1. "Sao anh không về chơi
thôn Vĩ?"
Một lần đến Huế, ghé thăm Vĩ Dạ, men theo
giữa những lối nhỏ dọc bờ sông, chợt nghe tích xưa, chuyện cũ vọng về. Về Vĩ Dạ,
chợt thấy nhớ thi sỹ Hàn Mặc Tử và khắc khoải mãi ý thơ "Sao anh không về
chơi thôn Vĩ?".
Người bạn của tôi - nhà báo Thái Lộc, phóng viên thường trú Báo Tuổi trẻ tại Thừa Thiên - Huế là người có một vốn hiểu biết sâu sắc về văn hoá đất cố đô. Anh cứ khuyên tôi hãy cứ đến Vĩ Dạ một lần để xem còn không những "Nắng hàng cau nắng mới lên", để xem "Sương khói mờ nhân ảnh" có còn đủ sức níu chân "Khách đường xa" nữa hay chăng? Nghe lời giới thiệu đầy kích thích của anh cùng cái trí tò mò muốn khám phá miền quê đã từng thuộc lòng trong thơ Hàn Mặc Tử từ thời còn đi học, tôi quyết định về Vĩ Dạ.
Người bạn của tôi - nhà báo Thái Lộc, phóng viên thường trú Báo Tuổi trẻ tại Thừa Thiên - Huế là người có một vốn hiểu biết sâu sắc về văn hoá đất cố đô. Anh cứ khuyên tôi hãy cứ đến Vĩ Dạ một lần để xem còn không những "Nắng hàng cau nắng mới lên", để xem "Sương khói mờ nhân ảnh" có còn đủ sức níu chân "Khách đường xa" nữa hay chăng? Nghe lời giới thiệu đầy kích thích của anh cùng cái trí tò mò muốn khám phá miền quê đã từng thuộc lòng trong thơ Hàn Mặc Tử từ thời còn đi học, tôi quyết định về Vĩ Dạ.
Tuy Lý Vương Phủ - một trong những
công trình kiến trúc cổ tại phường Vĩ Dạ
Làng quê ấy đón tôi bằng cái nắng đầu đông rất ngọt. Đã nhiều
thập niên trôi qua từ dạo bước chân vào thơ của chàng thi sĩ họ Hàn, Vĩ Dạ xưa
nay đã nhiều đổi khác. Làng xưa nay đã lên phố, là phường Vĩ Dạ, thuộc thành phố
Huế. Nhưng có lẽ, do địa thế được bao bọc giữa những dòng nước ngọt mát và những
cánh đồng lúa mênh mang, trải rộng mà đâu đó, ở Vĩ Dạ vẫn còn chút yên bình của
làng quê lẫn trong chút xốn xang của phố thị buổi hội nhập. Dường như thiên
nhiên và đất trời khá ưu ái với mảnh đất này khi dòng sông Hương trước lúc hòa vào biển cả đã gửi về thôn Vĩ những lớp phù sa tích góp của cuộc hành trình. Mặc
cho thời thế đổi dời, cuộc sống hiện đại đã khoác áo lên những ngôi nhà cao tầng
mọc lên san sát, thì ẩn sau lớp áo hào hoa ấy, dải đất Vĩ Dạ ven sông vẫn còn
đó nét dung dị như một cô thôn nữ trầm mặc.
Nhà báo Thái Lộc bảo rằng làng Vĩ Dạ xưa vốn là làng của quan
lại triều Nguyễn. Vậy nên nói đến Vĩ Dạ là nói đến những vương phủ của thân
vương, là quê cha, bổn quán của những quan đại thần xuất thân khoa bảng hay lập
công trên trận mạc. Vĩ Dạ là nơi dựng phủ đệ của các hoàng tử con các vua đầu
nhà Nguyễn như phủ Nghĩa Hưng Quận Vương, phủ Diên Khánh Vương, phủ Tuy Lý
Vương, phủ Kiến An Vương, phủ Tuy Biên Quận Công... Chỉ tính các phủ đệ lớn, dải
đất ven sông này có đến 12 phủ đệ. Vĩ Dạ gắn với vương phủ và tài thơ của Tuy
Lý Vương Miên Trinh, hoàng tử thứ 11 của vua Minh Mạng đã từng được vua Tự Đức
cho là "Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường" (Tùng Thiện Vương Miên Thẩm,
Tuy Lý Vương Miên Trinh). Yêu thích cái phóng khoáng của sông nước, đồng lau
nơi đây mà ông đã chọn thôn Vĩ để lập phủ. Vĩ Dạ cũng là tên ông đặt cho một
thi tập của mình.
Bây giờ nhà thờ ông nơi phủ Tuy Lý xưa, thường gọi là phủ Ba
Cửa là một trong những phủ đệ đẹp ở cố đô còn được bảo lưu tương đối nguyên vẹn,
là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Và cứ hễ gặp ai nơi mảnh đất Vĩ Dạ
hôm nay, hỏi về những công trình mang dấu tích xưa cũ của quê hương, họ đều tự
hào nhắc về phủ Ba Cửa trước hết bằng tất cả niềm tự hào của bậc hậu sinh.
Ở Tuy Lý Vương phủ, đằng sau cổng tam quan cùng bình phong cổ
kính, ngôi nhà rường thâm nghiêm, giữa hàng cây kiểu cách là lối sống nền nếp,
hào hoa, vừa lãng mạn, quý phái của bậc vương giả làm thơ. Những công trình kiến
trúc nhuốm màu xưa cũ như thế vẫn đủ sức níu giữ một Vĩ Dạ xưa trước cái lạnh
ngắt của những khối bê tông đang ngày ngày đua nhau mọc lên san sát. Nên đến Vĩ
Dạ, dẫu nhận ra những nét chân quê đã bay đi... quá nhiều thì vẫn còn ấm lòng bởi
đằng sau cái xô bồ ấy là những trầm tích văn hóa truyền thống khó bề đổi dời.
Nhiều hộ dân ở cồn Hến (phường Vĩ Dạ)
vẫn cần mẫn với nghề hến truyền thống
Rời những con đường phố thị với lô nhô hàng quán, chênh vênh
những nhà cao tầng, chúng tôi đến với cồn Hến, nơi có những mảnh đời lam lũ vốn
làm nghề cào hến ven sông.
Neo mình bên những lối nhỏ còn lổn nhổn đất sỏi là những mái
nhà mọc sát rạt bên nhau. Bên trong những ngôi nhà chật hẹp, ẩm thấp ấy, còn đó
những phận người mưu sinh bằng nghề sông nước, cuộc đời họ tựa nhờ cả vào sông.
Cuộc sống chật vật và xác xơ tựa như những bông hoa bắp giữa cồn mùa gió bão.
Nhìn những gương mặt còn vương vất nét khắc khổ, tôi trộm nghĩ, dường như ngọn
gió của sự đổi thay phố thị chưa từng thổi qua mảnh đất này. Và họ, vẫn ngày
ngày lầm lũi với sự nổi nênh phận người trên sông để đổi lấy từng bát cơm, tấm
áo.
Chính sự thơm thảo của dòng sông Hương đã tạo nên cho vùng cồn
Hến - một cồn rẻo nhỏ của phường Vĩ Dạ này một thứ đặc sản ngọt mát, thơm lành:
hến sông Hương. Nơi cồn Hến này, có hàng trăm hộ gia đình coi nghề cào hến trên
sông Hương là nghề truyền đời. Đời sông, đời người và đời hến, dường như quấn
quyện chẳng rời, cũng ngược xuôi và lênh đênh chìm nổi. Ngay trên mảnh đất sát
mép sông này có hẳn một ngôi miếu nhỏ thờ ông tổ nghề hến. Nhưng năm này qua
tháng khác, hến sông Hương rồi cũng cạn, họ đành xoay xở với cuộc mưu sinh bằng
nhiều cách khác nhau. Không khai thác được hến trên dòng Hương Giang, người cồn
Hến nhập hến từ nhiều nơi khác đến rồi thức ngủ cùng nghề. Hến nơi đây tỏa đi
khắp nơi, mọi chốn, góp nên chút ngọt ngào cho món ăn cơm hến - bún hến truyền
thống của xứ cố đô.
Nằm ngay giữa một trung tâm du lịch sôi động, Vĩ Dạ cũng đang
cựa mình để lớn dậy. Nhưng trong sâu thẳm của những đổi thay đang làm thay da đổi
thịt vùng đất này vẫn còn thấp thoáng đâu đó những nỗi lo. Đó là nỗi lo bờ sông
sạt lở, là trăn trở khi phải rời quê, đất cũ khi các dự án mới bắt đầu thành hiện
thực. Nhưng dẫu vậy, như dòng sông Hương tưới tắm phù sa cho mảnh đất này trên
cuộc hành trình xuôi về biển, thì người Vĩ Dạ vẫn mãi trọn tình thuỷ chung với
dòng sông ấy. Một lần đến Vĩ Dạ, để tìm đâu đó những bước chân của bậc thi nhân
xưa, để ngắm nghía "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" và những con thuyền
đợi "chở trăng về kịp tối nay".
2. "Một đêm bước chân về
gác nhỏ"
Tôi đến Gác Trịnh vào một buổi sáng Huế hanh hao nắng.
Trong cái nắng đầu đông ấy, giọng hát đặc trưng của Khánh Ly vang lên những bài
hát nhạc Trịnh quen thuộc cứ làm lòng người nhiều khắc khoải. Căn nhà nhỏ chứa
chất nhiều kỷ niệm về người nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn trở thành nơi chốn
quay về của bao tâm hồn yêu mến ông.
Học giả Bửu Ý - người bạn thân thiết của vị nhạc sĩ họ Trịnh đã từng viết trong
sổ lưu niệm của Gác Trịnh: “Đến Gác Trịnh, đối với tôi, như trở về nhà. Tôi nhận
ra tất cả các góc, nhận ra luôn cả cầu thang tầng trệt lên đến đây, rồi bước
qua cửa, nhận ra phòng khách, phòng ngủ, phòng bếp, các bức tường, các cánh cửa...
Dù có dăm đổi thay, thêm thắt, căn nhà 11/3 Nguyễn Trường Tộ vẫn như xưa”. Và
bên trong căn nhà này, những bức ảnh và rất nhiều những hiện vật còn lưu dấu
hình ảnh của Trịnh Công Sơn đều được trưng bày cẩn trọng. Đó là bức tranh sơn dầu
người bạn thân - họa sĩ Đinh Cường vẽ Trịnh Công Sơn hay tấm ảnh chụp Trịnh
Công Sơn và Khánh Ly - hai người “đứng bên lề cuộc đời, hai người ở ngoài những
cuộc vui” như nữ ca sĩ đã từng viết... Tất cả những kỷ vật ấy đã nhuốm màu thời
gian nhưng dẫu vậy, một lần đặt chân đến không gian này, người mộ điệu vẫn còn
cảm nhận đâu đó hình ảnh của vị nhạc sĩ trong căn gác nhỏ. Bởi ở nơi ấy, đã chứng
kiến cuộc sống êm đềm của gia đình ông và cũng từ nơi ấy, những ca khúc bất hủ
của vị nhạc sĩ tài hoa đã hoài thai và ra đời.
Sáng cuối tuần, Gác Trịnh đầy ắp người đến thăm. Dường như, họ
sợ cái ồn ào của sự đông đúc sẽ phá vỡ đi không khí đầy hoài niệm vốn có của
Gác Trịnh nên những tiếng cười, tiếng nói cứ vang lên trầm trầm xen giữa giọng
hát Khánh Ly. Những con người đến đây, từ muôn phương, từ mọi nẻo, chỉ đơn giản
vì họ nhận ra nơi căn gác nhỏ này cũng là chốn về của trái tim yêu thương dành
cho nhạc Trịnh - một tình yêu vẫn âm ỉ trong góc khuất tâm hồn của mỗi người.
Như lúc sinh thời, vị nhạc sĩ đã từng mở lòng mình với người bạn thân - học giả
Bửu Ý - về một ngôi nhà lưu niệm và gọi đó là “nhà nguyện tình yêu”. Đó không
là nhà của riêng ai, càng không phải của Trịnh Công Sơn, đó là nhà của mọi người,
của tuổi trẻ, của tình yêu.
Ở Gác Trịnh, trưng bày nhiều ảnh
và kỷ vật của Trịnh Công Sơn
Ngồi bên lan can của căn gác nhỏ, thả trôi ánh nhìn ra giữa
con phố Nguyễn Trường Tộ, giữa dòng xe tấp nập ngược xuôi vẫn thấy bình yên quá
đỗi. Ngoài kia, hàng cây long não vẫn xanh nhựa sống dưới cái nắng hanh hao đầu
đông. Hàng cây chất chứa bao hoài niệm ấy đã từng hiện diện trong bức thư ông
viết cho “nàng thơ” Dao Ánh và sau này, chính bà đã mang tặng lại nó cho không
gian Gác Trịnh: “Anh nhớ lắm hàng cây long não mùa này ướt sũng và đêm gió lao
xao trên đó. Hàng cây đã chứng kiến những mùa thu, hạ, xuân, đông (Ánh đã) đi
qua...” Trong góc phòng, trên kệ sách nhỏ là những cuốn sách và sổ lưu niệm mà
bạn bè và người mộ điệu từ khắp bốn phương viết về ông. Những dòng chữ chứa chất
tất cả tình yêu dành cho nhạc Trịnh và đâu đó trong những dòng rút ra từ tâm
can kia có cả những giọt nước mắt. Có lẽ, với nhiều người, nhạc Trịnh đã là một
phần tâm hồn, là nơi nương náu của nỗi cô đơn trong những ngày ngược xuôi giữa
cõi trần lắm nhọc nhằn. Và đến Gác Trịnh, giữa không gian đầy hoài niệm ấy, họ
như một lần nữa được sống với những cảm xúc rất thật của chính mình, khi ấy, tất
cả những bon chen, vị kỷ đều trở nên “vô thường”.
Trời về trưa, khách đến quán cũng vãn dần. Tiếng hát Khánh Ly
lẩn khuất trong cái ồn ào của phố thị buổi tan tầm: “Một đêm bước chân về gác nhỏ,
chợt thấy đóa hoa tường vi... Một đêm thấy ta là thác đổ. Tỉnh ra có khi còn
nghe”. Cô bé phục vụ nhìn những người khách đường xa bằng cái nhìn trìu mến, thỉnh
thoảng lại dăm ba câu hỏi thăm. Em bảo, mình quê gốc ở Hà Tĩnh, là giáo viên dạy
Âm nhạc nên có lẽ tình yêu với nhạc Trịnh vì thế mà cũng đặc biệt hơn. Yêu và cảm
nên cứ mỗi ngày, ngoài giờ lên lớp, em lại đến Gác Trịnh phụ bán cà phê, vừa là
cách để kiếm thêm thu nhập vừa để thỏa mãn tình yêu với Trịnh. Cả cô bé nhân
viên của quán, cả những người khách đến đây, dù chưa một lần gặp gỡ, nhưng họ vẫn
trò chuyện thân tình như thể đã quen thân từ lâu lắm. Nhiều người, họ đến ngồi
quây quần bên chiếc bàn nhỏ, bên ly cà phê rồi im lặng nhìn nhau không nói. Họ
kiệm lời bởi mỗi người như đang trôi về một miền nhớ, giữa lan man hoài niệm mà
cái chất giọng khàn khàn của Khánh Ly vô tình kéo về.
Ở Gác Trịnh, từ bộ bàn ghế khách ngồi, đến khung ảnh của Trịnh
Công Sơn đều được sơn đen, tạo một không gian vừa xưa cũ, vừa nhuốm màu ký ức.
Việc sửa sang và bày biện Gác Trịnh trong căn nhà số 203/19 đường Nguyễn Trường
Tộ ở TP. Huế - căn nhà mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng đi về những năm 1960 cho
đến 1978 - rồi khai trương nó vào đúng dịp kỷ niệm 12 năm ngày mất của ông (1-4-2013)
không phải là chuyện tình cờ. Một nhóm anh em văn nghệ sĩ Huế đã tự xoay xở,
bài trí lại với hy vọng căn nhà xưa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Huế sẽ là nơi
lưu dấu những mảng màu ký ức để cho những ai yêu mến Trịnh có thể ghé thăm. Mà
cũng không chỉ riêng mình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đây còn là nơi lưu dấu của những
người bạn tài hoa qua tháng năm đã làm nên một vóc dáng văn học nghệ thuật của
xứ sở: Ngô Kha, Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường, Bửu Chỉ... Trên căn
gác lửng, vẫn còn đó chiếc bàn gỗ thường được Trịnh Công Sơn dùng mỗi khi sáng
tác. Cũng chính trên chiếc bàn ấy, hầu hết những ca khúc nổi tiếng như Diễm
xưa, Hạ trắng... đã được ra đời. Ngay cạnh là chiếc ghế nhỏ, nơi mà ba nghệ sĩ tài danh Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ và Đinh Cường lần lượt ngồi vào để vẽ tranh
chung. Chiếc ghế kỷ niệm mà mãi đến sau này, họa sĩ Đinh Cường đã viết trong
bài thơ Gác Trịnh, thầm mơ: “Bửu Chỉ vẽ xong rồi tôi vẽ/ Và Sơn giành vẽ, đẹp
vô cùng/ Chiếc ghế gỗ cây còn không ở đó/ Chiếc ghế nếu còn ôi bao nhiêu
năm...”. Căn gác ấy, Khánh Ly đã từng bảo đó là nơi Trịnh Công Sơn “thường ngồi...
gọi nắng, mong mưa”.
Đến Gác Trịnh một ngày nắng. Cái hanh hao của buổi giao mùa
không đủ sức làm tan đi cái ấm áp vốn hiện hữu mãi trong căn gác nhỏ, nơi chốn
nhiều kỷ niệm của vị nhạc sĩ mà triệu người tôn kính. Giữa không gian nhiều xúc
cảm ấy, nghe Khánh Ly hát nhạc Trịnh, nhiều người chợt nhận ra “cuộc đời đó có
bao lâu mà hững hờ”, và dẫu có lúc phải đi đến tận cùng của sự tuyệt vọng thì vẫn
hiểu rằng "tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa".
(*) Lời bài hát “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn.
17/11/2015
Diệu Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét