Nhà thơ cuối cùng của phong trào Thơ mới
Vợ chồng nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh
Sinh năm 1920. Đến Tết năm nay ông tròn 100 tuổi. Có nhẽ thi
sĩ Nguyễn Xuân Sanh là người cuối cùng của phong trào Thơ mới (1930-1945) còn tại
vị trên thế gian này.
Trong số 44 người được Hoài Thanh chọn thơ vào Thi Nhân
Việt Nam 1941 không có Nguyễn Xuân Sanh. Cũng không có tên Nguyễn Xuân
Sanh khi xếp 3 dòng thơ. Dòng Pháp. Dòng Đường. Dòng Việt. Cũng không thấy tên
ông trong các xóm thơ. Xóm sông Thương. Xóm Huế. Xóm Bình Định. Xóm Hà Tiên...
Mặc dầu vậy, bài tổng luận ở đầu sách - Một thời đại trong thi ca, Hoài
Thanh đã không quên vị trí của Xuân Sanh, nói về ông đến hai lần trong dòng chảy
phát triển của Thơ Mới. Hoài Thanh viết. Từ Xuân Diệu, Huy Cận, thơ Việt
Nam đã có tính cách của thơ Pháp lối tượng trưng nhưng còn dè dặt. Bích Khê và
ít nhiều nữa như Xuân Sanh muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất
trong thơ tượng trưng: Mallarme, Valéry... Thơ tượng trưng được người ta thích
hơn nhất là Baudelaire. Có thể nói hầu hết các nhà thơ vừa kể trên, không ít
thì nhiều, đều bị ám ảnh vì Baudelaire. Sau nhận định này về Xuân Sanh,
Hoài Thanh có một chú thích nhỏ dành cho riêng Nguyễn Xuân Sanh rằng tác
phẩm chưa xuất bản nhưng làng thơ thường nhắc đến. Như thể một lời thanh
minh của Thi Nhân Việt Nam đã không chọn bài thơ nào của Nguyễn. Kỳ
thực, theo Hồi ký Song đôi của Huy Cận thì vào hè năm 1935, chàng Huy
và Xuân Sanh đã viết tay được một tập thơ chung khoảng 50 bài gửi cho nhà xuất
bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng. Khi ấy Xuân Sanh chừng độ 15 tuổi. NXB đã không in tập
thơ và theo Huy Cận - Người sau này tự họa thơ mình là Thơ ơi, chiếc võng
ta treo, Đầu theo vũ trụ đầu theo loài người, rằng họ đã không thèm
trả lời. Nguyễn Xuân Sanh trước khi nổi tiếng với Buồn xưa và Bình
Tàn Thu trong Xuân thu nhã tập 1942, Ông đã có một số bài thơ
đăng báo như Xuân ngày - Bút Mới - Sài Gòn 1938. Giường bệnh mùa
thu - Bút mới - 9/1938. Xây Mơ - Tiếng Địch - số 1 - 1938. Buồn
Mơ, Đường Xuân - Thanh Nghị số tết 1942 v.v... Trong đó bài thơ Xây
Mơ viết tặng Chế Lan Viên và được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc vào
năm 1940 là đáng kể hơn cả. Khuynh hướng siêu thực, tượng trưng đã đậm nét
trong bài thơ ấy. Tay sương lam mờ đường buông tơ. Nghe sương lam mờ đường
dăng mơ... Chưa thả bờ yêu ra đón má. Môi xa vây người nơi xa xôi.
Hoài Thanh viết Một thời đại trong thi ca tháng
11-1941. Tháng 6 -1942 Xuân thu nhã tập in thơ của Nguyễn Xuân Sanh mới
được ấn hành. Nhưng lý do chính Hoài Thanh không chọn thơ Nguyễn Xuân Sanh vì
ông không ủng hộ khuynh hướng đổi mới tìm tòi thi ca của tác giả này. Sau khi
nói gần nói xa một chặp, Hoài Thanh bộc lộ Các ông Bích Khê và Xuân Sanh
noi theo gương Mallarmé, Valéry không thèm giữ gìn gì hết. Đôi khi hình như họ
đã diễn tả được những điều sâu kín. Nhưng lời thơ rắc rối quá… Rồi dư ba ấy
cứ kéo dài mãi. Cho đến gần hết thế kỷ 20.
Bây giờ nhìn lại, Xuân thu nhã tập dội lên như một
hướng tìm tòi mới được giới văn chương đương thời coi là một hiện tượng văn học
độc đáo, sự tiếp nối của phong trào Thơ Mới ở chặng đường cuối cùng của nó. Ở
đây tình yêu, sự cô đơn, nỗi buồn với mọi cung bậc màu sắc đã được khai
thác đến vỉa cuối cùng. Hai bài thơ Buồn Xưa và Bình Tàn Thu, Buồn
Xưa nổi bật nhất. Nó hiện ra vẻ đẹp toàn bích và kỳ ảo của chủ nghĩa tượng
trưng.
Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
... Tỳ bà
sương cũ đựng rừng xa
Buồn Xưa như tiếng nhạc trầm buồn của hoa lá cỏ cây, của
nhịp hải hà đầy quyến rũ đưa đẩy người ta vào thế giới của siêu thực trong sáng
mà say đắm. Để cuối cùng chợt nhận ra rằng sau những quỳnh hoa và ngọc quế ảo
não trong nỗi buồn không sao giũ được, không thể thiếu được bóng dáng của người
xưa yêu dấu. Đó là chàng hoàng tử nghiêng mái tóc buồn đượm một làn mưa giữa
ngàn mây tràng giang buồn muôn thuở. Tôi mường tượng chàng hoàng tử đó chính là
Nguyễn Xuân Sanh. Khi viết bài thơ này ông mới 19 tuổi. Tôi đã xem thủ bút của
Nguyễn Xuân Sanh viết cho ông Đỗ Lai Thúy hồi mùa hạ năm 2012. Cách đây 7 năm
bài Bình Tàn Thu. Bình Tàn Thu hay không kém Buồn xưa. Ở đấy
mùa thu thật đẹp không chỉ bởi sương mù héo lệ dặm đường hương mà còn là vẻ đẹp
kỳ ảo của cung phi dăng bướm buồn nghê thường. Nhưng tôi cứ lấy làm tiếc sao
Xuân Sanh không viết bài thơ thần của mình để người đời nhìn ngắm cái run rẩy đầy
kiêu sa trong nét chữ của thi nhân một thời vang bóng và tiếng đời u huyền trực
tiếp ẩn trong những ký tự mơ hồ của Buồn xưa. Xây mơ, Buồn xưa, Bình Tàn
thu có lẽ là 3 bài thơ nổi trội nhất của thơ tượng trưng Nguyễn Xuân Sanh.
Trong Xuân thu nhã tập 1942 có một bài viết của 3
người. Đoàn Phú Tứ. Phạm Văn Hạnh. Nguyễn Xuân Sanh. Đến bây giờ vẫn còn để ta
suy ngẫm về sự làm thơ. Thơ như giai nhân. Như đẹp. Như trời - Có rung động
là có thơ - Thơ có thể có trong âm nhạc, hội họa, kiến trúc... và cả trong đạo
lý -. Thơ = Trong = đẹp = thật. Thơ là đạo: Đạo - âm + dương - Sáng tạo -
rung động - thơ - đạo. Thơ không cấm lúc nào cũng rõ nghĩa v.v...
Vào năm 1940-1941, Nguyễn Xuân Sanh viết tập Đất Thơm - theo
thể thơ văn xuôi đã trích đăng trên báo Thanh Nghị số 37 ngày 16-5-1943, thể hiện
cách tổ chức đặc sắc một bài thơ văn xuôi với những tiêu đề nhỏ và những suy tưởng
thơ rộng mở của tác giả. Đây là một buổi chiều giữa xuân: Chiều nay ta chỉ
yêu đồng xanh. Ta mộng cánh đồng vàng... Đồng mọi nơi sắp chín. Sắp gặt vụ mùa.
Chùm bông nặng chưa chín nghiêng nhành lúa trong hạt đã gần căng. Hương đặc lùa
ra bờ ruộng cỏ... Ta dành buổi chiều nhớ cánh đồng vĩnh viễn. Những vần
thơ tươi sáng và mới lạ. Bằng Đất Thơm, Xuân Sanh là nhà thơ đi tiên
phong về thơ văn xuôi trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Sau này, các nhà thơ tiếp
tục con đường khai mở của Nguyễn Xuân Sanh. Năm 1964 ở miền Nam Thanh Tâm Tuyền
đã cho ra đời tập thơ văn xuôi: Liên - Đêm - Mặt trời nhìn thấy. Thập niên cuối
thế kỷ 20 và đầu 21, một số nhà thơ trẻ cũng sáng tác thơ văn xuôi như Nguyễn
Quang Thiều, Dương Kiều Minh v.v... Thơ văn xuôi tiếp tục hành trình đi tìm cái
mới.
Các nhà văn đương thời như Tế Hanh, Trinh Đường, Nguyễn Bao,
Mã Giang Lân, Đỗ Lai Thúy v.v... không chỉ một lần cho rằng Nguyễn Xuân Sanh là
người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ Mới sang thơ hiện đại, một hướng đi mới của
Thơ Mới ở chặng cuối con đường của nó. Có người tỏ ý nuối tiếc rằng chàng thi sỹ
của Buồn Xưa lại không đi tiếp con đường đổi mới thi ca vừa mới bắt đầu
mà nhường việc ấy cho những người trẻ hơn tiếp tục như Nguyễn Đình Thi. Hồng
Nguyên. Chính Hữu... Tôi cho rằng điều ấy cũng phù hợp với logic của sáng tạo
văn chương. Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Xuân Sanh làm chủ bút tuần báo Gió Mới
của Tổng hội sinh viên cứu quốc. Sau tham gia lãnh đạo văn nghệ kháng chiến
liên khu 4. Đến giữa năm 1949 về công tác ở Trung ương Hội Văn nghệ Việt Nam tại
Việt Bắc. Từ 1954 đến 1989 liên tục tham gia Ban chấp hành Hội nhà văn Việt
Nam. Có khi được giao làm Tổng thư ký. Sự thay đổi nghiệp đời như thế lẽ dĩ
nhiên thế giới quan phải thay đổi, có lẽ làm cho ông chuyển từ siêu thực vốn đã
bị phê bình sang phản ánh hiện thực cho an toàn hơn. Chuyện hay dở trong văn
chương là chuyện của cả một đời người, đôi khi còn chưa dứt. Các tập thơ Tiếng
hát quê ta (1947-1954). Sáng Thơ (1956-1960). Nghe bước vào xuân (1956-1960). Đất
nước và lời ca (1970-1977). Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1936-1990) v.v... cả một
đường thơ được nhẫn nại đắp nên để đi tới. Rất đáng được người đời trân trọng.
Vậy mà, khi đọc lời giới thiệu Con đường nửa thế kỷ thơ của
Nguyễn Xuân Sanh do Tế Hanh viết từ 1987 đến 1991, tôi không sao tránh khỏi bị
ngậm ngùi. Nhớ lại hồi 1941, Hoài Thanh đã nhắc nhở Tế Hanh như sau: Tệ
hơn nữa, người muốn hưởng cái thú tàn nhẫn được thấy người yêu "đau đớn quằn
quại"... sự thành thực của thi nhân không thể ngờ được... Tế Hanh có
khắt khe lắm không khi vào năm 1991 rồi còn hạ một câu: có một số cái gì
dường như còn chưa nhập cuộc, hay có thể nói đúng hơn chưa nhập cuộc hoàn
toàn... Có một đôi cái gì do hoàn cảnh nào đó chưa nở rộ hẳn ra đón chúng ta. Thời
bao cấp bảo gì thì bảo mà bảo nhà văn chưa nhập cuộc thì... thôi rồi! Chừng ấy
của cả đời thơ Nguyễn Xuân Sanh mà bảo chưa nhập cuộc được chăng?
Nhận xét của Tế Hanh chỉ nên dành cho một số bài thơ đã thuộc
về dĩ vãng như Trong sương đêm (1947), Ghi câu chuyện nhỏ (1948), Rừng
vui (1949). Từ siêu thực trầm mặc thơ và đạo kết liền nhau đến con đường
thơ phản ánh hiện thực là một sự quặn đau dữ dội để phục sinh không dễ dàng
chút nào. Dường như đó là con đường chung của nhiều nhà thơ có thành tựu trong
phong trào Thơ Mới đi theo Cách mạng, kể cả những thi tài như Huy Cận, Chế Lan
Viên. Họ phải mất hàng chục năm để phục sinh. Cả hai người ấy, nhất là với Chế
Lan Viên, đến lúc phục sinh thì lập tức nở rộ. Như cuộc diễu hành chiến thắng của
nhiều tập thơ hay. Nguyễn Xuân Sanh không có được cái may mắn ấy. Chặng đường
phục sinh của thơ ông dài đằng đẵng đến hết thế kỷ 20. Thơ ông không chín lại
theo mùa như các bạn thơ cùng thời mà chín từng bài. Đôi khi từng câu một. Đôi
khi khoảng cách giữa sự chín ấy lại thật là dài…
Bao nhiêu tình ý của một cuộc đời. Nhưng tôi nhận thấy hễ khi
nào Nguyễn Xuân Sanh viết về hoài niệm, về kỷ niệm đã qua, thường có được những
câu thơ hay nhất. Và số đó cũng không phải là nhiều, nếu không muốn nói là ít ỏi
của lao động vất vả một đời người. Dòng thơ về hoài niệm, kỷ niệm đựng nhiều
thơm thảo nhất trong thế giới thơ Nguyễn Xuân Sanh.
Đó là hoài niệm về biển miền Trung sóng vỗ bạc đầu, rạt rào nỗi
nhớ quê hương, nghe như bức tranh thiên nhiên đã để lại lâu lắm rồi bên trời
Thu.
Mũi Én như bàn tay hứng trăng
Trút ánh đêm Thu bãi cát bằng
Sóng vỗ bạc đầu quanh mỏm đá
Rạt rào nghe rõ tiếng đêm chăng?
Nhớ biển 2-1961.
Đó là cảnh mùa xuân bâng khuâng ở chùa Hương Tích.
Xuân chưa về, núi chưa mưa
Nhưng bên ta khắp rừng mơ nở rồi.
Trước xuân thăm chùa Hương Tích 12-1962.
Đó là kỷ niệm trên Nậm Tà Lê ở Trường Sơn. Rừng, sông, núi
như nói hộ lòng người ra trận mà vằng vặc nỗi niềm với đất nước quê hương.
Tôi cầm dăm cánh lá bay
Thả xuôi con nước rừng ngây ngất chiều
Con sông vằng vặc nhìn ai
Nhìn khuya ngọn núi, nhìn mai con đường.
Đó là ngọn đồi Mái Nhà ở miền Trung nơi con trai nhà thơ đã
ngã xuống thời chiến tranh. Khi hòa bình ông đến đây chỉ gặp được gió không gặp
được người.
Đá hiện lên gương đồi xanh
Nghe như ngan ngát hương lành cỏ tơ
Ta đi cho đến bao giờ
Mà trời cứ mở gió trưa, gió chiều
Thăm ngọn đồi nơi con từng chiến đấu 6/1/1976.
Đó là trở lại đường cũ tuổi thơ ở thành phố biển Quy Nhơn khi
ông đã về già, những kỷ niệm của đời người tưởng đã rất xa mà lại sẫm màu
hiện tại.
Về đây cả một cuộc đời
Tim ta tìm lại bồi hồi ngõ đêm
Trên kí ức một hiên thềm
Biển vui thở sóng dãy đèn ngã tư
Thăm đường cũ ngày tuổi nhỏ, quãng sau 1980.
Nguyễn Xuân Sanh còn nổi tiếng là một dịch giả thơ có uy tín.
Cùng với Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Đào Xuân Quý... Một thế
hệ vàng trong việc chuyển ngữ từ tiếng Pháp sang tiếng Việt thơ của các nhà thơ
nổi tiếng cả ở 5 châu lục, nhất là các nhà thơ phương Tây. Heinrich Heiner,
G.Apollinaire, Paul Éluard, Adam Mikiewicz, Petofi Sándor... Hai trăm bài thơ dịch
của Nguyễn Xuân Sanh góp phần vào việc xây dựng nền tảng cho văn học dịch ở
lĩnh vực thơ ca. Ông dịch thơ tây mà bình di dễ hiểu. Nhớ mãi cảnh mùa thu thân
thuộc chẳng khác gì làng quê Việt Nam trong thơ Apollinaire, khi người nông dân
dắt bò đi trong sương mù buổi sớm, nó che nỗi thẹn thùng của thôn xóm nhỏ. Người
nông dân vừa bước đi vừa ngâm nga bài ca về tình yêu và lòng bội bạc để kết
thúc bằng một câu cảm thán. Ôi! mùa thu đã giết chết mùa hè. Giữa sương mù
hai bóng xám ra đi.
Nghề làm văn, làm thơ là nghề của ân tình. Nếu không thế thì
làm để làm gì nữa. Tôi biết Nguyễn Xuân Sanh là nhờ học thuộc lòng bài
thơ Vườn dừa của ông trong sách tập đọc lớp 4 hồi năm 1960. Khi vào đại
học năm 1968 biết thêm Buồn xưa. Một trong số ít bài thơ được nhớ vì
quá đặc biệt, không giống một ai. Thơ đã đành rằng quý một đằng vì hồn người ở
đấy. Nhưng khi tuổi càng già đi với bao trải nghiệm nhiều khi đắng cay ở cuộc đời
này thì càng quý trọng tình người, tình đời, tình bạn bè... Càng yêu quý và
trân trọng, đồng cảm với Nguyễn Xuân Sanh. Ông quê gốc ở Quảng Bình nhưng sinh
ra ở Đà Lạt. Thời đầu những năm 1930, Cụ thân sinh làm thừa phái ở Quy Nhơn. Vì
vậy Nguyễn Xuân Sanh học ở trường Quốc học Quy Nhơn. Trường có thầy Tú Thọ,
thân phụ nhà thơ Xuân Diệu. Thầy Tú dạy chữ nho vào thứ 5 hàng tuần. Xuân Diệu
cũng học ở trường đó trước Nguyễn Xuân Sanh mấy năm. Tình bạn giữa Chế Lan Viên
và Nguyễn Xuân Sanh thật cảm động. Trong thư Chế Lan Viên gửi ông ngày
20-4-1988 có viết: "Sanh à, mình có về Bình Định, tìm ra cái nền nhà
mình, tức là nhà Sanh bên cạnh". Nguyễn Xuân Sanh và Chế Lan Viên khi ở
Quy Nhơn cũng như khi về nhà bố mẹ ở sát bên nhau, ngoài cửa đông thành cổ Bình
Định, thị trấn An Nhơn, thường nói chuyện với nhau về Hàn Mạc Tử. Nhớ lại việc
in Điêu Tàn, hồi 1957, Chế Lan Viên viết. Hồi đó Sanh đứng ra xem in Điêu
Tàn, và lo cho cả việc đòi nợ của Thái... Thất Lang Nam kỳ bây giờ. Sanh có nhớ
bữa hai đứa đi đòi được 20 đồng, Sanh dẫn Hoan đi may brique?.
Năm 1937, Chế Lan Viên gửi Điêu Tàn từ Quy Nhơn ra Hà Nội cho
Nguyễn Xuân Sanh. Một buổi chiều, Xuân Sanh liều mạng xông bừa vào nhà in Thụy
Ký ở phố Hàng Gai. Vì cái liều ấy mà được nhận in Điêu Tàn với giá 50đ. Nguyễn
Xuân Sanh đã lo sốt vó vì số tiền thật là quá to. Xuân Diệu nhận sắp xếp lại trật
tự các bài thơ trong Điêu Tàn. In xong, Xuân Sanh gói ghém Điêu Tàn gửi vào Quy
Nhơn cho Chế Lan Viên để phát hành ở trong Nam, còn ông tự đi phát hành ngoài
Hà Nội để có tiền trả cho Thụy Ký. Điêu Tàn, một trong những tập thơ nổi tiếng
nhất thế kỷ 20 đã bước ra cuộc đời một phần nhờ tình bạn như vậy đấy.
Huy Cận trong Hồi ký song đôi có kể một kỷ niệm
đáng nhớ của ông và Xuân Sanh, khi họ mới chập chững bước vào nghề văn. Hồi mùa
hè 1936, Huy Cận có mấy bài bình văn được đăng báo Sông Hương do Phan Khôi làm
chủ bút, Hoài Thanh làm biên tập. Xuân Sanh khuyên Huy Cận đến thăm tòa báo.
Vào một buổi chiều, hai người tìm đến trụ sở báo ở phố Gia Hội. Hoài Thanh tiếp
họ. Nói chuyện văn học hợp gu lắm. Cả hai người rào trước đón sau quanh co mãi
rồi cũng hé ra cái chủ ý muốn tiền nhuận bút. Nhưng cả hai ông phải về tay
không, vì những bài của Cận chỉ là những bài lai cảo không được trả tiền.
Cuối tháng 5-2019, tôi đi tìm gặp Nguyễn Xuân Sanh, với cái
vinh hạnh một kẻ hậu thế được trực tiếp kiến diện người cuối cùng của phong
trào Thơ Mới. Nguyễn Xuân Sanh mấy năm nay về nương tựa tại nhà con gái ông ở
phường Khương Trung, đường Tô Vĩnh Diện. Tôi đã xem nhiều sách của các cụ nhà
ta ngày xưa cũng như các học giả thời hiện đại về kinh thành Thăng Long thấy rất
ít nói về làng Khương lắm! Khương Hạ, Khương Trung, Khương Thượng xưa là đất trồng
rau, đặc biệt là trồng gừng để phục vụ cho việc làm thuốc trong Hoàng Thành. Ở
đây có cả một xóm người Chăm theo quan quân triều đình ra đây lập nghiệp từ hồi
thế kỷ 13, 14. Sau này thời thực dân, phát sinh một số gia đình làng Khương làm
nghề thợ nguội ở trên phố hàng Thiếc... Cư dân cả 3 làng đều là tầng lớp bình
dân cả. Khác với bên kia sông Tô Lịch - bên làng Mọc, làng Quan Nhân... toàn là
đất học và đất làm quan. Có nhiều danh sỹ người gốc vùng đấy... Trong cuốn Hà Nội
Chỉ Nam có phụ đề bằng tiếng Pháp Guide de Hanoi được Nghiêm Hàm ấn quán in
1923 thì nếu đi xe điện từ Bờ Hồ qua Hàng Gai, Hàng Bông rồi Thái Hà ấp (sào quật
của các cô đào) đến Ngã Tư Sở vào Hà Đông cả hai đường giá vé hạng ngồi đệm da
người lớn 7 xu, trẻ con 3 xu. Đến Ngã Tư Sở xuống tàu đi bộ vào Khương Trung.
Còn nếu đi xe ngựa cao xu thì phải thuê nửa ngày tại tiệm Maison Tricolore ở 46
Hàng Lọng hết 6 đồng bạc Đông Dương. Xa xôi quá. Tôi làm một tour taxi đến đường
Tô Vĩnh Diện thì dừng lại xuống xe đi bộ. Đoạn đường không phải thật là dài.
Nhưng cũng đủ để tôi ôn lại đường đời đường thơ qua một thế kỷ mà gió mưa đã đưa chàng hoàng tử trong Buồn xưa đến cư ngụ tại nơi xa xôi và hẻo lánh nhất của kinh thành xưa. Tôi đã đi theo chàng qua nhiều địa chỉ ở cuối bài thơ. Đà Lạt. Quy Nhơn. Huế. Hà Nội. Vùng than Quảng Ninh. Việt Bắc. Bungari. Rumani. Paris. Mascơva. Bắc Kinh... và sáng hôm nay tôi đi tiếp đoạn đường có lẽ là đoạn đường cuối cùng của chàng. Đời người ta sao phiêu diêu thế nhỉ? Đến nhà rồi. Đó là một tòa nhà hai tầng. Vẻ bề ngoài nhỏ mà yên tĩnh và thanh lịch. Ở tầng trệt hình thành 5 không gian sống không có vách ngăn đầy đủ. Bước vào nơi để xe đạp, xe máy và giày dép. Tiếp theo bên trái là nơi đặt 4 chiếc ghế giả da đã cũ dùng để tiếp khách. Một bên là tường. Một bên dựa vào chiếc tủ đứng bằng ván công nghiệp. Trong khung kính phía trên tủ có đặt ảnh chân dung của Vũ Tú Nam và Nguyễn Xuân Sanh. Đằng sau cái tủ ấy rộng chừng hơn 1m bề ngang đủ kê một chiếc giường và bàn làm việc cho nhà văn Nguyễn Cẩm Thạnh. Sinh 1927. Phu nhân của nhà thơ. May mắn diện tích nhỏ này có 1 khung cửa sổ đón ánh sáng từ bên ngoài vào. Tôi xin phép chị Nguyễn Thị Việt Triều, người con gái hiếu thảo thay mặt cả gia đình chăm sóc nhà thơ và vợ ông lúc cuối đời, cho tôi được vào kiến diện ông. Đi qua một khu bếp nhỏ chừng vài m2 nhiều đồ đạc bước vào ngăn thứ 5 với một khoảng sân trời nhỏ để đón ánh sáng tự nhiên. Kế đến là diện tích vừa đủ đặt chiếc giường. Màn buông kín và có nhiều cặp nhựa nhỏ kẹp theo mép đỉnh màn. Trong màn là một cụ già đầu tròn, tóc cắt sát da đầu, mắt nhắm, phía trên một góc màn là dây tiếp thuốc. Có một dây đưa thẳng vào bụng để truyền thức ăn. Tự dưng tôi ứa nước mắt. Đó là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh - chàng hoàng tử của Buồn xưa, người tôi đã thấy đẹp trai, hào hoa phong nhã trong những bức ảnh hồi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc và những năm sau hòa bình của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Im lặng choán chỗ không gian sống. Tôi không nhớ khi ngồi ở chỗ ghế khách bên ngoài hay ở đây, hay ở ngoài ngõ vắng 102, tôi đã đọc thật to: Em nhớ trái dừa tròn, Của quê em Bình Định, Lấy ngón tay em tính, Ngày trở lại vườn dừa. Mắt nhà thơ đương nhắm nghiền chợt mở ra ở phía bên trái. Tôi đọc tiếp thật to: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà bật ra từ vô thức. Tôi như thấy khóe miệng của người trăm tuổi ấy nở ra một nụ cười khô héo mà thật phong nhã, kiêu sa. Vâng! Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Và trong góc chật hẹp của gian phòng nhỏ bé này như vang lên khúc Dạo chơi của Paul Éluard qua lời của người đang im lặng nằm bất động trong cái màn mà đỉnh của nó đính đầy kẹp nhựa định mệnh kia.
Nhưng cũng đủ để tôi ôn lại đường đời đường thơ qua một thế kỷ mà gió mưa đã đưa chàng hoàng tử trong Buồn xưa đến cư ngụ tại nơi xa xôi và hẻo lánh nhất của kinh thành xưa. Tôi đã đi theo chàng qua nhiều địa chỉ ở cuối bài thơ. Đà Lạt. Quy Nhơn. Huế. Hà Nội. Vùng than Quảng Ninh. Việt Bắc. Bungari. Rumani. Paris. Mascơva. Bắc Kinh... và sáng hôm nay tôi đi tiếp đoạn đường có lẽ là đoạn đường cuối cùng của chàng. Đời người ta sao phiêu diêu thế nhỉ? Đến nhà rồi. Đó là một tòa nhà hai tầng. Vẻ bề ngoài nhỏ mà yên tĩnh và thanh lịch. Ở tầng trệt hình thành 5 không gian sống không có vách ngăn đầy đủ. Bước vào nơi để xe đạp, xe máy và giày dép. Tiếp theo bên trái là nơi đặt 4 chiếc ghế giả da đã cũ dùng để tiếp khách. Một bên là tường. Một bên dựa vào chiếc tủ đứng bằng ván công nghiệp. Trong khung kính phía trên tủ có đặt ảnh chân dung của Vũ Tú Nam và Nguyễn Xuân Sanh. Đằng sau cái tủ ấy rộng chừng hơn 1m bề ngang đủ kê một chiếc giường và bàn làm việc cho nhà văn Nguyễn Cẩm Thạnh. Sinh 1927. Phu nhân của nhà thơ. May mắn diện tích nhỏ này có 1 khung cửa sổ đón ánh sáng từ bên ngoài vào. Tôi xin phép chị Nguyễn Thị Việt Triều, người con gái hiếu thảo thay mặt cả gia đình chăm sóc nhà thơ và vợ ông lúc cuối đời, cho tôi được vào kiến diện ông. Đi qua một khu bếp nhỏ chừng vài m2 nhiều đồ đạc bước vào ngăn thứ 5 với một khoảng sân trời nhỏ để đón ánh sáng tự nhiên. Kế đến là diện tích vừa đủ đặt chiếc giường. Màn buông kín và có nhiều cặp nhựa nhỏ kẹp theo mép đỉnh màn. Trong màn là một cụ già đầu tròn, tóc cắt sát da đầu, mắt nhắm, phía trên một góc màn là dây tiếp thuốc. Có một dây đưa thẳng vào bụng để truyền thức ăn. Tự dưng tôi ứa nước mắt. Đó là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh - chàng hoàng tử của Buồn xưa, người tôi đã thấy đẹp trai, hào hoa phong nhã trong những bức ảnh hồi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc và những năm sau hòa bình của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Im lặng choán chỗ không gian sống. Tôi không nhớ khi ngồi ở chỗ ghế khách bên ngoài hay ở đây, hay ở ngoài ngõ vắng 102, tôi đã đọc thật to: Em nhớ trái dừa tròn, Của quê em Bình Định, Lấy ngón tay em tính, Ngày trở lại vườn dừa. Mắt nhà thơ đương nhắm nghiền chợt mở ra ở phía bên trái. Tôi đọc tiếp thật to: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà bật ra từ vô thức. Tôi như thấy khóe miệng của người trăm tuổi ấy nở ra một nụ cười khô héo mà thật phong nhã, kiêu sa. Vâng! Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Và trong góc chật hẹp của gian phòng nhỏ bé này như vang lên khúc Dạo chơi của Paul Éluard qua lời của người đang im lặng nằm bất động trong cái màn mà đỉnh của nó đính đầy kẹp nhựa định mệnh kia.
Bé hơn một quốc gia
Nhưng đất rộng vô song
Đất thuộc về tôi nơi đây và nơi đó
Ở bất cứ nơi đâu khác nữa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét