Lý luận văn học Thơ mới
và sự bùng nổ của cái tôi
Trong giai đoạn “gió Âu mưa Mỹ” tràn vào nước ta, “người thanh niên Việt
Nam đang đi tìm thi nhân của mình như con đi tìm mẹ” (Lưu Trọng Lư). Và lẽ
dĩ nhiên, “Phương Tây đã giúp chúng ta phát hiện ra mình” nhưng đó là
sự phát hiện ra mình trên mảnh đất giàu tiềm năng và bề dày trầm tích văn hóa.
Vì vậy, Thơ mới là “một bước tổng hợp mới những giá trị văn hóa Đông Tây,
truyền thống và hiện đại” (Phan Cự Đệ). Có thể nói như nhà thơ Huy Cận: “Thơ
mới là nỗi niềm, thái độ, là một cuộc ra trận của cả một thế hệ văn chương, một
lực lượng trẻ văn hóa dân tộc quyết đổi mới cả một nền văn thơ, văn chương đã mỏi
mòn, khô cứng, bạc màu”. Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng, thay đổi cả hệ thống
thi pháp. Cuộc cách mạng trong Thơ mới gắn với quá trình giải phóng cái tôi cá
nhân khỏi những ràng buộc của con người phận vị, “con người chức năng
trong xã hội luân thường” (Trần Đình Hượu). Thơ mới là sản phẩm của “khát
vọng thành thật” (Hoài Thanh), đưa cái tôi cá nhân vào trung tâm của thơ
ca, cho phép biểu đạt mọi cung bậc của cảm xúc và suy tưởng.Thơ ca bao giờ cũng
là dấu ấn sáng tạo của người cầm bút, thể hiện bản ngã, cái tôi.
Từ thời trung đại, Hồ Xuân Hương đã cá tính sắc nhọn trong từng lời thơ và tự
xưng tên trong thơ “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới
quệt rồi” (Mời trầu). Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện rõ bản ngã của cái tôi tài tử.
Thế nhưng, cái tôi trong thơ trung đại hầu hết hòa trong cái ta chung. Thơ ca
trung đại đề cao tính vô ngã. Phải đến Thơ mới, cái tôi mới được nhận thức và
thể hiện như là trung tâm của thơ ca. Phương Tây đã đi một quãng đường khá xa
trong sự khẳng định cái tôi cá nhân. Thế nhưng ở nước ta, cùng những yếu tố nội
sinh cộng với sự tiếp biến văn học phương Tây, cái tôi mới được tìm thấy và nở
rộ trong thơ. Cái tôi đó được thai nghén cả nghìn năm trong thơ ca trung đại, đến
đầu thế kỷ XX mới trở dạ và thể hiện đậm nét trong dòng Thơ mới.
Có thể
nói, thơ ca hướng vào thể hiện cái tôi chính là con đường đưa thơ trở về với bản
ngã của chính nó. Thơ mới khám phá cái tôi với tư cách là chủ thể nhận thức và
là đối tượng phản ánh của thi ca. Với tư cách là chủ thể nhận thức, cái tôi
cùng hệ thống quan niệm thẩm mĩ mới mang dấu ấn của những tìm kiếm mới, sáng tạo
mới, phong cách mới mà văn học mấy thế kỷ qua chưa đạt tới được. Cái tôi ấy
không chỉ bó hẹp thơ ca trong mục đích tải đạo, nói chí, giáo huấn mà là chủ thể
sáng tạo mang cá tính riêng, phong cách riêng với nhu cầu tự khẳng định mình.
Cái tôi cũng là đối tượng phản ánh của thi ca với tất cả sự phong phú, hấp dẫn,
phức tạp của nó. Với nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân, cá thể, các nhà thơ Mới
đã “đồng loạt cất lên bản hòa tấu tuyệt đẹp với những âm thanh mới lạ, tân
kỳ chưa từng có trước đó” (GS. Hồ Thế Hà).
Thơ mới về cơ bản hoàn toàn đối lập với thơ cũ, như Lưu Trọng Lư đã nói một
cách hình tượng “Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa những màu xanh
nhạt. Các cụ bâng khuâng vì những tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng
gà gáy đúng Ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một
điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái
tình của các cụ chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng:
cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái
tình giây phút, cái tình nghìn thu”.
Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng thi ca, từ nghệ thuật biểu hiện đến nội dung,
tư tưởng. Thơ mới đã đưa thơ ca nước ta tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa.
Con người cá nhân, cá thể xuất hiện trong Thơ mới là con người trực tiếp đối diện
với thế giới và đối diện với chính mình, là con người đã rũ bỏ gánh nặng của
nhà luân lý với thơ và bằng thơ, là con người hoàn toàn tồn tại với tư cách là
một cái tôi mang cảm xúc cá thể. Xuân Diệu trong lời tựa “Gửi hương cho
gió” đã từng nhận mình "Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ
hót chơi…”. Chế Lan Viên cũng bộc lộ “Thi sĩ không phải là Người. Nó là
Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó
thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai”. Còn Hàn Mặc Tử thì
viết: "Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo. Trên đầu Người là
cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ
bởi trăm giây quyến luyến - làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai. Gió phương mô
đẩy đưa Người đến bến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc... Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng...
Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những
gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật".
Mỗi nhà thơ với cá tính
sáng tạo riêng đã bộc lộ cái tôi không giống nhau. Và có lẽ, chưa bao giờ như
bây giờ, thơ ca đạt đến độ chín của nhiều phong cách, nhiều cái Tôi cá nhân, cá
thể trong tư cách là chủ thể sáng tạo như thế. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định “Tôi
quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca
Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở
như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế
Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Khám phá vườn Thơ mới, ta có thể nhận ra hương sắc riêng của từng phong cách.
Và cũng từ những vần thơ mang dấu ấn chủ thể sáng tạo ấy, cái Tôi phức tạp
nhưng đầy hấp dẫn đã đi vào trung tâm thơ ca với đầy đủ ý nghĩa nhân bản. Đó là
một Thế Lữ như "người khách đi qua trần thế" thoát ly để đi
tìm cái đẹp “Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể”, mộng
mơ trong chốn bồng lai tiên cảnh với tiên nga, ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc
trắng hoa đào. Đó là một Xuân Diệu tự xem mình “Ta là Một, là Riêng, là Thứ
nhất” luôn băn khoăn, rạo rực trong tình yêu với nỗi phấp phỏng muốn chiếm lĩnh
thời gian: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi, tình non sắp già rồi”;
“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”.Đó là một
Huy Cận với cái tôi mang nỗi “sầu vạn kỷ” nơi quán chật đèo cao, sông dài trời
rộng “Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu”. Đó là một Chế Lan Viên với
cái tôi tiếc thương quá khứ, lạc trong thế giới điêu tàn siêu hình, thần bí,
băn khoăn nghi nghờ bản thể “Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta/ Ý của ai trào lên
trong đáy óc”. Dường như trước sự biến suy của xã hội cùng ảnh hưởng văn hóa
Tây phương, cái tôi trong Thơ mới bấy lâu dồn nét chợt vỡ òa. Cái tôi đó vừa là
sản phẩm, vừa là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà Thơ mới đều có ý thức khẳng
định mình như một thực thể duy nhất không lặp lại. Hướng đến khám phá và thể hiện
cái tôi cá nhân, cá thể, Thơ mới mang lại cho thơ Việt sự thanh tân, tươi mới,
một lối thơ hiện đại, đoạn tuyệt với thơ ca trung đại gò bó, khuôn thước.
Cái tôi cá nhân, cá thể bùng nổ
trong thơ làm đảo lộn mọi quan niệm. Quan niệm thẩm mỹ thay đổi, nội dung tư tưởng
đổi khác và chúng hiện lên trong bộ cánh hình thức cũng mới mẻ vô cùng. Không
còn là thơ để tải đạo, để nói chí, thơ ca bây giờ bám rễ vào cuộc đời trần thế
với tất cả niềm vui, nỗi buồn, sự đam mê, cô đơn, hoài nghi, chán nản… Đến với
thơ Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đó cái tôi bộc lộ đầy đủ, trọn vẹn, cá tính trong
khát khao tình yêu, lồ lộ đam mê mãnh liệt “Làm sao sống được mà không yêu/
Không nhớ không thương một kẻ nào”. Con người ấy nồng nhiệt, tha thiết sống, sống
hối hả, sống cuống quýt, muốn là dây “quấn quýt lấy mình xuân”, muốn “chân hóa
rễ để hút màu dưới đất” nhưng cũng không tránh khỏi nỗi cô đơn “Em là em, anh vẫn
là anh/ Có lẽ nào qua Vạn Lý trường thành/ Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” và cả
sự bế tắc trước cuộc đời “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu
đứng sầu bóng tối”. Thơ Hàn Mặc Tử lại đưa ta khám phá “một nguồn thơ rào rạt
và lạ lùng", “rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh..."
(Hoài Thanh) và bắt gặp một cái tôi mê dại, não nề đến rên xiết, cô độc đến trống
rỗng, khát thèm đến đê mê trong thú đau thương. Cái tôi ấy đắm mình trong ngổn
ngang nỗi niềm day diết quặn đau; xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là
người tình tri kỉ. Hàn Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái tôi phân
thân, trao phận vào cõi hư vô ắp đầy ám gợi: “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/
Cho ngây người mê dại đến tâm can” (Rướm máu).
Nếu trong thơ truyền
thống, con người bé nhỏ, tan biến trong vũ trụ, hoặc con người hướng tới cái
thiêng liêng, cái siêu việt thì trong Thơ mới, cái tôi được giải phóng, con người
cá nhân được ý thức và khẳng định như là trung tâm của vũ trụ. Thơ mới khả năng
diễn đạt những rung cảm tinh tế của cái Tôi cá nhân cá thể, tạo nên sự cách tân
đáng kể so với thơ cũ.
Cùng với đó, quan niệm thẩm mỹ cũng đổi khác. Nếu thơ xưa xem
thiên nhiên là chuẩn mực cái đẹp thì trong Thơ mới, con người mới là vẻ đẹp
toàn bích. Vì vậy, Xuân Diệu - “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài
Thanh) khi miêu tả thiên nhiên luôn lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực: “Lá liễu
dài như một nét mi”, “Mây đa tình như thi sĩ thời xưa”, “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”…Còn với Huy cận, thiên nhiên là bức tranh mang hồn quê, hồn nước,
đẹp mà buồn: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô
liêu” (Tràng giang). Với Hàn Mặc Tử, thiên nhiên là hiện thân xác thịt, là người
thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ của trái cấm: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu/
Đợi gió đông về để lả lơi… Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng
dưới đáy khe...” (Bẽn lẽn).
Thơ mới biểu hiện một cuộc
cách mạng của tư duy thơ: đặt cái tôi cá nhân ở trung tâm cảm thụ thế giới.
Trong Thơ mới, có một sự giao hòa giữa thế giới nội cảm (cảm xúc, cảm giác, tâm
trạng) của chủ thể trữ tình với thế giới ngoại cảnh, có sự nới rộng những biên
độ của sự cảm thụ thế giới bằng việc kết hợp các giác quan một cách kỳ lạ.
Thiên nhiên trong thơ mới là một thứ thiên nhiên rạo rực những cảm giác của con
người: “Vườn cười bằng bướm hót bằng chim/ Dưới nhánh không còn một chút đêm/
Những tiếng tung hô bằng ánh sáng/ Ca đời hưng phục trẻ trung thêm” (Lạc quan -
Xuân Diệu). Có khi nội cảm hóa ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh nhuốm màu cảm xúc
con người: “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi.../ Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu/ Sợi buồn con nhện giăng mau/ Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây” (Ngậm ngùi -
Huy Cận). Có khi ngoại cảnh hóa tâm hồn “Đây chùm thương nhớ, khóm yêu đương/
Đây em cành thẹn lẫn cành thương” (Xuân Diệu). Con người trong quan niệm của
các nhà Thơ mới là con người trần thế. Từ đó, không gian và thời gian nghệ thuật
trong Thơ mới là tính chất, hằng số tâm lý - xã hội của con người cá
nhân, cá thể.
Có thể nói, mọi
phương diện thi pháp trong Thơ mới đã hoàn toàn thoát ly thơ cũ. Tất cả chịu sự
chi phối của cái Tôi cá nhân, cá thể. Trong khu vườn Thơ mới, mỗi cái Tôi mang
một hương sắc riêng, tạo nên một thế giới thơ đa dạng, phong phú về phong cách.
Sự bùng nổ cái Tôi đã đưa thơ vươn tới bao giá trị mới chưa từng có trước đó.
2. Thơ mới - Sự bùng nổ của ngôn từ:
Thơ mới không chỉ là
sự nở rộ cái tôi cá nhân, cá thể mà còn đánh dấu sự bùng nổ ngôn từ trên con đường
hiện đại hóa thơ ca. Nhà thơ Huy Cận đã từng cho rằng: “Thơ mới tạo ra ngôn từ
mới để biểu hiện cảm xúc mới. Tiếng Việt trẻ lại với thơ. Sự đóng góp của Thơ mới
về ngôn ngữ là rất lớn… Tiếng Việt đến thời Thơ mới đã đổi thịt thay da một lần
nữa”. Có thể thấy, nếu thơ ca trung đại gò bó, ước lệ, khuôn sáo, ưa thích điển
tích, điển cố trong câu chữ thì đến Thơ mới, ngôn ngữ đã tươi mới, phong phú,
giàu phép tu từ và khả năng biểu cảm, vừa hàm ẩn, súc tích vừa trong sáng mà
sang trọng, quý phái, vừa giàu nhạc tính vừa mang tính tương hợp cao, vừa có
ngôn từ tượng trưng, siêu thực vừa có ngôn từ huyền ảo kinh dị.
Trải qua cả chục thế
kỷ nhưng chưa bao giờ, ngôn từ thơ lại phong phú, hấp dẫn và ngồn ngộn sức sống
đến vậy. Cái tôi thi nhân Thơ mới đã tạo ra những bước đi liên tục của ngôn ngữ
thơ, đưa ngôn ngữ thơ từ "điệu ngâm sang điệu nói" (Trần Đình Sử), từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo Phan Ngọc thống kê thì
trong 1000 bài thơ Đường luật, tức là tổng cộng 56.000 từ nhưng các nhà thơ
trung đại chỉ sử dụng có 300 từ và hoán đổi chúng trong các bài thơ. Điều đó
cho thấy sự nghèo nàn, khô cứng, sự lặp lại đơn điệu của ngôn ngữ thơ ca trung
đại. Thế nhưng, khi các nhà Thơ mới đặt cái Tôi ở trung tâm, đưa thơ về với cuộc
sống trần thế trong “khát vọng thành thật” thì lối thơ mang nặng tính ước lệ,
vay mượn ngôn từ, điển tích đã không đủ sức chứa nổi muôn hình vạn trạng cảm
xúc thi nhân.
Vì vậy, đến Thơ mới,
thơ Việt đã làm cuộc ly thân hẳn ngữ liệu cũ, ước lệ xưa. Các tác giả đã có
nhãn quan mới, giọng điệu mới làm thay đổi ngôn ngữ thơ: giai đoạn này bắt đầu
xuất hiện các câu thơ định nghĩa, câu thơ giãi bày với những hô ngữ, thán từ,
cách nói bằng các con số và có thêm sự góp mặt của ngôn ngữ văn xuôi, giá trị
biểu đạt tinh tế được tăng cường. Có sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ nhưng vẫn
mang trong nó những tình ý mới. Con đường kiếm tìm cái tôi cá nhân ấy đã phân
hóa ngôn ngữ thơ theo nhiều hướng, đẩy thơ bước vào địa hạt tượng trưng, siêu
thực, mang màu sắc chủ nghĩa hiện đại. Thơ được giải phóng triệt để khỏi các
phép tắc, thanh vận chặt chẽ của các thể loại thơ truyền thống, thơ tự do bắt đầu
xuất hiện với số lượng các câu thơ không còn bị giới hạn. Đặc biệt, ngôn ngữ
bình thường trong đời sống hàng ngày đã được nâng lên thành ngôn từ nghệ thuật
trong thơ, không còn bị câu thúc bởi việc sử dụng các điển cố văn học. Ngôn ngữ
thơ phong phú, đầy năng lượng và biến hóa trong từng phong cách. Sau bao năm
thơ ca trung đại sử dụng ngôn từ “như những viên gạch để lắp vào bộ khung cố định
của luật thơ” (Trần Đình Sử) thì với Thơ mới, ngôn từ bùng nổ và trở nên phong
phú, mới lạ hơn bao giờ hết.
Với ý thức khẳng định mình
của cái tôi trong Thơ mới, ngôn ngữ Thơ mới có sự xuất hiện đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất (ở thơ cũ hiếm thấy) nhằm khẳng định một cách rõ ràng, dứt khoát
tư tưởng, tình cảm của cái tôi trữ tình. Cùng với điều đó, Thơ mới xuất hiện những
câu thơ định nghĩa, giai đoạn đầu có nhiều ở thơ Thế Lữ: “Tôi là người bộ hành
phiêu lãng”, “Tôi chỉ là một khách tình si”. Từ 1936, Thơ mới đi sâu hơn vào
cái tôi, những câu thơ định nghĩa xuất hiện nhiều ở Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Với
những câu thơ định nghĩa như thế, cái tôi nhà thơ được khẳng định rõ ràng, dứt
khoát hơn.
Nếu Thơ cũ chủ yếu dùng “ý tại ngôn ngoại” thì Thơ mới là thơ
hướng nội. Đó là thơ của cái tôi nội cảm hướng đến thể hiện cảm giác, trình bày
các trạng thái tình cảm, nên thế giới ngôn ngữ Thơ mới đầy ắp những hô ngữ,
thán ngữ, lời than, lời kể. Ví như tiếng thơ Chế Lan Viên ngỡ ngàng trước bước
đi của thời gian “Chao ôi, Thu đã đến rồi sao/ Thu trước vừa qua, mới độ nào”
hay lời than não nề của Hàn Mặc Tử “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ Bao giờ tôi hết
được yêu vì”.
Những yếu tố giao tiếp như
hô ngữ, thán ngữ, lời than, lời kể… bước vào thơ một cách tự nhiên làm cho ngôn
ngữ sống động, tươi nguyên.
Từ thơ trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu nói, ngôn ngữ
thơ tiếng Việt đã làm cuộc chuyển hóa nhanh chóng từ thi pháp trung đại sang hiện
đại. Số từ vựng càng giàu có, cách diễn đạt càng tự nhiên, càng chuyên chở đầy
đủ, tinh tế những cảm xúc phong phú, đa dạng, đa cung bậc của cái tôi trữ tình.
Sử dụng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán Nôm, Thơ mới ít dùng từ Hán Việt. Thơ mới
cũng khai thác nhiều giá trị các biện pháp tu từ, tạo cho ngôn ngữ thơ giàu sắc
thái biểu cảm, hình tượng và cảm xúc. Từ đó, nó mở ra những kết hợp mới mẻ, táo
bạo, làm giàu vốn từ tiếng Việt, cung cấp nhiều lượng thông tin mới cho từ
trong hoạt động ngữ nghĩa.
Trong thơ Nguyễn
Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng
mới xuất hiện nhiều. Đó là những cách dùng từ rất lạ như “Chị ơi, em cưới mùa
xuân nhé; - Nằm mãi mà xem cái nhỡ nhàng” trong thơ Nguyễn Bính, “Hơn một loài
hoa đã rụng cành”, “Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim”, “Đây chùm mong nhớ,
khóm yêu thương” trong thơ Xuân Diệu, “Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời”,
“Dưới trời huyết, tháp chàm buồn tư lự” trong thơ Chế Lan Viên hay “Tôi vo nhớ
tiếc như vo lụa, Tôi riết thời gian trong nắm tay” trong thơ Hàn Mặc Tử. Có những
từ vốn không xa lạ bước vào Thơ mới cũng như thoát xác đầy ý vị mới mẻ. Khi
Xuân Diệu viết "Chiều góa không em lạnh lẽo sao" thì từ
"góa" gợi nhiều liên tưởng nghĩa mới, không chỉ gợi sự thiếu vắng mà
cả trống vắng, đơn chiếc. Hay thơ Nguyễn Bính vẫn là hình ảnh quen thuộc của ca
dao nhưng mang một sinh khí mới mẻ, đầy tính hiện đại trong sự đồng nhất cái
tôi nhà thơ với thiên nhiên tạo vật: “Lợn không nuôi đặc ao bèo/ Giầu không dây
chẳng buồn leo vào giàn/ Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian
nắng chiều”.
Không chỉ mới mẻ trong từ ngữ và
cách diễn đạt, hàm súc, cô đọng ý tình mà ngôn từ Thơ mới rất giàu tính nhạc. Bằng
cách phối hợp thanh điệu, kết hợp nguyên âm cao và phụ âm vang cùng nhịp điệu
tâm hồn của thi sĩ, ngôn từ Thơ mới tràn đầy tính nhạc. Ngấm vào máu điệu hồn
dân tộc qua ca dao, Đường thi và nhanh nhạy tiếp thu nhạc tính trong thơ tượng
trưng Pháp, các nhà Thơ mới đã rất dụng công đưa nhạc vào thơ, nhạc làm nền cho
thơ, nhạc hòa âm, phối nhịp với giọng điệu thơ, dẫn dắt hồn thơ, thơ đi theo nhạc,
điệp trùng những vang ngân qua nhiều giai điệu.Thơ mới giàu nhạc điệu: nhạc điệu
bằng - trắc theo kiểu thơ Đường như câu thơ Xuân Diệu “Trăng nhập vào dây cung
nguyệt lạnh/ Trăng thương, trăng nhớ, hởi trăng ngần!/ Đàn buồn, đàn lặng,
ôi! đàn chậm/ Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” (Nguyệt cầm); nhạc điệu lục bát của
ca dao, dân ca được các nhà thơ tìm cách biến tấu, vắt dòng, ngắt nhịp như câu
thơ Huy Cận “Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi/ Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...”
(Buồn đêm mưa); nhạc điệu bằng lối dùng từ tượng âm của những từ xướng âm nhạc
cổ để lồng ghép vào thơ như trong bài Say đi em của Vũ Hoàng Chương “Khúc nhạc
hồng êm ái/ Điệu kèn biếc quay cuồng/ Một trời phấn hương/ Đôi người gió
sương”; nhạc điệu bằng cách xây dựng câu thơ, bài thơ hoàn toàn bình thanh
theo kiểu của Bích Khê như “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi:
Thu mênh mông ” hay Xuân Diệu như “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/
Tương tư nâng hồn lên chơi vơi”; nhạc điệu bằng cách điệp âm, điệp thanh, lặp lại
khổ thơ, vắt dòng câu thơ như “Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt/ Như hắt
hiu cùng hơi gió heo may” (Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)...
Thơ mới là
tiếng nhạc vang ngân, da diết. Các nhà thơ đều ra sức khai thác nhạc tính một
cách tối đa. Thơ mới là thơ của những tiết tấu âm vang, của những con chữ biết
hát ca và trò chuyện, thơ của sắc màu rộn rã dù bàng bạc trong nó “nỗi buồn thế
hệ” của một thời. Với ngôn ngữ giàu nhạc tính, Thơ mới đã làm giàu có, đẹp đẽ
hơn giá trị của tiếng Việt.
Ngôn từ Thơ mới
còn mang tính tương hợp cao. Đó là sự ảnh hưởng sâu đậm của Baudelaire với quan
niệm về sự tương hợp của các giác quan :hương thơm, màu sắc và âm thanh cùng
nhau tương hợp. Nhạc thơ xuất hiện trong tương hợp ấy nên nó rất đẹp, lung
linh, kỳ ảo, lưu giữ lâu bền chất thơ trong lòng người, nhạc hoá hồn thơ, thông
qua cách kiến trúc câu thơ đầy nhạc, đầy âm vang...tất cả được hòa quyện, chuyển
hóa trong nhau để tạo thành một thế giới nghệ thuật, thế giới của sự tương hợp
giữa âm nhạc, màu sắc, hương thơm và cảm giác vang vọng, u sầu, trước hết của
chính người thơ, và sau đó, vươn đến tha nhân, để vẫy gọi những tấm lòng đồng
điệu, tri âm, tri ngộ.
Thơ
Xuân Diệu có những bài tràn đầy cảm giác như bài “Nguyệt cầm”. Bài thơ thể hiện
sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và
con người, giữa trần gian và âm cảnh. Có sự tương giao, cộng hưởng giữa âm
thanh và ánh sáng, da diết cảm giác tê lạnh trôi trong các vần thơ: Thu lạnh
càng thêm nguyệt tỏ ngời/ Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi.../ Long lanh tiếng
sỏi vang vang hận/ Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người. Tính tương hợp của
ngôn ngữ thơ cũng xuất hiện hiện nhiều trong những vần thơ đầy cảm giác của Hàn
Mặc Tử. Trong Thơ mới, cuộc sống được cảm nhận vừa bằng cảm xúc, vừa bằng trí
tuệ, vừa bằng cả thẩm mĩ các giác quan hòa quyện. Một thế giới huyền ảo, thế giới
của những cảm quan nghệ thuật được mở rộng từ các giác quan thẩm mỹ.
Sự tương ứng các
giác quan đã có từ Xuân Diệu với những tổ hợp từ lạ: "Long lanh tiếng sỏi",
"Một tiếng cười hương", "Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!", sang đến Bích Khê và Hàn Mặc Tử thì càng có độ "chín". Điều
này từ Xuân Diệu đến Đoàn Phú Tứ, Bích Khê là sự vận động liên tục, là cuộc chạy
tiếp sức.
Ảnh hưởng tư tưởng nghệ thuật của Baudelaire ở quan niệm
"tương ứng giữa các giác quan" nên các nhà thơ đặc biệt chú ý đến sự
dao động giữa ngữ âm và ngữ nghĩa, đưa thơ đi về phía tượng trưng.
Trong Thơ mới, những hư ảo, huyền thoại, tượng trưng, siêu thực, huyền ảo, kinh
dị... đậm đặc trong lớp từ mang màu sắc tôn giáo của Hàn Mặc Tử; hồn của Bích
Khê; ma của Chế Lan Viên...Vào khoảng 1941-1945, Thơ mới cũng đã có nhánh rẽ
về hướng siêu thực với các tác phẩm của Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Hàn Mặc
Tử, Bích Khê... Việc đổi mới này đã làm tăng vốn từ vựng, mở rộng biên giới từ,
thơ diễn tả được nhiều ý tứ mới.
Lớp từ mới này trong ngôn
ngữ Thơ mới hiếm thấy trong thơ cũ.
Nói đến tính hiện đại trong ngôn ngữ Thơ mới so với thơ cũ
không có nghĩa là Thơ mới đoạn tuyệt hẳn nhưng tinh hoa thơ cũ. Những thể thơ
cũ như bảy chữ, lục bát… hay luật đối, gieo vần cũ vẫn xuất hiện nhiều trong Thơ
mới nhưng được biến hóa tự do, linh hoạt hơn. Ngôn ngữ thơ Huy Cận hài hòa những
yếu tố truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây mà rất mới lạ. Thơ lục
bát Nguyễn Bính “chân quê” theo một kiểu rất riêng: “Anh đi đấy, anh về đâu?/
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”.
Sự trở về ngôn ngữ
thơ cổ chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của Tiếng Việt và bề dày trầm tích văn hóa
truyền thống. Vừa học tập phương Tây, vừa tiếp thu thơ Đường, vừa sử dụng tinh
hoa văn học dân tộc, các nhà Thơ mới đã làm được bước tổng hợp quan trọng giữa
văn hóa Đông Tây và truyền thống, đưa thơ ca Việt Nam tiến nhanh trên con đường
hiện đại hóa.
Có thể thấy, những bước đi đổi mới đầy sáng tạo của ngôn ngữ
Thơ mới đã thêu dệt nên những vần thơ hay, đẹp, giàu chất nhạc. Thơ mới có nhiều
lớp từ vựng mới, nhiều cách diễn tả lạ chưa từng thấy, đầy cảm xúc, cảm giác.
Đó là “ngôn ngữ của thế giới Huyền Diệu” (Xuân Diệu), ngôn ngữ của cái tôi thi
nhân thăng hoa cảm xúc. Nó góp phần đưa thơ bước vững vàng trên con đường hiện
đại hóa thơ ca.
Đinh Thị Hồng Duyên
Nguồn: Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét