Kim Dung giữa đời tôi 1
Khái quát phong cách xây dựng nhân vật:
Trong những năm trước 1975 tại miền Nam người đọc xem Kim Dung tiên sinh, tiểu
thuyết gia Hồng kông, là một nhà văn lớn. Những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của
ông, được đăng báo dưới dạng feuilleton hoặc in thành sách, đã hấp dẫn hàng triệu
người đọc Việt Nam. Văn của ông đã được tuyển trạch để đưa vào giáo trình văn
cấp trung học và đại học tại Đài Loan, Hồng kông và Hoa Lục. Và ngay trong lòng
nước Mỹ, người Hoa đã lập ra “Kim Dung học hội”, chuyên nghiên cứu, giới thiệu
và dịch những tác phẩm của ông ra tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha... Điều mà người
ta dễ nhận ra nhất là bút lực của Kim Dung rất hùng hậu. Mỗi tác phẩm là một bộ
(thường trên 10 quyển, trung bình khoảng 500, 600 trang một quyển). Chúng tôi
chỉ xin giới thiệu đầu tiên một khía cạnh trong kỹ thuật tiểu thuyết của ông:
phong cách xây dựng nhân vật.
Trước năm 1975, sách Kim Dung được in gồm:
1. Thư kiếm ân cừu lục
2. Bích huyết kiếm
3. Xạ điêu anh hùng truyện
4. Thần điêu hiệp lữ
5. Tuyết Sơn phi hồ
6. Phi hồ ngoại truyện (Lãnh nguyệt bảo đao)
7. Ỷ thiên Đồ long ký
8. Liên thành quyết (Tố tâm kiếm)
9. Thiên Long bát bộ (Lục mạch thần kiếm truyện)
10. Hiệp khách hành
11. Tiếu ngạo giang hồ
12. Lộc Đỉnh ký
Một điều cần lưu ý là nếu chúng ta phân biệt rõ 4 khái niệm: Truyện (tiểu thuyết
hoàn toàn hư cấu), Ký (tác phẩm văn xuôi viết về người thật, việc thật) và Lục
(cuốn sách) thì Kim Dung sử dụng ba khái niệm đó với một ý nghĩa duy nhất để chỉ
các bộ tiều thuyết võ hiệp của ông.
Khuynh hướng của Kim Dung là thường đặt những cuốn tiểu thuyết của mình vào những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc. Bộ Thiên Long bát bộ được đặt và khung
cảnh lịch sử triều Tống (1127-1279) với sự tương tranh, tương giao của 6 thế lực
phong kiến: Tống, Đại Lý, Khiết Đan (Liêu), Tây Hạ, Thổ Phồn và Yên (Tiên Ti,
đã suy tàn). Bộ Lộc Đỉnh ký được đặt vào khung cảnh lịch sử triều Khang Hy
(1662-1722) nhà Thanh, khi mà các thế lực chống Thanh như Đường
Vương, Vương, Lỗ Vương và Thiên Địa hội hoạt động mạnh... Chính vì thế,
trong tiều thuyết của ông, có những nhân vật lịch sử như Triệu Hú (Tống Triết
Tông), Gia Luật Hồng Cơ (hoàng đế Đại Liêu), Đoàn Chính Minh (hoàng đế Đại Lý),
Khang Hy (hoàng đế Thanh), Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam, tổng đường chủ Thiên Địa
hội)... Bên cạnh đó là những nhân vật thuần túy hư cấu, thường là nhân vật
chính của tiểu thuyết... Trong Thiên Long bát bộ, đó là Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư
Trúc, Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu...Trong Lộc Đỉnh ký, đó là Vi Tiểu Bảo. Những
nhân vật tiểu thuyết của ông kết hợp với nhân vật lịch sử tạo thành một phong
cách tiều thuyết hư hư, thực thực. Phong cách này khá đậm nét khi ông xây dựng
cặp nhân vật Khang Hy Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Từ 1 thằng bé lưu manh
trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu, Vi Tiểu Bảo đã bị hoàn cảnh đẩy đưa
lên Bắc Kinh giả làm thái giám rồi thân cận với vua Khang Hy, gia nhập Thiên Địa
hội làm một thứ gián điệp hai mang, trờ thành công tước triều Thanh, nhận nhiệm
vụ ký hòa ước lịch sử Hắc Long giang 1684 với Phí Diêu Đa La (Féodore) của Nga
Ta Lư! Tác giả có ghi chú rõ về chuyện hư cấu của mình nhưng điều ấy vẫn không
làm giảm đi sự thú vị trong lòng người đọc.
Một cách khái quát, nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung thường được chia làm hai tuyến: chính phái (hay bạch đạo) và tà phái (hay hắc đạo). Tuy nhiên, trong tác
phẩm Kim Dung không hề rơi vào chủ nghĩa công thức: những kẻ mà ông xếp vào
hàng tà thường là những chính nhân quân tử, những kẻ mà ông giới thiệu như là
chính nhân quân tử lại là kẻ chẳng ra gì. Bất kỳ người Trung Quốc nào cũng gọi
Minh giáo (tức Bái hỏa giáo) từ Ba Tư truyền sang là tà đạo. Trong Ỷ thiên Đồ
long ký, Kim Dung đã chứng minh ngược lại: Minh giáo là một chính giáo, nồng
nàn tình cảm yêu nước, xả thân để cứu trăm họ ra khỏi ách thống trị của Mông Cổ.
Những Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Phạm Dao, Hân Thiên Chính... là
những con người quang minh lỗi lạc, hành sự trong sáng, sống rất người. Và chính
nghĩa thuộc về họ, chứ không phải thuộc về nhân vật Chu Nguyên Chương, vốn đầy
thủ đoạn chính trị, đã cướp công Minh giáo để lên ngôi mở ra nhà Minh. Còn có
ai đẹp hơn Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn trong Tiếu ngạo
giang hồ? Thế nhưng từ cuốn 9 trở đi, Nhạc Bất Quần dần dần hiện nguyên hình là
một kẻ độc ác; dùng con gái làm bậc thang để leo lên, giết cả rể, lừa vợ, giết
học trò, quyết chiếm được ngôi Minh chủ Ngũ Nhạc phái, tự thiến để trở thành kẻ
lại cái. Ngụy quân tử vẫn nguy hiểm hơn chân tiểu nhân!. Những nhân vật chính
trong tác phẩm của Kim Dung thường là những con người bao dung, đôn hậu, không
hủ nho, câu nệ, không làm bộ làm tịch. Đó là Kiều Phong tự tử ngoài Nhạn Môn
quan để mưu cầu hòa bình cho trăm họ Tống Liêu. Đó là tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Phi
hồ ngoại truyện) tìm ra kẻ thù giết cha mà vẫn không xuống tay hạ sát. Đó là
Quách Tĩnh (Xạ điêu anh hùng truyện) liều chết để giữ thành Tương Dương, là Thạch
Phá Thiên chỉ biết sống thuần phác không hề hại ai... Họ chính là mẫu “người
hùng” lý tưởng theo nhận thức đạo đức Trung Hoa. Chúng ta không nắm rõ lắm về
thân thế Kim Dung. Nhưng truyện của ông thường danh tình cảm cho những con người
xuất thân rất tầm thường, những đứa bé mồ côi không cha mẹ hoặc không biết ai
là cha mẹ. Lệnh Hồ Xung, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Vô Kỵ, Dương Qua...là
những chàng trai, những cậu bé như vậy. Đời đã dạy họ cách sống và vốn sống. Và
họ đã thành người, những con người rất trung thực, đạo đức.
Kim Dung đặt tên cho những nhân vật mình rất hay. Có những
nhân vật mà cái tên biểu hiện đầy đủ tính cách của mình: Nhậm Ngã Hành (chỉ làm
theo ý mình), Nhạc Bất Quần (không chơi với ai) nhưng lại có rất nhiều bạn bè.
Thông thường, trước mỗi tên nhân vật, tác giả đặt cho một ngoại hiệu. Điều thú
vị là loại nhân vật càng xoàng xĩnh thì ngoại hiệu càng “kêu”: Đoạn ngạc tam quyền,
Đoạt mệnh tam quyền, Nhất kiếm chấn Thiên Nam... Nhân vật có ngoại hiệu dài nhất
là Giang dương đại đạo vạn lý độc hành thái hoa dâm tặc khoái đao Điền Bá Quang
(tướng cướp đường sông biển, tên dâm tặc chuyên hãm hiếp phụ nữ, ngàn dặm đi một
mình, đánh đao rất nhanh) và Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu
Nhân Phượng (đánh khắp thiên hạ không ai địch nổi, Phật mặt vàng). Có ngoại hiệu
làm cho người đọc nhận lầm là ba nhân vật khác nhau như Côn Lôn tam thánh Hà Túc
Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký). Thực sự, “tam thánh” là lời người đời xưng tụng Hà
Túc Đạo cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh chứ không phải là “ba ông thánh”. Có những
nhân vật thoạt đọc ngoại hiệu cứ tưởng là một người hóa ra hai như Hoàng Hà Lão Tổ
(Lão Đầu Tử và Tổ Thiên Thu sống trên sông Hoàng Hà - Tiếu ngạo giang hồ). Những
nhân vật chính, siêu việt thường không có ngoại hiệu hoặc ngoại hiệu rất ngắn :
Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, Bắc cái Hồng Thất... Ngay cách đặt tên nhân vật
cũng đã nói lên tài năng của Kim Dung. Đây cũng là chỗ giúp người đọc phân biệt
truyện thật của Kim Dung và những ngụy tác.
Truyện của Kim Dung thường có những nhân vật quái dị, mỗi nhân vật mang một
phong cách riêng, không giống ai. Đó là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh (Tiếu
ngạo giang hồ), chưởng môn phái Hành Sơn, vẫn ăn mặc rách rưới, giấu thanh kiếm
mỏng như lá lúa trong cây đàn; là Đoàn Dự, Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) suốt
đời si tình, chạy theo nhan sắc; là Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký) lưu manh nhưng chẳng
bao giờ cần che giấu tính lưu manh... Loại nhân vật này tiều biểu cho quan điểm
“hòa nhi bất đồng” (có hòa mình vẫn không giống được) của Nho giáo. Những nhân
vật của ông sống với cả tính cách, đặc điểm của mình. Họ có thể sống rất tốt,
cũng có thể rất xấu những mỗi con người như vậy - dù chỉ xuất hiện trong một đoạn ngắn ngủi - vẫn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Điều ấy đã
bao nhiều nhà văn làm được.
Kim Dung sử dụng phong cách xây dựng nhân vật như một cách đánh lừa độc giả và
gây cho độc giả sự thú vị khi được “bị lừa” như vậy. Mở đầu Tiếu ngạo giang hồ
là hình ảnh tốt đẹp của Lâm Bình Chi. Sau đó, Lâm Bình Chi bị lâm nạn nhà tan,
người chết, phải lưu lạc tha hương. Ai cũng nghĩ Lâm Bình Chi là nhân vật trung
tâm, con người chính nhân quân tử. Nhưng không! Đọc hết bộ sách chúng ta mới thấy
cái rởm đời của Lâm Bình Chi, cái chân thật của Lệnh Hồ Xung. Hạnh phúc thuộc về
những con người chân thật. Đọc Hiệp khách hành, ta cứ ngỡ Thạch Phá Thiên là một
tên tiểu ma đầu tàn bạo, dâm ác, lừa lọc. Nhưng không, cậu chỉ có một cái tội:
giống hệt người anh ruột tàn ác, dâm đãng Thạch Trung Ngọc. Chỉ có đôi mắt trẻ
thơ của A Tú mới nhìn ra được chỗ khác biệt tốt đẹp đó, điều mà tất cả mọi người
lớn không nhìn ra. Và cuối cùng, Thạch Phá Thiên đã tìm ra được pho võ công thượng
thặng ẩn trong bài thơ Hiệp khách hành của Thi tiên Lý Bạch, không phải do
nghiên cứu được ý nghĩa của bài hành, mà nhờ chỉ nhìn nét viết (vì cậu không biết
chữ). Kim Dung muốn chứng mình một điều: cái chân thật, cái dốt nát vẫn thắng
được cái cơ tâm, cái hiểu biết rộng rãi nhất. Ai không thú vị với những định đề
như vậy?
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta bỏ quên những nhân vật nữ trong tác phẩm Kim
Dung. Tuy mang danh là truyện võ hiệp nhưng tác phẩm Kim Dung thực chất là những
tiểu thuyết về tình yêu đôi lứa. Các nhân vật nữ của ông xuất thân trong xã hội
phong kiến nhưng sống và yêu rất lãng mạn - tất nhiên trong sự cho phép của lễ
giáo Trung Hoa. Đó là những con người biết yêu say đắm và biết xả thân vì người
yêu: Nhậm Doanh Doanh - Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Triệu Mẫn - Trương
Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Viên Tử Y - Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo đao), A Tú - Thạch
Phá Thiên (Hiệp khách hành), A Châu - Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Tuy nhiên
trong mọi tình huống, họ vẫn giữ được tiết sạch giá trong của người phụ nữ phương
Đông.
Nói như vậy, không có nghĩa là Kim Dung vẫn giữ nhân vật nữ của mình bo bo
trong vòng tư duy cổ điển của lễ giáo Trung Hoa. Không, ông đã tạo ra những
tình huống có vấn đề: Kỷ Hiểu Phù đã hứa hôn với Hân Lợi Hanh nhưng lại thất
thân với Dương Tiêu, sinh ra đứa con gái và đặt tên là Bất Hối (không hối hận)
(Ỷ thiên Đồ long ký). Tiểu Long Nữ là sư phụ, đã bị kẻ khác cưỡng dâm nhưng vẫn
yêu say đắm đồ đệ của mình là Dương Qua (Thần điêu hiệp lữ). Những nhân vật nữ
của ông biết đánh kiếm, đánh chưởng, ám khí, ghen tuông, giận hờn, đau xót vì
chia ly. Họ có một vẻ đẹp riêng từ ngoại hình đến tâm hồn, rất lý tưởng, nhưng
cũng rất thật.
Cũng có thể nói Kim Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước
tác, tác phẩm của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi
cuốn, hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y học
đến địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo... hoàn chỉnh một
cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên trong những nhà văn
được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa, những nhà văn khác cũng đã học
tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc
thầy của những bậc thầy trong thế kỷ chúng ta.
VÕ CÔNG TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Các nhân vật trong tác phẩm của Kim Dung hợp lại thành một giới - giới võ lâm -
và đương nhiên, sinh hoạt của họ là sự thể hiện võ công để giết người, mưu đồ địa
vị quyền lực; võ công để cứu người, trừ gian diệt bạo, biểu dương cái lẽ công bằng
ở đời. Nói đến những nhân vật của Kim Dung, không thể không nói đến võ công.
Một cách khái quát, Kim Dung đã đặt vào cho những nhân vật của mình những loại
hình võ công (hay công phu, kungfu) mà họ cần phải có. Các loại hình võ công
bao gồm chưởng pháp (phép đánh bằng tay), quyền pháp (phép đánh bằng nắm tay),
chỉ pháp (phép đánh bằng ngón tay), cầm nã thủ pháp (phép đánh bằng câu, bắt,
móc, giật) trảo pháp (phép chụp bằng ngón tay), cước pháp (phép đá), bộ pháp
(phép di chuyển), khinh công (phép đi nhanh). Nếu các nhân vật của ông chuyên sử
dụng vũ khí thì mỗi loại vũ khí được kết hợp với một pháp để hình thành võ công
riêng cho họ (đao pháp, thương pháp, kiếm pháp, trượng pháp, côn pháp... Đối với
một số nhân vật đặc biệt, Kim Dung đã tạo ra cho họ những thứ võ công đặc biệt:
thần công Sư tử hống (tiếng rống của sư tử) của Tạ Tốn (Ỷ thiên Đồ long ký), Hấp
tinh đại pháp (phép hút kình lực và công lực kẻ khác làm công lực và kình lực của
mình) của Nhậm Ngã Hành (Tiếu ngạo giang hồ), Nhiếp hồn đại pháp (phép thôi
miên) của Đinh Xuân Thu (Thiên Long bát bộ)...
Kim Dung tạo ra cho nhân vật của mình những hoàn cảnh, những tình huống để họ
thủ đắc võ công. Có những nhân vật không chịu học võ, suốt ngày chỉ lo học sách
thành hiền, học kinh Phật như vương tử Đại Lý Đoàn Dự hay như nhà sư trẻ Hư
Trúc cuối cùng bị đẩy đưa vào hoàn cảnh phải học võ công để tự cứu mình và cứu
người, trở thành bậc thượng thừa. Có kẻ say mê võ công, đi tìm suốt đời mà chẳng
thấy. Con đường mà Kim Dung dẫn dắt những nhân vật trung tâm của mình đến với
các thứ võ công không khỏi khiến cho người đọc cười thầm.
Nhân vật của Kim Dung thể hiện võ công qua kình lực. Đứng trên quan điểm triết
học Trung Hoa, ông chia kình lực ra làm hai loại: dương cương và âm nhu. Dương
cương là loại kình lực mãnh liệt, khi xuất chiêu phát ra tiếng động. Âm nhu là
kình lực mềm mại, khi xuất chiêu không phát ra tiếng động. Hai loại kình lực đó
loại nào cũng có thể giết người, làm tan bia vỡ đá! Ông lấy Nhu chế Cương, lấy
Cương chế Nhu. Kẻ thắng cuộc là kẻ có công lực cao hơn. Căn cứ vào võ học Trung
Hoa, Kim Dung để cho các nhân vật của mình thi triển võ công theo hai cách: trực
tiếp và gián tiếp. Trong cách đánh trực tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền... phải
đụng đến người địch thủ. trong cách đánh gián tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền...
không đụng đến người địch thủ, Kim Dung gọi đó là cách không. Cách không điểm
huyệt chỉ pháp của Kiều Phong, Lục mạch thần kiếm của Đoàn Dự, Thất thương quyền
của Tạ Tốn... đều có cái khả năng cách không này. Đặc biệt Kim Dung có đề cập đến
Cách sơn đả ngưu thần công (thần công đánh con trâu cách trái núi). Trong Thiên
Long bát bộ, ông đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn dùng Tiểu Tu ni chưởng đánh
vào đỉnh đồng bên này, đĩnh đồng không phát ra tiếng động và vẫn lành lặn nhưng
phía bên kia lại lủng. Cách diễn tả như vậy nghe hơi phi khoa học nhưng lại làm
thỏa mãn trí tưởng tượng vốn phong phú của con người.
Kim Dung đặt tên cho các loại võ công rất độc đáo và riêng trong khía cạnh này,
ông cũng đã tự chứng mình được trình độ viết tiểu thuyết của mình. Một là, - võ
công thường gắn liền với nguồn gốc xuất thân. Thí dụ các nhà sư xuất thân từ
phái Thiếu Lâm thì phải biết sử La Hán quyền, Niêm hoa chỉ, Thiếu Lâm trường
quyền, Di Đà chưởng, Giáng ma trượng... Ai xuất thân từ đạo gia Võ Đang thì có
Thái cực quyền, Võ Đang miên chưởng. Hư Trúc học được võ công của phái Thiên
Sơn thì võ công đó được gọi là Thiên Sơn lục dương chưởng, Thiên Sơn lục dương
chỉ, Thiên Sơn chiết mai thủ... Hai là, - tên của võ công thường gắn liền với những
chiêu thức, đòn thế của môn võ công ấy. trong tinh thần này, người đọc tìm thấy
Hàng long thập bát chưởng (18 chưởng hạ rồng), Liên hoàn thập tam cước (13 thế
đá liền nhau), Độc Cô cửu kiếm (9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại). Ba là, - tên của
môn võ công thường gắn liền với sinh hoạt, đặc điểm của động vật. Trong tinh thần
này, ta thường gặp trong tác phẩm của Kim Dung những Xà quyền (rắn), Đại Thánh
quyền (khỉ), Áp hình công (vịt), Hàm mô công (ếch), Ưng trảo công (chim ưng),
Kê trảo công (gà). Ngay cả đến con rồng - một động vật trong linh thoại cổ
Trung Hoa - cũng có công phu: Long trảo công. Bốn là, - tên của võ công gắn liền
với tính chất, hậu quả khi sử dụng võ công đó. Trong tinh thần này, ta thường gặp
Tam tiếu tiêu dao tán (thuốc bột làm người ta cười ba lần trước khi chết), Thất
thương quyền (loại quyền pháp muốn luyện được phải bị 7 thứ nội thương trong phủ
tạng), Hóa thi phấn (loại thuốc bột làm tan xác chết ra nước)...
Kim Dung có một bề dày kiến thức về y học cổ Trung Hoa. Một số nhân vật của ông
thường vừa giỏi võ công, vừa tinh thâm y thuật, phối hợp y thuật với võ công hoặc
để cứu người, hoặc để chế ngự người. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân
vật Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ, cứu người chỉ cần một ngón tay và giết người
cũng chỉ cần một ngón tay. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ta gặp Điệp cốc y tiên Hồ
Thanh Ngưu và sau đó là Trương Vô Kỵ, giỏi về chữa thương, phục hồi kỳ kinh bát
mạch. Thuốc độc và phóng độc cũng là một loại võ công. Trong Tiếu ngạo giang hồ,
ta gặp Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện,
ta gặp Độc thủ dược vương chuyên đánh thuốc độc.
Cũng theo Kim Dung, âm nhạc cũng là một dạng võ công có thể chế ngự địch thủ. Một
số nhân vật của ông như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký), Cầm
điên Khang Quảng Lăng (Thiên Long bát bộ), Nhậm Doanh Doanh và Lưu Chính Phong
(Tiếu ngạo giang hồ)... đã dùng tiếng đàn, tiếng sáo, hoặc để chữa thương, hoặc
để khắc chế địch thủ. Đoạn cảm động nhất là đoạn Doanh Doanh đàn khúc Thanh tâm
phổ thiện trú để xoa dịu thần kinh cho Lệnh Hồ Xung khi chàng trai này bị trọng
thương.
Viết về võ công nên kiến thức võ học của Kim Dung rất uyên
bác. Ông Yên Thị Đồ Cẩu Khách trên tờ Tân Họa báo cho biết rằng Kim Dung thường
tham khảo ý kiến của các võ sư về đòn thế, về cách xuất chiêu, nhả kình lực của
từng thế võ. Ông dung hợp võ công với y học Trung Hoa, tạo cho người đọc sự thú
vị tuyệt vời, điều mà những tác giả truyện võ hiệp khác chưa làm được. Đặc biệt,
khi viết về những võ công của các bang hội, giáo phái khác ngoài lãnh thổ Trung
Quốc, kiến thức võ học của ông đã được thực hiện rất tinh tường. Đại thi hào Ba
Tư Omar Khayan đã ghi nhận võ công Bái hỏa giáo (Minh giáo) Ba Tư được ghi lại
trên 8 tấm thẻ Thánh hỏa lệnh và tâm pháp thì được ghi lại trên những tấm da dê.
Kim Dung nghiên cứu đoạn kinh mở đầu của Bái hỏa giáo Ba Tư, đã dung hợp ý kiến
của Omar Khayan để xây dựng nên những đoạn mô tả về sinh hoạt của Minh giáo
Trung Hoa (Ỷ thiên Đồ long ký).
Một điều cần chú ý là Kim Dung không lạm dụng khuynh hướng đa sát trong tiểu
thuyết võ hiệp, điều mà ta thường gặp trong các loại phim cao bồi Viễn Tây (Mỹ)
và phim chưởng Hồng kông cũng như ở một số tiểu thuyết gia khác viết truyện võ
hiệp. Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung có mô tả hai trận đa sát: một là đoạn Kiều
Phong bị quần hùng Trung Nguyên vây hãm ở Tụ hiền trang (Thiên Long bát bộ),
hai là đoạn phái Tung Sơn bịt mặt giả làm người của Ma giáo vây hãm phái Hằng
Sơn ở Long Tuyền (Tiếu ngạo giang hồ). Chữ Nhân của đạo Khổng đã được ông tôn
trọng một cách hết sức nghiêm túc đúng như quan niệm của Khổng Tử: “Nhân giả
nhân dã” (Đạo nhân là đạo của con người vây). Đọc văn của ông, người ta chỉ thấy
cái thiện chế ngự cái ác, cái chính nghĩa thắng cái gian tà và tinh thần nhân đạo
được đề cao triệt để. Những nhân vật bình thường nhất cũng biết tha thứ cho kẻ
thù, cũng nói được “Oán thù nên giải chứ không nên kết” hoặc “Hồi đầu thị ngạn”
(Quay đầu là bờ)... Và họ đã tha thứ cho nhau. Những nhân vật ma đầu, đầy mình
tội lỗi như Đinh Xuân Thu, Du Thản Chi, Lâm Bình Chi, Thạch Trung Ngọc,... cuối
cùng rồi cũng chỉ bị phế võ công, đưa cho những người nhân hậu quản chế để khỏi
đi gieo rắc cái ác. Không có ai bị giết, bị hành hạ, bị trả thù đau đớn.
Tất cả nỗ lực của Kim Dung nhằm mình họa một nguyên tắc lớn: chữ Võ không bằng
chữ Hiệp. Các nhân vật chính phái của ông hành hiệp cứu đời, xả thân vì cuộc sống,
cứu vớt kẻ trầm luân, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ hòa bình hạnh phúc cho
trăm họ. Họ không mưu cầu lợi danh, địa vị cho riêng mình. Đoạn tiêu biểu nhất
cho cái Hiệp trong tác phẩm Kim Dung là đoạn Trương Vô Kỵ, giáo chủ Minh giáo,
chỉ huy các lực lượng kháng Nguyên, bị một thuộc tướng của mình là Chu Nguyên
Chương đánh thuốc mê và bắt giam. Chu Nguyên Chương có tham vọng lên ngôi thống
lãnh. Trương Vô Kỵ có thể giết Chu Nguyên Chương chỉ với một ngón tay, nhưng đã
không làm điều đó. Anh đã lặng lẽ bỏ ra đi để được suốt đời ngồi vẽ lông mày
cho người yêu là Triệu Minh. Chu Nguyên Chương kháng chiến chống quân Nguyên
thành công lên ngôi cửu ngũ, mở ra nhà Minh, truyền được 263 năm (1380-1643).
Cái mà người ta tìm được trong tác phẩm Kim Dung chính là lòng nhân ái. Lòng
nhân ái đó đặt trên cơ sở của tư tưởng Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo phương
Đông. Trong khi các nhân vật của ông sử dụng võ công để đánh nhau, họ vẫn tôn
trọng lòng nhân ái mà “hạ thủ lưu tình” (xuống tay nhưng vẫn giữ được tình người).
Hai kẻ thù đánh nhau, đến khi chia tay vẫn có thể nói được lời từ biệt: “Non
xanh trơ đó, nước biếc còn đây, còn ngày gặp gỡ.” Chiêu thức nào có tên gọi độc
ác quá, được đổi tên ngay: Thế Lưỡng bại câu thương (đôi bên cùng chết) của
phái Võ Đang được đổi tên thành Thiên địa đồng thọ (đất trời cùng tồn tại) và
được khuyến khích không đem ra sử dụng. Võ công làm nên tiểu thuyết võ hiệp
nhưng không quyết định nội dung tiểu thuyết võ hiệp. Cái quyết định chính là chữ
Hiệp, đứng sau chữ Võ.
RƯỢU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Cũng như nhiều dân tộc khác ở vào vùng khí hậu lạnh, dân tộc trung Hoa thường
thích rượu. Khái niệm rượu đã được người xưa kết hợp với khái niệm lễ, không có
rượu không thành lễ nghi (vô tửu bất thành lễ). Rượu là thức uống kích thích niềm
sảng khoái, được dùng trong y dược Trung Hoa như một chất xúc tác. Thời Tam
Hoàng, Ngũ Đế đã có những bài thuốc ngâm rượu, những cách xông hơi rượu ra đời.
Trong những tác phẩm võ hiệp tiêu biểu của Kim Dung, rượu luôn luôn có mặt, dàn
trải khắp cả câu chuyện.
Chắc hẳn những bạn đọc tác phẩm Kim Dung đều đồng ý rằng đoạn tửu luận của Tổ
Thiên Thu trong Tiếu ngạo giang hồ là đoạn gây sảng khoái nhất. Với đoạn văn
này, Kim Dung đã nâng nghệ thuật uống rượu lên thành một thứ đạo: tửu đạo - và
với cách diễn đạt tài tình, dàn cảnh oái ăm, Kim Dung đã thực sự cuốn hút người
đọc. Tổ Thiên thu biết được Lệnh Hồ Xung, người yêu của Thánh cô Nhậm Doanh
Doanh, đang bị bệnh mất hết công lực. Anh ta bèn ăn cắp Tục mệnh bát hoàn (8
viên thuốc duy trì mạng sống) của một người bạn thân là Lão Đầu Tử, hòa vào rượu
để dẫn dụ cho Lệnh Hồ Xung uống. Nguyên Lão Đầu Tử đã bỏ ra 18 năm để ăn cắp những
kỳ trân, dược vật trên thế gian, chế ra 8 hoàn thuốc thuần âm, chữa trị chứng
"Tiên thiên bất túc" (một dạng suy dinh dưỡng) cho con gái mình là Tiểu
Di. Trong khi đó, bệnh của Lệnh Hồ Xung thuộc trạng thái khí âm hàn. Cho nên,
đem thuốc thuần âm cho kẻ dư khí âm hàn uống khác nào sông Trường Giang nước đã
đầy, lại được tháo nước hồ Bàn Dương, hồ Động Đình đưa vào cho nước thêm đầy
lên, hóa ra càng thêm hại.
Tổ Thiên Thu biết Lệnh Hồ Xung là người khảng khái, không chịu uống thuốc ăn cắp
nên y bày đặt ra chuyện tửu luận, kích thích tinh thần Lệnh Hồ Xung. Theo y, bậc
danh sĩ phải biết uống từng thứ rượu với từng thứ chung riêng: rượu Bồ đào uống
chung Dạ quang; rượu Trúc diệp thanh phải uống chén Dương chi bạch ngọc mà phải
Dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống; rượu trắng phải uống trong sừng trâu, lấy mùi
tanh của sừng chế ngự mùi men nồng của rượu; rượu Bách thảo mỹ tửu được chế với
100 thứ hoa cỏ thơm, phải được uống với chung bằng trúc để thơm hơn...Y nói một
hơi 8 thứ rượu và móc trong bọc ra 8 thứ chén, rót rượu vào mời Lệnh Hồ Xung. Lệnh
Hồ Xung tức khí, nuốt sạch 8 chén rượu; có chén thum thủm mùi cá ươn, có chén
cay sè, có chén rào rạt như ngàn dao đâm vào cổ họng... Thiện ý của Tổ Thiên Thu
là cứu người, vì hắn dốt nát về y lý hóa ra làm hại người.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng nhân vật Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử
phái Hoa Sơn, là một chàng du tử lãng mạn, quý rượu hơn tính mạng mình. Đoạn buồn
cười nhất là đoạn Lệnh Hồ Xung xin rượu Hầu nhi tửu của lão ăn xin dưới chân
thành Hành Dương. Lệnh Hồ Xung chỉ xin uống một hớp và lão cũng chỉ đồng ý cho
uống một hớp mà thôi. Nào ngờ, nghe hơi rượu ngon, Lệnh Hồ Xung đã vận hỗn
nguyên khí công uống sạch bầu rượu. Lão ăn xin lăn đùng ra khóc vì tiếc bầu rượu.
Lệnh Hồ Xung đành phải xin lỗi và mời lão vào tửu lâu, đãi lão một chầu túy lúy càn khôn.
Trong khi uống rượu, các nhân vật của Kim Dung thường thể hiện phẩm cách người
đối ẩm với mình. Đoạn uống rượu đẹp nhất và khiến cho người đọc kinh ngạc nhất
là đoạn Điền Bá Quang mời rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt giam
trên đỉnh Ngọc Nữ Phong để ăn năn, sám hối. Biết bạn rất nhớ rượu, Điền Bá
Quang đã vượt 5000 dặm về tới kinh đô Lạc Dương, vào trong Túy tiên lâu, hoàng
cung của vua Tống, ăn cắp hai hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng. Thấy trong hầm rượu của
hoàng cung còn đến mấy ngàn hũ Thiệu Hưng, Điền Bá Quang phóng cước đá bể tất cả
để "bọn vua quan không còn được uống thứ rượu quý này nữa", vì trên đời
này "chỉ còn Điền mỗ với Lệnh Hồ huynh đệ mới xứng đáng được uống nó mà
thôi". Tuy nhiên, gánh hai hũ rượu lên Ngọc Nữ Phong là chuyện dễ, mà được đối
ẩm với Lệnh Hồ Xung là chuyện cực kỳ khó vì Điền Bá Quang vốn rất sợ sư phụ của
Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Hắn bèn nghĩ cách điệu hổ ly sơn làm Nhạc Bất Quần
lầm mưu xuống núi đi tìm Điền Bá Quang. Thế là hắn ung dung lên Ngọc Nữ Phong đối
ẩm với Lệnh Hồ Xung.
Nhà Nho có câu: "Bậc quân tử lấy văn kết bạn" (Quân tử dĩ văn hội hữu).
Kim Dung đã mượn chén rượu cho những nhân vật võ lâm của mình giao kết với
nhau. Trong tình bạn hay trong tình yêu, chén rượu vẫn làm vai trò của cơ duyên
hội ngộ.
Đọc Thiên Long bát bộ, ta thấy cuộc hội ngộ giữa Kiều Phong, bang chúa Cái Bang
và Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, là cuộc hội ngộ trong hương rượu nồng. Thoát
ra khỏi cảnh giam cầm ở Thái Hồ, Đoàn Dự tìm đến một quán rượu ngoài thành Vô Tích
thì bắt gặp :"Một đại hán mắt sáng như điện, trạc ngoài 30, thân thể cao lớn,
mặc áo vải màu tro, phục sức sơ sài, mộc mạc" đang ngồi độc ẩm. Đoàn Dự nhận
định :"Đây chắc chắn là hào khách của Yên, Triệu; Giang Nam quyết không thể
có nhân vật thế này". Ngoại hình Kiều Phong đã khiến Đoàn Dự kính ngưỡng,
bèn mời Kiều Phong uống rượu. Kiều Phong gọi tất cả 30 cân rượu (khoảng 18 lít)
và đề nghị Đoàn Dự uống bằng bát lớn. Đoàn Dự nào biết uống rượu? Cho nên uống
xong bát đầu tiên, anh đã muốn gục xuống tại chỗ; Kiều Phong chỉ nhìn anh mà tủm
tỉm cười. Đến đây thì Kim Dung "cứu" nhân vật của mình. Vốn Đoàn Dự
đã học được tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm, quy khí lực vào huyệt Đan điền rồi vận
công phóng kiếm khí vô hình ra sáu ngón tay. Từ kiếm khí, Kim Dung cho phép nhân
vật của mình phóng ra... kiếm tửu. Đoàn Dự nạp hết số rượu vừa uống vào huyệt Đại
truy, rồi dẫn rượu đi qua các huyệt Thiên tôn, Kiên chân, Tiểu hải, Chi chính,
Dưỡng lão, Dương cốc, Hậu thoát và "phóng" rượu ra nơi ngón Thiếu trạch
(ngón út). Anh ta cứ gác tay trái lên vách quán rượu, uống bao nhiêu vận nội lực
phóng rượu ra bấy nhiêu khiến Kiều Phong kinh hoàng, tưởng tửu lượng chàng thư
sinh cao không kể xiết!. Từ cuộc đấu rượu hi hữu đó, họ nhận ra phẩm chất của
nhau và kết nghĩa anh em. Cuộc đối ẩm giữa Kiều Phong và Đoàn Dự làm cho người
đọc vừa sảng khoái vừa buồn cười.
Rượu nối kết tình bạn và cũng chính rượu tạo ra hào khí. Trong Thiên Long bát bộ,
có đoạn nhà sư Hư Trúc, cung chủ cung Linh Thứu, bái kết Kiều Phong làm đại ca
trước mặt quần hùng Trung Nguyên khi Kiều Phong đang bị quần hùng vây hãm. Từ
nước Khất Đan, Kiều Phong dẫn 18 tên lính trung thành gọi là Yên Vân thập bát kỵ,
mang theo 36 da dê đựng rượu quay về chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây, anh
bị quần hùng vây hãm. Trong cảnh nguy nan, bỗng dưng Đoàn Dự xuất hiện. Hai anh
em đang bưng rượu lên uống thì một nhà sư xấu xí trong đội ngũ chùa Thiếu Lâm
chạy ra: "Đại ca với tam đệ uống rượu sao không gọi ta?". Nhà sư đó
là Hư Trúc. Hư Trúc đã kết nghĩa với Đoàn Dự nhưng chưa được bái kiến Kiều Phong.
Mặc dù quy luật giới tửu (cấm rượu) của chùa Thiếu Lâm rất khắt khe nhưng khi
đã thấy đại ca và tam đệ uống rượu để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, Hư Trúc cũng
nổi hào khí, muốn uống rượu trước mặt quần hùng để chia sẻ với hai người anh em
những hoạn nạn sẽ xảy ra.
Và quả nhiên bầu rượu nghĩa tình đó đã làm nên đại sự. Kiều Phong chế ngự được
kẻ đại ác Du Thản Chi, vươn tay xách cổ Cô Tô Mộ Dung Phục như người ta xách một
con gà. Đoàn Dự sử dụng 6 thế Lục mạch thần kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất
điên bát đảo, làm phơi bày toàn bộ âm mưu đen tối của nhà Mộ Dung. Hư Trúc vận
Bắc minh chân khí, biến những giọt rượu của đại ca thành băng làm một thứ Sinh
tử phù cấy vào người gã đại ác Đinh Xuân Thu, chế ngự và sanh cầm gã. Bọn Yên Vân
thập bát kỵ, mỗi người một túi rượu, phanh cổ áo để lộ ra hình tượng con chó sói
được xăm trên ngực của dân tộc Khất Đan, hú lên những tiếng hoang dã và ngửa cổ
uống rượu, thể hiện quyết tâm cũng liều chết với chủ tướng Kiều Phong. Chưa có
một đoạn nào trong tiểu thuyết cổ kim miêu tả hào khí của con người trước gian
nan thử thách hay hơn đoạn của Kim Dung viết về cuộc hội ngộ của ba anh em Kiều
Phong - Hư Trúc - Đoàn Dự dưới chân núi Thiếu Thất.
Nhưng rượu trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung không chỉ uống trong lúc đoàn
viên, mà còn được uống trong khi lâm biệt đầy máu và nước mắt. Như trong trận
ác đấu của Kiều Phong tại Tụ hiền trang. Từ khi biết mình là người Khất Đan, Kiều
Phong chỉ mong tìm về bên kia Nhạn môn quan để suốt đời săn chồn đuổi thỏ, tuyệt
không dính dấp đến giới võ lâm Trung Quốc nữa. Nhưng hoàn cảnh đã bó buộc ông
phải cứu lấy cô bé A Châu, và ông đã bế nàng tới Tụ hiền trang ra mắt Tiết Mộ
Hoa, nhờ viên thần y này giúp đỡ. Hóa ra Kiều Phong đã tự dấn thân vào chốn
hung hiểm: quần hùng Trung Nguyên đang họp nhau tại Tụ hiền Trang để bàn kế
sách diệt ông, loài Liêu cẩu man rợ! Kiều Phong nhìn những kẻ đang vây hãm
mình. Họ là những anh em ruột thịt của ông ngày trước ở Cái Bang, là những bạn
bè tốt của ông thuộc các võ phái Trung Quốc, là những người mà ông cha bao giờ
có ý niệm thù hằn, căm ghét. Nhưng cục diện ở Tụ hiền trang lúc đó là một mất một
còn, là ta sống thì người chết. Kiều Phong đã đề nghị anh em Du Ký, Du Câu - chủ
nhân Tụ hiền trang - cho xin mấy vò rượu lớn. Ông rót rượu ra bát lớn, mời anh
em Cái bang uống trước để nói lời cuối cùng, dứt tình đoạn nghĩa. Ông uống rượu
với bạn bè các môn phái mỗi người một bát. Có kẻ bưng tô rượu dứt tình với Kiều
Phong mà nước mắt tuôn rơi. Rồi sau đó, Kiều Phong đại khai sát giới, tìm con
đường sống riêng cho mình, chạy về bên kia ải Nhạn môn quan nghìn trùng xa
cách.
Có trường hợp uống rượu tưởng như chia biệt lại hóa ra đoàn viên. Đó là trường
hợp uống rượu kỳ cục của Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên), một thiếu niên ngây
thơ, trong trắng trước hai ông anh kết nghĩa đầy mưu mô xảo quyệt là Trương Tam
và Lý Tứ. Trương Tam, Lý Tứ thật ra chỉ là tên giả mạo; họ chính là hai sứ giả
Thưởng Thiện và Phạt Ác của đảo Long Mộc ngoài biển Đông. Trương Tam, Lý Tứ
cũng giả vờ kết nghĩa với Thạch Phá Thiên, cũng thề đồng sinh đồng tử, nhưng
trong bụng hai lão chỉ muốn chàng thiếu niên này chết đi cho khuất mắt. Trương
Tam có bầu rượu dương cương, Lý Tứ có bầu rượu âm nhu, mỗi lão tự uống bầu rượu
của mình và lão này rất sợ bầu rượu của lão kia. Kết nghĩa xong, chàng thiếu
niên Thạch Phá Thiên đề nghị... uống rượu. Thạch Phá Thiên ngây ngô, xin được uống
hai thứ rượu trong đủ hai bầu. Trương Tam, Lý Tứ cả mừng vì đinh ninh thế nào
thằng nhỏ này cũng chết tươi vì hai thứ rượu xung đột nhau. Một lần nữa, Kim
Dung lại "cứu” nhân vật ngây thơ, trong trắng của mình. Thạch Phá Thiên đã
từng ngộ kỳ duyên, con người chàng ta dung hòa được cả hai loại chất độc dương
cương và âm nhu. Cho nên uống rượu xong, chẳng những chàng trai trẻ không chết
mà công lực còn tăng tiến. Trương Tam, Lý Tứ hối hận và xấu hổ vô cùng. Từ tình
bạn giả trá, họ đã đổi ra tình bạn chân thành. Cẩu Tạp Chủng trở thành người em
tốt của Thưởng Thiện và Phạt Ác. Đó là chương uống rượu thú vị nhất trong toàn
bộ bộ truyện Hiệp khách hành.
Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung còn làm nên tình yêu lứa đôi, giàu chất thơ
lãng mạn. Có những lứa đôi gặp gỡ lần đầu tiên qua chén rượu và tình yêu bắt
nguồn từ đó. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Thúy Sơn làm quen với Hân Tố Tố
qua chén rượu trên con thuyền nhỏ đậu giữa lòng Thái Hồ. Trương Vô Kỵ cũng gặp
gỡ và yêu quận chúa Triệu Minh qua chén rượu. Đoạn giàu chất thơ nhất của Ỷ
thiên Đồ long ký là đoạn Triệu Minh nhớ Vô Kỵ, tìm lên tửu lâu và ngồi đúng vào
cái bàn mà hai người đã từng ngồi đối ẩm. Thiếu vắng Vô Kỵ, cô cũng gọi bình rượu,
thức ăn, hai cái chén, hai đôi đũa, hai chung rượu. Cô rót rượu ra đủ hai
chung, uống một chung và nước mắt rơi. Đúng lúc đó thì Trương Vô Kỵ xuất hiện.
Và họ tìm lại được hơi ấm tình yêu trong chung rượu đối ẩm.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung thường đối ẩm với người yêu là Doanh
Doanh. Một nhân vật khác, Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam, cũng
rất say đắm Lệnh Hồ Xung. Cô mang vò rượu Ngũ độc mỹ tửu, trong đó có ngâm năm
thứ trùng độc, từ Vân Nam đến Giang Nam để chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cảm xúc
tấm thịnh tình đó, Lệnh Hồ Xung đã uống rượu cho cô vui lòng. Tác giả Kim Dung
đã để cho Lam Phượng Hoàng hôn Lệnh Hồ Xung trước mặt mọi người, kể cả sư phụ của
Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Trong con mắt của Lam Phượng Hoàng, kẻ biết uống
rượu của cô mới là người tốt.
Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi trở về Nhạn môn quan, Kiều Phong nhớ A Châu là
tìm đến chung rượu giải sầu. Đoạn đẹp nhất trong mối tình hai người là đoạn Kiều
Phong ngồi nghe A Châu tâm sự: "Đại ca ơi, tiểu nữ nguyện suốt đời đi theo
đại ca về Nhạn môn quan săn chồn đuổi thỏ, sống cuộc đời ung dung khoái lạc".
Nghe cô bé tâm sự, Kiều Phong cao hứng. Trong cái quán nghèo ngoài biên giới
không có một giọt rượu, ông cũng giả vờ nâng cái chén không lên, ngửa cổ ra như
đang thực sự thưởng thức men rượu nồng.
Trong Thần điêu hiệp lữ, có cô bé Quách Tương, 16 tuổi, say mê người anh họ
mình là Thần điêu đại hiệp Dương Qua. Mặc dù Dương Qua chạy theo hình bóng của
sư phụ là Tiểu Long Nữ, không nghĩ đến mối tình si của Quách Tương, Quách Tương
vẫn vượt ngàn dặm ra đi tìm anh. Trong túi hành trang của cô bé, luôn luôn có một
bầu rượu. Cô chỉ có mỗi ước mong: cùng Dương Qua đối ẩm. Nhưng ước mong đó
không bao giờ thành hiện thực. Quách Tương lên núi đi tu, trở thành sư tổ phái
Nga Mi.
Những lứa đôi yêu nhau của tác phẩm Kim Dung uống rượu như ta uống cà phê. Họ gặp
nhau là mời nhau chén rượu, trang trọng, cung kính. Không có ai uống rượu đến nỗi
quần áo xốc xếch, ong bướm lả lơi. Chén rượu trong tình yêu của tiểu thuyết võ
hiệp Kim Dung mang theo tính cách đạo đức mặc dù khung cảnh uống rượu lãng mạn
vô kể: uống trong quán khuya vắng người, uống trong căn phòng chỉ có hai người,
giữa đêm mùa dông tuyết rơi lả tả; uống trên con thuyền nhỏ chơi vơi giữa đêm
trăng trên dòng Trường Giang mông mênh.
Nhân vật Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn trong Tiếu
ngạo giang hồ luôn luôn gắn liền tâm hồn mình với chén rượu. Kim Dung mô tả Mạc
Đại :"Tướng mạo tiên sinh điêu linh cổ quái, lúc nào cũng như ba phần tỉnh,
bảy phần say". Mạc Đại có cây dao cầm rất cũ kỹ, trong cây dao cầm lại giắt
một lưỡi kiếm mỏng như lá lúa. Tiên sinh xuất hiện dưới chân núi Hành Sơn,
trong quán rượu đầy ấn tượng. Quần hùng gồm 7 gã, uống 7 chung trà, đang ngồi
nghị luận rằng võ công Mạc Đại còn kém thua sư đệ mình là Lưu Chính Phong vì
Lưu Chính Phong đánh ra một đường kiếm là đứt đầu 5 con chim nhạn. Lúc đang nói
chuyện cao hứng thì một ông già gầy gò đi đến, nghẹo cổ nhìn các hán tử và bảo:
"Các người nói thúi lắm!". Rồi bỗng dưng, các gã hán tử chỉ thấy trước
mắt hoa lên một cái như có một luồng ánh sáng lấp lánh. Ông già gầy gò bỏ đi,
tiếng đàn tình tang xa dần. Một cơn gió nhẹ thổi qua trên bàn rượu, 7 cái miệng
chén bị cắt đứt lìa lần lượt rơi xuống mặt bàn, vỡ tan. Hóa ra kẻ lam lũ ấy là
Mạc Đại tiên sinh. Ông già say ấy rút kiếm khi nào, chém 7 miệng chén khi nào,
đút kiếm vào đáy cây dao cầm khi nào, không ai nhìn rõ được. Chỉ với một đường
kiếm tiện đứt 7 miệng chung thì 7 đầu chim nhạn phỏng có là bao!. Rõ ràng, trong
đoạn này có hai thứ: một thứ trà sinh nói bậy của 7 hán tử và một thứ rượu cực
kỳ tỉnh táo của Mạc Đại tiên sinh.
Rượu trong truyện võ hiệp của Kim Dung cũng biến thành một thứ võ khí. Trong
Thiên Long bát bộ, bọn Dư Bà Bà của cung Linh Thứu tung bì rượu lên thành thế
Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời) cho chủ nhân mình là Hư Trúc dùng Bắc minh
chân khí hóa rượu thành băng, khống chế địch thủ. Rượu được dùng để pha độc dược,
trừng trị những anh háo sắc. Vợ của Mã Đại Nguyên là Ôn Thị tư tình với Đoàn
Chính Thuần, em ruột nhà vua nước Đại Lý. Giận Chính Thuần lòng dạ lang chạ, Ôn
Thị đã pha bình Mê xuân tửu dụ cho Đoàn Chính Thuần uống, rồi trói lại và bắt đầu...
cắn từng miếng thịt của Đoàn Chính Thuần để trả thù. Trong Lộc Đỉnh ký, Vi Tiểu
Bảo đã biết dùng Mê xuân tửu từ thuở bé. Mẹ của y là Vi Xuân Hoa, làm điếm
trong thành Dương Châu đã từng pha thuốc mê vào rượu cho bọn làng chơi uống, để
trấn lột tiền tài vật dụng. Đắc thủ được bài học lưu manh đó khi làm quan lớn ở
Bắc Kinh, Vi Tiểu Bảo cũng pha chế những bình Mê xuân tửu để hãm hại, vu cáo những
kẻ thù của mình. Từ rượu độc, Vi Tiểu Bảo nghĩ ra những trò đầu độc khác tệ hại
hơn và tất nhiên mực độ lưu manh hạ cấp cao hơn.
Rượu trợ lực cho những màn tác oai, tác quái của bọn quan lại triều Thanh. Để
hành hạ Trịnh Khắc Sảng, kẻ tình địch ngày trước của mình, Vi Tiểu Bảo đã cho
tiền để bọn thị vệ dưới quyền uống rượu thoải mái. Uống xong, chúng kéo qua tư
dinh Trịnh Khắc Sảng, đòi nợ cho "công tước" Vi Tiểu Bảo. Chúng đập
phá nhà cửa, tài sản, lăng nhục Trịnh Khắc Sảng và vợ con, bắt cóc, giết người
rồi vu cáo...
Đọc tác phẩm Kim Dung, ta biết được người Trung Quốc có nhiều thứ rượu danh tiếng:
Thiệu Hưng Nữ nhi hồng, Thiệu Hưng Trạng nguyên hồng, Trúc diệp thanh, Mai quế
lộ, Bách thảo tửu, Biên tái tửu, Hầu nhi tửu, Bồ đào tửu, Ngũ gia bì, Kim tước
tửu... Đọc Kim Dung, ta mới biết được phong cách uống rượu của người Trung Quốc:
rượu thường được hâm nóng trước khi uống, nhất là vào mùa đông. Thỉnh thoảng,
trong vài tình huống đặc biệt, khi công nghiệp làm nước đá chưa ra đời, tác giả
đã để cho nhân vật mình làm ra băng để uống rượu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, có
đoạn Lệnh Hồ Xung cùng Hướng Vấn Thiên tìm về Cô Mai sơn trang ở Giang Nam gặp
gỡ Giang Nam tứ hữu. Để mời rượu Lệnh Hồ Xung giữa mùa hè nóng bức, Đan Thanh
tiên sinh đã nhờ anh mình là Hắc Bạch Tử dùng Hàn băng chưởng hóa nước thành ra
nước đá ướp lạnh rượu bồ đào Thổ Lỗ Phồn!
Đọc Kim Dung, ta mới biết được những cách uống rượu khác nhau. Đối ẩm là hai
người uống, thường là tình nhân hoặc bạn hữu thân thiết. Độc ẩm là uống một
mình, trong lòng đang lo nghĩ hoặc tưởng nhớ. Cộng ẩm hay Quần ẩm là một nhóm
người cùng uống với nhau. Loạn ẩm là một đám đông cùng uống. Trong Tiếu ngạo
giang hồ, đoạn loạn ẩm hay nhất là đoạn bọn tà ma ngoại đạo thết tiệc Lệnh Hồ
Xung để lấy lòng Thánh cô Doanh Doanh. Thương nhau, quý nhau, người ta mới tặng
rượu. Quần hào Cái bang Trung Quốc, tuy là đi ăn mày, đáng lẽ chỉ xin cơm, thì
người ta còn xin cả rượu nữa.
Chén rượu của Kim Dung đã làm cho những nhân vật của ông nổi tiếng. Hồng Thất
Công nổi tiếng chuyên uống rượu với thịt chó. Kiều Phong nhờ rượu mới phát huy
được thần oai, càng uống càng mạnh, càng tỉnh táo. Hư Trúc nhờ uống rượu phá giới
mà tìm ra được cô vợ sắc nước hương trời: công chúa Văn Nghi của nước Tây Hạ.
Thạch Phá Thiên nhờ uống hai thứ rượu độc mà hóa giải được sự xung đột của âm
dương nhị khí, đạt đến mức thượng thừa trong võ học... ở chừng mực nào đó, Kim
Dung đã nghĩ đến câu cổ thi:
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Xưa nay thánh hiền đều lặng lẽ
Chỉ người uống rượu mới còn danh)
(Lý Bạch)
Tác phẩm của Kim Dung tràn đầy rượu và rượu. Trừ những nhà sư, các nhân vật của
ông ít nhiều đều biết đến chén rượu. Rượu làm nên sự hưng phấn cho cuộc đấu tranh
chống cái ác, biểu dương cái thiện và lẽ công bằng ở đời.
Uống rượu nhiều tất có tình trạng say rượu xảy ra. Những người say trong tác phẩm
Kim Dung cũng say một cách tử tế. Trong những hội loạn ẩm, họ xài quyền thách đố
nhau hoặc cãi cọ chửi bới. Duy nhất trong 12 bộ truyện, có một nhân vật say rượu
phạm vào tội đại ác, trở thành một thứ tửu tặc. Nhân vật đó là Thành Khôn, sư
phụ của Tạ Tốn trong Ỷ thiên Đồ long ký. Thành Khôn giả say rượu, đã làm nhục
và giết hại vợ con của đồ đệ mình. Y lẻn vào chùa Thiếu Lâm làm một nhà tu giả
mạo dưới pháp danh Viên Chân. Kẻ tửu tặc ấy đã bị tìm ra, bị trừng trị nhưng rồi
cuối cùng cũng được tha thứ.
Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung khác xa với rượu ở miền Viễn Tây Mỹ trong
phim cao bồi, khác xa với rượu trong các hộp đêm trên toàn thế giới và cũng
khác xa với "rượu" trong các quán bia ôm. Chính vì thế, tôi mạnh dạn
gọi rượu trong truyện Kim Dung là một loại rượu đạo đức. Rượu trong truyện Kim
Dung thể hiện triết lý nhân sinh gần gũi cuộc sống. Nó làm nên tình yêu, tình bạn,
hận thù, sự tha thứ, mối hoài cảm, niềm hối tiếc. Qua rượu, Kim Dung hé mở cho
chúng ta nhìn thấy một khoa học mới: tửu học. Với một chữ Rượu, Kim Dung đã vượt
xa hơn bất kỳ nhà văn nào khác. Rượu của ông có bài bản, có tính chất triết lý
tề chỉnh. Nó góp phần làm nên cái đẹp cho đời sống con người. Men rượu kết hợp
với men tình, men võ khiến ta không “uống” được tác phẩm mà lòng vẫn say.
ÂM NHẠC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Kim Dung quan niệm âm nhạc cũng như một thứ võ công, có thể giúp người ta dưỡng
thương, chữa bệnh, mê hoặc và khắc chế địch thủ. Trên một đất nước Trung Hoa rộng
lớn, đa chủng tộc và sắc tộc, nhiều loại hình âm nhạc đã ra đời và hình thành.
Trong những tác phẩm võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành cho âm nhạc một vị trí
quan trọng. Âm nhạc có ở khắp mọi nơi. Trong tác phẩm võ hiệp của ông, ta bắt gặp
"cái vỏ" là sự đấu tranh của võ lâm đầy đau thương, sắt máu nhưng
"cái ruột" chính là tâm hồn nghệ sĩ khoáng dật, thanh thoát...
Có những tác phẩm mà âm nhạc như một sợi chỉ xuyên suốt, trở thành cốt lõi, chi
phối toàn bộ và tạo nên cái hồn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của Tiếu ngạo
giang hồ. Tác phẩm này lấy chủ đề từ một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu giữa bạch đạo
và hắc đạo, giữa chính và tà. Đó là bản nhạc hợp soạn giữa hai người nghệ sĩ,
hai nhân vật võ lâm tiêu biểu: Lưu Chính Phong, sư đệ của chưởng môn phái Hành
Sơn và Khúc Dương, trưởng lão của Triệu Dương thần giáo. Vốn xưa, họ là hai người
đứng ở hai thái cực, hai thế lực đối nghịch với nhau, coi nhau là cừu hận.
Nhưng rồi âm nhạc đã nối kết tình bạn của Lưu Khúc lại và người này nhìn ra bản
chất nghệ sĩ tài hoa của người kia. Khúc Tiếu Ngạo giang hồ ra đời như kết quả
của hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu và đồng cảm, một khúc nhạc có khả năng
hóa giải sự khác biệt giữa hắc và bạch.
Lưu Chính Phong và Khúc Dương, một cầm một tiêu, đã hòa tấu bản này đạt tới đỉnh
cao nhất của âm nhạc "khoan hòa trung chính, khi mau sầm sập, khi khoan
thai, chỗ trầm lắng, chỗ cao vút", tương thông tâm ý. Lưu Chính Phong ăn mừng
thọ 60 tuổi, muốn rửa tay gác kiếm để tìm những tháng ngày ung dung tự tại giữa
một đời đấu tranh trá ngụy. Thế nhưng, phái Tung Sơn mà lãnh tụ là Tả Lãnh Thiền
đã huy động hết lực lượng của Hoa Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn nhằm ngăn cản hành động
của Lưu Chính Phong, vu cáo rằng "Lưu Chính Phong kết bạn tà ma", buộc
Lưu Chính Phong phải tìm cách giết Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triệu
Dương thần giáo. Không đồng ý với cách sống bán bạn cầu vinh, Lưu Chính Phong
đã chịu một thảm kịch đau đớn: nhà tan người chết, bản thân bị trọng thương.
Khúc Dương nhanh tay cứu bạn, đưa bạn chạy về dưới núi Hành Sơn. Nơi đây, hai đại
cao thủ đã hợp tấu lần sau cùng trước khi qua đời rồi trao bản nhạc cho đệ tử
phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung.
Phải chăng khát vọng Tiếu Ngạo giang hồ là không bao giờ có thể thực hiện được
giữa một cuộc sống đầy đua tranh, thù hận, chia rẽ và bạo lực? Cầm bản đàn của
hai bậc tiền bối, Lệnh Hồ Xung phiêu bạt giang hồ, thân danh tàn tạ, bị khinh
miệt, bị đánh, bị vũ nhục, bị vu cáo. Người ta cứ đinh ninh rằng đó là một loại
bí lục võ công thượng thặng! Lệnh Hồ Xung gặp nàng Doanh Doanh trong ngõ Lục
Trúc thành Lạc Dương, ngỏ hết nỗi đau thương của đời mình, trong đó có niềm đau
về mối tình đầu tan vỡ. Doanh Doanh đã dạy cho Lệnh Hồ Xung khúc đàn Thanh tâm
phổ thiện trú để duy trì mạng sống. Âm nhạc trở thành một liều thuốc chữa bệnh
tâm thần, tạo nên sự hưng phấn, đem lại nguồn sống cho Lệnh Hồ Xung.
Đoạn dễ thương nhất của Tiếu ngạo giang hồ là đoạn Doanh Doanh đàn Thanh Tâm Phổ
Thiện Trú ru cho Lệnh Hồ Xung ngủ. Cuối cùng, âm nhạc cũng không đủ tác dụng vực
dậy một tâm hồn đau thương trong một thể xác đã suy tàn, nàng đành cõng tình
lang lên chùa Thiếu Lâm, chịu bị cầm tù để tình lang được chữa trị. Kết thúc Tiếu
ngạo giang hồ là một kết thúc thật đẹp. Lệnh Hồ Xung chữa được thương thế, cùng
Doanh Doanh hợp tấu bản Tiếu ngạo giang hồ, sống cuộc đời thanh bình, hạnh
phúc.
Tiếu ngạo giang hồ đưa ra một luận điểm triết lý sâu sắc: con người sinh ra
không thể sống một mình, cũng không thể sống hai mình khi tâm ý chẳng tương
thông. Khát vọng của Tiếu ngạo giang hồ chính là tình thương yêu con người đằm
thắm. Sự giao hòa âm nhạc tạo nên giao hòa tình yêu và chỉ có tình yêu chân
chính mới đạt đến hạnh phúc làm người.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp một loại hình âm nhạc khác - âm nhạc lang
thang của chưởng môn phái Hành Sơn Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Với vóc
dáng "điêu linh cổ quái", người chưởng môn ấy từ chối quyền lực và
danh vọng, mang một cây dao cầm trong có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa,
vui chơi bốn biển năm hồ. Kiếm để trừ diệt kẻ ác, dao cầm để di dưỡng tâm hồn.
Mạc Đại tiên sinh chính là hình tượng mà Nam Hoa Kinh của Trang Tử thường mơ ước:
"Khi cao lên 9000 dặm, nương mây cỡi gió mà bay". Tiếc thay, ông ta
chưa đạt được phong cách thần tiên thoát tục đó bởi cái khúc Tiêu Tương dạ vũ
mà tiên sinh thường hay hát là một "bài ca buồn bã có đi mà không có lại".
Tiếng hát của tiên sinh là tiếng hát lênh đênh trong ảo ảnh sương khói và suốt
đời, tiên sinh chỉ là một nghệ sĩ lang thang. Mạc Đại là nhà du ca lớn nhất
trong Tiếu ngạo giang hồ và trong toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, một
thứ thần tiên bị đọa phải nhập thể và nhập thế. Nếu Doanh Doanh chơi nhạc thính
phòng thì âm nhạc của Mạc Đại là nhạc du ca.
Nhưng Tiếu ngạo giang hồ không phải chỉ có chừng đó dạng âm nhạc. Tiếu ngạo
giang hồ còn có khúc "Sơn ca Phúc Kiến" của Lâm Bình Chi mang về núi
Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh San hát. "Chị em lên núi hái chè", câu sơn
ca đó làm tan hồn nát ruột Lệnh Hồ Xung vì mỗi khi Nhạc Linh San hát lên, anh
biết nàng ta đang nghĩ tới Lâm Bình Chi và phụ rẫy mối tình đầu của mình.
Tiếu ngạo giang hồ còn có một bài ca rất buồn cười mà bọn giáo chúng Triệu
Dương thần giáo đồng thanh hợp ca để tâng bốc Nhậm Ngã Hành khi lão vừa chiếm lại
được ngôi giáo chủ: "Thánh giáo văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh,
thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ. Bọn thuộc hạ đưa lời cung nghinh
thánh giáo chủ thương sinh trạch bị, ơn khắp lê dân..." Nguyên cái loại
"âm nhạc" này phát xuất từ thời giáo chủ Đông Phương Bất Bại. Khi
Đông Phương Bất Bại trở thành "tất bại", bọn giáo chúng Triệu Dương
thần giáo mới dùng nó để ca ngợi Nhậm Ngã Hành. Cả ngàn người cùng há miệng hò
ca chấn động cả lỗ tai người nghe! Thứ "âm nhạc" này bị coi là nhạc sến!
Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã để cho âm nhạc xuất hiện trước tiên với
nhân vật Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo tuổi ngoài 40, khuôn mặt
xương xương, giỏi kiếm, giỏi cờ, giỏi đàn, được xưng tụng là tam thánh, từ Côn
Lôn xuống Trung Nguyên. Ông ta có một khúc đàn tuyệt vời, có thể sai khiến trăm
chim tụ họp về nhảy múa, ca hót gọi là Không sơn điểu ngữ. Cô bé Quách Tương,
19 tuổi, đi tìm Dương Qua, đã gặp người trung niên tài hoa Hà Túc Đạo ngoài rừng
chùa Thiếu Lâm, được nghe khúc Bách điểu triều phụng và tiếng muôn chim ca hót.
Hình ảnh trong sáng, tươi đẹp của cô đã in ngay vào trong tâm hồn chàng nghệ sĩ
trung niên.
Hôm sau, khi chiến đấu với ba cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực trước sự chứng kiến của
Quách Tương, Hà Túc Đạo chỉ dùng đến một tay, tay còn lại vận Cách không chỉ
phóng vào cây dao cầm đang để dưới đất, mời Quách Tương nghe bản nhạc mình mới
sáng tác tặng cô. Kiếm chưởng thì sát phạt sắt máu, tiếng đàn lại lãng mạn xuân
tình, u uất thương nhớ. Cái công phu phân ý của Hà Túc Đạo quả thật hy hữu! Cô
bé Quách Tương thơ ngây nghe hết cung đàn, cảm động và đỏ mặt vì biết Hà Túc Đạo
đang dùng âm nhạc tỏ tình với mình. Thế nhưng mối tình của Hà Túc Đạo cũng chẳng
tới đâu. Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn, hổ thẹn chạy về núi Côn Lôn. Quách
Tương yêu Dương Qua mà tìm nhau không gặp, lên núi Nga My đi tu, mở ra phái Nga
My. Âm nhạc của Hà Túc Đạo cũng "có đi mà không có lại". Nó trở thành
bài biệt ca của tình yêu.
Nhưng âm nhạc hay nhất, đẹp nhất, mang giá trị nhân bản cao nhất vẫn là bài Hỏa ca của giáo chúng Minh giáo (tức Bái Hỏa giáo), truyền từ Ba Tư (tên cũ: Perse
- thời ấy chưa gọi Iran) sang Trung Quốc. Đây là bài ca được hát trên Quang
Minh Đỉnh khi quần hùng Trung Quốc bao vây quần hùng Minh giáo, vu cáo họ là tà
giáo, có ý muốn đuổi tận diệt. Theo tác giả Kim Dung, bài Hỏa ca lấy từ thơ của
nhà thơ lớn Ba Tư Omar Khayam, có những câu được dịch thoát ra như thế này:
Đốt tàn thân xác của ta
Ngọn lửa thánh bốc cháy lên đỏ rực
Sống đã chẳng có chi là hạnh phúc
Thì chết đi nào có khổ đau gì.
Vì thiện lương, ta trừ cái ác
Nẻo quang minh cứ vậy mà đi
Hỷ, Lạc, Sầu, Bi xin gởi về cát bụi
Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn lắm khi.
Giữa cảnh đang bị cường địch bao vây, giáo chúng Minh giáo vẫn ung dung tự tại
hát lên bài Hỏa ca dâng lên đức Giáo chủ Minh Tôn Di Lạc, bày tỏ tấm lòng của
mình với cuộc đời và thể hiện khí phách hiên ngang trước cái chết. Trương Vô Kỵ
đã nghe được bài ca đó và nhận ra rằng Minh giáo là một đạo nhân bản, rằng những
lời kết án Minh giáo là bàng môn tả đạo là những lời xuyên tạc, rằng việc chống
lại người Minh giáo là hành động phi nhân. Và chàng đã xả thân cứu quần hùng
Minh giáo, nguyện hiến tấm thân vì trăm họ để cho giáo chúng Minh giáo được sống.
Chàng được Minh giáo Trung Hoa bầu lên làm giáo chủ, huy động các lực lượng
Minh giáo chống lại quân Nguyên, giành lại được giang sơn từ giống nòi di tộc.
Chu Nguyên Chương lên ngôi cũng còn biết nhớ nguồn gốc của mình xuất thân từ
Minh giáo nên đặt đế hiệu là Minh Thành Tổ. Người Minh giáo mặc áo đạo bào trắng,
trước ngực áo có vẽ ngọn lửa đỏ, gặp nhau chào bằng hai bàn tay chắp lại thành
hình ngọn lửa. Và thánh ca của họ chính là bài Hỏa ca, bài mang một giá trị
nhân bản, nhân đạo tuyệt vời.
Trong Thiên Long bát bộ, âm nhạc mới phong phú làm sao. Trước hết, người ta dễ
nhận ra bài ca "chiến thắng" ê a của bọn lính Khất Đan sau những cuộc
"hành quân" qua thảo nguyên ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn chúng bắt đàn
bà, giết trẻ em, tước đoạt tài vật của những gia đình lương dân Trung Quốc. Ấy
thế mà chúng vẫn hát được!.
Cũng trong bộ truyện này, người đọc thật sự cảm thấy thú vị với bài ca bợ đít của
bọn đệ tử phái Tinh Tú nhằm ca ngợi Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu. Mỗi khi
Đinh Xuân Thu xuất hiện hay lâm trận, bọn đệ tử đồng thanh hát:
Tinh Tú lão tiên
Danh lừng Trung thổ
Oai lực vô biên
Đánh đâu thắng đó
Nhân vật Bao Bất Đồng, một thuộc hạ của Cô Tô Mộ Dung Phục đã làm cho phái Tinh
Tú mắc lỡm khi cất giọng solo bài này dưới chân núi Thiếu Thất để bọn Tinh Tú
“hợp ca” theo:
Tinh Tú lão tiên
Danh lừng Trung thổ
Oai lực vô biên...
Thối hơn rắm chó
Đem “rắm chó” vào trong bài ca để “hướng dẫn” bọn đồ đệ Tinh Tú hát theo làm
trò cười cho thiên hạ, cách phê phán thói nịnh của Kim Dung vừa bình dân, vừa
bác học hết chỗ nói.
Nói đến âm nhạc trong Thiên Long bát bộ, ta không thể quên hai nhân vật quái dị
trong nhóm Hàm Cốc bát hữu (tám người bạn ở Hàm Cốc) là Cầm điên Khang Quảng
Lăng và Hí mê Lý Quỹ Lỗi. Cầm điên Khang Quảng Lăng đánh địch bằng cây dao cầm.
Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta nhảy loạn lên, đầu óc trở thành u mê,
hồ đồ. Tiếng đàn của lão thoạt đông, thoạt tây; khi trên, khi dưới khiến người
ta tưởng khinh công của lão xuất thần nhập hóa. Nhạc sĩ Khang Quảng Lăng này rất
hồ đồ. Lão tin rằng tiếng đàn của lão có thể làm người chết sống lại: "Vậy
mộ của Huyền Khổ đại sư chôn ở đâu? Dẫn ta đến mau, ta đàn cho đại sư nghe một
khúc, không chừng đại sư có thể sống lại (?)". Ngược lại với Khang Quảng
Lăng, nhân vật Lý Quý Lỗi là một con hát. Anh ta vừa đánh, vừa hát bội, thậm
chí khi bị đánh gãy chân, thay vì rên la, anh ta lại mở miệng hát (!). Hai nhân
vật chơi nhạc trong Hàm Cốc bát hữu là hai con người hồn nhiên như trẻ con. Họ
xuất hiện rất ngắn nhưng để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người đọc. Trong
Thiên Long bát bộ, người ta còn nghe bài ca "Xin cơm" của anh em Cái
bang, một bài hát không dùng vào việc xin cơm thông thường mà để kết Đả cẩu trận,
khắc chế địch nhân hung hãn. Khi viết về âm nhạc, kiến thức âm nhạc của Kim
Dung tiên sinh cũng rất tinh tường và phong phú. Trong Lộc Đỉnh ký, ông đã
trích lại bài ca của danh sĩ Ngô Mai Thôn nói về Trần Viên Viên - một danh kỹ
cuối Minh đầu Thanh, người tình của Lý Sấm và Bình Tây Vương Ngô Tam Quế. Trần
Viên Viên được mô tả "mặt đẹp như Quan Âm", sống một cuộc đời đau
thương chìm nổi đúng như định đề cổ điển của văn học "hồng nhan đa
truân". Tất cả những đau thương đó đều được đúc kết thành Viên Viên khúc.
Khi đi tu, Viên Viên vẫn hát khúc ca Ngô Mai Thôn viết cho mình với cây dao cầm.
Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi nghe được dăm ba
câu. Chỉ có Vi Tiểu Bảo, một kẻ chẳng hiểu âm nhạc là gì, lại có hồng phước
nghe được trọn bài. Viên Viên khúc nghe thật buồn bã, đúng là một bài ca mất nước
chẳng khác gì Hậu đình hoa của Lý Hậu chủ trong thơ Đỗ Mục:
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
(Con hát biết đâu hờn vong quốc
Bên sông còn hát Hậu đình hoa)
Lộc Đỉnh ký còn có một loại "âm nhạc" ngộ nghĩnh khác: những bài ca nịnh
bợ của bọn Thần Long giáo. Đó là những bài ca mang tính chất tự kỷ ám thị dùng
trong lúc đánh nhau, đã được Kim Dung viết với một giọng văn thô thiển, phù hợp
với "trình độ" của bọn giáo chúng ngu muội:
Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch nhân thấy bóng chạy tơi bời
Cứng rắn cũng tan tành xác pháo
Hồng giáo chủ ra oai sấm sét
Chúng đô nhi sức mạnh phi thường
Ta một người trăm địch khôn đương
Địch hàng vạn trăm quân đủ thắng
Hồng giáo chủ thần kinh như điện
Chiếu nhãn quang ra khắp muôn phương...
Những bài hát như vậy mang tính kinh điển, khẩu hiệu, quê muội, tự nó đã nói
lên được kiểu lừa bịp trá ngụy của những tà giáo thứ thiệt. Cái hay của Kim
Dung là ông chỉ mô tả sự kiện, tường thuật vấn đề không bình luận. Nhưng thông
qua sự kiện, vấn đề, người đọc nhận biết được ý đồ của ông, hiểu được ông muốn
nói lên điều gì. Bài ca tập thể lạ lùng của giáo chúng Thần long giáo sau đây
khiến người ta nghĩ đến “bài ca” của các tiểu tướng Hồng vệ binh ở Trung Quốc
trong thời kỳ Cách mạng văn hóa:
Bảo huấn của giáo chủ
Thời khắc ghi trong lòng
Lập công và thắng địch
Trường thọ với non sông.
Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc xuất hiện khắp mọi nơi trên đất nước
Trung Hoa rộng lớn. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta nghe được tiếng hát vùng Sơn
Đông - Triết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, ta
nghe được khúc sáo ma quái, nhiếp hồn của Đông tà Hoàng Dược Sư. Trong Tiếu ngạo
giang hồ, ta nghe được tiếng hát của dân tộc Miêu Cương của giáo chủ Ngũ Độc
giáo Vân Nam Lam Phượng Hoàng. Trong Lộc Đỉnh ký, ta nghe được bài ca Trầm
Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào hoa phiến, ca ngợi cái chết anh
hùng của nhà yêu nước Sử Các Bộ, người chịu hy sinh để giành lại đất nước trong
bàn tay di tộc. Nhưng không phải ai cũng có thể hát được khúc Trầm Giang. Đi
trên sông Liễu Giang giữa đêm mưa gió, cả mấy chục người mà chỉ có Trần Cận Nam
- Tổng đường chủ của Thiên Địa hội - và Ngô Lục Kỳ - đường chủ Hồng Thuận đường
của Thiên địa hội - mới đủ công lực cất lên tiếng hát át cả tiếng cuồng phong sậu
vũ:
Đầy lòng phẫn nộ ngỏ cùng ai
Giọt lệ già nua dạ ái hoài
Trong chốn cô thành mong cứu viện
Tàn quân huyết chiến luống bi ai
Đoái trông cố quốc lòng đau xót
Trùng vây không nỗi vượt ra ngoài
Trường giang một dải ba ngàn dặm
Nỡ để về tay kẻ khác loàị...
Và:
Non nước ngàn thu để tiếng truyền
Đau lòng huyết lệ khắp Tây Xuyên...
Trong Thiên Long bát bộ, ta nghe được tiếng hát bài ca "Hái sen ở Giang
Nam" (Giang Nam khả thái liên) hòa với tiếng đàn hồ cầm thánh thót của cô
gái đẹp A Bích tại Yến tử ổ, Giang Nam:
Giang Nam khả thái liên
Liên điệp hà điền điền
Ngư hý liên điệp đông
Ngư hý liên điệp tây...
(Giang Nam ta hãy hái sen
Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá đùa bên lá sen phía đông
Cá đùa bên lá sen phía tây...)
Nhưng tiếng hát đẹp nhất, mang nặng tính chất triết lý nhất là vẫn là tiếng hát
của Tiểu Siêu, cô gái lai người Ba Tư. Tiểu Siêu là cô bé 16 tuổi, được mẹ là Đại
Y Ty đưa vào "nằm vùng" trong Minh giáo Trung Quốc, len lỏi lên Quang
Minh Đỉnh để tìm cách đánh cắp bộ thần công Đại nã di tâm pháp. Cô trở thành
con hầu của giáo chủ Trương Vô Kỵ và thầm yêu trộm nhớ Trương Vô Kỵ. Nhưng cô
đã tiên cảm được rằng mối tình đó không đến đâu, số phận của cô không biết sẽ
trôi dạt về đâu. Nỗi u oán đó biểu hiện lên trong những khi cô hát cho giáo chủ
Minh giáo Trương Vô Kỵ nghe. Lời ca nguyên là 1 trong 101 bài thơ của Nga Mạc
(Omar Khayam) - thi hào Ba Tư đã được Quách Mạt Nhược dịch qua tiếng Quan Thoại.
Triết lý trong lời ca là cái khát vọng cắt nghĩa cho được những vấn đề gần gũi
nhất của con người: cuộc sống, tình yêu và cái chết:
Lai như lưu thủy hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề hà sở chung
(Chợt đến như dòng sông nước chảy
Thoắt tan như gió qua mau
Chẳng biết từ đâu mà đến
Cũng chẳng biết về nơi đâu)
Bài ca này là một bài thánh ca của Bái hỏa giáo Ba Tư và tiếng hát cuối cùng là
tiếng hát của Hân Ly trong cơn mê sảng trước khi chết trên một hải đảo vùng
Đông Bắc Trung Quốc. Trong lịch sử văn minh Trung Quốc, không có biên giới giữa
Thi và Ca. Trường phái thơ Đường đã dung nạp một cách tự nhiên âm nhạc vào thi
ca; biến phong cách này trở thành truyền thống:
Sở thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần
Hoặc:
Khương địch hà tu oán Dương liễu?
Xuân phong bất độ Ngọc môn quan
Kim Dung đã đưa âm nhạc vào tiểu thuyết đúng như truyền thống của Đường thi
nhưng lãnh vực phản ánh của ông rộng hơn và mức độ phản ánh sâu sắc hơn. Âm nhạc
đó hóa giải được tính chất đấu tranh gay gắt, phức tạp của bản chất truyện võ
hiệp. Nó làm nên cái hồn tính lãng mạn cho tiểu thuyết võ hiệp, đem lại chất
hài hước vui nhộn cho tiểu thuyết võ hiệp. Nói là âm nhạc, nhưng nó chính là võ
công, là công phu, là y đạo, và đồng thời là phương thức biểu lộ tình yêu. Ngay
chính trong cách dung nạp này, Kim Dung đã chứng tỏ được rằng ông là bậc thầy
trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. Đọc Kim Dung là lắng nghe chất âm nhạc trong
tiểu thuyết của Kim Dung, nhờ âm nhạc, người ta thấy được niềm tin, dù trong
đau thương hay trong hạnh phúc.
HOA TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
V ăn chương tiểu thuyết, kể cả văn chương tiểu thuyết võ hiệp, luôn có những đoạn
tả cảnh. Cảnh quan thiên nhiên hiện ra trong văn chương đã trở thành một thứ
quy luật tất yếu, không thể thiếu được. Vả chăng, người Trung Hoa đã quan niệm
“Vạn vật đồng nhất thể” mà con người cũng là một vật trong vạn vật cho nên con
người không thể tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, ra khỏi cảnh quan và môi trường
sống. Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng vậy. Con người trong tiểu
thuyết của ông luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và hoạt
động với thiên nhiên. Nhưng vượt lên trên tất cả cung cách mô tả thiên nhiên,
Kim Dung đã dành cho hoa nhiều cảm tình nhất. Hoa xuất hiện trong 12 bộ tiểu
thuyết võ hiệp của ông như là biểu tượng cho bốn mùa. Hoa tiêu biểu cho chiều
sâu trí tuệ và tâm hồn của người trồng hoa và chơi hoa. Hoa là sản phẩm đặc
trưng của từng vùng đất mà đất Trung Hoa vô cùng rộng lớn nên hoa cũng cực kỳ
phong phú về chủng loại, đặc sắc về ngoại hình. Ở một chừng mực nào đó, ta có
thể thấy Kim Dung đã thể hiện kiến thức của một nhà hoa học trong những bộ tiểu
thuyết của mình.
Trong Thiên Long bát bộ, theo gót chân lãng du của vương tử Đại Lý Đoàn Dự, tác
giả đưa chúng ta đi về vùng Giang Nam nước Tống. Mùa xuân về trên Thái Hồ,
Giang Nam, ta bắt gặp hoa sen và hoa hồng lăng khoe sắc thắm, thoang thoảng hường
đưa trong gió. Rồi tác giả đưa chúng ta về Mạn Đàn sơn trang của Vương phu
nhân, thưởng thức hoa trà. Đoạn lý luận về hoa trà của Đoàn Dự có thể coi là một
chương hoa học kỳ thú trong Thiên Long bát bộ. Hoa trà - tiếng Phạn là Mạn đà
la - là một loài hoa nổi tiếng được trồng phổ biến khắp vùng Vân Nam. Lúc bấy
giờ, Vân Nam thuộc nước Đại Lý. Hoa trà trở thành quốc hoa của Đại Lý. Vân Nam
có khí hậu ấm, mưa nhiều quanh năm, dân dã bình thường cũng biết trồng hoa trà
để thưởng ngoạn. Thế nhưng, Vương phu nhân là đem hoa trà từ Vân Nam (Đại Lý) về
trồng ở Giang Nam (Tống) mà lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc khiến cái gọi là Mạn
đà sơn trang của phu nhân dưới mắt Đoàn Dự chẳng đáng một xu. Vốn ghét tính
cách tàn bạo, ngang ngược của Vương phu nhân, Đoàn Dự thẳng thừng phê phán sự dốt
nát của bà khi trồng trà: “Tỷ như khóm trà hoa này chắc phu nhân cho là quý lắm?
Cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp”. Khen như vậy khác nào khen quyển sách in
đẹp mà nội dung rỗng tuếch. Những kiến thức về hoa trà của Đoàn Dự khiến Vương
phu nhân vừa kinh hãi, vừa thẹn thùng. Chậu hoa mà phu nhân gọi là “Ngũ sắc trà
hoa” (hoa trà năm màu) thì Đoàn Dự gọi là “Lạc đệ tú tài” (tú tài thi hỏng).
Đoàn Dự cho biết loại hoa trá quý nhất là “Thập bát học sĩ” (18 vị học sĩ) gồm
18 bông, màu sắc không bông nào giống bông nào (toàn hồng, toàn trắng, toàn
tía...không hỗn tạp), cùng nở một lúc và cùng tàn một giờ. Sau “Thập bát học
sĩ” là “Bát tiên quá hải” (8 vị tiên qua biển) chỉ có một gốc, nở ra cùng lúc 8
bông với 8 màu khác nhau. Sau “Bát tiên quá hải” là “Thất tiên nữ” (7 tiên nữ)
chỉ có một gốc nở ra 7 bông. Sau “Thất tiên nữ” là “Phong trần tam hiệp” (3 hiệp
khách phong trần) chỉ có 1 gốc nở ra đúng 3 bông. Rồi “Nhị Kiều” (hai nàng họ
Kiều), rồi chia hạng chánh, phó... đủ kiểu chơi. Vương phu nhân còn khen ngợi
loại trà “Mãn nguyệt” (trăng tròn). Đoàn Dự bác ngay và lý luận đó phải là loại
“Ỷ lan Kiều‟ (nàng Kiều e thẹn dựa vào lan can). Trồng “Ỷ lan Kiều” phải chọn
nơi nửa kín nửa hở để xứng với câu thơ:
E thẹn ôm đàn che nửa mặt
Ai kêu ai gọi cũng làm thinh.
Viết đến đâu, Kim Dung trích dẫn thơ ca đến đó:
Xuân câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng)
Hoặc:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn độ khai
(Quần xanh vóc ngọc như từng gặp
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
Thật sự, Trung Quốc đã từng có tác phẩm Điền trung trà hoa ký nghiên
cứu về hoa trà trong đó có đoạn: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng
loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật
chưng hà.” (Hoa trà Đại Lý đứng đầu thiên hạ, gồm 72 loại khác nhau, có loại
lớn hơn cả hoa mẫu đơn, khiến ta đứng xa vẫn trông đỏ rõ một góc trời như mây gấm
hòa vào cho màu trắng ban mai thêm rực rỡ). Thật ít có nhà văn nào đạt được kiến
thức hoa học và vận dụng kiến thức ấy - vốn thuộc phạm vi sinh học – vào văn
chương một cách nhuần nhuyễn như Kim Dung. Đúng là Kim Dung đã đưa hoa vào tác
phẩm văn chương võ hiệp của mình, dùng hình ảnh tươi đẹp của hoa để chế ngự bớt
tính chất căng thẳng và đôi khi tàn nhẫn của thế giới võ hiệp. Hoa là biểu tượng
cho một dạng công lực thượng thừa, Kẻ luyện nội công đến mức cao siêu nhất được
gọi là “Tam hoa tụ đỉnh”. Hoa được dùng để đặt tên cho các pho võ
công: Niêm hoa chường, Niêm hoa chỉ của phái Thiếu Lâm; Thiên
Sơn thiết mai thủ của phái Tiêu Dao; Lạc anh chưởng pháp của Đào
hoa đảo. Hoa trở thành mệnh lệnh tấn công như khi bang chúng Cái bang hát
bài Liên hoa lạc (cánh sen rơi) thì có nghĩa là họ kết Đả cẩu trận để
chống lại kẻ địch, bao vây kẻ địch. Hoa trở thành đòn thức, chiêu thế của người
sử dụng võ công, và khi sử dụng, giới võ lâm phải thể hiện cho được yếu tính của
đòn thức, chiêu thế mang tên hoa đó. Nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí khi đánh
chiêu Niêm hoa vi tiếu trong Niêm hoa chỉ vẫn giữ được
khuôn mặt tươi cười, tư thế ung dung của khái niệm niêm hoa (cánh hoa chưa nở).
Nhà sư Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn chiết mai thủ với phong cách nhẹ
nhàng, khuôn mặt trầm tĩnh đúng như người đang bẻ cành mai trên núi Thiên Sơn
mà kình lực có thể làm tan bia, vỡ đá. Phái Thiếu Lâm có chiêu Hoa khai kiến
Phật (Hoa nở thấy Phật) bó buộc đệ tử Thiếu Lâm chấp hai tay lên trước ngực,
vừa hàm ý chào kính kẻ địch, vừa thể hiện đức từ bi của nhà Phật: đấu tranh là
phải đấu chứ không muốn giết hại lẫn nhau. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Kim
Dung những tên gọi Lạc hoa lưu thủy (hoa rụng nước trôi), Mãn
thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời), Liên hoa phất huyệt thủ (đánh
huyệt như phất hoa sen), Hồ điệp xuyên hoa (bướm len giữa khóm
hoa), Thiên nữ tán hoa (tiên nữ rắc hoa)... Hoa muôn đời là biểu tượng
của người phụ nữ đẹp, là biểu tượng của cô gái trong trắng thơ ngây. Kinh Thi
có câu: “Xước ước như xử nữ” (mềm mại như gái trinh) và từ “xước ước” cũng
đồng thời là từ diễn tả dáng thanh lịch của ngàn hoa. Những nhân vật nữ của Kim
Dung như Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Nghi Lâm, Lam Phượng Hoàng (Tiếu ngạo
giang hồ), Hoàng Dung, Quách Tương, Tiều Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Hân Tố Tố,
Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký)... đều có “khuôn
mặt đẹp như hoa nở, nụ cười tươi như hoa nở”. Những cô gái trinh bạch,
xinh đẹp ấy được gọi là Hoàng hoa khuê nữ (cô gái trong phòng khuê dịu
dáng như hoa cúc) nhưng lĩnh vực hoạt động của họ không phải là phòng khuê nữa
mà là giới giang hồ. Họ là hào khách võ lâm biết yêu hoa: Vương phu nhân yêu
hoa trà, Mộc Uyển Thanh yêu hoa mai côi (hoa hồng) và con người cô cũng toát ra
mùi hương tự nhiên của mai côi đến nỗi cô có ngoại hiệu là Hương Dược Xoa
(Thiên Long bát bộ), Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Giang Lăng thành Lăng
Thoái Tư yêu hoa cúc (Liên thành quyết). Kẻ nào manh tâm chiếm đoạt trinh tiết
người phụ nữ bị Kim Dung gọi là tên Thái hoa dâm tặc (tên dâm tặc
chuyên hái hoa). Trong Tiếu ngạo giang hồ, có gã Giang dương đại đạo thái
hoa dâm tặc vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Hắn gớm ghiếc đến nỗi phụ
nữ nhà lành cũng bị cha mẹ cấm không được gọi đến tên. Nhà sư Bất Giới đã trừng
trị tội dâm dật của hắn bằng cách điểm trọng huyệt, xuyên một cặp tụ tiễn (mũi
tên nhỏ) vào bộ phận sinh dục để hắn không thể “hái hoa” được nữa. Ngoại hiệu của
nhà sư là Bất Giới (không cấm cản chi hết) nhưng nhà sư buộc Điền Bá Quang phải
cạo đầu làm sư, đặt lại ngoại hiệu cho hắn là Bất Khả Bất Giới (không thể không
cấm). Cách trừng trị kinh khủng như vậy là nhằm bảo vệ những đời hoa!
Hoa là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, và đặc biệt trong võ hiệp tiểu thuyết của
Kim Dung, là biểu tượng của tình yêu chung thủy. Thời đôi mươi, Vương phu nhân
say mê Đoàn Chính Thuần, thất thân với y và sinh ra Vương Ngọc Yến. Đoàn Chính
Thuần là hoàng thái đệ của Đoàn Chính Minh, vua Đại Lý; không thể cưới được
Vương phu nhân. Tương tư tình lang, Vương phu nhân đem trà Đại Lý về trồng tại
Giang Nam, lập nên cái gọi là Mạng đà sơn trang (Thiên Long bát bộ). Còn trong
Liên thành quyết, Kim Dung đã thực sự tạo cho hoa cúc một tâm hồn riêng khi ông
xây dựng mối tình Đinh Điển - Lăng Sương Hoa. Đinh Điển luyện thành thần công
Thần chiếu kinh, chỉ cần vươn tay ra chộp một cái là kẻ thù phải chết. Anh yêu
tiểu thư Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Lăng Thoái Tư thành Giang Lăng, nên ẩn
thân vào nhà tù thành Giang Lăng để ngày ngày được ngắm màu hoa cúc vàng trên cửa
sổ do chính Lăng Sương Hoa chăm sóc. Lăng Sương Hoa ra sức chăm bón hoa, giữ
cho hoa tươi mãi để tạ lòng người yêu. Tình yêu lặng lẽ giữa người tù và cô tiểu
thư diễn ra thật nên thơ những cũng rất mạnh mẽ. Tri phủ Lăng Thoái Tư biết được
điều đó; lão cố tìm mọi cách để giết Đinh Điển để chiếm đoạt bộ Liên thành quyết
- một bí lục mô tả đường đi nước bước của mộ kho báu trị giá liên thành. Lão bức
tử con gái, đặt cô vào quan tài rồi tẩm thuốc độc lên vỏ quan tài, chờ Đinh Điển
sa bẫy. Quản nhiên một hôm Đinh Điển nhận ra rằng chậu hoa cúc trên cửa sổ của
người tình đã héo úa. biết rằng Lăng Sương Hoa đã gặp điều gì đó chẳng lành,
Đinh Điển vượt ngục, thâm nhập vào tư dinh Lăng Thoái Tu. Thấy tấm bài vị đề “Lăng
Sương Hoa ái nữ chi linh vị” trên nắp quan tài, anh đau xót ông lấy quan
tài khóc rống lên và lập tức bị trúng độc. Đinh Điển chết, dặn dò lại nghĩa đệ
là Địch Vân phải hợp táng xương cốt của anh và Lăng Sương Hoa chung một nơi.
Lăng Sương Hoa được chôn trong nghĩa địa phía tây thành Giang Lăng còn Đinh Điển
thì chết ở vùng Quan ngoại. Cuối truyện, chàng Địch Vân mang bọc xương cốt của
nghĩa huynh Đinh Điển từ ngàn dặm trở lại Giang Lăng, đào mả Lăng Sương Hoa và
hợp táng hai người. Anh còn mua hoa cúc, cuốc đất chung quanh mộ rồi trồng cho
hai người mấy cụm với ước mong hương hồn họ nhìn thấy bóng hoa và được sống lại
với tình yêu cũ. Liên thành quyết có cái buồn và chất thơ lãng mạn xuyên suốt
toát ra từ bóng hoa cúc vàng - mối tình của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa. Người
yêu hoa thì rất quý hoa, xem hoa như là bạn; còn kẻ ghét hoa thì rất giận hoa,
xem hoa là thù địch. Đó là trường hợp của Vi Tiểu bào, một tiểu lưu manh bất học
vô thuật, may mắn trở thành quan lớn triều Khang Hy (Lộc Đỉnh ký). Vua Khang Hy
ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo làm khâm sai đại thần, trở về quê quán thành Dương Châu
xây dựng tòa Trung liệt từ. Nghe đồn Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên, tưởng gã là
người có tài văn học, các quan ở Dương Châu bèn mời gã vào uống rượu ngâm thơ
trong chùa Thiền Trí. Mùa ấy, hoa thược dược đang nở mà thược dược ở Dương Châu
và chùa Thiền Trí là thứ hoa tươi đẹp nhất thiên hạ. Nhìn thấy thược dược tươi
hơn hớn, Vi Tiểu Bảo tức muốn sôi gan. Nguyên lai, lúc mới lên chín mười tuổi,
gã đã từng cùng bọn tiểu lưu manh thành Dương Châu đột nhập chùa Thiền Trí hái
trộm hoa thược dược. Một nhà sư nào đó đã rượt cả bọn chạy, Vi Tiểu bảo nhỏ
con, chạy chậm bị nhà sư nắm áo éo lại, tát cho một cái. “Mối thù” ấy âm ỉ mãi
trong lòng gã nên khi quay về Dương Châu, thấy lại thược dược đại đóa nở phô hồng
khoe tía trong chùa Thiền Trí là gã nổi nóng. Gã đặt chuyện nói rằng vua Khang
Hy đang nuôi bầy ngựa chiến và ra lệnh cho gã chặt hết thược dược trong thiên hạ
để làm thức ăn cho ngựa. Nghe câu nói đó, bá quan văn võ Dương Châu và các nhà
sư chùa Thiền Trí đều vỡ mật kinh tâm. Mây mắn là viên tuần phủ Dương Châu học
rộng biết nhiều. Viên tuần phủ phải nịnh Vi Tiểu Bảo rằng thược dược là tượng
trưng cho người đàn ông thành đạt, công danh hiển hách; rằng Vi Tiểu Bảo về
Dương Châu đúng mùa thược dược mãi khai là điều tốt lành, ngày sau ắt thăng
quan tiến chức cao sang không biết bao nhiêu mà lường. Cho nên việc chặt hoa
thược dược cho ngựa ăn là chuyện rất uổng. Viên tuần phủ còn ngắt một đóa hoa
thược dược kình cẩn gài lên mũ của Khâm sai đại thần và chúc phúc. Quả nhiên lời
nói khôn khéo đó của viên tuần phủ đã làm nguôi cơn giận của Vi Tiểu Bảo, cứu
được ngàn hoa của chùa Thiền Trí và thành Dương Châu. Kiến thức về hoa của Kim
Dung thật phong phú. Loại hoa gì, tính năng ra sao, nở mùa nào, có nhiều ở địa
phường nào đều được lý giải một cách cặn kẽ. Mỗi mùa hoa, mang theo một loại
chướng khí. Chướng khí là hậu quả của cây lá rụng xuống ao chằm, rồi bốc lên, tạo
thành những dịch bệnh cho con người. Tháng ba âm lịch có Đào hoa chướng, tháng
năm chó Lựu hoa chướng, tháng tám có Phù dung chướng. Kim Dung cho biết người
Vân Nam vốn yêu hoa trà, coi hoa trà là một loài hoa quý cho nên không lấy tên
hoa trà để gọi chướng khí. Hoa làm đẹp thêm cho tác phẩm võ hiệp của Kim Dung,
tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Hoa là nới gửi gắm tâm tình con người. Chất thơ
tự có trong hoa biến thành chất thơ cho tác phẩm. Đọc Kim Dung càng nhiều lần,
ta càng khám phá ra thêm nhiều vẻ đạp, cáng nhận ra làn u hương thuần nhã của
hoa.
Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng.
Có người nói bóng hoa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hình ảnh của Hạ Mộng,
người tình của ông. Hạ Mộng đã xa ông như lạc hoa lưu thủy. Và tiểu thuyết của
ông giàu bóng hoa, hương hoa bởi Hạ Mộng vẫn sống trong trái tim ông.
Y HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Khát vọng sống lâu, mạnh khỏe không chỉ là khát vọng riêng của người Trung Quốc
mà còn là của toàn thể nhân loại. Trung Quốc là đất nước có một nền y học cổ
truyền rất thâm hậu và những hoạt động y học cổ truyền của đất nước này đã hình
thành khái niệm Đông y. Hơn 1.800 năm trước, danh y Hoa Đà đã có những công
trình nghiên cứu y học thời danh, trong đó có nguyên tắc luyện khí công gọi là
Ngũ thú khí công (hay Ngũ cầm hý), mô phỏng chiêu thức hoạt động của loài cọp,
gấu, nai, khỉ và hạc (Hổ hý, Hùng hý, Lộc hý, Hầu hý, Hạc hý). Quan điểm cơ bản
của Hoa Đà có thể tóm tắt là mô phỏng hoạt động của năm động vật trên, hít làm
không khí thanh lương vào phổi và nạp xuống Đan điền, vận dụng vào từng bộ phận
trên cơ thể, giúp con người khỏe mạnh. Võ học thấy rằng sức mạnh đó có thể dùng
để chế ngự được kẻ khác. Có thể nói, truyện võ hiệp Kim Dung cũng tràn đầy kiến
thức y học.
Đọc truyện võ hiệp Kim Dung, người ta thường bắt gặp hai khái niệm nội công và
ngoại công. Nội công là tiềm lực, sức mạnh bên trong của hào khách giang hồ.
Ngoại công là chiêu thức, quyền cước bên ngoài. Kẻ có nội công cao, theo Kim
Dung mô tả, là kẻ hái một chiếc lá, bẻ một bông hoa cũng có thể sát thương địch
thủ. Kẻ có ngoại công cao thì thái dương huyệt gồ cao, khi vũ lộng tay chân,
gân cốt nổi lên, các khớp xương kêu răng rắc. Nội công là cái gốc, ngoại công
là cái ngọn. Luôn luôn kẻ có nội công cao là kẻ hơn người. Trong 12 bộ tiểu
thuyết, có trường hợp cá biệt Kim Dung để cho ngoại công thắng nội công. Nhạc Bất
Quần, sư phụ Lệnh Hồ Xung, chưởng môn phái Hoa Sơn theo phe Khí tông (lấy khí
làm chủ). Y dạy Lệnh Hồ Xung rằng phải vận khí trước rồi mới phóng chiêu thức
ra sau, mỗi chiêu thức đều có thước tấc, bộ vị nhất định. Khi Lệnh Hồ Xung tình
cờ gặp thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương theo phe Kiếm tông (lấy kiếm thức làm
chủ), đang ẩn cư trong hang núi Hoa Sơn thì Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung
rằng chỉ cần kiếm chiêu liên miên bất tuyệt, đánh ra theo ý muốn của mình như
nước chảy mây trôi là đã khắc chế được địch thủ. Lệnh Hồ Xung đã lĩnh hội được
phép sử kiếm ý (ý nghĩ đến đâu, kiếm phóng ra đến đó) chứ không sử kiếm chiêu
và gọi đó là biện pháp “liệu địch tiên cơ” (ra tay, chiếm thời cơ trước kẻ địch).
Và rõ ràng, phương pháp Kiếm tông đã thắng Khí tông: Lệnh Hồ Xung mất hết công
lực vẫn đánh ra một chiêu, đâm mù mắt 15 kẻ địch hùng mạnh (Tiếu ngạo giang hồ).
Các khái niệm nội công, ngoại công, chiêu thức - đầu tiên là khái niệm y học chứ
không phải của võ học. Trong mỗi bộ sách của mình, Kim Dung thường xây dựng một
hoặc vài ba nhân vật thầy thuốc. Những thầy thuốc này được gọi rất trang trọng:
danh y, thần y. Bên cạnh thứ thuốc cứu người, Kim Dung còn xây dựng những nhân
vật chuyên đánh thuốc độc, đầu độc kẻ khác. Quan điểm của ông rất mới lạ: thuốc
độc cũng là một dạng thuốc cần thiết phải dùng đến. Trong Tiếu ngạo giang hồ,
người ta gặp Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Cả ngoại hiệu và tên của người này
cũng rất lạ lùng: thầy thuốc nổi tiếng (danh y) nhưng cứu một người thì phải giết
một người (sát nhân) và khi cứu người hay giết người, đều chỉ dùng đến một ngón
tay (bình nhứt chỉ). Bên cạnh Bình Nhứt Chỉ, Tiếu ngạo giang hồ cũng có một độc
vương. Đó là Lam Phượng Hoàng, cô gái người Miêu Cương, giáo chủ Ngũ độc giáo
Vân Nam. Tài năng của Bình Nhứt Chỉ hay đến nỗi mới bắt mạch Lệnh Hồ Xung đã biết
Lệnh Hồ Xung được uống rượu và truyền máu của bọn Ngũ độc giáo! Trong Thiên
Long bát bộ, người ta gặp Thần y Tiết Mộ Hoa. Đối lập với Tiết Mộ Hoa chuyên cứu
người là một tay độc vương dễ sợ chuyên đầu độc người. Đó là Tinh Tú lão quái
Đinh Xuân Thu, giáo chủ Tinh Tú phái.
Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có hai danh y là Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và vợ
là Vương Nạn Cô. Hai vợ chồng kình chống nhau bằng cách Hồ Thanh Ngưu chữa
thương cho thân chủ ban ngày thì ban đêm, Vương Nạn Cô lén đến đầu độc cho thân
chủ bệnh trở lại. Tác phẩm võ hiệp Kim Dung đã đề cập đến những phương pháp y học,
biện pháp chữa bệnh lâm sàng mà ngày nay, nhân loại vẫn đang thực hiện. Trong
cách truyền máu, Kim Dung đã mô tả phương pháp dùng đỉa hút máu để tiếp máu ấy
qua cho người bệnh. Đó là đoạn Lam Phượng Hoàng cùng các nữ đệ tử Ngũ độc giáo
tiếp máu cho Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Chỉ có một điều đáng tiếc là y
lý của Lam Phượng Hoàng còn non nớt nên đã đem máu thuần âm của phái nữ truyền
vào cho một người bệnh dư khí âm hàn như Lệnh Hồ Xung.
Truyện võ hiệp Kim Dung còn đề cập đến việc dùng thuốc. Thuốc cổ truyền Trung
Hoa gồm cao (thuốc dán), đơn (hay thang, thuốc thang), hườn (hay hoàn, thuốc
viên), tán (thuốc bột). Những nhân vật của Kim Dung đã dùng thuốc cứu chữa cho
bệnh nhân của mình: Trương Vô Kỵ ra toa, cắt thuốc thang cho Thường Ngộ Xuân (Ỷ
thiên Đồ long ký); bọn bàng môn tả đạo ăn cắp thuốc cho Lệnh Hồ Xung lại bắt 7
vị thầy thuốc đến coi bệnh cho chàng (Tiếu ngạo giang hồ). Truyện võ hiệp Kim
Dung cũng nói nhiều đến chuyện dùng nội công chữa thương cho những người bị chấn
thương vì nội công. Trong trường hợp này, nội công của người thầy thuốc phải
cao hơn hoặc tương đương với nội công của người bị thương thì động tác chữa
thương mới thực hiện được. Như Trương Vô Kỵ dùng Tiên thiên Cửu dương công chữa
trị cho Trương Tam Phong, Hân Thiên Chính và bọn quần hào trên Quang Minh Đỉnh;
Bình Nhứt Chỉ vỗ Bách hội huyệt truyền nội công chữa cho Đào Thực Tiên, Bất Giới
hòa thượng trút công lực chữa trị cho Lệnh Hồ Xung.
Triết học Trung Hoa cổ phân biệt rất rõ khái niệm Lưỡng nghi (hai mặt Âm -
Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm),
Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài). Võ công
cũng như y học trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đều triệt để dựa trên nền tảng
triết học ấy. Nội công dương cương và tính năng dương cương hoàn toàn mâu thuẫn
với nội công âm nhu và tính năng âm nhu. Cho nên, trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ
Thiên Thu ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của Lão Đấu Tử dùng cho con gái là Bất Tử, bọn
Lam Phượng Hoàng truyền máu của các cô gái Miêu cương để cứu chữa cho Lệnh Hồ
Xung là sai nguyên tắc y học (và cả triết học nữa). Chính Bình Nhứt Chỉ khi cầm
tay Lệnh Hồ Xung chẩn mạch đã khám phá ra lập tức tình trạng pha trộn âm dương
trong con người Lệnh Hồ Xung. Lão lại khám phá ra thêm rằng thân chủ của mình bạc
nhược tinh thần, bị tình yêu hành hạ, bị rượu làm cho con người hô héo. Lão chửi
toáng lên: “Mẹ cha nó! Thật là nát bét đến năm bảy tầng. Người thật là con người
chẳng ra gì”. Nếu Lệnh Hồ Xung không phải là người yêu của Thánh cô Doanh
Doanh, nếu không phải đích thân Doanh Doanh mời lão đến chữa thương cho Lệnh Hồ
Xung thì lão đã tát cho Lệnh Hồ Xung mấy cái ra trò vì đã uống thuốc tào lao,
nhận máu của bọn Lam Phượng Hoàng, mất hết nội công mà còn nát rượu và bạc nhược
tinh thần vì gái!
Thế nhưng, thỉnh thoảng âm dương cũng có thể hòa hợp nhau trong một con người.
Đó là trường hợp của Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), uống hai thứ rượu âm
dương của Trương Tam và Lý Tứ.
Truyện của Kim Dung cũng mô tả tình trạng dùng lý trí chống lại cơn khao khát
tình dục. Người Trung Hoa gọi động tính giao giữa nam nữ là âm dương hòa hợp.
Chính vì vậy, để phá thanh danh của hoàng gia Đại Lý, Thanh bào khách Đoàn Diên
Khánh đã buộc thế tử Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh (nghi là em cùng cha khác mẹ với
Đoàn Dự), uống một loại thuốc kích dục cực mạnh là Âm dương hòa hợp tán. Mộc Uyển
Thanh không đủ công lực, cơn khát khao tình dục nổi lên nhưng Đoàn Dự vốn là
người học đạo Nho, vẫn giữ được lý trí sáng suốt, không thể loạn luân với cô em
gái.
Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã đề cập đến các động tác chấn thương chỉnh
hình. Dư Đại Nham phái Võ Đang bị Kim Cương chỉ đánh gãy hết các khớp xương phải
nằm thoi thóp 20 năm (Ỷ thiên Đồ long ký). Trương Vô Kỵ học được y thuật của Hồ
Thanh Ngưu, xin phép Dư Đại Nham gõ vỡ hết các khớp xương để dán thuốc cao chỉnh
hình trở lại.
Trong truyện này cũng nói đến một ca chấn thương sọ não kỳ lạ. Tống Thanh Thư
mưu phản môn phái, bị tứ sư thúc là Dư Liên Châu dùng Thái cực quyền phái Võ
Đang đánh vỡ xương sọ. Trương Vô Kỵ nhận chữa bệnh cho bệnh nhân này. Anh điểm
huyệt để gây mê, cạo hết tóc, ráp lại xương sọ rồi băng bó. Sau này, Thanh Thư
chết vì bị Trương Tam Phong trừng trị nhưng sách võ hiệp vẫn còn để lại một ca
chữa chấn thương sọ não khá thú vị.
Thế nhưng, dù y học có tài giỏi đến đâu, y thuật có thâm hậu đến đâu, người ta
vẫn đầu hàng những trường hợp bệnh cấp tính, đặc biệt là bệnh vì trúng chất kịch
độc. Trong trường hợp đó, Kim Dung sử dụng biện pháp cuối cùng: chặt bỏ. Lộc Đỉnh
ký có đoạn thuật chuyện bọn Lạt ma Tang Kết từ Tây Tạng xuống Trung Quốc, truy
đuổi Cửu Nạn sư thái và Vi Tiểu Bảo để lấy cho được bộ Tứ thập nhị chương kinh.
Vi Tiểu Bảo chống không lại, đã nghĩ cách đầu độc Tang Kết bằng một chất kịch độc
trong Hoàng cung Thanh triều mà y vẫn thường mang theo bên người: Hóa thi phấn.
Y nhúng nước cho Tứ thập nhị chương kinh ướt đi rồi rắc hóa thi phấn vào đó. Quyển
kinh đã bị nhiễm độc: những ngón tay dùng để giở các tờ kinh bị ướt nhanh chóng
bị nhiễm độc, cụt đi và chảy thành nước vàng. Tang Kết nhanh trí chặt bỏ cánh
tay của mình mới toàn mạng sống. Trong Thiên Long bát bộ có đoạn Thần Nông bang
chúa Tư Không Huyền bị rắn độc cắn, phải chặt bỏ cánh tay.
Muốn ngăn nọc độc vào tim phổi
Tráng sĩ già gan chặt cánh tay (Kim Dung)
Truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến khá nhiều động tác phong tỏa huyệt đạo. Muốn
phong tỏa huyệt đạo, người học võ phải hiểu toàn bộ hệ thống huyệt đạo con người,
phải nhả vào huyệt đạo bao nhiêu kình lực mới đủ sức phong tỏa. Phong tỏa huyệt
đạo nhằm khắc chế một địch thủ, nhằm chữa thương cho một người, giúp người đó
tránh được cảm giác đau đớn hoặc giảm cảm giác đau đớn. Phong tỏa huyệt đạo còn
nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm độc, an tĩnh và trấn định thần kinh. Những nhân
vật của Kim Dung đã sử dụng thủ pháp châm cứu để phong tỏa huyệt đạo như vậy. Hồ
Thanh Ngưu, Trương Vô Kỵ đã dùng gai, dùng tăm tre thay cho kim sắt, châm cứu
cho bệnh bệnh nhân. Từ vị trí các huyệt đạo của y học, Kim Dung đã mô tả những
đòn thế đánh vào các huyệt đạo để giải khai tình trạng bị phong tỏa, để gây những
chấn thương trầm trọng cho địch thủ. Thí dụ các huyệt Đan điền, Thái Dương,
Bách hội là những trọng huyệt. Đánh vào đúng những huyệt này có thể làm đối thủ
chết hoặc bị thương nặng. Tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung cũng đề cập đến động
tác đả thông huyệt đạo, giúp người luyện võ thăng tiến công lực, đốt giai đoạn
trong quá trình rèn luyện để đạt nhanh tới mức thượng thừa. Ông thường nói đến
những nhân vật đã được đả thông hai trọng điểm Sinh Tử huyền quan, hoặc Kỳ kinh
bát mạch như trong trường hợp của nhà sư trẻ Hư Trúc được Vô Nhai Tử đả thông
kinh mạch và truyền cho nội lực thượng thừa.
Tác phẩm võ hiệp Kim Dung cũng phác thảo những ca phẫu thuật hy hữu. Đào Thực
Tiên bị kiếm đâm lòi ruột được Bình Nhứt Chỉ khâu vết thương. Trương Vô Kỵ trên
Tuyết Sơn mổ vết thương cho con vượn già, tìm được bộ Cửu dương chân kinh. Các
nhân vật của Kim Dung thường thông thạo cách băng bó, sát trừng, giữ vệ sinh
cho những người bị ngoại thương.
Vượt xa những tác phẩm đương đại, Kim Dung cũng thường hay đề cập đến cách luyện
độc và dùng độc bởi vì thuốc độc cũng là thuốc. Có kẻ tự nguyện luyện độc như
Hân Ly (Ỷ thiên Đồ long ký) luyện môn Thiên châu tuyệt hộ thủ bằng cách cho
loài nhện chúa (châu) cực độc hút máu bàn tay của mình và truyền vào đôi tay
mình chất Kịch độc của loài nhện. Với cách luyện này, nếu thành công, hơi thở của
Hân Ly sẽ thơm như mùi hoa lan (?) và khi cô chộp vào địch thủ nào thì dẫu địch
thủ ấy có sống được thì cũng không thể sinh con đẻ cái được nữa (tuyệt hộ). Du
Thản Chi (Thiên Long bát bộ) đã bị băng tàm trùng độc do nhà sư Tam Tỉnh mang từ
Tây Vực về truyền hết chất âm hàn vào người. May mà hắn không chết vì trước đó
hắn đã học... trật bộ Dịch Cân Kinh Thiếu Lâm khiến toàn bộ kinh mạch trong người
bị đảo lộn. Với nội công âm hàn, hắn chỉ khẽ vỗ vào địch thủ một chiêu cũng khiến
cho địch thủ lên cơn rét và biến thành nước đá(!).
Có luyện độc tất có dùng độc. Một cách dùng độc khá hy hữu nhưng cũng rất mới lạ
của cung Linh Thứu là cấy Sinh tử phù vào người đối thủ. Hư Trúc, dưới chân núi
chùa Thiếu Lâm, đã dùng Bắc minh chân khí hóa những giọt rượu của đệ tử tạt lên
không gian thành những miếng băng nhỏ, cấy vào những trọng huyệt của Đinh Xuân
Thu, khắc chế lão ma đầu này phải quy thuận. Nói theo y học hiện đại, đó là
phương pháp cấy một chất kháng nguyên vào người bệnh nhân và khi kháng nguyên
phát tác thì bệnh nhân chỉ còn biết đến năn nỉ thầy thuốc chữa trị. Trong Lộc Đỉnh
ký, những nhân vật dùng độc khá nhiều. Hải lão công dùng Hủ cốt tán (thuốc làm
nát xương dần dần) bỏ vào trà cho Vi Tiểu Bảo uống. Giáo chủ Thần long giáo Hồng
An Thông dùng Độc long dịch cân hoàn cho thuộc hạ uống. Giáo chủ Ma giáo Đông
Phương Bất bại (Tiếu ngạo giang hồ) lại cho bọn thuộc ha uống Tam thi não thần
đan. Tên thuốc thì rất hay nhưng là thuốc độc, uống vào phải trung thành (hoặc
giả bộ trung thành) với người cho uống. Nếu có hành vi chống đối, tất không có
thuốc giải, phải chịu nhận cái chết thảm thương.
Kim Dung cũng mô tả những thủ pháp đánh độc dược rất tinh tế, đặc biệt ở dạng
thuốc bột. Thuốc bột được bôi lên quan tài (Liên thành quyết), được phủ trong
khăn mặt, được hòa vào rượu, trộn vào thức ăn, được rải bay trong gió.
Công lực là tiềm lực võ thuật của từng cá nhân, không thể đem cho người khác được.
Nhưng tiểu thuyết gia Kim Dung cực kỳ lãng mạn: ông cứ cho các nhân vật của
mình đem công lực cho kẻ khác. Chính vì vậy, Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Ma giáo,
đã hút công lực kẻ khác bằng thủ pháp Hấp tinh đại pháp. Đào cốc lục tiên và Bất
Giới hòa thượng đem công lực truyền cho Lệnh Hồ Xung. Đoàn Dự hút công lực của
các đệ tử Huỳnh Mi Tăng, biến tất cả thành những người võ công tàn phế. Cáng
lãng mạn hơn nữa, Kim Dung cho phép thủ pháp xóa hẳn công lực của một người
khác, tu theo một môn phái khác để truyền công lực mới vào. Đó là Vô Nhai Tử
xóa hết công lực Thiếu Lâm của Hư Trúc và truyền công lực của phái Tiêu Dao
vào, biến nhà sư trở thành đại biểu của phái Tiêu Dao!
Huyệt đạo trong cơ thể con người thường ở vào những vị trí cố định, ai cũng như
ai. Nhưng với trí tưởng tượng phong phú của Kim Dung, theo tình huống đưa đẩy
câu chuyện, ông đã để cho những nhân vật cá biệt của mình luyện tập sai phương
pháp; huyệt đạo không còn ở đúng chỗ cũ nữa. Đó là trường hợp của Du Thản Chi
(Thiên Long bát bộ) luyện sai Dịch cân kinh Thiếu Lâm, của Âu Dương Phong (Xạ
điêu anh hùng truyện) luyện sai Cửu âm chân kinh đến nỗi suốt đời phải đi bằng
tay, chúc đầu xuống đất.
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đề cập đến những vị thuốc mà thường là thuốc
quý dùng trong y học. Đọc Thiên Long bát bộ, ta thật sự xúc động khi Tiêu Phong
đánh quá tay A Tử, hối hận vì hành động thiếu anh hùng của mình, đã bồng cô ra
cùng Đông Bắc Trung Quốc kiếm nhân sâm, tay gấu chữa bệnh cho cô. Tác phẩm của
ông cũng từng đề cập đến Linh chi thảo (cỏ linh chi) hoặc Thiên niên Tuyết liên
tử (hạt sen ngàn năm trên đất tuyết) có giá trị hồi dương. Cũng trong Thiên
Long bát bộ, Đoàn Dự nuốt lộn con nhái đỏ Mãng cổ chu cáp mà trở thành người có
nội công đệ nhất. Vị thuốc nằm trong toa thuốc. Tuy nhiên, có những toa thuốc
mang ý nghĩa ẩn dụ một cách tuyệt vời mà các thầy lang bình thường chưa chắc
khám phá được, Như toa thuốc mà Hồ Thanh Ngưu ra cho Trương Vô Kỵ: Phòng phong,
Độc hoạt, Đương quy, Xuyên sơn giáp, uống vào canh ba. Cậu bé Trương Vô Kỵ 15
tuổi đọc toa thuốc này, hoàn toàn hoài nghi về cách ra toa bừa bãi với các vị
thuốc phổ thông của Hồ Thanh Ngưu. Nhưng trí thông minh đã giúp cậu hiểu ra
nghĩa ẩn dụ nằm trong những vị thuốc bình thường: coi chừng (Phòng phong), đi một
mình (độc hoạt), quay về (Đương quy), bằng cách đi ngang qua núi (Xuyên sơn
giáp). Hồ Thanh Ngưu đang lúc lâm nguy, muốn cứu Trương Vô Kỵ nên ra toa thuốc
bảo chàng trốn đi vào lúc canh ba ra khỏi Hồ điệp cốc ngay!
Tôi xin nhắc sơ lược đến hai chữ “tình yêu” khá lạ lùng của Kiến Ninh công chúa
(Lộc Đỉnh ký) và cặp Đông Phương Bất Bại - Dương Liên Đình (Tiếu ngạo giang hồ).
Nếu nhìn dưới nhãn quan y học thì các nhân vật vừa nói ít nhiều đã bị chứng bệnh
tâm thần và Kim Dung đã mô tả cho chúng ta (chứ không bình luận) về trạng thái
bệnh lý của họ. Kiến Ninh công chúa, cô bé mới 14 tuổi, là một nhân vật bị chứng
khổ dâm (Masochisme). Chứng khổ dâm được định nghĩa là “trạng thái mà trong đó
chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục qua sự đau đớn về thân xác”
(Perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans la douleur
physique - Petit Larousse). Kiến Ninh công chúa chỉ thực sự tìm thấy khoái lạc
khi thái giám giả hiệu Vi Tiểu Bảo bóp cổ, đánh đập, lấy dao rạch, lấy dây quất
vào người cô trước khi chăn gối. Còn Đông Phương Bất Bại đã tự thiến để luyện
Quỳ hoa bảo điển (một tên gọi khác của Tịch tà kiếm phổ) nên thành ái nam ái nữ.
Y chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục khi có Dương Liên Đình, một nhân vật tốt
tướng đẹp trai, ăn mặc xa hoa như một nhà hào phú. Khi bị bốn cường địch là Nhậm
Ngã Hành, Hướng Vân Thiên, Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung bao vây, y chỉ cần chống
đỡ bằng một cây kim thêu mà đã đâm Ngã Hành mù một mắt. Phải đến lúc Doanh
Doanh hành hạ Dường Liên Đình, Đông Phương Bất Bại nhìn thấy và đau đớn, mới chịu
thua và chết dưới tay sát thủ của Nhậm Ngã Hành.
Võ học luôn kết hợp chặt chẽ với y học. Môn phái nào trong võ hiệp Kim Dung
cũng biết dùng thuốc, chữa thương, nuôi nấng và chăm sóc người bị thương. Tất cả
đều dựa trên y thuật cổ truyền của người Trung Hoa và do vậy, những điều mà Kim
Dung diễn đạt đều có cơ sở khoa học. Thỉnh thoảng, trong vài bộ tiểu thuyết của
ông cũng có những điều phi khoa học hoặc không được khoa học hiện đại kiểm chứng
như chuyện thay đổi công lực, đả thông hai huyệt Nhâm Đốc. Người ta có thể hoài
nghi các giả thuyết đó. Nhưng ai cấm được sự hư cấu, vốn là tình thần và nguyên
tắc của sáng tạo tiểu thuyết? Ai cấm được nhà văn diễn đạt một cách lãng mạn,
vượt ra ngoài quy luật thông thường của cuộc sống. Một điều rõ ràng là Kim Dung
chỉ viết tiểu thuyết chứ không hề viết sách nghiên cứu về y học Trung Hoa.
Nhưng dù là nhà tiểu thuyết, rõ ràng ông đã nghiên cứu kỹ lĩnh vực y học của
dân tộc ông để dung nạp một cách hài hòa với lĩnh vực võ học. tạo ra nhưng kiến
thức y học phong phú cho tác phẩm và đem lại hứng thú cho người đọc. Kiến thức
y học cũng như võ học ấy được xây dựng trên nền tảng kiến thức triết học Trung
Hoa. Tất cả khởi đi với âm dương và cùng trở về trong cái lẽ huyền diệu của âm
dương.
TÌNH YÊU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Tuy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung
là tình yêu đôi lứa nồng thắm. Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và
khiến cho hàng tỉ người say mê tác phẩm của Kim Dung. Một cách khái quát, Kim
Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện
cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật
chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc
xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của
từng nhân vật.
Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất
thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang “một chút tà khí trong người”. Đó
là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo
giang hồ), Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Minh - Chu Chỉ Nhược
- Hân Ly - Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Kiều Phong - A Châu, Đoàn Dự - Vương
Ngọc Yến - Mộc Uyển Thanh - Chung Linh, Du Thản Chi - A Tử, Hư Trúc - Văn Nghi
công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên - A Tú (Hiệp khách hành), Quách
Tĩnh - Hoàng Dung - Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Qua -
Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)... Những mối tình được được Kim Dung dựng lên
là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp.
Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế
kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ
vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội. Cho nên, những nhân vật
của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế
nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương -
thì rất phong phú. Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ
lâm. trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Hân Tố Tố, một
nữ ma đầu, con gái Bạch mi ưng vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) khống
chế Trương Thúy Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương. Triệu Minh, con
gái Nhữ Nam vương triều Nguyên lừa Trương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới
yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa chết
thiếu sống, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ).
Ở một chừng mực nào đó, các nhân vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong
kiến và ràng buộc giáo điều của lê giáo: họ tự quyết định tình yêu của mình và
cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy. Tình yêu được mô tả trong tác phẩm
võ hiệp Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh,
vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình. Trương Thúy Sơn cưới
Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Minh, Nhậm Doanh Doanh
lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn
Môn Quan để chờ đợi Kiều Phong... là những chuyện tình đẹp.
Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy
sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ
gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Minh từ bỏ cha và anh ruột để ra đi
cùng Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau
như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho
Vô Kỵ thay áo, chải đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu
Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại
sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp
của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hóa giải được
biên giới của chánh - tà, hắc - bạch, hận - thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho
người đọc khi đọc tác phẩm.
Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những “giáo chủ” của
đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo
Vương Ngọc Yến chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du
Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A
Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô. Mỹ
đao vương Hồ Dật Chi say mê Trần Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô
Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục
năm để được lén nhìn Trần. Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công
những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch
sử tiểu thuyết cổ kim.
Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang
trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung
Quốc. Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức,
yêu say mê đồ đệ Dương Qua. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Hân Lợi hanh
phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đầu của Minh giáo là Dương Tiêu.
Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối
(không hối hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo và A Kha,
một thiếu nữ mất hết trinh tiết, đã trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo. Tiểu thuyết của
Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đọa tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến
Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái
giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột,
đánh đập cho vỡ da tóe máu mới được thấy lạc thú của trao thân. Cá biệt, có trường
hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ hoa bảo điển phải “dẫn
đao tự cung”, trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ “yêu đương” với gã bộ hạ là
Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại “tình yêu” này, ông đã
nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.
Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của
ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong
ánh mắt, trong hành động và trong trái tim. Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan
chờ Kiều Phong để suốt đời “theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ”. Đó là
Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển “về Ba Tư, đừng nói lên ngôi
thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô
vị”. Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết
ngay Lệnh Hồ Xung vì “ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ”.
Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: “Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử
kẻ lại giùm cho thiếp đi”. Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng
như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.
Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những
tình yêu trá ngụy. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm
Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần. Chu Chỉ Nhược
đánh lừa hứa hôn với Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu âm chân kinh theo di huấn
của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ
Nhược không nghĩ ra được sự trá ngụy ấy. Phần trá ngụy, âm mưu thuộc về sự sắp
đặt của những người lớn, người thầy, người cha.
Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những
tác giả cùng thời, tình yêu trong tiều thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành
mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người cái mỹ cảm về đạo đức. Nói
rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên
cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành
một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.
Trong ngôn ngữ Trung Hoa, chữ Dâm (淫) được viết với bộ Thủy, có nghĩa là
ham mê sắc dục quá độ. Dâm được coi là một cái gì đó rất tự nhiên đối với xã hội
phong kiến Trung Hoa: vua được toàn quyền có nhiều phi tần, quan lại và nhà giàu
có quyền cưới nhiều thê thiếp. Người phụ nữ trở thành món đồ chơi, phương tiện
giải trí của người đàn ông. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung phản ánh về xã hội
phong kiến Trung Hoa nhưng cái nhìn của ông đối với thói dâm đãng nói riêng và
tình dục nói chung là một cái nhìn nghiêm túc và nghiêm khắc.
Tác phẩm Kim Dung xây dựng khá nhiều những nhân vật dâm đãng chuyên lợi dụng
tình dục. Và ông đã dành những hình phạt nặng nề theo luật giang hồ để trừng trị
những loại nhân vật đó. Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật dâm đãng là Điền
Bá Quang. Hắn vừa là tên cướp, vừa là dâm tặc, khinh công rất giỏi và đao pháp
rất nhanh. Hắn có ngoại hiệu đúng 14 chữ: Giang dương đại đạo, thái hoa dâm tặc,
vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị hắn:
xuyên tụ tiễn vào bộ phận sinh dục và buộc hắn cạo đầu làm sư với pháp hiệu Bất
Khả Bất Giới (không thể không cấm). Chính nhờ hình phạt đó mà Điền Bá Quang bỏ
được con đường tà dâm, trở thành người tử tế.
Trong Xạ điêu anh hùng truyện, nhân vật dâm đãng là Âu Dương công từ. Hắn
là cháu của Tây độc Âu Dương Phong, từ Tây Vực xuống Trung Nguyên, võ công cao
cường, chuyên hãm hại lương gia phụ nữ. Da mặt hắn lúc nào cũng trắng bệt!
Nhưng Âu Dương công tử tà môn vẫn chưa nguy hiểm bằng Doãn Chí Bình chính phái.
Doãn Chí Bình là đệ tử hàng thứ ba của phái Toàn Chân. Hắn đi ngang qua núi
Chung Nam thì gặp ngay lúc Tiểu Long Nữ phái Cổ Mộ đang thoát y để luyện võ
công trong Ngọc Nữ tâm kinh. Thế là hắn quên mất môn quy, điểm huyệt cô gái, lấy
áo đạo bào phủ lên mặt cô và đưa cô vào bụi rậm. Tiểu Long Nữ cứ ngỡ đó là
Dương Qua, người học trò thân yêu của mình. Doãn Chí Bình ăn mắm mà Dương Qua
khát nước!
Kim Dung nói về những hoạt động tình dục, điều mà người ta cho là dung tục, với
một bút pháp tinh tế và trang nhã. Chính vì thế mà trong lần trở về thăm và nhận
hàm Tiến sĩ danh dự Đại học Bắc Kinh - Đại nhã chi đường của trung Quốc - vào
tháng 1-1995, người ta đã mạnh dạn bàn đến cái nhã, cái tục và ca ngợi Kim Dung
là một nhà văn thanh nhã từ văn phong đến nội dung. Khi nói đến những hoạt động
tình dục, Kim Dung không bao giờ mô tả. Ông chỉ thuật lại bằng một vài câu ngắn
gọn và dành phần suy nghĩ, đánh giá tình hình cho độc giả.
Trong Liên thành quyết, Kim Dung xây dựng nhân vật Huyết đao lão tổ từ Tây
Tạng xuống như một nhân vật dâm ác hạng nhất. Trong những chương đầu, cái nhìn
của Kim Dung về nhân vật này rất nghiêm khắc, phản ánh quan điểm dân tộc hẹp
hòi của ông đối với những con người ngoài Hán tộc. Huyết đao lão tổ nhận Địch
Vân làm đệ tử. Mọi người gọi Địch Vân là tiểu dâm tặc. Nhưng hai thầy trò Địch
Vân chẳng hề có một hành động dâm dật với ai, ngược lại Địch Vân còn là một
chính nhân quân tử. Nếu Huyết đạo lão tổ là tên “dâm tặc” già nhất thì
trong Hiệp khách hành, Thạch Trung Ngọc là tên dâm tặc trẻ nhất. Khi được
gửi lên phái Tuyết Sơn học, gã thiếu niên 15 tuổi đó đã có hành vi cưỡng bức cô
bé A Tú, con của sư phụ mình khiến cô bé phải nhảy xuống lũng sâu để tự bảo vệ
tiết sạch giá trong. Thạch Trung Ngọc có đứa em song sinh rất giống mình là Thạch
Phá Thiên, thường chỉ được gọi với cái tên Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Khi Cẩu
Tạp Chủng xuất hiện, mọi người phái Tuyết Sơn đều tưởng là Thạch Trung Ngọc nên
muốn giết cậu. Chỉ có đôi mắt ngây thơ của A Tú mới nhìn ra được “vị đại
ca hiền lành này không phải là tên tiểu tặc đó”. Ấy vậy mà Cầu Tạp Chủng cũng bị
mọi người chửi mấy trăm lần là “tiểu dâm tặc”.
Nhưng trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, nhân vật dâm đãng số một phải
thuộc về Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký). Xuất thân trong kỹ viện thành Dương Châu,
ngay từ nhỏ, Vi Tiểu Bảo đã quen với cảnh ong bướm lả lơi giữa đám khách làng
chơi và các kỹ nữ. Cơ duyên đã đưa hắn lên Bắc Kinh, làm thái giám giả mạo
trong cung nhà Thanh. Mới 13 tuổi đầu, hắn đã ôm Mộc Kiếm Bình, quận chúa Mộc
vương phủ Vân Nam và chớt nhả với Phương Di, lớn hơn hắn 2 tuổi; 15 tuổi, hắn
quan hệ thân xác với công chúa Kiến Ninh; 18 tuổi trôi giạt sang Nga, hắn quan
hệ với công chúa Tô Phi Á (Sophia), con gái Sa hoàng! Từ thái giám, hắn lên Đô
thống Hoàng kỳ, Khâm sai đại thần, Bá tước rồi Công tước. Trong một lần đi công
cán về thành Dương Châu, hắn quan hệ một hơi với 4 người phụ nữ: Tô Thuyên (vợ
giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông), A Kha (nghi là con gái của Ngô Tam Quế
và Trần Viên Viên), Song Nhi (nữ tỳ), Tăng Nhu (Thiên địa hội). Rồi hắn ăn ở
luôn với cả 4 người trên, lấy luôn cả Kiến Ninh, Phương Di, Mộc Kiếm Bình. Suốt
đời Vi Tiểu Bảo chỉ biết có tình dục, không hề biết đến tình yêu chân thật là
gì. Kim Dung đã không cho hắn có được niềm hạnh phúc được yêu của Vi Tiểu Bảo.
Hôm hắn trở lại Dương Châu thăm mẹ dẫn theo một đoàn thê thiếp, Vi Xuân Phương
phải thầm khen con trai mình có mắt.
Trong tác phẩm Kim Dung, không thiếu những lời thóa mạ: dâm tặc, rùa đen, chó lộn
giống... Ông đứng trên quan điểm của một nhà nhân bản để nhận xét, đánh giá những
hành vi tình dục của các nhân vật do chính mình tạo ra. Ông phán xét họ một
cách nghiêm khắc - tất nhiên là với cái nghiêm khắc của một nhà văn chứ không
phải một quan tòa. Ông để cho những nhân vật dâm đãng tự rước lấy sự trừng phạt
công mình của cuộc sống (trừ Vi Tiểu Bảo!). Cá biệt, có một trường hợp mở đầu bằng
hành vi cưỡng bức nhưng kết thúc bằng tình cảm tốt đẹp. Đó là Dương Tiêu (Tả sứ
Minh giáo) đã bắt cóc và cưỡng bức Kỷ Hiểu Phù (đệ tử phái Nga Mi). Hiểu Phù
sinh ra đứa con gái, đặt tên là Dương Bất Hối để tỏ ý không hề hối hận vì đã thất
thân với Dương Tiêu. Diệt Tuyệt sư thái, sư phụ của Kỷ Hiểu Phù, vì vậy đã giết
Hiểu Phù. Dương Tiêu ở vậy nuôi con, không cưới vợ nữa để giữ mãi hình bóng của
người phụ nữ từng là nạn nhân của anh ta. Người ta thường nói: “Lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén” để chỉ những quan hệ tất yếu nam nữ trong những
hoàn cảnh thuận lợi. Câu nói đầy tính ẩn dụ đấy không thể có trong tác phẩm Kim
Dung. Nhiều lứa đôi trong tác phẩm của ông thương nhau, sống với nhau một nơi
nhưng trai vẫn giữ được phong độ người quân tử, gái vẫn giữ được tiết sạch giá
trong. Đó là Vô Kỵ - Triệu Minh - Chỉ Nhược - Tiểu Siêu, Trương Thúy Sơn - Hân
Tố Tố, Lệnh Hồ Xung - Doanh Doanh, Quách Tĩnh - Hoàng Dung, Đoàn Dự - Mộc Uyển
Thanh - Vương Ngọc Yến - Chung Linh, Hồ Phỉ - Viên Tử Y, Thạch Phá Thiên - A
Tú, Địch Vân - Thủy Phương, Kiều Phong - A Châu. Họ đều rất trẻ, sống giang hồ
phiêu bạt nhưng vẫn tôn trọng chữ Lễ, biết yêu say đắm, có thèm khát nhưng
không vượt quá giới hạn của tình yêu. Có những lứa đôi thành vợ thành chồng, có
lứa đôi ly tán nhưng tựu trung, họ đã sống thật đẹp và yêu thật đẹp. Tôi cho rằng
đây là một khía cạnh rất đạo đức trong tác phẩm Kim Dung. Nó đem lại cho người
đọc - nhất là bạn đọc trẻ - những nhận thức đúng đắn về tình yêu và tình dục,
giúp con người vươn lên để sống đúng nghĩa với khái niệm con người.
Tác phẩm Kim Dung xây dựng khá nhiều những nhân vật dâm đãng chuyên lợi dụng
tình dục. Và ông đã dành những hình phạt nặng nề theo luật giang hồ để trừng trị
những loại nhân vật đó. Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật dâm đãng là Điền
Bá Quang. Hắn vừa là tên cướp, vừa là dâm tặc, khinh công rất giỏi và đao pháp
rất nhanh. Hắn có ngoại hiệu đúng 14 chữ: Giang dương đại đạo, thái hoa dâm tặc,
vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị hắn:
xuyên tụ tiễn vào bộ phận sinh dục và buộc hắn cạo đầu làm sư với pháp hiệu Bất
Khả Bất Giới (không thể không cấm). Chính nhờ hình phạt đó mà Điền Bá Quang bỏ
được con đường tà dâm, trở thành người tử tế.
Trong Xạ điêu anh hùng truyện, nhân vật dâm đãng là Âu Dương công từ. Hắn
là cháu của Tây độc Âu Dương Phong, từ Tây Vực xuống Trung Nguyên, võ công cao
cường, chuyên hãm hại lương gia phụ nữ. Da mặt hắn lúc nào cũng trắng bệt!
Nhưng Âu Dương công tử tà môn vẫn chưa nguy hiểm bằng Doãn Chí Bình chính phái.
Doãn Chí Bình là đệ tử hàng thứ ba của phái Toàn Chân. Hắn đi ngang qua núi
Chung Nam thì gặp ngay lúc Tiểu Long Nữ phái Cổ Mộ đang thoát y để luyện võ
công trong Ngọc Nữ tâm kinh. Thế là hắn quên mất môn quy, điểm huyệt cô gái, lấy
áo đạo bào phủ lên mặt cô và đưa cô vào bụi rậm. Tiểu Long Nữ cứ ngỡ đó là
Dương Qua, người học trò thân yêu của mình. Doãn Chí Bình ăn mắm mà Dương Qua
khát nước!
Kim Dung nói về những hoạt động tình dục, điều mà người ta cho là dung tục, với
một bút pháp tinh tế và trang nhã. Chính vì thế mà trong lần trở về thăm và nhận
hàm Tiến sĩ danh dự Đại học Bắc Kinh - Đại nhã chi đường của trung Quốc- vào
tháng 1-1995, người ta đã mạnh dạn bàn đến cái nhã, cái tục và ca ngợi Kim Dung
là một nhà văn thanh nhã từ văn phong đến nội dung. Khi nói đến những hoạt động
tình dục, Kim Dung không bao giờ mô tả. Ông chỉ thuật lại bằng một vài câu ngắn
gọn và dành phần suy nghĩ, đánh giá tình hình cho độc giả.
Trong Liên thành quyết, Kim Dung xây dựng nhân vật Huyết đao lão tổ từ Tây
Tạng xuống như một nhân vật dâm ác hạng nhất. Trong những chương đầu, cái nhìn
của Kim Dung về nhân vật này rất nghiêm khắc, phản ánh quan điểm dân tộc hẹp
hòi của ông đối với những con người ngoài Hán tộc. Huyết đao lão tổ nhận Địch
Vân làm đệ tử. Mọi người gọi Địch Vân là tiểu dâm tặc. Nhưng hai thầy trò Địch
Vân chẳng hề có một hành động dâm dật với ai, ngược lại Địch Vân còn là một
chính nhân quân tử. Nếu Huyết đạo lão tổ là tên “dâm tặc” già nhất thì
trong Hiệp khách hành, Thạch Trung Ngọc là tên dâm tặc trẻ nhất. Khi được
gửi lên phái Tuyết Sơn học, gã thiếu niên 15 tuổi đó đã có hành vi cưỡng bức cô
bé A Tú, con của sư phụ mình khiến cô bé phải nhảy xuống lũng sâu để tự bảo vệ
tiết sạch giá trong. Thạch Trung Ngọc có đứa em song sinh rất giống mình là Thạch
Phá Thiên, thường chỉ được gọi với cái tên Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Khi Cẩu
Tạp Chủng xuất hiện, mọi người phái Tuyết Sơn đều tưởng là Thạch Trung Ngọc nên
muốn giết cậu. Chỉ có đôi mắt ngây thơ của A Tú mới nhìn ra được “vị đại
ca hiền lành này không phải là tên tiểu tặc đó”. Ấy vậy mà Cầu Tạp Chủng cũng bị
mọi người chửi mấy trăm lần là “tiểu dâm tặc”.
Nhưng trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, nhân vật dâm đãng số một phải
thuộc về Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký). Xuất thân trong kỹ viện thành Dương Châu,
ngay từ nhỏ, Vi Tiểu Bảo đã quen với cảnh ong bướm lả lơi giữa đám khách làng
chơi và các kỹ nữ. Cơ duyên đã đưa hắn lên Bắc Kinh, làm thái giám giả mạo
trong cung nhà Thanh. Mới 13 tuổi đầu, hắn đã ôm Mộc Kiếm Bình, quận chúa Mộc
vương phủ Vân Nam và chớt nhả với Phương Di, lớn hơn hắn 2 tuổi; 15 tuổi, hắn
quan hệ thân xác với công chúa Kiến Ninh; 18 tuổi trôi giạt sang Nga, hắn quan
hệ với công chúa Tô Phi Á (Sophia), con gái Sa hoàng! Từ thái giám, hắn lên Đô
thống Hoàng kỳ, Khâm sai đại thần, Bá tước rồi Công tước. Trong một lần đi công
cán về thành Dương Châu, hắn quan hệ một hơi với 4 người phụ nữ: Tô Thuyên (vợ
giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông), A Kha (nghi là con gái của Ngô Tam Quế
và Trần Viên Viên), Song Nhi (nữ tì), Tăng Nhu (Thiên địa hội). Rồi hắn ăn ở
luôn với cả 4 người trên, lấy luôn cả Kiến Ninh, Phương Di, Mộc Kiếm Bình. Suốt
đời Vi Tiểu Bảo chỉ biết có tình dục, không hề biết đến tình yêu chân thật là
gì. Kim Dung đã không cho hắn có được niềm hạnh phúc được yêu của Vi Tiểu Bảo.
Hôm hắn trở lại Dương Châu thăm mẹ dẫn theo một đoàn thê thiếp, Vi Xuân Phương
phải thầm khen con trai mình có mắt.
Trong tác phẩm Kim Dung, không thiếu những lời thóa mạ: dâm tặc, rùa đen, chó lộn
giống... Ông đứng trên quan điểm của một nhà nhân bản để nhận xét, đánh giá những
hành vi tình dục của các nhân vật do chính mình tạo ra. Ông phán xét họ một
cách nghiêm khắc - tất nhiên là với cái nghiêm khắc của một nhà văn chứ không
phải một quan tòa. Ông để cho những nhân vật dâm đãng tự rước lấy sự trừng phạt
công mình của cuộc sống (trừ Vi Tiểu Bảo!). Cá biệt, có một trường hợp mở đầu bằng
hành vi cưỡng bức nhưng kết thúc bằng tình cảm tốt đẹp. Đó là Dương Tiêu (Tả sứ
Minh giáo) đã bắt cóc và cưỡng bức Kỷ Hiểu Phù (đệ tử phái Nga Mi). Hiểu Phù
sinh ra đứa con gái, đặt tên là Dương Bất Hối để tỏ ý không hề hối hận vì đã thất
thân với Dương Tiêu. Diệt Tuyệt sư thái, sư phụ của Kỷ Hiểu Phù, vì vậy đã giết
Hiểu Phù. Dương Tiêu ở vậy nuôi con, không cưới vợ nữa để giữ mãi hình bóng của
người phụ nữ từng là nạn nhân của anh ta. Người ta thường nói: “Lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén” để chỉ những quan hệ tất yêu nam nữ trong những
hoàn cảnh thuận lợi. Câu nói đầy tính ẩn dụ đấy không thể có trong tác phẩm Kim
Dung. Nhiều lứa đôi trong tác phẩm của ông thương nhau, sống với nhau một nơi
nhưng trai vẫn giữ được phong độ người quân tử, gái vẫn giữ được tiết sạch giá
trong. Đó là Vô Kỵ - Triệu Minh - Chỉ Nhược - Tiểu Siêu, Trương Thúy Sơn - Hân
Tố Tố, Lệnh Hồ Xung - Doanh Doanh, Quách Tĩnh - Hoàng Dung, Đoàn Dự - Mộc Uyển
Thanh - Vương Ngọc Yến - Chung Linh, Hồ Phỉ - Viên Tử Y, Thạch Phá Thiên - A
Tú, Địch Vân - Thủy Phương, Kiều Phong - A Châu. Họ đều rất trẻ, sống giang hồ
phiêu bạt nhưng vẫn tôn trọng chữ Lễ, biết yêu say đắm, có thèm khát nhưng
không vượt quá giới hạn của tình yêu. Có những lứa đôi thành vợ thành chồng, có
lứa đôi ly tán nhưng tựu trung, họ đã sống thật đẹp và yêu thật đẹp. Tôi cho rằng
đây là một khía cạnh rất đạo đức trong tác phẩm Kim Dung. Nó đem lại cho người
đọc - nhất là bạn đọc trẻ - những nhận thức đúng đắn về tình yêu và tình dục,
giúp con người vươn lên để sống đúng nghĩa với khái niệm con người.
CHẤT HÀI TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của các bậc
thầy hài hước. Đưa nụ cười vào văn chương, tạo ra sự hứng thú cho người đọc đã
có từ những vở Kịch của Molière (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ Kỳ), Slavemir
Mrojek (Ba Lan). Và trong thời đại chúng ta, tiếng cười có nhiều trong các tờ
báo chuyên hài hước, các tiểu phẩm trào phúng, châm biếm. Văn học Trung Quốc
cũng đã trước bạ tên tuổi của các bậc thầy cười: Ngô Thừa Ân với siêu phẩm Tây
Du Ký, Lỗ Tấn với tác phẩm A.Q Chính Truyện. Trên nền tảng cái cười Trung Quốc,
Kim Dung tiên sinh cũng đưa nụ cười vào văn chương của ông, dù văn chương đó ở
phạm trù văn chương kiếm hiệp. Những tình huống trong tiểu thuyết võ hiệp Kim
Dung luôn luôn sôi động với tính chất đấu tranh, bạo lực, mưu toan, thủ đoạn. Vậy
thì việc đưa tiếng cười vào trong những tình huống này quả là một điều khó thực
hiện nhất là giữ làm sao cho chất cười đó không phá vỡ cái tổng thể của khái niệm
võ hiệp tiểu thuyết. Kim Dung đã làm được việc đó với ngòi bút khéo léo của một
bậc thầy và trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của ông, chất hài hước đã được dàn
trải khắp các chương tạo ra niềm hứng thú cho độc giả.
Trong tác phẩm của ông, có những nhân vật khá hài hước về ngoại diện, tâm hồn
thật trẻ thơ và hành sự rất tếu. Với bộ Xạ điêu anh hùng truyện, ta bắt gặp một
nhân vật đáng yêu như vậy: Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Châu Bá Thông là nhân
vật số 2 của phái Toàn Chân, sư đệ của Vương Trùng Dương, dưới tay có cả một
đám sư điệt già nua cổ thụ nhưng tâm hồn ông vẫn là tâm hồn của một đứa bé ngây
thơ, trong sáng. Ngay ngoại hiệu Lão ngoan đồng (ông già mà chơi như con nít)
cũng đủ để mô tả đặc điểm tính cách nhân vật Châu Bá Thông. Theo sư huynh Vương
Trùng Dương sang hoàng cung nước Đại Lý, Châu Bá Thông đã quan hệ tình dục với
một cung phi của hoàng gia, đẻ ra một đứa con nhưng nuôi không được. Châu Bá
Thông là một cao thủ, suốt đời chẳng biết sợ hãi ai nhưng mỗi khi nghe đến tên
nàng cung phi đã lỡ thất thân với mình là ông ta chạy dài. Suốt đời Châu Bá
Thông chuyên làm những việc cổ quái. Ngay đến môn võ công ông tự suy nghĩ ra
cũng có cái tên kỳ dị không kém: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau vừa
đánh nhau). Đó là kết quả của một cách phân ý thật lý tưởng: tay trái vẽ hình
vuông, tay mặt vẽ hình tròn cùng một lúc, sao cho vuông ra vuông, tròn ra tròn.
Chỉ có Châu Bá Thông là làm được việc ấy và luyện thành công kỹ thuật Song thủ
hỗ bác. Võ công ông ta đạt đến trình độ kinh người nhưng chẳng hề giết chóc ai,
hãm hại ai. Mỗi khi ông ta xuất hiện là tình huống trở nên vui nhộn.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp rất nhiều nhân vật hài hước. Đó là Lệnh Hồ
Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, một nhân vật được mô tả là "lãng tử vô
hạnh, thanh danh tàn tạ". Phái Hoa Sơn nổi tiếng về sự nghiêm khắc giữ gìn
thanh quy giới luật nhưng khi cao hứng lên, Lệnh Hồ Xung sẵn sàng bỏ tất cả ra
sau gáy. Anh đánh bạc với bọn du thủ, uống rượu sai quyền cùng anh em giang hồ
hào sĩ, đánh cho bọn đệ tử Thanh Thành phải "thí cổ hướng hậu bình sa
lạc nhạn" (chổng đít ra sau tan tác như nhạn rơi bãi cát). Bị mụ ni
cô - vợ của Bất Giới hòa thượng, má của ni cô Nghi Lâm - cạo đầu và suýt bị thiến
vì từ chối tình yêu của Nghi Lâm, Lệnh Hồ Xung đã trả thù hết sức ngộ nghĩnh.
Anh hướng dẫn cho Bất Giới đại sư cách điểm huyệt mụ, đưa mụ vào khách sạn
và... cởi quần áo mụ ra làm sao mụ còn chạy thoát khỏi tay Bất Giới. Học được
kinh nghiệm quái chiêu đó, Bất Giới đã quỳ xuống lạy Lệnh Hồ Xung, xưng tụng là
Lệnh Hồ sư phụ, thậm chí là Lệnh Hồ gia gia! Bất Giới hòa thượng cũng là nhân vật
hài hước số một. Lỡ yêu một ni cô, ông ta cũng cạo đầu đi tu. Nhưng quy luật của
Phật gia có ngũ giới cấm, trong đó có cấm tà dâm, mà mục đích của Bất Giới là
đi tu để ăn ở cho được với người ni cô đó. Ông ta tự đặt cho mình ngoại hiệu là
Bất Giới (chẳng cấm cản gì ráo), đã lấy được ni cô và đẻ ra Nghi Lâm. Nghi Lâm
cũng đi tu, làm ni cô của phái Hằng Sơn. Cô thầm yêu trộm nhớ Lệnh Hồ Xung, ân
nhân đã cứu mình ra khỏi tay dâm tặc Điền Bá Quang. Thế là Bất Giới phải đi tìm
Lệnh Hồ Xung, ép buộc anh làm nhà sư để cưới Nghi Lâm vì trên đời này "chỉ
có ông sư là cưới được bà vãi". Đối với Điền Bá Quang, Bất Giới trừng trị
thẳng tay: cạo đầu buộc làm sư, đặt pháp hiệu là Bất Khả Bất Giới (không thể
không cấm được), buộc Điền Bá Quang tôn Nghi Lâm làm sư phụ rồi buộc Điền Bá
Quang làm mai "sư phụ" mình với Lệnh Hồ Xung.
25/10/2020Vũ Đức Sao Biển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét