này sang làng
khác phải qua những cánh đồng bát ngát. Đâu đó, thường hiện lên những cây cầu.
Đôi khi từ cánh đồng làng này sang cánh đồng làng bên kia cũng phải đi mất hàng
mấy cây số đường sống trâu, ở giữa chặng đường đó, cũng có cái cầu. Nó là hình ảnh
thân thương của xóm làng, cầu là ngôi nhà công cộng, được xây dựng lên trên một
nền đất cao hơn mặt ruộng. Nó thường được dựng đơn sơ bằng chừng 810 cây cột gỗ.
Mái lợp ngói âm dương hoặc ngói mũi hài, có nơi ngói cũng cong lên đôi chút cho
giống mái đình. Diện tích cầu chỉ khoảng 20 - 30 mét vuông. Mặt trước cầu có
treo chiếc mõ dài bằng gỗ báo canh và chiếc kẻng, chúng sẽ lên tiếng khi có
"động” hoặc có chuyện trộm cướp…
Cái cầu là nơi để mọi người nghỉ chân chốc lát, tránh nắng những
trưa hè gay gắt. Một, hai bác thợ cầy ăn cơm trưa, nghỉ ngơi một lát nơi đây rồi
lại tiếp tục xuống đồng. Ban đêm, cái cầu trở thành cái điếm canh của trương tuần
và tuần phu gác và làm công việc trị an. Họ được trang bị mấy tay thước và cái
đèn trai. Đêm đông, họ đốt củi để sưởi.
Cầu được xây dựng bên gốc gạo hoặc đa hoặc một bụi duỗi, cúc
tần. Trong cầu thường có một bà đứng tuổi mở một quán hàng, vì vậy cái cầu còn
được gọi là quán. Quán hàng của chủ quán có đặt một chiếc chõng tre. Mặt chõng
được đan bằng những thanh nứa ghép lại thành hai hàng ghế dài và mấy miếng gỗ
phẳng để mọi người ngồi khi đông khách. Trên mặt chõng có bày một dãy bát uống
nước, mấy gói thuốc lào, thuốc lá; cái ang đông bánh dầy, bách gai; một lọ kẹo
bột, chè lam; vài tấm mía; mấy quả bưởi; vài nải chuối…
Chủ quán ngồi đối diện với khách hàng, bên phải bà là chum nước
chè tươi, trên có miếng dạ ủ và chiếc gáo dừa, bên trái là chiếc bong bóng lợn
phơi khô đựng rượu ngang. Mọi người ăn quà bánh, uống nước, hút thuốc lào sằng
sặc, nhả khói. Họ tán với nhau đủ chuyện thời sự trong xóm làng. Hết chuyện này
sang chuyện khác. Họ bàn sang cung cách làm ăn, có khi họ xen vào những đoạn tiếu
lâm rồi cùng cười phá lên. Chiều tối, bà quán dọn hàng về. Vẫn để nguyên cái
chõng và ghế dài. Một, hai người khách bất đắc dĩ, kẻ lỡ độ đường hoặc hành khất"
nằm ra nền đất ở một góc cầu để nghỉ qua đêm. Đó là cái kiểu nằm cầu gối đất.
Người ta thường nói: “Bơ vơ điếm cỏ, cầu sương” hoặc “nằm cầu gối đất" là
cái cảnh này đây. Ông thợ cạo đặt một chiếc ghế cao bên cạnh cái cầu. Tấm gương
có khung đỏ của ông được treo lên thân cây gạo. Ông làm nghề vít đầu vít cổ
thiên hạ tại đây. Đồ nghề của ông được xếp gọn trong một chiếc hòm gỗ. Cửa hàng
của ông thu hút được nhiều người. Ông được nhiều người yêu mến. Ông luôn tươi
cười, vui vẻ. Ông thuộc lầu lý lịch của nhiều người, nhiều dòng họ. Chuyện gì
ông cũng biết, cũng bàn vào. Ông được “liệt vào hàng sư phụ trong ngón nghề lấy
ráy tai. Ai cũng thích nghe ông kể chuyện. Đôi lúc trong quán có chuyện quá
chén hoặc gây gổ, ông nói vọng vào một vài lời can ngăn là xong ngay.
Chiều mùa hè, trước mặt cầu là bãi thả diều. Một vài ông già
ngồi trong quán, nhìn lên trời xem diều và nghe sáo diều trầm bổng tiếng quê
hương. Lúc gần tối, ráng chiều giội lên cánh đồng và cái cầu làm nên một bức
tranh hùng tráng mà có chút huyền bí, phong sương.
Cái cầu còn là nơi đưa, đón khách. Với những khách quý khách
đặc biệt, nhà chủ phải ra tận cầu đón khách và đưa khách về nhà mình. Khách ở lại
một hai hôm rồi lại ra đi, nhà chủ đưa khách ra tận cầu, nâng chén tiễn biệt gọi
là chén "Quan Hà". Họ chắp tay lại, vái nhau. Có những đôi trai gái
cũng tiễn biệt nhau ở cầu Như vậy cái cầu được coi như là cái "trường
đình", "đoản đình" bên trung Quốc xưa. Lương Sơn Bá và Chúc Anh
Đài đã tiên nhau ở cái trường đình (cầu) này đây. Lại có những cặp nhân tình
không đưa nhau ra cầu mà chỉ lấp ló ở đàng sau rặng cúc tần, duỗi ở bên cạnh cầu
họ ra đây, nhìn lên mái cầu là giải lời nguyền:
"Xin ai đừng nghĩ kẻo già
Cái cầu mái ngói chia tình đôi ta…"
hoặc:
"Cũng chẳng tại em, chẳng tại mình.
Cái cầu mái đỏ.
Chứng tình hai ta…"
Họ đổ lỗi cho cái cầu mái ngói là xong chuyện.
Trên thế gian này, có rất ít những cuộc chia tay bình thản rộng
lượng mà khéo như thế này. Đám cưới đi qua cầu, hai họ cũng chia vài khẩu trầu,
mấy điếu thuốc lá biếu bà hàng quán và những người có mặt trong cầu để mọi người
mừng cho đôi trẻ. Đám ma đi qua, bà quán cũng được mấy miếng trầu của nhà đám.
Vào khoảng mồng 4, mồng 6 Tết Nguyên Đán, trên đường đi tảo mộ
về, mấy thành viên trong một chi họ nào đó rủ nhau vào quán nghỉ chân buổi đầu
xuân. Họ phải đi thăm nhiều ngôi mộ nên lúc này đã mỏi. Họ uống nước, hút thuốc
và ngả con gà luộc và ăn xô mang theo ra đánh chén. Họ mời mọi người cùng thưởng
"thức chút lộc đầu xuân lấy may". Họ cũng mang theo cả rượu mùi để uống
và mời mọi người…
Những năm trước và sau cách mạng tháng Tám 1945, những cái cột
trong cây cầu đều có dán những khẩu hiệu kêu gọi toàn dân đứng dậy làm cách mạng,
những chỉ thị chính sách vv… Cái cầu còn là nơi tập hợp quần chúng. Mặt trước cầu
là bãi tập quân sự của dân quân, cũng là nơi tiễn các thanh niên lên đường nhập
ngũ. Nơi đây, chỉ cần một cái phông đỏ buông xuống là đã trở thành sân khấu để
biểu diễn nghệ thuật: hát chèo, hát tuồng, dân ca…
Có thể nói, cuộc đời nhiều người gắn bó chặt chẽ với cái cầu
xưa kia, nhà thơ Quang Dũng, mỗi khi trở về nhà, bao giờ cũng phải nghỉ chân ở
cái cầu Phượng Trì (Đan Phượng). Anh phải uống bát nước, hút điếu thuốc, tán gẫu
dăm ba câu với mọi người rồi mới về nhà… Anh đã làm một bài thơ lấy tên là
"Thôn Phượng Trì" ngay trong cái quán này. Về mặt chứng tích, các
làng quê ta còn giữ được nhiều cái cầu mái ngói. Chúng đều nổi tiếng, ít nhất
là đối với một vài làng thôn hay một vùng như: Cầu Điều (Cổ Thuê), cầu An Phú,
cầu Giàn (Cáo Đỉnh), cầu Canh (làng Canh), cầu ông Nghè (Quốc Oai), cầu Bún
(Phú Đô), cầu xóm Luỹ (Yên Thái Bưởi) vv…và…vv. Trong tâm khảm sâu xa của chúng
ta, ai cũng có những mảnh hồn quê, chúng cứ không nguôi, bốc lên những làn
sương khói và nhớ nhung. Chúng ta nhớ một dáng núi, một đám mây trước cổng
làng, một con đường nhỏ có vầng trăng khuyết. Chúng ta cũng nhớ đến cái cầu mái
ngói…
NINH HIỆP
Xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội gồm 9 xóm với trên một vạn người.
Đất nông nghiệp chỉ ngót nghét 3000 m2 một đầu người. Dân ở đây đã phải làm bất
cứ nghề gì để tồn tại. Đó là một cái làng đặc biệt mà mấy năm gần đây đã làm
giàu nhanh chóng. Tiếng tăm của nó lừng lẫy, ai cũng biết. Người dân Ninh Hiệp
năng động. Các cô gái cần cù, tất bật bán vải, may quần áo theo dây chuyền: Họ
mặc quần ống thấp ống cao mà phóng xe "cúp". Họ đã khá giầu có nhưng
không khoe của và lố lăng. Cô dâu không mặc váy ba tầng. Đám cưới đều tổ chức ở
uỷ ban nhân dân xã, tốn kém chừng hai chục nghìn. Họ dồn tiền để mở rộng vốn sản
xuất, buôn bán và dịch vụ.
Chợ Ninh Hiệp to mà phong phú. Có bốn mặt hàng mà Ninh Hiệp
đóng vai trò điều chỉnh giá cả thị trường Hà Nội và các vùng xung quanh là vải,
pin đèn, mì chính và phân đạm. Ninh Hiệp có nhiều tổ và nhiều người làm đại lý
có tín nhiệm với các hãng buôn bán trong và ngoài nước. Họ làm dịch vụ, giải
quyết rất nhanh, gọn những yêu cầu về mặt hàng và các hợp đồng buôn bán lớn.
Nhiều hợp đồng tính từ vài trăm triệu trở lên. Lưới buôn bán của Ninh Hiệp đã tạo
thành một tam giác: Ninh Hiệp, Hà Nội và Hải Phòng. Họ giữ chữ tín công khai,
công bằng, đôi khi pha màu "hiệp sĩ".
Ủy ban nhân dân xã đã phát đồng phục cho học sinh trường phổ
thông cơ sở. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy chừng ba chục toà nhà ba tầng dựa
theo kiểu hiện đại và đã vào năm, bảy, tám toà nhà trong đó. Nói chung, nhà
khép kín, lát gạch men trắng, nhà tắm hương sen, giường lò so, máy điều hoà nhiệt
độ, tủ lạnh máy giặt, ti vi màu, đầu video v.v…
Một số bạn nước ngoài ao ước được thuê một hai gian phòng như
vậy tuy nhiên, nhiều nhà sắm sập gụ, tủ chè, khảm trai có cánh cong, tràng kỷ
chạm trổ phong cảnh bốn mùa. Nghĩa là có cả mới cả cũ đối lập nhau nhưng cùng tồn
tại hoà bình. Người ta yêu cả mới lẫn cũ và duy trì các cuộc đối thoại âm thầm
này.
Ninh Hiệp rất tự hào về vốn văn hoá của mình và vinh dự hơn nữa
được nằm trong hình tam giác văn hoá của đất Kinh Bắc, gọi là tam giác thiêng.
Đó là vùng chùa Phật tích, vùng chùa Dâu, đền Gióng, Thô Hà, làng quan họ. Con
sông Cầu nước chảy lơ thơ, "Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh"
v.v… Đều sát ngay cạnh Ninh Hiệp. Ở cái tam giác thiêng này, xưa đã có một nền
nông nghiệp phát triển nổi tiếng với gốm Bát Tràng, tơ lụa Phù Lưu, nồi đồng Quế
Dương v v… Buôn bán giữa đàng trong đàng ngoài, là nơi tụ tập những trai tài
gái sắc, lại có cảnh quan cổ kính nên thơ, đây cũng là nơi tuyển được nhiều mỹ
nữ cung tần cho các vương triều cũ.
Vừa rồi, Ninh Hiệp mở hội truyền thống ở chung quanh chùa
Pháp Vân. Có triển lãm hơn 100 bức tranh của hoạ sĩ Đỗ Đức, là con em làng Ninh
Hiệp. Cũng có triển lãm về nghệ thuật cây cảnh phong phú của câu lạc bộ cây cảnh
của xã. Khách dự hội ca ngợi kỹ thuật ghép cây, nắn cây, tạo thế cây, dựng hòn
non bộ. Đặc biệt có cây si chín tầng, cây si 200 tuổi, các thế cây thạch thùng
vồ mồi, cây trúc đợi chờ hoặc còn gọi là "tình sử" v.v… Mỗi chậu cây,
cành cây, một hòn non bộ là một tác phẩm nghệ thuật. Ngoài nhà văn hoá xã ra,
Ninh Hiệp còn có các câu lạc bộ thể dục, thể thao, có bãi bóng, sân vận động nhỏ.
Trong mấy ngày hội, Ninh Hiệp mời chuyên gia vật của Liên Xô về tham dự, mời
đoàn quan họ gốc có dây mơ rễ ma nội ngoại với mình sang giúp vui. Họ lại còn mời
cả đoàn chèo Thái Bình đến để thưởng thức và học hỏi tinh hoa của một
"lò" chèo đích thực.
Đám nghi trượng rước Phật từ nhà Thạch Sàng (giường đá) tám
mái cong vút đến chùa Pháp Vân được tiến hành trang trọng mà giản dị. Chùa Pháp
Vân còn giữ được nhiều cổ vật cũng có 18 vị La Hán như ở chùa Tây Phương. Có điều
lại còn thêm ba pho tượng "Tam thế" tượng trưng cho quá khứ, hiện đại,
tương lai mà cũng diễn tả quá trình hoá thân của những kiếp người. Trông lên ta
thấy "nghìn năm khuôn mặt vẫn lung linh”. Đây lại còn là chùa độc nhất có
bốn pho tượng tứ trấn: Đông, Tây, Nam, Bắc với tầm nhìn vũ trụ. Mọi người còn
có thể thăm “Từ Vũ” với ngôi đền ngổn ngang những phiến đá lớn, tượng và một số
đồ thờ bằng đá được chạm bằng những nét khái quát, thô sơ mà thi vị. Nguyên đây
là một bộ phận lăng tẩm của một vị hoạn quan quận Công triều Lê Trung Hưng.
Cách Từ Vũ không xa có đền thờ bà phi Nguyễn Thị Huyền và con
gái là Ngọc Hân công chúa. Cũng không xa đó là bãi "gốc gạo" với hai
ngôi mộ của mẹ con bà Phi. Thạch Sàng ghi dấu ấn của thượng sư Khâu Đà La
"Ấn Độ” sang truyền giáo. Ninh Hiệp còn giữ được gần như nguyên vẹn một
nhà thuỷ đình để biểu diễn múa rối nước… Mảnh đất Ninh Hiệp do đó đầy ắp những
dã sử và huyền thoại. Ninh Hiệp rất hiện đại mà cũng rất cổ kính, là niềm say
sưa với khách du lịch, điều hấp dẫn với nhà văn hoá và folklore học, có lợi cho
các nhà kinh tế và kinh doanh, thú vị với nhà làm sử… Ninh Hiệp không chỉ là một
làng văn hoá mà còn là một làng du lịch. Nếu được quan tâm và đầu tư hợp lý,
làng du lịch Ninh Hiệp có thể sánh ngang với các làng du lịch ở Chiềng Mai hoặc
Băng Cốc về mặt phương tiện và hình thức. Còn về nội dung, Ninh Hiệp có một bề
dày lịch sử đáng kể, phong phú về cả ba mặt: xã hội, văn hoá và kinh tế hy vọng.
trong tương lai, Ninh Hiệp sẽ phát huy được hết sức mạnh và tiềm năng vốn có của
nó, trở thành một làng văn hoá của Việt nam và làm giàu cho đất nước.
Chương II
phong tục tết những năm xưa
Từ ngày 23 tháng chạp ngày ông Táo lên chầu giời người ta đã
tưng bừng sắm sữa, chuẩn bị đón Tết cổ truyền. Bàn thờ Táo quân đặt bên cạnh
bàn thờ chính thờ tổ tiên cha mẹ, có đặt hai cái mũ Táo quân ông. và một mũ Táo
bà. Thêm vào đó có ba chiếc áo (không có quần), tất cả đều bằng giấy nhiều màu
sắc Lại có một con cá chép sống trong một chậu nước. Đó là phương tiện để các
vua bếp bay lên thiên đường báo cáo với Ngọc Hoàng về cuộc sống trần gian.
Chiều ngày 28 tháng chạp, nhiều gia đình đi thăm những ngôi mộ
của thân nhân để tỏ lòng biết ơn và quyến luyến: "Nắm xương cô quạnh còn
ân ái". Họ mời vong linh những người đã khuất về ăn Tết với gia đình trong
ba ngày Tết, kể từ ngày mồng một tháng giêng. Ở các nghĩa trang, cánh đồng, người
ta đốt vàng thoi, vàng lá và hàng mã, thắp hương nghi ngút. Lúc đó, khắp nơi thấp
thoáng những làn hương khói, những tan vàng lá bay lơ lửng, không khí đượm màu
hoài tưởng, quạnh hiu: "Vàng bay mấy lá năm hồ hết…" Ở ngoài đình hoặc
nơi công cộng, người ta trồng một cây nêu cao vút có một vòng tròn mắc nhằng nhịt
các con vật bằng giấy xanh, đỏ với những chiếc khánh nhỏ gây ra tiếng lanh canh
vui tai khi gió thổi. Cây nêu được dựng lên để cho các ma quỷ và những hồn người
hung ác biết rằng đây là đất của nhà Phật, không được đụng tới. Nhiều gia đình
còn cẩn thận hơn nữa, vẽ mũi tên trên cánh cung giương ra ở trước cửa bằng vôi
trắng để đe doạ kẻ xấu. Hai cánh cửa của các nhà được dán lên hai bức tranh có
hai ông tiến tài tiến Lộc hoặc hai ông tướng canh cửa gọi là ông Thiện và ông
ác.
Nói chung, Tết những năm xưa được gói gọn trong đồi câu đối: "Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"
Hoặc "dữ dội" hơn:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Rượu nồng, dê béo, gái xuân xanh".Chiều 30 Tết, mọi việc
như dọn dẹp bàn thờ, quét tước nhà cửa, bàn thờ có cành đào, cành mai, mâm ngũ
quả; Cột nhà có đôi câu đối giấy đỏ chữ đen, dán tranh Tết v.v… Những công việc
này phải làm xong cùng với việc có đủ các món ăn truyền thống như bánh trưng,
dưa hành, giò, chả, thịt đông, thịt bò om gừng, các loại bánh các thứ hoa quả.
Nhưng không được thêm mấy khóm cúc, hoa mẫu đơn, hoa trà, sửa sang lại vườn hoa
cây cảnh, hòn non bộ. Người ta tắm một buổi tất niên bằng nước ấm có hương thơm
của cành mùi hoặc hương nhu. Đồng thời giết một con gà giò để làm lễ cúng giao
thừa ngoài trời.
Ngày mồng một, mồng hai, người ta kiêng sát sinh, không động
thổ, quét tước gì để giữ cho màu sắc Tết không bị mất đi quá sớm. Nhất là giữ lại
những đám xác pháo màu đỏ hồng đầy sân. Chiều 30 Tết, cả nhà quây quần sum họp.
Những thành viên đi xa cũng cố gắng trở về họp mặt. Họ ăn với nhau một bữa tất
niên rồi ai nấy chuẩn bị những bộ quần áo và các đồ trang sức đẹp nhất. Với trẻ
con các nhà trung lưu thường là quần đào xẻ đũng, áo hàng lam. Họ chuẩn bị gói
những đồng xu, tờ giấy bạc mới tinh vào những miếng giấy hồng điệu để ngày mồng
một mở hàng cho mọi người trong gia đình và trong họ.
Trong những lúc này, họ nói chuyện với nhau về đủ mọi chuyện
trên đời, trong cuộc sống và rút kinh nghiệm, đặt quyết tâm cho năm sau sẽ đến
trong vài tiếng đồng hồ nữa.
Đúng 12 giờ đêm là giờ Tý, mọi nhà đều đốt pháo giã tử năm
cũ, đón mừng năm mới, thắp đèn hương cúng ông bà ông vải, người thân đã khuất ở
ngoài sân cũng có bàn thờ cúng trời đất với hương hoa, và xôi trắng, con gà mỏ
cắm đoá hoa hồng. Người ta đi dạo giữa thiên nhiên, cảnh vật đất trời để tận hưởng
không khí xuân tươi mát gọi là đi “xuất hành". Người ta ngắt lấy một cành
lá, một nhánh lộc nhỏ, cành cây non mang về gọi là "hái lộc xuân".
Gia chủ đã hẹn sẵn một người bạn thân của gia đình đến “xông đất”, nghĩa là người
đó là người đầu tiên bước vào gia đình trong năm mới. Người đến xông đất phải
là nam giới, có con cái, làm ăn khá giả, tính tình cởi mở gọi là người "nhẹ
vía". Người đến xông đất chúc tết gia chủ và có "mở hàng" cho
gia chủ. Những người có tang gọi là "có bụi" không đến nhà ai trong
những ngày Tết. Sáng mồng một, lúc 5 giờ, các chủ gia đình đến lễ tổ tại nhà thờ
họ, "mừng tuổi" cho người trông nom nhà thờ họ rồi mới về nhà. Tại
các gia đình, người bố phong bao cho các con.
Sau đó, các thành viên trong gia đình mới đi chơi, chúc tết
các gia đình khác và các bạn bè. Các bà, các chị có thể đi lễ ở đình, ở chùa.
Đôi khi họ xóc thẻ, miệng cầu khấn rì rầm, tay lắc ống thẻ sao cho có một chiếc
thẻ rơi ra ngoài. Chiếc thẻ đó tương ứng với một lời giải về tương lai ghi trên
giấy. Đàn ông có thể đánh tổ tôm, đánh chắn. Các cô gái đánh tam cúc. Các cô nhắm
mắt lại, rút một quân bài đầu năm trong số 32 quân bài. Nếu quân rút được là
quân đỏ thì năm mới, người rút được nó sẽ có điều may mắn về đường tình duyên,
gọi là bói "tam cúc".
Chiều ngày mồng ba Tết, gia đình làm lễ tiễn tổ tiên trở về
âm phủ và hẹn gặp lại trong những ngày lễ tết trong năm và Tết năm sau. Người
ta đốt vàng, những quần áo và các đồ dùng bằng giấy để tổ tiên mang theo. Trong
những ngày Tết, mọi người kiêng nói những điều không hay. Người ta sống rất
“thiện”, lịch sự, lễ phép, tôn trọng trên dưới, vì tổ tiên, ông bà cũng cùng về
dự Tết với con cháu. Đó là cuộc sống vừa "tâm linh" vừa "thực tại".
Trong những ngày Tết, người ta không đánh nhau, cãi nhau, xoá bỏ mọi hận thù,
xích mích. Những người nghèo được bà con anh em xung quanh giúp đỡ để cũng có Tết.
Những người hành khất chỉ cần đứng gần cửa một gia đình rồi nói vài lời chúc Tết
may mắn là đã được mọi người trong gia đình mang ra cho bánh chưng, xôi, thịt
v.v…
Mọi người thường nói:
"Khó đói chẳng lo ba ngày Tết
Giàu sang rộng mở tấm lòng thương…"
Ngày 7 tháng giêng là ngày hạ cây nêu, mọi người tụ tập gặp
nhau ở các nơi như đền, chùa, đình, miếu, các bãi rộng là những nơi thường tổchức
những cuộc vui xuân, tế lễ, rước xách, hát tuồng, hát chèo v v… Nhưng những nơi
đây còn là nơi để trai gái hẹn hò, trao duyên trong những ngày xuân tươi đẹp và
lẳng lơ rất mực. Mọi người rủ nhau đi chơi xuân, sang làng nọ làng kia, mở rộng
sự quen biết và kết bạn. Gia đình người con trai sang chúc tết gia đình người
con gái và ngược lại. Đến ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong cả năm,
là ngày có trăng tròn đầu tiên của một năm. lại là ngày những người ở dưới âm
phủ được “tháo khoán” nên tranh thủ về dương gian với những người thân ngày
nay, các vị thần thánh mở rộng lòng từ bi. Ngay cả ma quỷ cũng không trừng phạt,
hành hạ con người kể cả người sống lẫn người chết.
Trong những ngày Tết, người ta sống với bốn từ: thiện, khiết,
hoà và vọng; có nghĩa là: lương thiện, trong sạch đẹp hoà hợp và hy vọng.
MÂM NGŨ QUẢ
Mỗi năm, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ mỗi gia đình đều có mâm
ngũ quả. Gọi là mâm là nói chung. Xưa kia, người ta dùng cái mâm bồng để xếp
ngũ quả. Mâm bồng là một chiếc đĩa gỗ sơn son thếp vàng, có đường kính chừng 30
cm. Mâm có chân dài tiện tròn, cao chừng 15 cm. Dưới có đế tròn, trên mặt đĩa
có vẽ hình rồng, phượng. Mâm ngũ quả được đặt lên mặt mâm bồng hoặc được đệm bằng
một chiếc đĩa bằng sành hoặc sứ. Sau này, ngũ quả thường được đặt trên một chiếc
đĩa tròn hoặc bầu dục. Cũng có khi trên một chiếc mâm con.
Trước hết, mâm ngũ quả là để cúng trời phật, tổ tiên. Sau là
tô điểm cho màu sắc Tết được thêm phần trang trọng, rực rỡ) không khí ngày Tết
được ấm cúng. Nó làm cho người ta liên tưởng đến sự được mùa, sự dồi dào, no đủ,
đến hoa thơm quả mọng…
Với tâm thức của người Việt nam, mâm hoa quả trước tiên là để
dâng mẫu Thượng Ngàn. Sau đó, nó tiếp thu tinh thần của Phật giáo và Đạo lão mà
trở thành mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả gồm năm loại quả. Con số 5 là con số cân bằng,
con số của trật tự, thành ý và may mắn: Ngũ hành, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ giác,
ngũ quan, ngũ phúc… mâm ngũ quả gồm các loại quả có hạt, múi và hình dáng lạ,
nói lên sự tái sinh và sinh sôi bất tử. Nó gồm: quả Phật thủ có hình tượng bàn
tay Phật, là sự tập trung tinh thần, sự chế ngự thiêng liêng; nải chuối tượng
trưng cho sự mong manh vừa không ổn định của cuộc đời phù du; quả bưởi là hình
quả đất, là sự tròn đầy; quả hồng là sự toả sáng, cân bằng tinh thần; quả cam
tượng trưng cho sự phồn sinh thực. Để tăng thêm tính thẩm mỹ, các loại quả thường
còn giữ trên mình một cành nhỏ có chừng 1 hoặc 2cánh lá. Sau này, người ta bày
thêm vào mâm ngũ quả những loại quả khác sẵn có ở các địa phương như: cành táo,
cành sung, vả, khế, ổi, quệt, dưa hấu v. v… Mâm ngũ quả trở nên đầy đặn, phong
phú mà nhiều màu sắc hơn. Lại tuỳ nơi mà mâm ngũ quả được bày thêm vào bằng những
sản phẩm có ở những địa phương khác nhau. Mâm ngũ quả miền Nam lớn hơn ở miền Bắc.
Miền Nam có bày thêm mãng cầu, na, dứa, xoài… Mỗi loại quả đều có dáng vẻ và
màu sắc riêng. Tất cả hợp lại thành một bức tranh vui mắt. Tất cả đều tươi
sáng, tròn đầy, mang lại niềm vui và làm cho mọi người nảy ra những suy tư triết
học. Chúng còn mang lại những hoài niệm tuổi thơ cho những người lớn tuổi.
Trong khói hương ngào ngạt ngày Tết, những quả hồng chín mọng, cam đỏ ối, bưởi
xanh mịn… của mâm ngũ quả đã đi vào lòng người một cách lặng lẽ và trang
nghiêm. Mâm ngũ quả tạo nên một ấn rừng êm đềm, hạnh phúc. Đó là một phần của
hình ảnh gia đình được lặp đi lặp lại nhiều lần và gắn liền vào tiềm thức ta.
Ngũ quả là cây đời cây thiện, cây mỹ… là tâm hồn của quê hương.
TRANH TẾT
"Vui từ trong ngõ vui ra
Vui từ ngã bảy, ngã ba vui về"
Tết Nguyên Đán của chúng ta là vậy. Những ngày 1 Tết, mọi người
ngập tràn hạnh phúc ít nhất phải có bánh chưng xanh, dưa hành, thịt mỡ, rượu, mứt,
bánh v.v… Nhưng cũng phải có vui chơi, ca hát, thăm hỏi, tìm hiểu nhau…và cũng
không thể không có tranh Tết. Tranh lết là điều khiến cả nam, phụ, lão, ấu đều
bồi hồi, bâng khuâng, thao thức chờ đợi, phải đi mua tranh và ngắm tranh. Nó là
một vị trong đĩa mứt ngũ vị của Tết. Xưa kia, cứ mỗi lần Tết đến, nhà thơ Quang
Dũng nhất thiết phải đi lùng cho kỳ được một ông phỗng bằng giấy bồi, rồi mới
yên trí là mình có Tết. Tết là bông hoa của mùa xuân, tượng trưng cho sự phồn
vinh. Vinh là vinh quang cho cộng đồng. Phồn là phồn của cải, phồn âm dương, phồn
nam nữ. Khuôn mặt Tết thật muôn vẻ, hội tụ, tập trung tất cả những điều tất yếu
nhất trong cuộc sống: ẩm thực, thời trang, thư giãn, thú vui, tâm linh, thưởng
thức, du ngoạn… để động viên con người cố gắng sống sao cho tốt đẹp trong cuộc
đời phù du đầy sóng gió. Cây dừa trong bức tranh “Hứng dừa” tượng trưng cho cây
vũ trụ. Hai nhân vật chính là chàng và nàng gợi nhắc đến âm và dương. Chàng ở
trần, đóng khố. Nàng chỉ mặc chiếc yếm phong phanh và chiếc váy ngắn. Chàng ném
dừa xuống, nàng tốc váy lên hăm hở hứng lấy quả dừa nên hớ hênh và ngứa mắt,
khiến cho một anh chàng đứng cạnh nhìn trộm sự xuất hiện kỳ diệu. Hai quả dừa
còn có ẩn ý là hai núm vú. Ngày xưa, ở làng quê thường chế giễu:
"Con gái chơi với con giai
Ngày sau đôi vú bằng hai sọ dừa”
Bức tranh lại còn có thêm những dòng chú thích:
"Trai làng đã ở trên cao
Nào đâu các ả ra đây hứng dừa
Này anh đồ tinh, anh đồ say
Đang cơn gió cả, leo cây hái dừa
Có nàng sao khéo hững hở
Bỏ dừa dưới đất, hứng dừa trên cao".
Tranh "ngũ hổ". Hổ là con vật thần linh, được thờ ở
các đền, đình, miếu và ở nhiều gia đình. Người ta kính con hổ nên còn gọi hổ là
ông Ba mươi, ngài cọp. Hổ canh giữ những chốn linh thiêng. Hổ trấn tà ma. Bức
tranh thờ có vẽ ngũ hổ rất oai nghiêm, le lói những đường nét màu vàng kim. Bốn
hổ đại diện cho 4 phương. Năm hổ đại diện cho kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Nghĩa
xa xôi, hổ thuộc nam tính, là dũng cảm là quyết đấu, là sức mạnh và sự nhanh nhẹn
tháo vát, là chàng lực điền, chàng trai lý tưởng của các cô thôn nữ. Ngoài ra,
hổ yêu rất mãnh liệt. Đến mùa giao phối, hổ đực và hổ cái lúc nào cũng ở bên
nhau, chạy thi với nhau, trêu đùa, tròng ghẹo, vật nhau, vờn, rỡn… nhau làm náo
động cả một góc rừng. Nhưng hổ ghen cũng ghê gớm, không kém phần dữ dội. Người
đàn bà cả ghen được gọi là con hổ cái. Tinh hoàn của hổ dùng để chế thuốc kích
dương, đắt hơn vàng nhiều lần và rất có hiệu quả.
Tranh "Gà đàn và gà thư hùng" nói lên sự mầu mỡ và
thịnh vượng. Ở bức tranh tả "gà đàn" mẹ gà còn trẻ, ngậm mồi. Nàng gà
béo ra cả ngoài lông, lườn sệ xuống, múp míp, tốt nái, no đủ thóc gạo và tình
yêu nàng rất vui, nhìn đàn con đang đùa nghịch bức tranh gà "thư
hùng" có chú thích ở dưới: "Đông con nhiêu cháu Giống cánh, giống
lông No dủ vợ chồng Có đầu có mỏ…
Tranh "Táo quân" vẽ hai ông, một bà. Họ ngồi với
nhau tràn đầy hạnh phúc. Vua bếp tượng trưng cho sự no đủ. Phía dưới có ba bàn
thờ. Mâm giữa có ba chén rượu. Mâm phải có con cá chép. Mâm trái có ngũ quả hai
bên là mấy tiểu đồng đứng hầu. Ta hãy xem bức tranh "Lợn đàn". Con lợn
cái tròn đầy. Chỉ cần có cái dấu âm dương vào con lợn là có được ngay sự “phồn”.
Có đực, có cái là đẻ ra con đàn cháu đống, đời nọ đời kia và trở nên một hình
tượng vĩnh cửu, phồn vinh.
Ở tranh "Trạng chuột vinh quy", chú rể đã đạt được
cả hai niềm mơ ước giống với con người là đạt được “tiểu đăng khoa”: lấy vợ và
cả "đại đăng khoa” là đỗ trạng nguyên. Như vậy là chàng trai có đủ cả tình
yêu lẫn sự nghiệp là điều ai cũng cầu mong.
Tranh "Đánh vật” miêu tả ba đôi vật và hai đô vật ngồi
nghỉ, đợi dịp ra tay. Các đô vật người nào người nấy đều xương đồng, giò sắt, lừng
lững, vú sệ, rốn để thỗn thện. Họ là những "người hùng", nhanh trí và
có những miếng "tuyệt chiêu" khi cần thiết. Trên mình họ chỉ có một
manh khố. Đây gần như bức tranh “nuy” của nam phái. Vì vậy, nó được yêu mến một
cách âm thầm, lâu dài và âm ỉ.
Tranh "Cá chép bên sen" cũng rất đặc biệt. Cá chép
tượng trưng cho sự chúc mừng, tuổi thọ và sự thăng hoa biến thành rồng. Nó bơi
dưới nước, lại có những chuyến đi lên trời rồi lại xuống đất. Đó là sự vận chuyển
vũ trụ. Cá chép tượng trưng cho sự phồn thực sự giao hợp của cá chép đực với cá
chép cái diễn ra thường xuyên như cơm ăn, nước uống. Còn bông sen bên cạnh cá
chép tượng trưng cho nước, đất, mặt trăng của nền văn minh lúa nước, cũng là sự
phồn sinh nở hoa.
Ta lại xem tranh "Đánh ghen ”. Ở đây người vợ cả giơ cao
chiếc kéo, định tấn công cô vợ lẽ. Người vợ lẽ mặc chiếc váy và hoàn toàn để chống
phần trên của cơ thể ả lại được chồng bênh. Anh chồng này cũng quá quắt bảo vệ
người vợ lẽ và giữ lấy bầu vú trái của ả một cách lỗ mãng và trần tục. Bức
tranh lại chú thích:
"Măng non nấu với gà đồng
Thử chơi một trận xem chồng về ai?".
Còn nhiều những bức tranh Tết nữa. Những bức tranh Tết của ta
không chỉ đẹp về màu sắc, đằm thắm về nội dung mà chúng còn nói lên nhiều điều
sâu kín có tính triết học, được gạn lọc qua nhiều thế hệ. Chúng nhấn mạnh đến sự
hoà hợp âm dương, trung thực mà nhiều hàm ý. Chúng nói ít mà đầy tính hàm súc.
Chúng nói đến thiên tính và nhân tính. Chúng là những bài quan họ, những bài
thơ của Hồ Xuân Hương, những lời hát ru lắng đọng chất chứa trong tâm hồn và
tâm linh con người Việt nam. Chính vì vậy, tranh Tết Việt nam đã và sẽ luôn
luôn là những nét đẹp và nét thẩm mĩ lung linh trong kho tàng văn hoá Việt nam
và góp phần tô điểm cho vườn hoa văn hoá của thế giới.
CÁNH ĐU MÙA XUÂN
Trong những ngày Tết, xuân của Việt nam, ngoài việc phải chôn
một cây nêu cao vút, cắm những lá cờ lưỡi hổ ngũ sắc ra, bao giờ người ta cũng
dành một khoảnh đất có cỏ ở bên sân đình hoặc sân chùa, miếu làm bãi đu.
Cây đu ngày xuân gắn liền với sự phồn thực (fécondité), sự
giao hoan. Nó tượng trưng cho sự bắt đầu mới mẻ, sự nảy nở ra cái mới, tình
yêu. Dựng cây đu trên bãi đu là cả một công trình của các chàng trai. Họ phải
đi chọn tre, đẵn tre, đào hố, chôn cột đu v.v… bắc qua hai cột đu vững chắc là
một cây tre đực, thẳng. Cả một hệ thống ròng rọc bằng gỗ, những con sỏ, những
dây tre cuốn sẵn buộc chặt lấy bộ phận khớp đu. Từ đây, buông dài xuống gần mặt
đất là hai thanh tre dài, dẻo mà rắn chắc, ngay thẳng. Hai tay tre đặc biệt này
được gọi là tay đu. Phía dưới của hai tay đu được nối liền với nhau qua một chiếc
bàn gỗ gọi là bàn đu, là nơi để người đánh đu đứng lên.
Khi đánh đu, nếu là một người thì chỉ việc đứng lên bàn, hai
tay nắm lấy hai tay đu rồi nhún cho đu bay. Nếu đánh đu kiểu một nam một nữ thì
4 bàn chân của hai người đều đứng lên bàn đu kiểu so le. Hai tay của cô gái nắm
chặt vào hai tay đu. Hai tay người con trai cũng bám vào tay đu nhưng ở vị trí
cao hơn hoặc thấp hơn một chút. Hai người giáp mặt nhau. Tư thế này là tư thế
vòng tay xiết. Khi bắt đầu đu, họ thường đu là là trước rồi mới lấy đà bay cao
lên dần dần để cây đu đưa người lên trời. Đu bay lên rồi lại hạ xuống, rồi lại
bay vútlên không ngừng, tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ, của trời đất,
âm dương. Người trên đu làm ra gió và gió giao hoà với mặt đất màu mỡ. Đu là
chiếc thuyền vũ trụ. Trai thôn trên, gái xóm dưới và các bạn bè ở xã khác đến,
rủ nhau ra bãi đu. Đu để trống thì cứ đứng vào mà nhún. Nếu đã có người đu rồi,
người đến sau phải đỡ đu, nghĩa là lựa lúc đu gần xuống mặt đất mà giữ đu đứng
lại. Người trên đu sẽ nhường cho người đến sau thay phiên. Có khi không giữ lại
được thì phải chờ: người thì lên đánh, kẻ ngồi trông… Dù thế nào, mọi người đều
vui vẻ. Người đứng đu, muốn thôi đu sẽ giảm tốc độ lại, đu thấp xuống, quặp
chân vào dây đu ra hiệu để cho người khác ra giữ đu lại mà "lên
ngôi".
Những đôi nam, nữ yêu nhau vào đu. Cũng có những đôi mới được
mọi người ghép vào thành cặp. Họ trình diễn những màn đu đôi thật đẹp mà đặc sắc.
Họ đứng chắc chân lên bàn đu, trai gái nhìn vào nhau, cùng cầm chắc tay đu. Trước
hết, họ đưa cánh đu là là để chào mọi người xung quanh như kiểu múa tế tổ trước
khi vào keo vật của hai đấu thủ trên sởi vật. Sau đó, họ mới đu lên cao, bay bổng.
Rồi mỗi lúc một cao hơn. Chàng trai vươn người lên đu bổng. Cô gá ưỡn hẳn mình
ra, nhún đu. Họ bay lên, bay xuống nhịp nhàng rồi thỉnh thoảng lại vút lên thật
cao. Đó là những lúc thăng hoa. Thăng hoa lòng người. Thăng hoa cả đất trời. Họ
say sưa, đưa tất cả sức lực ra mà nhún đu. Họ chẳng nói gì với nhau. Nhưng họ
tươi cười nhìn nhau, ngầm chúc nhau những điều tốt lành đầu xuân. Chàng trai cứ
đăm đắm nhìn, dịu dàng mà say đắm như cố để nắm bắt chút ít bí mật sâu thẳm nơi
người con gái. Cô gái mỉm cười, hơi có một chút e ấp Họ nghe thấy nhịp thở của
nhau có mùi thơm hoà hợp với mùi thơm của mùa xuân. Họ ngửi thấy hơi nhau. Họ gần
như thuộc về nhau. Những giờ phút này bằng một trăm năm. Và cứ thế:
"Trai đừ gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòn"…
Đánh đu đôi là cả một bức tranh siêu tuyệt. Bối cảnh là mùa
xuân hoa lá. Những con người ở bãi đu có những bộ mặt sáng ngời. Họ ăn mặc đẹp.
Chàng trai đánh đu thì mặt vuông chữ điền, chít khăn nhiễu, áo xa đen, quần
trúc bâu trắng. Cô gái có tà áo đỏ, xanh, giải thắt lưng hồng đào phơ phất. Áo
cánh trắng bên trong làm nổi chiếc yếm thắm, quần lĩnh đen bóng… đó là cái cảnh
mà Hồ Xuân Hương tả rất khéo: "Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng
chân ngọc duỗi song song"… Họ vẫn còn cố gắng nhún, nhún nữa, rất táo bạo.
Những động tác nhún đu lúc này là những cái nhún của mùa xuân. Mùa xuân là bàn
đạp cho cả năm cất cánh. Những trai gái đánh đu ở vào trạng thái hưng phấn cao
thì đã đành. Những người xem, thưởng thức ở bãi đu cũng reo lên ầm ĩ, trầm trồ,
cười, nói, bình luận trong âm thanh. những tiếng trống liên hồi. Nơi đây, những
chàng trai được coi là những người hùng, những cô gái được coi như những hoa hậu.
Trong mấy ngày Tết, bãi đu là không thể thiếu được. Đánh đu
hoặc chơi đu còn là một trò chơi thượng võ, trò chơi "mạnh". Trẻ,
già, trai, gái đều bị cuốn hút vào bãi đu một cách mãnh liệt. Nhưng chủ yếu là
với những nam, nữ còn trẻ. Người ta nói khẽ với nhau: "Chơi xuân đã biết
mùi xuân chửa"… Có nơi còn tổ chức thi đu. Các bậc đàn anh thành thạo về
nghệ thuật đu căn cứ vào trình độ đu đẹp, nhún nhịp nhàng, đánh bổng v.v… của
các cặp đu mà so sánh rồi trao giải thưởng. Người ta còn đánh giá dáng vóc,
cách ăn mặc của cặp đu. Khi đu, phải giữ được nét mặt tươi tỉnh, ăn ý với nhau,
tự nhiên. Động tác phải nhịp nhàng. Nụ cười phải đằm thắm, duyên dáng. Tức là
phải nam thanh nữ tú. Phần thưởng là danh dự, nhưng cũng có vài vuông vải điều,
mấy gói chè thơm và một chút tiền. Những giây phút đu lên tận trời sẽ không bao
giờ có thể quên được. Chúng làm cho nhiều người còn nhớ mãi. Có những người đi
xa, khi trở về quê nhà thường tìm thăm lại bãi đu xưa để bâng khuâng, bồi hồi
nhớ lại những cánh đu chơi vơi, những hoài niệm…
NGÀY RẰM THÁNG GIÊNG
Ở thời mẫu hệ, mặt trăng được coi trọng hơn mặt trời. Mặt
trăng là mẹ dịu hiền, là tất cả. Đến thời phụ hệ thì mặt trăng xuống hàng thứ
hai. Hàng đầu là mặt trời tượng trưng cho người cha, cho vương quyền. Nhưng người
ta vẫn gắn bó nhiều với mặt trăng. Ban ngày nóng nực, phải kiếm ăn quá vất vả,
người ta chỉ có ít thì giờ nghỉ ngơi, họp mặt nhau, vui vẻ với nhau để sáng tạo
ra những chuyện kể, những trò chơi, hát hò… Người ta sáng tạo ra chị Hằng, chú
Cuội Nhưng, những điều ấy thường chỉ thực hiện được trong những đêm trăng sáng,
nhất là trong những ngày rằm, có vành trăng tròn đầy. Gọi là trăng buổi dậy
thì. Những đêm rằm, trăng sáng vằng vặc đối với mọi người là cả một hạnh phúc lớn.
Người ta ca ngợi đêm rằm, vui buồn cùng ngắm trăng, tâm sự với trăng… do đó,
trăng nhuốm mầu thiêng liêng.
Ngày rằm tháng giêng là ngày rằm đầu tiên của một năm. Sau
này, ngày rằm được gắn vào với các ý niệm tôn giáo người ta cho ngày rằm là
ngày hệ trọng. Đó là ngày Ngọc Hoàng thượng đế cho triệu tập tất cả các thế lực
quyền uy bất tử ở trên trời và ở dưới đất lại để xét duyệt các đơn từ (sớ tấu)
nguyện vọng cầu xin của người trần mắt thịt trong cả một năm. Đạo giáo cho ngày
rằm là ngày thiêng liêng cho sự tu luyện trở thành siêu nhân. Trong đêm rằm có
diễn ra hội quần tiên, hội bàn đào… Phật giáo cho ngày rằm là ngày tốt đẹp ngày
cầu bình an, ngày của tấm lòng và sự hài hoà, của điều thiện. Người ta coi ngày
rằm là ngày của Bụt, của Thánh. Từ đó, dân gian có câu: "Trăng rằm còn đó
trơ trơ”? Hoặc như:
"Hôm nay mười bốn mai rằm.
Ai ai muốn ăn oản thì năng lên chùa"
Thị Mầu trong vở "Quan âm Thị Kính" muốn cho một
tháng có "đôi rằm”. Anh chàng quan họ đã tự mình chẻ tre đan nón cho người
yêu xem hội đêm rằm. Ở nước ta, đã từ rất lâu, người ta cứ đinh ninh rằng ngày
rằm tháng giêng là ngày đẹp nhất trong một năm. Ai cũng bảo: “Lễ quanh năm
không bằng ngày rằm tháng giêng". Đó là ngày rằm có ý nghĩa thiêng liêng
hơn tất cả những ngày rằm trong năm. Nó là tuần trăng đầu tiên trong năm, ở vào
lúc mà không khí ngày tết Nguyên đán cổ truyền vẫn còn đằm thắm trong lòng mọi
người. Lại đúng vào lúc nông nhàn, trời trong sáng, không rét buốt như những
ngày trong năm cũ.
Trong ngày 14 và rằm tháng giêng, tất cả các đình, chùa, đền,
miếu đều thắp đèn nến sáng trưng, khói hương mù mịt. Các sư, sãi, ông từ, bà đền
đều ăn mặc theo tôn giáo làm lễ, tụng kinh, chạy đàn, rước xách, múa "lục
cúng" có kèm âm nhạc và những động tác múa từ xa xưa giàu chất nghệ thuật
và biểu diễn. Các con công đệ tử chen lấn nhau đến lễ, mang theo các lễ vật Người
khấn vái đứng, kẻ khấn ngồi. Cái quan trọng nhất là người nào cũng phải dâng một
lá sớ tâu lên Ngọc Hoàng thượng đế và các bậc siêu nhân để “ xin được che chở,
giúp đỡ. Lá sớ là do các ông thầy cúng hay chữ viết cho. Người ta đón ngày rằm
từ trước đó mấy ngày.
Ngày 14 tháng giêng là tưng bừng nhất. Ngày 14, người ta tắm
rửa sạch sẽ gọi là rũ bụi, mặc các bộ quần áo mới hoặc sạch sẽ nhất. Đặc biệt
là ở Hà Bắc, các bà các chị ăn mặc cầu kỳ và đủ lệ bộ. Ngoài bộ quần áo mớ ba,
mớ bảy nhiều mầu sắc ra, còn đeo dây lưng có xà tích, ống vôi quả đào…Nhiều nhà
không ăn mặn mà ăn chay. Nhiều người kiêng khem cả chuyện chăn gối. Đêm 14 náo
nức tựa như đêm réveilion của đạo Thiên chúa. Họ đi lễ tại các đình, chùa, miếu
trong hai đêm 14 và 15. Họ đệ sớ lên xin với Ngọc Hoàng thượng đế, đức Phật,
vua Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu, các Mẫu, các vị Thánh v.v…
Các lá sớ được viết từ hôm trước. Người đi lễ dâng sớ trình
bày nguyện vọng, mong muốn của mình trong suốt một năm. Thường chỉ xin một, hai
điều chính yếu, ví dụ như xin được buôn may bán đắt được làm nhà, có con trai
v.v… Đồng thời trong sớ cũng kèm theo một và điều sám hối của mình. Những điều
này được giữ bí mật tuyệt đối. Nghĩa là chỉ có đương sự và ông thầy cúng viết sớ
biết mà thôi. Chẳng hạn như đương sự đã phạm phải một vài hành động độc ác hoặc
không công bằng gì đó như đương sự đuổi nàng dâu ra khỏi nhà đối xử tàn tệ với
bạn… những điều này, ngay cả chồng hoặc con đương sự cũng không được biết. Lại
có một số điều bí mật ở mức cao hơn nữa. Chẳng hạn như đương sự đã từng có hành
động ngoại tình thì đương sự chỉ khấn sám hối không ra tiếng khi ngồi lễ. Những
chuyện như vậy thật là bí mật mà cũng rất là con người. Đương sự đã dám sám hối
khi tin vào một sức mạnh truyền kiếp và suy tưởng. Thà là tin vào một cái gì đó
dù là mơ hồ, còn hơn là chẳng tin vào cái gì cả. Họ còn tin tưởng và suy nghĩ
là đã có được sự chế ngự bản năng, hạn chế được sự gây tác hại cho cộng đồng.
Đó là sự khuyến thiện, trừng ác cao cả.
Trong những ngày 14 và rằm, mọi người có được một không gian
thiêng và thời gian thiêng. Mọi người đều có tấm lòng rộng mở, hướng về các bậc
bề trên linh thiêng, những con người siêu phàm. Trong đó có cả các vị anh hùng
có công với đất nước. Không gian thì hoành tráng, nguy nga những đền, đài,
chùa, đình tráng lệ, có tiếng chuông tiếng mõ, hương khói ngạt ngào. Mọi người
thấy như thế giới đang khôi phục lại sự tươi mát thủa ban sơ. Tất cả mọi sự vật
diễn ra hàng ngày bị mờ nhạt. Bỗng có những giây phút được sáng ngời lên như buổi
mới được sinh ra. Người ta kính mến bà Trưng, bà Triệu, lại thương Thị Kính,
coi vết thương của Thị Kính như thể là vết thương của người đàn bà có thật bị
hành hạ. Người ta thêu dệt sự khổ đau và cao cả của một người đàn bà, cầu mong
cho người ấy bất tử. Người ta không bất tử, nhưng người ta mong muốn được phục
vụ cho cái bất tử. Người ta đi lễ, xem rước, nghe nhạc lễ, xem múa lễ… sẽ thấy
thanh thản, sung sướng. Họ thấy đứa trẻtrong họ được sống lại như có phép cải tử
hoàn sinh… Không phải ngẫu nhiên, tập tục coi ngày rằm tháng giêng là ngày đẹp
nhất trong một năm, coi lễ quanh năm không bằng rằm tháng giêng lại vẫn giữ được
nét trang trọng truyền thống lâu dài trong văn hoá Việt nam như vậy. Nó tồn tại
với tinh thần cao cả và với vẻ đẹp đến thiêng liêng ăn sâu vào lòng mỗi người
dân Việt nam.
Chương II ( B)
MÙA CỐM, MÙA HỒNG
Bông lúa nặng trĩu xuống vì những giọt sữa nặng tình bên
trong đã đông lại như thể trái cây vừa chín, chuẩn bị cho sự sinh nở. Đến giờ
phút thích hợp nhất người ta gặt lúa về, tẽ hạt rang, giã, hồ rồi tãi cốm lên
những tầu lá sen thơm ngào ngạt… Cả quá trình từ lúc tẽ hạt đến thành phầm chỉ
gói gọn trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ khẩn trương và hồi hộp, không thể ngắn
hơn, cũng không thể kéo dài. Để đạt được kết quả mong muốn thì một loạt thủ thuật
cổ truyền phải được nâng niu đến mức nghệ thuật.
Chẳng thế mà chỉ có làng Vòng (Mai Dịch) (cách Hà Nội 5 cây
sô) là có cốm ngon và đặc sắc nhất. Cốm Vòng đã từng là quà quý tiến vua ở các
triều đại xưa. Quả thật, chưa có loại cốm nào địch được nó, ít nhất là trong
vòng 100 năm trở lại đây.
Cốm Lủ, cốm Mễ Trì còn kém xa cốm Vòng. Cốm thượng đẳng là cốm
sáng nhạt, mềm, ngọt mát, thơm, đều hạt, màu cẩm thạch, có dư vị khôn nguôi. Loại
hai là "Cốm dót"có thuỷ phần cao hơn, nhẽo hơn. Cốm Vòng là món quà
vương giả, sang trọng mà cũng rất bình dân như hoa cỏ. Cốm phải được đặt lên
trên tàu lá sen gợn phấn, có mùi vị hương đồng gió nội chứ không để vào đĩa
Giang Tây hoặc Bát Tràng. Hương thơm và màu sắc của cốm và lá sen ăn ý với
nhau. Người thưởng thức sành không ăn kèm với bất cứ một thứ gì khác. Vì như thế
là thực bất tri kỳ vị, là phụ lòng cốm.
Tuy vậy, cũng có nhiều người ăn cốm Vòng với những quả hồng
chín đỏ có màu hổ phách hoặc ăn với chuối tiêu trứng cuốc. Cốm Vòng còn làm
nguyên liệu chính cho một loạt món ăn ngon trong danh mục ẩm thực nổi tiếng của
Việt nam: Cốm xào, bánh cốm, chè cốm, chả cốm, cốm nén, vịt hầm cốm với hạt sen
và nấm hương, cốm với thịt và mộc nhĩ nhồi chim ngói, kem cốm v.v… Chè cốm là một
loại chè ngọt trong muốt, hạt cốm nở ra xanh biếc như những đoá hoa. Chúng lơ lửng
trong cái khối nước ngọt sóng sánh, ở dạng huyền phù chứ không lắng xuống đáy
bát. Chè cốm ngọt mát, thơm, đòi hỏi một chút nước hoa bưởi. Nó đủ sức để đánh
đổ tất cả các loại chè khác. Người ta gọi chè cốm là chè "giai nhân".
Cốm Vòng được đưa ra phố phường bán không cần phải rao. Đó là những cô gái làng
Vòng quẩy hai thúng cốm. Trên cái mẹt có vài xếp lá sen. Trước quang gánh có buộc
một ít lạt rơm xanh sáng để buộc các gói cốm. Chiếc đòn gánh trên vai cô gái có
một đầu cong vút lên như ở các mái đình chùa… Các cô đi nhẹ nhàng, tung tẩy khắp
nơi. Ai muốn mua, chỉ việc gọi: "Cô hàng cốm Vòng ơi…!"
Cốm ra đời vào lúc thu vàng, khi ngọn gió se lại. Nó đi đôi với
những quả hồng có màu đỏ nao nao. Màu xanh của cốm cùng với màu đỏ của hồng đã
tạo ra một bức tranh hài hoà. Cũng như hương sắc và các vị của chúng đã tạo ra
những vần thơ. Hoặc chí ít, nó cũng mang lại cho nhiều người suy tư man mác đầy
hưng phấn nghệ thuật. Cùng với mùa thu xao xuyến, cốm và hồng mang lại nỗi phấp
phỏng cho biết bao chàng trai. Họ tính đến việc mang cốm và hồng đến nhà cô gái
để được gắn bó với nhau một đời:
"Người ơi! Biết có được không?
Để mẹ mua cốm, mua hồng sang xin"…
Người ta nói chanh cốm để chỉ quả chanh vừa đúng lúc nó bắt đầu
cho ta cái vị chua, tươi mát, ngon lành nhưng hơi "gắt" một cách kiêu
kỳ. Cũng có cái ẩn dụ chỉ người con gái đang ở thì "ngon" như cốm.
Cốm là nét đẹp văn hoá đời đời. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai
mang đến nhà gái một khay khảm có chân quỳ trên khay là hai gói cốm bọc lá sen
và 12 quả hồng đỏ. Tiếp đó là 100 chiếc bánh cốm vuông vắn có buộc lạt đỏ. Chú
rể tương lai đội khăn đóng, mặc áo trong đoạn (đoạn là một loại vải mịn, đẹp,
bóng), cô dâu tương lai mặc áo dài, chít khăn vành dây… Sau những lời nói tất đẹp,
thà gái biếu tất cả những người có mặt trong buổi vui, mỗi người một chiếc bánh
cốm. Một người nước ngoài, sau khi dự lễ ăn hỏi đã xúc động nói: “Cốm là một vật
thiêng liêng, vừa có sức mạnh vật chất, vừa có sức mạnh tinh thần. Cốm cũng là
tình yêu"…
CÚNG CHÁO Ở XÓM AO NGANG
Năm ấy, dân làng cảm thấy nao núng. Làng Giấy có nhiều nhà sản
xuất đóng cửa. Những người tứ chiếng đến làm thuê, ít việc cứ nhởn nhơ, lúc xóm
này, lúc xóm khác. Tiếng chày giã bột giấy thưa thớt. Chỉ những người làm thuê
thuộc loại giỏi mới tạm đủ việc làm. Trời lại sắp vào hè, ôn dịch hoành hành…
Nhưng ở xóm Ao Ngang, mấy ngày hôm nay nhộn nhịp hẳn lên. Dường như người ta bỏ
qua tất cả mọi việc sắp xảy đến mà chỉ nghe ngóng theo dõi ngày rằm tháng năm sẽ
có lễ “cầu mát” mà nội dung chính của nó là "cúng cháo lá đa”.
Trước ngày lễ một ngày, ông đĩ Yên, một chân ngắn một chân
dài lễ mễ xách cái thúng đi khuyên giáo. Ông đi khắp mọi xóm quyên tiền, các thứ
quà bánh và khoai, gạo, ngô, giấy bản, hương, nến. Nhiều gia đình tỏ ra kính trọng
đặc biệt, mời ông ở lại uống nước và hỏi han mọi chuyện. Chuyện gì ông cũng biết.
Trước đây ông thuộc lớp người phong lưu mã thượng, nhà ngói cây mít, nhưng vì bệnh
tật và ăn chơi quá trớn nên giờ phải ra ở túp lều bên cạnh cầu Ao Ngang. Nhân
thể, ông trông nom cầu và thắp đèn nhang.
Cầu là một gian nhà khá rộng, có mái cong. Chính giữa có một
bệ nhỏ cao chon von đặt bài vị thần, bát hương, bộ đỉnh nến bằng gỗ sơn son thếp
vàng. Dưới là một bệ rộng đủ cho chừng hai, ba chục người ngồi nghỉ ngơi, tán
chuyện ngẫu. Họ bàn luận say sưa về kẻ hay người dở, những sự việc rắc rối hoặc
tốt lành rất thời sự Giữa bệ, ông đĩ Yên đặt một cái chõng tre, vài cái ghế dài
bằng một thân cây nhỏ trên hai khúc gỗ bắt chéo. Mấy cái bát đàn để uống nước,
một gói kẹo bột, mấy tấm mía, vài gói thuốc lào, bánh chưng, hoa quả… Hễ ai nhắc
đến cái thân phận xưa kia của ông đĩ Yên để so sánh với hoàn cảnh hiện giờ ông
phải ở cầu ở quán, ông chỉ cười và nói: "Ở cầu gió bông lau càng mát. Miệng
à ơi, tay sát ghé tàu…"
Trưa ngày mười lăm, lúc gần 12 giờ, rất nhiều người tụ tập ở
cầu lớn có bé có, người lớn đứng hơi xa một chút. Mọi người im lặng lúc bác
khán Mão và ông hương chàng mặc áo the, chít khăn xếp, thắt lưng bó que ngồi
lên bệ. Nhạc cụ trước mặt gồm: mõ, chuông, song loan. Bên trái và bên phải các
ông là hai chiếc nia lớn rải đầy những đồ cúng đủ thứ: khoai lang, bánh đa, bỏng
gạo, bánh mật, oản, bánh khảo, xôi nắm, chuối, ổi, kẹo vừng, kẹo bột… Giữa mỗi
nia có một khúc thân chuối để cắm hương. Bác khán Mão tung vào mỗi nia một nắm
lá đa xanh làm cho nia quà trở nên mát mẻ. Thằng cu Thư rỗ đưa đến cho ông một
chiếc đàn nguyệt cổ lỗ sĩ và gói vải đỏ bọc tiu, cảnh… Người được công chúng để
ý nhất là bác khán Mão có giọng lên bổng xuống trầm, vừa hát vừa điều khiển nhạc
gõ. Có lúc bác chỉ dùng chiếc đũa gõ lên miệng bát chiết yêu đệm cho hát mà
cũng rất hay, sôi nổi đến nỗi ai nghe một lần sẽ nhớ mãi.
Ông hương chàng cao tuổi là người cầm chích mọi thủ tục, lễ
tiết. Ông luôn đeo mục kỉnh giở tập sách chữ Hán dầy cộm rồi lầm rầm những điều
gì không ai biết. Thỉnh thoảng ông dạo vài nét đàn nguyệt nghe như tiếng mưa
rơi. Hai con người quan trọng này thay nhau, bổ sung cho nhau hát cúng cháo. Họ
hát lên gần đủ 184 câu bi hùng trong bài văn tế thập loại chúng sinh. Bác khán
Mão say sưa: "Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt" Toát hơi mây, lạnh ngắt
xương khô Ngàn lau khóm bạc, lá ngô dòng vàng"… Thế là những tiếng hát với
cái giọng đùng đục, vừa như kể lể, vừa như mong mỏi khẩn cầu mà lại như kêu gọi
ấy lấy lại ngay được sự im lặng và trật tự của đám đông nhốn nháo la hét. Thật
vậy, ngay cả bọn trẻ con tinh nghịch, hiếu động là vậy mà cũng im thin thít, há
mồm nghe… Bài hát cất lên, ê a… dịu ngọt, tha thiết, thương cảm đã dựng lên cả
một thế giới bi thảm của kiếp người.
"Thở than dưới đất, ăn nằm trong sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn.
Lặn mặt trời, lân thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ, dắt già…"
Cái thế giới cô hồn ấy là hình ảnh của sự bất trắc, những oan
uổng chồng chất trong cuộc đời thực. Có hàng chục loại cô hồn, là chúng sinh
đáng thương. Như những người đi lính ngày xưa: Trong chiến trận, coi người như
rác. Bãi sa tràng, thịt nát xương tan". Những người đàn bà xấu số, những
trẻ con chết oan:
"Liều tuổi xanh, buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già…
Kia những đứa hài nhi tấm bé
Lỗi giở sinh, lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng…"
Bác khán Mão gần như run lên khi kể về những mảnh đời đói
rách vật lộn với miếng ăn manh áo mà không xong.
"Sống đã chịu một bề thảm thiết.
Ruột héo khô, da rét căm căm.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chai rạn đôi vai…
Cũng có kẻ nằm cầu, gối đất
Rọi tháng ngày, hành khất ngược xuôi…"
Công chúng bùi ngùi trước những cảnh ngộ do những câu hát và
những tiếng tiu cảnh, đàn vẽ ra. Vì đó là những cảnh ngộ của chính họ, của những
người thân thiết như ông bà, cô, cậu, anh em của họ. Đám đông nhốn nháo hẳn lên
khi bác khán Mão đọc đến câu:
"Ai đến đây, dưới trên ngôi lại
Của làm duyên, chờ ngại ít nhiều…"
Ai cũng biết là lúc này mọi thủ tục cúng lễ đã xong, đến giờ
tháo khoán. Bọn trẻ con xô vào cướp bánh kẹo. Có đứa đút hai ba thứ vào túi rồi
lại xông ra cướp thêm. Nồi cháo đã được hai người khiêng ra, đặt ngang cạnh chiếc
cột gạch. Cậu Tân cầm cái gáo dừa, khoắng nồi cháo rồi đong thật nhanh vào mấy
chục chiếc bát sành. Cậu cũng cố tình vung vãi ra những chiếc lá đa để xung
quanh những chồng bát xếp ngổn ngang, không hàng lối gì cả. Bọn trẻ con bưng lấy
những bát cháo. Chúng húp từ từ khi cháo còn nóng. Đến khi cháo bớt nóng chúng
húp soạn soạt, trông thật ngon lành. Có cả những bà già, cô gái… ra xem cảnh
tưng bừng nhộn nhịp, nghe đọc văn cúng cháo, cũng "cướp" một chút ít
quà để lấy “khước” cho vui. Tất cả mọi người vừa hò reo, vừa ăn, vừa nói chuyện
hể hả. Cho đến khi hai chia quà và nồi cháo đã sạch không, mọi người mới dần dà
kéo nhau về trong tiếng reo hò, chuyện trò, cười nói râm ran. Thu dọn chiến trường"
là ông đĩ Yên người giữ cầu Ao Ngang. Người ta cảm phục cái tài năng của bác
khán Mão. Có những đoạn bác hát “bốc” như đang trong cơn say rượu, đây ngẫu hứng
dào dạt. Đó là những tiếng hát tạo nên những ấn tượng đi vào kỷ niệm của nhiều
đời người, nhiều năm tháng. Đó là những câu thơ thế sự. Những người.được dự những
buổi lễ cúng cháo như thế này luôn luôn nhớ mãi một nghi lễ vừa sâu xa, vừa rất
đời thực. Chất “Liêu trai" bất chấp thời gian vẫn tồn tại trong bài
"Văn tế thập loại chúng sinh qua hiệu quả biểu diễn đã được thăng hoa lên
thành tình thần đồng loại khiến mỗi người xích lại gần nhau, thương yêu nhau.
Chúng ta hãy cùng nhau cứu lấy cuộc đời, không tham lam, không chạy theo danh vọng,
không tranh giành, không chiến tranh… Đó là một bài ca bất tử.
Chương II ( C )
TẾT TRUNG THU Ở HÀ NỘI
Từ rất xa xưa đã có tục lệ, mùa xuân tế mặt trời, mùa thu tế
mặt trăng. Tế xong, mọi người cùng thưởng thức bánh dưới trăng. Phong tục này cứ
kéo dài. Ngày 15 là ngày giữa tháng tám, cũng là giữa mùa thu. Đó là ngày trăng
tròn nhất trong cả năm. Trăng tròn tượng trưng cho hạnh phúc tròn đầy, sự vuông
tròn của ước mong. Là sự đoàn viên của các thành viên trong gia đình cũng như họ
hàng và cộng đồng. Với trẻ em, được tung tăng chơi và ăn bánh, hoa quả dưới bầu
trời có trăng sáng là một điều thú vị và say sưa lắm. Chúng thường nghêu ngao:
"Ánh trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có chú cuội già
Ôm một mối mơ…"
Với người lớn, người ta nhìn lên mặt trăng sang mát cảm thấy
thanh thản như mình trẻ lại. Có khi họ nghĩ đến những kỷ niệm xưa, người xưa:
trăng thề nhớ buổi hoa viên; vầng trăng ai xẻ làm đôi, ngẩng đầu nhìn trăng
sáng, cúi đầu nhớ quê hương, trông trăng lại nhớ đến người đêm trăng, nhìn
trăng đang hát điệu vong tình; Thái Bạch ôm trăng lạnh; thuyền trăng Phạm Lãi
luyến Tây Thi… Trăng là đề tài muôn thuở và chứa đựng biết bao nhiêu huyền thoại…
Dần dà, người ta không tế trăng nữa mà bày cỗ và chơi dưới trăng. Xung quanh
mâm cỗ, chủ yếu là trẻ con rồi đến các thành viên khác trong gia đình và khách.
Các trẻ em đi rước đèn ngoài phố quê xóm ngõ, cánh đồng ven đô. Chúng tụ tập chừng
10 đến 20 cm, mỗi em mang một chiếc đèn thắp bằng nến. Đèn con thỏ, đèn ông
sao, đèn xếp, đèn nổi, đèn lồng, đèn con cóc các em lớn hơn một chút đi đầu múa
sư tử. Chúng vừa đi vừa hát, có khi đứng vòng lại với nhau rồi múa. Sau khi trước
đèn, chúng về nhà phá cỗ. Chúng cùng ăn bánh dẻo, bánh nướng với mọi người và
còn được chia thêm các hoa quả như hồng, na, chuối, bưởi, cam, ổi và các loại
bánh bằng bột nướng hoặc rán mang hình các con vật thân thuộc như tôm, cá, thỏ,
lợn, hươu… Mâm Cỗ được thắp sáng bằng nến, ở giữa có bày tượng một ông tiến sĩ
giấy ngồi bảnh choẹ, có cờ có biển. Hình ảnh này tượng trưng cho sự hiếu học,
lòng ham mê khoa cử. Bên cạnh còn được bày những con vật nhỏ xíu được nặn bằng
bột và quét màu xanh, đỏ, vàng trông rất xinh và ngộ nghĩnh. Trong mỗi nhà, thường
treo ở gian giữa một chiếc đèn kéo quân tạo nên những hình ảnh hoạt động của
các nhân vật trong truyện như: ông già úp cá, Thị Mầu lên chùa, Thạch Sanh đốn
củi, Lã Bố hí Điêu Thuyền… Những hình ảnh đó cứ diễu quanh nhiều vòng, in bóng
vào mặt giấy của đèn, nhanh hay chậm là do ngọn nến ở giữa cháy to hay cháy nhỏ
tạo nên gió chuyển nhiều hay ít. Bọn trẻ còn bận bịu và hồi hộp với những đồ
chơi Trung thu như: quả đào úp mở theo bánh xe phía dưới chuyển động, tàu thuỷ
chạy dưới nước, con thỏ đánh trống, con gà thổi kèn… bằng, sắt tây mấy hôm trước
ngày rằm, một số em thiếu nhi hiếu động rủ nhau đi trồng đèn và kể vè. Chúng nắm
tay nhau, xếp thành vòng tròn có tầng trên và tầng dưới. Những đứa ở tầng trên
đứng lên vai những đứa ở tầng dưới. Một đứa tốt giọng kể vè, những đứa khác xen
vào câu "Dô ta" để hưởng ứng. Ví dụ, chúng kể về việc làm ăn: “Tháng
tám, bánh đúc ôm chua. Làng ta làm giấy, thua tài làng Đông". Hoặc để chế
nhạo: “Con ngựa bạch đeo cái cương sừng Một cô con gái ôm lưng ông già…"
Mỗi năm, cứ đến Tết Trung thu, nơi nào cũng náo nhiệt. Nhưng
đặc biệt náo nhiệt là ở mấy phố chính như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường,
Hàng Thiếc, Hàng Mã, chợ Đồng xuân và xung quanh hồ Hoàn Kiếm. Cũng có những
đoàn múa sư tử, múa rồng của những người lớn thích chơi, những người mãi võ biểu
diễn hoặc múa tranh giải do các nhà từ thiện hoặc các cửa hàng trao uý lạo cho
đoàn nào múa đẹp và sôi nổi. Có năm lại xuất hiện một vài đoàn múa sư tử gồm
toàn con gái mặc võ phục gọn gàng và dũng mãnh làm nức lòng mọi người. Ở vùng
Bưởi, các em còn chơi trồng hoa trồng nụ, bịt mắt bắt dê, nhảy cừu, rồng rắn
lên mây… trong những ngày trước và sau rằm tháng tám. Tết Trung thu là Tết truyền
thống của nước ta, là Tết của các em thiếu nhi, nhưng người lớn cũng có phần.
Nó làm sống lại quãng đời trẻ thơ không bao giờ trở lại của họ.
ĐÈN ĐÊM TRUNG THU
Nói đến rằm tháng tám, người ta nghĩ ngay đến múa sư tứ, phá
cỗ, trông trăng. Người ta cũng nghĩ ngay đến những đêm rước đèn, đến những chiếc
đèn Trung thu. Trước ngày rằm tháng tám, chuang nửa tháng, ở các chợ lớn, chợ
nhỏ đã có bày bán đầu sư tử và những chiếc đèn Trung thu. Những cái đèn được
treo từng dây dài, nhiều loại đèn, nhiều màu sắc cứ loá cả mắt. Nhưng tưng bừng
nhất là những ngày 12, 13, 14 tháng 8, là những ngày họp mặt đông vui nhất của
kẻ bán người mua.
Điểm đông vui nhất là ở phố Hàng Mã, cống chéo Hàng Lược và
phố Hàng Thiếc. Có thể nói ở những nơi này, trên là trời dưới là đèn. Những
dòng đèn thắp nến lấp lánh cứ chuyển động từ đầu phố đến cuối phố. Rồi ngược lại,
dòng đèn cứ vòng vèo, nhấp nháy như những dòng sông trong biển người. Có đủ mọi
loại đèn. Loại nào cũng đẹp, phải có những người khéo tay lắm mới làm nên được.
Đèn con thuyền thừ (con cóc) thật cồng kềnh, có hai cánh tay dài và cái mồm
ngoác ra, trông rất ngộ nghĩnh. Đèn cá chép đốt nến ở đàng đuôi, có bộ râu dài,
mở mắt trừng trừng. Lại có đèn con cá đen, đàng sau của nó có thêm mấy con cá
con cũng đen… Tại sao vậy? Người làm đèn muốn nhấn mạnh đó là cá chuối. Nó rất
mực yêu các con, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh vì đàn con, cá chuối đắm đuối vì
con mà…Có em lại thích đèn quả đào đèn thỏ. Đèn thỏ đốt nến ở bụng, con thỏ được
gắn liền với một cái khung có bánh xe. Đẩy thỏ đi, hai tay thỏ đập vào chiếc trống
trên khung cứ kêu long bong. Nhiều nhất là đèn ông sao có cán dài, có sao 5
cánh và sao 6 cánh. Các em giơ cao đèn ông sao lên hát: "Cái đèn ông sao…
5 cánh tươi màu"? Đèn xếp có thể co giãn được do nhiều lớp giấy xếp lại.
Còn có đèn quả dưa, đèn con cò…Đèn lồng trông chững chạc cứ đỏ rực lên cùng với
những cánh bướm, cánh phượng bằng giấy trang kim dán xung quanh. Nhưng đẹp nhất,
thú vị nhất là cái anh đèn kéo quân, còn gọi là đèn tướng hoặc đèn cù. Đèn có
tám cạnh, có loại to, loại nhỏ, nhưng điều đặc biệt là bên trong đèn có đĩa đốt
nến. Có một que dọc xuyên từ trên cao, đặt đầu nhọn lên đĩa. Dưới cái que dọc
đó toả ra những nan nứa, tết lại thành một vòng tròn. Trên vòng tròn này dán những
hình thù kỳ lạ. Ví dụ như hình một ông tướng đánh trận ngày xưa ngồi trên mình
ngựa, cầm long đao, tiếp sau là những ông tướng khác và các quân lính, có khi lại
là những hình ông sư gõ mõ, bà vãi tụng kinh, cũng có khi toàn là những con vật
đuổi nhau, nào là sư tử, hổ, voi, ngựa… Do người ta đốt nến lên, làm nóng không
khí, gây ra gió. Gió đẩy cái vòng có gắn những hình thù kể trên chuyển động
vòng tròn. Những hình thù chuyển động trên vòng tròn được in bóng loang loáng
lên trên nền giấy trắng mờ như là xem múa rối bóng. Người ta hát về cái đèn cù:
"Đèn ai sáng tỏ cái đêm hôm rằm voi giấy ôi a…
Ngựa giấy, tít mù ôi lại vòng quanh…
Khen ai khéo kết cái đèn cù…"
Đêm rằm tháng tám, các em ăn mặc sang trọng, rủ nhau đi rước
đèn. Mỗi em giơ cao một chiếc đèn thắp sáng. Cái em đi thành hàng dài, vừa đi vừa
hát theo tiếng trống… Hai bên hàng phố, có những nhà bày mâm cỗ ra ngoài hè,
đón mời các em đến phá cỗ… Cái cảnh rước đèn đêm Trung Thu thật rực rỡ, náo nhiệt,
hình ảnh mọi người vui vẻ, múa hát sẽ còn in mãi trong trí nhớ tuổi thơ…
ÔNG GIẲNG ÔNG GIĂNG
Không biết tự bao giờ, trăng đã đi vào thơ ca một cách rất tự
nhiên, thân thiết và gần gũi với con người. Những cuốn sách, những truyện tình
trên đời luôn đầy ánh trăng. Chàng trai Thăng Long xưa nuối tiếc mãi nhà em biết
ở đâu đây, hỏi trăng Tô lịch, hỏi mây Tây hồ". Xa xưa nữa, ở nước ta có tục
lệ "tế trăng” rồi đổi thành tục lệ thưởng trăng trong đêm rằm tháng tám.
Trong cái đêm thiêng liêng ấy, người ta uống rượu ăn bánh dưới vầng trăng. Bọn
trẻ thì hát "trống quân", "phường vải", thả diều sáo, múa
sư tử. Các em được bày cỗ, phá cỗ, vui chơi thoả thích, nô đùa, nhảy ngựa, chơi
bịt mắt bắt dê dưới ánh trăng sáng như gương. Người nông dân nhìn trăng mà biết
thời gian và dự báo thời tiết. Họ tính thời gian bằng tuần trăng: “Xa nhau đã mấy
tuần trăng lặn”! Nhìn trăng mà sinh tình: Nhìn trăng ta hát điệu vong
tình" hoặc: "Nhìn trăng ta hát giọng suông hời…".
Trong thần thoại, đồng dao, ca dao của ta luôn nhắc đến chuyện
trên ông trăng có chị Hằng Nga xinh đẹp, con thỏ ngọc và thằng Cuội ngồi gốc
cây đa. Cô thôn nữ tinh nghịch nói nhỏ: “Sáng trăng em nghĩ tối trời, em ngồi
em giở sự đời ra coi”: Chúng ta không thể quên được vầng trăng chinh phụ trong
câu: “Trông Tràng thành long lay bóng nguyệt" của "Chinh Phụ
Ngâm"? Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều và Kim Trọng thề thốt dưới trăng: “Vầng
trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai mặt một lời song song". Trăng của
Hàn Mặc Tử dí dỏm và đa tình. Trăng thành Huế bi hùng, trăng sông Hương mơ mộng.
Trăng xứ Lạng tắm nàng Tô Thị chờ chồng ngàn năm. Người xa nhà có vầng trăng đất
khách, trăng viễn xứ. Đôi trai gái reo lên: "Sáng trăng sáng cả vườn đào
sáng sang vườn mận, sáng vào duyên nhau"?… Người con trai khóc và trách
người con gái: sao em lại thề với anh trong một đêm trăng khuyết để bây giờ…"
Những gì về cái đẹp, về tình yêu, về người con gái thường được gắn với hình ảnh
của trăng. Chuyện trăng hoa giăng gió là chuyện giữa nam nữ lúc tình yêu đang
chín. Lời thề dưới trăng gọi là trăng thề. Lâu đài đón trăng ở đền Ngọc Sơn gọi
là Đãi nguyệt lâu. Các cô gái hay lấy tên là Nguyệt, lông mày cong của cô gái
được gọi là nguyệt mỹ. Ở các đình, miếu, chùa thường có những công trình điêu
khắc hoặc chạm trổ gọi là lưỡng long chầu nguyệt. Cái tuổi dậy thì của người
con gái được gọi là tuổi trăng tròn. Đường trăng là con đường xanh bóng trăng.
Người có tấm lòng tốt gọi là người có lòng dạ sáng như trăng sao. Thế rồi, còn
thuyền trăng, gạo ba giăng, bánh mặt trăng, đàn mặt trăng hay còn gọi là đàn
nguyệt. Cô gái được coi như mặt trăng khi người tình của cô nói với cô:
"Yêu trăng thương lấy ngày trăng rụng"? Mấy cô gái đến rủ bạn đi
chơi, cô bạn không đi được và trả lời: "Hôm nay trăng ẩm… cho em ở
nhà"? Có hàng triệu cách tả mặt trăng: trăng tròn, trăng non, trăng vuông
(trăng nhòm cửa sổ mặt trăng vuông) trăng suông, trăng vằng vặc, trăng nằm soài
sãi, trăng khuyết, trăng rụng, trăng lên, trăng đứng, trăng treo (đầu súng
trăng treo), trăng già, trăng lưỡi liềm, trăng thanh, trăng ngà, trăng bạch,
(trăng thu bạch), trăng dựng (thong thả trăng non dựng cuối làng), trăng lạnh
(Thái Bạch ôm trăng lạnh), trăng lưỡi liềm, trăng trần truồng (Ơ kìa! bóng nguyệt
trần truồng tắm), trăng lặn, trăng lu…vv. và.vv… Người ta nói chuyện với trăng,
vui với trăng, buồn cùng trăng, than thở với trăng như với người tri kỷ: Đêm
khuya, buồn lắm chị Hằng ơi!…
Trăng là bạn của tất cả mọi người. Trăng biểu hiện gợi ý và
nhắn nhủ mọi người nhiều điều. Trăng là nguồn cảm hứng vô tận và chia sẻ nỗi
lòng với con người. Trăng là thi, ca, nhạc, hoạ… là vẻ đẹp vĩnh hằng.
ĐÁM CƯỚI NGÀY XƯA
Ngày xưa, trừ những đám cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì hầu hết
là các chàng trai nhờ bạn thân hoặc ông chú, ông cậu mách mối rồi trình bày với
cha mẹ. Cũng có những chàng trai giả vờ làm người đi mua lợn giống hoặc mua cau
để có cớ đến nhà cô gái. Và cũng có những cô gái sắm vai người đi mua lá dâu hoặc
mua chè để có cơ hội đến nhà chàng trai để tìm hiểu. Để xây dựng mối quan hệ giữa
hai gia đình, nhà trai phải mượn người làm mối sang ướm lời bên nhà gái. Những
ông hoặc bà mối này ăn nói rất khéo. Nhiều khi còn nói có vần có điệu rất dễ đi
vào lòng người. Nếu nhà gái đồng ý thì bên nhà trai làm lễ chạm ngõ.
Lễ giản đơn nhất là vài chục quả cau, xếp lá trầu, mấy gói
chè. Sau đó, nhà trai phải đi lại với bên nhà gái qua vài cái Tết rồi mới được
làm lễ ăn hỏi và cưới. Trong giai đoạn này, nếu là tết Nguyên Đán, nhà trai phải
mang sang biếu nhà gái mứt, chè, bánh chưng. Việc biếu này gọi là "đi
xêu". Tết Đoan Ngọ thì "xiêu" bằng đôi ngỗng. Tết cơm mới thì
"xêu" bằng gạo mới và gà.
Ở nông thôn xưa, nhà nghèo thì cô dâu sắm chiếc áo ngắn, thắt
lưng hồng hoặc hoa lý và một chiếc nón che mặt để về nhà chồng, rồi sau đó che
nắng, che mưa khi lao động. Nhà khá giả thì may cho con gái cánh sen, áo cánh
trắng. Ngoài là áo (dài nõn chuối rồi áo màu mỡ gà. Hành trang còn có áo the hoặc
áo sa đen, khăn nhiễu tím hoặc nhung đen, thắt lưng hồng đào hoa lý, nhiễu tím
ba chiếc, ruột tượng sồi, khuyên vàng, xà tích, ống vôi bằng bạc. Váy trong màu
hồng đào Váy ngoài là lĩnh tía. Chân đi dép cong. Lễ rước dâu thường đi bộ.
Nàng thì vui, gặp mưa, quần áo, dò đường đi từng bước. Nhà trai khá giả thì có
ngựa, có võng. Sáu, bảy con ngựa cho cụ cầm hương, cha cô dâu, cha chú rể và
chú rể cùng đôi ba vị chức sắc cô dâu ngồi võng đào…
Đám cưới thường chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt lành nhất cưới
vợ xem tuổi đàn bà. Làm nhà xem cách… Đón dâu về nhà trai, cô dâu và chú rể phải
làm lễ tơ hồng. Trong lúc đó, có một ông chú hoặc ông bác nào đó tốt giọng nói
lên: "Dù trai dù gái cũng xin báo điềm vui cho sớm. Dù giàu, dù nghèo, dù
sang dù hèn cũng xin được ăn ở với nhau đến trọn đời, mãn chiều xế bóng…".
Sau lễ tơ hồng, cô dâu phải vào lạy cha mẹ chồng, vừa ra mắt vừa nhận nhiệm vụ
gia đình gọi là gánh vác giang sơn nhà chồng.
Chương II ( D )
NGHI THỨC TANG LỄ TRUYỀN THỐNG
Khi một người trong gia đình nằm xuống, người ta xé miếng vải
trắng, quấn lại như một hình nộm rồi buộc lên chiếc gậy, đặt trên bàn thờ gọi
là "phồn bạch". Hồn người chết nương vào mấy miếng vải trắng này. Người
ta đưa vào miệng người chết một nhúm gạo cuốicùng của dương thế gọi là "phẩm
hàm". Người chết được mặc áo quần mới và đẹp, được liệm bằng một tấm vải
trắng. Người chết đã liệm được đặt vào áo quan đúng giờ "lành". Áo
quan đặt giữa nhà, phía dưới bàn thờ và được kê trên hai chiếc mễ gỗ. Trên mặt
áo quan có bát cắm hương, nến và một bát cơm đầy có quả trứng luộc. Sau khi người
chết được đặt vào áo quan và đóng kín lại, gia đình làm lễ "phát
tang". Những người trong gia đình chít khăn sô, mặc áo sô, thắt dây lưng
lá chuối hoặc mang khăn tang…
Theo một quy định có từ lâu, chỉ cần nhìn là biết ngay người
chít khăn hoặc mặc áo có quan hệ thế nào với người chết. Con trai người chết lại
có thêm chiếc gậy để chống (nếu là bố thì con trai có gậy tre, nếu là mẹ thì chống
gậy gỗ vông). Các cây cối trong vườn cũng được buộc vào cành một miếng giấy bản
trắng hoặc một miếng vải trắng hẹp bản để cây cối cũng nhớ thương, tiễn người
ra đi. Sau lễ phát tang, cả gia đình đứng quanh quan tài. Phường bát âm nổi kèn
trống, tấu lên bài "Con nhạn lạc đàn" nghe ai oán, rồi rúc lên những
hồi kèn pha rất bi ai. Cả nhà oà lên khóc lóc, kể lể tuỳ theo tâm trạng biểu thị
tình cảm của người khóc đối với người chết. Họ kể lể những điều buồn thảm, nhớ
nhung thật sinh động. Nào nỗi niềm tử biệt sinh ly, nào nỗi cô đơn buồn thương
da diết của người sống đối với người chết. Có nơi giữ tục thuê người khóc mướn.
Đó là một, hai người đàn bà đứng tuổi, từng trải, có cuộc đời éo le, nặng lòng
với cuộc đời, rất tự nguyện đi “thương vay, khóc mướn". Họ có "nghiệp
vụ" nên kể lể ra đủ chi tiết làm mủi lòng mọi người. Họ khóc và kể về cuộc
đời người đã khuất và sự vắng mặt của người ấy sẽ đem lại những cay đắng và tổn
thất đối với người sống. Họ kể lể, lên bổng xuống trầm, gần như hát, có điệu có
vần. Chỉ cần thay đổi đi chút ít là có thể thành những dòng văn thơ. Ví dụ như
khóc cho người chị khóc cậu em trai độc nhất như sau: “Thế là từ đây xa rồi, mỗi
người đi mỗi ngả. Bây giờ không biết làm sao, thương nhớ nhau làm sao ".
Người ta sửa lại thành: "xa qua rồi em, người mỗi ngả Bây giờ không biết
nhớ thương nhau…"
Trên bàn thờ và trên nắp áo quan, nến thắp sáng, khói hương
nghi ngút. Bạn bè, họ hàng lần lượt đến phúng viếng người chết. Họ trao cho
tang chủ một số tiền hoặc một chút lễ vật rồi vái người chết ba vái. Mọi người
chung ý nghĩ: “nghĩa tử là nghĩa tận" thù hận cũng được bỏ qua. Khách vái
xong, vợ và con của người chết túc trực bên linh cữu quỳ xuống tạ lại ba vái tỏ
lòng cảm ơn và kính trọng. Nghi trượng đưa người chết đến mộ phần gồm: 1. Bàn để
bài vị ghi tên, tuổi người chết; 2. Một bàn minh tinh thể hiện vị trí xã hội của
người chết; 3. Một nhà táng bằng giấy nhiều màu sắc che ngoài áo quan và sẽ được
đốt đi sau khi đã chôn áo quan xuống đất áo quan đặt trên một cái kiệu có đầu rồng
do nhiều người khiêng. Linh cữu được khiêng từ từ, nhịp nhàng theo sự chỉ huy của
một ông già cầm hai mảnh tre gõ vào nhau gọi là gõ xinh, cùng với dàn nhạc bồng
bềnh, trôi nổi, nỉ non và buồn thảm. Linh cữu qua đình, chùa phải được khiêng hạ
thấp xuống để kính chào. Khi ra khỏi làng phải chào cổng làng một lần cuối. Đi
sau linh cữu là vợ, con của người chết. Con trai chống gậy tre, lưng còng xuống
vì gánh nặng nhớ thương mà cũng là do gánh nặng sắp tới sẽ đến với anh ta. Sau
đó là con dâu, con rể, cháu chắt, họ hàng. Cháu chít khăn trắng, chắt chít khăn
vàng, chút chít khăn đỏ áo tang lươm bươm, không may lại với nhau mà chỉ có mấy
cái dải buộc. Đầu tóc của con cháu đê bù xù, không chải. Ngay sau đàn con, cháu
là phường nhạc gồm 8 người rồi đến một đoàn các bà vãi ăn mặc nâu sồng, có đeo
tràng hạt có 108 hạt. Tay mỗi người cầm một nén hương. Đầu đội chung một mảnh vải
vàng thật dài có in những dòng chữ nhà Phật. Các bà đọc câu “Nam mô A di đà Phật",
đọc kinh, kể công ơn cha mẹ, kể cả về những sự gian nan đau khổ của kiếp người.
Huyệt để đặt áo quan xuống đã được đào từ trước theo sự chỉ dẫn của thầy địa
lý. Sau khi chôn cất xong, bài vị có tên người chết được rước về nhà, đặt lên
giường thờ, gần bài vị của tổ tiên. Hồn người chết đã nhập vào bài vị để con
cháu thờ cúng. Người ta đánh dấu phía đầu ngôi mộ. Trước lúc đó, có nhà sư lần
tràng hạt, tụng kinh, cầu cho linh hồn người chết được thanh thản nơi thế giới
bên kia. Sau mấy lần cầu, cuối cùng nhà sư nhúng cành cây nhỏ vào chiếc chén có
nước rồi vẩy ra xung quanh làm bắn lên những giọt nước "cành dương, "
Nhà sư cố tình đi xa ra chừng vài mét để gia đình khóc những tiếng khóc giã từ
lần cuối. Mọi người ra về. Ba ngày sau, gia đình ra thăm mộ, thắp hương, nến,
cúng rượu thịt, xôi, hoa quả rồi về nhà cùng ăn một bữa cơm với nhau gọi là làm
lễ "ba ngày". Ngày nay, xã hội đã thay đổi về nhiều lĩnh vực, trong nếp
sống văn hoá mới, nghi thức tang lễ ở nước ta vừa có sự kế thừa những nét truyền
thống của dân tộc vừa có sự tiếp thu ảnh hưởng những tiến bộ của phong tục văn
hoá phương Tây.
CHUYỆN ĐỐT VÀNG MÃ
Do sự giao lưu văn hoa lâu đời giữa Việt nam và Trung Quốc, tục
chôn cùng với người chết những đồ vật và dụng cụ thân thiết đã có ảnh hưởng đến
nước ta. Mọi người tiếp nhận lấy một số chi tiết rồi “bản địa hoá" theo
cách sống và trí tưởng tượng của mình… Theo truyền thuyết, vua Văn Vương đời
Chu chết đi vài ngày rồi lại sống trở lại do sai sót về sổ sách giữa Nam Tào và
Diêm Vương. Vua được tham quan cuộc sống dưới âm. Vì không ăn bát cháo “lú lẫn”
nên tỉnh táo mà quan sát được cuộc sống ở đó rồi lại trở lại với dương thế. Vua
phổ biến cho mọi người thấy rằng ở dưới âm phủ thiếu thốn mọi bề và đề xướng việc
người trên dương thế hãy gửi đồ tiếp tế xuống cho người thân ở dưới âm phủ…
Các tôn giáo lợi dụng chi tiết này mà bày vẽ ra nhiều chuyện
huyền hoặc. Thế là hình thành một lớp người chuyên sản xuất các đồ dùng, đồ vật
bằng giấy gửi xuống" cho người chết bằng cách đốt đi. Việc làm này là đốt
vàng mã. Những người làm vàng mã chế tạo ra đủ mọi thứ như nhà cửa, sập gụ, tủ
chè chõng tre, nồi, ấm, mâm, bát đĩa, áo quần, gầy dép, xe ngựa, tàu thuyền, xe
đạp, hình nhân, kính bút, tráp ăn trầu, vàng, tiền, vv…có người còn đốt cả ba
tong, võng lọng gần đây hàng mã còn có cả xe máy, ô tô, ti vi, tủ lạnh, nhà ba
tầng còn có cả mái bằng, tiền đô la mang dáng dấp hiện đại. Cũng theo truyền
thuyết, những người chết không có họ hàng thân thích, nghĩa là không được tiếp
tế qua việc thờ cúng là những cô hồn phiêu bạt, chỉ biết trông chờ vào việc đi
xin hoặc đợi chút quà bánh và mấy hớp cháo lá đa ngày xá tội vong nhân rằm,
tháng bẩy. Họ biến thành những ma đói, đi phá phách điều càn dở. Đói ăn vụng,
túng làm càn mà. Trước khi đốt vàng mã; gia chủ khấn với các vị thần linh, xin
chuyển hộ mọi thứ xuống cho thân nhân của mình theo đúng tên tuổi. Khi đó gia
chủ ăn mặc chỉnh tề, đốt lên một hoặc ba nén nhang. Cũng có lúc đốt năm nén, rồi
vái ba vái, bày tỏ nguyện vọng của gia chủ. Đốt một nén nhang gọi là tâm nhang
để tỏ lòng mình đối với người thân đã khuất, cũng là có sự mong mỏi được người
thân giúp đỡ đốt ba nén gọi là "cầu nhang", nhấn mạnh yêu cầu được
che chở mọi mặt. Đốt năm nén nhang là gồm cả "tâm nhang" lẫn "cầu
nhang".
Từ trước đến nay người ta cứ tưởng rằng cứ đốt càng nhiều
càng nhanh càng tốt. Không phải vậy người đốt từng bó nhang lớn, làm khói bay
mù mịt. Đó không phải là thắp nhang mà chỉ là làm cho mọi người xung quanh bị
ngạt và khó chịu mà thôi. Việc đốt vàng mã cũng tuỳ theo túi tiền của gia chủ.
Giàu thì vẽ vời vô kể và đủ điều. Nghèo thì giản đơn hơn nhiều. Bạn có thể đưa
ra 5 ngàn đồng và bảo: "Bán cho tôi 5 ngàn đồng vàng mã". Thế là bà
hàng hoặc cô hàng hiểu ngay, dưa cho bạn một bó nhang chừng 50 nén, một xấp
vàng giấy (vàng lá) ở giữa có quét một số vật ngân nhũ. Trên lớp ngân nhũ là
màu vàng hoe, một xếp giấy bạc 5 đồng của ngân hàng âm phủ, một xếp tiền đô la…
Hàng năm, mỗi gia đình có chừng 10 lần như vậy cộng với hai lần giỗ nội ngoại
và một lễ tảo mộ. Nhưng, ngày 23 tháng chạp là ngày tiễn ông Táo lên chầu trời
thì nhà nào cũng phải sắm thêm ba cái mũ và ba cái áo giấy. Ba ngày Tết phải có
thêm một nghìn vàng thỏi. Đến ngày Nguyên Tiêu, nhiều nhà mua thêm vài bộ quần
áo và một, hai con ngựa. Tết Đoan ngọ và Tết mồng ba tháng ba cũng sắm thêm một
chút vàng, mã. Ngày rằm tháng bảy theo tục truyền là ngày xá tội vong nhân.
Ngày này dưới âm phủ, mọi người được “giải phóng”. Trên trần mọi người thi nhau
đốt vàng mã. Những người làm hàng mã cỡ bậc thầy chỉ cần làm một vụ vào tháng 7
âm lịch là đủ cho cả một năm. Những người làm hàng giỏi thường là những người ở
làng Mái (Đông Hồ), nơi ven sông Đuống thuộc Hà Bắc. Làng Mái là quê hương của
làng làm vàng mã và tranh Đông Hồ nổi tiếng. Hai phần ba làm vàng mã và một phần
ba làm nghề vẽ, in tranh Tết. Nhiều gia đình làm cả hai mặt hàng. Chính họ là
những người đầu tiên ra mở cửa hàng bán vàng mã ở phố Hàng Mã gần chợ Đồng
Xuân. Họ sản xuất ở làng Mái rồi đem hàng ra bán và nhận đặt hàng ở phố Hàng
Mã. Làng Mái và dân Hàng Mã rất tự hào về người cụ của họ là một nghệ nhân bậc
cao rất đỗi tài hoa tên là Tô Vượng. Chính cụ đã được đưa vào cung vua để trổ
tài. Cụ tuân lệnh phải làm một cái ngai vàng bằng tre và giấy để nhà vua đốt
dâng các vị vua đời trước. Ngai vàng này phải giống hệt chiếc ngai vàng sơn son
thếp vàng mà vua đương thời thường ngồi. Có thể còn đẹp hơn. Khung, nan bằng
tre nhưng vững chãi, có thể ngồi lên dược. Khi hoàn thành tác phẩm, ông Tô Vượng
sung sướng quá, ngồi ngay lên chiếc ngai. Quan thái giám trông thấy, về bẩm với
vua về tội khi quân ông bị giam vài ngày. Trong nhà giam, ông xin được mấy hạt
gạo, ông dùng móng tay mà khắc lên hạt gạo những bông hoa tuyệt đẹp. Vua Minh Mạng
là một ông vua nghệ sĩ, vốn mến tài, mến cái đẹp. Ông lại nhận được mấy bông
hoa trên vài hạt gạo, liền mời ông ra khỏi nhà giam, phong cho Tô Vượng tước hầu.
Về đến làng, rất nhiều người đến xin làm học trò. Sau này, người cháu của học
trò ông đã trổ hết tài làm mã mà làm ra một chiếc thuyền Bát Nhã. Thuyền dài 2
mét, ngang 80 cm, có ba, bốn tầng. Phía đầu thuyền có vị thần linh oai phong chỉ
huy. Hai bên có đúng một trăm tay chèo. Ngoài ra còn có nhiều quan văn, võ hộ tống
"hồn" về "Tây Trúc". Chiếc thuyền có đến vài trăm chi tiết
vài trăm hoa văn, lộng lẫy… Chiếc thuyền này được tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng
Phu mua với một giá rất cao để bày trong phòng khách hồi năm 1938 - 1939. Đến tận
bây giờ, một vài lão nghệ nhân còn sống vẫn còn trầm trồ về vẻ đẹp rực rỡ,
hoành tráng mà rất dân tộc của chiếc thuyền Bát Nhã này…
Khi gia đình còn cúng vào hè (tháng 4), ra hè (tháng7) hoặc
cúng "dâng sao", "giải hạn", có muốn mua các đồ vàng, mã
thì sẽ được các chủ hiệu hẹn chừng vài ngày hoặc một tuần. Lúc đó, các nhà sản
xuất tập trung nhau lại, mỗi người làm một phần việc, một công đoạn. Ví dụ như
làm một con ngựa thì có người chuyên đan nan, người chuyên vẽ hoặc tỉa các hoa
văn, người chuyên lắp ráp… Có người mang đến tận nhà cho khách. Ở khu phố chợ
Giời có mấy người sẵn sàng đi chào hàng, chuyển hàng. Trình độ marketing của họ
rất cao. Họ nói ngọt như rót mật vào tai. Họ biết rõ những nhóm người hay cúng
bái, tế lễ hoặc lên đồng. Họ còn dùng cả điện thoại để thông tin cho nhau hoặc
giao hàng. Quả thật, vàng mã đã có nhiều mặt hàng xứng đáng được gọi là những
tác phẩm nghệ thuật về nhiều mặt. Chúng trang trí nội ngoại thất cho các miếu,
đền, am, đình… bằng những chiếc nón, các nhóm tượng giấy, hình nhân, hòm sắc,
voi, ngựa, rồng, phượng, rắn v.v… Đã có nhiều khách nước ngoài tìm đến mua và
coi chúng là những đồ mỹ nghệ thủ công lạ mà đẹp… Mấy xóm của làng P.T. (Thanh
Trì, Hà Nội) hầu như đều làm vàng cả. Họ làm đủ mọi loại vàng. Phần lớn là vàng
thỏi. Khung vàng thỏi bằng nan nứa gập lại Ngoài dán giấy màu. Vàng thoi trắng
để rắc theo các đám ma. Vàng có mắt kính tròn là để lễ các vị thần linh. Vàng
nhiều màu sắc để cúng các thổ công, hà bá hoặc để cho các linh hồn bơ vơ, không
nơi nương tựa. Bà An vừa mới mua được một gian nhà ở chợ Giời với giá hời. Nhà
của Nhà nước cấp cho được chia ngay cho hai cậu con trai. Hôm đến nhà mới, bà mời
khách khứa đến ăn uống. Bà vui vẻ khoe riêng với nhà báo để thông cảm: “ông nhà
tôi vì là loại cán bộ khá cao cấp nên tiếng là về hưu thật, nhưng lại làm chủ tịch
cho vô khối hội hè. Ông ta còn làm cố vấn cho mấy cơ quan nên cũng có chút bổng
lộc. Các con lại được làm những công việc "yêu tiên"… Thôi thì, người
đời của thế ông nhà tôi cũng làm được một ít việc thiện. Nhưng nước đời khó lắm.
Thế nào cũng phạm phải chút ít điều không thiện với lương tâm… Tôi mời thầy
cúng làm lễ cúng các vị thần linh. Tôi mua thẳng 5 triệu đồng vàng mã. Cũng gọi
là sám hối với các bề trên linh thiêng. Tôi chi khoản này rộng rãi thì mọi người
cũng kiếm được đôi chút (?!). Thế là tôi thanh thản, vẹn cả đôi đường…".
Bà Ngải cũng hay đốt vàng mã nhưng kinh tế nhà bà rất khá thì đã đành. Nhưng bà
Túy thì ở hoàn cảnh nợ nần chồng chất mà vẫn đốt rất nhiều vàng mã. Thật đáng
trách. Cuối năm Dậu, bà Loan đi thăm mộ chồng, đốt nhiều vàng mã. Lúc tàn mã
bay lên, bà khóc: "Anh tha thứ cho em…". Số lượng giấy để cung cấp
cho thị trường vàng mã rất lớn. Có điều, không mấy người để ý, nhưng nếu chúng
ta làm nhiều con tính nhân lên, chúng ta sẽ thấy. Nó còn tiêu thụ nhiều giấy
hơn công nghệ làm pháo Tết. Vì pháo chỉ dùng trong mấy ngày Tết. còn vàng mã cứ
đốt rải rác suốt năm. Hơn nữa, làm pháo có thể dùng nhưng giấy báo cũ. Những giấy
dùng cho vàng, mã, toàn là những loại giấy tốt và đắt tiền như: Giấy tầu bạch,
trang kim, giấy ngoại, giấy bóng kính, giấy nhuộm v.v… Đã đến lúc chúng ta phải
suy nghĩ đến một số lượng giấy to lớn dùng vào công việc không có sức thuyết phục,
không có lợi cho kinh tế, xã hội và văn hoá của đất nước.
BÓI TUỒNG
Ở Hà Nội, những năm trước đây, vào dịp Tết và cả tháng giêng
là bộ mặt sân khấu truyền thống lại rộn ràng hẳn lên. Những rạp lớn như Sân
Nhiên Đài, Quảng Lạc, Nhật Tân Ban. v.v… nô nức "vào xuân". Các diễn
viên được huy động triệt để. Từ mồng mười tháng chạp đến rằm tháng giêng là
giai đoạn bói tuồng, nhưng không nhất thiết là xem tuồng mà cả chèo và cải
lương. Trong suốt thời gian này, người ta chỉ diễn ba vở như: Kiều, Phan Trần,
Quan âm Thị Kính. Mỗi màn diễn lại chia ra nhiều lớp nhỏ. Ví dụ như ở Kiều, riêng
màn thăm mộ Đạm Tiên cũng chia ra nhiều lớp như: Kiều với ngôi mộ, Kiều và
Vương Quan, Kiều Kim Trọng, KimKiều thề thết…Họ có thêm vào những đoạn “cương”
hoặc “ngẫu hứng” cho những lớp tuồng trở nên tươi tắn hơn. Về vở Phan Trần,
chàng thư sinh Phan Tất Chánh tài hoa và đẹp trai đến thăm một ngôi chùa. Chàng
say đắm ngay tiểu Trần Thị Kim Liên. Đôi trai gái đó yêu nhau với một mối tình
mà mãi tận bây giờ mới gọi tên lên được là "tình yêu sét đánh”. Người cô của
Phan và vãi chùa bên khuyên can cháu không nên làm vẩn đục lòng trần của kẻ đã
đi nương cửa phật. Phan liền tránh mặt cô. Đến chiều tối, Phan leo tường vào
chùa trong, gặp một vãi khác, Phan nhờ bà đưa lá thư tình cho Kim Liên, bà vãi
từ chối, Phan doạ tự tử ép nài bà đưa thư. Hôm sau, Phan ập đến đúng lúc Kim
Liên quét sân chùa. Phan nắm lấy tay Kim Liên đang cầm chổi, Phan bảo:
"không quét hết được tội lỗi ở trần gian đâu”, rồi đưa tiểu vào nhà oản tự
tình với nhau. Sau đó, chàng và nàng bị đưa ra cửa quan, ông quan "nghệ
sĩ" này liền mách nước bàn cho Phan tặng Kim Liên chiếc quạt và Kim Liên tặng
cho Phan chiếc khuy bạc để coi như họ đã được hứa hôn với nhau từ lâu như vậy
là đẹp lòng pháp luật mà cũng xuôi đạo từ bi Lớp kịch diễn rất hay, xem mãi
không chán. Còn ở vở Quan âm Thị Kính thì khán giả ngày xuân thích những đoạn
Thị Mầu lẳng lơ từ dải yếm lẳng đi, nói ra miệng: "Chàng như táo rụng sân
đình Em như gái dở đi rình của chua". Và cái đoạn Thị Mầu trách anh Nô:
“Gió xuân tốc dải yếm đào Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương".
Ngày xuân người đi xem rất đông, nhiều người mải mê xem từ đầu đến cuối, có người
xem vài cảnh rồi ra nhờ người đoán điều hung điều cát. Các ông thầy bói này ngồi
trên một chiếc chiếu bên cạnh rạp hát, tựa lên chiếc tráp sơn đen. Khi gặp cảnh
diễn ra trên sân khấu, họ thường nói những điều tốt đẹp đại loại như: Năm mới
xem gặp tích Phan Trần là tốt lắm, sẽ có hỷ sự. Họ trao đổi với nhau vui vẻ.
Cháu bói đúng vào lúc Thị Mầu lên chùa. Thị Mầu thì lẳng lơ thật, nhưng không xấu
đâu. Ở đời hoặc ít hoặc nhiều, ai mà không lẳng lơ có gọi là bụt… Bói vào cái đận
ấy là hay đấy. Kim Trọng gặp Kiều thì còn gì bằng… Lẽ dĩ nhiên, người được giải
bói cũng vui vẻ “Vi thiềng” cho người “giải bói” một chút tiền “mừng tuổi” khá
rộng rãi. Và cả hai phía đều hân hoan.
HỘI LÀNG XƯA
Từ ngày mồng 10 đến 20 tháng tư âm lịch hàng năm, nhiều làng
trong vùng Bưởi (Ba Đình, Hà Nội) như làng Thủ Lệ, làng Đông, làng Hồ, làng
Nghĩa Đô Bái Ân, làng Cả… đều lần lượt vào hội. Hội nào cũng thường có hai phần
là lễ và hội. Về phần lễ, các làng đều làm lễ tưởng niệm các vị anh hùng, tiên
liệt, những người có kỳ tích hoặc ông tổ các nghề thủ công đã mang lại cuộc sống
cho dân làng. Làng Cả (làng Yên Thái) kết hợp việc thờ ông bà bán dầu Vũ Phục
đã hy sinh đời mình để cứu vua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo với việc thờ ông tổ nghề
làm giấy ông tổ nghề làm giấy không được thờ ở đình nhưng có một nhà thờ riêng
với tấm biển sơn son thếp vàng ghi bốn chữ: "Bản nghệ thần từ, ông cũng được
gọi là thánh sư, có mũ mão, cân đai. Tế thánh ở đình làng Cả. Một cái đình to đẹp,
tiêu biểu cho các đình cổ Việt nam.
Sân đình rộng thoáng. Tam quan rất cao có những nét kiến trúc
ngả về Phật giáo nhưng cũng có đôi nét mạnh khoẻ của Ấn Độ giáo. Lúc tế thánh,
chủ tế phải là tiên chỉ của làng. Bồi tế, phụ tế, các vị có vai vế cao nhất
trong làng không mặc các kiểu áo rồng phượng lòe loẹt mà ai cũng mặc áo gấm thất
thể, ngoài là áo thụng xanh lam, quần trắng, đóng khăn, đi hài… Trông họ giản dị
mà trang trọng. Màu sắc của gấm được phủ nhẹ bằng lớp áo thụng mỏng dính làm
tôn vẻ đẹp của gấm rung rinh kiểu bốc bụi những chữ triện, hoa văn màu sắc ăn ý
với phong màu đỏ tía. Các vị chức sắc làm nhiệm vụ khác thì nhất loạt mặc áo sa
đen, khăn nhiễu. Lễ hiến thực thánh ông là xôi dẻo, bò béo, với thánh bà là cơm
nếp thơm, gà mái ghẹ. Với thánh tổ nghề giấy thì cúng chè kho, chè mộng là mấy
món ăn nổi tiếng của vùng Bưởi do những nghệ nhân có tín nhiệm của các phường
được cử ra nấu nướng và chế biến. Đám rước của làng cả được bắt đầu từ xóm cầu
sau, qua xóm giữa, xóm cổng, ra đường cái quan rồi lại trở về đình. Đám rước
kéo dài gồm trống lớn có giá gỗ và bánh xe, trống cái có người khiêng, chiêng,
cồng, hàng chục lá cờ có thêu chữ "Hội" đủ màu của bảy sắc cầu vồng,
hàng chục lá cờ đuôi nheo, cành phướn, long đình, hai lọng vàng; bàn tam sinh gồm
thủ lợn, đầu bò, đầu dê; bàn cỗ chay, tám quạt lông, hai kiệu lớn sơn son thếp
vàng do mười sáu nam và mười sáu nữ thay nhau khiêng, tám loại vũ khí cổ do tám
ông già cầm; hai choé đựng nước giếng quê hương v.v… Người xem hội đông nghịt.
Nhiều trai tráng ăn mặc kiểu võ sĩ, mũ áo nhiều màu sắc rực rỡ, hào nhoáng, trước
ngực có kết hoa. Những cô gái khiêng long đình, chít khăn nhung, mặc áo dài màu
hoa đào, hoa lý, thắt lưng xanh hoặc vàng, quần lụa, giây cườm, nét vui tươi đầy
sức sống thể hiện trên khuôn mặt. Các cụ già râu tóc bạc phơ, tay cầm bát bửu
trông quắc thước bước đi oai nghi. Phía trước là hường bát âm liên tục tấu nhạc
theo những luật lệ chặt chẽ nhưng lại đầy sức hấp dẫn. Người xưa chú ý nhiều đến
đám phường tuồng, phường chèo. Các đào kép trong vai diễn của mình đi theo đám
rước nghênh ngang, mũ trụ lấp lánh, cờ cắm sau lưng. Có vai đội mũ cánh chuồn,
vẽ mặt, đeo râu, đi ủng cao. Có vai thái sư đội mũ bình thiên, mặt mốc, đi hia.
Hoàng hậu đội mũ cửu phụng, mặc áo vàng, đi hài phượng. Võ tướng Tạ ôn Đình có
đôi lông mày xếch nhọn, trên mặt có những nét gợn như vằn hổ trông thật dữ dội,
đeo râu sàm (liên tu). Các vai chèo thì vừa đi vừa quạt. Cả những vai hề làm
cho những trẻ con chạy nhốn nháo để xem tận mắt là hề mồi hay hề gậy. Sau đó là
mấy tràng trai đóng giả con gái, khoác trống cơm đi lại ẻo lả, nói năng ỏn ẻn,
liếc ngang, chít khăn vuông mỏ quạ. Họ đánh phấn hơi gắt, ngực độn. Người ta gọi
là những con đĩ đánh bồng. Họ làm cho mọi người cười ngặt nghẽo. Các cô gái thì
đấm nhau thùm thụp, cười khúc khích. Thỉnh thoảng các cô gái "rởm"
này lại bập bồng mấy tiếng trống và đưa mấy nét múa “giễu đời”. Suốt ngày diễn
ra các trò chơi như chọi gà, chọi chim, múa sư tử, đánh đu. Ở xóm cầu sau có
xây một nhà cầu có giống cung cách một cái chùa giản đơn. Ở đây có lễ Phật, làm
chay, chạy đàn, phá ngục. Bên cạnh cầu là một bãi rộng dựng lên một rạp hát bằng
tre, nứa để tối nào cũng có phường tuồng, phường chèo thay nhau diễn trong mười
đêm. Những tích trò được mọi người chờ đón như: Sơn Hậu, Đào Tam Xuân loạn
trào, Suý Vân giả dại, Lưu Bình Dương Lễ, Thị Mầu lên chùa… Diễn viên được đón
về trong những phường hội ở xa. Hôm sau, ngày hội chính lại có hát ả đào gọi là
hết nhà tơ thanh nhã, không ồn ào.
PHÁO TRONG VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Đốt pháo thể hiện niềm vui đã thành tục lệ ở nước ta đã có từ
lâu đời. Ở đâu có tiếng pháo, khói pháo, xác pháo thì ở đó có niềm vui nam, phụ,
lão, ấu. Đã từ lâu lắm rồi, trong những ngày vui, ăn mừng, chúc tụng hoặc nhất
là những ngày Tết Nguyên đán, nhà nào cũng đốt pháo. Riêng vào những ngàyTết,
pháo, hương, trà, mứt, rượu được coi là ngũ vị vừa thể hiện tính tinh thần vừa
thể hiện tính vật chất của ngày Tết. Pháo có mặt trong những ngày lễ, Tết thật
đằm thắm, gắn bó. Nó đã đi vào thơ, văn, ca dao, đồng dao. Có câu đối Tết:
"Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh treo".
Hoặc như: "Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng
xanh". Có nhà thơ đã viết: "Thủa bé em đeo chiếc khánh vàng Quần đào
xẻ đũng, áo hàng lam Chân đi hài đỏ, tay thu pháo…" Tiếng pháo Tất niên,
tiếng pháo giao thừa, đón mừng năm mới là những âm thanh và hình ảnh để đời
Pháo cũng thường được đốt trong những dịp liên hoan, mở cửa hàng, cất nhà mới,
đỗ đạt, chúc thọ hoặc tiễn cha mẹ thọ trăm tuổi về thế giới bên kia v.v… Pháo
còn là đặc trưng cho những màn múa rối nước. Nếu không có loại pháo của làng
Bình Đà phối hợp với quá trình biểu diễn thì hiệu quả nghệ thuật sẽ kém đi rất
nhiều. Như vậy sẽ làm mất đi vẻ đẹp của loại hình nghệ thuật rất độc đáo của Việt
nam. Trong các cuộc hội hè, vào đám, rước kiệu, múa lân, đánh vật, khảo cờ người,
bắt trạch trong chum v.v… đều cần sự có mặt của pháo. Đám cưới Việt nam ghi lại:
"Hôm nay xác pháo đầy đường Ngày mai xác pháo còn vương khắp làng…"
Cô gái lỡ duyên, than thở với cô em: "Người la pháo đỏ rượu nồng Mà trong
hồn chị một vòng khăn tang”. Bằng quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh có mấy câu thơ nổi
tiếng về pháo: “Kêu lắm lại càng tan tác lắm Cùng mang một tiếng ở trên đời”.
Xưa, tổ tiên ta cho rằng tiếng pháo và việc đốt pháo gây nên một hiện tượng phỏng
theo tiếng sấm có kèm các ánh chớp, mang lại vụ mùa bội thu: "Lúa xanh nhờ
sâm Em đẹp nhờ anh…" Vì sấm chớp mang lại mưa có acide nitrique trong quá
trình phát điện đã tưới bón cho mùa màng được tươi tất các cụ lại tin rằng, tiếng
pháo có khả năng xua đuổi tà ma, ám khí…Ở làng Đồng Ky có cuộc thi pháo đầu
xuân. Họ đốt cả những quả pháo khổng lồ dài 8 mét và có đường kính 0, 6 mét.
Bên ngoài quả pháo là cả một công trình nghệ thuật rực rỡ và cầu kỳ. Người ta bảo
rằng, cứ năm nào pháo nổ tốt, xác pháo rải ra như những cánh hoa đào là năm ấy
được mùa, dân khang vật thịnh. Ở nước ta có nhiều loại pháo: pháo tạch, pháo
đùng, pháo điện quang, pháo dây, pháo xiết, pháo chuột, pháo vịt, pháo kéo chữ,
pháo ném, pháo bèo, pháo bông, pháo hoa, pháo sao chổi… Trước đây, pháo tồn tại
và được khuyến khích sản xuất là vì nó có lợi ích về nhiều mặt: xã hội, văn
hoá, kinh tế… Có nhiều nơi như Bình Đà, Thanh Oai, Cao Xá Đồng Ky và một số gia
đình có truyền thống làm pháo đã nhiều đời. Nhưng người buôn bán pháo cũng
không ít. Pháo là một nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc, nhưng do những
lợi ích mà pháo đem lại quá lớn nên con người đã lạm dụng nó trong quá trình sản
xuất và sử dụng nên pháo đã bộc lộ những tác hại nhất định đến cuộc sống. Ngày
nay, pháo không còn có mặt trong những ngày vui, nhưng những hình ảnh và âm
thanh của pháo vẫn còn vang vọng mãi trong kí ức người dân Việt nam như một
hoài mềm khó phai mờ.
Chương III
nghệ thuật ẩm thực cỗ và mâm cỗ hà nội xưa
Yêu cầu của một bữa cỗ lý tưởng và tưởng tượng nằm trong bia
miệng: Sơn Tây đập đá nung vôi Bắc Ninh thì phải thổi xôi nấu chè Nam Định hầu
điếu, hầu xe Lô Khê, Hà Nội cho nghe ca trù… Sau khi nhà chủ đã có lời, người
ta bảo nhau ngồi vào cho đủ cỗ. Mỗi mâm có năm hoặc sáu người, ít nhất có hai
người hoặc hai cặp thân nhau. Cũng có thể ba cặp đều thân nhau thành một cỗ. Chủ
nhà tế nhị mời những người ăn ý hoặc cùng lứa tuổi ngồi vào với nhau, những người
có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào với nhau, những người bằng vai phải lứa với nhau
vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với đàn ông. Đàn bà vào cỗ với đàn bà… Cỗ là bữa ăn
đặc biệt có tính chất long trọng, thân tình được tổ chức trong gia đình như: Cỗ
cưới, cỗ nhà đám, giỗ chạp khao vọng, ăn mừng, chúc thọ cha mẹ, Tết v.v… Riêng
cỗ mừng thọ cha mẹ là do con cái đóng góp các con trai làm những món ninh, giò,
mọc, nem… Các con dâu và con gái làm các món bánh rồi quây quần ăn cỗ với nhau.
Ở những gia đình khá giả hoặc thành phố, cỗ khai trừ hẳn tất cả các món ăn mà
thường ngày dùng như dưa, cà, cá kho, rau muống… Có nhiều loại cỗ: Cỗ tứ quý gồm
5 thứ hải sản chế biến thành mâm cỗ, cỗ cưới có xôi gấc đỏ, cỗ nhà đám có xôi
trắng, cỗ mặn, cỗ chay… Có mâm cỗ một tầng, hai tầng hoặc năm tầng như ở 49
làng quan họ xưa. Trước đây, ở nông thôn cũng như thành thị đều có những phường
nấu cỗ thuê do các nghệ nhân sành, thạo, khéo tay đảm nhiệm. Họ thường có kỹ
thuật cao và cha truyền con nối, có được những món ăn truyền thống độc đáo ông
Kiếm ở cổ Nhuế biểu diễn giết gà một mình chỉ cần một chiếc tăm tre vót nhọn.
Ông Khán Trúc ở Yên Thái giết một con lợn một mình, chỉ cần một vò nước nóng chừng
3 lít. Trong phường có ông trùm là người giỏi nhất phường rất hãnh diện về tay
nghề của mình và được đi thi thố tài năng ở nhiều nơi. Chủ yếu là để lấy tiếng
chứ không vụ vật chất. Phường trưởng (trùm) góp ý với nhà chủ, ra thực đơn rồi
chia nhau mỗi người làm một hoặc nhiều món sở trường. Mâm cỗ một tầng về cơ bản
thường gồm 5 bát: Bóng, miến, măng, mọc, chim, súp, gà tần và 5 đĩa: Giò, chả,
gà hoặc vịt luộc, nộm, sào. Có khi gia giảm bằng các món rán, nướng, quay hoặc
nem Sài Gòn. Xôi, chè được xếp phía ngoài mâm để ăn sau cùng… Bát nước chấm có
hồ tiêu, chanh, ớt hoặc cà cuống ở giữa mâm. Khách đặc biệt hoặc khách danh dự
được bố trí ngồi mâm giữa ở gian giữa. Mỗi mâm có một người trong gia đình hoặc
chủ ngồi ghé cạnh nhưng chỉ gắp qua loa mà chủ yếu là để tiếp khách, gọi thêm
món, lấy thêm rượu, nước chấm, nước suýt, rau thơm, gia vị. Có khi người nhà ngồi
ghé đó có mặt ở mâm này rồi lại sang mâm khác. Khi ăn, khách nói chuyện rôm rả
vui vẻ thực sự. Có khi người mâm này nói chuyện với người ở mâm bên cạnh. Mỗi
người một phong cách ăn uống, một phong cách nói năng. Tất thảy đều được tôn trọng,
thật thoải mái, không phải e dè, giữ kẽ gì. Có khi rượu ngà ngà, ông nọ kháy
ông kia một chén hoặc tỏ thái độ về một sự việc gì đó. Đến mức găng thì mọi người
nói chữa cho nhau. Nếu có cuộc tranh cãi chăng nữa, họ cũng dễ tha thứ cho nhau
mà đổ lỗi cho rượu ngon đâm ra quá chén. Những lúc này, mâm cỗ Việt nam sẽ thật
đầy đủ chất đời, vừa thiêng liêng vừa dân dã. Người uống được rượu thích những
món ăn có kèm xương xẩu hoặc như đầu gà, cánh gà hoặc món nộm có đủ chua, ngọt,
cay, bùi giòn, mềm. Rau thơm thường gồm húng láng thơm ngát, canh giới thơm
thanh cao hoặc rau ngổ có mùi thơm sắc gọn mà dữ dội.
Cỗ ở miền Nam có thêm các món gỏi, chả nướng ăn với rau xanh,
khế, chuối xanh, giá đỗ, lạc rang, bánh đa… Mâm cỗ Việt nam thơm ngon, có truyền
thống lâu đời không cầu kỳ nhưng có đủ mùi vị, màu sắc. Trên bát bóng có những
lát bóng trắng ngọc, điểm mấy lát trứng tráng vàng ruộm, vài con tôm đỏ, vài quả
đậu Hà Lan xanh, nấm hương màu nâu. Trên bát miến có gan gà màu vàng đậm, tiết
màu đỏ huyết dụ, thịt nạc màu trắng đục, mộc nhĩ đen màu. Ở giữa có một dúm rau
màu xanh rờn. Khoanh giò thái ra có màu trắng ngon lành, hành củ trắng ngần, ớt
đỏ hoặc vàng sánh trang điểm cho bát nước chấm vàng nâu… Mâm cỗ là một bức
tranh. Ăn Cỗ xong, khách còn ăn xôi, chè hoa cau hoặc chè cốm, chè đỗ đãi rồi
còn ra bàn bên cạnh uống nước trà, hút thuốc lá. Bàn bên, các bà ăn trầu. Cũng
có lúc yên ắng hơn, mọi người thưởng thức tiếng hát của cô đào, tiếng đàn đáy của
kép, tiếng trống chầu của người đánh trống biểu diễn các làn điệu ca trù. Họ là
những nghệ nhân thần tình với gia chủ hoặc với vài ông khách. Họ có cái thú đi
biểu diễn cho bạn bè, làng xóm nghe. "Thế nào cũng phải có bài: "Hồng
hồng, tuyệt tuyệt". Lúc ra về, chủ và khách chắp tay trên ngực, nói với
nhau vài câu quý hoá rồi cùng vái nhau vài cái. Cái kiểu chào này thật trang trọng,
thân mật, giản dị có đượm mùi Phật giáo. Một số khách vừa thân tình vừa có họ với
chủ nhà ở lùi lại một chút. Họ nhận phần mang về gồm một nắm hay một mớ xôi có
thêm miếng thịt hoặc quả chuối. Đã có câu: "Có xôi có oản mới nên phần".
Cỗ Việt nam là cả một công trình. Nó không phải là tiệc cũng
không phải là liên hoan. Nó có cái độc đáo của nó. Có điều, ngày nay các phường
nấu cỗ thuê không tồn tại nữa. Kho tàng nghệ thuật ẩm thực của Việt nam cũng mất
đi nhiều điều quý báu. Phải chăng, các nhà làm bếp bây giờ cần phải đi tìm lại
kỹ thuật làm cỗ của người xưa để bữa cỗ Việt nam vừa dân tộc vừa khoa học và xứng
đáng có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Âm thực cũng là điều thiêng liêng, là
nghệ thuật, là văn hoá.
NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA PHỞ
Đã từ lâu phở là món ăn quen thuộc với người Hà Nội. Nó đã
thành một món "nghiện" như người ta nghiện thuốc lá, thuốc lào, trầu,
rượu… Đến nỗi, có thể nói là đã có một vấn đề được đặt ra: văn hoá phở. Thật vậy
phở đi đến với tất cả các tầng lớp trong xã hội, có mặt suốt xuân, hạ, thu,
đông; sáng, trưa, chiều, tối. Người ta đón những gánh phở, xe phở, hiệu phở
ngon nhất của từng thời kỳ. Những gánh phở như phở nhà Thương, chợ Hôm, Cống Vọng,
Hàng Long, chợ Đuổi… tồn tại cùng với tên những "hào kiệt" như phở Hợi
gù, Thanh, Hói, Đất, Lùn, Hiền, ráng… Nhưng sự nổi tiếng của mỗi hàng cũng chỉ
một thời rồi lại nhường cho những cái tên khác mà qua đi không trở lại, giống
như sự nổi tiếng của một vở diễn hoặc những ngôi sao. Do đặc điểm ấy, phở luôn
luôn mới và đầy bí ẩn.
Từ những năm thoạt kỳ thuỷ cho đến khoảng năm 1936, phở chưa ổn
định, vẫn còn trên con đường hoàn thiện với sự ganh đua của các gánh, các hiệu,
các xe. Quá trình này có sự đóng góp của những người sành ăn, những người ăn
chơi, khách các xóm ăn chơi… Phở luôn được gia giảm, cải tiến để thoả mãn cái
"gu" thanh lịch và nghệ thuật ẩm thực của người thành phố. Người ta
đã thay đổi nhiều cách như cho vào nước dùng chất ngọt thực vật của su hào rồi
thêm tôm he, sạt sùng, húng líu, gừng, xương lợn. Khách kêu lên: không được. Rồi
bát phở được thêm chút magi, tương ớt các loại rau thơm vô duyên, lát cà rốt,
mì chính. Người sành ăn la toáng: “phở rởm, phở cải lương".
Từ những năm 1937 đến 1952, phở mới bắt đầu định hình, có thể
đến mức gọi là "phở cổ điển”. Nghĩa là không thể ngon hơn được nữa, không
chê vào đâu được Này nhé, bánh phở dẻo, dai, bột mịn trắng bong. Những lát thịt
bò chín được thái to bản mà mỏng, nạm giòn, một vài lá hành hoa, xanh tươi,
nhánh hành sống có củ màu ngọc thạch nhúng qua nước dùng, vài sợi gừng vàng như
tơ, đôi lát ớt đỏ, ớt vàng, đôi ba lá húng láng, chút hồ tiêu sọ trắng. Nước
dùng chỉ thuần xương xẩu bò ninh với nước gừng nướng… Nước dùng được ninh bằng
củi đúng 12 tiếng đồng hồ, nhưng không bao giờ để nước sôi sùng sục. Mở nắp
thùng nước dùng ra, một làn mây khói mơ hồ, thơm nức đầu phố cuối phố. Bát phở
được trình bày đủ màu sắc hài hoà như một bức tranh. Nước dùng vàng nhạt, ngọt
đượm, ngọt đậm. Phở là quà nên chỉ một bát vơi, vừa phải, một bát lại muốn ăn
bát nữa, dẫu đã hơi no. Thoạt đầu chỉ có phở chín, rồi người ta bắt đầu làm phở
tái, cũng được một số người hưởng ứng. Lại một dạo, thuở trước, thứ hai và thứ
sáu chợ không có thịt bò. Sự việc này đã làm xôn xao làng "phở". Có
người treo đòn gánh. Một số người xoay ra làm phở gà. Nhiều người nhất định
không chịu ăn phở gà. Nhưng đa số người nghiện phở, sáng ra không có bát phở,
không chịu được, cũng đành ăn phở gà rồi cho rằng: "Thôi cũng được”. Lâu
cũng quen, nghĩ kỹ, phở gà tuy không được như phở bò, nhưng cũng có phong vị
riêng. Phở gà là bức tranh lụa, nhẹ nhàng. Phở bò là tranh sơn mài hoành tráng.
Sau này, từ những năm 1953 trở đi đến 1970, phở tái vẫn là chủ
soái. Nhưng, giai đoạn này, người ta theo ý thích mới, bát phở được đập vào một
hai quả trứng, bỏ lòng trắng, một vài chiếc quẩy, thêm rau thơm, mùi tàu và lạm
dụng mì chính, bột canh. Bát phở bớt mất phần "hương đồng gió nội”. Nồi nước
dùng lò than đốt sôi sùng sục. Xương không ninh lâu như xưa mà chớp nhoáng. Đặc
biệt, từ những năm 1975 đến 1993, đất nước thống nhất, đồng bào Nam Bắc chan
hoà và nhất là đến thời “mở cửa”, nhiều khách nước ngoài cũng mến món phở thì
bát phở đâm ra nặng nề, quá tải. Người ta cho thêm cả mấy viên mọc, mấy quả trứng,
thịt thái dày và nhiều. Một thìa mì chính được tống thẳng ngay vào bát phở. Bát
phở gà được tăng cường hàng chục miếng thịt gà chặt to gọi là phở "dữ dội"
hoặc phở "quân khu". Như vậy, phở đã bắt đầu không phải loại ăn nếm,
loại quà sáng quà trưa nữa mà là ăn no thực sự. Phở nhiều chất hơn, "bụi bậm"
hơn, "thực dụng" hơn theo với đời sống xã hội. Bây giờ, tìm được một
hiệu hoặc hàng phở Bắc, phở Hà Nội ngon, mang được dáng dấp phở “cổ điển” là
hơi khó. Người ăn phở phải dặn dò kỹ lưỡng, tẩn mẩn thì may ra người bán phở mới
làm "ưu tiên" cho mình được. Vừa rồi, có một bạn Việt kiều kể: đã đi
khắp Paris để tìm một hiệu phở Bắc ngon. Anh đã tỏ ra rất sung sướng khi được
biết nhiều hiệu phở mang dáng dấp Hà Nội vẫn là những hiệu đắt hàng nhất. Phở
còn nhiều chuyện lắm, nhiều bàn cãi lắm. Người ta họp mặt, chia taynhau hoặc
hoà giải, làm lành với nhau qua phở. Tỏ tình, nhõng nhẽo, gắn bó với nhau qua
phở. Ở bát phở cổ điển bốc khói, người ta thấy cả thơ, ca, nhạc, hoạ. Chứ sao!
BÚN CHẢ
Cụ Hồ Xuân Lan, 74 tuổi mới ở Pháp về. Cụ về nghỉ dưỡng ở quê
hương, dừng chân sau cả quãng đời lang bạt kỳ hồ khắp trái đất. Ngay ngày hôm
sau, cụ đến thăm chùa Một Cột, đền Ngọc Sơn và rủ mấy người bạn vong niên đi
tìm hàng ăn gia truyền để tìm lại cái hương vị đặc biệt gây nên một nỗi nhớ mà
cụ hằng ao ước. Đó là hương vị bún chả. Cụ nhắc lại một chi tiết về bài viết
xưa của tác giả bài "Hà nội ba mươi sáu phố phường" đề cập đến một
người ăn bún chả mà cứ bâng khuâng náo nức cho rằng mình đang được ở vào cái
giây phút hạnh phúc được nếm một món ăn cổ truyền mà dường như trên đời này
không có món ăn nào sánh được với nó. Người khách vừa ăn vừa có cảm xúc bật lên
lời: "Nghìn năm văn vật đất Thăng Long Bún chả là đây có phải không”. Hai
câu thơ nôm na vừa là thực mà vừa là mơ để đánh giá một món ăn “phi phàm".
Cứ mỗi lần về đến Hà Nội, các chị Dung, chị Quân, chị Thành chủ các khách sạn
người Việt nam tại Boóc-đô (Pháp) lại vội vàng gọi nhau đi ăn bún chả. Món bún
chả đã đi vào lịch sử văn hoá dân tộc và từ rất lâu đã được nhiều người ưa
thích. Nó là một món ăn kiểu cách mà sang trọng. Nói đúng ra, nó là một món
quà, người ăn ăn nếm, ăn hương ăn hoa chứ không vụ no. Một mẹt bún chả chỉ có
chừng 200 gam bún, vài gắp chả, một ít rau sống và nước chấm đủ để thòm thèm.
Món bún chả đã qua thử thách của nhiều đời người. Cho đến giờ, nó đã trở nên một
tác phẩm nghệ thuật mà không ai phải có ý kiến thêm bớt gì nữa. Nó đã đạt tới mức
hoàn thiện mà nếu ai chưa nếm bún chả là một điều đáng tiếc lớn. Đối với những
người ở Việt nam sống xa quê hương thì bún chả cũng "say" tấc dạ kiều
bào như một bài hát ru vậy. Xưa, ở làng Phú Đô (Từ Liêm) có những nhà làm bún
riêng cho các hàng bún chả. Bún cho hàng bún ốc và bún riêu tạp thô hơn. Bún
giao cho hàng bún chả sợi nhỏ hơn và thành phần bột cũng được trộn lẫn với một
phần ba là bột gạo tám thơm. Người ta không dùng tất cả là bột gạo tám thơm vì
bột này có nhược điểm là tuy có thơm nhưng nhạt nên phải cho thêm một phần ba gạo
tám xoan và một phần ba nữa là gạo gié cái vào mới có được vị đậm đà và độ dẻo,
dai. Thịt để ướp phải thái miếng vừa, hơi dày và đủ các thành phần cứng, mềm, nạc
và mỡ béo, được ướp với nước mắm có hồ tiêu, hành hoa thái nhỏ và đường. Nước mắm
thường dùng là "Nước mắm Kẻ Đô, cá rô đầm Sét” như mọi người thường ca ngợi.
Nước mắm Kẻ Đô thơm ngon, không có mùi như các loại nước mắm khác nên chiều được
cả những người khó tính nhất. Thịt ướp được kẹp vào que tre hoặc đặt lên vỉ. Chả
nướng bằng than hoa. Thành phần đường có trong nước tẩm cũng như lượng đường
trong bản thân miếng chả được caramen hoá cùng bốc lên một mùi thơm ngào ngạt đến
nhức mũi, kích thích dịch vị. Chả nướng phải ở dưới mức cháy sém và ở trên mức
chín. Nước chấm đòi hỏi một kỹ thuật pha chế khéo léo phải có liều lượng, có
cung bậc, thậm chí một chút tài hoa nữa là khác. Người pha nước chấm phải là
người sành, thực nhi trì kỳ vị. Nước chấm gồm nước mắm, thêm dấm, đường, hồ
tiêu, ớt, mì chính…
Độ ngọt của nước chấm bằng 1/3 độ mặn vừa phải. Nước chấm phải
pha đậm lên một nấc làm sao để phối hợp với những lát su hào, cà rốt trổ hình
hoa lá xanh đỏ và rau sống, rau thơm sẵn có chút nước tẩm vào làm nước chấm nhạt
đi là vừa đẹp. Nếu pha vừa phải ngay thì sẽ bị nhạt quá". ăn bún chả mà
thiếu rau sống thì mất hết cả thi vị. Nhưng rau sống lại có theo mùa. Còn rau
thơm thì có quanh năm. Rau thơm thường dùng là húng Láng và kinh giới. Mùa thu,
đông và xuân thì dùng rau xà lách. Về mùa hè thì dùng rau muống chẻ vừa giòn,
ngọt lại bùi. Chả thơm, ngon, dẻo, mềm. Rau sống tươi mát. Su hào hoặc đu đủ và
cà rốt thì giòn và bùi. Bao nhiêu chất liệu thì có bấy nhiêu vị ngọt khác nhau
hợp lại cộng với vị chua của dấm chuối, đậm thơm của nước mắm, cay của hồ tiêu
và ớt vị chát dễ chịu và hơi hắc của rau thơm cùng vị béo ngậy của mỡ… Người ăn
tự gia giảm độ chua, cay sao cho được vừa ý nhất, có thể thêm chút ớt, tía tô để
có vị cay và vị chát dữ dội hơn. Bún chả rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày và
cũng là cả một nghệ thuật, giàu chất văn hoá, mang màu sắc địa phương rõ rệt.
Bún chả gắn liền với các cuộc họp mặt, gặp gỡ hoặc tiễn đưa nhau trong các gia
đình. Bún chả luôn nhắn nhủ với chúng ta rằng, cuộc sống có vô vàn những cái đẹp
cái ngon, Hà Nội tự hào có chùa Một Cột, Văn Miếu, có con cò bay lả bay la…có mứt
ngũ vị. Hà Nội cũng tự hào về món bún chả của mình.
BÚN THANG
Ngoài bún chả, bún nem, bún chấm nước mắm chanh ớt, bún đậu
rán mắm tôm, chúng ta còn nhiều loại bún kiểu chan canh như: bún riêu cua, bún
măng với chân giò, bún ốc, bún sườn, bún dọc mùng, bún mọc v.v… đều rất phổ biến,
rất bình dân chưa bao giờ bị mọi người nhạt tình với chúng. Trong các loại bún
canh có một loại bún mà người ta gọi chệch tên đi là bún thang. Bún này cũng là
loại bún canh. Dùng chữ "thang" nó văn vẻ hơn chữ “canh”. Làm bún
thang cầu kỳ hơn, có nhiều thành phần hơn so với tất cả các loại bún. Bún thang
được đơm vào bát sứ sang trọng. Có khi là sứ Giang Tây. Không ai đong bún thang
vào bát sành hoặc bát đàn. Dưới bát bún thang còn được lót bằng một cái đĩa.
Người ta ăn bún thang theo kiểu ăn chơi, ăn nếm thưởng thức cái phong vị và tài
hoa của người làm ra nó. Ăn bún thang không phải là kiểu ăn lấy no. Do đó, bún
thang là món bún phong lưu, đài các Làm bún thang để thể hiện cái tinh tế trong
nghệ thuật ẩm thực truyền thống và chứng tỏ rằng, món này rất "xứng miệng
người phong lưu". Nó không kém bất kỳ các món sơn hào hải vị như long tu,
yến sào bào ngư. Những gia đình ăn bữa nay, lo bữa mai không làm bún thang. Chỉ
ngần ấy thôi, bún thang đã đáng được tôn phong là Nữ hoàng của các món bún. Do
vậy, người ta bảo bún sườn hiền lành, bún nêu dân dã, bún thang kiêu kỳ, thanh
sắc. Người ta thường tổ chức những bữa bún thang vào những dịp trước hoặc sau
những ngày lễ tết, ngày hoá vàng, khi có dịp vui mừng hoặc tiễn đưa, gặp lại
nhau v.v… Bún thang là bún tình cảm. Làm một bữa bún thang thường do một mệnh
phụ, một người chị, một cô gái nào đó tinh thạo gia chánh và được sự tín nhiệm
của mọi người điều khiển. Dưới tay người đó, có cô em, bạn hoặc cô cháu nhỏ
giúp việc và chấp hành những lời sai bảo. Thành phần bún thang phần nào mang
tính tập thể. Các thành viên được mời ăn bún thang thường không ăn mặc xuềnh
xoàng mà chải chuốt, trang trọng một chút. Dư vị và dư âm của bát bún thang đểlại
dai dẳng. Thậm chí cuộc đời gọi là miếng ăn nhớ đời. Ngồi vài mâm bún thang gia
đình yêu cầu: ăn ngon, không khí vui, người thảnh thơi. Bún dùng cho bún thang
là loại bún đặc sắc với nơi sản xuất. Tốt nhất là làng bún Phố Đô sợi bún nhỏ,
có độ mịn, độ hút nước cao. Mọi người kén khoang giò ước Lễ còn thoáng lòng
đào. Miếng giò được thái mỏng, hình chữ nhật. Thịt gà chọn loại gà quê, chân
chì, xé nhỏ, trắng nõn. Không lấy bì. Ruốc thịt lợn và ruốc tôm he phải bông
tơi. Trứng gà được tráng mỏng, không xác quá cũng không nhẽo quá, được thái ra
thành những miếng chữ nhật và những sợi dây tơ hồng. Thịt gà, xương gà, cánh
gà, xương lợn được ninh lên làm nước dùng. Nước dùng muốn đạt loại cao cấp phải
có tôm he cho dậy mùi và có được nét đặc trưng của bún thang. Thời gian gần đây
có cho thêm mỳ chính. Nước dùng phải trong vắt, không có váng. Trước khi ăn bún
thang, người ta thường nếm chút nước dùng, xuýt xoa, gật gù khen hoặc chê kín
đáo, đánh giá. Do vậy nước dùng thay rượu khai vị và quan trọng lắm. Kỹ thuật
cho muối vào nước dùng là khó nhất. Ngay người làm bếp cao thủ cũng không dám
chủ quan. Họ phải dùng phương pháp chiết trung. Nếu thịt, trứng, tôm, giò, ruốc…
mà đậm thì bún mặn. Nếu chúng nhạt, thì bún càng nhạt. Những sợi bún được chần
trong nước sôi rồi vẩy cho kiệt nước, đơm vào bát với số lượng vừa đẹp. Nghĩa
là nhiều quá sẽ là thô, ít quá sẽ là bạc. Xếp đặt những miếng giò trắng hồng,
miếng trứng vàng tươi, mấy lát thịt gà trắng phau, ruốc tôm he đỏ vàng, nhúm sợi
tơ hồng vàng xuộm, mấy mũ nấm màu nâu v.v… lên mặt bún…Làm sao cho khi chan nước
dùng bức khói vào trông phải động đậy, sóng sánh mà ưa nhìn. Bát bún được thăng
hoa qua vài giọt cà cuống. Người ta ăn bún thang với vài lá rau răm, canh giới
và bát nước mắm con để bên cạnh, có người thích mùi vị mạnh hơn, có thể tự cho
thêm vào một chút mắm tôm. Mọi người gắp trứng, thịt… ăn với bún. Thỉnh thoảng
lại húp thìa nước dùng một cách say sưa. Đây là động tác và tâm tình của người
cầm trống chầu trong buổi diễn tuồng hoặc người đánh trống thưởng thức giọng
hát của đào nương trong ca trù. Mọi người ăn thong thả, nhỏ nhẹ, lịch sự, vừa
ăn vừa nói chuyện vui vẻ thân tình. Khi gió heo may về, ăn bún thang thấy ấm.
Và cảm thấy mát mẻ khi gió nồm Nam gọi.
Hà Nội là quê hương của bún thang. Nó thường được tổ chức ở
các gia đình. Nhưng ở các phố cũng có một số hiệu bún thang. Những năm từ 1940
đến 1944 ở Hà Nội cũng có một số hiệu bán bún. Nhưng hiệu chả rán, bún thang nổi
tiếng nhất, lịch sử nhất, ngon nhất là hiệu bún thang Tế Mỹ. Nay ở số nhà 33
Hàng Quạt. Cho đến tận bây giờ, người Hà Nội chưa hề quên cái tên Tế Mỹ mà còn
tấm tắc lời khen. Bún thang! Người ta nhắc đến nó một cách cảm động nó có tên xứng
đáng trong ẩm thực truyền thống dân tộc Việt nam. Đó là món ăn rất Hà Nội và của
Hà Nội ngàn năm văn vật. Nó sẽ còn sống mãi với người Hà Nội sành ăn và tế nhị.
THỊT CẦY, QUÁN THỊT CẦY LÁI CHÓ
Họ có 4 người. Trong bữa chén tại phố chó Nhật Tân vào dịp Tết,
họ đã ngà ngà say. Mặt họ đỏ bừng. Tuy vậy, họ vẫn hăng hái “chiến đấu”. Người
thì hai chân bắt chéo ra dáng hể hả, người ra dáng tư lự một chút. Người thứ ba
ngửa mặt lên trời, ném gọn những miếng dồi chó vào miệng nhai nhồm nhoàm. Ăn thịt
chó không như ăn Cỗ. Phải thật thoải mái. Người ta không phải giữ ý tứ trong cử
chỉ và lời nói. Cá tính của ai thế nào biểu hiện ra thế đấy. Trên chiếu ăn,
ngoài món xào và nhựa mận đựng vào bát, vài món khác đều đặt trên lá sen và lá
chuối. Như vậy, bữa ăn có cái mùi vị hoang sơ của dân lục lâm tứ chiếng kiểu Lỗ
Trí Thâm hoặc như những ông sư hổ mang trong các chuyện kể dân gian. Ăn thịt
chó thì phải đi đôi với rượu. Nhưng chỉ có rượu quốc lủi, rượn trắng hoặc cùng
lắm là rượu cẩm mới là những bạn đồng hành thích hợp.
Không ai uống rượu mùi, whisky hoặc Napoleon hoặc bia với thịt
chó. Đang ngà ngà hơi men, bỗng một vị khách lục vấn nữ chủ quán một cách xách
mé và cợt nhả: Bà chủ chó, tôi thấy bữa hôm nay, mấy món này đâu phải cầy tơ?
Thưa ông anh. Tôi tưởng ông anh là người lõi sự đời! Tôi xin có ý kiến là nếu bữa
chén chỉ toàn là thịt cầy tơ sẽ nhạt nhẽo. Lớn bùi, bé mềm, ông anh ạ. Phải cả
tơ cả cứng, nó mới đủ mùi… Nữ chủ quán đáp lại.
Ông khách ngồi cạnh vỗ đùi đánh đét một cái: Đúng đấy. Khá lắm,
trả lời khá. Tôi chẳng gì cũng được quen biết cô chủ từ cái hồi ở Trôi. Đấy ông
anh biết đấy. Làng Trôi chúng tôi cung cấp hẳn một nửa thịt chó thành phẩm cho
Hà Nội, mổ, thui, luộc, làm lông chỉ một loáng là xong. Đây là nơi liên lạc. Số
lớn chó mổ ở Trôi mang ra đây rồi toả đi khắp nội thành. Bây giờ, tôi mở quán
làm thịt cầy 7 món. À, mà gần đây không chỉ có 7 món mà có thể 10 món hoặc hơn
nữa. Cải tiến mới! Tôi nghĩ được mấy món cổ truyền, giá như Nhà nước hay nước
ngoài có liên doanh, tôi cũng không vào. Tôi đã qua cái đận nuôi chó, lái chó rồi
mới mở quán. Tôi chỉ liếc qua một cái là biết con chó nặng bao nhiêu, thịt đậm
nhạt, đặc xốp khi luộc bị ngót… ra sao. Thế bà còn nhớ ông lái Cảo chứ? Vâng.
Nhớ chứ, "Cựu chiến binh" của chợ chó. Dạo ấy, ở lối cái bãi chân đê
lên cầu Long Biên sang Gia Lâm là nơi tấp nập buôn bán chó. Đó là chợ chó. Các
lái buôn từ nhiều nơi mang chó đến bán. Họ mang trên những chiếc xe đạp trông
cà khổ mà vững chắc hai hoặc ba cũi chó. Những tay đáo để mới làm được lái chó.
Chẳng ai bắt nạt được họ. Họ ăn mặc nhếch nhác, dáng điệu ngang tàng, ăn to nói
lớn, bạo mồm bạo miệng, xê dịch khắp nơi, nhiều mẹo vặt…Đó là những đặc điểm sơ
qua của họ. Nhiều khi tỏ ra phóng túng, rộng rãi. Trong đó, thỉnh thoảng có xen
vào một hai lái là nữ lại càng đặc biệt. Có thể là do gia cảnh éo le, tình tang
lỡ nhịp, giận thân giận đời hoặc thuộc loại nữ tính “dữ dội” mới chịu làm cái
việc này.
Nữ chủ quán L.L ở vào những trường hợp đó. Cô đã hơn 30 tuổi.
Chưa chồng con nhưng bồ bịch thì nhiều. Một hôm đi mua chó ở Bát Tràng, chủ nhà
đặt giá 50 ngàn đồng. Cô biết rằng đó là giá mềm. Tuy vậy, Cô vẫn ép giá và trả
30 ngàn đồng. Chủ nhà ý không muốn bán. Cô đưa đẩy vài câu, nắm tai chó và đúng
cái khác làm chó không nhúc nhích được rồi giơ cao thẳng lên. Cô bảo: "Chỉ
30 ngàn thôi". Thoáng thấy chủ nhà vẫn chưa đồng ý, cô liền thả con chó
đánh “ bịch” một cái xuống đất đủ để chó choáng váng và đi khập khiễng, sủa lên
đau đớn. Thế là chó lành thành chó què. Chủ nhà đành chép miệng đồng ý bán. Thế
là khêu mua đã được hời. Cô có cảm tình với bác lái Cảo. Bác là loại kỳ cựu.
Trước khi trở thành lái chó, bác đã bươn chải qua hàng chục nghề khác nhau.
Nhưng bác bảo số bác không giàu chỉ nhàn nhã phong lưu lại có thì giờ đi du ngoạn
lang thang. Nghề này thích hợp với bác. Bác tự liệt mình vào hạng người đã
thông hiểu cái "nước đời”. Một hôm L.L muốn mua lại con chó “Vện" của
bác ngay tại chợ chó cho một người bà con. Con chó được cả mã lẫn thịt. Chó Hải
Dương mà. Chó ngon nổi tiếng là ở vùng này. Hải Dương có nhiều gia đình chuyên
môn nuôi hàng đàn chó thịt, mọi nơi mà cả Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nội, Hà Bắc
đều phải về đây mua chó thịt. Con chó Vện được L đoán nặng chừng 20kg trên dưới
một chút. Nhưng bác lái Cảo bảo: "Cô L ạ. Con Vện này 25kg. Tiền thì không
thành vấn đề, chỉ trách cô mà còn nhìn nó có 20kg thôi". "Em nhìn là
không sai". "Có chắc không" "Chắc". Cuộc nào. Thì cuộc,
5 xập. Không cuộc tiền. Em không thể nào thua cuộc. Bác lái Cảo nháy nháy bộ
ria mép kiểu Nhật Bản, mắt hấp háy nói: "Tôi mà thua thì cô cứ nhổ vào mặt
tôi, cô cứ cho tôi một trận như hôm qua người ta xử lý tên kẻ cắp…"
"Em mà thua, em trả bác 5 xập". "Đã bảo không đố tiền mà"
"Thế em thua thì sao?" "Cô thua ấy à?…Tôi chỉ cần… "đánh” một
cái". Cô L đỏ mặt xấu hổ, biết mình bị "hố". Cô đi vê phía bờ
đê. Chẳng nói gì. Bác lái Cảo gọi lại, cô vẫn đi thẳng. Không đáp lại. Tuy vậy,
từ đó cô có cảm tình nhiều với bác lái Cảo và hai người thường buôn chung với
nhau, và bây giờ cô trở nên một chủ quán thịt chó tương đối có tiếng ngay giữa
Hà Nội. Quán luôn luôn có những làn gió thơm cuồn cuộn, ồ ạt, quyến rũ, thổi
vào toả ra khắp xung quanh. Việc quạt chả chó để bốc lên một mùi vị quen thuộc,
cũng là một việc quảng cáo sắc sảo chẳng cần chữ nghĩa văn chương gì cả. Đó vừa
là vỡ lòng, vừa là đỉnh cao của nghệ thuật quảng cáo. Cô L biết rõ hoạt động của
một số quán hàng thịt chó được mọi người trầm trồ. Cô có tham khảo ý kiến của
các vị sư phụ mà có được những nhận định xác đáng không chê vào đâu được. Nhật
Tân thì giỏi về các món nạm, ninh gáy và đùi, lại nổi tiếng về xụn và "bốc
mả". Thịt chó Hàng Lược giỏi về thịt luộc. Họ không luộc mà hấp khéo lắm.
Ô Quan Chưởng thì được món nhựa mận mầu hổ phách chưa cửa hàng nào theo kịp. Đó
là loại nhựa mận 4 lứa, ra nhiều nhựa, đậm đà đủ năm mùi. Món xào lăn thịt nạc
và xào đùi có cẳng chẻ ra, xương còn dính chút thịt, thoáng vị ngọt của đu đủ
xanh, mấy cánh hành trôi nổi trên váng nước dùng lao sao mỡ… thì Nhật Tân đạt đến
trình độ điêu nghệ. Món dồi chó gồm mấy loại thịt, mỡ chó, đậu xanh, lạc, tiết…
Đảo qua mỡ chó thật nhanh, qua luộc rồi lại đảo qua mỡ để nó gần giống như nướng,
thì Hoả Lò và Bát Đàn là hai nơi đáng kính nể. Người ta bảo: “Sống ở trên đời,
ăn miếng dồi chó, thác xuống âm phủ biên có hay không". Nhưng phải là dồi
chó Hoả Lò hay dồi chó Bát Đàn, chợ âm Phủ và gần chùa Bà (đền Hai Bà) nổi tiếng
về món chó luộc và bán chó cả con để người mua về chế biến. Chợ Bưởi và gầm cầu
cứ động bán thịt chó gói. Người mua mang đi chỗ khác ăn, không cần nói năng, dặn
dò nhà hàng gì cả. Nhà hàng thái một ít thịt, tuỳ chỗ thịt mà thái đậm hoặc
thái mỏng dính, một vài miếng dồi kèm theo húng chó, riềng, muối, ớt, mơ lông
tam thể rồi gói vào lá sen hoặc lá dong riềng. Ngoài cùng là mảnh giấy báo rồi
đưa cho khách mang về. Nhà hàng chẳng bao giờ bị khách hàng chê trách. Đi ăn thịt
chó, người ta chọn món ngon, chọn quán, chọn cả chủ quán. Hàng chục năm trở lại
đây, những vị chủ quán như các ông T, Cầu Guộc, S. Nhật Tân, Q. phố Thuốc Bắc,
N. Hàng Kênh, ông Ban Cống cấm v.v… được liệt vào hàng sư phụ. Cô L được liệt
vào hàng chuyên gia số 1. Nhất là cô lại là nữ. Cô có thể nói chuyện về chó và
các món ăn về chó hàng tuần không hết chuyện. Cô có đủ tư liệu để viết nên quyển
giáo khoa thư về chó và thịt chó. Thực ra, từ trước đến nay thịt chó có 7 món
cơ bản: nhựa mận, luộc, xào, xáo, dồi, chả, nạm. Có khi theo yêu cầu của khách
mà có cả giò chó. Món này như kiểu gỏi giò thủ. Có điều nguyên liệu còn có thêm
mộc nhĩ, riềng. Gần đây, người ta đưa vào 7 món cơ bản mà tạo ra thêm nhiều món
dẫn xuất. Muốn làm thế nào thì làm, người ta phải tuân theo những điều nhập môn
sơ đẳng, nhất là thịt cầy non không bao giờ tham gia vào nhựa mận hoặc xào vì
thịt sẽ ngót đi nhanh chóng. Thịt chó ngon nhất, đắt nhất là con chó ở thời kỳ
chuẩn bị đi tơ. Chó thui cũng cần "mông má". Phải quật mỡ khắp mình
chó trong quá trình thui. Phải thui cho da có những vết nở nhỏ sùi vệt trắng rồi
"mông má" tiếp tục cho chó thêm phần hấp dẫn. Việc "mông má"
là cả một kỹ thuật. Mẻ để nấu nhựa mận phải là thứ mẻ ngâu.
Người ta chẳng bao giờ ăn thịt chó một mình. Bao giờ cũng phải
có bạn, có tri kỷ để tâm sự, để khóc cười và say sưa với nhau. Họ thường ăn lai
rai. Bữa ăn có kèm theo bún và bánh đa. Thịt chó bổ, nhiều đạm. Đó là loại thịt
độc nhất ăn đến no mà không chán. Đã có nhiều người gọi tâng bốc nó lên là
"thịt rồng", thịt "hổ đồng bằng”. Những tỉnh phía Nam Trung Quốc
gọi thịt chó là "thịt thơm" (hương nhục). Món thịt chó của Việt nam
cũng được nhiều khách nước ngoài ưa thích. Đã có nhiều nước đến mời chuyên gia
Việt nam về dạy chế biến các món thịt chó. Nó đã ra ngoài biên giới Việt nam và
giữ một vai trò độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực truyền thống của Việt nam.
CHẢ CÁ
Phố Chả Cá là một phố nhỏ. Vào thế kỷ 19, đây là nơi bán các
loại sơn ta. Đến đầu thế kỷ 20, có một gia đình mở hàng chả cá. Nhưng ở thế kỷ
18, cả quãng này nằm giữa dòng sông Tô lịch, cả một vùng sông nước mênh mông.
Người ta đi lại bằng đò. Hai bên bờ sông là chợ bán cá đủ loại, ăn cá luộc mãi
cũng chán, người ta nghĩ đến món cá nướng. Quả là có ngon thật. Dần dà, một số
lái buôn đưa món cá nướng vào trong những lều chứa cá ở giữa sông cho kín và tiện
mặc cả, lại giữ được bí mật. Một số thanh niên sang trọng, có học hành đôi chút
cho miếng ăn là miếng xấu. Hơn nữa, ăn đường ăn chợ lại bị coi như là đồ
"tiện dân" nên cũng ăn cá nướng trong các lều. Như vậy mình ăn lai
rai không ai biết mà có say rượu thì cũng không sao. Thứ đến, các khách văn
chương và các cô gái vào loại giai nhân cũng ra các lều, nướng chả cá và ăn
trong lều. Chính họ là những người nâng món cá nướng lên một cấp đẳng cao hơn
đó là "Chả cá".
Phong cảnh ở đây thật tuyệt vời sông nước, lau lách, bèo mây,
trên bến dưới thuyền. Năm 1983, một đoàn khách nước ngoài vào thưởng thức món
chả cá của ta và đề nghị được trả thêm một số tiền cao hơn tiền ăn phải trả. Vì
họ được ăn chả cá với một không khí đặc biệt. Này nhé, trên một căn gác ọp ẹp
tôi tối trần thấp… nhìn thấy dưới chân mình là mặt nước dập dềnh có tiếng sóng
vỗ ì ọp. Với không khí này, người ta có cảm tưởng như đang ở trong một cái lều
lụp xụp của những thế kỷ đã qua. Người ăn chả cá lại có cái thú tự chuẩn bị cho
mình các loại gia vị mà mình thích, ngồi xuống nhấp chén rượu khai vị với mấy củ
lạc rang, hành hoa sống, bánh đa vừng, điã bún để đợi chả cá và nước mỡ nóng
thơm phức được mang tới. Mỗi vị khách có trước mặt mình một chiếc bát to đựng
rau thìa là và hành. Một bát nhỏ để ngay cạnh đựng mắm tôm đặc biệt. Không phải
là loại mắm tôm chợ. Khách đánh mắm tôm với chanh cho đến khi những vệt bóng mắt
cua nổi lên. Nhà hàng bưng chả lên, rưới mỡ nóng lên bát thìa là Khách gỡ chả,
chấm mắm tôm và ăn cùng bún, thìa là lạc. Mọi động tác được tiến hành hối hả,
hăm hở để đạt được cái khoái cảm tổng hợp. Có khách lại yêu cầu được để một cái
lò con ngay bên cạnh để khách tự tay mình lật chả rồi gỡ vào bát ăn.
Uống rượu, ăn chả cá lại phải chuyện trò rôm rả thoải mái mới
lên hương. Không ai đi ăn chả cá một mình bao giờ mà theo cái kiểu "trà
ngon phải có bạn hiền". Chả cá đóng vai trò kích thích tửu lượng. Phái uống
đến cái mức "ngà ngà" mới hết nhẽ. Nghĩa là hơi "sửa" một
chút để thấy mình tồn tại một cách tài hoa và hạnh phúc, thưởng thức những miếng
chả cá vàng ươm thơm tho, béo ngậy, cọng hành tươi mát, củ lạc bùi đậm đà, thưởng
thức chén rượu ngon, say sưa tình bạn, say sưa cái không khí ngào ngạt đầy chất
đời, say sưa cái chợ cá bên sông nước xưa kia của cha ông, mờ mờ nhân ảnh. Cái
bí quyết của chả cá nằm trong việc lựa chọn các con cá lăng, cá chiên, cá anh
vũ và việc ướp cá với chút muối và nước nghệ trong veo. Lẽ dĩ nhiên, quạt chả
cũng rất khó. Làm sao cho cá nát mà cũng không khô xác. Miếng chả phải
"khuôn mặt". Nhiều người ở các tỉnh xa về, những đoàn Việt kiều về
quê không thể bỏ qua món chả cá Hà Nội mà nổi tiếng nhất vẫn là chả cá Lã Vọng.
Thủ đô ta có chùa Một Cột, có hồ Hoàn Kiếm, có nghệ sĩ Quách Thị Hồ hát ả đào nổi
tiếng trong và ngoài nước, thủ đô Hà Nội còn có món chả cá…
BÀN VỀ GIA VỊ
Gia vị là những cái thêm vào, định vị cho món ăn để đạt được
hiệu quả cao nhất, có nghĩa là phải thêm vào những gì và như thế nào một cách
thích hợp để làm cho món ăn trở nên thật hấp dẫn. Nếu có gia vị hợp lý, ta có
thể có được nhiều món canh cá. Nhưng nếu không có gia vị thì chỉ có một món cá
luộc. Có gia vị các món ăn sẽ được thay đổi cung bậc và sắc thái, nâng giá trị
món ăn lên, hoặc cũng có thể làm giảm chất lượng món ăn đi nếu dùng gia vị
không khéo. Gia vị phải thích hợp với tập quán, sở thích, khí hậu, sản phẩm của
từng địa phương. Nó phải chịu được thử thách và được sự công nhận rộng rãi với
một thời gian lâu dài và qua nhiều thế hệ. Vì nếu không như vậy, gia vị không
ăn ý được thay thế ngay. Ở phương Tây, người ta gọi gia vị là cái để “làm vui
miệng". Thịt bò xào, hoặc thịt bò dùng cho phở tái không thể thiếu được gừng.
Nước dùng phở bò không thể thiếu được những củ gừng được nướng cháy bên ngoài
và được đập dập ra. Gừng làm át đi vị gây, hôi của thịt bò. Nhưng chúng chỉ bị
át đi chứ không bị tiêu diệt. Điều rất tế nhị là ở chỗ này. Trong thùng nước
dùng phở có xương bò, thịt bò, sá sùng, tôm he, chất ngọt thực vật v v… là những
chất định lượng. Gừng nướng trong nước dùng là chất tán hương. Nó bay lên, thơm
ngào ngạt từ đầu phố đến cuối phố.
Cà tím, xào thịt ba chỉ phải có tía tô thái mỏng. Bánh đúc
cua phải có ngay bên cạnh đĩa gia vị gồm rau ngổ, thân cây chuối thái mỏng và một
chút kinh giới. Một chút thôi.
Rau muống xào có tỏi ăn với kinh giới. Rau muống luộc chấm với
nước mắn chanh ớt. Nước rau luộc có lá me hoặc sấu. Thịt chó luộc phải ăn với
húng chó (húng giối), vài lát giềng. Thịt chó vốn nóng, húng làm cho dịu lại.
Húng chó vừa thơm vừa điều chỉnh vị thịt chó. Có khi dùng cả củ sả, mơ tam thể.
Nhựa mận phải có mẻ ăn các loại trai, sò, hến phải có rau răm, xương sông, lá lốt.
Ba ba, ốc nấu với chuối xanh, dọc mùng và đậu rán, phải có chút mỡ và nước nghệ
làm cho những miếng đậu và những miếng dọc mùng có mầu hổ phách. Mầu hổ phách đậm
nơi đậu và nhạt nơi dọc mùng. Có nơi dùng kèm những sợi tía tô là hợp lý. Thịt
lợn luộc phải có cả bì lẫn mỡ, ăn với giá sống, ngổ, chấm nước mắm chanh ớt.
Bánh cuốn Thanh Trì ăn với ruốc bông chả quế cùng mấy nhánh
mùi chấm nước mắm cà cuống. Bún thang nên ăn với chút cà cuống hoặc mắm tôm nhẹ.
Nhưng chỉ được dùng một trong hai thứ đó. Trên đĩa thịt gà luộc nên có vài sợi
lá chanh. Con gà cục tác lá chanh là vậy. Trên mặt đĩa tiết canh phải có chút lạc
giã nhỏ, vài miếng gan, rắc hồ tiêu cùng với mấy cánh húng quế ăn gỏi phải có mấy
quả sung hoặc lá sung non. Thịt băm được bọc bằng lá xương sông. Nem chua bọc bằng
lá ổi. Cá luộc phải có vài củ hành để lá dài. Cháo gà phải được rắc hồ tiêu,
hành hoa và rau răm thái nhỏ. Bún chả và nem rán (chả giò) ăn với rau muống chẻ
nhỏ, rau xà lách, canh giới, tía tô, chấm với nước mắm dấm ớt. Thịt bồ câu hầm
với hạt sen, nấm hương, thịt lợn băm, cho có đủ mùi vị của trời, nước, rừng, đồng.
Thịt cừu dê, bò tái chấm với tương gừng. Dấm cá, dấm ốc phải có thìa là. Chả cá
ăn với mắm tôm vắt chanh mới dậy mùi. Món ếch có thể là nấu với măng hoặc tẩm,
rán. Gia vị của món ếch là nụ mướp hoa, lá sung. ếch đặc biệt bổ đối với phụ nữ.
Dân gian ta đã có câu: nam lươn nữ ếch. Món lươn có thể om hoặc xào. Gia vị của
nó là nghệ, hành củ, lá ổi, ớt. Lươn là một vị thuốc tráng dương bổ thận. Ngay
cả bánh dẻo và bánh nướng Trung Thu, nhân bánh đều phải được chọn với gia vị.
Đó là những sợi lá chanh thái rất nhỏ (lá non) nhưng thính những sợi lá chanh
nhỏ đó làm cho bánh trở nên đặc sắc hơn lên. Thợ làm bánh cỡ sư phụ mới được
pha chế sợi lá chanh vào nhân bánh. Rau canh giới vừa là gia vị, vừa là một vị
thuốc. Nó thơm vừa phải, không bốc mà cũng không bị chìm đi ngay nó có vị ngọt
nhẹ hơi cay nơi đầu lười. Nhưng cái cay này lại rất thú vị. Nó vuốt ve vị giác.
Quả cà vừa là thức ăn, vừa là một thứ gia vị. Trong bữa ăn có rau muống, canh
khoai, canh cải cúc mà không có mấy quả cà là kém ngon. Dư vị của quả cà gây ra
một cảm giác lạ trong khi ăn. Nghệ thuật ẩm thực là rất quan trọng. "Thực
nhi trí kỳ vị" là một điều hạnh phúc. Tinh tường về nghệ thuật ẩm thực và
chế biến ra được nhiều món ăn ngon phải có đầu óc nhạy bén, sành điệu, tưởng tượng,
lãng mạn và có tâm hồn nghệ sĩ. Gia vị là những chất thêm vào cho một món ăn.
Bàn tới văn hoá ẩm thực là chuyện lớn. Khi ấy không thể không nhắc tới gia vị
trong bữa tiệc, bữa cơm gia đình.
NƯỚC LỌ CƠM NIÊU
Một thời, nước lọ cơm niêu đã trở thành mốt. Sau này, nhạt dần
nhưng nó vẫn là một nét đẹp trong lịch sử văn hoá ẩm thực. Đó là vào quãng những
năm 1939 -1940, xã hội có những đợt sóng báo động mạnh. Nước Pháp bị Đức thôn
tính, chiến tranh Thái Pháp. Thực dân Pháp đàn áp khốc liệt các cơ sở cách mạng.
Bộ máy cai trị của Pháp trở nên lỏng lẻo. Các cơ sở cách mạng của ta hoạt động
mạnh. Đâu đây cũng có những lớp học của Hội truyền bá quốc ngữ và các cơ sở tổ
chức lực lượng cách mạng. Nhiều người có tâm huyết, đi tìm cách mạng. Nhiều người
rủ nhau lên chiến khụ. Nhiều người ngơ ngác, trông chờ vào một điều gì đó sắp xảy
ra không cụ thể. Cũng có những người nghĩ đến chuyện: “Ra đi không hẹn có ngày
mai"? Có những người sống tiêu cực. Lại thêm, kinh tế gặp khó khăn… Đó đây
vang lên vài lời thơ của Thế Lữ: "Non nước đang chờ gót lãng du Đâu dây
nghe tiếng vọng chinh phu Lòng em phơi phới quên thương tiếc Đưa tiễn anh đi chốn
hải hồ". Đúng vào bối cảnh ấy, nước lọ cơm niêu ra đời.
Ở Hà Nội có ba cơ sở bán nước lọ cơm niêu. Một ở ngõ Hàng Dầu,
một ở Hàng Giấy, nhưng đáng kể nhất là ở phố Đinh Liệt, nay ở vào khoảng gần
phía sau Nhà hát kịch Hà Nội. Đó là một cái nhà kho rộng bỏ không. Trong nhà
ánh sáng lờ mờ. Cửa hàng luôn thuộm, chẳng có biển đề, cũng chẳng đề cũng chẳng
có quảng cáo. Khách ra vào lầm lỳ chẳng nói năng gì. Khách ăn chỉ việc đưa 7
hào rồi lấy ra một suất nước lọ cơm niêu được đặt trên một cái mẹt tre, rộng chừng
20 cm. Khách cầm cái mẹt, tự tìm lấy một manh chiếu nhỏ hoặc một cái đòn ngồi rồi
ra ngồi một mình ở một góc tuỳ ý. Suất ăn trên mẹt gồm có: một niêu cơm nhỏ, một
chiếc đũa cả ngắn, một đôi đũa nhỏ và ngắn kiểu đũa ăn rượu nếp và bốn cái chai
nhỏ có sức chứa chừng 20 ml và được đậy kín bằng chiếc nút bấc… Trong niêu nhỏ
có chừng hai bát cơm đã được thổi sẵn trong một nồi to. Cơm được đong vào niêu,
ở giữa là các thức ăn gồm: một miếng thịt bò om, một miếng thịt gà mái có da
vàng, một miếng thịt lợn rán có đủ cả bì, mỡ và nạc, một miếng gan xào, một dúm
trứng cáy hoặc tôm nõn, hai cánh nấm, một cánh một nhĩ… Tất cả được rưới lên một
chút nước đậm có hạt tiêu. Cơm được thổi bằng gạo tám thơm và tám xoan. Mỗi loại
gạo chiếm một nửa. Vì gạo tám thơm có vị thơm đậm đà. Nhưng gạo tám xoan lại có
vị thơm sắc sảo. Cơm gói các món ăn ở giữa. Chiếc niêu được đệm một tờ giấy rồi
được nắp vung đậy lên cho kín hơi và được hâm nóng cách thuỷ 4 chiếc chai nhỏ đặt
trên mẹt đựng 4 phụ gia cho bữa ăn. Chúng gồm một chai nhỏ nước canh như kiểu
nước suýt, một chai nhỏ có nước mắm cà cuống, một chai nhỏ đựng rượu ngang và một
chai nhỏ có chừng hai ba ngụm nước trà. Như vậy là đủ mùi vị cho một bữa ăn đối
với một kẻ giang hồ, kẻ độc thân, kẻ đang có điều gì phiền muộn hoặc cho một kẻ
lãng mạn, muốn cái điều: “Một mình làm cả cuộc chia ly". Lại đáp ứng được
cái thưởng thức mùi vị cô đơn, buồn vu vơ, muốn được thoả mãn trí tò mò, lập dị…
Khách ăn cầm lấy chiếc đũa cả ngắn đập vào cái niêu Thổ Hà đỏ
au mới toanh lên một tiếng "bốp". Chiếc niêu vỡ ra, bữa ăn được bắt đầu.
Khách ăn thật thoải mái, sung sướng được có cái thú tự tay mình đập phá một cái
gì đó làm vui. Cũng như cái cách thức ở bên phương Tây mở chai sâm banh, đập
tan một cái cốc trong bữa tiệc lấy may. Hoặc như khi một con tàu hạ thuỷ: người
thuyền trưởng được cái quyền ưu tiên là đập vỡ một chai sâm banh…
Ăn uống xong, khách ăn chỉ lẳng lặng ra đi, phủi ống quần, mục
thi vô nhận, ra ngoài đường, nhập vào phố xá bụi bậm và ồn ào… Thực ra, gọi là
nước lọ cơm niêu cho có vẻ "thương cảm" một chút. Khách trả cho bữa
cơm này mất 7 hào trong khì một đĩa cơm rang thập cẩm gọi là cơm Hoa Kỳ ăn no
được ở quán ăn Mỹ Kinh hoặc Đông Hưng Viên tại Hàng Buồm chỉ phải trả có 3 hào.
Trong một thời gian ngắn, nước lọ cơm niêu đã trở thành một cái mốt. Người đánh
tiếng cho nhau, mách nhau, đưa nhau đi ăn… Một số nhà văn, nhà báo vẫn rủ nhau
đi thưởng thức mỗi khi lĩnh được chút tiền “văn chương”. Đã là mốt mà nhất là lại
là mốt ẩm thực thì nó luôn luôn thay đối và nhõng nhẽo. Đến gần cuối năm 1940,
cái mốt này cũng bị nhạt dần rồi bị lãng quên. Tuy vậy, "nước lọ cơm
niêu" cũng khá đặc sắc. Nó cũng ghi được vài dòng khiêm tốn trong văn hoá ẩm
thực của Việt nam.
RƯỢU
Người ta bàn tán về rượu cũng như bàn tán về tình yêu thật
không bao giờ cạn. Cổ, kim, Đông, Tây đều vậy Trên thế giới, chẳng có dân tộc
nào không dùng rượu. Nghĩa là rượu có mặt trong sự tồn tại của con người. Mỗi
dân tộc cất rượu theo kiểu cách của mình. Nhưng họ vừa uống rượu bản địa, lại vừa
uống rượu nhập từ nước ngoài. Có vô vàn loại rượu nặng, nhẹ khác nhau, đắt rẻ
khác nhau. Việc thưởng thức cũng khác nhau tuỳ theo khẩu vị, sức khoẻ và tập
quán dân tộc. Ở nước ta cũng có nhiều loại rượu, có những loại được để ý nhiều
như: Rượu làng Mơ, rượu làng Vân, rượu tăm, rượu cần, rượu đế, rượu Lúa Mới,
Thanh Mai, Mơ Hương Tích, Cà phê v.v…
Vào khoảng những năm 1930 có rượu Phôngten 40 độ, rượu Văn Điển
35 độ. Những loại rượi sản xuất thủ công và không có giấy phép, thường được gọi
là rượu lậu, rượu quốc lủi, rượu ngang lúc nào cũng có và được dùng đại trà.
Đáng kể hơn cả là rượu làng Mơ có chiều dày lịch sứ chừng 6, 7 trăm năm. Quê
hương nó ở phía Nam quận Hai Bà Trưng, vào khoảng Bạch Mai Hoàng Mai Hoàng Văn
Thụ Trương Định ngày nay. Xưa kia, những nơi này là cả một rừng mơ bát ngát.
Dân nơi đây chuyền nghề nấu rượu mơ, bán đi khắp nơi.
Rượu làng Mơ đã trở nên rất nổi tiếng. Nghề nấu rượu ở đây được
giữ bí mật, cha truyền con nối. Không đâu có rượu ngon hơn. Rượu Mơ được gọi là
"Công chúa của các loại rượu. Nó thanh cao, tinh khiết, tươi mát, thanh bạch,
say dịu… Uống loại rượu này mà có kèm đồ nhắm là hỏng bét, là "ẩm bất chi
kỳ vị". Uống rượu mơ chỉ uống với mấy quả mơ xanh, tươi, giòn mà thôi.
Trong "Luận anh hùng" ở Tam Quốc, Tào Tháo và Lưu Bị uống rượu mơ với
mơ xanh. Họ lấy đũa gắp mơ rồi cầm lấy ăn nhấm nháp. Trong màn kịch "Chung
Vô Diệm phó hội kỳ bàn", Ma Tấn đấu cờ với Chung Vô Diệm cũng uống rượu mơ
và ăn mơ xanh. Họ uống một hớp nhỏ rồi một lát sau mới ăn mơ, chứ không ăn ngay
vì còn muốn kéo dài cái dư vị thơm của rượu mơ dâng lên, đánh võng trong Cổ họng.
Rượu tăm đã nổi tiếng với những lời ca dao thắm thiết: "Đố ai đánh võng
không đưa Ru em không hát anh chừa rượu tăm…" Nghĩa là không bao giờ anh
chừa uống rượu tăm cả. Hoặc như: "Tặng em một thúng xôi dền Hai con gà béo
với vò rượu tăm…" Trong mấy món quà tặng này, vò rượu tăm là đáng giá nhất.
Rượu tăm là rượu cất nước thứ nhất. Nếu cất 10 lít rượu thường thì chỉ được có
một lít rượu tăm mà thôi. Nó ngon hạng nhất, nhưng sao lại gọi là rượu tăm. Người
ta cho rượu tăm vào một cái chai. Rượu không được rót đầy và phải bịt kín miệng.
Người ta lắc mạnh chai cho rượu sủi tăm lên. Tăm rượu bốc mạnh như reo. Khi để
chai đứng yên, các tăm rượu lặn ngay lập tức. Đó là dấu hiệu loại rượu tăm
chính cống.
Ngày xưa, không ai dám nấu rượu trong nhà vì nếu nhà chức
trách bắt được các đồ nghề nấu rượu trong nhà thì chủ nhà lập tức phải đi tù.
Người ta nấu rượu ở nơi bí mật kín đáo. Nếu chẳng may bị lộ, họ liền bỏ của chạy
lấy ngưòi. Thủ phạm sẽ không bị bắt. Loại rượu này đặc biệt ngon, có độ nặng nhẹ
khác nhau theo sở thích người uống. Có điều nó có phong vị riêng biệt đủ đánh bại
các loại rượu để trở nên có tiếng một cách lâu dài và vững chắc. Rượu cẩm phổ
biến ở các miền rừng núi. Rượu chỉ có chừng 12 độ nhưng khi uống phải hít mạnh,
uống nhiều cũng dễ "đổ”.
Uống rượu cần, nhiều người cùng uống một lúc qua chiếc cản
hút của mình. Người uống rượu cần uống đến say mới đúng kiểu. Lúc đó, họ mới có
được những lời nói xuất thần. Lúc đó, người ta yêu đời, yêu mọi người trong cộng
đồng. Niềm vui được nhân lên và sự say sưa cũng được bốc lên với những tiếng cồng,
tiếng chiêng. Chính những tiếng vang trầm hùng ấy thúc giục người tacàng say
sưa, uống thêm nhiều nữa. Nơi nào tổ chức uống rượu cần mà không bố trí có tiếng
cồng tiếng chiêng xen vào là mất đi một nửa cái đẹp truyền thống. Người uống rượn
cần thả hồn vào men say của rượu và vào tiếng cồng tiếng chiêng ngàn xưa vọng về.
Rượu vò là rượu ngon để trong vò sành, chôn xuống đất một thời gian mới mang
lên uống, được gọi là rượu hạ thổ. Rượu làng Vân là loại "rượu mộc"
không cần gia công (hồ) cũng có tiếng một thời. Nhưng loại rượu ngang được các
cô gái làng rượu xưa kia mang đi bán rong khắp nơi. Họ phải lánh mặt những người
thực hành pháp luật. Cô gái bán rượu buộc chiếc bong bóng trâu vào bụng mình.
Trong chiếc bong bóng to ấy còn có một chiếc nhỏ hơn. Cả hai đều chứa rượu. Một
loại rượu thường và một loại đặc biệt hơn. Cả hai đầu bong bóng được nối với
hai vòi hút bằng ống sậy chĩa ra phía ngoài. Ngày xưa, cô gái Hà Nội đi bán rượu
mặc chiếc áo màu gụ để che lên, thắt lưng bao xanh vắt vẻo để nguỵ trang, ra
cái điều cô gái có mang. Cô bán rượu theo hai phương thức. Trong tay cô có chiếc
chén, cô rót một chén cho người uống ngay tại chỗ. Phương thức thứ hai dân dã
hơn và cũng nhuốm màu sắc phong tình, cô kéo tà áo lên chìa cái vòi hút ra
ngoài. Khách ngậm miệng vào vòi hút, tu từng hơi một. Mỗi một hơi là một ực, ba
ực là một cút, ba cút là nửa chai, sáu cút là một chai. Cứ thế mà tính tiền. Cô
có thể cho khách uống từng ực một ở ngay bên cạnh đường, bên bụi tre hoặc bất cứ
nơi đâu. Ở trường hợp này, khi khách đã uống độ một hoặc hai ực và tiếp nữa sẽ
ngà ngà say. Khách có thể cợt nhả, chòng ghẹo đôi lời. Thậm chí có “chấm mút”
tý chút, cô hàng rượu cũng mỉm cười ý nhị, rộng rãi và cho qua. Có điều cô sẽ
tính tiền rượu cao lên vì những lời nói và hành động lẳng lơ đó. “Cửa hàng, bán
và uống rượu độc đáo này có lẽ chỉ có ở Việt nam, Hà Nội trước đây ba, bốn thập
kỷ.
NGƯỜI HÀ NỘI UỐNG RƯỢU
Người sành rượu, trước hết cầm lấy chai rượu, ngắm một lát,
như say đắm, như vuốt ve chai rượu, thận trọng mà âu yếm nồng nàn như kiểu ngắm
một cô gái đẹp. Anh ta lại đặt chai rượu xuống. Tay nắm chặt chiếc chén trong
tay, ươm ướm. Chén uống rượu không có tai, có thể là chiếc chén Bát Tràng, chén
ở lò ông Thiếu hoặc chén cổ có men sáng, dưới đít chén có chữ Nội phủ. Quanh
chén có vẽ chút thuỷ mặc và hai câu thơ: Vị thuỷ đầu can nhật Kỳ Sơn nhập mộng
thân. Ta rút cái nút chai cuộn bằng lá chuối khô ra, ngửi ngấn rồi rót rượu ra
chén. Thế là rượu hiện ra, dìu dịu, trong suốt, sạch bong, tươi mát.
Rượu có khuôn mặt sống động, xao xuyến, bao la như một bản
tình ca. Có thể là độc ẩm uống một mình hoặc là đa ẩm uống với nhiều người.
Trong mấy người uống rượu với nhau, người ít tuổi hơn phải giữ ý. Khi nâng
chén, không để chén của mình cao hơn chén của người nhiều tuổi hơn mình. Tay
nâng chén rượu, người ta tợp một hớp thật nhỏ, khi chép miệng rồi mới uống tớp
đầu tiên, tớp thứ hai. Người ta thấy tinh thần phấn khởi. Nỗi mệt nhọc được giảm
đi nhẹ tênh. Người ta quên đi mọi buồn phiền, mọi sự trong cuộc sống. Tự biến
mình từ nô lệ của cuộc sống vật chất sang tự do. Người ta chuyển thực tế vào mộng
một cách dễ dàng và êm ả. Khi uống với bạn bè, người ta cùng uống, cùng say để
tỏ tình thật với nhau, uống cho sự giao ước, hứa hẹn được bền vững. Con quỷ
tinh nghịch trong rượu trở về những ngày vàng son xưa. Họ trở nên dịu dàng,
chan hoà, vui tươi… Người sành rượu phải tri kỳ vị (biết vị của rượu); tri kỳ
hương (biết hương thơm của rượu); tri kỳ ảo (biết sự huyền ảo); tri kỳ linh (biết
cái linh hồn của rượu)… Người ta uống nếm, uống thưởng thức, uống lấy say, uống
kiểu chén thù chén tạc: là uống kiểu hai người: chủ và khách. Bên chủ là bên
"tạch", có nghĩa là chúc mừng. Bên khách là bên "thù" có
nghĩa là uống đáp lại. Người ta uống đứng, uống ngồi, uống ngồi xổm, vừa đi vừa
uống…
Người đàn ông lý tưởng một thời xưa kia phải là người tài
hoa, phải biết cầm (đàn hát), kỳ (đánh cờ), thi (làm thơ), hoạ (vẽ)… Nhưng lại
phải biết cả tửu (uống rượu) mới là trọn vẹn. Tửu cũng chiếm một địa vị quan trọng.
Những người cầu kỳ hoặc tao nhân mặc khách yêu cầu khi uống rượu phải có một
không khí xung quanh "ngon"" người uống với mình phải
"ngon", rượu phải ngon, thức nhắm phải ngon. Người giàu có uống loại
rượu đắt tiền hơn và có kẻ hầu người hạ làm các món nhắm. Người có chữ nghĩa, vừa
uống rượu vừa làm thơ phú, đọc cho nhau nghe những áng văn hay. Có khi họ vừa uống
vừa thưởng thức giọng hát ca trù của các đào nương. Họ đưa sáng tác của họ để
các đào nương trình bày…Cảnh nghèo thì uống "xếch". Cũng có khi với
quả sung, quả ổi hoặc quả ớt cũng xong, gọi là rượu nhạt, rượu uống. Trong những
bữa rượu, người ta xếp những người ngang lứa tuổi vào với nhau, những người có
chức sắc hoặc bình dân vào với nhau. Nhưng khi uống rượu kiểu "chén chú
chén anh" thì thật thoải mái, bình đẳng. Chẳng phải giữ kẽ gì có khi họ
tìm thấy một vài chút xương xẩu, sụn gì đó… thì tha hồ mà mồm nhai, tai nghe đó
là cái thú dân dã và đặc biệt. Cũng có nhiều kiểu say: Say tàng tàng, say khướt,
say khướt cò bợ, say tít cung mây, say tuý luý càn khôn, say mềm, say mê mẩn đời,
say ngà ngà, say không biết trời đất là gì v.v… Lẽ dĩ nhiên cũng thường có chuyện:
"Rượu vào lời ra" hoặc quá chén mà xảy ra những điều đáng tiếc. Ở thời
xa xưa, những người dân ở vùng cao đều uống rượu cần. Mọi người uống tập thể từ
một vò rượu. Nhưng rồi có một số di dân xuống vùng đồng bằng, họ có khung cảnh
sống mới, tiếp xúc với nhiều cải tiến mà không uống rượu cần nữa. Họ quên kiểu
uống rượu này đi. Nhưng những người anh em của họ ở lại miền cao vẫn còn giữ được
cái nếp uống rượu cần. Tính cộng đồng của việc uống rượu cần rất cao. Họ cũng
vui với nhau, sống cùng nhau và cũng chết cùng nhau.
BÁNH BÈO
Đó là từ đời nhà Lê, cứ xuân thu nhị kỳ, nhà vua và một số
quan đại thần đến đền Thừa Lương (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà)
để chuẩn bị làm lễ tế trời đất nơi đàn Nam Giao (nay là khu nhà máy cơ khí Trần
Hưng Đạo). Nhà Vua thường cho gọi một số quan cận thần đến dự tiệc. Ở xung
quanh khu vực này có nhiều hàng quán sang trọng, có phường làm rượu nổi tiếng
làng Mơ và phường Kim Liên là nơi tập trung bán những món ăn ngon. Nơi đây, có
nhiều người nấu cỗ và làm bếp Vân Hồ ở mức đại sư nổi tiếng khắp kinh thành.
Tuy vậy, nhà Vua và các quan đại thần vẫn cảm thấy không ngon miệng trong các bữa
yến tiệc tưng bừng, thừa thãi và cao sang. Điều này làm cho quan ngự thiện rất
đau đầu. Ông lo lắng, vội vàng đi tìm những tay đầu bếp giỏi quanh vùng. Sau
cùng, ông hỏi thăm vào một căn nhà nhỏ của ông già họ Trịnh ngay ở Ô Cầu Dền.
Ông già này nổi tiếng là một người làm bánh bèo ngon. Ông không phải mang bánh
đi bán như nhữngngười khác mà khách mua cứ lũ lượt kéo đến nhà để mua bánh của
ông. Nghề làm bánh bèo của ông đã qua. Bánh bèo gói 3 lá chuối. Lá bên trong
cùng, nhất thiết phải là lá chuối tây để nó làm cho bột bánh khi chín có được
màu ngọc thạch. Lá bọc được bẻ hơi khum khum lại trong một chiếc khuôn tre để
bánh mang dáng hình chiếc thuyền bồng bềnh. Cũng có thể gọi nó là một cánh bèo
lớn nên gọi là bánh bèo. Tên chữ của nó là Bình cao (Bình là bèo). Bột làm bánh
gồm hai loại tẻ: tám thơm và tám xoan giã thật nhỏ, mịn. Hạt gạo phải nhỏ, đều
và khôn mặt. Bột bánh bèo không xử lý sang dạng bột lọc để nó giữ được một màu
trắng da thịt. Bột lọc trong suốt, gần như hết mùi trần tục và bị chắt lọc nhiều
lần nên nó mất đi nhiều chất quý giá của hạt gạo. Cũng tức là mất đi cái hương
đồng gió nội của nó. Còn bột bánh bèo sau khi được giã mịn, được giữ nguyên tất
cả để thành bánh. Do đó, nó giữ được tất cả những gam màu chân chất của gạo nên
có mùi vị đậm đà. Bột bánh bèo là cô gái chân quê mơn mởn, dũng cảm, tự tin,
không cần son phấn. Nó sống hết mình, hết cả đời gạo để hiến cho cuộc đời tất cả
những tinh hoa, tinh khiết và ngay cả những gì còn non kém, ngây thơ mà chân chất
của nó. Bột bánh bèo được cho vào một tỷ lệ muối, nước và hàn the hợp lý. Thần
tình là ở chỗ người chế biến biết điều chỉnh hợp lý được cái hình tam giác nước,
muối và hàn the này. Nếu ba cạnh của hình tam giác không hài hoà được với nhau,
tỷ lệ này quá một chút hoặc kém một chút, đều không thể có bánh ngon. Trên mặt
bột được rắc lên những cánh nhỏ hành hoa xanh ngắt xào qua mỡ và chừng 9, 10 miếng
tóp mỡ màu vàng đậm. Như vậy là những cánh hành hoa nổi như những cánh bèo hoa
dâu nổi lên trên mặt hồ màu ngọc. Tóp mở phải được xử lý riêng từ một mảng mỡ
hoa để có những lát dày, mỏng như nhau, không cháy quá, cũng không non, chỉ hơi
giòn sần sật và có toát ra chút mỡ nước. Đây là cả một pa lét pha màu của một
hoạ sĩ tài hoa. Quá trình hấp bánh cũng rất công phu. Nồi cách thuỷ ở dưới,
trên là cái chõ được xếp những chiếc bánh. Giữa hai nồi này được bịt kín bằng
giấy bản để khỏi phì hơi. Trên nắp chõ là một chiếc vung đậy lớn, phải đậy thật
kín nhưng cũng phải có một lỗ nhỏ thông ra ngoài, lỗ nhỏ này thường cũng được bịt
kín, thỉnh thoảng mới được mở ra một lát. Từ lúc hấp bánh đến lấy bánh thành phẩm
ra khỏi chõ, chỉ được mở ra có một lần. Do đó, thông qua cái lỗ nhỏ trên vung
mà người làm bánh ngửi thấy mủi thơm của bánh. Từ cái mùi thơm ấy mà người làm
bánh lão luyện phải biết được trạng thái chín dậy mùi của bánh là chín vừa đẹp
gọi là chín "đừ” mới mở nắp ra. Bánh bèo đạt những tiêu chuẩn: bùi, béo,
thơm, ngọt, đậm, mát, hấp dẫn vị giác. Người ta bảo bánh bèo vừa có mùi vị
"chay", lại vừa có mùi vị "mặn". Bánh bèo là một nét duyên
thầm. Mỗi lá bánh bèo đều được trang bị một con dao bằng tre vót nhẵn, phía lưỡi
thật mỏng. Hình con dao này hơi giống chiếc bơi chèo. Người ta dùng con dao này
mà cắt bánh, cắm lưỡi dao vào miếng bánh, đưa lên miệng một cách trang nghiêm,
hớn hở mà cảm động. Trong một bữa yến tiệc vua ban chất đầy những cao lương mỹ
vị, người ta thấy vắng mặt quan ngự thiện. Một lát sau, quan ngự thiện về cùng
ông già làm bánh bèo. Họ quỳ xuống rồi thả vào bàn tiệc lớn những lá bánh bèo
thơm ngon có hình dáng những chiếc thuyền con. Quan ngự y trình bày về chiếc
bánh bèo vừa dân dã, vừa cao sang cùng cách sử dụng con dao tre then thuộc. Bữa
tiệc náo nức hẳn lên. Vua và các quan ăn hết tất cả những chiếc bánh bèo và
khen ngon, tưởng chừng như chưa bao giờ được thưởng thức một món ngon như vậy.
Mọi người nâng chiếc que dao mà nao nao như họ đang sử dụng bơi chèo…Hình như
có người từ một cội nguồn xa xăm nào đó vẫy gọi: “Về đây với con sông, chiếc
thuyền…" ăn một miếng ngon, người ta lại có một cái gì để thương nhớ… Trước
những năm 1940 và còn cho đến những năm 1960, ở vùng chùa Vua và Bạch Mai có mấy
nhà làm và bán bánh bèo. Bánh bèo chùa Vua được đánh giá cao. Những gia đình
này là hậu duệ của ông già họ Trịnh khi xưa. Bánh của họ cung cấp cho mọi người
khắp Hà Nội. Đến nay, món bánh bèo chỉ có mặt ở một số chợ quê mà thôi. Thật
đáng tiếc cho món quà bình dân đã gây được tiếng tăm một thùa. Bánh bèo chùa
Vua không chỉ là một món quà đơn giản được mọi người ưa thích. Nó là một món
quà có hồn, gợi nhớ đến tình cảm truyền thống. Nó có giá trị trong nghệ thuật ẩm
thực Việt nam và mang màu sắc triết học.
BÁNH TRUNG THU
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kỳ diệu,
cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên đán. Bánh dẻo có
hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc
vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước
đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải
do một bàn tay thợ có "nghệ" đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ
không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh
hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt
áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ
cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ
vừng, xử lý mứt bí khẩu, mức sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho
nhân… Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này,
người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến tới
nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh
nướng là "em" của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm
1980 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột
quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường… gọi là nhân thập cẩm…
Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen… Bánh dẻo
trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng
non tạo ra, thường có đường kính chừng 78cm, chiều dày 2, 53cm. Cứ 4 cái bánh
được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc. có in nhãn hiệu với số nhà,
tên phố. Hiệu càng lớn, càng in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc Đặc biệt là các
hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc
bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt
trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng… Nghĩa là người thợ làm cả cái
việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài
hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt nam
cũng chiếm 70, 90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã
cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội
vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng
trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được
ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở,
ông Long Đồng Kỵ, hoặc ông Lý Bắc Ninh…Sự thật đã có một thời vẻ vang. Các hiệu
bánh Tùng Hiên, Tràng Thái, Ngọc Anh, Cự Hương, Việt Hương… Đã nổi danh xa gần
ai cũng biết tiếng. Bánh của họ đủ sức cạnh tranh với các hiệu người Hoa như
Tây Nam, Đông Hưng Viên, Mỹ Kinh. Từ kẻ chợ đến vùng quê nhân dân các tỉnh khác
không bao giờ quên. Sản phẩm của họ với cái "tạng", cái "gút, Việt
nam. Có điều các hiệu của người Hoa chú ý nhiều đến bao bì, quảng cáo hơn. Họ
tiếp khách niềm nở với đủ những chi tiết tế nhị và tỉ mỉ. Tết Trung thu, nhà
nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng Cố mua cho con cái một vài cái bánh
dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách
quý, bạn thân… bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo ròn, gợi hình mặt trăng, sự
tròn đầy. Vào những năm 1989, 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các
Hội chợ quốc tế ở Đức và Bungari, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương
độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng
thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hoá của Việt nam.
Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ
tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi
người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa thu Hà Nội.
TRÀ ĐẠO
Ở Việt nam, chè được trồng từ rất lâu đời. Việt nam cũng là một
trong những quê hương của cây chè. Ở những vùng Tuyên Quang, Lạng Sơn, chúng ta
đã phát hiện được trên 40.000 cây chè hoang. Có cây bằng cây đa, tán rộng tới
14 mét và gốc cây đến 80cm đường kính. Có cây hai, ba người ôm không xuể. Có những
cây chè cổ sống trên 800 năm được tìm thấy ở Suối Giàng. Những cây chè này đã
sinh ra bao đời cháu chắt và vẫn thanh xuân. Chè Suối Giàng rất được nước. Màu
nước xanh trong trông rất đẹp. Không phải chỉ ở nước thứ nhất mà cả ở nước thứ
hai, thứ ba vẫn còn thơm ngon.
Trong lá chè có nhiều hoạt chất khác nhau và còn những chất
chưa được biết tới. Kỹ thuật chế biến chè là một nghệ thuật có trường phái mang
tính thời đại, chịu ảnh hưởng phong tục tập quán của từng nơi. Chất lượng chè
mà chúng ta quen dùng trước hết là do nguyên liệu quyết định. Muốn được chè
ngon, chè phải được hái đúng một tôm hai lá. Có khi ba lá. Lá càng già giá trị
càng thấp. Từ một loại búp, ta có thể có 4 loại chè: chè đen, chè xanh, chè đỏ,
chè vàng. Chè xanh hương thơm ngát, chè vàng vị thoảng qua, chè xanh giữ được mầu
xanh trong nước hãm. Nước chè và vị chè cũng nói được tấm lòng bao la của chè.
Việt nam ta chỉ sản xuất chủ yếu hai loại chè: Chè xanh và chè đen. Chè xanh hợp
khẩu vị nhân dân cả nước. Chè đen để xuất khẩu. Hương chè xanh tự nhiên, rất
ngát, tinh tế. nửa mùi rơm khô, nửa mùi hoa hồng và cam, chanh. Khó tả như tình
yêu vậy. Riêng chè xanh, có chè xanh để mộc hoặc ướp chè hương sen, nhài, ngâu,
sói, bưởi, hương liệu, dược liệu v. v… làm cho hương chè đa dạng. Chè Hồng Đào
có hương thơm mạnh, Chè Thanh Tâm hương thơm mát dễ chịu. Thế nào là chè ngon
là câu hỏi từ mấy ngàn năm nay mà vẫn chưa có lời đáp thoả đáng. Mà thơm ngon
cũng chỉ là những từ rất chung chung, chưa cụ thể. Mặc dầu, nhiều chuyên gia nếm
chè quốc tế và những người sành chè khắp nơi cũng đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn ước
lệ màu sắc, độ đậm đặc và hương vị chè. Trà có thể uống được ở nhiều nơi: trà vỉa
hè ở các quán bên đường, có khi chỉ giản đơn vài chiếc ghế con. Khách uống tính
tiền từng chén. Trà góc phố thường ở một gian nhỏ ở góc phố. Gian phòng bày biện
một số tranh ảnh cho vui mắt. Chủ nhà biết tính từng loại khách mà mời trà. Có
thể là chè Phú Thọ, Thái Nguyên, Tân Cương mốc cau (loại chè ngon trông như có
những đốm nhỏ trắng trắng như hoa cau). Trà quán hơi sang trọng gồm vài bàn
trà. Khách quen có thể gọi một lượng chè đủ pha một ấm. Chủ quán đưa ra những
gói chè để khách chọn rồi mới pha uống. Trà ướp Tĩnh Tâm là loại chè ướp hương
sen của những người sống ở Huế, cứ chập tối, ra hồ Tĩnh Tâm thả đầy sen, họ cho
một ít chè hảo hạng vào những bông hoa sen nở rồi buộc chặt lại. Đến tang tảng
sáng ngày hôm sau, người ta lấy chè, mang về pha uống. Đây là kiểu ướp sen quá
cầu kỳ. Lúc pha trà và uống trà còn cầu kỳ hơn. Trà cạp quần là loại chè chọn lọc
được xử lý đặc biệt do một số ít người mang từ “đất chè" về bán cho các
khách sành "chịu chơi". Loại chè này kén người trao và kén cả người
nhận. "Cậy người tài bắc gai ra Kinh kỳ" mà. Trở lại những năm 1930,
1940, ở Hà Nội có các loại chè xanh phối trộn giữa các loại chè có hàm lượng dầu
dẻo và hương thơm khác nhau lại để chúng bổ sung cho nhau rồi ướp bằng hương
thơm có các vị thuốc bắc tán thật nhỏ. Người ta đựng chè vào những lọ sành, sứ
hoặc thiếc… là tốt nhất. Nước để pha trà phải đạt tiêu chuẩn bốn không: không vẩn
đục, không màu, không mùi, không vị. Nước ở độ PH5 là tốt nhất. Nước pha trà phải
sôi già vừa phải, không được quá sôi. Không nên là nước sôi hai lần. Sôi non lại
càng không tốt. Bộ đô trà gồm một ấm pha trà, một chén "tướng" (tống)
và vài chiếc chén con hạt mít gọi là chén "quân". Tất cả đều đặt trên
những chiếc đĩa nhỏ vẽ rồng, phượng và bày trên chiếc khay bằng gỗ quý chạm trổ
tỉ mỉ hoặc khảm trai. Có loại ấm độc ẩm, song ầm và đa ẩm. Trà được đưa vào ấm,
róc nước sôi vào thật nhanh rồi đậy kín nắp lại. Nước sôi được giội lên nắp ấm
và xung quanh để bên ngoài ấm cũng nóng. Đợi cho trà ngấm, róc tất cả nước cốt
ra chén tống rồi pha ngay nước hai. Từ chén tống được chuyển sang các quân sao
cho mỗi chén quân có được một nửa là nước cốt và một nửa là nước hai. Uống lúc
nước trà còn bốc khói nhẹ. Khách uống từng ngụm nhỏ một để thưởng thức vị và
hương trà. Uống trà phải có bạn để còn "huyện tâm tình và thế sự mới gọi
là " ảm nhi trí kỳ vị ". Một bò đồ tống trà đẹp thường được bàn tán
và được truyền từ đời nọ đến đời kia. Có khi gia đình túng quẫn cũng không chịu
bán đi. Như vậy, khi uống trà lại nghĩ đến người xưa, bàn đến chuyện cũ. Người
sành trà trước hết là biết chọn chè, giữ chè được ngon lâu, không già trước tuổi,
kén bộ đồ trà, kén nước pha trà, dùng lượng trà vừa phải và cách pha trà có bài
bản không ai chê được. Nghĩa là rất nghệ thuật. Người uống trà sành, có nhiều bạn
trà thanh lịch ở Việt nam đâu cũng có. Họ cũng được đánh giá cao như những nghệ
sĩ có tên tuổi vậy. Bạn trà là những người kết bạn lâu đời, vui cũng gọi nhau,
buồn cũng gọi nhau. Thú uống trà là cái thú thanh tao đến thiêng liêng. Nó cũng
là một cử chỉ văn hoá lâu đời. Quanh bàn trà là hương khói, là tình bạn, là những
mảnh tâm sự, là những chuyện đạo, chuyện đời… Người ta uống trà trong những ngày
lễ, tết, hội hè, giô ky, họp mặt; trong những trường hợp như tiễn đưa, kết bạn,
làm quen, suy tính, lo toan, quyết định một điều gì hoặc thấy thân phận mình
lâm vào những hoàn cảnh biến đổi khác nhau v.v… Biết cách uống trà và thưởng thức
trà cũng là một nghệ thuật.
CHUYỆN BẾP NÚC
Tôi đưa ông bạn vong niên là ông Tư Siêu sống độc thân, 67 tuổi
tới một khách sạn có vườn khá lớn và đẹp ở gần Hồ Tây, phía Thuỵ Khuê theo yêu
cầu tha thiết của ông chủ khách sạn cũng là bạn tôi. Tiện thể cũng giới thiệu
qua về ông Tư Siêu. Sau một cuộc thất tình do hiểu lầm, ông đã bỏ nhà ra đi,
lang bạt kỳ hồ ở nhiều nước với nhiều nghề. Nhưng nghề chính mà ông say sưa nhất
là nghề làm bếp. Đến 60 tuổi ông mới trở về ngoại thành Hà Nội. Ông tìm được đến
ngươi bạn gái thuở xưa thì người đó đã có mấy đứa cháu. Tuy vậy, chẳng lúc nào
là bà không nhớ đến ông. Chúng tôi đến khách sạn, ông chủ đã cho tập trung chừng
hơn 10 người có tay nghề làm bếp đặc sản đãi chúng tôi. Người đứng đầu cả nhóm
là bà Cúc. Bà đã 50 tuổi, son phấn nhẹ, lịch thiệp, nhanh nhẹn và có nụ cười
xoa bớt đi nhiều tuổi. Bà Cúc thành thạo về những món ăn cổ truyền thuộc nhiều
trường phái: Cung đình, Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Sơn Tây, Khâm Thiên, Thái
Hà ấp… Cả những trường phái Tản Đà bà Nhung Hàng Bạc, bà Tuệ phố Hàng Giấy v.v…
Ông Tư Siêu được giới thiệu ngay với nhóm làm bếp với tư cách
là một nhà làm bếp bậc sư phụ. Mọi người chỉ mong manh biết ông Tư đã lăn lộn
trong nghề làm bếp ở nhiều nước, nhất là ở Pháp, là trung tâm của nghệ thuật ẩm
thực. Ông đến nói chuyện với mọi người về một chút công việc bếp núc Việt nam,
cho là ông lên lớp cũng được. Ông rút trong túi ra một chai rượu nhỏ do ông tự
pha chế, róc ra ba chén. Ông bưng lên miệng, uống một chén trước rồi mới mời chủ
khách sạn và tôi thưởng thức. Sau đó, ông kể chuyện với mọi người một cách tuỳ
hứng:…
Về nghệ thuật ẩm thực, chúng ta còn nhiều thiếu sót còn phải
học các cụ ngày xưa nhiều. Sao ta lại giết cá sống qua đêm để tủ lạnh. Rau tươi
lại để ở ngoài trời? Ngoài rượu ra, tất cả các nguyên liệu làm thức ăn phải giữ
tươi. Các anh Cao Tử Kiến, Nguyễn Đức Phúc là những bậc đầu bếp mà các bạn làm
bếp Pháp và Italia tôn là bậc thầy đã giết một con gà từ lúc cắt tiết đến lúc
thành món ăn chỉ mất có 4 phút. Thịt gà tươi nhây nhẩy, ngọt, thơm… Đấy mới là
thịt gà miếng này mới xứng miệng người phong lưu.
Anh Kiến biểu diễn một mình giết con gà chỉ cần một chiếc que
nhọn. Các bạn người âu gọi anh là người làm "xiếc" trong việc làm bếp…
Chúng ta hãy nấu những món ăn Việt nam, lấy kiểu truyền thống làm gốc rồi tinh
chế, cải biến cho hợp lý và tinh tế mà khoa học. Những món ăn tiêu biểu của Việt
nam như: món bóng, mực, nem, yến, bào ngư vây ốc bún thang, thịt chân giò luộc,
các món canh v.v… đều có thể "lên ngôi" được, đầy đủ làm cho ai cũng
mê, các bạn nước ngoài phải thèm thuồng, kính nể. Chúng tôi đã làm những món đó
theo kiểu đặc biệt ở nhiều nước. Cũng những người bạn nước ngoài lại là những lời
đầu tiên phát hiện ra giá trị đích thực của chúng. Những người Việt nam sành ăn
cũng mê món ăn dân tộc. chỉ họ mới biết. Và món ăn dân tộc luôn tồn tại đến tận
bây giờ ở các mâm cỗ Việt nam, tức là chúng cũng dược đông đảo nhân dân yêu
quý. Điều này rất có ý nghĩa. Người làm bếp phải "tri vị" và
"tri nhân". Cùng với việc nâng cao chất lượng các món ăn, cũng cần đặt
cho các món ăn những tên hay và đẹp như đặt tên những cuốn tiểu thuyết vậy. Ở
Sơn Đông Trung Quốc, người ta gọi cháo lòng là canh hoa. Một đĩá nhỏ có 3 viên
nhân hạnh trắng như ngọc gọi là món "ngân hạnh gió quê". Món canh hoa
hòe được gọi là món "xào xạc hoa hòe"… Ta cũng có thể có món "gà
phù dung", "cá nước đợi chờ”…Ngày nay, mái tóc cũng có kiểu
"ngây thơ, lúng hấng, man dại"… Cây thế cũng có thế "phụ tử",
thế "chờ mong"… Ông bỗng dừng lại, hỏi mọi người: "Điều khó nhất
trong việc làm các món ăn là gì nào?" - Chọn nguyên liệu - Thái, sắt, băm…
- Giữ tươi thời gian không dài quá hoặc ngắn quá… - Không phải. Đó là việc cho
muối. Việc này giản đơn nhất nhưng cũng phức tạp nhất. Nó giữ nhiều bí mật nhất.
Cỗ của người Hà Nội nhạt hơn cỗ của người Bắc Ninh và Sơn Tây. Có người bảo cỗ
của người Hà Nội sang trọng nhưng không đậm đà… Không phải thế, Hà Nội cho muối
vào thức ăn rất tài tình. Muối có thể "cheo" mọi vị lên. Nếu như món
canh cá mà không được cho muối đúng mức, nhạt quá thì vô vị. Nghĩa là sẽ không
có một vị gì cả. Khi được cho đủ muối thích hợp thì tất cả mọi thành phần trong
món canh hoặc món ăn nào đó đều dậy mùi. Mỗi thứ dậy theo kiểu độc đáo riêng và
hoà vào, ăn ý với các món khác. Sau khi muối đã làm cho các món ăn được nổi
đình đám, nó rút vào ở ẩn, chẳng ai biết đến. Trừ phi muối được cho quá nhiều,
món ăn bị mặn thì muối sẽ bị lộ. Mà như vậy, bao nhiêu công lao như thái thịt,
chọn nguyên liệu v v… đều vứt đi hết. Vào tiệc, món đầu tiên sẽ cho hơi mặn một
chút. Nếu nhạt là thất bại. Vì lúc khách mới bắt đầu ăn, miệng còn nhạt. Trong
cơ thể khách cần chút muối. Những món tiếp sau phải nhạt dần. Nếu như trong bữa
tiệc có trên mười món, thì món canh cuối cùng không cần cho muối. Khi chan
canh, vẫn thấy đậm đà, ngon lành, tươi mát. Hơn nữa, vào lúc này, khách ăn cần
chút nước. Trong lịch sử truyền miệng của ẩm thực có nói: Một bữa nọ, bữa tiệc
kéo dài 6 tiếng đồng hồ, ông sư phụ nhà bếp mệt nhoài và buồn ngủ. Ông quên
không cho muối vào canh. Nhưng bát canh lại trở nên tuyệt vời, được tất cả mọi
người khen. Âu cũng là một sự khám phá…
Anh bạn chủ khách sạn của tôi quả là có con mắt tinh đời. Anh
đã chọn được bà Cúc làm cố vấn ẩm thực. Bà Cúc vốn là con gái của một công chức
cao thời Pháp thuộc. Năm 1953, người công chức ấy sang Pháp, gửi người em trông
nom đứa con gái mới lên 9 tuổi Nhưng rồi sau không có tin tức đi lại gì nữa và
người em cũng lâm vào cảnh khốn quẫn. Cô gái lớn lên dần và phải làm đủ nghề:
phụ bếp, nấu ăn thuê, gái nhảy, hát ả đào, thợ thêu, bán bún ốc v.v… Khi hoà
bình lập lại, cô chuyên làm bếp cho nhiều cửa hang ăn. Đời cô cũng vào Nam ra Bắc
nhiều lần. Cô có nhiều tài lẻ và được mọi người gọi là "tiên nữ".
Nhưng, đường tình duyên của cô lại gặp quá nhiều không may mắn, cho đến tận giờ
khi cô trở thành bà Cúc. Điều này là vì sao? Chỉ có mình bà và những người thân
biết mà thôi. Vì bà có nhan sắc, lại luôn nở nụ cười duyên dáng, ăn mặc rất
"mốt". Người ta gọi bà là "chuyên gia ăn"… Bà luôn luôn
sáng tạo ra những món ăn độc đáo. Một buổi chiều tối, khách sạn có một bữa tiệc.
Khách dự có mấy người nước ngoài. Ông Tư Siêu mặc sang trọng, thắt
"nơ" đến dự. Chủ bếp là bà Cúc mặc bộ đồ kếp dỏ đón khách. Bữa tiệc gồm
toàn những món ăn Việt nam được bà nâng cao. Thật là một bữa tiệc đặc biệt. Anh
bạn Foumier chạy ngay ra vườn, ngắt một bông hoa tặng bà Cúc: "thưa bà, bữa
tiệc ngon đến nỗi không thể nào quên được. Tôi đã được ăn ở nhiều nước. Những
món ăn Việt nam không thua bất cứ nơi nào trên thế giới". Khách ra về trên
con dường rải sỏi giữa vườn đầy hoa lá rồi qua thiếc cầu gỗ. Không gian mở rộng,
phảng phất mùi hoa… ông Tư Siêu nán lại, nói chuyện mãi với bà Cúc đến tận rất
khuya. Có lẽ trong một đêm tuyệt vời ấy chỉ dành cho hai con người, hai tâm hồn
đồng điệu.
BÚN ỐC HÀ NỘI
Bún ốc là món ăn rất phổ thông, vừa bình dân, vừa sang trọng.
Bún ốc Hà Nội nổi tiếng khắp miền, quê hương của nó là làng Hương Thượng (thuộc
Hà Nội). Người truyền nghề đầu tiên cho mọi người là một bà dòng dõi cao sang ở
ẩn. Bà đẹp đến nỗi không ai xứng với bà nên bà sống độc thân. Bà họ Đỗ được coi
như là Tổ sư của món ăn đặc sản bún ốc. Người ta ăn bún ốc ở dạng ăn quà, ăn nếm
hoặc ở dạng ăn "bắc cầu" cho đỡ đói. Làm bún ốc khó hơn làm bún chả
hoặc bún thang nhiều lần. Để làm thành thạo món bún chả, chỉ cần một năm là trở
thành "nghệ sĩ" chuyên nghiệp. Nhưng để làm được món bún ốc đến mức
không chê vào đâu được phải mất năm năm trời. Các chị em Hà Nội có tiếng là
khéo tay và giỏi việc chế biến những món ăn đặc biệt. Những khi gặp mặt, tiễn
chân người thân, đoàn tụ hoặc nhân một dịp lễ tết, ăn mừng gì đó họ chỉ làm bún
chả hoặc bún thang chứ ít người hoặc chẳng mấy ai dám làm món bún ốc. Họ sợ hỏng,
sợ mất thể diện. Vì muốn làm được món bún ốc cho ra trò phải rất cầu kỳ. Phải
tinh thông nhiều mặt như: chọn ốc, luộc ốc, chế biến nước dấm, pha ớt bột và ớt
tươi chọn loại bún thích hợp v.v… Hãy nói về con ốc. Cứ vào khoảng tháng 10 là
có ốc béo. Có ốc nhồi, ốc hạt mít, ốc biểu… con nào miệng cũng đầy ắp. Ta có
câu "ốc tháng mười, người Hà Nội". Nó vừa ngon ngọt, vừa bóng bẩy mớ
màng. Ôc ngọt hơn thịt nhiều. Cứ 100 gam ốc có 200 - 300 mg prôtit ở dạng
mulotide mà 100 gam thịt chỉ có 70 - 100 mg prôtit mà thôi. Độ ngọt của thịt
làm tê lưỡi. Độ ngọt của ốc mềm mại, dễ chịu và đầy hưng phấn nhẹ nhàng gọi là
ngọt lừ. Loại prôtit ở ốc là loại nhuyễn thể có cả chất potenciator là chất
nâng thế năng của độ ngọt. Nước ốc ngọt chứ không như nhiều người nói: “Nhạt
như nước ốc”. Phải nói là: "Nhạt như nước ốc ao bèo". Vì rễ bèo có đặc
tính hấp thụ một cách tàn nhẫn những chất khoáng cần thiết cho việc hình thành
prôtit trong con ốc. Ốc luộc hoặc hấp ở nhiệt độ thích hợp sẽ thơm, giòn, mềm,
béo. Nếu không sẽ dai. Con ốc săn lại là hỏng.
Cô hàng bún ốc, với bàn tay búp măng, cầm cái búa nhỏ đầu nhọn
như đùi, bóc gạt yếm ốc, gõ nhẹ vào con ốc trở tay ngoáy trôn ốc… thế là con ốc
và cả ruột cùng sáp tuột ngay xuống chiếc bát con. Nước dấm gồm nước luộc ốc,
nước bỗng rượu, tai chua hoặc quả dọc" mỡ nước, ớt bột, ớt tươi thái thật
nhỏ… Muốn cho thật cao kiến có thể cho thêm mỹ chính, sá sùng (đỉa biển). Liều
lượng pha chế phải rất tài tình. Chỉ sai một ly là "đi một dặm”. Bột làm
bún gồm một phấn gạo tám thơm, một phần tám xoan và một phần gạo tẻ hạt dài.
Bún dùng cho bún ốc là loại sợi có độ mịn không cao để nó có thể dễ hấp thụ
nhanh chóng những chất ngọt, béo, cay, chua trong nước dấm. Làm bún ốc phải có
sự tổng hợp của nhiều hiểu biết. Con ốc nguyên hình đã có nhiều màu sắc. Chậu
nước dấm váng mỡ có sự pha màu của nhiều mảng ớt nhỏ gồm nhiều cung bậc của màu
đỏ, màu vàng. Màu sắc của nhiều loại ớt lại nói lên được tính tình của chúng.
Nhất là cái bát hương ở giữa là nước dấm cốt và tập trung ớt có tác dụng điều
chế bát dấm mà nhà hang đưa cho khách. Những điều này rất cầu kỳ và có lý lẽ.
Người ta nếm thử đầu ốc đã và nhai ngấu nghiến. Đó là một loại sụn, giòn tan. Cứ
là mồm nhai, tai nghe. Người ta nhai và vô cùng sung sướng là mình còn một hàm
răng chắc chắn, sung sướng, tận hưởng được cái ngon của đầu ốc. Thân ốc thì mềm,
ngọt chan chứa và dịu dàng như một sự ve vuốt âu yếm đến tỉnh người. Miếng sáp
màu vàng thẫm lại bùi. Nó trung hoà cái béo ngậy hơi quá mức. Nhà hàng múc một
môi nước dấm thêm vào để con ốc béo mẩy được ngâm mình trọn vẹn. Khách ăn lấy
thêm bún cho chìm vào nước dấm rồi ăn tất cả vào một miếng. Tất cả cộng lại tạo
ra một miếng ngon đến say sưa và liền ngay đó, là sự chua, cay đến cực độ.
Nhưng lại càng dễ chịu. Khách ăn chảy nước mắt giàn giụa, thấy như mình ở trạng
thái " ốp đồng”. Trong miếng ăn có đủ chua, cay, mặn, chát, béo, giòn, ngọt…
Đó cũng là tất cả những giây phút của cuộc đời con người đang tập hợp lại với
nhau. Không có một món ăn nào lại đầy đủ chất đời như bún ốc Lại nói trước đây:
Sáng, trưa, chiều, tối khuya, các chị em khách làng chơi và các quan viên ở Vạn
Thái, Ngã Tư Sở, Khâm Thiên v.v… là những khách hàng say sưa và trung thành nhất
với món bún ốc. Phải có bún ốc mới "chịu nổi". Họ ăn để quên đi mọi sự
cay đắng, cô đơn nhưng lại nhấm nháp chúng và khóc đời, khóc các thân phận bằng
nước mắt của chính mình rồi lại đổ cho ớt cay gây nên. Quả thực, bún ốc là món
ăn được toàn dân ưa thích không kể phú quý, sang bần, thành thị hay nông thôn.
Ăn một mẹt bún ốc là nhớ mãi. Những người Việt nam sống ở nước ngoài, mỗi khi
chạnh lòng nhớ "Cố quốc", có nhiều nỗi nhớ trong đó có nỗi nhớ bún ốc.
PHẦN II - Chương I
văn hoá tâm linh
MÙA XUÂN Ở CÁC ĐÌNH, ĐỀN, CHÙA
Chúng ta có một kho tàng nghệ thuật về chạm khắc rất quý nằm
rải rác ở các đình, đền, chùa làng. Đó là những tác phẩm ở vào thế kỷ 17 được
chạm trổ công phu, duyên dáng, phản ánh cuộc sống dân gian và khát vọng về một
cuộc đời rạng rỡ: no cơm, ấm áo, đủ tình yêu và giàu cái đẹp. Các nghệ nhân
không cần lưu danh lại vì ở các tác phẩm của họ luôn hiện diện đời sống bên
trong, có nghĩa là cái thế giới bên trong của họ hoà với mọi người là được rồi.
Chúng ta hãy về đình Liên Hiệp (Hà Tây), đình Kim Hoàng (Hà Tây), đình Phù Lão
(Hà Bắc), đình Tam Canh (Vĩnh Phù), đình Phùng (Hà Tây), đền Đệ Tam (Nam Định),
chùa ông (Hải Hưng), chùa Thế Hà, đền Diện (Ninh Bình), đền Phù Lão (Lạng
Giang), đình Thổ Tang (Vểnh Phú), đền Giá (Hoài Đức Hà Tây), đình Kiên (Hải
Phòng), đình An Hoà (Nam Hà) v.v… Đến những nơi đây, chúng ta được đắm mình vào
thế giới của cái đẹp. Cảnh vũ nữ thiên thần: Vũ nữ có khuôn mặt đầy đặn, bộ ngực
nở và hiếu khách, bụng mềm ba ngấn (các cuộc thi sắc đẹp những năm1993 - 1994 ở
châu âu và Mỹ yêu cầu tiêu chuẩn này, vũ nữ thắt lưng buông dài, váy ngắn kiểu
mini, sau lưng có đôi cánh nhỏ, tay ở tư thế múa, tai đeo hoa tai “giọt lệ” cao
sang. Một nàng mặc yếm lá sồi, một nàng mặc yếm lásen tơi tả. Khuôn mặt của các
vũ nữ mang dáng dấp của các nàng thôn nữ. Cảnh trai gái tự tình, đùa nghịch: Đó
là ba cô gái khoả thân, đàng hoàng tắm ở hồ sen (chạm trên viên gạch đền Giá).
Mỗi người một kiểu, nhưng các cô đều lộ ra một thân hình rắn chắc hấp dẫn làm
cho mọi người phải giật mình. Họ mềm mại mà có đầy sức mạnh, ném ta những cái
nhìn chói loà. Cảnh người con trai đặt người vợ lẽ lên đùi, người vợ cả đứng
sát cạnh rất sôi nổi. Tuy cả ba cùng cười, nhưng lại là ba nụ cười khác nhau đầy
kịch tính. Có nụ cười đang tàn phai.
Ở đình Phùng (Hà Tây) trang trí ngay trước bàn thờ một mảng
tròn, bên dưới là đài sen. Trên đài sen là các cô gái khoả thân. Người đứng, kẻ
ngồi, nét mặt vô tư tai đeo hoa, ngực chũm cau, không phải hoa mà là nụ.
Ở đền Đệ Tam (Nam Định) cũng có hoạt cảnh ba cô gái khoả
thân. Tóc họ đều dài như huyền thoại. Hai cô đứng nghiêng, một cô đứng thẳng,
chính diện. Tay cô cầm hoa sen che đậy chỗ thơm tho nhất trong cơ thể. Có anh
chàng mặc áo thụng xênh xang nắm tay cô, một tay sờ vú cô, để cùng đi vào vĩnh
hằng. Lại có thêm cả những cảnh về các trò tình ái. Ở đình Phù Lão có cảnh người
phụ nữ ngồi xổm, khoả thân thể hiện một trữ lượng nồng ấm và ân cần thần thánh
vô biên của người đàn bà. Suối tóc dài chảy vắt qua ngực bên phải, lộ ra cái bụng
nở tròn đầy. Nàng nặng nề, chậm chạp, nhu mì mà nổi loạn. Nàng vừa là tín ngưỡng
vừa là ước mơ. Có bức chạm lại rất "hiện đại”.
Ở đền Phù Lão có cảnh người đàn bà (nữ thần) nằm ngửa, váy cuốn
lên tận ngực, hai chân dài dạng ra, quặp lấy hai bên hông người tình. Xung
quanh là đàn, sáo véo von. André Malraux, nhà văn hoá Pháp từng nói: mảnh gỗ
điêu khắc đẹp xắn ra những miếng ngon cho cuộc đời. Vẫn còn nhiều những
"miếng ngon" nữa ở rải rác quanh các làng xóm Việt nam của chúng ta.
Mong sao các nhà nghệ thuật sớm sưu tầm, ghi chép, giữ gìn, bảo quản, học tập
và phục hồi lại bộ mặt vốn có của chúng, rồi làm sưu tập và phát triển chúng…
Các bậc cha ông, tổ tiên ngày xưa đã để lại “lộc” cho chúng ta. Mỗi một nghệ
thuật cho ta những giá trị văn hoá khác nhau tuỳ theo phương tiện chuyển tải của
nó. Không như văn học nghệ thuật, chạm khắc biểu thị những nét cảm động riêng
biệt của tạo hình. Chạm khắc là ảo thuật. Nhà thư Pháp Beaudelaire nói: "Bộ
phận chạm khắc thành Công là một thứ tôn giáo". Chính vì vậy mà những bức
chạm khắc ở một số đình, chùa Việt nam đã được liệt vào những tác phẩm bất tử
Chúng lôi cuốn cả đôi mắt, trí thông minh và đồng thời cả trái tim những người
xem. Chúng có thể khêu gợi những tình cảm khác nhau trong con người, rồi đưa
con người “đến với những ý tưởng cao hơn. Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá nước
ngoài đến Việt nam đều không “bỏ qua cơ hội đến thăm các đình, chùa Việt nam. Họ
càng không bỏ qua cái dịp may đặc biệt để có thể chú ý đến những mảnh chạm khắc
trong các đình chùa Việt nam. Gần đây, tiến sĩ mỹ học Samody (Inđônêxia) đã
nói: "Tôi may mắn được đến với các bức chạm khắc của các đình, đền Việt
nam. Thật quá chừng độc đáo. Tôi đi nhiều nước, không đâu lại có những bức chạm
trổ có đầy những nét tiêu biểu, đạo và đời cứ quân quệt lấy nhau, rồi ca hát
lên như vậy. Chúng sinh động, có dòng chảy tung hoành ngổn ngang mà nghệ sĩ.
Chúng vừa có tiết tấu vừa co gian điệu của vũ trụ.
HỘI ĐÌNH MAI ĐỘNG VÀ HOÀNG MAI
Làng Mai Động và làng Hoàng Mai thuộc quận Hai Bà Trưng. Hội
mở vào những ngày 3, 4, 6 tháng giêng âm lịch. Có năm lại tổ chức vào mùa thu từ
ngày 10 -12 tháng 8 âm lịch. Đình Mai Động và đình Hoàng Mai ở gần nhau. Đình
Mai Động thờ tướng Tam Trinh là một danh tướng chỉ huy của phong trào khởi
nghĩa Hai Bà Trưng đã từng chiêu mộ trai tráng Mai Động lên Hát Môn tụ nghĩa
(khoảng năm 40 - 43 sau công nguyên). Đình Hoàng Mai thờ võ tướng Trần Khắc
Chân là võ tướng tài hoa, là vệ sĩ mà cũng là người yêu của Huyền Trân Công
chúa 1603 -1605). Ông cùng với nàng đã có công lớn với đất nước, đã cùng trải
qua những giờ phút bi hùng của lịch sử. Họ đã dệt nên một thiên tình sử nổi tiếng
muôn đời. Làng Mai Động và làng Hoàng Mai vốn là trại ấp mà vua ban choTrần Khắc
Chân. Ông cũng được phong là Thành Hoàng của cả hai làng này. Về sau, đình Mai
Động thờ tướng Tam Trinh và đình Hoàng Mai thờ võ tướng họ Trần. Cả hai vị thần
đều là võ tướng nên nhân dân trong ấp cũng có được tinh thần thượng võ. Thần
Tam Trinh là trạng vật. Trại ấp có nhiều vườn mơ lớn nên có nghề nấu rượu (Kẻ
Mơ). Người ta cất rượu mơ tốt nhất để cúng Thành Hoàng và để dùng trong những
ngày lễ hội. Họ lấy nước sông Hồng cội nguồn về, tinh lọc rồi nấu rượu. Về phần
tế lễ hai vị thần, vẫn đầy đủ tất cả mọi nghi thức áp dụng cho những đám tế lễ
và rước xách của các hội làng quan trọng khác. Nhưng, trước tiên là rước bài vị
của Thành Hoàng làng Hoàng Mai lên đình Mai Động rồi từ Mai Động rước đi. Đám
rước có 3 kiệu đi khúc khuỷu quanh trại ấp, men theo bờ song Tô Lịch rồi lên gần
mặt đê sông Hồng. Đám rước dừng lại ở Trại Nhãn. Một số chàng trai khiêng ba
choé đựng nước có mấy dải dây đỏ lên mặt đê rồi đi xuống phía sông, lấy nước
sông Hồng cho vào choé rồi khiêng về, đặt các choé nước lên ba chiếc kiệu rồi
rước trở về làng Mai Động.
Đến đêm, hai kiệu thờ nam tướng vẫn do các đô nam khiêng. Còn
kiệu của nữ tướng lại do hai mươi cô gái thay nhau vừa khiêng, vừa múa xinh tiền.
Những Cô gái này, vấn khăn, tóc bỏ đuôi gà, áo dài xanh đỏ, vạt thắt củ ấu. Đám
rước đi được một đoạn lại nghỉ để các đô vật biểu diễn, các võ sĩ đi một bài
quyền và đấu trung bình tiên. Mỗi đấu sĩ cầm một chiếc gậy dài 4 m đấu với
nhau. Gậy bằng gỗ đỏ hồng, đầu có bịt bông và vải để đề phòng nếu có đâm trúng
thì người bị đâm cũng không bị nguy hiểm. Các đô vật này đã được chọn trong nhiều
lò. Họ ăn mặc gọn gàng, mặc quần chứ không đóng khố vì có thờ nữ tướng. Đám rước
nghi ngút khói hương. Mọi người reo hò khi đưa được các kiệu về đình Mai Động.
Sau khi Thánh đã trở về đình, mọi người mừng chuyến rước thắng lợi. Một tốp
mang bài vị của thánh làng Hoàng Mai trả về cho Hoàng Mai… Hội được tổ chức ở cả
hai đình. Có rất nhiều trò chơi như: hát trống quân là kiểu hát dân ca và đối
đáp giữa bên nam và bên nữ có điểm nhịp bằng những tiếng thình…thùng…thình. Khi
thả diều bắt buộc mỗi chiếc diều phải mắc 3 ống sáo trở lên. Diều phải lên cao
đứng. Hình dáng phải đẹp tiếng sáo phải hay và phong phú. Thi thả chim bồ câu
cũng rất hay. Lồng chim gồm 10 chim. Khi thả ra, chim phải bay từ thấp đến cao
cho tới chừng 300m, phải bay cùng một lúc và bay gần nhau thành đàn. Con nào
cũng vẫy đều hai cánh. Chim bay đến lúc không nhìn thấy nữa rồi lại cùng đàn trở
lại với bu chim dưới đất. Chủ chim lại nhốt các chú vào bu, buộc chặt lại đem về.
Các trò chơi đều có giải thưởng…
Hội đình làng ở làng Mai Động và làng Hoàng Mai là một trong
những hội lễ tiêu biểu và đặc sắc của đình làng Việt nam.
CÁI BẦU RƯỢU
Chúng ta thấy trên nóc tháp Rùa ở hồ Hoàn Kiếm có dựng một chức
bầu rượu. Trên nóc Ngọ Môn, ở Thái Hoà điện, Thế miếu, Hưng miếu ở Huế cũng có
trang trí những chiếc bầu rượu. Chiếc bầu rượu có một giải lụa mềmmại tô xiêm.
Nó lại được hai con rồng hoặc hai con cú hoá rồng chầu vào Không chỉ có thế mà
chúng ta còn thấy ở rất nhiều những mái đình, miếu, am, thậm chí cả chùa ở khắp
mọi nơi đều đặt chiếc bầu rượu vào một vị trí cao nhất. Đến nỗi rồng là biểu tượng
cao quý nhất, thiêng liêng nhất đại diện cho vương quyền cũng phải kính cẩn,
tôn vinh nó. Mọi người đều gọi bầu rượu đó là bầu rượu thiêng, là bầu nước
thiêng vì nó được đặt trên cao nhất và ở chính giữa Việt điện. Mà Việt điện là
cả một thế giới u linh, tôn nghiêm, cao cả. Xa xưa, quả bầu là từ quả trên cây
bầu được khoét rông ruột chỉ còn vỏ ngoài cứng mà dẻo với màu mát mà xôn xao,
giản dị. Quả bầu là nguồn gốc, là bụng mẹ đẻ ra các tộc người. Huyền thoại xưa
kể về chuyện quả bầu đượm màu tâm linh và triết học. Có một con số khổng lồ những
con người ở trong quả bầu muốn ra với vũ trụ. Họ chen chúc nhau trong quả bầu,
làm cho quả bầu bụng mẹ lăn lóc, quằn quại. Đấng thiêng liêng hơ nóng một cái
đùi rồi chọc vào quả bầu, hình thành một cái lỗ. Thế là tất cả mọi người trong
quả bầu chen nhau ra ngoài. Những người ở gần chỗ nóng ra. trước, nước da bị
đen sẫm. Những người ra sau trắng hơn… Và những tộc người ra đời. Sau này, mọi
người không bao giờ quên rằng mình được sinh ra. Từ quả bầu bụng mẹ. Họ buộc quả
bầu bằng một sợi dây thật đẹp (sau này là giải lụa) rồi quàng lên cổ hoặc đeo
ngang lưng. Lúc đầu, họ đựng nhức, là thứ cần thiết nhất cho cuộc sống. Sau
này, họ đựng rượu. Rượu trong bầu là nước thiêng, cho mọi người sức mạnh của trời
đất và của mẹ. Rượu để cúng tế thần linh, Phi tửu bật thành lễ, rượu để uống và
để say sưa, yêu cuộc sống. Quả bầu là vũ trụ, nó rỗng để thâu tóm tất cả những
gì mênh mang to lớn và tinh hoa của trời đất, âm dương. Chứa cả mẫu hệ, vương
quyền, cha mẹ… tất cả… Nước và rượu trong quả bầu tưới tắm cho con người, cứu vớt
con người để con người tồn tại trong sự “phồn”, phồn thóc gạo, phồn giống nòi…
Từ "chữ nghĩa" của quả bầu là Hồ Lô, là cái hồ lô to lớn vô cùng, vĩ
đại vô cùng cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Hồ là mênh mông, là phi thường. Với
Đạo giáo quả bầu chứa đựng linh đan là thuốc thần diệu để có thể trở thành thần
tiên. Trước hết là xa lánh cõi trần bụi bặm, đầy đắng cay rồi trở nên bất tử
theo ý nghĩa vô cùng vô vi " khái quát. Với Phật giáo quả bầu là bình rượu,
bình nước cam lộ của Phật, là Quan âm để cứu các chúng sinh trong bể khổ trầm
luân Với Khổng giáo, nó là đại diện của Thiên, Địa, Nhân. Nó ca tụng con người
là chúa tể của muôn loài, con người dựa vào sức mạnh của quả bầu mà hài hoà với
thiên nhiên nên gọi quả bầu là cái túi càn khôn. Văn hoá Việt nam là văn hoá
tam giáo đồng lưu nên càng thống nhất với tâm mềm của quả bầu. Quả bầu là Kim
âu (âu vàng). Ta còn nhớ câu: "Non sông ngàn thùa vừng âu vàng"! Nó
chứa đựng sự vận chuyển âm dương, chứa cái phong độ vĩnh hằng của dân tộc. Về
sau này, khi Công nghệ gốm và sứ phát triển, người ta chế tạo ra những quả bầu
bằng gốm, sứ. Ngoài có vẽ những hình như rồng, mặt trời, ngọn lửa, phượng, mây
v.v… đầy vẻ tâm linh, ước lệ. Trong đó có gửi gắm những mật mã để người sau giải
mã dần. Những quả bầu thật sự là những quả bầu bằng gốm, sứ ở miền xuôi được đặt
trên các bàn thờ nơi đền đài miếu mạo hoặc bàn thờ tổ tiên, gần các mâm lễ
cúng.
Ở Trung Quốc, những nhân vật có danh tiếng, những nhà văn,
nhà thơ như: Lã Đồng Tân, Lý Thiết Quai, Lưu Linh, nhà hiền triết Lý Thái Bạnh,
Sầm Phu Tử, Đan Khâu Sinh v.v… bao giờ cũng có bầu rượu bên mình. Ở nước ta,
Nguyễn Công Trứ, phạm Thái, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà
v v cũng luôn nhắc đến bầu rượu túi thơ. Vào khoảng 1930 - 1931, ở làng Kẻ Mơ,
Bạch Mai là một trong những quê hương rượu của Việt nam, người ta có một bài
hát rất nổi tiếng để ca ngợi quả bầu rượu và rượu. Nơi đây, họ nấu rượu và bán
rượu. Phụ nữ cũng uống rượu chẳng kém gì nam giới. Cứ đến ngày mồng 4 tháng
giêng, có lễ thần, mười sáu cô trinh nữ ăn mặc sặc sỡ, môi son má phấn vừa múa
vừa hát. Mỗi cô cầm trong tay một quả bầu rượu. Họ hát lên:
Tay tình tay nâng… tình bầu rượu… Ta bớ ru hời… Ta ra hời Rẻo
lắm Nếp hoa…Ta cất rượu… Tay tình tay nâng Tình bầu rượu Ta bớ…ru hời Ta ru hời…
Rẻo lắm Nếp mây…
Mỗi quả bầu được buộc thêm vào một giải lụa màu ở nơi thắt cổ
bồng. Cho đến giờ, ở các gia đình, các bàn thờ ở mọi nơi, nhất là ở nông thôn,
chúng ta thấy những bầu rượu bằng gôm, sứ Bát Tràng hoặc sứ ở các lò sứ cổ. Ở
những nơi hẻo lánh hoặc ở miền núi còn giữ được nhiều bầu rượu nguyên bản. Năm
1996 và nhất là năm 1997, trước và sau khi Hồng Kông trở về với Trung Quốc, các
nhà kinh doanh đã tung ra bán khắp các thị trường rất nhiều những quả bầu cội
nguồn. Cây bầu được lên ngôi. Việc mua, bán những quả bầu này thật tưng bừng.
Người ta đua nhau mua để đựng rượu hoặc để bày trong nhà, trong tủ Quả bầu Cội
nguồn đắt hơn những quả bầu bằng sứ bằng ly lông nhiều lần…: Tuy vậy, mọi người
vẫn thi nhau mua. Họ còn làm sưu tập và theo mốt… Quả bầu là một trong những
nét đẹp văn hoá của Việt nam. Nhìn quả bầu rượu, người ta nghĩ đến rượu, nghĩ đến
ngày xưa, nghĩ đến men của cuộc sống, đến những điều mơ hồ của cội nguồn. Từ
đó, mang lại cho ta những gì có ý nghĩa hơn về quá khứ, hiện tại và tương lai…
ĐẤT MIỀN CỔ TÍCH
Qua cầu sông Cái (Cầu Long Biên), đi thẳng đến Phú Thượng rồi
rẽ sang phía tay phải chừng 200 mét là đến Dương Xá. Nơi đây có đền thờ Nhiếp
Chính Ỷ Lan. Giữa những mảnh ruộng xanh với đủ gam màu khác nhau, ngôi đền thờ
một người phụ nữ phi thường, nổi bật lên, nghiêm trang những rêu phong:
"Miếu cổ vàng son nhạt". Đó là nói về màu sắc, còn những gì bà để lại
cho đất nước vẫn cứ đằm thắm với non song và lòng người. Bà là hoá thân của Mẫu
Thượng Ngàn, của bà Man Nương, bà Trưng… Đến Sủi, đi vào quê hương của nhà thơ
Cao Bá Quát, đi tiếp chừng 7 km nữa, chúng tôi đến cầu Dâu. Một cái cầu rất cổ.
Nơi đây, sông Đống cắt ngang sông Dâu để hình thành nên một bên là Thiên Đức, một
bên là Nguyệt Đức. Nơi đây… một cái cây, một cái gò, một mô đất, đống gạch vụn,
ngôi đền v.v… đều có những chuyện kể về mình. Trước mắt chúng tôi là cả một khu
vực thành Dâu mênh mông. Tên chính thức của nó là Luỵ Lâu hoặc Liên Lâu. Vì khi
xưa, thành chính có những vọng gác mà ở tầng trên toả ra như những cánh hoa
sen, nên thường gọi là Liên Lâu. Hoa sen tượng trưng cho sự "thồn".
Phồn thóc gạo, phồn giống nòi. Sông Dâu chảy quanh thành tạo thành một con hào
thiên nhiên, bảo vệ thành.
Xưa kia, khi đê La Thành và Thăng Long chưa hình thành mà mới
chỉ là những vùng nước, lau lách, hoang vu thì "nơi đây đã là một thành trấn
phồn hoa, nhộn nhịp. Đây chính là thủ phủ của đất Giao Châu, là trung tâm chính
trị, kinh tế và văn hoá. Đại bản doanhcủa Thái Thú Tô Định đặt ở đây. Hai Bà
Trưng đã đánh vào nơi này. Khi Hai Bà đốc quân vào đánh đại bản doanh của Tô Định,
Hai Bà ăn mặc thật lộng lẫy, điểm trang rất đẹp. Điều này thật hiếm có. Trong
suốt thời kỳ dài, quân Hán đóng quân ở Liên Lâu, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa;
liên tục đốt phá, đánh Thành. Nghĩa là binh lửa liên miên. Chính điều này đã giải
thích được một hiện tượng đáng chú ý. Đó là những vùng đất xung quanh đều đỏ
như son. Duy chỉ có khu vực thành Liên Lâu, đất có màu đen, xám, xỉn. Đất đỏ vì
phía dưới có quặng sắt. Còn đất đen là do binh lửa triền miên, đốt phá dữ đội,
đã làm than hoá tất cả những sỏi, đá, đất, gỗ, tre, v.v… Hiện tượng than hoá
này đã làm cho đất thành Liên Lâu không đỏ như vốn có Thật là: "Dâu binh lửa,
nước non như cũ. Liền cho người thấy cảnh chạnh lòng" (Về vùng Dâu). Trong
cuốn: "Việt về lịch sứ đất An Nam “, nhà nghiên cứu Patris viết:
"Tinh thần độc lập của người Lạc Việt rất cao. Trong suốt thời kỳ dài bị
đô hộ, họ không ngừng kiên cường đứng dậy. Đó là một thứ ánh sáng chói lọi cửa
ý chí quật cường khôn nguôi"
Trong khu vực thành Dâu, có chợ Dâu, tháp Dâu. Tháp 4 tầng,
có chóp kiểu Stupa, cao chừng 20 mét, và chùa Dâu. Chùa Dâu phản ánh những nét
của đạo Phật từ ấn Độ sang và được bản địa hoá. Nơi đây là trung tâm Phật giáo
đầu tiên ở ta rồi mới toả đi khắp nơi. Cũng là nơi in những bản kinh sớm nhất.
Tục truyền, một cây đa thần thoại trôi dưới sông, được bàn tay thần thoại của á
Nam tiên nữ (Man Nương) vớt lên, khi cây đa được đặt lên mặt đất thì tiên nữ biến
mất, đã "lạc nội mây ngàn". Cây đa được xẻ ra, tạc thành 4 pho tượng
để thờ. Đó là 4 vị Phật Mầu gồm 4 chị em: Phật Vân, Phật Vũ, Phật Lôi, Phật Điện
(cũng gọi là tứ Pháp). Chị cả được thờ tại chùa Dâu, chị hai ở chùa Đậu, chị Ba
thì ở Chùa Tướng và Cô em út được thờ ở chùa Dâu. Mấy ngôi chùa này ở gần nhau.
Có điều, chùa Dâu là chùa chính, ngày nga nhất. Tượng bà Dâu đặt ở chính giữa
chùa chính, cao 2m85 (cả tượng lẫn bệ), lại có nền cao và vỉa đá. Tượng bà to
hơn so với tất cả những pho tượng khác trong chùa. Bà vừa là Phật, vừa là nữ
chúa bản địa. Nơi đây, hàng năm có mở hội, gọi là hội chùa Dâu, khắp nơi nô nức
về dự hội. Hội có tế lễ, rước xách, vui chơi, rất tưng bừng, náo nhiệt. Người
ta kể vè: Dù ai buôn bán trăm nghề Tháng tư, mồng tám thì về chùa Dâu Dù ai
buôn dâu, bán đâu Nhớ ngày mồng tám, hội Dâu thì về… Cách khu vực thành Liên
Lâu chừng 3 cây số lăng mộ Lạc Long Quân, là cả một toà Việt điện. Đi chừng một
đoạn đường nữa, rẽ sang bên trái là lung Sỹ Nhiếp, hình tròn, trên một cái gò rợp
bóng những cây Cổ thụ. Những gò, đống nhấp nhô kéo lên. Dưới những gò đống đó
là những ngôi mộ Hán. Nơi đây thuộc về làng á Lữ.
Ở ngã ba Đông Côi cũng có nhiều ngôi mộ Hán có xây những vòng
cuốn. Đứng nơi đây, ta có thể nhìn thấy núi Thiên Thai "nằm nghiêng
nghiêng với mái tóc xanh rêu"? Về phía Đông Bắc, khoảng 2km là làng Đại Trạch
có ngôi chùa Đại Trạch nổi tiếng, là nơi trước đây vợ thứ ba Cai Vàng đến tu và
trụ trì sau khi cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Bà thông thuộc 18 môn võ nghệ, đã
dạy võ cho các trai làng và làm nhiều điều thiện, trừ kẻ gian ác. Cuộc đời của
bà đủ để viết nên một pho sách bi hùng. Dân làng nơi đây coi bà như Tiên, như
Phật. Từ Đại Trạch đi xuống phía Nam là đến bến Hồ, gối đầu lên sông Cầu. Ở đây
có làng tranh Đông Hồ mà những bức tranh đậm đà tâm hồn dân tộc của nó đã có mặt
ở nhiều nơi trong cả nước và chúng cũng được trưng bày trong bảo tàng mỹ thuật
của nhiều nước trên thế giới. Làng Đông Hồ được gọi là làng tranh, làng đẹp như
tranh và cũng được gọi là làng các nghệ nhân. Họ vẽ tranh, khắc tranh, in
tranh, lại còn làm nghề vàng, mã và những mặt hàng trang trí mỹ thuật để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng mọi người. Ngược lên phía trên, ta đến đất Lim và 49
làng Quan Họ. Nơi mà một làn gió cũng mang điệu dân ca, với những "liền
anh, liền chị", " trèo lên quán Giốc, đi chảy hội. Từ Đại Trạch đi
ngược lên là đến Trí Quả, rồi đến làng Đình Tổ có chùa Bút Tháp, và đền Đô vàng
son lấp lánh, nơi thờ 8 vị Vua Lý. Lý Chiêu Hoàng được thờ riêng ở ngôi đền bên
cạnh. Bà mang một nỗi buồn nguyên khối, không tan. Chính cái dải đất này đã
nuôi dưỡng nhà thơ Hoàng Cầm để có được: “Bên Kia Sông Đuống", "Mưa
Thuận Thành", " Cây tam cúc" v. v… nổi tiếng. Vào những năm chống
Pháp, những khu vực gần Bút Tháp, Rừng Thông, Bãi Tháp v.v… là khu du kích nổi
tiếng với những chiến công oanh liệt.
Ở những làng quê nơi đây, trước kia còn có tục "Ngủ
ban". Đó là chuyện trong ngày cưới, cô dâu và chú rể chưa động phòng vội.
Ngày thứ nhất và ngày thứ hai, cô dâu còn gọi mấy người bạn gái thân đến ngủ
cùng với mình. Nơi đây, họ coi nhẹ trường hợp cô gái "chửa bụa". Sau
khi cô gái "chửa bụa" rồi sinh con được một hoặc hai năm, sẽ có một
chàng trai nào đó đến xin cưới làm vợ. Mẹ chú rể mang lễ vật đến nhà gái và
nói: "Ngày lành tháng tốt, chúng tôi rất sung sướng được có con dâu và lại
thêm cả thằng cu nữa" Khi có trường hợp một đứa trẻ ở vào hoàn cảnh thập tự
nhất sinh mà được một người cứu sống thì đứa trẻ sẽ nhận người đó làm cha mẹ
nuôi. Những ngày giỗ, Tết phải đến thăm cha (mẹ) nuôi. Phải đóng góp và có nhiệm
vụ như con đẻ. Những chuyện như vậy còn rất nhiều.
Miền cổ tích còn có con đường cổ từ bến Hồ, đi Bắc Ninh, tới
Phả Lại, Lục đầu giang rồi ra biển hoặc đi ngược lên phía Bắc, sang Trung Quốc…
là con đường mà các nhà sư Ấn Độ đi từ chùa Dâu sang Trung Quốc truyền đạo. Đây
cũng là con đường mà con trâu vàng từ Trâu Sơn, giếng Việt ở Phả Lại đã chạy một
mạch về Tổng Bình (tên xưa của Thăng Long) rồi đẫm mình nơi vũng nước ở phía
Tây Bắc, làm nên hồ trâu đằm và sau được gọi là hồ Dâm Đàm hay hồ Tây. Đó là
con đường mà Mã Viện mang quân sang đánh nước ta. Cũng là con đường huyết mạch
để cha ông ta đánh giặc Nguyên, Mông… Khách hành hương tới mảnh đất này thấy
mình như được lớn lên. Nơi đâu cũng có những di tích, dấu ấn, huyền thoại v.v…
minh chứng cho sự tồn tại hào hùng của dân tộc. Từ những huyền thoại và những
chứng tích lịch sử ấy cho ta cái nhìn chân thực và đầy đủ hơn về quá khứ, để rồi
suy nghĩ về những bí ẩn của thuở trước, nghĩ về hiện tại và tương lai. Mỗi bước
đi trên vùng Kinh Bắc đều làm xáo động tâm hồn tôi. Những cảm xúc hạnh phúc cứ
lan toả, bốc bụi trong tôi. Những cái tên trên vùng đất này, đọc lên cũng được
màu cổ tích.
ĐIÊN MẪU
Người Việt nam ta có câu: "phúc đức lại mẫu”, để khuyên
răn mọi người nhớ công ơn cha mẹ, ăn ở phúc đức với cộng đồng, để con cháu được
hưởng những điều tất lành. Khuyến thiện, trừ ác, được truyền lại cho đời sau bằng
những lời truyền miệng, ca dao, dânca… Với cách nghĩ truyền đời về người mẹ,
trong tâm thức sâu thẳm của mọi người, Mẫu (mẹ) là tất cả, là người sinh ra ta
và đến khi chết ta lại trở về đất mẹ. Qua những thời kỳ con người sống với mẹ ở
trên cây rồi đến giai đoạn vừa trên cây, vừa dưới đất và rồi đến lúc mẹ núi rừng
(Mẫu Thượng Ngàn) không nuôi nổi những đàn con cháu mỗi ngày một đông, đã diễn
ra những cuộc di dân nguyên thuỷ. Lúc này có sự trợ giúp và bảo vệ của Mẹ Nước
và Mẹ Đất (Mẹ Nước là Mẫu Thoải (Thuỷ) Mẹ Đất là Mẫu Quỳnh Hoa (Địa). Những đàn
con, cháu về được đến đồng bằng, sung sướng quá nhưng họ cũng gào thét lên,
khóc lóc vì nhớ mẹ Thượng Ngàn, nhớ những người anh em ruột thịt bị nước cuốn
đi trong cuộc di dân đầy máu và nước mắt. Họ hát lên cầu Mẹ, ca ngợi công lao của
Mẹ, ca tụng cuộc sống mới. Và những bài hát này còn kể lại những chặng đường đi
đầy kinh hãi và bi kịch, từ biệt Mẹ Thượng Ngàn. Chúng là nguồn gốc của những
điệu hát văn, ca trù, chèo v.v… về sau này. Những giọng hát văn (chầu văn) ca
trù, chèo… mà không có nước mắt, ngậm nổi sóng nước vạn trùng, biệt ly, tử nạn…
thì thiếu mất cái hơi hướng nguyên thuỷ của chúng. Tưởng nhớ Mẫu, người xưa lập
ra Điện Mẫu, thờ Tam phủ ở tầng trên, Mẫu Thượng Ngàn ở giữa, mặc áo xanh tượng
trưng cho cây và núi rừng. Mẫu Thoải chăm nom việc sông nước, mặc áo trắng. Mẫu
Địa lo việc đồng bằng, mặc áo vàng, Mẫu Thoải ở bên trái; Mẫu Địa ở bên phải.
Sau đó, người ta thờ tứ phủ vì có thêm Mẫu Liễu Hạnh. Bốn Mẫu tứ phủ ngồi ở tầng
thứ hai trong điện Mẫu. Mẫu Liễu Hạnh được hình dung là con của Ngọc Hoàng, bị
phạt nên bị giáng xuống trần. Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho sắc đẹp và nữ tính.
Mẫu dũng cảm, bênh vực kẻ yết, giúp được mọi người lương thiện, trừng phạt kẻ
làm càn, độc ác. Mẫu đầu thai vào một gia đình họ Lê, lớn lên được gọi là Giáng
Tiên. Giáng Tiên kết duyên cùng Đào Lang, được hai mặt con rồi về trời. Hàng thứ
ba trong điện Mẫu là Ngũ vị tôn ông. Những vị này là những trang nam nhi dũng cảm,
tài hoa, văn võ song toàn, một lòng vì đất nước vì mọi người. Họ là Những người
giúp việc đỡ các Mẫu và thi hành sứ mệnh của các Mẫu. Các vị này được người dân
kính trọng và yêu mến nên được gán vào những vị anh hùng dân tộc như Trần Quốc
Toàn, Cao Lỗ, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng v.v… Hàng thứ tư trong điện Mẫu
dành cho các cô, các cậu là những vị nhỏ tuổi, làm phụ tá cho các tôn ông, các
ông Hoàng nhưng cũng gần gũi với các Mẫu, như cô bé Bắc Lệ là thị nữ của Mẫu
Thượng Ngàn. Cạnh đó còn có những cô Bơ, cô Chính Giếng, cô Thác Bờ, cô Bé Đông
Cuộng, cô Đền Sàng v.v… Bên cạnh các Mẫu còn có những Kim Đồng, Ngọc Nữ. Đó là
những vị thánh ở tuổi nhi đồng. Họ tượng trưng cho ngày mai. Trong các làn điệu
hát văn (chầu văn) có giá trị nội dung và văn chương cao. âm nhạc đậm đà, bay bổng
mà sương khói nhiều vẻ. Nghe lâu không biết chán. Vũ đạo đơn giản đầy những nét
tượng trưng và mang trong mình nhiều tín hiệu của những thời xa xưa bị lãng
quên. Tín ngưỡng sớm nhất của người Việt nam là tín ngưỡng thờ Mẫu. Trên đất nước
ta, chùa nào cũng có điện Mẫu, chùa nào cũng dành vị trí tốt nhất định cho một
điện Mẫu. Ví dụ như chùa Dâu, chùa Keo ở Bắe Ninh. Điện Mẫu lớn nhất ở nước ta
là điện Mẫu Phủ Giày. Điện Mẫu toàn bằng gỗ lim, có ao hồ vỉa đá. Tam quan nền
đá, cầu đá lăng chúa Liễu Hạnh bằng đá xanh cùng với nhiều công trình phụ với
các kiểu kiến trúc và trang trí ở một trình độ nghệ thuật cao siêu.
Ở đền Lộ thuộc Hạ Hồi cũng có ba điện thờ Mẫu rất nguy nga…
Chỉ tính riêng huyện Từ Liêm sát ngay Hà Nội cũng có chừng hơn 20 điện thờ Mẫu
với đủ mọi tính chuyện cảm động về các Mẫu được hoá thân vào các vị anh hùng
dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước… Đâu đâu, người ta cũng kể
cho nhau nghe về một thế giới Mẫu qua những câu chuyện huyền ảo mà có thật, bay
lên từ cuộc sống. Tín ngưỡng Mẫu là tín ngưỡng cội nguồn, đích thực của Việt
nam. Nó trường tồn với dân tộc vì nó có đước lòng tin cao cả, có quy mô về tâm
linh và về lượng tín đồ trong cả nước. Điện Mẫu phản ánh những mảng sống và tâm
linh từ thời Mẫu hệ. Điện Mẫu là một phần của lịch sử nói lên một quá khứ lâu đời
đã được bắt rễ trên mảnh đất tràn đầy ánh sáng của chúng ta. Đạo Mẫu gắn liền với
tinh thần hiến sinh và đem nhân ái đến cho nhân quẩn xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu
thuần khiết, không dung nạp tệ đồng cốt là thứ mê tín dị đoan, buôn thần bán
thánh.
CHẦU VĂN - LÊN ĐỒNG
Chầu Văn là thề loại diễn xướng độc đáo có kèm theo âm nhạc.
Bao giờ chầu văn cũng có giai đoạn dạo, gây không khí trang nghiêm, choáng ngợp
làm cho người nghe xôn xao và bị lôi cuốn. Đến một lúc nhất định, nó phối hợp với
giá đồng để thể hiện được sức công phá nghệ thuật cao nhất của nó. Những nhạc cụ
phụ hoạ với Chầu văn là trống, phách, chuông, tấu cảnh nhị, đàn nguyệt. Có khi
cả thập lục và đàn đáy. Người hát chầu văn vừa hát vừa đàn. Chầu văn có chừng
40 làn điệu chính và những làn điệu biến tấu uyển chuyển: mướn, thống (khác thống
trong ca trù) giãi bày sự trang nghiêm, gan dạ, cả quyết. Có lúc lại tỉa tót, dịu
dàng, nỉ non. Làn điệu Phú chênh nhắc nhở, nhớ nhung (gần gũi với ca trù). Hát
dọc cởi mơ phóng túng, có cả vui lẫn buồn. Hát nối (hơi giống hát nói ở ca
trù), Dọc xuân sắc, Phú rầu (gần giống làn thảm trong chèo) nhưng phóng túng,
pha thể hơn. Sử xuân man mác, có chút Ba mạc, bồng mạc. Hát văn hơi giống chèo.
Ngâm thiền, Nói lối, canh cá, Bỏ bổ nhịp một, Hát Kiều? Nhạc sai: thúc giục,
dón dập, giật, ngất, ngâm, vịnh, đề thơ, sá, chào v. v… Chầu văn mang tính chất
tiền tôn giáo cộng với những nét do nhiều tôn giáo khác nhau du nhập vào cùng với
những nét "bản địa” qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dài của những
cộng đồng. Nhạc và lời chầu văn có sức khái quát, tượng trưng cao. Nó mô tả, trần
thuật, kể sự tích, ngợi ca, cầu mong, khát vọng mãnh liệt, muốn vươn tới một
bông hoa hoặc một ngọn lửa tuyệt vời, muôn đời, thiêng liêng nào đó mà con người
chưa được với tới. “Đó là nghệ thuật ca nhạc vừa có sự yên lắng suy tư, vừa có
gió bão mãnh liệt (giáo sư Nhật Bản: Ishixawa). Thời kỳ thịnh vượng của chầu
văn là từ đời Lê, Lý, Trần rồi thịnh vào những năm 1920 đến 1940 của thế kỷ
này. Chầu văn Có nhiều lò với tính cách, đặc điểm, phong cách khác nhau ít nhiều.
Những lò Nam Định, Hà Bắc, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Bình…là những lò đáng kể.
Từ trước đến nay, một số nhạc sĩ đã khai thác một vài làn điệu chầu văn và
chúng đã được hoan nghênh ở trong và ngoài nước. Nhưng đó mới chỉ là một phần rất
nhỏ. Thật đáng tiếc, chầu văn vẫn còn là một mảnh đất màu mỡ, chưa được khai
phá hết. Những năm 1940 trở về trước, tại Hà Nội có nhiều trường tổ chức những
cuộc thi hát chầu văn: Hàng Quạt, Hàng Khoai, Hàng Mã, Hàng Bạc… Có cả những
tài tử cự phách của Hà Bắc, Nam Định hoặc Hải Hưng đến tham gia. Giải thưởng
treo rất lớn. Ban giám khảo gồm 3 người: một người thưởng bằng cách cầm chầu, một
người phạt bằng tiếng chuông và một người cao tuổi hơn cả chấm điểm. Đời sống của
các cung văn trôi nổi, giang hồ, đi khắp đó đây, dựa vào các phường, các bạn,
quần chúng mê say. Chầu văn ca ngợi, kể lại sự tích, miêu tả những nhân vật tuyệt
vời mang những quí danh tương trưng như: ông Hoàng Mười, ông Hoàng Năm, ông
Hoàng Bơ, cô Chín, ông Hoàng Bản, bà Chúa Mường, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải,
chúa Liễu Hạnh. Những vị trên được hoá thân vào các vị võ tướng của vua Hùng,
thần Tản Viên và các đời vua khác. Hoặc được hoá thân vào các hoàng tử, công
chúa, các siêu nhân bênh vực người lương thiện và trừng trị kẻ ác. Lời ca và nhạc
chầu văn vừa có chất huyền thoại vừa có chất chân thực, vừa thần thánh vừa phàm
tục. Chầu văn nhấn mạnh tả cảnh đẹp của đất nước để điểm xuyết cho các nhân vật
lỗi lạc. Nhưng cũng phải nói rằng, ngay các nhân vật thần thánh phi phàm và
đáng kính cũng mắc phải những lầm lỗi trần tục. Nhạc chầu văn thuần khiết và
lôi cuốn. Người ta nghe hàng hai, ba giờ liền mà không chán (tiến sĩ A.Samidi
Indonesia) trong không khí đàn ngọt, hát hay, người ngồi đồng (bà đồng) được
bóng và hồn của nhân vật thần linh nhập, ốp vào mình. Bà đồng sắm vai thần linh
theo những cá tính vốn có của nhân vật. Nhất là trong những lúc "thăng
hoa”. Bà đồng được mọi người mặc và khoác áo vào mình trang phục tiêu biểu của
thần linh, Có kèm theo những đồ trang sức (với các nhân vật nữ) hoặc võ khí (với
các nhân vật nam)… Nhân danh thần linh, người ngồi đồng hát lên trong lòng và dồn
vào những động tác nhảy, múa cách điệu và ước lệ trong nền nhạc và hát đệm của
cung văn. Cũng có lúc, trông ra tưởng như có một vài tư thế đơn điệu hoặc thô kệch.
Nhưng, chúng là những dáng múa đích thực, ngẫu hứng, gần gũi với cội nguồn. Có
những điệu múa chính như: múa khăn mặt, múa nến, múa hoa, chèo đò, múa kiếm,
múa cung, múa hèo (gậy ngắn) v.v… Sau khi múa, thần linh ngồi lại, phán bảo,
khuyên răn, quở trách người trần gian và cũng ban thưởng cho mọi người rồi
"về đồng”. Nghĩa là đã xong một giá đồng và cũng là kết thúc một màn ngắn
về ca, múa, nhạc kịch kết hợp. Về mặt trang phục, trong các giá đồng, cũng đáng
lưu ý Sắc màu của mọi thứ trang phục mang tính chất tôn giáo, cung đình và dân
gian. Mẫu Thượng Ngàn mặc áo xanh để có mùi vị núi rừng. Màu xanh là màu chủ đạo
và được nhiều màu sắc khác của những tà áo, giải áo, thắt lưng, khăn, các đồ
trang sức phối hợp uyển chuyển để trở nên hoàn hảo. Trang phục còn phải làm tôn
hẳn lên cái vẻ đẹp: “Cổ kiêu ba ngân, miệng cười trăm huê" của Mẫu. Bà Mẫu
Thoải và ông Hoàng Bơ có trang phục toàn trắng mang tính chất nước non, sông biển,
hài hoà với những hoa văn, hoạ tiết trang trí nhiều màu sắc của bộ mặt trang phục
toàn bộ. Mẫu ngồi giữa mặc áo đỏ rực tạo vẻ uy quyền trang nghiêm. Lại tuỳ theo
các nhân vật có mang theo những đồ dùng thích hợp như chiếc nón, đôi hài xảo,
cái quạt, con dao, cái giải xà tích, ống vôi, khăn tay v.v… Tất cả những thứ đó
đều nói lên nhiều chuyện. Chúng đều được gia công thật cầu kỳ và mang rõ bản sắc
dân tộc. Nói chung, chầu văn và lên đồng cần phải được nghiên cứu một cách khoa
học và nghiêm túc. Đây là một loại hình diễn xướng dân gian có giá trị cao. Nó
đã toả ra, làm phong phú cho nhiều bộ môn ca, nhạc, kịch, trang trí, hội hoạ, tạo
hình… của Việt nam và cái khả năng này còn to lớn lắm.
Năm 1996, Đoàn nghệ thuật Việt nam ra nước ngoài, có diễn tiết
mục Ba giá đồng. Tiết mục này được hoan nghênh nhiệt liệt. Nó đã làm nghiêng ngả
sân khấu của nhiều nước trên thế giới. Nhưng nó mới chỉ là một giọt nhỏ nước
hoa được lấy ra từ cái chai tinh hồng của nghệ thuật chấu văn, lên đồng của nước
ta mà thôi. Chầu văn, lên đồng là một trong những di sản văn hoá cần được giữ
gìn và khai thác. Tất nhiên, ta phải gạt bỏ những ý đồ lợi dụng hình thức sinh
hoạt này để đầu cơ mê tín, trục lợi. Nếu ta làm được việc này một cách tốt, đưa
nó gắn với ba yếu tố cần thiết là: xã hội, văn hoá và kinh tế… thì nó sẽ trở
nên một tượng đài hoành tráng về nhiều mặt cho nền văn hoá dân tộc và cho cả thế
giới.
Chương II
nếp sống
TẢN MẠN VỀ NẾP SỐNG
Bữa ăn được gọi là bữa cơm vì cơm là chủ lực. Người Mã Lai
thích ăn cơm nắm. Được mùa chớ phụ ngô khoai mà vẫn luôn nhớ đến tương, bí, rau
cà. Rau được ưa chuộng hơn cả là rau muống: "Có canh rau muông, có cà dầm
tương". Muốn cho các thức ăn được ngon hơn, người ta cho thêm mật, mỡ:
"Đẹp đẽ vàng son ngọt ngòn mật mỡ". Những món ăn dân tộc đệm vào là
ngô bung, xôi lúa với cách chế biến thông minh và khoa học. Ta coi trọng việc
ăn: dĩ thực vi xiên. Thỉnh thoảng có giỗ, chạp, lễ, Tết, họp mặt, chia tay…,
người ta tổ chức những bữa ăn phong phú, nâng cao kĩ thuật nấu nướng, gọi là bữa
cỗ. Cũng có khi là những bữa ăn nhẹ, hoa lá cành như bún thang, bún ốc, bún chả…
Trong bữa cỗ, nhất thiết phải có rượu gọi là để cho đỏ mặt phừng
phừng. Lại có mấy người thật thân nhau, không ăn hương ăn hoa mà ăn thực sự,
thoải mái, không giữ kẽ, bất chấp các quy tắc ngoại giao hoặc lễ nghi, ăn kiểu
chén chú, chén anh. Ở trường hợp này, say một chút càng tốt. Tư thế đứng ngồi
thật tuỳ tiện. Có thể nhai to, mồm nhai, tai nghe, lại bốc cả năm ngón tay làm
việc. Họ ăn rất ngẫu hứng. Cách ăn này rất dân dã, lại đạt được yêu cầu lý tưởng.
Đó là: thức ăn ngon, không khí ngon, người ngon. Để tẩm bổ, nam đã có lươn là
món ăn bổ dương, nữ có ếch là món ăn bổ âm. Nghệ thuật ẩm thực cổ truyền có chừng
200 món chính, trong đó, nhiều món được nổi tiếng ở trong và ngoài nước. Về việc
ăn, người ta còn nhấn mạnh "Học ăn, học nói", "ăn trông nồi, ngồi
trông hướng" và "Lời chào cao hơn mâm cỗ". Trong công việc, người
dân siêng năng, cần cù, chịu thương chịu khó. Đòn gánh tre chín rạn đôi vai. Họ
khuyên nhau: 'Tay làm hàm nhai", "chồng cầy, vợ cấy" anh đi tát
nước để nàng mang cơm. Nhưng siêng năng chưa đủ mà còn cần phải có suy nghĩ
sáng tạo, phải thành thạo, có nghề: Ruộng tứ bề không bằng có nghề trong tay,
khéo tay, hay làm… Người ta khen ngợi người đàn bà nông nghiệp chỉ huy sản xuất,
tần tảo: "Khen ai vén váy phất cờ", chê người con gái lười: "Trà
hâm lại, gái ngủ trưa". Những dịp tháng ba ngày tám, hội hè, lễ chạp, hội
đình, hội chùa v.v… đã mang lại cho mọi người những giờ phút nghỉ ngơi quý báu.
Họ thưởng thức tuồng, chèo, cải lương, ca trù và những trò chơi… Làng quê Việt
nam có cái võng thật tuyệt vời. Người có huyết áp cao nghỉ ngơi, nằm võng là điều
rất tốt. Họ rất biết nghỉ ngơi một cách có ích để tái tạo sức lao động. Có những
cặp vợ chồng bao giờ cũng nằm chung với nhau. Nhưng ở nhiều nơi, nhất là ở nông
thôn, vợ chồng gặp nhau một tuần một lần là hợp lý. Những người sống lâu là những
người có đời sống tình dục điều độ: “Mỗi tuần chăn gối một lần, lương y danh tiếng
chẳng cần đến thăm” Các cụ còn tổng kết: "Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng
Nam. Nghĩa là lấy vợ phải chọn cô gái có nữ tính cao. Nhà hướng Nam thì mát rượi.
Nhà ngói cây mít là câu cửa miệng. Cây mít có lá to chống ruồi. Lá mít thưa,
che được nắng mà không cản được nắng, làm cho ánh nắng vẫn rộn rã trên sân. Quả
mít không bị sâu vì chim không ăn được. Lá rụng làm cái đun. Nhà lại có vườn
sau, ao trước. Ao có cá vườn có cây ăn quả. Gió thổi qua mặt ao, mát dịu hiên
nhà. Giàn hoa lý thơm hương. cô gái ca ngợi cơ ngơi của anh chồng chưa cưới của
mình. Trên giàn hoa lý, dưới giàn trầu không Vườn hoa, bể cạn, khóm ngâu bên tường…
Cách cư xử với nhau của mọi ngườidựa trên thuần phong mỹ tục lâu đời. Họ quý
người, hiếu khách, giàu lòng thương người. Người phố Hàng Da có tiếng là lịch sự
Phố Hàng Đào, Hàng Ngang có tiếng là khôn ngoan. Trẻ con làm ầm ĩ sẽ bị răn: “Đừng
làm điếc tai hàng xóm". Xóm giềng với nhau, họ đon đả, chào mừng. Thấy cần
là cố giúp. Làm sao người gần thì đẹp lòng, người xa thì muốn lại…
Nữ văn sĩ ngươi Pháp Yveline Ferray là tác giả cuốn Vạn xuân
dày 500 trang, nói về nước Việt nam hồi thế kỷ 15. Bà ở Việt nam 8 năm để
nghiên cứu và viết sách. Bà đã viết: "con người Hà Nội cũng như con người
Việ t Nam rât nghệ sĩ"…
TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG
Cau non tịên chũm lòng đào.
Trầu têm cánh phượng thiếp trao cho chàng…
Đó là lời thơ của một cô gái đang yêu cuồng nhiệt là Thị Mầu.
Miếng trầu tượng trưng cho tình yêu, tình chung thuỷ lứa đôi. Nó cũng là một dạng
"Bùa mê", là cái cầu đến với tình yêu. Người ta thường nói: đã ăn trầu
của người ta, làm thân con gái chớ ăn trầu người, ba đồng một mớ trầu cay, đã
đi trầu cau; vì trầu thắm quá làm lòng em say, miếng trầu là đầu câu chuyện; Có
phải duyên nhau thì thắm lại, quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi v. v… Thị Mầu lại
nài nàng Tiểu Kính Tâm: "Chú tiểu ở lại đây ăn với em miếng trầu”. Ở đây
miếng trầu đã trở nên cái mồi, cái bẫy. Chỉ cần Kính Tâm nhận lời mời trầu là sẽ
bị Thị Mầu "chinh phục" ngay…
Một miếng cau, một lá trầu quệt ít vôi, cuốn lại và một miếng
vỏ (rễ) cây màu đỏ nhạt được hợp lại làm một mà nhai, tức là ăn trầu. Vậy, miếng
trầu là sự quện vào nhau của ba yếu tố kể trên. Nó tạo thành một vị phát, hơi đắng
nhưng dễ chịu và có cung bậc, cỏ sự tươi ngọt từ phần mềm của cau, vị bùi của rễ
(vỏ) vị nồng nàn của vôi… Nghĩa là cũng gần đủ “mùi đời” rồi. Các động tác nhai
đó cộng với dịch vị được tiết ra tạo thành một chất kích thích, gõ cửa các ô cảm
xúc hệ thần kinh, làm cho có sự trào dâng bừng bừng gần giống như say rượu, say
nước chè tươi, say thuốc lào Lúc này, trạng thái tâm hồn mạnh mẽ, hưng phấn
hơn. Do đó tiêu diệt được một phần nào sự cô đơn. Ăn trầu có mùi thơm, trừ được
vi khuẩn trong miệng, môi đỏ lên như thoa son, bóng loáng lên, gợi tới cái nguồn
gốc xạ xưa của việc tô son môi là bắt chước tự nhiên. Khi nam nữ quá quấn quít
lấy nhau, môi người con gái đỏ và bóng hẳn lên. Người ta phát minh ra thoa son
và ăn trầu là từ cái nguồn gốc thầm kín đó. Trong các cuộc gặp gỡ mùa xuân,
trong lễ hội, những ngày vui mừng, người con gái mở chiếc khăn trầu ra, đặt lên
tay người con trai một lá trầu không xẻ dọc, cuộn lại ở chỗ giữa toả ra một
cánh dưới của con phượng. Nơi giữa của hai cánh là miếng cau có đủ cả bộ phận mỡ
trắng và cả hai hạt cau màu đỏ tím, là thân con phượng. Phía cạnh trên miếng
cau được đặt một miếng rễ (vỏ) được tỉa răng cưa để tạo nên mỏ con phượng. Mấy
thành phần ấy được trân trọng đặt lên bàn tay nho nhã, chia phẳng vừa là xúc
giác vừa là thị giác trong những giây phút xúc động. Rõ ràng là cô gái đã làm một
công việc tạo hình. Ngày ấy, nam nữ thụ thụ bất thân nhưng khi mời trầu thì được
“tháo khoán”. Lại có miếng trầu têm bình thường hơn, hai bên được tách ra hai
miếng dài, nhọn như hình hai chiếc sừng trâu, gọi là trầu cánh kiếm. Người
chinh phụ trong "Chinh phụ ngâm" tiễn chồng ra trận, mời chồng một khẩu
trầu cánh kiếm, chứ không mời trầu cánh phượng. Có trầu mà chẳng có cau làm sao
cho đỏ môi nhau hỡi chàng? Nghĩa là còn thiếu một vài yếu tố gì đó nữa thì
chúng ta có thể về với nhau được. “Dễ quạch, em chửa đi đào" là em còn do
dự đấy. Còn có trường hợp họ không ăn được với nhau một miếng trầu trong những
giờ phút bi kịch như: Chị mở khăn trầu anh khép lại Mình về nuôi lấy mẹ mình
ơi! Miếng trầu còn chỉ định thời gian: “Chờ em chừng dập miếng trầu em sang”, tức
là khoảng 3-4 phút gì đó.
Miếng trầu cũng gợi ý:
Nhà em có một vườn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Hoặc như:
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn để đói buồng cau để già…
Yêu, ghét cũng được thể hiện qua trầu, cau.
Yêu nhau, cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau đậu bổ ra làm mười.
(Cau đậu vốn nhỏ và phần mỡ mềm nát)
Yêu nhau em ném bã trầu. Để giữ cho kín chuyện đó trong đám
đông, cô gái ném cho chàng trai miếng bã trầu. Chàng hứng vạt áo rồi cho vào
túi mang về chút phần thưởng, lời hứa mang cái hương thầm của cô gái. Đó cũng
là một kỷ niệm độc đáo của tình yêu. Ngày nay, tục ăn trầu còn phổ biến ở một số
nước Đông Nam Á. Cuối buổi họp Chan-dra, nhà khảo cổ Ấn Độ cho tôi xem một chuỗi
nào dây nào móc, chìa khoá như cái chuỗi xà tích của các bà, các chị làng quan
họ vẫn đeo, trong đó có một cái ống vôi ăn trầu. Nó có hình lăng trụ và nắp đậy
là một hình chóp cao hơn, hơi loe ra ở phía dưới một chút. Thì ra, từ đời xa
xưa, cái ống vôi cổ ở nước ta cũng giống cái ống vôi cổ Ấn Độ. Nó mang hình
dáng cái Linga (dương vật). Sau này, một số các bà quyền quý thấy nó có cái
dáng quá ư thế tạo nên mới đổi dáng ra nào là quả đào, quả khế. Sự thực ra, cái
hình ảnh của Linga gợi cho mọi người sự phồn thực và phát triển. Việt ăn trầu
con liên quan đến những câu chuyện tình rất hay mà mỗi nơi kể có khác đi chút
ít và có thêm thắt như sau: "Nhà kia có hai người con trai gíông nhau như
hai giọt nước. Cô gái lấy người anh làm chồng và có lúc cũng không Phân bíệt được
rạch ròi hai anh em. Người em trai thấy cô gái đã lấy anh mình liền bỏ nhà ra
đi đứng chết đứng trong cô đơn thành cây cau. Người anh thấy mất em, đi tìm mãi
không thấy, buồn rầu, lạnh lùng nằm xuống cạnh cây cau thành tảng đá vôi. Người
con gái đi tìm cả hai anh em, không thấy, biến thành một đám dây leo gọi là cây
trầu không, cứ leo từ tảng đá đến cây cau rồi lại từ cây cau đến đảng đá. Cây
trầu không cứ xanh rờn. Cây cau cô quạnh và tảng đá im lặng nó phải qua sự
thăng hia (nung) mới trở thành vôi để hoà hợp được vớí cau và trầu. Đó là kết
quả bi thảm của chế độ quần hôn và sự ra đời của chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Lại nữa, sự giống nhau về bề ngoài làm nảy sinh ra nhiều lầm lẫn như tình cảm
còn dễ lầm lẫn hơn nhiều lần. Những sự lầm lẫn này là truyền kiếp. Sự kéo dài,
sự phát triển hoặc ra đi của một tập tục lệ thuộc vào những yếu tố xã hội, kinh
tế và văn hoá của một xã hội trong thời gian nhất định. Có một thời gian dài,
người ta trân trọng hình ảnh cô gái Việt nam: Khăn mỏ quạ đen, bộ tộc đen huyền,
mắt đen trong, khuôn mát trắng muốt, hàm răng đen nhưng nhức, môi trầu cắn chỉ…
tất cả hợp thành một vẻ đẹp trong sự đối chọi của màu sắc mà cũng trong sự hài
hoà ăn ý giữa màu sắc vả tạo hình.
NHỊP CẦU YÊN THÁI
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
(Ca dao)
Một bên là Hồ Tây thơ mộng, một bên là thành Đại La có ngôi mộ
Lý Chiêu Hoàng rậm rạp cây cối. Mấy làng Bưởi giấy nằm lọt thỏm vào giữa. Xung
quanh có Văn Chỉ, vườn Bàng, miếu Đồng cổ, miếu Thuỵ Chương, đền Voi Phục, chùa
Thiên Niên… Những làng Bưởi làm giấy có làng Yên Thái, Đông Xã, Hồ Khẩu Yên Quyết,
Nghĩa Đô.
Nhưng làm nhiều nhất, có quy mô và có thời gian thịnh vượng
lâu dài hơn cả phải kể đến làng Yên Thái, cho nên Nhịp chày Yên Thái từ lâu đã
là tượng trưng cho cả mấy làng Bưởi làm giấy. Làm giấy cung cấp giấy cho làng
Đông Hồ làm tranh. Nguyên liệu cho nghề làm vàng mã, nghề đúc, nghề làm khuôn,
hội hoạ. Thời kỳ thịnh vượng của nghề giấy có phiên chợ cầu Vuông nổi tiếng. Cầu
Vuông ở ngay đầu làng Yên Thái, là trung tâm của các làng giấy. Chợ họp cứ bảy
hôm một lần:
Cầu Vuông một tháng bốn phiên
Để em xeo giây bút nghiên cho chàng.
Cầu Vuông gồm 10 gian. Một gian dành cho việc thờ cúng bà cô
Tổ. Còn 9 gian để bày giấy bán. Ở đây có đủ loại giấy. Người mua kẻ bán tấp nập
suốt ngày. Khách các tỉnh và Hà Nội ăn giấy nhộn nhịp. Những năm 1930 - 1945 của
thế kỷ này đối với những người ưa chư nghĩa, không có món quà nào quý hơn là những
tập sách như "Thơ thơ", "Phấn thông vàng", "Ngày
xưa", "Vang bóng một thời"… được in riêng một số lượng trên giấy
"dó lụa", "dó văn” không bán mà chỉ để tặng cho những người thân
thiết…
Những năm sau cách mạng tháng Tám có Truyện Kiều rồi đến năm
1969, di chúc của Hồ Chủ Tịch được in trên giấy dó đặc biệt. Chúng ta đều biết,
những trang sách, những tài liệu ghi chép, những sắc phong từ các đời Lý, Trần,
Lê, Nguyễn vẫn còn giữ được chất lượng giấy dó như nguyên, không bị phai bạc
theo thời gian. Nó là một loại giấy bền lạ, đẹp mà chưa có một loại giấy nào
làm bằng phương pháp hiện đại so sánh nổi. Các thư viện lớn trên thế giới có giữ
những sách và tư liệu bằng giấy dó Việt nam đều công nhận như vậy. Có mấy loại
giấy chính: giấy bản, giấy moi, giấy hãm, giấy sề, giấy phèn, giấy lịnh… Giấy
phèn là loại giấy có phết thêm phèn chua và keo da trâu. Giấy tịnh là giấy phải
qua động tác “nghè", làng Nghĩa Đô chuyên làm giấy lịch nên gọi là làng
Nghè. Để làm nên các loại giấy dó, người ta ngắm kỹ vỏ cây dó, cây dường, cây
du từ miền trung du (Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái) rồi nấu cách thuỷ trên những vạc
lớn. Vỏ các loại cây dó được tước đi màng đen ở ngoài cùng với những mẩu đầu thừa
đuôi thẹo đen, đỏ rồi giã nhỏ thật mịn bằng hệ thống chày, cối. Bột dó được đưa
vào các tàu xeo có nhiều nước và một lượng dung dịch gỗ mò chân như thể
glycerine. các cô gái dùng cỗ "liềm" vớt dung dịch bột giấy và cho lắng
trên một lớp mành mành (liềm) để tráng thành một tờ giấy ướt. Tờ nọ ốp lên tờ
kia mà không dính vào nhau là nhờ có dung dịch gỗ mò. Sau đó, người ta ép những
chồng giấy ướt cho kiệt nước rồi gỡ ra từng tờ, hong khô. Đàn ông làm giấy vất
vả, làm các động tác nặng nhọc. Còn đàn bà, con gái, tuy cũng đi sớm về hôm
nhưng mưa không đến đầu, nắng không đến mặt nên vẫn được liệt vào loại "Em
là con gái trong song cửa". Họ trắng trẻo, ưa nhìn. Gọi là gái Yên Thái,
trai Đoài Môn mà…
Mặc dầu, ca dao có câu: "Tàu xeo nước giá như đồng”…
Theo truyền thuyết, buổi đầu, quê hương số một của mấy làng giấy không phải là
làng Yên Thái. Ông tổ nghề giấy đặt chân đầu tiên ở làng Yên Quyết, còn gọi là
làng Cót. Lúc này làng Cót làm loại giấy dó đẹp nhất, thuộc loại cao cấp nhất.
Các làng khác phải mua lại những nguyên liệu loại thứ hai, thứ ba của làng Cót
thải ra để làm các loại giấy cấp thấp với số lượng ít. Lẽ dĩ nhiên, lúc đó làng
Cót là làng sung túc nhất vùng. Có người con gái làng Yên Thái, họ Vũ, nổi tiếng
khắp vùng về nhan sắc, duyên dáng. Nhiều chàng trai xung quanh và từ kẻ chợ về,
đều nhờ những tay mối lái tài ba đến cầu hôn. Nhưng nàng không ưng ai cả mà tự
mình đi làm quen với các chàng trai ở làng trên xóm dưới. Về đường tình duyên,
nàng có phần dữ dội. Sau cùng, một chàng công tử con một gia đình làm giấy giàu
có ở làng Cót cưới được nàng về. Nàng có ý chọn một vài đứa cháu trai trong họ,
gọi chúng xuống chơi nhà, cho làm quen với các cô gái làng Cót. Nàng thuyết phục
các cô gái làng Cót lấy các cháu của nàng, thậm chí còn vận động các cô gái
làng Cót lên chơi làng Yên Thái. Cứ như vậy, nhiều đám cưới có ý nghĩa chuyển
giao nghề nghiệp đã diễn ra giữa hai làng giấy. Sau đó vài năm, nàng không chịu
được sự gò bó của gia đình nhà chồng và ngay cả với chồng, nàng ưa tự do vùng vẫy,
và hơn nữa, nàng không có con nên bỏ làng Cót và về làng Yên Thái sống một mmh
củng với các cháu và những người thân. Nàng giúp mọi người làm loại giấy tốt
như ở làng Cót. Vị trí địa lý của làng Yên Thái lại rất thuận tiện cho việc
giao thông đi lại, vận chuyển hàng hoá. Mọi nẻo đường chính và tàu điện từ Hà Nội
đi thẳng đến làng Yên Thái. Có nhiều khách đến mua, việc sản xuất được cải tiến
và đẩy mạnh. Thế là mười gian chợ Cầu Vuông được xây dựng. Chín gian để bày giấy
bán, làng Yên Thái ở vào cái thế: "Nhất cận thị, nhị cận bang", nên
việc làm ăn càng trở nên thịnh vượng, làm ra thêm nhiều loại giấy đáp ứng nhu cầu
của xã hội, đi đầu trong việc làm ra các loại giấy viết giấy văn phòng, giấy
in, giấy stencil, giấy pơluya màu, giấy chống ẩm, loại giấy có vân như mây…
Nàng họ Vũ trở về già. Các cháu trai, cháu gái của bà và những
người được bà giúp đỡ đều đã có cuộc sống nhấm khá. Họ thấy bà không có con và
yêu miến họ nên tất cả đều gọi bà là "mẹ". Đời sau, trong họ, ngoài
làng đều gọi bà là bà cô tổ, dành một gian chợ Cầu Vuông để cúng lễ bà. Họ nhớ
đến công ơn lớn lao của bà mà lập bàn thờ ở đó với mây chữ: “Bản nghệ thần từ”,
nghĩa là đền thờ bà thánh của nghề nhà". Những năm làm ăn thịnh vượng, cả
mấy làng giấy đều sớm khuya rậm rịch tiếng chày giã dó. Riêng ở làng Yên Thái
đã có chừng 30 hệ thống chày cối. Những tiếng chày Yên Thái vang lên, tượng
trưng cho sự trù phú, yên vui, nói lên cuộc sống "lên hương": của người
vùng Bưởi. Những năm 1938-1939, đồng chí Hoàng Văn Thụ và đồng chí Trường Chinh
xuất hiện ở lảng Yên Thái với vai những người thợ đi giã bột dó để hoạt động
cách mạng. Đến năm 1940-1941, những hệ thống này được máy xay bột giấy (pi le
raffmesue) thay thế…
Qua nhiều năm tháng, nghề giấy thủ công vùng Bưởi và tiếng
chày Yên Thái chỉ còn là những kỷ niệm. Nhưng chúng ta hy vọng là tiếng chày
này sẽ còn vang lên với một cung cách, một sự nâng niu đặc biệt để sản xuất ra
loại giấy dó độc đáo dùng cho những yêu cầu đặc biệt của thị trường ngày nay.
Hiện giờ, vẫn có một số nhà công nghệ và doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước
đang đặt vấn đề khôi phục lại nghề làm giấy dó ở quy mô nhỏ nhưng độc đáo… là
loại giấy nghệ thuật.
CHUYỆN LÀNG RẮN
Qua thị trấn Gia Lâm chừng hai cây số, theo đường số 1 rẽ phải
cũng chừng hơn một cây số nữa, ta vào làng "rắn" (làng Lệ Mật). Giữa
làng là ngôi đình phong quan có kiến trúc truyền thống đường bệ, cây cối xanh
tươi. Nơi đây thờ người thanh niên họ Hoàng làm nghề bắt rắn, đã có công chém
được rắn quái nửa rắn nửa thuồng luồng, cứu công chúa họ Lý. Thành Hoàng họ
Hoàng được coi như ông tổ nghề bắt vànuôi rắn cả vùng. Nơi đây, xưa kia sông nước
ngang dọc, lại là vùng ven sông của con sông Hồng đậm một màu truyền thuyết
"Sơn tinh - Thuỷ tinh". Chúng ta thường thấy một số người mang các rổ,
lồng, bị cói…đi bán rắn khắp các phố phường Hà Nội và cả những nơi xa hơn. Họ
ăn mặc đủ kiểu, vừa có vẻ thôn làng vừa theo thời đại. Có thể là họ mặc quần
nâu nhưng lại khoác một cái va rơi dã chiến, quần áo bộ đội cũ hoặc quần bò họ
đội đủ mọi loại mũ, nón. Nghĩa là tiện cái gì dùng cái nấy. Nhưng nói không, họ
đều có một dáng dấp giang hồ phiêu bạt. Của cải của họ chỉ có chừng vài chục
con rắn các loại. Phần lớn họ nghèo nhưng cá biệt có vài người rết giàu. Họ
thích đi để giao du, để nhìn thế sự. Họ dừng chân chốc lát ở một chỗ nào đó, bầy
những cặp rắn ra biểu diễn một vài động tác điều khiển rắn, rút rắn ra khỏi lồng,
xếp đặt chúng thành bộ rồi lại cho vào lồng. Họ giải thích về phương pháp ngâm
rượu rắn và trả lời những câu hỏi tò mò của quân chúng vây xung quanh họ về thế
giới của các loài rắn bất trị, việc săn bắt và nuôi rắn. Họ chú ý giải thích về
công dụng của rượu ngâm rắn và các món ăn về rắn. Họ ca ngợi rượu rắn là "kiện
năm tửu”, là loại rượu của những người đàn ông khoẻ mạnh, là thần dược tráng
dương bổ thận rất cần thiết cho những "con gà sống đoảng”. Trong khi mua
bán, khách mua và chủ bán có thầm thì to nhỏ với nhau đôi điều. Lúc này, chủ
bán rắn trở nên một ông lang chữa bệnh cao tay. Họ là ai? Đó là những người bắt
rắn và nuôi rắn ở làng Lệ Mật. Cũng có một số ít là những người ở Cáo Đinh, ven
Hồ Tây. Họ thuộc những trường phái khác nhau. Tuy vậy, có chung một nguồn gốc
là làng Lệ Mật. Nghề bắt rắn ở làng Lệ Mật được truyền lại qua các gia đình tộc
họ và được giữ bí mật, gần đây nhất là 6 đời với họ Nguyễn, Trần và một số gia
đình khác. Nếu chỉ bắt và nuôi rắn rồi đi bán ở một nơi: gọi là kiểu tài tử thì
sẽ không trở nên giàu có được. Có một số người trong số 20 gia đình nuôi rắn đã
tiến lên làm ăn mới hơn. Họ mua thêm rắn ở khắp nơi mang tới, nuôi hàng tấn rắn,
chế biến các món ăn từ rắn, thuộc da rắn, lấy nọc, ướp rượu rắn. Họ đã giàu có
lên nhanh chóng như có phép lạ. Vì họ có trong tay những món hàng độc đáo, bán
cho khách sạn hoặc dịch vụ đặc sản trong nước hoặc xuất khẩu cho Trung Quốc,
Triều Tiên, Đài Loan, Hồng kông, Singapore… Họ làm việc khai thác nọc rắn bằng
cách chiết xuất, chế bột khô để xuất khẩu. Nọc rắn là vàng trắng. Thực ra nó
còn đắt và quý hơn vàng. Nó chữa được nhiều căn bệnh nan y và những căn bệnh về
xương cốt, về tính dục… Trên các sân bóng đá quốc tế, thỉnh thoảng ta thấy một,
hai cầu thủ bị ngã xuống vì đau xương, sát cốt, lập tức có một thầy thuốc mang
túi cấp cứu đến, bơm vào vết thương một vài luồng bột trắng. Thế rồi, người cầu
thủ bị thương liền đứng dậy tiếp tục vào sân. Luồng bột trắng tung lên như
sương mù được bơm vào vết thương đó, Có một thành phần rất cao là nọc rắn.
Không phải bỗng dưng mà y học thế giới lấy biểu trưng là hình ảnh một con rắn
vươn mình, thè lưỡi. Điều đó nói lên sự kỳ diệu của rắn trong việc trị bệnh cho
loài người.
Người làng Lệ Mật rất chú trọng đến việc lấy nọc rắn. Nọc rắn
nói chung là loại tinh dược tuyệt vời. Nhưng mỗi lần rắn lột xác để trở lại
thanh xuân là lúc lấy được nọc rắn ở dạng “siêu" nhất. Lấy được bao nhiêu
nọc rắn là lấy được bấy nhiêu vàng. Người bắt rắn phải nhanh biết ngay loại nào
độc, loại nào không độc. Tóm vào con rắn, nghệ nhân động chạm ngay vào nơi bộ
phận sinh dục của rắn đực và rắn cái hoặc vào "ti" của rắn cái là đã
làm cho rấn trở nên đờ đẫn, chẳng khác gì một con lươn. Những khi bị rắn cắn,
người bắt rắn day vào vết cắn một chút lá giã nát thấm nhựa hoặc chấm vào một
chút thuốc nước đựng trong cái lọ con buộc bên thắt lưng. Công thức, thành phần
lá và thuốc trị rắn cắn được giữ bí mật tuyệt đối theo một lời thề truyền lại từ
những đời trước. Bà Mùi, 85 tuổi và con dâu bà, 45 tuổi làm nghề bắt rắn ở ven
Hồ Tây không áp dụng kiểu thuốc và lá trị rắn cắn như ở làng Lệ Mật. Lúc nào bà
cũng nhai trầu bỏm bẻm. Trong những miếng trầu của bà có hai ba loại lá thiêng.
Khi rắn cắn bà chỉ cần quyệt bã trầu lên chỗ rắn cắn là xong. Chẳng cần bận
lòng gì nữa, lại tiếp tục đi bắt những con rắn khác. Đã được bôi thuốc hoặc bịt
lá vào vết thương, người bị rắn cắn thấy như bị ong châm. Người bị rắn cắn mà
không chết vì đã có thuốc tri, cũng có nghĩa là đã được tiêm vào mình những chất
có lợi cho sức khỏe và được tăng sức đề kháng với một số bệnh tật.
Họ hàng nhà rắn nhiều vô kể. Ở Việt nam có chừng trên 100
loài rắn. Ở miền Bắc và một số tỉnh miền Trung thường thấy xuất hiện các loại
như: hổ mang, hổ mang bành, hổ mang trì, cạp nong, cạp nia, ráo, cặp hoa, mắt
kính, rắn ma, rắn nước… Chúng Có tác dụng lớn cho đồng lúa vì rắn rất tích cực
bắt chuột, ăn chuột. Người ta cho rằng, nếu không có rắn và họ hàng nhà rắn thì
mỗi vụ chuột sẽ phá hết chừng một phần tư mùa màng. Xương rắn nấu cao, mật rắn
chữa được nhiều chứng bệnh nguy hiểm. Mỡ rắn chữa các bệnh về xương, khớp gân.
Thịt rắn chế được nhiều món ăn ngon và bổ. Da rắn thuộc kỹ đắt gấp gần 10 lần
da lươn. Rắn ngâm rượu có thể là ngũ xà (5 con), có thể là tam xà (3 con).
Trong hai loại rượu rắn này có thể ngâm thêm một con bìm bịp, là loài chim
chuyên ăn rắn và "chim" rắn kèm dịch hoàn ngâm rượu. Những loại rượu
ngâm này uống vào là linh dược tráng dương bổ thận. Chính vì vậy chúng được coi
là: hạnh phúc tửu, trường sinh tửu, cải lão hoàn đồng tửu, tương tư tửu… Chúng
là món hàng được nhiều người ưa chuộng và đặc biệt hấp dẫn với thị trường nước
ngoài. Khả năng xuất khẩu của chúng rất lớn.
Ngày 15-10-1993, ba vị khách Trung Quốc đã đến thăm làng Lệ Mật.
Họ được thưởng thức các món ăn từ rắn và uống đủ loại rượu rắn. Tối về, họ tiếp
tục uống rượu rắn vì họ mua về nhiều. Phần để uống ở Hà Nội, phần xách cữu kịt
về quê. Sáng sớm ngày hôm sau, ai cũng đồng thanh báo cho nhà báo biết:
"Hiệu quả! Hiệu quả! ". Câu nói dõng dạc và vui vẻ ấy cũng có mang
theo ẩn ý, kèm theo những nụ cười rất "trần gian". Như vậy, cái kho
tài nguyên rắn của ta thật phong phú và quý giá. Người ta đua nhau bắt rắn,
nuôi rắn với quy mô lớn hơn của tư nhân, hợp tác xã cũng như quốc doanh dân sự
và quân sự. Nó kéo theo việc sản xuất một loại hàng hoá đặc biệt như một ngành
nghề kinh doanh.
Ở Lệ Mật đã có một số cơ sở đã đi vào việc kinh doanh kiểu mới.
Rắn ăn rất ít, chúng ăn cóc, nhái, ếch và chuột. Một con rắn dài chừng 1m50, ăn
một con cóc có thể no được ba tháng. Nhà nuôi rắn có chừng 10 cái bể xi măng, mỗi
bể chứa được 2-3 tạ rắn. Lại có mấy cái động cho rắn chui ra, chui vào như cuộc
sống tự nhiên của chúng và mấy khung gỗ có nóc cho rắn nghỉ. Hiện nay, việc
kinh doanh rắn đang được tiến hành rầm rộ ở Lệ Mật. Nhiều gia đình và cơ sở sản
xuất giàu lên nhanh chóng. Với làng rắn, con rắn là con vật linh thiêng. Người
ta nhắc nhiều đến huyền thoại về rắn. Nào rắn hoá thành cô gái đẹp, rắn thần có
nhiều phép, rắn con vua Thuỷ Tề giúp đỡ mùa màng, rắn thần ở sông Chanh, rắn
báo thù, rắn trả ơn, rắn mở kho vàng cho làng Lệ Mật trung hậu… Rắn đã mở kho
vàng cho làng Lệ Mật. Làng rắn đang đi lên cuộc sống phồn vinh. Khách hàng
trong nước và nước ngoài tấp nập đến với làng rắn. Làng rắn sẽ còn đi xa hơn
nưa…
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VỚI TẾT NGUYÊN ĐÁN Ở HÀ NỘI
Ông khách người nước Pháp tên là Bernard đến Hà Nội để xem cảnh
xem người, ông đi theo kiểu du lịch nghiên cứu văn hoá. Trước khi đi, ông đã
tranh thủ đọc sách viết về Việt nam, về Hà Nội. Ông đến Hà Nội vào dịp Tết để
có tham vọng mắt thấy tai nghe và tiếp xúc với những con người Hà Nội, để phần
nào hiểu được tâm hồn, cách sống, phong tục tập quán của người Việt nam. Ông
yêu cầu được gặp một vài người để “cãi nhau" với ông về văn hoá. Ông không
ngạc nhiên lắm khi đến thăm các làng hoa và sự chuẩn bị tưng bừng cho những
ngày Tết. Ông cũng không ngạc nhiên về việc các cửa hàng, các quầy hàng nghìn
nghịt người ra vào. Vì những cảnh tượng đó cũng diễn ra ở nhiều nước. Ông đặc
biệt thích thú những đình, chùa, miếu ở Việt nam. Ông rất thích chùa Một Cột.
Người Việt nam xưa không làm một vài công trình to lớn, đồ sộ mà làm những công
trình vừa xinh vừa nhỏ để nói lên cái to tát. Chùa Một Cột mang dáng hình bông
sen, nó còn mang dáng dấp chữ "Vữ" là vũ trụ nên chỉ là một cái cột
đá thiêng liêng mang trên mình một cái Việt điện vũ trụ.
Các đình, chùa, miếu có mặt khắp các thôn làng Việt nam, làng
nào cũng có, có làng lại có đến mấy ngôi đình, chùa. Đó chẳng phải là điều to lớn
nằm trong những cái nhỏ bé là gì? (Grader dam la pelitese). Những ngày Tết, tất
cả các đình, chùa, miếu đền thắp đèn sáng chưng, khói hương nghi ngút, vang lên
tiếng chuông, mõ, tiếng cầu kinh rất trang nghiêm mà thân mật. Ở những nơi này
tràn ngập ánh sáng, trí tuệ, suy tư. Tiếng mõ là tiếng cuộc đời. Tiếng chuông
vang lên sự mỏng manh của kiếp người… Ông Bernard nhắc lại một đoạn viết của
nhà sử học Mỹ - J.S Tensomi: "Xin cho phép tôi được mặc chiếc áo dài Việt
nam của người mẹ Việt nam, những người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều
thời đại chông giặc và giữ nước. Bà mẹ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng mặc chiếc
áo dài này… ông lại nói: "Thì ra, mấy hôm nay tôi được ngắm nhìn biết bao
là những tà áo dài gọi là áo dài (lơ áo dài). Tôi thấy áo dài Việt nam rất đẹp
mỏng manh, phất phơ. Nó là cả một doing sông chảy xiết của mềm vui mà cũng có
khi là của nỗi buồn phiền, tuỳ theo trạng thái tâm hồn của người mặc nó. Nó đẹp
tuyệt đối”. Chị Cathenne Diamond vào hàng chả cá Lã Vọng cùng tôi. Khi ăn xong,
chị bảo: "Hỏng rồi… ăn chả cá phải lom khom trong một gian gác cũ kỹ. Trời
phải se lạnh, lại có mưa bụi thì mới đúng kiểu…" - ôi chị biết rõ quá.
- Tôi đã được đọc về nó. Chị nói chị rất thích cái cách các
gia đình mời cha, mẹ, tổ tiên về ăn Tết cùng với con cháu mấy ngày Tết. Như vậy
là trong những ngày Tết, có mặt những người đang sống và cả những người đã mất.
Anh Penik, người Tiệp, bỏ ra nửa ngày để đi đi lại lại khắp khu Cống chéo Hàng
Lược. Anh rất thích những cây cảnh nhỏ, những cây khế. Các nghệ nhân đã xén, tỉa,
gia công, ghép, nắn các loại cây quý hiếm để bắt chúng mang những dáng hình
như: Phượng bay, mẫu tử, chờ đợi, đón gió, sóng đôi… lại là cái cảnh làm cho mọi
người phải say sưa, ngắm không chán mắt. Một hòn non bộ nằm trên một thảm cỏ được
đặt giữa bể nước có cá vàng. Ở đây, có hòn đá linh thiêng ngàn năm, có bãi
xanh, có núi, sông, rừng, suối, lau lách, đường mòn. Có cả những quán vắng,
đình, chùa, tháp, cầu son cheo leo… làm bằng đất nung được sơn phết men màu…
Khi về đến khách sạn anh bạn bảo tôi: Tôi đã được dự một phần cái Tết Nguyên
đán của Việt nam và cảm thấy một sự thanh thản, một thú vui tràn đầy. Chị
Trương Lập Mỹ và Triệu Nhã Linh là hai diễn viên kịch nói của Đoàn kịch Thanh
niên Trung Quốc sang làm khách sân khấu của ta. Các chị không ăn bữa trưa để đi
khắp Hà Nội, hoà vào cái không khí Tết Mậu Dần của Việt nam, các chị đến thăm hầu
hết các cửa hàng dành cho phái nữ. Cửa hàng nào cũng bận rộn, khách hàng nhộn
nhịp. Các chị mặc bộ "sường sám" Thượng Hải tha thướt, xẻ một đường
dài đến tận gót chân. Hai tay để trần. Các chị ngắm mãi chiếc áo dài Việt nam
mà chị phụ trách cửa hàng mặc khi đón khách. Hai chị nói: “Chiếc áo dài của chị
đẹp hơn áo “sường sám” của chúng em. Chị T.N nói ngay: "Không phải thế, chị
ạ áo "sường sám" của các chị đẹp hơn”.
- Không, áo dài đẹp hơn. Không đâu “sường sám “ của các chị
thật không chê vào đâu được.
- Thôi. Đẹp bằng nhau…
Hai chị muốn đặt cắt may hai bộ áo dài. Nhưng, các chị chỉ
còn hai ngày ở lại Hà Nội rồi phải bay về Trung Quốc. Lại là hàng Tết, làm sao
cho kịp được. Chị T.N nói sẽ cố gắng để tổ cắt may không ngủ đêm, ngày ăn một bữa
để hoàn thành gấp hai chiếc áo. Hai chị sợ làm phiền cho bạn, bảo:
- Thôi. Chúng em không dám phiền chị. Chúng em chọn mua hàng
có sẵn. Chúng em sẽ mặc vào và đi khắp Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh… trình
diễn mẫu hàng của chị T.N.
Họ ôm lấy nhau hồi lâu. Giây phút này xảy ra trong một ngày
giáp Tết. Họ sẽ không bao giờ quên. Anh Jamin, người Canada, nói với tôi: Sang
năm, tôi quyết lo cho thằng con trai tôi sang Việt nam ăn Tết. Tôi sẽ cho nó đến
“câu lạc bộ ca trù" ở phố Bích Câu Nó sẽ nghiên cứu về ca trù và sẽ trở
thành một nhạc sĩ hiếm hoi. Và cái gì hiếm hoi đều là rất quý. Tết nguyên đán ở
nước ta là một sự xoắn xuýt nhịp nhàng giữa nét truyền thống và hiện đại, là sự
tết dệt của âm dương, của văn hóa vật chất với tinh thần và văn hóa tâm linh.
Nó nói lên sự phồn vinh, phồn của cải, phồn tiến bộ, phồn yêu đương. Vinh quang
là vinh quang của một đất nước chiến sĩ. Nó đọng lại cái đẹp tổng thể của một cộng
đồng xã hội yêu đời và hướng về tương lai. Tết của Việt Nam vui tươi, nhiều màu
sắc, mang dấu ấn suy tư và tâm linh cội nguồn của người Việt. Do vậy, nó chinh
phục được sự kính nể của du khách nước ngoài.
Lý Khắc Cung
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét